Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Bộ Sưu Tập Tội Ác | David Baldacci (Hoàn) + Ebook

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 19:22:27 | Chỉ xem của tác giả
Chương 28

“Oliver! Oliver!”

Stone từ từ tỉnh và ngồi dậy một cách khó khăn. Ông đang nằm dài trên sàn nhà, quần áo vẫn còn nguyên vẹn, trong căn nhà ở nghĩa trang, tóc ông vẫn còn ướt.

“Oliver!”, ai đó đập cửa nhà ông.

Stone đứng dậy, bổ nhào đến để mở cửa.

Reuben nhìn ông với vẻ mặt cười cười, “Chuyện gì đang xảy ra vậy? Anh lại uống quá nhiều rượu tequila à?”. Tuy nhiên, khi ông nhận thấy tình trạng kiệt sức của Stone, ông nghiêm mặt, “Oliver, anh có ổn không?”

“Tôi không chết. Lấy làm mừng về điều đó đi”.

Ông ra hiệu cho Reuben bước vào, và Stone mất mười phút để giải thích chuyện gì đã xảy ra.

“Mẹ kiếp, anh không biết chúng nó là ai hả?”

“Là ai đi chăng nữa, thì chúng rất thành thạo kỹ thuật tra tấn”, Stone nói một cách khô khốc, tay xoa xoa chỗ u trên đầu. “Tôi nghĩ có thể mình sẽ không uống nữa”.

“Vậy chúng có biết gì về mối quan hệ của Behan không?”

Stone gật đầu, “Tôi không chắc rằng điều đó có làm chúng ngạc nhiên không, nhưng tôi nghĩ những điều tôi khai với chúng về Bradley và DeHaven thì hoàn toàn là tin mới cả”.

“Nhắc đến DeHaven mới nhớ, hôm nay là tang lễ của ông ta. Chúng tôi đến gọi anh là vì thế. Caleb đang dự lễ cùng với các nhân viên Thư viện Quốc hội khác. Milton cũng đến dự, còn tôi đổi ca làm ở bến tàu nên cũng có thể đi viếng. Chúng tôi nghĩ buổi tang lễ này quan trọng lắm”.

Stone bật dậy nhưng rồi lại xụp xuống.

Reuben đỡ tay ông, “Oliver, có lẽ anh nên ngồi nghỉ chút đã”.

“Thêm một lần tra tấn kiểu đó, các anh sẽ phải đi dự đám tang của tôi đấy. Nhưng buổi tang lễ hôm nay có thể cũng rất quan trọng. Ước gì những điều cần phải làm sáng tỏ cũng sẽ được giải đáp trong buổi lễ”.

*

Tang lễ tại Nhà thờ Thánh John nằm sát bên công viên Lafayette có rất nhiều người đến dự, đủ các loại nhân viên của thư viện và chính phủ. Cornelius Behan cũng tham dự cùng với vợ mình, người phụ nữ hấp dẫn mảnh khảnh và cao ráo mới bước vào tuổi ngũ tuần với mái tóc nhuộm vàng. Cái vẻ kiêu kỳ của bà ta đi cùng với vẻ ngoài mỏng manh, mệt mỏi. Cornelius Behan nổi tiếng ở Washington, và người ta cứ tiến đến chỗ gã để ôm thắm thiết và tỏ lòng tôn kính. Gã nhận hết bằng cử chỉ thân thiện của mình, nhưng Stone thấy lúc nào gã cũng nắm cánh tay vợ mình cứ như thể bà ta có thể té ngã nếu không có sự trợ sức của gã.

Stone khăng khăng đòi Hội Camel phải rải rác mỗi người mỗi chỗ trong nhà thờ để khảo sát nhiều nhóm người khác nhau. Dù rõ ràng là ai bắt cóc ông thì đã biết mối quan hệ của ông với những người còn lại, nhưng ông không muốn cho bọn chúng biết rằng ông còn có ba người bạn có thể trở thành mục tiêu của chúng.

Stone ngồi đằng cuối, rảo mắt nhìn khắp một lượt và khi dừng lại ở vị trí của một phụ nữ ngồi ngoài rìa. Khi cô ta quay lại vuốt cọng tóc ra khỏi khuôn mặt, ánh nhìn của Stone còn dữ dội hơn. Việc luyện tập trước kia đã giúp ông luyện kỹ năng có thể nhớ hình dáng con người, và ông đã thấy người phụ nữ này rồi dù giờ trông cô ấy có vẻ già hơn.

Sau khi buổi lễ kết thúc, thành viên Hội Camel rời nhà thờ, bước về phía vợ chồng Behan. Behan thì thầm gì đó vào tai vợ trước khi quay qua nói chuyện với Caleb.

“Một ngày buồn”, gã nói.

“Vâng, đúng thế ”, Caleb kịt khịt mũi. Ông nhìn bà Behan.

“Ồ”, Behan nói. “Đây là vợ tôi Marilyn. Đây là, ơ…”

“Caleb Shaw. Tôi làm việc ở thư viện với Jonathan”.

Ông giới thiệu những thành viên của Hội Camel cho bà ấy.

Behan nhìn vào nhà thờ khi những người hộ tang khiêng quan tài ra. “Ai có nghĩ đến? Ông ta trông khỏe mạnh đến thế cơ mà”.

“Nhiều người trông khỏe như thế trước khi họ chết”, Stone nói trống không. Ông vẫn để mắt tới người phụ nữ mình thấy lúc đầu. Cô ta đội mũ đen và mang kính mát, mặc chiếc đầm dài màu đen và mang giầy bốt. Cao gầy, cô ta khá nổi bật giữa đám người dự lễ.

Behan tìm Stone xoi mói và cố gắng theo dõi ánh mắt của ông, nhưng ông quay lại ngay kịp lúc trước khi gã kịp thấy người phụ nữ. “Tôi nghĩ họ biết chắc chắn về cái chết của ông ấy”, Behan nói. Gã nhanh nhảu nói thêm, “Ý tôi là thỉnh thoảng họ cũng phán đoán sai”.

Stone lên tiếng, “Tôi cho rằng nếu họ có nghi ngờ, ta cũng sẽ biết ngay mà. Phương tiện truyền thông khám phá mấy vụ đó ra liền”.

“Vâng, các nhà báo khá giỏi chuyện khám phá”, Behan nói với vẻ không hứng thú nữa.

“Chồng tôi biết rất nhiều về những cái chết đột ngột”, Marilyn Behan tự nhiên phun ra. Khi tất cả mọi người đều nhìn bà ta, bà vội vã nói thêm, “Tôi biết là vì nghề nghiệp của anh ấy đó mà”.

Behan mỉm cười với Caleb và mấy người khác rồi nói, “Xin phép”. Gã vẫn cầm tay vợ rất chặt và dẫn bà ta ra chỗ khác. Có phải Stone vừa nhìn thấy một tia vui thích trong ánh mắt của người phụ nữ không nhỉ?

Reuben vẫn dõi theo họ, “Tôi chỉ có thể hình dung gã với cái quần lót của gã thôi. Tôi đã phải ngậm cả nắm tay vào miệng để nín cười suốt buổi lễ”.

“Ông ta quả có lòng khi đến đây hôm nay”, Stone nói. “Ý tôi là ông ta quả có lòng khi đến dự tang lễ của một người quen biết bình thường”.

“Mấy bà vợ trông như tác phẩm nghệ thuật phức tạp quá”, Caleb bình luận.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 19:23:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 28
(tiếp theo)

“Này, bà ta làm tôi ngạc nhiên khi nói thẳng bí mật của ông chồng đấy”, Stone nói “Tôi không tin họ có thể yêu nhau tha thiết”.

“Nhưng họ vẫn cứ ở với nhau đấy thôi”, Milton nói thêm.

“Vì tình yêu tiền, yêu quyền lực và địa vị xã hội”, Caleb ghê tởm nói.

“Tôi đã không thể nhớ điều đó trong các cuộc hôn nhân của mình”, Reuben đáp trả. “Tôi có tình yêu, ít nhất là trong một khoảng thời gian, chứ mấy yếu tố kia thì không”.

Stone lại theo dõi người phụ nữ đầm đen, “Người phụ nữ ở đằng kia, trông cô ấy có quen không?”

“Sao biết được?”, Caleb nói. “Cô ta đội mũ và đeo kính mà”.

Stone lấy bức ảnh ra, “Tôi nghĩ cô ta là người trong ảnh”.

Họ tụ tập quanh bức ảnh và rồi Caleb và Milton nhìn trực diện vào người phụ nữ và thay phiên nhau chỉ trỏ.

Stone suỵt, “Hai người có thấy mình quá lộ liễu không hả?”

Đoàn người dự lễ đang tiến về nghĩa trang. Sau khi lễ động quan đã xong, mọi người quay trở về xe của họ. Người phụ nữ áo đen vẫn cứ lưu luyến bên cỗ quan tài trong khi hai người làm công mặc quần jean áo sơ mi xanh đang chờ gần đó. Stone nhìn quanh và thấy vợ chồng Behan cũng đã quay về chiếc limosine. Ông quan sát cả khu vực một lượt để tìm kiếm những kẻ ‘trấn nước’ ông có thể hiện diện trong cuộc sống hàng ngày. Anh có thể nhận diện loại người đó nếu anh biết cách tìm chúng, như Stone đã làm. Tuy nhiên, việc quan sát này không có kết quả gì cả.

Ông ra hiệu cho những người khác theo mình khi ông bước về phía người phụ nữ. Cô ta đặt một tay lên trên cỗ quan tài bằng gỗ hồng sắc và có vẻ như lẩm bẩm điều gì đó, có lẽ là lời cầu nguyện.

Họ chờ cô ta cầu xong. Khi cô quay mặt về phía họ, Stone nói, “Jonathan đang ở đỉnh vinh quang của đời mình thì đột ngột ra đi. Thật đau buồn”.

Phía sau cặp kính đen, cô ta đáp, “Sao ông biết ông ấy?”

Caleb nói, “Tôi làm việc chung với ông ấy ở Thư viện. Ông ấy là sếp của tôi. Mọi người sẽ rất nhớ ông ấy”.

Người phụ nữ gật đầu, “Vâng, mọi người sẽ rất nhớ ông ấy”.

“Sao cô biết ông ta?”, Stone cẩn trọng hỏi lại.

“Đã lâu lắm rồi”, cô ta nói mù mờ.

“Những tình bạn lâu dài như thế ngày nay rất hiếm có”.

“Vâng, đúng thế. Tôi xin phép”, cô ta bước qua họ và bắt đầu đi thẳng.

“Cái chết của ông ta rất bí ẩn, nhân viên giám định pháp y chưa thể tìm ra nguyên nhân cái chết”, Stone nói đủ lớn để cô ta nghe thấy. Lời nói có hiệu nghiệm tức thì. Cô ta dừng bước và quay lại.

“Báo đưa tin rằng ông ấy chết vì đau tim”, người phụ nữ nói.

Caleb gật đầu, “Ông ấy chết vì tim ngừng đập, nhưng ông ta không bị đau tim. Tôi nghĩ báo chí chỉ giả định thế thôi”.

Cô ta bước thêm vài bước về phía họ, “Tôi chưa được biết tên các ông”.

“Caleb Shaw. Tôi làm việc trong phòng đọc Sách Quý Hiếm. Đây là bạn tôi…”

Stone chìa tay ra, “Sam Billings, hân hạnh được gặp cô”. Ông ra hiệu cho hai thành viên còn lại của nhóm Camel. “Chiến hữu của tôi Reuben và kia là Milton. Và cô là?”

Cô ta lờ Stone đi và chỉ chú mục vào Caleb, “Nếu anh làm việc ở thư viện, anh hẳn phải yêu sách nhiều như Jonathan vậy”.

Caleb rạng rỡ hẳn lên khi chuyển sang đề tài yêu thích của mình, “Ồ, tất nhiên rồi. Thật ra trong di chúc ông ta ủy quyền thư viện sách của mình cho tôi. Tôi đang tiến hành kiểm kê, định giá và bán bộ sưu tập sách của ông ấy, sau đó số tiền thu được sẽ đem đi làm từ thiện”.

Ông ngừng nói khi nhìn thấy Stone ra dấu cho ông ngậm miệng.

Cô ta nói, “Nghe có vẻ đúng là giọng Jonathan rồi. Chẳng hay cha mẹ ông ta mất chưa?”

“Ồ, vâng, cha ông ta mất nhiều năm rồi, mẹ mất hai năm trước. Jonathan thừa hưởng toàn bộ nhà cửa”.

Stone thấy người phụ nữ rất khó khăn mới nhoẻn một nụ cười với thông tin cuối cùng. Người luật sư nói gì với Caleb nhỉ? Rằng cuộc hôn nhân đã bị thủ tiêu. Có lẽ không phải bởi người vợ mà chính vì cha mẹ ông ấy khăng khăng không đồng ý?

Cô ta nói với Caleb, “Sẽ rất tuyệt nếu được thăm căn nhà và bộ sưu tập sách của ông ấy. Tôi chắc là giờ bộ sưu tập đã được mở rộng ra rồi”.

“Cô biết về bộ sưu tập của ông ấy nữa ư?”, Caleb hỏi.

“Jonathan và tôi chia sẻ nhiều thứ lắm. Tôi sẽ không ở đây lâu, thế nên tối nay tôi ghé thăm nhà ông ấy có được không?”

“Tình cờ là chúng tôi cũng định ghé ngang qua đó tối nay. Nếu cô ở khách sạn, chúng tôi có thể đến đón cô”, Stone đề nghị.

Người phụ nữ lắc đầu, “Tôi sẽ gặp các anh trên đường Good Fellow”. Cô ta nhanh bước đến chiếc tắc-xi đã đợi sẵn.

“Anh nghĩ mời một người phụ nữ đến nhà Jonathan có tốt không?”, Milton hỏi, “Chúng ta còn chưa biết cô ấy là ai nữa mà”.

Stone lấy bức ảnh ra giơ lên, “Tôi nghĩ có lẽ chúng ta biết cô ấy. Ít nhất chúng ta sẽ sớm biết thôi. Trên đường Good Fellow”, ông trầm ngâm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 20:04:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 29

Sau khi buổi chứng nhận kết thúc phía trước Ủy ban Tình báo, Seagraves và Trent uống cà phê trong quán rồi sải bước về phía điện Capitol. Vì nhiệm vụ chính thức bắt hai gã làm việc với nhau nhiều, nên lần này hai gã đi với nhau sẽ chẳng ai nghi ngờ.

Seagraves ngừng lại để nhả bã kẹo cao su trong khi Trent cúi xuống cột lại dây giày.

“Vậy anh nghĩ gã đó thực sự là nhân viên cũ của Cục tình báo hả?”, Trent hỏi.

Seagraves gật đầu, “Mã ‘666’ đấy, anh biết về thư mục đó không Albert?”

“Mù mờ lắm, không rõ như anh đâu. Cơ quan Tình báo thuê tôi để làm công tác phân tích chứ không phải trên lĩnh vực đó đâu. Sau mười năm phân tích rác rưởi thì tôi cũng chán lắm rồi”.

Seagraves mỉm cười, “Nhảy vào làm con buôn chính trị có tốt hơn không?”

“Tốt hơn đối với chúng ta”.

Seagraves nhìn người đồng nghiệp cẩn thận chải mớ tóc về đúng hàng thẳng lối, hàng nào cũng đều tăm tắp mà không cần gương. Seagraves nói, “Sao anh không cắt đầu tròn đi? Nhiều phụ nữ thích cái kiểu trượng phu như thế đó. Và nếu anh để cái kiểu đầu đó anh trông lịnh lãm hơn”.

“Sau khi kết thúc công việc, tôi sẽ có thật nhiều tiền đủ để mỗi khi tôi đến nước nào gái đẹp cũng quay quanh chiều theo ý thích của tôi”.

“Hợp với loại người như anh”.

“Gã mã số 666 này có thể là điều phiền toái. Chúng ta sẽ phải trò chuyện nhiều về mối quan hệ của cơn mưa bão sấm sét này”.

Seagraves lắc đầu, “Chúng ta làm như vậy mọi chuyện sẽ bắt đầu được hâm nóng lên. Theo như tôi thấy thì hắn vẫn còn các mối quan hệ. Nếu tôi xử hắn, tôi sẽ phải xử cả bạn bè của hắn luôn. Điều đó rất dễ gây sai lầm và dẫn đến nghi ngờ nhầm người. Giờ tôi nghĩ chính Behan là kẻ đó. Nếu có gì thay đổi, dự báo thời tiết phải được đọc khác đi”.

“Anh có chắc rằng đó là chiến lược tốt hay không?”

Vẻ mặt Seagraves tối sầm lại, “Hãy thử kiểm nghiệm thực tế đi Trent. Trong khi anh ngồi phía sau cái bàn làm việc ấm áp thoải mái ở Wahington, tôi phải đặt mông ngồi ở những nơi anh quá sợ đến nỗi không dám xem TV. Anh cứ làm chuyện của anh và để tôi lo về kế hoạch chiến lược này, trừ phi anh nghĩ mình có thể làm tốt hơn tôi”.

Trent cười mỉm, nhưng nỗi sợ hãi vẫn chưa cho phép cười, “Tôi đâu có tra hỏi anh”.

“Nhưng có vẻ giống hệt như thế”. Hắn bất chợt nhe răng cười và choàng tay qua đôi vai hẹp của Trent, “Không có thời gian để đấu đá với nhau Albert à. Mọi việc vẫn tiến triển tốt đẹp đúng không?”

“Chính xác”, Trent xoa xoa vai mà trông hắn có vẻ như sắp khóc tới nơi.

Mày phải có vẻ như mất sức trên sân chơi mỗi ngày vậy.

Seagraves đổi đề tài, “Bốn mật thám đã chết. Đó là tin gốc ấy”. Hắn thật sự có biết một người trong số bốn người bị ám sát; chính xác là hắn đã làm việc chung với gã đó. Một nhân viên giỏi, nhưng hàng nghìn đôla dễ dàng đánh đổi bất cứ tình bạn nào mà hắn có.

Trent nói, “Anh muốn chính quyền năng động hơn sao? Mục tiêu kế tiếp trong danh sách?”

Seagraves ném điếu thuốc xuống đất và liếc mắt nhìn đối tác, “Anh sẽ biết khi anh thấy nó, Albert à”. Hắn cảm thấy mệt mỏi vì tên đối táccấp thấpnày lắm rồi. Điều này phần nào cho thấy rõ ràng rằng với Trent thì tên này đang và sẽ luôn luôn là cấp dưới của hắn. Nếu mọi chuyện có trở nên nguy hiểm và căn nhà bằng những lá bài này có đổ sụp thì Trent vẫn là người đầu tiên hắn muốn giết vì một lẽ đơn giản: mấy con chuột dễ dàng bị bóp nát dưới áp lực.

Hắn rời bỏ tên đối tác cùng biên chế cơ quan và đi về phía xe đang đậu ở khu vực cấm, hắn vẫy tay với một người lính nhận diện được hắn qua hình dáng.

“Giữ xe tôi cẩn thận chứ?”, Seagraves nói với một nụ cười toe toét.

“Giữ xe của ông và của tất cả mọi người”, người gác cổng nói, miệng còn nhai cây tăm xỉa răng, “Các ông đang giữ cho đất nước an toàn à?”

“Làm hết sức mình thôi”. Thật ra kế tiếp Seagraves sẽ đưa cho Trent những yếu tố chủ chốt trong kế hoạch theo dõi chiến thuật hoàn toàn mới của NSA - Cục An ninh Quốc gia. Các phương tiện truyền thông cứ cho rằng NSA đang làm chuyện gì đó ngoài vòng pháp luật. Họ chẳng biết một nửa câu chuyện, mà mấy thằng cận thị ngồi ở điện Capitol cũng chẳng biết gì đâu. Nhưng vài đứa giàu có nhưng không ưa nước Mỹ sống cách đây bảy nghìn dặm và ít nhất là tám thế kỷ sẵn sàng trả tiền để biết về kế hoạch này. Và tiền, ôi, tiền đem lại một ngày mới, vậy yêu nước để làm gì? Trong đầu Seagraves, cái mà bọn yêu nước nhận được là lá cờ tổ quốc xếp làm ba cho tất cả những rắc rối mà họ phải trải qua. Nhưng mà vấn đề lớn nhất lại chính là việc người ta phải chết rồi thì mới nhận được cờ.

Seagraves lái xe về lại văn phòng, hoàn thành nốt thêm một chút việc rồi mới về nhà, bao gồm một trang trại nuôi gia súc đã ba mươi lăm tuổi, sàn của phòng này ở nửa chừng phòng bên cạnh, với ba phòng ngủ, hai phòng tắm, trên một phần đất thách thức hệ thống tưới tiêu - hắn phải tốn gần nửa lương để vay thế chấp và đóng thuế tài sản. Hắn tập bài tập thể lực ngắn nhưng nặng nề rồi mở cửa tủ quần áo nhỏ dưới tầng hầm mà hắn luôn khóa kỹ và có hệ thống báo động.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 20:06:44 | Chỉ xem của tác giả
Chương 29
(tiếp theo)

Ở trong đó, trên tường và các kệ là những kỷ vật còn sót lại từ thuở ban đầu làm việc. Trong đó là một cái bao tay viền bằng lông màu nâu đựng trong hộp kính, một cái cúc áo khoác để trong cái hộp nhỏ, một bộ mắt kính trong hộp nhựa, một chiếc giày mắc trên tường, một đồng hồ đeo tay, hai chiếc vòng của nữ, một quyển sổ nhỏ trắng trơn có ba chữ cái A, F, W lồng vào nhau, một cái khăn đội đầu để trên kệ và một bản kinh Koran sờn cũ, một cái mũ lông thú và cái yếm dãi trẻ con. Cái yếm dãi làm hắn thấy ăn năn. Nhưng khi ai đó giết cha mẹ của một đứa trẻ thì chính nó cũng phải hy sinh theo. Một quả bom nổ xe hơi, suy cho cùng, không thể phân biệt được nó sẽ hủy diệt ai. Mỗi vật được đánh số từ một đến năm mươi và mỗi vật đều gắn liền với một câu chuyện mà chỉ có hắn và vài người khác ở CIA mới biết.

Seagraves đã từng đau khổ dày vò và trải qua những hiểm nguy để sưu tầm những món đồ này cho cái mà hắn gọi là bộ sưu tập của mình. Dù con người có nhận ra hay không, thì mỗi người trong số họ đều sưu tập một thứ gì đó. Nhiều người di chuyển đến đầu kia của quang phổ, sưu tập tem, đồng xu và sách. Lại có những người thích tích lũy chiến tích tình yêu và tình dục. Rồi có những người lấy làm hài lòng với việc góp nhặt những linh hồn bị lạc. Ngược lại, Roger Seagraves sưu tập những vật dụng cá nhân của những người mà hắn giết hay nói chính xác hơn là ám sát vì hắn làm việc này dưới vỏ bọc phục vụ cho quốc gia. Đối với nạn nhân thì điều đó cũng chẳng có khác nhau mấy; dù sao thì họ cũng chết rồi.

Tối nay hắn đến để đặt thêm hai vật nữa vào phòng sưu tập, cây viết của Robert Bradley và cái thẻ đánh dấu sách bằng da của Jonathan DeHaven. Hai vật này được đặt trang trọng trong một chiếc hộp trên kệ. Hắn lại đánh số lên hai món đồ mới bổ sung, vậy là sắp đạt đến con số sáu mươi rồi. Nhiều năm trước hắn khao khát đến con số một trăm, và đã hùng hục bắt đầu bởi lẽ ngày đó đất nước của hắn cần rất nhiều người trên dưới phải chết. Trong những năm cuối cùng của sự nghiệp nhịp độ giết chóc cứ giảm đáng kể; một chính quyền nhu nhược và bộ máy CIA yếu hơn đã gây ra điều đó. Vì thế hắn bắt đầu tập trung vào chất lượng thay vì số lượng.

Bất cứ một con người tỉnh táo nào được kể về lịch sử những vật này có thể đánh giá Seagraves là kẻ tâm thần man rợ chuyên sưu tầm vật dụng cá nhân của những người hắn giết. Hắn biết rằng họ nghĩ sai rồi.Thật ra đó chính là cách tôn trọng một con người mà người ta đã tước đoạt món đồ quý giá nhất của họ - cuộc sống. Nếu có ai giết được hắn, hắn tin tưởng rằng người đó là một kẻ thù xứng đáng cho hắn cái vinh dự y như thế. Hắn khóa bộ sưu tập cẩn thận và lên tầng trệt để vạch kế hoạch cho bước đi kế tiếp. Hắn cần phải lấy một thứ, và khi DeHaven chết và đã được chôn thì giờ là lúc lấy lại thứ đó.

*

Annabelle Conroy ngồi trong chiếc xe thuê ở góc đường Good Fellow. Đã nhiều năm rồi kể từ những ngày cô ở đây thế nhưng cảnh vật chẳng thay đổi mấy. Vẫn có thể ngửi thấy mùi rêu mốc của mùi tiền cũ dù chúng đã quyện vào mùi hương quyến rũ của đồ tiền tệ mới. Annabelle, tất nhiên là, không có cả tiền mới lẫn tiền cũ, một sự thật mà Elizerbeth - mẹ của Jonathan DeHaven - đã vồ lấy để viện cớ. Không có tiền và không được nuôi nấng đàng hoàng là điều mà có lẽ bà lải nhải với con trai mình cho đến khi câu nói đó ăn sâu và ảnh hưởng vào bộ não, cuối cùng bộ não ấy cho phép mẹ ông đẩy ông đến quyết định bỏ cô ta. Annabelle không phản kháng quyết định của ông bởi có nghĩa lý gì cơ chứ?

Annabelle vẫn không thể nào có những ý nghĩ bất mãn với người chồng cũ của mình. Ông ta là một đứa trẻ trong thân xác một người đàn ông, uyên bác, tử tế, rộng rãi và dạt dào tình cảm. Nhưng ông ta lại thiếu nghị lực và sức mạnh, chỉ biết trốn chạy chứ không dám đối đầu những kẻ ăn hiếp mình giống như một đứa trẻ biết nói sành sỏi và đeo kính. Ông ấy không có gì hợp với người mẹ miệng lưỡi độc ác quyền hạn tuyệt đối của mình, nhưng có mấy đứa con trai đây? Sau khi cuộc hôn nhân tan vỡ, ông ấy đã viết cho Annabelle những lá thư đầy yêu thương và cảm động, gửi cho cô ả hàng đống quà, nói với cô rằng ông luôn luôn nghĩ về cô ả. Và cô ả chưa bao giờ nghi ngờ sự thật ấy cả. Dối trá không phải là đức tính của ông; đó quả là khái niệm khá lạ lẫm với cô ả. Sự trái ngược giữa hai tính cách lại cuốn hút nhau đến kỳ lạ.

Mà ông chưa từng một lần năn nỉ cô ả quay trở lại với mình. So với những người đàn ông cô ả từng quen biết trong cuộc đời mình thì tất cả bọn họ đều thích ở cái mặt trái của cái tốt, còn ông thì như luồng ánh sáng tinh khiết vô hại. Ông nắm lấy bàn tay cô ả và nhanh chóng mở các cánh cửa cho ‘quý cô nương’. Ông nói cho cô ả nghe về những vấn đề quan trọng trong thế giới của người bình thường, một nơi quá xa lạ với cô ả như thể một vì sao xa thật xa. Nhưng Jonathan đã làm cho nó bớt xa lạ trong những tháng ngày ngắn ngủi họ ở bên nhau.

Annabelle phải thừa nhận rằng mình đã thay đổi khi ở bên cạnh ông. Jonathan DeHaven, dù ông luôn nép mình vững chãi bên vệ đường bảo thủ của cuộc sống, đã tiến về phía cô ta từng chút từng chút một, có lẽ là tận hưởng cuộc sống theo cái cách trước đây ông chưa bao giờ có thể tưởng tượng được. Ông là người đàn ông tốt. Và cô ta rất lấy làm tiếc khi người đàn ông ấy mất đi.

Cô ả giận dữ lau giọt nước mắt dễ dàng chảy dài xuống gò má. Cái cảm xúc như thế này rất bất thường và cô ả không muốn chào đón. Cô ả không còn có thể khóc được nữa vì chẳng có ai đủ gần gũi để chảy nước mắt xót thương khi người ấy chết. Ngay cả với cái chết của mẹ cô ả. Đúng là cô ả báo thù cho Tammy Conroy, nhưng bản thân cô ả cũng tự kiếm tiền cho chính mình trong phi vụ đó. Có lẽ nào cô ả chỉ trả thù mà không kiếm tiền hay chỉ gạt tiền chứ không cần trả thù không? Annabelle không thể nói chắc chắn được. Chuyện rạch ròi ấy có quan trọng không? Cô ả có gần mười bảy triệu lý do nằm trong một tài khoản ngân hàng nước ngoài nói rằng chuyện ấy không quan trọng đấy.

Cô ả quan sát chiếc Nova màu xám rầm rầm chạy đến khúc cua trước nhà DeHaven. Bốn người đàn ông bước xuống - bốn tay kỳ quặc ở nghĩa trang nói rằng cái chết của Jonathan chưa có kết luận chính thức. Cô ả đã nói lời từ biệt với Jonathan ở nơi này và giờ sẽ bước vào nhà lần đầu tiên mà không có đôi mắt bực mình của bà lão DeHaven dõi theo mỗi cái đánh mông của cô con dâu nữa. Và rồi cô ả sẽ nhảy lên máy bay biến khỏi đây. Annabelle không muốn ở cùng một châu lục với Jerry Bagger khi hắn phát hiện bốn mươi triệu đôla phun trào trên phạm vi rộng hơn cái núi lửa giả của gã.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 20:08:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 30

Cả nhóm cùng ở trong kho sách sau khi Annabelle được giới thiệu ngắn gọn tầng trệt của ăn nhà.

Caleb không mở két sắt phía sau bức tranh. Ông không có ý định để ai đó thấy quyểnThánh ca. Sau khi tham quan bộ sách, họ lên tầng, nơi Annabelle bước qua những căn phòng trang nhã với niềm thích thú nhiều hơn cái cô ta tỏ ra ngoài mặt.

“Vậy là cô từng ở đây rồi?”, Stone hỏi.

Cô ta nhìn ông thẳng thừng, “Tôi không nhớ rằng tôi đã nói mình đã ở đây hay chưa”.

“À, cô biết Jonathan sống ở đường Good Fellow nên tôi mới đoán thế”.

“Con người không nên nhận định nhiều quá, họ sẽ khấm khá hơn”. Cô ta tiếp tục nhìn ngắm xung quanh. “Căn nhà không thay đổi gì nhiều”, cô ta nói, không trả lời trực tiếp câu hỏi. “Ít ra ông ta đã loại bỏ được vài vật bài trí xấu xí đi. Có lẽ sau cái chết của mẹ ông ấy. Tôi không nghĩ là ông ấy có thể quăng đi bất cứ cái gì cho đến khiElizabeth DeHaventrút hơi thở cuối cùng”???.

“Cô và Jonathan gặp nhau ở đâu?”, Caleb hỏi.

Cô ta lờ câu hỏi này. “Ông ta có thể đã đề cập đến tên của cô, nhưng tôi không biết là tên gì”, ông vẫn kiên trì chất vấn và nhận được một cái nhìn cảnh báo từ Stone.

“Susan Farmer. Chúng tôi gặp nhau ở miền tây”.

“Hai người làmkết hônở đó luôn à?”, Stone nhảy vào.

Ông rất ấn tượng với cô ta bởi vì cô ta không hề nao núng trước câu hỏi này, nhưng cô ta cũng không trả lời ông.

Stone quyết định chơi bài ngửa. Ông lôi bức ảnh trong túi áo ra, “Chúng tôi được biết là cuộc hôn nhân của Jonathan bị hủy bỏ. Vì cô không thích người khác giả định về mình, nên tôi suy ra từ cách cô đề cập đến bà Elizabeth DeHaven rằng bà lão là chủ mưu của hành động này. Ông ta vẫn giữ bức ảnh này. Người phụ nữ trong ảnh rất giống cô. Theo kinh nghiệm của tôi thì đàn ông không giữ ảnh phụ nữ mà không có lý do nào đó. Tôi nghĩ trường hợp của cô rất đặc biệt”.

Ông đưa cô ta bức ảnh. Lần này cô ta có phản ứng chứ không lờ đi nữa, khi Annabelle cầm lấy bức ảnh, bàn tay cô ta - bàn tay cứng chắc như đá ngần ấy năm, hơi run rẩy, đôi mắt mở to hơn một chút và có vẻ ươn ướt. Cô ta nói bâng quơ, “Jonathan rất đẹp trai. Cao, tóc nâu dày và đôi mắt ấy làm người khác cảm thấy dễ chịu lạ kỳ”.

“Tôi có thể nói rằng giờ cô vẫn duyên dáng như ngày đó được không?”, Reuben nói với lòng hào hiệp và tiến đến gần cô hơn.

Annabelle có vẻ như không nghe thấy Reuben nói gì. Cô ta làm điều mình đã không làm từ lâu lắm rồi - mỉm cười chân thật, “Bức ảnh này chụp vào ngày cưới. Đó là cuộc hôn nhân đầu tiên và cũng là cuối cùng của tôi”.

“Hai người kết hôn ở đâu?”, Caleb hỏi.

“Vegas, còn ở đâu được nữa?” cô ta nói mà mắt không rời khỏi bức ảnh. “Jonathan đến tham dự hội nghị sách. Chúng tôi gặp nhau, quen rồi kết hôn. Mọi thứ chỉ diễn ra trong vòng một tuần. Khá là điên rồ, tôi biết lắm chứ. Ít nhất thì đó cũng là ý nghĩ của mẹ ông ấy”. Cô ta di ngón tay vào nụ cười lạnh lẽo của Jonathan, “Nhưng chúng tôi hạnh phúc. Trong thời gian ngắn ngủi. Chúng tôi ở đây với ba mẹ ông ấy sau khi cưới cho đến khi tìm được nơi ở mới”.

“À, căn nhà này khá rộng mà”, Caleb nói.

“Buồn cười là lúc đó nó lại có vẻ quá nhỏ hẹp”, cô nói giọng khàn đặc.

“Cô cũng đến Vegas dự hội nghị sách à?”, Stone hỏi một cách lịch sự.

Cô ta trả bức hình lại cho Stone, ông cất vào túi áo khoác, “Ông có thật sự muốn biết câu trả lời không?”

“Được thôi. Cô có liên lạc với Jonathan trong khoảng thời gian ấy không?”

“Tại sao tôi phải nói cho ông biết rằng có hay không?”

“Nếu không có lý do gì để cô phải nói”, Reuben nhảy vào, trách móc Stone, “Thực sự thì câu hỏi ấy hơi riêng tư rồi đó”.

Stone hiển nhiên không lấy làm khó chịu với lời phê bình của ông bạn dại gái, “Chúng tôi đang làm mọi cách để biết chuyện gì xảy ra với DeHaven, nên chúng cần thu thập càng nhiều thông tin càng tốt”.

“Tim ngừng đập và ông ta chết. Thế thì có gì bất thường?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 20:10:49 | Chỉ xem của tác giả
Chương 30
(tiếp theo)

Milton giải thích, “Nhân viên giám định pháp y rõ ràng không thể xác định được nguyên nhân cái chết. Và Jonathan vừa mới đi kiểm tra tim toàn diện ở chỗ bác sĩ John Hopskin. Ông ta rõ ràng không thể nào bị đau tim được”.

“Vậy các anh nghĩ ai đã giết ông ấy? Ai có vấn đề với Jonathan được đây? Ông chỉ là người quản thư thôi mà”.

“Quản thư không thể có kẻ thù sao?”, Caleb phản đối. “Thật sự là tôi đã từng gặp những người đồng nghiệp dễ trở nên xấu bụng sau khi uống vài ly rượu”.

Cô ta nhìn ông ngờ vực, “Ừ, tôi đoán thế. Nhưng không ai giết người nào đó vì người đó quá hạn mà chưa trả sách cả”.

“Để tôi cho cô xem thứ này”, Stone nói. “Trên gác ấy”.

Khi họ đến nơi, Stone nói, “Cái kính viễn vọng đó chĩa thẳng xuống cửa sổ nhà hàng xóm”.

Reuben nói thêm, “Ừ, nó ngắm thẳng vào giường ngủ của người chủ…”

Stone cắt ngang, “Tôi sẽ giải thích, Reuben à, nếu anh không phiền”. Ông nhướng mày nhìn Annabelle.

Reuben nói, “Ồ, được thôi. Cứ tự nhiên đi, Oliv… ý tôi là Frank phải không? Hay Steve?”

“Cám ơn anh, Reuben!”, Stone nạt, “Như tôi đã nói cái kính viễn vọng chĩa thẳng vào nhà bên cạnh. Người chủ là giám đốc công ty Kỹ thuật Paradigm, một trong những nhà thầu vũ khí phòng thủ lớn nhất trong nước. Tên gã ấy là Cornelius Behan”.

“Gã thích được gọi là CB”, Caleb nói.

“Được rồi”, Annabelle nói chậm rãi.

Stone nhìn qua kính, quét tầm nhìn dọc theo chiều dài nhà của Behan nằm vắt ngang bãi cỏ của nhà DeHaven. “Tôi nghĩ thế”, ông ra hiệu cho Annabelle thế chỗ. Cô ta tập trung vào cái điểm mà ông đã nhìn qua kính.

“Là một văn phòng hay phòng nghiên cứu”, cô ta nói.

“Đúng rồi”.

“Ông nghĩ Jonathan đang theo dõi gã này chăng?”

“Có lẽ. Hoặc ông ta tình cờ thấy điều gì đó có thể dẫn đến cái chết của mình”.

“Vậy tên Cornelius Behan này giết Jonathan hả?”

“Chúng tôi không có chứng cứ. Nhưng những chuyện kỳ lạ cứ xảy ra”.

“Chuyện gì?”

Stone ngập ngừng. Ông không muốn kể cho cô ta nghe về việc mình bị bắt cóc. “Như thế này nhé, có quá nhiều câu hỏi đủ để ta phải tìm hiểu sâu hơn. Tôi nghĩ Jonathan đáng được quan tâm như thế”.

Annabelle xem xét gương mặt ông một lát rồi lại nhìn vào kính viễn vọng, “Nói tôi nghe về gã CB này đi”.

Stone phác họa chân dung của Behan và công ty của gã. Kế tiếp ông đề cập đến vụ ám sát Chủ tịch Hạ viện Bob Bradley.

Annabelle có vẻ hoài nghi, “Ông không nghĩ vụ đó có liên quan đến Jonathan đúng không? Tôi nghĩ bọn khủng bố đã nhận trách nhiệm rồi mà”.

Stone kể cho cô nàng nghe về hợp đồng quân sự mà Behan vừa mới trúng thầu ở thời Chủ tịch Hạ viện trước đó, “Người tiền nhiệm của Bradley đã bị kết án, vì thế ông ta chẳng còn nằm trong túi của Behan nữa. Rồi Bradley xuất hiện với phương châm ‘sạch’, mà Behan thì không muốn chuyện hối lộ bị điều tra. Vì thế Bradley phải chết”.

“Và ông nghĩ là Jonathan tình cờ biết được bí mật vụ việc, và họ phải giết ông ấy để bịt miệng chăng?”, cô ta vẫn giữ giọng điệu như mình không cảm thấy thuyết phục cho lắm.

“Cái chúng ta có là hai cái chết của hai viên chức chính phủ mà Cornelius Behan là mẫu số chung và là hàng xóm của một trong hai người chết”.

Caleb nói thêm, “Behan cũng có mặt ở buổi lễ tang hôm nay”.

Annabelle hỏi gắt, “Người nào?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 20:12:21 | Chỉ xem của tác giả
Chương 30
(tiếp theo)

“Gã nhỏ thó đầu đỏ”.

Annabelle kết thúc câu nói giùm ông, “Người nghĩ mình cao sang lắm và có cô vợ cao, tóc vàng kinh tởm chứ gì”.

Stone bị ấn tượng với óc quan sát của cô ta, “Cô nhìn nhận người khác nhanh quá”.

“Tôi chưa bao giờ xem đó là lợi thế. Vậy bước đi kế tiếp của chúng ta là gì?”

Stone giật mình, “Bước đi kế tiếp của chúng ta ư?”

“Vâng, một khi ông cho tôi thấy rõ ràng ông vẫn còn giữ lại vài thông tin khác, có thể chúng ta sẽ có sự tiến triển trong vụ này”.

“Cô Farmer”, Stone lên tiếng.

“Gọi tôi là Susan được rồi”.

“Tôi tưởng cô sẽ không ở đây được lâu cơ mà”.

“Kế hoạch thay đổi”.

“Tôi có thể hỏi tại sao không?”

“Ông có thể hỏi. Sáng mai chúng ta gặp nhau được không?”

“Tất nhiên rồi”, Reuben nói, “Nếu cô cần một chỗ qua đêm…”

“Tôi không cần”.

“Chúng ta gặp nhau ở nhà tôi nhé”, Stone đề nghị.

“Ở đâu vậy?”

“Ở nghĩa trang”, Milton sốt sắng.

Annabelle thậm chí không thèm nhướng chân mày.

Stone viết địa chỉ và hướng dẫn đường đi ra giấy. Khi cô ta đến lấy, cô ta ngã giúi giụi vào người ông, may là nắm được áo khoác của ông nên không té.

“Xin lỗi”, cô ta nói khi bàn tay mình chụp bức ảnh trong túi áo ông. Một giây sau cô ta lôi nó ra. Và chuyện gì đó chưa từng xảy ra với cô ta trước đây, nhưng giờ nó lại xảy ra. Bàn tay Stone đã nắm chặt cổ tay cô ta.

Ông hạ giọng để vừa đủ cô nghe, “Cô chỉ cần hỏi xin tấm hình thôi, không cần phải làm thế”. Ông thả tay ra, cô ta nhẹ nhàng đút bức ảnh vào túi áo mình, nhìn bộ dạng của Stone với vẻ mặt sửng sốt. Cô ta lấy lại bình tĩnh và chào mọi người, “Hẹn gặp lại ngày mai”.

Reuben nắm tay cô ta, nhẹ nhàng đặt nụ hôn kiểu Pháp của một quý ông lên nó, “Tôi muốn cô biết sự vinh dự của tôi khi được quen biết với cô,Susan”.

Cô ta cười mỉa, “Cám ơn anh,Reuben. Ồ, tôi có thể thấy phòng ngủ của Behan từ trên đây. Gã ta đang lên giường với một cô gái trẻ trung. Có lẽ anh muốn xem thử”.

Reuben quay lại liền, “Oliver, anh đã không nói cho tôi biết gì cả”.

Annabelle nhìn thấy Stone đang nổi cáu, “Không sao đâu,Oliver, thật ra Susan cũng đâu phải là tên thật của tôi. Sốc quá hả?”

Một phút sau họ nghe tiếng cửa trước mở ra rồi đóng lại. Reuben nhanh nhảu nhìn vào kính viễn vọng, nhưng rồi rên rỉ, “Khỉ thật, chắc hai người đó làm xong rồi”. Ông quay sang nhìn Oliver và nói một cách kính nể, “Chúa ơi, một người phụ nữ đấy”.

Vâng, Stone nghĩ, một người phụ nữ thật sự.

*

Annabelle bước vào xe, khởi động máy và lôi bức ảnh ra, tay xoa xoa cái cổ tay nơi Oliver đã nắm thật chặt ban nãy. Oliver thật sự đã bắt được cô ta móc túi ông. Từ nhỏ, cha mẹ cô ta đã huấn luyện cô ta đi lừa đảo móc túi du khách ở cái vùng Los Angeles này, và chưa bao giờ cô ta bị bắt tại trận cả. Ngày mai sẽ là ngày thú vị lắm đây.

Rồi cô ta hướng sự chú ý đến tấm hình, thật kỳ lạ làm sao khi một tấm hình nhỏ bé như vậy lại khơi gợi lên thật nhiều kỷ niệm. Chỉ có năm đó, là năm duy nhất trong cuộc đời cô ta được sống một cuộc đời gọi là bình thường. Có thể đối với người khác, những điều như vậy thật tẻ nhạt và nhàm chán, nhưng cô ta thì khác, cô ta xem những điều đó thật tuyệt vời. Cô ta gặp người mình yêu, với những lý do chẳng giấu diếm, không có kế hoạch sâu xa, chẳng phải là một mưu mô toan tính lọc lừa nào cả. Đơn giản là ông ta yêu cô ta mà thôi. Chuyện tình nhà học giả và cô nàng lừa đảo. Tất cả mọi người đều phản đối họ quen nhau, và cô ta thừa biết rằng, chỉ có kẻ khờ mới đi chống lại số đông kia mà thôi.

Vậy mà, nhà học giả lịch lãm ấy lại có thể chiếm lấy trái tim cô ta, trái tim đã chai sạn và đầy vết xướt. Khi họ vừa bắt đầu quen nhau, Jonathan, tên người đàn ông ấy, đã hỏi cô ta liệu rằng cô ta đã từng sưu tầm bất cứ thứ gì chưa. Annabelle trả lời “Không”, điều đó chắc chắn là không nói thật, cô ta tự nhủ. Có lẽ cô ta cũng đã từng sưu tầm cái gì đó, như những cơ hội thất bại chẳng hạn.

Cô ta liếc nhìn căn nhà to lớn cũ kỹ. Nếu mọi chuyện đi theo kế hoạch, ắt hẳn rằng cô ta và Jonathan đã cùng chung sống ở đó, với một lũ con. Biết đâu được, có thể lắm chứ. Nhưng dẫu sao thì cũng là một chuyện tốt khi kết cục không diễn ra như vậy, vì cô ta sẽ là bà mẹ tệ nhất trên đời.

Rồi cô ta nghĩ đến vấn đề hiện tại. Jerry Bagger sẽ xuất hiện trong hai ngày tới, cách tốt nhất là rời khỏi đất nước này, cho dù cô ta đã lên cuộc hẹn với đám đàn ông vào ngày mai. Annabelle quyết định trong tích tắc. Cô ta sẽ ở lại và giải quyết mọi chuyện. Cô ta đã mắc nợ Jonathan, và cả chính bản thân mình, bởi vì, thời điểm này là lúc tốt nhất để đặt dấu chấm hết cho bộ sưu tập những cơ hội thất bại của cô ta.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 20:50:03 | Chỉ xem của tác giả
Chương 31

Annabelle và Hội Camel tụ tập tại ngôi nhà của Stone vào lúc 7 giờ sáng hôm sau.

“Chỗ này có vẻ ấm cúng đấy nhỉ”, cô ta vừa nói vừa đảo mắt nhìn không gian nhỏ xung quanh. “Và ông có hàng xóm hơi kín tiếng đấy”, cô ta hất hàm về hướng những ngôi mộ ngoài cửa sổ.

“Có đôi khi tôi thích làm bạn với người chết hơn là người sống đấy”, Stone trả lời cộc lốc.

“Tôi hiểu mà”, Annabelle vui vẻ tán thành, rồi ngồi xuống ngay phía trước bệ lò sưởi trống trải. “Chúng ta bắt đầu thôi, các anh”.

Reuben ngồi sát bên cô ta, nhìn háo hức cứ như chú chó nhỏ đang đợi vài cái vuốt ve. Caleb, Milton và Stone ngồi đối diện.

“Đây là kế hoạch của tôi”, Stone mở lời, “Milton tìm cách điều tra thông tin về Bob Bradley càng nhiều càng tốt, có khi thông tin hữu dụng đấy. Tôi sẽ đến nhà Bradley, chính xác hơn là những gì còn lại của căn nhà đó, và xem có tìm thêm được manh mối gì không. Reuben từng có thời gian bám tại Lầu Năm Góc, cho nên ông sử dụng hết mấy mối liên hệ ở đó, xem có tìm hiểu được hợp đồng quân sự của Behan mà cha ông nhà Bradley có thể từng đạt được”.

Annabelle liếc mắt nhìn Reuben, “Lầu Năm Góc à?”

Ông ta cố tạo vẻ khiêm tốn, “Ba lần tham chiến ở Việt Nam. Nhận đủ huy chương danh dự để trang trí cây Noel đấy. Này, đấy chỉ là phục vụ đất nước thôi nhé!”

“Tôi nào có biết”, Annabelle trả lời, rồi quay sang Stone. “Thế còn cái chết của Jonathan? Làm sao chúng ta lại có ý nghĩ có kẻ đã giết ông ấy?”

“Tôi đặt ra giả thuyết về chuyện này, nhưng cũng đồng nghĩa với việc chúng ta phải quay trở lại Thư viện Quốc hội và kiểm tra hệ thống chữa cháy tại đó. Chỉ có một vấn đề là chúng ta chẳng biết hệ thống đó nằm ở đâu trong tòa nhà. Caleb chẳng tìm ra vì một lý do nào đó nó lại được bảo mật, có lẽ để tránh bị phá hoại, dù điều đó đã xảy ra. Tòa nhà lại rộng lớn đến nỗi có tìm từng phòng, chúng ta cũng chẳng có đủ thời gian. Ngoài ra, chúng ta cũng cần tìm ra cấu trúc của hệ thống thông gió tại căn phòng mà xác Jonathan được tìm thấy”.

Cô ta thắc mắc, “Hệ thống chữa cháy thì có liên quan gì đến chuyện này?”

“Đó chỉ là giả thuyết của tôi mà thôi”, Stone trả lời ngắn gọn.

“Vậy thì kiến trúc sư của tòa nhà chắc phải biết vị trí của hệ thống báo cháy và hệ thống thông gió chứ?”, Annabelle nhận định.

“Họ phải biết”, Stone tán thành, “Dù tòa nhà Jefferson này được xây dựng vào cuối những năm 1800, nhưng người ta tiến hành tu sửa toàn diện cách đây một năm mà thôi. Người kiến trúc sư của Tòa nhà Quốc hội có bản vẽ nhưng chúng ta chẳng có cách nào tiếp cận được cả”.

“Họ có thuê một công ty kiến trúc tư nhân nào đó để tiến hành việc sửa chữa không?”, cô hỏi.

Caleb búng tay cái tách, “À, có, một công ty nào đó ngay thủ đô. Giờ tôi mới nhớ, bởi vì chính phủ cố khuyến khích nền kinh tế địa phương cũng như củng cố mối quan hệ nhà nước - tư nhân nhiều hơn”.

“Vậy là tìm được đáp án”, Annabelle ủng hộ.

“Tôi thì không biết rõ lắm”, Stone lên tiếng. “Chúng ta cũng chẳng tìm ra cách nào để tiến đến gần mấy bản vẽ đó cả”.

Cô ta nhìn Caleb, “Anh có thể giúp tôi tìm ra tên công ty đó không?”

“Chắc được”.

“Vấn đề duy nhất là liệu họ có cho chúng ta chụp hình bản vẽ không đã. Điều đó sẽ khó, chưa kể việc coppy bản vẽ càng khó hơn”. Cô ta lẩm bẩm, trong khi Hội Camel nhìn cô ta với ánh mắt đầy hoài nghi. Cuối cùng, cô ta lên tiếng trấn an, “Tôi sẽ tìm cách lẻn vào công ty kiến trúc đó, nhưng chúng ta cần có bản coppy của bản vẽ nếu chúng ta muốn tìm ra vị trí phòng chữa cháy và hệ thống thông gió trong tòa nhà”.

Milton mở lời, “Tôi nghĩ mình có thể ghi nhớ được hình ảnh đấy. Nếu tôi nhìn bản kế hoạch một lần, chúng sẽ nằm trong đầu tôi thôi”.

Cô ta nhìn ông ta ngờ vực, “Tôi nghe nhiều người nói điều này rồi, nhưng thường sự thật chẳng như vậy”.

“Tôi có thể cam đoan với cô rằng, điều này hoàn toàn là sự thật với tôi”, Milton trả lời với vẻ không hài lòng.

Cô ta đến kệ sách, vươn tay lấy một quyển sách ra khỏi giá, và mở đến những trang giữa, rồi đưa cho Milton xem, “Này, anh xem đi nhé!”. Ông ta nhìn vào sách, gật đầu. Annabelle quay quyển sách về phía mình, rồi bảo, “Được rồi, ngàicoppy, xin mời ngài bắt đầu làm việc nào”.

Milton bắt đầu đọc sách theo trí nhớ của mình, đọc cả dấu chấm phẩy, mà không hề phạm một lỗi nhỏ nào.

Lần đầu tiên trong mối quen biết của mình, Annabelle nhìn có vẻ ngưỡng mộ. “Anh có đến Las Vegas bao giờ chưa?”, cô ta hỏi. Ông ta lắc đầu, “Vậy anh nên thử đi”.

“Bộ không phải đánh bài là phạm luật sao?”, Stone hỏi, nhanh chóng suy luận ra những gì cô đang ngấp nghé.

Cô ta trả lời, “Không, miễn là anh không dùng máy móc hay vi tính hỗ trợ”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 20:51:32 | Chỉ xem của tác giả
Chương 31
(tiếp theo)

“Tuyệt thật”, Milton thốt lên, “Vậy là tôi có cách kiếm tiền rồi”.

Annabelle cắt ngang, “Nhưng trước khi anh bắt đầu nuôi hy vọng, anh hãy nhớ rằng, nếu anh sử dụng trí óc của mình, điều đó không phạm luật, nhưng nếu họ bắt quả tang, anh sẽ bị đánh bầm dập đấy”.

“Vậy à, vậy thì thôi”, Milton tỏ vẻ hoảng hốt.

Cô ta quay sang Stone, “Thế ông nghĩ tại sao Jonathan bị sát hại vậy? Đừng trả lời kiểu nước đôi nữa nhé”.

Stone quan sát cô ta một lúc rồi quyết định nói, “Caleb phát hiện ra thi thể của Jonathan. Ông ta ngất xỉu ngay sau đó. Ở bệnh viện, y tá bảo ông ta khỏe hơn, còn nhiệt độ của ông ta ngày càng tăng, chứ không hề giảm”.

“Vậy ý của ông là sao?”

“Hệ thống chữa cháy tại Thư viện Quốc hội sử dụng một chất gọi là chất Halon 1301”, Caleb lên tiếng giải thích. “Nó ở dạng lỏng khi nằm trong ống, nhưng khi ra khỏi vòi nó trở thành khí. Nó dập tắt lửa bằng cách tiêu hủy khí ôxy trong môi trường”.

“Điều đó có nghĩa là Jonathan có thể chết ngạt à! Trời ơi, ý ông là cảnh sát đã bỏ qua chi tiết đó và chẳng quan tâm đến việc bình gas trống không ư?”, Annabell tức giận.

“Chẳng có bằng chứng nào cho thấy hệ thống chữa cháy có liên quan trong vụ này”, Stone tiếp tục nói. “Không có còi báo động, hệ thống vẫn trong tư thế sẵn sàng, cho dù có thể nó bị tạm ngưng rồi lại được kết nối ngay sau đó. Ngoài ra cũng chẳng có hơi gas gì cả”.

“Trên hết, chất Halon 1301 cũng chẳng thể giết nổi Jonathan, nhất là trong mức dùng để chữa lửa ở thư viện như vậy”, Caleb thêm vào. “Tôi đã kiểm tra. Đó cũng là lý do người ta dùng chất này ở nơi đông người”.

“Vậy thì chuyện này sẽ đi đến đâu?”, Annabelle thắc mắc. “Các anh đang nói chuyện có vẻ lập lờ. Nguyên nhân là do khí gas mà cũng không phải là khí gas. Vậy đó là gì?”

Stone tiếp tục phần thảo luận, “Một trong những yếu tố có liên quan là việc hạ nhiệt độ trong phòng. Caleb phát hiện thi thể của Jonathan, rồi cảm thấy ớn lạnh và ngất xỉu ngay tức thì. Tôi tin rằng khí gas đã làm anh ta trở nên như vậy, đó cũng là lý do cô y tá bảo nhiệt độ của anh ta tăng lên. Tôi cho rằng Caleb ngất xỉu vì mức ôxy trong kho sách rất thấp, nhưng không đủ thấp để hại anh ta, vì anh ta vào phòng sau Jonathan nửa tiếng”.

Annabelle nói tiếp, “Vậy rõ ràng không phải do cái chất Halon 1301 này. Vậy còn chất khác à?”

“Chính xác là thế. Chúng ta phải điều tra đó là chất gì”.

Annabelle đứng dậy. “Được rồi, tôi cần bắt tay nghiêm chỉnh vào các công việc chuẩn bị đây”.

Stone đứng lên, đối diện với cô ta, “Susan, trước khi cô thực sự bắt tay vào việc, cô cần biết rằng có vài tay nguy hiểm liên quan trong chuyện này. Cá nhân tôi cũng tìm ra chứng cứ chứng thực. Điều đó có thể rất mạo hiểm đấy”.

“Oliver, như thế này nhé, nếu có chuyện gì nguy hiểm hơn điều tôi đã từng thực hiện trong tuần trước, tôi sẽ không làm nữa”.

Stone có vẻ sửng sốt khi nghe tuyên bố trên, ông lùi ra sau.

Annabelle choàng vào tay Milton, “Milton ơi, đã đến lúc chúng ta đi với nhau rồi”.

Reuben có vẻ thất vọng, “Sao lại là Milton nhỉ?”

“Bởi vì anh ấy là cái máy coppy Xerox nhỏ nhắn của tôi”. Cô ả véo má của Milton làm ông ta đỏ mặt, “Nhưng trước tiên chúng ta cần tìm bộ trang phục thích hợp cho anh ấy, hợp phong cách”.

“Đồ này có vấn đề à?”, Milton thắc mắc, vừa nhìn xuống cái áo ấm màu đỏ và chiếc quần jeans, chúng vẫn rất sạch sẽ và phẳng phiu.

“Chẳng có vấn đề gì hết”, cô ta trả lời. “Nó chỉ không giống những gì tôi cần mà thôi”. Cô ta chỉ về phía Caleb, “Gọi cho Milton khi anh tìm ra tên của cái công ty đó”. Cô ta búng tay, “Đi thôi nào, Miltie”.

Cô ta sải bước ra ngoài. Milton với khuôn mặt vẫn còn ngơ ngác, nhìn những người còn lại và rên rỉ, “Miltie ư?”

“Milton!”. Tiếng Annabelle gọi từ bên ngoài, “Đi thôi!”

Milton bước vội ra khỏi cửa. Reuben lập tức bám lấy Stone, “Anh tính để ả dẫn anh ta đi à?”

“Vậy anh có đề nghị tôi làm gì không hả Reuben?”, Stone trả lời cộc lốc. “Người phụ nữ đó nhanh như lốc và dữ dội như động đất vậy”.

“Tôi không hiểu lắm, tôi nghĩ.. anh có thể... Ông ta ngồi phịch xuống ghế và than thở, “Khốn kiếp, sao tôi lại không có trí nhớ thiên tài nhỉ?”

“Ơn Chúa, anh không phải dạng đó”, Caleb thốt lên, giọng đầy vẻ kinh tởm.

“Sao anh lại nói thế?”, Reuben gay gắt.

“Bởi vì cô ả có thể gọi anh là Ruby, tôi mà nghe thế chỉ muốn buồn nôn mà thôi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 20:53:04 | Chỉ xem của tác giả
Chương 32

Sau đó, tại thư viện, Caleb gửi thư điện tử cho phòng văn thư. Một giờ sau, ông ta tìm ra tên của công ty kiến trúc tư nhân đã giúp phục hồi tòa nhà Jefferson. Ông ta gọi cho Milton thông báo về thông tin đó.

“Thế còn chuyện người phụ nữ ấy đến đâu rồi?”, ông thì thầm.

Milton cũng thì thầm lại, “Cô ả mua cho tôi một bộ cánh đen tuyền, cùng với chiếc cà vạt cực chói, cô ả còn bắt tôi làm đầu tóc lại nữa đấy, đúng là trò lố bịch hết cỡ”.

“Thế có bảo cho anh biết tại sao lại làm vậy không?”

“Vẫn chưa”. Ông ta im lặng rồi tiếp, “Này anh bạn Caleb, cô ả làm tôi sợ đấy. Cô ta quá ư là tự tin”. Milton thường không biết cách thể hiện, nhưng có lẽ đây là điều chân thật nhất mà anh ta từng nói.

“Ráng thôi, chú em, Miltie”, Caleb gác máy, kèm theo tiếng khúc khích.

Kế đến ông ta gọi cửa hàng Vincent Pearl, cho dù thừa biết là chỉ nghe tiếng máy điện thoại tự động, vì cửa hàng bán sách độc này tới tận chiều tối mới mở cửa. Số là ông ta chẳng muốn nói chuyện với ông chủ tiệm bởi vì ông ta vẫn chưa quyết định sẽ bán bộ sưu tập sách của Jonathan như thế nào cả, trên hết là ông ta chẳng biết nên tính quyểnThánh ca của Kinh Cựu ướckiểu gì. Bảo đảm sự xuất hiện của nó sẽ làm thị trường sách hiếm xôn xao, và hiển nhiên ông sẽ nằm giữa tâm điểm của sự hỗn loạn ấy, ý nghĩ này vừa khiến ông e ngại lại vừa phấn khích. Dẫu sao thì làm người hùng của ánh hào quang cũng hay, đặc biệt là người như ông, lúc nào cũng chỉ chui rúc vào xó thư viện tẻ nhạt.

Lý do duy nhất khiến ông ngần ngại là ý nghĩ lỡ như Jonathan đã bằng cách nào đó chiếm đoạt quyểnThánh Canày bất hợp pháp thì sao? Đó cũng là lý do ông ta giữ bí mật về nó, và chắc rằng Caleb chẳng đời nào muốn bêu xấu bạn mình.

Caleb thôi không nghĩ ngợi nữa, ông tiến lại chỗ bà Jewell English, cũng giống như ông cụ Norman Janklow, người yêu thích các tác phẩm của Hemingway, họ là độc giả thường xuyên và trung thành trong suốt mấy năm qua.

Khi thấy ông đến, Jewell gỡ mắt kính và cất những mẫu giấy với dòng chữ nắn nót vào trong một bìa hồ sơ. Bà ta ra hiệu cho anh ngồi cạnh, rồi nắm cánh tay ông, hào hứng, “Anh Caleb à, tôi đã tìm ra được một quyển khá hay của nhà in Beadles, quyểnMaleska- người vợ Ấn Độ của thợ săn da trắng. Quyển đó cực hay anh ạ”.

“Tôi nghĩ ở đây có một bản đấy”. Ông suy tư, “Nhưng bà phải chắc là quyển đó mới toanh đấy nhé. Sách của Beadles xuất bản không được chuyên nghiệp lắm”.

Jewell vỗ tay, “Vậy ư, nhưng anh Caleb này, vẫn hay đó chứ? Quyển đó hay số một đấy”.

“Ừ, rất hay. Tôi có thể lấy cho bà nếu bà cần”.

“Anh thật là đáng mến. Tôi phải mời anh lúc nào đó uống nước, và cùng trò chuyện. Chúng ta có nhiều điểm giống nhau lắm”. Bà ta vỗ vỗ tay ông và nhướng đôi lông mày được vẽ chì cẩn thận, tỏ ý sâu xa.

Cẩn thận, Caleb vội lên tiếng, “Cũng được đấy. Chắc là lúc nào đó, rảnh rỗi, trong tương lai, có lẽ vậy”. Ông cố không quay vội lại bàn làm việc. Dù bị một bà già gần bảy mươi bỡn cợt, ông cũng chẳng tỏ vẻ gì là bị xúc phạm cả, thay vì thế, ông trở lại bản tính vui vẻ của mình lúc đầu và quan sát căn phòng. Mọi thứ yên ắng, với những người say mê đọc sách như Jewell và Norman Jankflow cặm cụi bên giá sách cũ, và thế giới trong hoàn cảnh đó cũng trở nên lành mạnh và tích cực hơn thực tại. Caleb thích ảo tưởng đó, cho dù chỉ là vài giờ trong ngày,thôi thì trở lại một chút bình yên với chỉ giấy bút và nghiên mực.

Hai mươi phút sau, trong khi ông đang ngồi cắm cúi tại bàn làm việc thì cửa phòng đọc sách bật mở. Ông ngẩng đầu lên, lặng người vài giây. Cornelius Behan đang rảo bước đến bàn tra cứu thì thấy Caleb. Gã nói gì đó với người phụ nữ ở bàn trong góc, cô ta chỉ về hướng Caleb. Ông đứng dậy khi thấy gã bước tới, ông chìa tay ra. Gã không mang theo mấy tên vệ sỹ. Có lẽ nhân viên bảo vệ không cho mang súng ống vào đây.

“Ngài Behan phải không ạ?”, Ông cất lời. Và rồi ông mường tượng ra cảnh Behan không mặc quần lót. Ông bật cười khẽ. “Xin lỗi”, ông chống chế, “tôi bị sặc”.

“Gọi tôi là CB được rồi”. Họ bắt tay nhau. Behan nhìn quanh phòng, “Tôi không biết có nơi như vậy đấy. Anh phải đẩy mạnh quảng cáo thêm chứ”.

“Chúng ta hoàn toàn có thể nâng cao nhận thức quần chúng”, Caleb tán đồng. “Nhưng với nguồn kinh phí hạn hẹp, thật khó tìm ra chi phí”.

“Tin tôi đi, tôi biết tất tần tật về sự thâm hụt tiền bạc của chính phủ đấy”.

“Ngài lúc nào mà không làm việc tốt với Washington”, Caleb buông lời nhận xét, và chợt thấy mình nói hớ khi thấy Behan nhìn ông ta với ánh mắt nghi ngờ.

“Đám tang cũng được tổ chức khá chu đáo đấy”, Behan đột ngột thay đổi đề tài. “Rất chu đáo”.

“Đúng vậy. Tôi đi gặp gỡ vài người bạn ở Hill, nhân tiện ghé ngang. Tôi là hàng xóm của Jonathan lâu vậy chứ đâu biết ông ấy làm việc ở đâu”.

“Trễ vẫn còn hơn không”.

“Chắc Jonathan thích công việc của ông ta ở đây lắm nhỉ?”

“Chắc rồi. Lúc nào cũng là người đi làm sớm nhất cả”.

“Có nhiều bạn, và ai mà chẳng thích ông ấy”, vừa nói, hắn vừa nhìn Caleb dò hỏi.

“Tôi nghĩ Jonathan quan hệ tốt với tất cả mọi người ở đây”.

“Tôi thấy anh cùng một phụ nữ đến nhà của Jonathan tối qua phải không?”

Caleb ứng phó tức thời với sự thay đổi đề tài đột ngột lần này, “Anh phải sang nhà nếu thấy chúng tôi chứ”.

“Lúc đó tôi không rảnh lắm”.

Chắc thế rồi,Caleb nghĩ bụng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách