Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Bộ Sưu Tập Tội Ác | David Baldacci (Hoàn) + Ebook

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 6-10-2013 21:19:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5
(tiếp theo)

Ông chỉ thực hiện một điều đi ngược lại mong ước của cha mẹ, mà đó cũng là sự vượt qua giới hạn khá lớn. Ông đã kết hôn với một người phụ nữ trẻ hơn mình đến hai mươi tuổi, một phụ nữ khá xa lạ với vị thế của ông trong xã hội. Cũng vì thế mà mẹ ông đã nhai đi nhai lại cái điệp khúc đó cho đến khi ông thấy phiền phức đến độ phải ly hôn một năm sau đó. Tuy nhiên, chẳng có người mẹ nào có thể ép buộc con trai mình từ bỏ người đàn bà anh ấy yêu, ngay cả bằng cách đe dọa cắt nguồn viện trợ tài chính. Mẹ ông đã hạ mình đến độ bà bảo bà sẽ bán hết số sách quý mà bà đã hứa sẽ để lại cho ông. Lẽ ra ông phải đứng về phía người phụ nữ mình yêu, bảo cô ấy không cần phải lo lắng gì cả. Ông nghĩ điều đó giờ đây dĩ nhiên đã quá muộn rồi. Phải chi nhiều năm trước ông có nghị lực để vượt qua.

DeHaven thở dài tiếc nuối khi ông cởi nút áo khoác và vuốt phẳng cà-vạt của mình lại. Có lẽ khoảng thời gian ấy là mười hai tháng hạnh phúc nhất của đời ông. Trước đây ông chưa bao giờ gặp được người phụ nữ nào như thế, và ông chắc rằng ông sẽ không bao giờ có thể gặp người thứ hai.Nhưng tôi đã để cô ấy ra đi chỉ vì mẹ tôi bắt tôi làm thế.Ông đã viết thư cho cô ấy nhiều năm sau đó, xin lỗi bằng nhiều cách. Ông gửi tặng tiền, trang sức và những sản vật ông mua trong các chuyến du lịch vòng quanh thế giới của mình, nhưng ông chưa bao giờ van xin cô ấy quay lại với mình. Không, ông chưa bao giờ làm thế, đúng không nhỉ? Cô viết thư trả lời ông một vài lần, rồi từ đó các gói quà và thư của ông bắt đầu bị hoàn trả lại mà chưa hề được mở ra, sau khi mẹ ông mất, ông có nghĩ đến việc cố gắng đi tìm cô ấy, nhưng cuối cùng lại cho rằng chuyện đã quá muộn màng. Nói thật thì ông đâu còn xứng đáng với cô ấy nữa.

Ông hít một hơi thật sâu, bỏ chìa khóa vào trong túi và nhìn quanh phòng đọc trang hoàng tráng lệ gần giống ở dinh Độc Lập, không gian nơi đây tĩnh lặng. DeHaven đặc biệt thích những chiếc đèn có chụp đèn bằng đồng để trên các bàn đọc sách. Ông âu yếm lướt ngón tay qua một cái đèn, và cảm giác thất bại khi vuột mất người phụ nữ duy nhất cho ông thấy hạnh phúc trọn vẹn bỗng nhiên vơi đi.

Ông nán lại ít phút trong khu vực thiêng liêng của phòng Jefferson để đọc lướt qua một tác phẩm của Tacitus, nhà sử học người La Mã mà ngài tổng thống thứ ba của Mỹ rất ngưỡng mộ. Kế đó ông dùng chìa khóa để đi qua dãy rào chắn Lessing J. Rosenwald1, nơi những cuốn sách in đầu tiên trước năm 1500 và sách chép tay do ông Rosenwald, cựu chủ tịch chuỗi cửa hàng bán lẻ Sears, Roebuck hiến tặng, được xếp cạnh nhau trên các kệ kim loại trong căn phòng được mở điều hòa nhiệt độ rất tốn kém suốt hai mươi tư giờ trong ngày, bảy ngày trong tuần. Mặc dù thư viện hoạt động bằng một ngân sách eo hẹp, nhưng nhiệt độ phải ổn định trong phòng là 60oF2và độ ẩm tương đối là sáu mươi tám phần trăm để giữ được đống sách quý này thêm vài thế kỷ nữa.

Đối với DeHaven, việc liên bang tốn thêm khoản tiền phụ trội để bảo vệ bộ sưu tập quý này là vô cùng xứng đáng vì cái ngân sách liên bang luôn luôn chi tiền cho chiến tranh nhiều hơn cho bất cứ mục đích hòa bình nào khác. Chỉ cần một phần nhỏ số tiền chế tạo một quả tên lửa thôi là ông đã có thể mua ngoài chợ trời bất cứ tác phẩm nào thư viện cần bổ sung vào bộ sưu tập sách quý. Nhưng các chính trị gia tin rằng tên lửa mới đảm bảo an toàn cho chúng ta, trong khi thật ra những cuốn sách mới làm được điều ấy vì một lý do đơn giản: Sự ngu dốt là nguyên nhân gây ra chiến tranh, và những ai đọc nhiều thì hiếm khi nào ngu dốt. Có lẽ nhận định này là một triết lý đơn giản quá mức, nhưng DeHaven vẫn nhất mực tin tưởng vào nó.

Lúc ông nhìn lướt qua đống sách trên kệ, DeHaven ngẫm lại bộ sưu tập sách của mình ở nhà dưới tầng hầm. Đó chẳng phải là một bộ sưu tập lớn nhưng vẫn cứ thỏa mãn niềm đam mê của ông. Ai cũng nên sưu tầm một thứ gì đó, DeHaven cảm thấy thế; thú đam mê này khiến bạn cảm giác mình còn tồn tại và kết nối với cả thế giới.

Sau khi kiểm tra vài cuốn sách vừa mới được chuyển về từ ban bảo quản, ông đi lên cầu thang đến hàng rào trải suốt chiều dài phòng đọc. Chính nơi đây là nơi lưu trữ bộ sưu tập sách đầu tiên viết về y khoa Mỹ. Và ở kệ trên là dãy sách thiếu nhi đều tăm tắp. Ông dừng lại vỗ vào đầu một bức tượng bán thân nam đặt trên một chiếc bàn nhỏ ở góc phòng một cách âu yếm.

Một khắc sau đó Jonathan DeHaven ngã gục trên một chiếc ghế và bắt đầu giãy chết. Đấy chẳng phải là một cái chết dễ chịu không đau đớn, bằng chứng là cơ thể ông co giật liên hồi và những tiếng kêu thét chìm trong cổ họng. Ba mươi giây sau ông nằm duỗi dài bất động trên sàn nhà cách nơi ngã xuống co giật khoảng sáu mét. Nét mặt ông có vẻ như đang nhìn chằm chằm vào bộ sưu tập những câu chuyện kể với hình hai cô gái mặc váy xòe đội nón rộng vành trên bìa sách.

Ông chết mà không biết cái gì đã giết mình. Cơ thể ông đã không phản bội lại ông; ông đang trong tình trạng sức khỏe hoàn hảo. Không ai tổn thương ông, và ông không bị đầu độc; sự thật là ông hoàn toàn chỉ có một mình trong thời điểm đó.

Nhưng Jonathan DeHaven đã chết.

Chú thích

Cách đó khoảng hai mươi lăm dặm, điện thoại nhà Roger Seagraves đổ chuông. Dự báo thời tiết hôm nay trời trong và có nắng. Seagraves kết thúc bữa ăn sáng của mình, chộp lấy cặp táp và bắt đầu đi làm. Hắn thích bắt đầu một ngày mới bằng một dấu hiệu tích cực.

Chú thích

1.Lessing J. Rosenwald (1891-1979) là một thương gia người Mỹ có sở thích sưu tập sách quý hiếm và tranh nghệ thuật.

2.F: đơn vị đo nhiệt độ (10F = -17,2220C). 600F = 15,50C.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 6-10-2013 21:26:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6

Caleb Shaw bước vào phòng đọc sách, đi đến bàn làm việc đặt cuối góc phòng, nơi ông đặt ba lô và mũ bảo hiểm xe đạp. Ông tháo cái đai da bó quanh cổ chân dùng để tránh dầu mỡ từ xích xe đạp dính vào ống quần. Rất nhiều việc cần phải làm sáng hôm nay. Hôm trước một học giả lỗi lạc người Mỹ đã yêu cầu trên sáu trăm cuốn sách để chuẩn bị cho danh sách phức hợp các quyển sách theo một chủ đề nhất định. Và vì là một chuyên gia nghiên cứu nên công việc của Caleb là tập hợp tất cả các cuốn sách ấy lại. Ông lục tìm các tác phẩm đó trong danh mục sách ở thư viện; giờ đến công việc khó nhọc là “vặt” chúng ra khỏi kệ sách.

Ông vuốt lại mái tóc muối tiêu rối bù và nới lỏng dây lưng một tí. Caleb có một vóc dáng gầy yếu, nhưng gần đây ông bắt đầu tăng cân ở phần eo. Ông hy vọng rằng đạp xe đi làm sẽ đủ giúp mình giải quyết vấn đề bực bội này. Ông tránh xa bất cứ thứ gì thuộc chế độ dinh dưỡng hợp lý, “thả cửa” thưởng thức rượu và các món ăn nhà giàu. Caleb cũngrất tự hàovề việc chưa từng có ai thấy ông trong phòng tập thể thao nào kể từ sau khi anh tốt nghiệp trung học phổ thông. Ông bước đến lối vào khu vực sách quý, quét thẻ từ và kéo cửa ra. Caleb hơi ngạc nhiên vì không thấy Jonathan DeHaven. Ông ấy luôn là người có mặt ở đây trước tất cả mọi người cơ mà, nhưng cửa ngoài phòng đọc đã được mở khóa rồi. Caleb cho rằng giám đốc chắc đang ở trong văn phòng hoặc trong phòng sách quý này thôi.

“Jonathan?”, ông gọi lớn, không có tiếng trả lời. Ông liếc sơ qua danh sách trong tay mình.Công việc này chắc dễ chừng mất cả ngày chứ chẳng chơi. Chộp lấy một xe đẩy sách sát tường, ông bắt đầu làm việc theo cách đi qua từng khu vực có chứa những quyển sách ông cần. Một giờ sau ông bước ra để lấy thêm một danh sách khác thì một người phụ nữ làm chung bước vào phòng đọc.

Ông pha trò với cô ta rồi quay lại làm việc của mình. Không khí trong này rất mát mẻ, anh nhớ hôm qua bỏ quên áo khoác len trong khu vực sách trên tầng bốn. Lúc sắp sửa bước vào thang máy thì ông nhìn lại cái cơ thể bắt đầu sồ sề tuổi trung niên của mình nên quyết định đi cầu thang bộ, thật ra là chạy lên vài bậc thang. Ông băng ngang bộ sưu tập y khoa, nhảy thêm vài bậc thang là đến gác lửng, sải bước qua lối đi chính để đến chỗ bỏ quên áo.

Khi nhìn thấy xác chết của Jonathan DeHaven bất động trên sàn nhà, Caleb Shaw há hốc miệng, nghẹn thở rồi bất tỉnh.

*

Người đàn ông cao ráo và rắn rỏi rời khỏi căn nhà tranh đơn sơ để vào một nghĩa trang nhỏ nơi ông làm công việc coi giữ. Có rất nhiều việc cần phải hoàn thành để chắc chắn rằng chốn đi về của những người đã khuất vẫn được bảo quản tốt. Nói một cách mỉa mai, bản thân ông cũng đã “chính thức” cư trú trong một ngôi mộ ở nghĩa trang quốc gia Arlington, và tất cả những người đồng nghiệp trong chính quyền ngày xưa sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng ông vẫn còn sống trên đời. Sự thật là bản thân ông cũng ngạc nhiên khi biết mình đã không chết. Tổ chức mà ông làm việc năm xưa đã cố tìm mọi cách để ám sát ông không vì một lý do gì ngoài lý do ông không còn muốn giết người cho chính quyền nữa.

Ông thấy một con vật di chuyển bằng cái nhìn từ khóe mắt mình. Chắc chắn rằng không ai theo dõi mình từ tòa nhà chung cư gần đó, rồi với cử động nhanh nhẹn ông rút con dao khỏi dây thắt lưng và quay người. Rón rén bước về phía trước, ông nhắm vào con vật và phóng lưỡi dao. Ông quan sát con rắn hổ mang giãy giụa, con dao cắm phập đầu nó xuống mặt đất. Con rắn này gần như đã cắn ông hai lần hồi tuần trước, khi nó lẩn trong bụi cỏ cao. Sau khi nó chết, ông rút con dao lại, chùi sạch và quăng xác vào thùng rác.

Dù không còn dùng các kỹ năng cũ thường xuyên nhưng thỉnh thoảng chúng cũng có ích lắm. Ông thầm nghĩ đến những tháng ngày trong quá khứ khi ông nằm mòn mỏi chờ đợi mục tiêu rơi vào tầm ngắm giết chóc của mình. Cuộc sống hiện tại của ông tất nhiên cũng bị cái quá khứ đó ảnh hưởng, bắt đầu từ tên.

Ông không dùng tên thật John Carr hơn ba mươi năm rồi. Nhiều thập niên qua ông được biết đến dưới tên Oliver Stone. Ông thay tên đổi họ một phần cũng vì muốn tránh sự truy lùng của tổ chức cũ và phần còn lại là vì muốn thách thức một chính quyền mà ông cảm thấy không hợp với lòng dân. Nhiều năm qua ông vẫn giữ một cái lều nhỏ ở công viên Lafayette đối diện với Nhà Trắng, nơi ông đã từng là một trong rất nhiều “người biểu tình phản đối thường trực”. Cái bảng bên cạnh lều ông viết đơn giản “Tôi muốn biết sự thật”. Để theo đuổi mục đích của mình, ông lập một tổ chức giám hộ nho nhỏ với tên gọi Hội Camel để muốn chính quyền Mỹ phải có trách nhiệm giải trình với người dân. Và người ta cũng biết ông thỉnh thoảng nuôi một vài âm mưu nào đó.

Các thành viên khác của hội là Milton Farb, Reuben Rhodes và Caleb Shaw, không có chức quyền và thế lực gì nhưng họ vẫn để tai để mắt nghe ngóng tình hình. Thật đáng trân trọng cái mà họ đạt được khi thành viên nào cũng kiên định quan sát chính quyền và hành động dựa trên những gì quan sát được bằng tất cả lòng dũng cảm và sự khéo léo của họ.

Ông ngước nhìn bầu trời đang vần vũ sắp mưa. Một cơn gió táp vào mái tóc trắng cắt ngắn sát da đầu của ông, mái tóc đã từng dài đến vai cùng với bộ râu quai nón lâu ngày không cạo mọc lan xuống bộ ngực. Giờ ông chỉ để nó mọc vài ngày là cạo nhẵn. Cả râu và tóc thay nhau giúp ông sống sót suốt những cuộc phiêu lưu của Hội Camel.

Stone quẳng đống cỏ vào thùng rác rồi thong thả dựng lại mộ bia đánh dấu nơi an nghỉ của một thuyết giáo người Mỹ gốc Phi lỗi lạc, người đã mất mạng trong cuộc chiến tranh đòi tự do. Thật lạ kỳ, Stone nghĩ rằng một người phải đấu tranh cho tự do ở đất nước tự do nhất trên hành tinh này. Khi ông nhìn quanh khu vực nghĩa trang Zion, nơi từng là điểm dừng của con đường ngầm dẫn dắt những người nô lệ đến được tự do, ông chỉ có thể kinh ngạc trước những con người xuất chúng đã nằm trong lòng đất kia.

Vừa làm việc ông vừa nghe tin tức bằng chiếc radio đặt trên nền đất. Tin tức đang tập trung vào câu chuyện về cái chết của bốnmật thámnằm vùng của Bộ Ngoại Giao Mỹ ở I-rắc, Ấn Độ và Pakistan trong những vụ ném bom riêng lẻ.

Các mối liên hệ của Bộ Ngoại Giao ư?Ông biết đó là gì rồi. Các mật vụ của tình báo Mỹ đã bị lộ vỏ bọc và bị ám sát. Tin tức nhào trộn chính thức sẽ che mắt công chúng sự thật đó, và luôn là như thế. Nhưng Stone kiêu hãnh cho rằng mình biết tất tần tật các diễn biến địa lý, chính trị hiện thời. Một phần lương nhà thờ thuê ông làm việc được chi ra mua ba tờ nhật báo mỗi ngày. Ông cắt nhiều bài báo dán vào nhật ký tin tức của mình, cùng lúc dùng kinh nghiệm để lọc ra sự thật từ đống tin nhào trộn đó.

Chuông điện thoại di động cắt ngang dòng suy nghĩ của ông. Ông ấn phím trả lời, lắng nghe và không hỏi điều gì cả; rồi ông chạy đi. Người bạn và là thành viên Hội Camel: Caleb Shaw đang nằm trong bệnh viện; và một người đàn ông khác làm việc tại Thư viện Quốc hội nằm chết trên sàn nhà. Trong lúc vội vã Stone quên cả việc khóa cổng rào khi ông lao ra khỏi nghĩa trang.

Những người chết trong nghĩa trang chắc cũng hiểu rằng người sống thì có quyền làm thế.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 6-10-2013 21:38:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7

Caleb Shaw nằm trong bệnh viện, chầm chậm lắc đầu. Vây quanh ông là các thành viên khác của hội. Reuben Rhodes gần sáu chục tuổi đời, cao gần hai mét với vóc dáng của một cầu thủ bóng đá Mỹ. Mái tóc quăn đen dài đến vai cùng với đôi mắt chán chường và bộ râu quai nón bù xù lắm lúc làm ông trông có vẻ điên loạn; nhưng có khi điều đó lại là sự thật. Milton Ferb cỡ khoảng mét sáu, ốm, tóc hơi dài, mắt to, khuôn mặt không một nếp nhăn khiến ông trẻ hơn tuổi bốn mươi chín của mình.

Reuben là một cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam và là cựu nhân viên Cục Tình báo Quốc phòng, hiện đang làm việc ở một cảng bốc hàng sau khi sự nghiệp quân sự bị “trật đường ray” bởi rượu chè, nghiện ngập và niềm oán hận đối với cuộc chiến mà ông không giấu giếm sự căm phẫn. Ông đứng dậy được nhờ sự giúp đỡ của Oliver Stone khi Stone tình cờ gặp ông ở nghĩa trang Quốc gia Arlington nơi Reuben nằm một đống bất động dưới gốc cây phong.

Milton đã từng là một đứa trẻ thần đồng với khả năng trí tuệ vô hạn. Cha mẹ ông làm ở một lễ hội du lịch, nơi mà năng lực trí tuệ của con trai họ được khai thác triệt để trong những buổi trình diễn lạ kỳ. Dù vậy ông vẫn học đến đại học và làm việc ở Viện Y tế Quốc gia. Tuy nhiên, mang chứng rối loạn ám - ảnh - vì - bị - cưỡng - bức và bệnh tâm thần, thế giới của ông sụp đổ hoàn toàn. Ông trở nên khốn khổ và yếu đuối vì bệnh tâm thần trầm trọng đến nỗi tòa án đã phải ra lệnh đưa ông vào bệnh viện để chữa trị.

Oliver Stone lại ra tay cứu giúp. Lúc đó Stone đang làm hộ lý ở bệnh viện tâm lý trị liệu nơi Milton là bệnh nhân. Nhận thấy khả năng đặc biệt của Milton, cùng với một trí nhớ chi tiết đến hoàn hảo, Stone đã dụ dỗ Milton tham gia chương trìnhJeopardy!1Và ông ấy đánh bại tất cả những người tham gia khác để kiếm được một món tiền nhỏ. Qua nhiều năm được chăm sóc tận tâm và trị liệu bằng thuốc, ông ấy bắt đầu có thể sống khá bình thường như bao người khác. Giờ Milton làm kinh doanh thiết kế trang web cho các công ty tập đoàn.

Stone ngả người dựa vào tường, khoanh tay trước ngực và nhìn xuống người bạn nằm trên giường.

Sở hữu hai bằng tiến sĩ khoa học chính trị và văn học thế kỉ 18, Caleb Shaw làm việc ở phòng đọc Sách Quý thuộc Thư viện Quốc hội hơn mười năm rồi. Không lập gia đình và chẳng có con cái, thư viện, không kể bạn bè, là niềm đam mê duy nhất của cuộc đời ông.

Caleb đã từng đối mặt với những khoảng thời gian khó khăn cùng cực. Ông mất người anh lớn trong chiến tranh Việt Nam, còn ba mẹ chết thảm trong một vụ rơi máy bay mười lăm năm trước. Stone gặp Caleb khi ông tuyệt vọng cuối đường hầm, người thủ thư gần như mất hết khát khao để tiếp tục tồn tại. Stone kết bạn với ông, giới thiệu ông với một chủ nhà sách đang rất cần được giúp đỡ, và Caleb dần dần thoát khỏi trầm uất nhờ tình yêu của ông với những quyển sách.Mình dường như thu gom những trường hợp vô vọng,Stone thầm nghĩ.Dù mình đã từng là một người vô vọng giống họ. Thật sự Stone cũng nợ những bạn bè đó nhiều như họ nợ ông, nếu không muốn nói là nhiều hơn. Nhưng Stone biết rằng ông sẽ không thể tồn tại nếu không có Caleb, Reuben và Milton. Sau nhiều năm chỉ biết thực hiện những nhiệm vụ tiêu diệt và giết chóc, Stone dùng ba mươi năm cuối đời tìm một liệu pháp để chuộc lại lỗi lầm cá nhân. Theo như tính toán thì Stone vẫn còn một con đường dài phía trước để đi.

Sự đăm chiêu trầm ngâm của Stone gián đoạn khi Alex Ford bước vào. Alex là đặc vụ kỳ cựu của Cơ quan Tình báo, người lúc trước có công nâng đỡ Hội Camel và được vinh danh là thành viên danh dự của hội nhờ việc làm quả cảm của anh.

Ford ở lại nửa tiếng và như trút được gánh nặng trong lòng khi biết Caleb sẽ nhanh chóng khỏe lại.

Anh nói, “Bảo trọng, Caleb. Hãy gọi tôi nếu anh cần bất cứ thứ gì”.

“Công việc ở WFO sao rồi?”, Stone hỏi anh, ý ông muốn đề cập công việc ở Văn phòng Công vụ mật của Washington.

“Cũng bận rộn lắm. Các phần tử tội phạm khiến chúng tôi làm việc gần như kiệt sức”.

“À, tôi hy vọng anh sẽ bình phục hoàn toàn từ chuyến phiêu lưu nho nhỏ của chúng ta”.

“Tôi không gọi một cuộc khải hoàn toàn cầu có nguy cơ tiềm tàng là một chuyến phiêu lưu nho nhỏ. Và tôi cũng không nghĩ mình sẽ có thể hoàn toàn bình phục”.

Sau khi Alex Ford ra về, Caleb quay sang những người còn lại và nói, “Điều đó thật sự kinh khủng. Ông ta nằm bất động trên sàn nhà”.

“Rồi anh ngất đi phải không?”, Stone hỏi, mắt không rời Caleb.

“Có lẽ vậy. Tôi nhớ mình rẽ vào góc phòng, kiếm chiếc áo len, và thấy ông ta nằm ở đó. Chúa ơi, tôi gần như vấp vào người ông ấy. Tôi nhìn thấy đôi mắt của ông ấy. Đầu óc tôi trống rỗng. Ngực tôi đau thắt lại. Tôi thấy lạnh người. Tôi nghĩ mình bị một cơn đau tim. Rồi thì tôi không còn biết gì nữa”.

Reuben đặt tay lên vai Caleb. “Nhiều người cũng ngất đi giống như anh khi lâm vào tình huống ấy”.

Milton nói thêm, “Quỹ Tâm thần Quốc gia cũng cho biếtviệc nhìn thấy xác một người chếtxếp thứ hai trong số những sự kiện đau buồn nhất mà một con người phải trải nghiệm”.

Reuben nhướng mày khi nghe lời bình luận này. Ông nói, “Thế sự kiện nào được xếp thứ nhất? Bắt gặp vợ mình ở trên giường với một con khỉ đang cầm một lon đồ hộp Cheez Whiz hết hạn dùng chăng?”

“Anh có biết rõ DeHaven không?”, Stone hỏi Caleb.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 6-10-2013 21:39:15 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7
(tiếp theo)

“Có chứ. Thật là thảm thương. Ông ta rất mạnh khỏe, vì vừa mới kiểm tra sức khỏe tim mạch ở bệnh viện Hopkins. Nhưng tôi nghĩ ai cũng có thể bị lên cơn đau tim đột ngột hết”.

“Có phải là cơn đau tim không?”, Stone hỏi.

Caleb trông có vẻ không chắc chắn lắm, “Chứ có thể là cái gì? Hay là bị đột quỵ?”

“Theo thống kê, có lẽ cơn đau tim là hợp lý nhất”, Milton thêm vào, “Nó là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến những cái chết đột ngột ở nước ta. Thật sự thì bất cứ ai trong số chúng ta cũng có thể gục xuống vào bất cứ lúc nào và chết trước khi ngã xuống đất”.

“Khốn kiếp”, Caled vặn lại, “Milton, anh có cần phải hoan hỉ kiểu khốn nạn đến thế không hả?”

“Cho đến khi có kết quả giải phẫu tử thi, ta chỉ có thể suy xét như vậy thôi”, Stone chỉ ra vấn đề, “Nhưng anh không thấy bất cứ ai vào khu vực để sách đúng không?”

Caleb nhìn thẳng vào mắt Stone, “Không”.

“Nhưng anh ngất đi khá nhanh, có lẽ anh không để ý rằng có ai đó ở đâu đó trong tầng bốn thì sao?”

“Oliver, không thể vào phòng đọc sách ấy nếu không quét thẻ từ. Và có một camera ngay phía trước cửa chính”.

Stone đăm chiêu, “Thứ nhất, ngài Chủ tịch Hạ viện bị ám sát, và bây giờ là giám đốc Bộ phận sách quý hiếm chết trong một tình huống khá là bí ẩn”.

Reuben nhìn Stone bằng ánh mắt mệt mỏi, “Tôi nghi là thời gian này bọn khủng bố đang nhắm đến mấy người bán sách dạo, thế nên anh đừng có đem cái chuyện này vào một âm mưu to tát khác. Tôi chỉ có thể chịu đựng mỗi tháng một trận chiến quyết liệt thôi, xin cám ơn rất nhiều”.

Stone chớp chớp mắt, “Bây giờ ta sẽ bàn vấn đề này cho đến khi ta biết được nhiều hơn”.

“Tôi chở anh về nhà nhé Caleb” Reuben nói, “Tôi có xe mô tô”.

Niềm tự hào của Reuben là chiếc mô tô sản xuất ở Ấn Độ năm 1928 đã được “độ” lại thêm cái xe thùng nhỏ gắn vào bên trái xe.

“Tôi không nghĩ tôi hợp với cái xe ấy Reuben à”, Caleb ngừng một chút rồi nói thêm, “Thật tình cái loại máy kỳ cục đó của anh làm tôi sợ chết khiếp”.

Một y tá bước vào, nhét nhiệt kế vào tai trái của Caleb.

“Tôi có thể sớm về nhà không?”, ông hỏi.

Cô gái rút nhiệt kế ra xem nhiệt độ, “Anh gần như trở lại bình thường rồi. Vâng, tôi nghĩ bác sĩ đang chuẩn bị cho anh xuất viện ngay bây giờ”.

Khi chờ làm thủ tục xuất viện, Stone kéo Reuben lại nói nhỏ.

“Chúng ta phải để mắt đến Caleb một chút”.

“Tại sao? Anh nghĩ anh ấy thật sự bị tổn thương à?”

“Tôi không muốn anh ấy sẽ bị tổn thương”.

“Ông ấy chết vì động mạch vành, Oliver à. Chuyện ấy xảy ra hàng ngày”.

“Nhưng không thể nào xảy ra với một người vừa mới được kiểm tra sức khỏe bởi bác sĩ Johns Hopkins và một tấm giấy kết luận không bệnh tật ốm đau gì”.

“Được rồi, vậy ông ấy bị vỡ mạch máu hoặc té ngã rồi bị vỡ sọ. Anh nghe Caleb nói rồi đấy: gã ta ở trong đó một mình”.

“Theo Caleb thấy thì ông ta chết như thế. Nhưng Caleb còn không thể khẳng định chắc chắn cơ mà”.

“Nhưng còn cái camera an ninh và cái thẻ từ thì sao?”, Reuten phản kháng.

“Tất cả những chứng cứ đó có thể xác nhận rằng Jonathan DeHaven ở đó một mình khi ông ta chết. Nhưng không thể nào chứng minh được rằng ông ta không phải bị giết”.

“Thôi nào, ai mà lại thù hằn một tên thủ thư?”, Reuben hỏi.

“Ai cũng có kẻ thù. Cái khác biệt duy nhất là đối với một vài đứa, anh phải nhìn thật kỹ mới tìm ra chúng”.

Chú thích

1.Một chương trình trò chơi có thưởng nổi tiếng của truyền hình Mỹ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 6-10-2013 21:42:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8

Có thấy gì không?”, Leo Ritcher nói vào máy bộ đàm sau khi bấm số trên bàn phím. Gã đang ngồi trong xe hơi đậu phía trước một máy ATM ở Beverly Hills. Trong một chiếc xe tải đỗ phía bên kia đường, Tony Wallace, gần đây vừa mới làm chân bán hàng phạm tội trong cửa hàng cao cấp, kiểm tra màn hình video trước mắt, “Tuyệt. Tôi thấy rõ từng ngón tay anh nhập mã số PIN luôn. Và cũng thấy mặt thẻ vừa được nhập vào máy. Với chế độ phóng to và đứng hình này tôi có thể đọc được mọi thứ”.

Đêm hôm trước mấy gã đã đổi cái hộp kim loại gắn bên hông thùng ATM để đựng mấy tờ bướm của ngân hàng bằng cái hộp do Tony sáng chế. Trước đó gã này đã ăn cắp một cái hộp ở một máy ATM khác và tạo nên một bảo sao đúng như thế tại gara trong căn nhà Annabelle thuê cho cả bọn ở. Trong cái hộp giả đó Tony đặt một chiếc máy quay phim không dây hướng thẳng về phía bàn phím và khe nhận thẻ của máy ATM. Cái camera có thể gửi hình ảnh xa khoảng 200m, chiếc xe tải cũng đậu trong phạm vi đó.

Để dự phòng, mấy gã còn đặt thêm một máy quét áp phía ngoài khe nhận thẻ. Cái máy giả đó hoàn hảo đến nỗi chính Annabelle cũng không thể tìm ra bất cứ điều gì không bình thường trên đấy. Thiết bị này ghi lại tất cả các con số trên mặt thẻ bao gồm mã số nhận dạng dập trên thanh từ tính, và chuyển thẳng đến người nhận trong chiếc xe tải bằng công nghệ không dây.

Annabelle đang ngồi bên cạnh Tony. Đối diện là Freddy Driscoll, kẻ bán hàng Gucci và Rolex nhái trên cảng Santa Monica cho đến khi gã gặp Annabelle và Leo. Freddy đang giữ một máy quay phim khác chĩa ra cửa kính xe tải ngả màu.

“Tôi đã thấy rõ mấy chiếc xe chạy ngang và biển số của chúng”, gã báo cáo.

“Được rồi, Leo”, Annabelle nói vào bộ điện đàm, “Tránh đường để ‘tiền thật’ vào đi nào”.

“Cô biết đó”, Tony nói, “Chúng ta không thực sự cần cái máy quay phim ở thùng ATM đâu vì ta đã có máy quét thẻ rồi cơ mà. Như thế là dư thừa”.

“Việc chuyền tin từ máy quét thẻ thỉnh thoảng cũng gặp sự cố”, Annabelle nói, mắt vẫn nhìn chăm chăm vào màn hình trước mặt, “Và khi lỡ mất một con số thì cái thẻ trở thành vô dụng rồi. Thêm nữa, cái máy quay phim cho ta thấy nhiều thông tin còn máy quét thì không. Chúng ta chỉ làm phi vụ này một lần duy nhất. Không thể để xảy ra trục trặc được”.

Hơn hai ngày cả đám ngồi trong xe tải theo dõi máy quay ở thùng ATM và máy quét thẻ ghi lại thông tin thẻ và các khoản tiền. Annabelle cẩn thận xem xét các thông tin với xe và biển số xe của ‘con mồi’ đi ngang qua làn đường đặt máy ATM, chuyển hết dữ liệu vào máy vi tính xách tay và lưu trong một bảng tính. Annabelle cũng chia danh sách thứ tự ưu tiên. Cô ả nói, “Bugatti Veyron, Sleen, Pagani, Koenigsegge, Maybach, Porsche Carrera GT và Mercedes SLR McLaren đạt tiêu chuẩn năm sao. Chiếc Bugatti giá một trăm hai lăm triệu đôla, mấy chiếc còn lại từ khoảng bốn trăm nghìn cho đến bảy trăm nghìn đôla. Roll Royce, Bentley và Aston Martin thuộc nhóm bốn sao. Jag, BMW và Mercedes thường thuộc nhóm ba sao”.

Leo đùa, “Thế mấy chiếc Saturn, Kia và Yugo?”

Cuối ngày cả bọn trở về căn nhà thuê.

“Chúng ta ăn số lượng hơn chất lượng”, Annabelle nói, “Chỉ cần ba mươi thẻ là đủ rồi”.

Leo đọc sơ bảng tính. “Tuyệt, bởi vì ta có hai mốt chiếc xe năm sao và chín chiếc bốn sao, tất cả đều phù hợp với số thẻ tín dụng của họ”.

“Chỉ có ở L.A. anh mới thấy được hai chiếc Bugatti Veyron ghé lại cùng một máy ATM mà thôi”, Tony nhận xét, “Một ngàn mã lực, tốc độ tối đa 250km/h trong khi giá xăng hiện thời là ba đôla một gallon1. Ý tôi là họ đi đâu kiếm được ngần ấy tiền để tiêu vào con xe?”.

“Cũng giống như cách ta làm thôi, bóc lột kẻ khác”, Leo trả lời, “Chỉ có luật pháp mới nói rằng cách chúng bóc lột là hợp pháp vì một lý do nào đấy”.

“Tôi từng cưỡng lại luật pháp và luật pháp đã thắng”, Tony than vãn. Hắn nhìn Annabelle và Leo, “Hai người có làm chuyện đó bao giờ chưa?”

Leo bắt đầu xào bộ bài, “Gã này vui tính nhỉ?”

“Này, cô lưu luôn biển số xe làm gì vậy?” Tony hỏi.

“Anh đâu có biết khi nào mình sẽ thật sự cần đến nó”, Annabelle lơ đãng trả lời.

Annabelle nhìn Freddy sắp xếp vài thứ thiết bị bày ra trên chiếc bàn lớn trong phòng khách. Có cả một tập thẻ tín dụng trắng và một máy in nhuộm bằng nhiệt.

“Anh có đủ những thứ mình cần chưa?” Cô ả hỏi.

Gã gật đầu, nhìn lại đống dụng cụ với vẻ mặt hài lòng trong khi tay chải mái tóc bồng bềnh của mình.Annabelle à, cô đang vận hành một cỗ máy kinh doanh hạng nhất đấy.

Ba ngày sau Freddy làm được ba mươi thẻ tín dụng giả, với màu sắc, dãy từ tính chứa mã nhận dạng ở mặt sau thẻ, dập nổi tên của ‘nạn nhân’ và số tài khoản ở mặt trước thẻ. Công đoạn cuối cùng là kỹ thuật tạo ảnh ba chiều, một phương thức để đảm bảo an toàn mà các ngân hàng sử dụng kể từ thập niên 80. Sự khác biệt là những hình ảnh ba chiều thật đều được in chìm trên thẻ còn những cái dởm chỉ được in trên bề mặt thẻ mà thôi, điều này thì một chiếc máy ATM chẳng thể phân biệt được.

“Cô có thể mua tất cả các số thẻ tín dụng này trên internet”, Tony chỉ ra, “Đó là nơi bọnchuyên nghiệphay lui tới”.

Annabelle trả lời, “Tôi đảm bảo với anh rằng không có cái thẻ nào trong số thẻ mua ‘nóng’ đó thuộc về một thằng cha nào chạy chiếc Bugatti hết, họa hoằn nếu có thì do ăn may thôi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 6-10-2013 21:43:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8
(tiếp theo)

Leo ngừng xáo đống bài và châm thuốc hút, “Có thể cái thằng chuyên nghiệp nói với cậu điều đó, muốn cậu không thể làm ăn thông minh hơn để cạnh tranh với hắn đấy, cậu trai trẻ ạ”.

Tony chửi thề, “Tôi có ngu đến thế không hả?”.

“Ồ, có chứ”, Annabelle nói, “Được rồi, kế hoạch đây”. Cô ả ngồi trên phần tay dựa của một chiếc ghế bành, “Tôi sẽ thuê sáu chiếc xe cho tất cả chúng ta bằng chứng minh thư giả. Ba người mỗi người giữ tám thẻ tín dụng, riêng tôi lấy sáu thẻ, tổng cộng là ba mươi thẻ. Mỗi người đến bốn mươi máy ATM ở khu vực trung tâm và thực hiện mỗi lần hai giao dịch. Các anh sẽ luân phiên sử dụng tám thẻ tín dụng đó ở mỗi máy ATM, để cuối cùng mỗi người sẽ truy cập một tài khoản được mười lần”.

“Tôi có danh sách tất cả các máy ATM đây. Và tôi cũng đã chuẩn bị danh sách riêng cho từng người. Tất cả đều là các máy nằm kề nhau, hầu như không xa lắm. Tất cả đều phải ngụy trang vì chỗ máy ATM có trang bị máy quay phim. Tôi cũng soạn sẵn trang phục cho các anh rồi”.

“Nhưng có giới hạn số tiền chúng ta được rút từ một tài khoản trong một ngày”, Freddy nói, “Để chống tình trạng thẻ bị đánh cắp rút quá nhiều tiền”.

Annabelle nói, “Với mức mà chúng ta phải đạt được, chắc chắn là phải có giới hạn rồi. Một người chạy chiếc xe bảy trăm nghìn đôla sẽ không thích tài khoản ATM của mình bị giới hạn ở con số ba trăm đôla đâu. Người quen ở ngân hàng cho tôi biết rằng thường thì lần rút đầu tiên là hai trăm năm mươi đôla. Nhưng ngoài ra, thẻ giả cho chúng ta truy cập vào tất cả các dữ liệu khác gồm các tài khoản, tiền tiết kiệm và kiểm tra tài khoản. Nếu ta ký quỹ từ số tiền tiết kiệm nhiều hơn số tiền thực rút ra, thì máy ATM sẽ tính lãi thực thành số tiền phụ trội và sẽ gối thêm vào định mức rút tiền đó”.

“Vậy nếu ta ký quỹ số tiền năm nghìn đôla từ tài khoản tiết kiệm khi kiểm tra và rút bốn nghìn đôla, nó sẽ không tính số tiền thực lĩnh từ việc kiểm tra tài khoản”, Leo thêm vào.

“Đúng thế”.

“Cô có chắc không?”, Tony hỏi.

“Tháng trước tôi đã làm như thế với mười ngân hàng lớn, và lần nào cũng thành công. Đó là lỗi không đồng bộ của phần mềm mà họ chưa quan tâm đến. Cho tới khi họ tìm hiểu và sửa lỗi thì ta cũng kiếm được bộn tiền rồi”.

Leo mỉm cười rồi tiếp tục xáo bài, “Sau vụ tổ chức này, tôi cá là họ sẽ chú trọng hơn đến việc khắc phục điểm yếu này".

“Tại sao không thực hiện tám giao dịch ở mỗi máy ATM, mỗi lần từng thẻ một?”, Tony đề nghị, “Như thế ta sẽ không phải đụng chạm quá nhiều ngân hàng”.

“Bởi vì người ta sẽ nghi ngờ khi thấy anh đút tám chiếc thẻ vào một khe nhận thẻ trong khi mọi người đang xếp hàng chờ đằng sau anh”, Annabelle nói với giọng điệu mất kiên nhẫn, “Với hai thẻ tín dụng, chỉ có vẻ như máy bị lỗi và anh đang đút thẻ trở lại”.

“A, một gã tội phạm trẻ tuổi, quá ương bướng và thiếu kinh nghiệm”, Leo càu nhàu.

Annabelle đưa cho mỗi người ba cuốn sổ tay, “Trong đó ghi đầy đủ số PIN của mỗi thẻ, và số tiền chính xác ở mỗi máy ATM các anh sẽ chuyển khoản để ký quỹ rồi sau đó rút tiền mặt từ mỗi tài khoản. Sau khi hoàn tất, đốt hết các cuốn sổ”. Cô ta đứng dậy, đi đến ngăn tủ và quăng mấy cái túi len thô cho bọn chúng, “Đồ hóa trang của các anh trong túi, sau đó dùng túi để đựng tiền”. Cô ta lại ngồi xuống chỗ cũ, “Tôi cho các anh mười phút để hành động ở mỗi ngân hàng. Chúng ta sẽ liên tục liên lạc với nhau. Nếu có chuyện gì lạ xảy ra ở một địa điểm, bỏ chỗ đó qua chỗ kế tiếp liền”.

Freddy nhìn tổng số đôla được liệt kê trong quyển sổ tay, “Nhưng lỡ mấy người đó không có quỹ tiền để ký quỹ thì sao? Ý tôi là ngay cả người giàu cũng thỉnh thoảng bị túng thiếu chứ nhỉ?”

“Họ có tiền trong tài khoản. Tôi đã kiểm tra hết rồi”, Annabelle trấn an.

“Bằng cách nào?”, Tony hỏi.

“Tôi đã gọi cho các ngân hàng, nói rằng tôi là người bán nhà và hỏi họ có đủ tiền trong tài khoản tiết kiệm để trả cho món tiền năm mươi nghìn đôla mà họ nợ không”.

“Rồi họ nói cho cô biết à?”, Tony hỏi tiếp.

“Họ luôn nói cho anh biết, cậu trai à”, Leo trả lời, “Chỉ cần anh biết cách hỏi thôi”.

Annabelle nói. “Suốt hai ngày qua tôi đã viếng nhà tất cả các ‘con mồi’. Theo tôi thấy, nhà nào cũng trị giá ít nhất năm triệu đôla hết. Có hai chiếc Saleen nằm trong một biệt thự nữa cơ. Tiền phải ở đó chứ”.

“Cô đến coi nhà tất cả bọn họ ư?”, Tony lại hỏi.

“Như quý cô đã nói với anh, biển số xe cũng có lúc cần thiết”, Leo nhấn mạnh.

“Tổng số tiền sẽ rút là chín trăm nghìn đôla, trung bình mỗi thẻ rút được ba mươi nghìn đôla”, Annabelle nói tiếp, “Tất cả các ngân hàng chúng tađụng vàođều tổng kết số tiền thực lĩnh trong các tài khoản ATM của họ vào nửa đêm. Ta sẽ phải hoàn tất sớm hơn thời gian đó”. Cô nhìn Tony, “Và nếu trong trường hợp ai đó nảy sinh ý đồ bớt xén và giấu riêng thì lần kế tiếp sẽ đền gấp đôi số tiền chúng ta ‘xoáy’ được từ phi vụ này”.

“Này”, Tony nói với giọng bị xúc phạm, tay cào cào bộ tóc được tạo mẫu của mình, “Chuyện này vui đấy”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 6-10-2013 21:45:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8
(tiếp theo)

“Chỉ vui nếu anh không bị tóm thôi”, Annabelle nói.

“Vậy cô có bao giờ bị tóm chưa?”, Tony lại hỏi.

Để trả lời, Annabelle nói với Tony, “Sao anh không đọc cuốn sổ tay của mình để chắc chắn mình sẽ không phạm bất cứ sai lầm nào?”

“Chỉ là mấy cái máy ATM vặt vãnh. Tôi sẽ làm được dễ dàng thôi”.

“Đây không phải là lời thỉnh cầu”, Annabelle đanh giọng rồi bước ra khỏi phòng.

“Anh nghe cô ấy nói rồi đó, cậu trai”, Leo nói, rất cố gắng giấu nụ cười toét miệng của mình.

Tony lầm bầm gì đó trong họng và khệnh khạng ra khỏi phòng.

“Cô ta thực hiện mọi thứ cẩn thận theo đúng như kế hoạch, phải vậy không?”

“Chứ anh không muốn thực hiện với một nhóm lên kế hoạch đàng hoàng à?”, Leo vặt lại.

“Cô ta là ai?”

“Annabelle”, Leo trả lời nhát gừng.

“Tôi biết rồi, nhưng họ gì hả? Tôi ngạc nhiên rằng trước đây chưa bao giờ chạm mặt với cô ấy. Giới lừa đảo thì cũng khá nhỏ hẹp”.

“Nếu cô ta muốn anh biết, cô ta đã bảo cho anh biết từ lâu rồi”.

Freddy nói, “Thôi mà Leo, anh biết về tất cả chúng tôi. Còn tôi thì cứ suy đoán lòng vòng. Tôi không hỏi gì thêm đâu”.

Leo ngẫm nghĩ rồi hạ giọng nói, “Được rồi, anh phải thề anh sẽ đem chuyện này xuống mồ nhé. Và nếu anh nói với cô ta là tôi kể cho anh nghe, tôi sẽ chối rồi tôi sẽ giết anh. Tôi nói nghiêm túc đấy”, Hắn ngừng lại chờ Freddy thề thốt xong.

“Tên cô ta là Annabelle Conroy”, Leo nói.

“Paddy Conroy sao?”, Freddy nói ngay, “Tôi đã nghe tiếng tăm ông ấy. Tôi cho rằng họ có quan hệ họ hàng”.

Leo gật đầu, vẫn giữ giọng thật thấp, “Con gái ông ấy đấy. Nhưng đó là một bí mật được giấu kín. Mọi người không hề biết rằng Paddy có một đứa con. Ông ta thỉnh thoảng nói với mọi người cô ta là vợ mình. Khá là kỳ quặc, nhưng đó là Paddy”.

“Tôi chưa bao giờ có vinh dự được tham gia với ông ấy”, Freddy nói thêm.

“Ừ, này, tôi đã có dịp làm việc với Paddy Conroy già. Ông ấy là một trong những tay lừa đảo giỏi nhất trong thế hệ của ông. Và cũng là một trong những kẻ chết tiệt nhất”, Leo ngoái nhìn về hướng Annabelle và Tony đã rời khỏi phòng, hắn hạ giọng thấp hơn nữa, “Anh có thấy vết sẹo dưới mắt phải của cô ta không? Cha già ấy gây ra đó. Cô ta nhận hình phạt đó khi làm ‘thổi bay’ số tiền lừa bịp lúc họ đang giở chiêu ở các sòng bạc Roulette2tại Vegas, cô ta cược hết vào số mười lăm, ai ngờ ra số hai mốt. Mất của cha già ba nghìn đôla, và bị một trận đòn nhừ tử. Mà không chỉ có một lần đâu nhé”.

“Chết tiệt thật”, Freddy văng tục, “Con gái ruột của ông ta đó sao?”

Leo gật đầu, “Annabelle chưa bao giờ hé răng về chuyện này. Tôi nghe từ một nguồn khác đấy”.

“Vậy lúc đó anh đang làm cho họ à?”

“Ừm, cho cha già Paddy và bà vợ Tammy. Lúc đó họ có phi vụ làm ăn lời lắm. Paddy dạy tôi trò “bài ba lá”. Chỉ có điều Annabelle là một tay bạc bịp giỏi hơn cha già ấy nghĩ”.

“Sao vậy?”, Freddy hỏi.

“Vì cô ta có một phẩm chất mà Paddy không bao giờ có. Sự công bằng. Cô ta thừa hưởng từ mẹ của mình. Tammy Conroy là một người ngay thẳng, ít nhất là đối với một tên lừa đảo”.

“Công bằng à? Phẩm chất lạ lùng đối với bọn người như chúng ta”, Freddy nhận định.

Leo nói, “Paddy luôn lãnh đạo nhóm bịp của mình bằng cách làm cho đàn em sợ hãi. Còn con gái ông ta thì lãnh đạo bằng sự chuẩn bị kỹ càng và bằng năng lực của mình. Mà cô ta sẽ chẳng lừa anh bao giờ. Tôi đếm không xuể những lần Paddy chuồn mất cùng với cả mẻ hàng mới cuỗm được. Cuối cùng cha già đó chỉ có nước làm ăn một mình. Không ai muốn tham gia vào các phi vụ của Paddy nữa. Khốn nạn, ngay cả Tammy cuối cùng cũng bỏ cha đó, tôi nghe nói thế”.

Freddy vẫn im lặng, rõ ràng là đang để cho những lời kể nãy giờ lắng xuống, “Còn gì liên quan đến nhóm lừa bịp này không?”

Leo lắc đầu, “Cô ta thu thập mọi người. Tôi chỉ làm ở đây với cô ta thôi”.

Khi Freddy và Leo đi vào bếp để pha chút cà phê, Tony lẻn ra cửa khác. Gã bỏ quên cuốn sổ tay trong phòng và quay lại vừa đúng lúc để nghe trộm cả đoạn hội thoại. Mỉm cười. Tony yêu thích những gì người ta không nghĩ rằng gã biết.

Chú thích

1.Gallon: đơn vị (đo lường) chất lỏng bằng 4,54 lít ở Anh; 3,78 lít ở Mỹ.

2.Roulette: vòng quay, cò quay.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2013 08:30:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Phi vụ thu được hơn chín trăm nghìn đôla bởi vì Tony quá tham lam rút thêm tiền ở máy ATM.

“Thằng ngu đó sẽ làm gì cơ chứ, bán chiếc Pagani của nó chăng?”, gã nói cạnh khóe.

“Đừng có làm thế thêm một lần nào nữa”, Annabelle nghiêm giọng khi cả bọn ngồi ăn sáng trong căn nhà mới thuê cách căn nhà cũ năm dặm. Trong khi đó căn nhà cũ được lau dọn cẩn thận đề phòng trường hợp bọn cảnh sát viếng thăm. Tất cả những chiếc Hert sử dụng để trộm tiền từ ba mươi tài khoản đã được trả lại hết. Mấy bộ quần áo cải trang được vứt rải rác ở các bãi rác ngoại ô. Tiền được để trong bốn két sắt nhỏ mà Annabelle đã thuê từ trước. Cuộn phim quay tại máy ATM và các hồ sơ lưu trong máy vi tính cũng bị xóa sạch, còn các cuốn sổ tay bị đốt hết.

“Thế phần dư mười nghìn đôla thì sao?”, Tony phàn nàn, “Lẽ ra ta đã có thể chôm được nhiều tiền hơn”.

Annabelle trỏ một ngón tay vào ngực gã, “Đây không phải là chuyện tiền nong. Khi tôi vạch một kế hoạch, anh phải thực hiện đúng như thế. Bằng không thì tôi chẳng thể tin tưởng anh nữa. Và một khi anh không đáng tin, anh không thể nào ở lại nhóm này được. Đừng làm tôi phải thấy hối tiếc vì đã chọn anh gia nhập vào nhóm chúng tôi, Tony à”. Cô ta nhìn chằm chằm khiến gã không dám ngẩng mặt lên nhìn mình nữa mà quay sang những đứa khác.

“Được rồi, ta xem lại giai đoạn hai nhé”. Cô ta lại nhìn Tony. “Đây là vụ lừa đảo trực diện. Nếu các anh không theo đúng hướng dẫn và làm đúng mục tiêu, các anh sẽ vào tù bởi vì sai số cho phép là zero”.

Tony ngồi lại, trông mặt có vẻ không hào hứng như hắn cố tỏ ra.

Ả nói tiếp, “Anh biết đó Tony, không có gì hay hơn việc nhìn trực tiếp vào mắt một mục tiêu rồi ‘cân đong đo đếm’ hắn ta và cả bản thân mình nữa”.

“Tôi ổn mà”.

“Anh có chắc không? Vì nếu anh có vấn đề với chuyện ấy, tôi phải được biết ngay lúc này”.

Gã bồn chồn nhìn những đứa khác, “Tôi chẳng có vấn đề gì cả”.

“Tốt. Chúng ta lên đường đến San Francisco”.

“Có gì ở đó vậy?”, Freddy hỏi.

“Người đưa thư”, Annabelle trả lời.

*

Đám người mất sáu tiếng đi xe đến San Francisco, Leo và Annabelle một xe, Tony và Freddy chung chiếc còn lại. Cả bọn ký hợp đồng thuê một chung cư ở rìa thành phố có thể nhìn thấy cầu Cổng vàng trong hai tuần. Bốn ngày sau đó chúng thay phiên nhau đặt máy theo dõi một khu văn phòng phức hợp ở khu vực ngoại thành. Cả đám theo dõi việc chuyển các thùng thư ở ngoài trời, mà thường thì đầy ắp cùng với hàng chồng thư dựng sát bên một công-ten-nơ lèn chặt hàng. Ngày nào người đưa thư cũng đến ô cửa sổ phụ vào khoảng 5 giờ đến 5 giờ 15.

Vào ngày thứ năm, đúng 4 giờ 30, Leo ăn mặc như một người đưa thư, lái chiếc xe tải bưu điện mà Annabelle đã thuê được ở phía nam thành phố đến bên cạnh thùng đồ. Chỗ cho thuê này chuyên cung cấp đủ thứ từ xe bọc thép đến xe cứu thương phục vụ cho những mục đích mờ ám. Từ trên chiếc xe thuê đậu phía kia đường, Annabelle quan sát Leo tiến về chiếc xe tải. Tony và Freddy được bố trí ở ngay lối vào khu phức hợp. Hai gã sẽ báo động cho Leo thông qua tai nghe đề phòng trường hợp người đưa thư thật xuất hiện trước 5 giờ. Leo chỉ lấy chồng thư để ngoài vì gã ta không có chìa khóa để mở hộp. Gã có thể phá khóa dễ dàng nhưng Annabelle cho rằng việc đấy không cần thiết và tiềm ẩn nguy cơ có người trông thấy.

Cô ta nói, “Mấy thứ nằm trên đất hay tràn ra ngoài hộp cũng nhiều lắm rồi”.

Khi Leo mang đống thư vào xe tải, giọng Annabelle vang vang trong tai nghe.

“Một người có vẻ là thư ký đang chạy lại phía anh với một vài lá thư kìa”.

“Rõ”, Leo thì thầm. Gã quay lại đối diện với người phụ nữ, cô ta trông rất thất vọng.

“Ồ, Charlie đâu rồi?”, cô hỏi.

Charlie, người đưa thư thường nhật, cao ráo và đẹp trai.

“Tôi chỉ giúp Charlie một phần công việc vì hôm nay nhiều thư từ quá”, Leo lịch sự nói, “Cho nên tôi đến đây sớm một tí”. Hắn nhìn xấp thư trên tay cô nàng, rồi chìa giỏ thư của mình ra, “Cô tiện tay bỏ vào đây luôn cũng được”.

“Cám ơn anh. Tối nay là ngày phát bảng lương đấy. Bảng lương trong mấy lá thư đó”.

“Thế à? Ừ, vậy tôi sẽ cẩn thận hơn với xấp thư này”, Hắn mỉm cười và tiếp tục thu gom mấy xấp thư trong khi người phụ nữ trở về văn phòng của mình.

*

Quay lại chung cư, cả bọn nhanh chóng kiểm tra đống thư, tách riêng thư vẫn có thể sử dụng được trong số những lá thư không phù hợp mục tiêu. Đối với thư không sử dụng được, Annabelle bảo Tony đem gửi vào thùng thư cuối góc phố. Chồng thư còn lại được Annabelle và Freddy nghiền ngẫm kỹ lưỡng.

Khi Tony trở về, gã nói, “Mấy người trả xấp séc nhận lương lại thùng thư để làm gì?”

“Bảng lương và những tấm séc có thể nhận lương từ tài khoản không hữu dụng với chúng ta”, Freddy trả lời bằng sự tự tin của một chuyên gia, “Dãy số an toàn trên mấy thứ đó được in bằng mực rồi dùng tia la-ze ‘khóa’ lại nên ta không thể thay đổi số tiền có sẵn trên đó”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2013 08:32:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9
(tiếp theo)

“Chẳng có giá trị với ta”, Leo nói, “Đó là số séc chuyển thẳng đến những người mà họ - các công ty - biết rõ”.

Freedy cầm lên một tờ séc, “Cái này mới là thứ chúng ta cần: một tấm séc hoàn tiền”.

Tony cãi, “Nhưng loại này gửi cho những người hoàn toàn xa lạ”.

“Chuyện đó mới là điều đáng bàn đấy cậu trai trẻ”, Leo nói, “Mày đặt số xê-ri an toàn lên mấy tấm séc để gửi cho những người làm ăn hoặc buôn bán với mày. Và mày chẳng cần phải làm điều đó với mấy séc gửi cho bọn mà mày chẳng biết là thằng nào”.

Annabelle nói thêm, “Tôi chọn khu phức hợp văn phòng đó bởi vì trong đó là con số may mắn một trăm công ty địa phương. Hàng nghìn tấm séc chảy ra khỏi những văn phòng đó mỗi ngày và các tài khoản ngân hàng của họ ‘nạp’ đầy ắp tiền”.

Năm giờ sau Freddy đã tập hợp tất cả tám mươi tờ séc. “Những tờ này khá sạch. Không có dấu nước giả, không có đường kẻ đề phòng hay mấy khung nhận dạng”. Gã đem tập séc qua một phân xưởng nhỏ mà gã đã dựng lên trong một căn phòng của ngôi nhà thuê này. Với sự giúp đỡ của bọn còn lại, gã dán băng keo Scốt-len lên dòng chữ ký, mặt trước và mặt sau của từng tờ séc, đặt tất cả vào một cái chảo nướng bánh và đổ nước tẩy sơn móng tay lên. Chất acetone có trong nước tẩy sơn nhanh chóng làm biến mất mọi thứ trên các tấm séc, trừ những chi tiết viết bằng mực nguyên chất. Sau đó cả bọn tháo hết mấy miếng băng keo dán đè trên dòng chữ ký, những gì cần thiết còn lại là tám mươi tấm séc trống có chữ ký của giám đốc điều hành hoặc giám đốc tài chính của các công ty.

“Đã từng có thằng nào đó chơi trò bẩn này với tài khoản của tao”, Leo nói.

“Rồi ông làm gì?”, Tony hỏi.

“Truy cho ra thằng đó chứ sao. Dân nghiệp dư, làm cho vui thôi, nhưng vẫn cứ làm tao nổi đóa. Thế là tao đổi địa chỉ, nó làm sai hết mấy tấm hóa đơn, cuối cùng nó bị mấy thằng chủ nợ truy đuổi ráo riết suốt mấy năm. Ý tao là mấy chuyện lừa bịp này phải để bọn dân chuyên nghiệp làm”. Leo nhún vai, “Tao đã có thể luộc cái thằng ấy tới bến luôn ấy chứ, làm giả chứng minh thư, tất tần tật mọi thứ”.

“Vậy sao ông không làm?”

“Tao có cái tâm”, Leo gầm gừ.

Freddy xen vào, “Sau khi phơi khô, tôi sẽ làm lại số xê-ri gốc của Cục dự trữ Liên bang”.

“Là cái gì?”

“Mày có chắc mày là một tên bịp bợm không hả?”, Leo hỏi với giọng chế giễu.

Tony ca thán, “Sở trường của tôi là máy vi tính và internet, chứ không phải nước sơn móng tay. Tôi là một tên bịp thế kỷ hai mươi mốt. Tôi không làm việc với giấy tờ văn bản”.

“Hoan hô!”, Leo đớp lại.

Annabelle cầm lên một tờ séc, “Đây là số xê-ri gốc của Cục dự trữ Liên bang”, cô ta chỉ vào hai số đầu tiên trong dãy số nằm ở cuối tờ séc, “Nó cho ngân hàng biết tờ séc được ký gửi vào ngân hàng hối đoái nơi mà người nhận sẽ đến lĩnh. Ngân hàng hối đoái New York số 2-1, San Francisco là 1-2. Ví dụ như một công ty có trụ sở ở New York sử dụng séc được phát hành từ một ngân hàng ở New York thường có số gốc của New York trên tờ séc. Vì chúng ta sẽ dùng các tờ séc ở đây nên Freddy sẽ chuyển hết các số xê-ri gốc trên thành số của New York. Làm cách đó các công ty sẽ tốn nhiều thời gian hơn để thu các tờ séc lại và nhận ra chúng bị thay đổi rồi”.

Annabelle nói thêm, “Và quan trọng hơn, đây đều là những công ty lớn luôn để tiền trong tài khoản đủ để chi trả nhưng lại không thèm dùng bất cứ biện pháp kiểm soát tiền mặt nào hết. Thế nên có những tờ séc sai trộn lẫn trong đống séc thật cũng không bị chú ý cho đến khi bọn họ nhận được bản in toàn bộ số tiền nhập và xuất ở tài khoản của chúng vào cuối tháng. Hôm nay là ngày mồng năm, có nghĩa là ta còn gần một tháng trước khi bọn công ty có thể phát hiện ra bất cứ sự bất thường nào. Nhưng tới lúc đó thì chúng ta đã biến từ lâu rồi”.

“Nhưng nếu nhân viên ngân hàng nhìn tờ séc và thấy số xê-ri gốc bị sai thì sao?”, Tony hỏi.

“Tao cá là mày chưa bao giờ coi mấy chương trình TV, phải không hả?”, Leo hỏi lại, “ Cái chương trình gì mà mấy thằng phóng viên điều tra chạy xoạt vào ngân hàng với tờ séc đã bị gạch xóa, ‘Đừng đổi chuyển thành tiền cho tôi nhé, tôi là tờ séc giả nè, đồ đần độn.’ Ấy thế mà tên đần độn vẫn cứ đổi tấm séc đó thành tiền mặt”.

Annabelle nói, “Tôi chưa bao giờ nghe rằng một nhân viên nào đấy chú ý số xê-ri gốc trên một tờ séc cả. Trừ phi cho nhân viên đó một lý do để nghi ngờ, họ sẽ không quan tâm đến chi tiết đó đâu”.

Khi đống séc đã khô, Freddy quét chúng vào máy tính xách tay của mình. Sáu giờ sau gã đã xong tám mươi tờ séc với tổng giá trị khoảng hơn hai tỷ đôla.

Annabelle vuốt ngón tay xuống rìa răng cưa của một tờ séc, một yếu tố thông thường cho biết tờ séc có hợp pháp hay không,dù số tiền và tên người được trả tiền trên ấy thì không hợp pháp.Cô ta liếc mắt nhìn những kẻ kia, “Giờ đến mặt ‘con người’ của trò bịp. Đến lúc đi chuyển đổi mấy tờ séc giả rồi đây”.

“Phần yêu thích nhất của tôi đây”, Leo háo hức nói khi gã ăn xong một cái sandwich kẹp thịt và cố thêm một ngụm bia.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 7-10-2013 08:34:52 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10

Cả bọn quyết định rằng Annabelle và Leo sẽ tuồn số séc đã thay xê-ri đầu tiên trong khi Tony thì quan sát Leo thực hiện như thế nào. Annabelle, Leo và Tony mỗi kẻ cầm một xấp giấy tờ chứng minh thư mà Freddy đã làm trước. Số chứng minh thư này, hoặc là trùng với tên người lĩnh tiền trong tấm séc hoặc là giấy ủy quyền cho biết họ là nhân viên của công ty phát hành séc. Annabelle bắt Leo và Tony mỗi lần chỉ được mang một chứng minh thư theo người. Vì trong trường hợp hành động bị phát hiện, sẽ khó mà chối khi trong túi có đến tám cái tên và biệt hiệu.

Nhiều séc được chuyển cho cá nhân, không có cái nào trên mười nghìn đôla nên không cần tờ khai của Cục thuế Nội địa. Vì hạn chế đó mà họ sẽ phải tuồn nhiều séc chuyển cho cá nhân để đạt được mức hơn hai triệu đôla như đã đề ra. Do đó số người lĩnh tiền trên số séc còn lại là các doanh nghiệp ảo mà Annabelle đã tạo tài khoản ở những ngân hàng khác nhau. Các tờ séc của công ty có thể rút được trên mười nghìn đôla mà không đụng chạm đến tiền lãi từ tờ khai của Cục thuế Nội địa. Nhưng vướng mắc ở đây là không có ngân hàng nào đổi tiền mặt cho một tấm séc công ty cả. Toàn bộ số tiền sẽ phải gửi trong tài khoản. Vì lý do đó mà vài tháng nay Annabelle đã phải ký quỹ rút ra rồi gửi vào những tài khoản mới tạo này, để hình thành bảng theo dõi. Cô ả biết rõ rằng ngân hàng nghi ngờ khi những tài khoản mới tinh tự nhiên nhận được hàng đống tiền mặt chuyển khoản vào - đó chỉ có thể là tiền bất chính gửi vào ngân hàng để che dấu gốc tích.

Suốt hai ngày trời Annabelle và Leo thử thách Tony bằng mọi chướng ngại có thể gã sẽ phải đối mặt khi chuyển đổi séc. Họ lần lượt đóng vai nhân viên ngân hàng, quản lý, nhân viên an ninh và khách hàng. Tony học rất nhanh, và cuối ngày thứ hai họ tuyên bố gã đã sẵn sàng những bước đi chập chững đầu tiên để trở thành một tên bịp đi chuyển séc giả sau khi gã đã quan sát Leo làm vài lần.

Mười tờ séc đầu tiên được đổi một cách trôi chảy. Annabelle khi tóc đỏ, lúc tóc vàng hoe và lần thứ ba là tóc nâu đen. Thùng xe tải trở thành nơi thay đồ của cả bọn với một chiếc bàn trang điểm và gương soi. Nhiều lần sau, Annabelle và Tony nhảy lên xe tải rồi đổi quần áo trên đường đến ngân hàng kế tiếp. Ở vài nơi Annabelle đeo kính, chỗ này thì đeo một chiếc khăn quàng cổ vòng quanh đầu, chỗ kia thì quần dài, áo chui đầu và mũ lưỡi trai. Cùng với cách trang điểm, phục trang, phụ kiện và tóc tai, cô ta có thể thay đổi diện mạo và tuổi tác nhanh chóng. Annabelle chỉ mang dép thấp vì chiều cao cỡ một mét tám mươi của cô sẽ không gây chú ý nhiều như một người cùng chiều cao mà còn vác thêm đôi guốc cao gót. Cô ta chẳng bao giờ nhìn máy camera theo dõi ở các ngân hàng, vì luôn biết rõ rằng chúng đang quay lại vẻ ngoài hào nhoáng của mình.

Leo thì giả là một doanh nhân, một chân sai việc của công ty nào đó, hay một người nghỉ hưu và luật sư.

Những cuộc chuyện trò của Annabelle với nhân viên ngân hàng diễn ra trôi chảy mà không có bất cứ sự e dè nào. Cô ta luôn làm người đối diện với mình cảm thấy thoải mái ngay lập tức, khi thì Annabelle ba hoa về quần áo, tóc tai, khi thì nói yêu thành phố xinh đẹp bên bờ vịnh này như thế nào, thậm chí nói yêu cả thời tiết đang ảm đạm.

Với người nhân viên ngân hàng thứ mười một, cô ả tâm sự, “Tôi đã làm việc tư vấn này bốn năm rồi, và đây là số tiền lớn nhất mà người ta chi trả cho tôi. Tôi đã phải làm việc cật lực mới có được nó”.

“Chúc mừng chị”, người nhân viên nữ nói trong khi đang thực hiện giao dịch, “Bốn mươi nghìn đôla là một món tiền lớn”. Người nhân viên có vẻ xem xét kĩ lưỡng tờ séc và xấp giấy tờ giả - một - cách - hoàn - hảo của Annabelle hơi nhiều.

Annabelle nhận thấy người phụ nữ ấy không mang nhẫn cưới nhưng có vẻ như đã từng đeo bởi vì da tay chỗ đeo nhẫn ấy hơi trắng hơn.

“Chồng cũ của tôi bỏ tôi để chạy theo một phụ nữ trẻ đẹp và dọn sạch tiền trong tài khoản của tôi”, Annabelle nói trong cay đắng. “Tôi đã phải tạo dựng lại cả cuộc đời mình. Không dễ chút nào. Nhưng tôi sẽ không để gã thỏa mãn, cô biết không? Tôi sẽ nhận phần tiền chu cấp khốn nạn từ gã bởi vì tôi xứng đáng sở hữu số tiền đó. Và gã sẽ không bao giờ có thể quản thúc cuộc đời tôi”.

Người phụ nữ thay đổi thái độ ngay, và thì thầm, “Tôi hiểuchính xácđiều chị nói”, vừa hoàn tất thủ tục rút tiền. “Mười hai năm chung sống, và thằng chồng cũ của tôi quyết định đổi tôi để lấy một con người mẫu mới nổi”.

“Cô biết không, tôi ước gì chúng ta có thể tống cho bọn bội bạc đómột viên thuốcđể huấn luyện lại chúng nó”.

“Ừ, tôi cũng muốn thế. Một viên thuốc chứa chất độc xyanua”, người nhân viên nói.

Annabelle liếc mắt nhìn đống giấy tờ trên quầy và ngẫu nhiên nói, “Tôi nghĩ mình sẽ phải ký quỹ một khoản tiền đúng không? Chả là tôi đang phải trả nợ vài người chủ nhà. Tôi ước gì mình có thể giữ hết cả món tiền này, nhưng số dư lợi nhuận của tôi thì chỉ khoảng mười phần trăm thôi”.

Người nhân viên ngập ngừng, “À, thường thì sẽ có ký quỹ một khoản tiền với loại séc giá trị lớn này”. Cô ta nhìn Annabelle, mỉm cười rồi nhìn vào máy vi tính, “Nhưng tài khoản mà tấm séc này rút ra thì vẫn còn rất nhiều tiền để bù vào phần đó. Vậy để tôi tự thực hiện ký quỹ thông qua tài khoàn đó cho cô luôn”.

“Tuyệt quá, cám ơn chị rất nhiều”.

“Phụ nữ chúng ta phải biết dựa vào nhau mà vững tiến chứ”.

“Vâng, đúng là như thế”, Annabelle nói khi quay lưng bước đi với tờ giấy nhận tiền cho thấy “công ty” của mình giàu thêm bốn mươi nghìn đôla.

*
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách