Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Bộ Sưu Tập Tội Ác | David Baldacci (Hoàn) + Ebook

[Lấy địa chỉ]
71#
 Tác giả| Đăng lúc 9-10-2013 20:54:19 | Chỉ xem của tác giả
Chương 32
(tiếp theo)

“Nhưng vài người cận vệ của tôi có trông thấy anh, và họ cũng quan sát khá lâu. Còn cô gái?”

“Cô ấy là chuyên gia về lĩnh vực sách quý hiếm đấy. Tôi nhờ cô ấy đến để xem qua bộ sưu tập của Jonathan để tiến hành một buổi tuyên dương sau này”, Caleb cảm thấy tự thán phục vì dễ dàng nghĩ ra lời nói dối trong tình huống này.

“Vậy còn nhà của Jonathan thế nào?”

“Tôi nghĩ chắc sẽ được rao bán. Tôi cũng không rõ lắm”.

“Chắc tôi sẽ mua căn nhà đó và sửa sang lại thành nhà khách”.

“Căn nhà của cũng ông đã rất to rồi mà”, Caleb buột miệng.

May thay, Behan chỉ cười lớn, “Ồ, đồng ý vậy, nhưng chúng tôi lúc nào cũng đông khách cả. Có khi anh cũng mường tượng ra họ sẽ làm gì với căn nhà đó rồi chứ, vì chắc hẳn anh đã xem qua toàn bộ căn nhà”. Gã buông lời.

“Không đâu, tôi chỉ quanh quẩn xung quanh mấy giá sách mà thôi”.

Behan chăm chú nhìn Caleb một lúc, “Vậy thì tôi sẽ gọi đám luật sư, rồi tạo công ăn việc làm cho họ”. Rồi do dự trong giây lát, gã tiếp, “Nhân tiện tôi còn ở đây, anh dẫn tôi đi dạo một vòng nhé! Tôi biết anh cũng có một kho sách quý hiếm ở đây phải không?”

“Đó gọi là phòng đọc Sách Quý Hiếm”, Caleb nảy ra một ý bất chợt. Cho dù điều đó trái ngược với nội quy của thư viện, nhưng mặc kệ, có khi điều đó lại là manh mối quan trọng khám phá ra người đã giết Jonathan. Ông hỏi, “Ông đi tham quan với tôi chứ?”

“Được thôi”, gã hấp tấp trả lời.

Caleb hướng dẫn hắn đi thăm phòng đọc, và dừng lại gần nơi Jonathan DeHaven đã bị sát hại. Không biết là do Caleb tưởng tượng hay không, mà có vẻ Behan nhìn hơi lâu vào cái vòi ống chữa cháy thò ra ngoài tường. Nghi ngờ của ông càng tăng khi Behan chỉ về hướng đó.

“Cái gì vậy?”

Caleb giải thích về hệ thống. “Thực ra chúng tôi dự định sẽ thay khí gas mới thân thiện với môi trường hơn”.

Sau khi Behan đi rồi, Caleb gọi Stone, kể cho ông ấy nghe về cuộc gặp mặt.

Stone nhận xét, “Cách hắn dò hỏi về kẻ thù của Jonathan này nọ rất đáng để quan tâm, trừ phi hắn muốn gán ghép hành động giết người cho kẻ khác. Ngoài ra, chuyện hắn hỏi anh đã xem xét ngôi nhà thế nào càng chứng tỏ thêm điều đó. Tôi tự hỏi liệu hắn có biết về thói tò mò tọc mạch của anh chàng hàng xóm hay không?”

Sau khi gác máy, Caleb cầm quyển sách lấy từ giá sách của người quá cố DeHaven và đi một quãng đường vòng vèo xuyên qua những đường hầm của tòa nhà Madison đến khu Bảo quản sách. Nơi này được chia làm 2 phòng lớn, một dành cho sách, phòng còn lại dành cho vô số những thứ khác. Nơi đây, luôn có gần một trăm chuyên viên bảo quản dốc sức làm việc để phục hồi sách quý hiếm, và những thứ không hẳn là quý hiếm trở về tình trạng tốt nhất của chúng. Caleb bước vào phòng sách, tiến thẳng lại chiếc bàn nơi có một người đàn ông gầy gò, đeo một chiếc tạp dề xanh, cẩn thận giở từng trang sách của một ấn phẩm gần như xuất hiện đầu tiên tại Đức. Xung quanh ông ta là cả tá dụng cụ đủ loại, từ máy hàn, bàn xẻng đến những dụng cụ vặn ốc vít thủ công hay dao rọc giấy.

“Chào ông Monty”, Caleb cất tiếng.

Ông Monty Chambers ngẩng lên, nhìn Caleb sau cặp mắt kiếng đen dầy cộp và đưa bàn tay đeo găng vuốt mái đầu hói bóng lưỡng. Ông có cái cằm nhỏ, cạo râu nhẵn nhụi, gần như không chút gì ấn tượng trên khuôn mặt. Ông ta chẳng nói gì cả, chỉ gật đầu chào Caleb. Bước vào tuổi sáu mươi, Monty được xem là một trong những chuyên gia bảo quản sách kỳ cựu của thư viện. Lúc nào ông cũng được tin tưởng giao cho những công việc khó khăn nhất, và ông chẳng phụ niềm tin đó. Người ta còn đồn rằng ông có tài hóa phép cho những quyển sách gần như bị phá hủy toàn bộ trở nên có giá trị hơn. Ông được tặng thưởng vì đôi bàn tay khéo léo và tỉ mỉ, tính cần cù và sáng tạo trong công việc phục hồi lại những quyển sách cũ cũng như kiến thức uyên bác về kỹ thuật bảo quản và trùng tu sách.

“Có việc làm thêm cho ông đây, Monty ạ, khi nào ông rảnh nhé”, Caleb giơ cao quyển sách, “Âm thanh và Cơn thịnh nộbị nước làm hỏng mấy mảnh bìa. Quyển này của Jonathan DeHaven. Tôi đang đảm nhận việc bán bộ sưu tập sách của ông ta”.

Monty xem xét cuốn tiểu thuyết và cất giọng the thé, “Trong bao lâu đây?”

“Tôi có nhiều thời gian lắm. Chúng ta chỉ mới ở giai đoạn đầu thôi”.

Những chuyên viên đầy kinh nghiệm như Monty lúc nào cũng bận rộn với các công việc lớn nhỏ trong cùng một lúc. Họ ở lại trễ và có khi làm việc cả cuối tuần lúc họ không bị người khác làm phiền. Caleb còn biết Monty có một khu làm việc với đầy đủ dụng cụ tại nhà ở D.C, đây cũng là nơi ông ta có thể nhận thêm việc ngoài về làm.

“Trả lại tình trạng nguyên thủy được phải không?”

Chuẩn mực của ngành bảo quản yêu cầu rằng khi tiến hành phục hồi sách cũ, phải đảm bảo việc “trở lại tình trạng ban đầu”. Vào cuối thế kỷ mười chín, đầu thế kỉ hai mươi, những chuyên viên bảo quản sách chỉ quan tâm đến việc “phục hồi cho đẹp” mà thôi. Tiếc thay, điều này lại dẫn đến hậu quả là sách phục hồi gần như bị biến đổi, bìa ngoài nguyên thủy bị loại bỏ, trang sách được đóng gáy, bọc da sặc sỡ. Dĩ nhiên, sách sẽ đẹp hơn nhưng tính lịch sử gần như bị hủy hoại vì không thể đổi mới thành cũ.

“Vâng, đúng vậy”, Caleb trả lời. “Ông nhớ ghi lại những công việc cần làm. Chúng tôi sẽ đóng thành tài liệu kèm theo sách khi bán chúng”.

Monty gật đầu và quay trở lại với công việc lúc đầu.

Caleb quay trở lại phòng đọc. Khi trong đường hầm, ông bật cười khẽ. “Miltie”, ông thì thầm. “Còn mái tóc mới nữa chứ”. Đó là tiếng cười hiếm hoi ông có được trong một khoảng thời gian dài.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

72#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2013 19:03:47 | Chỉ xem của tác giả
Chương 33

“Tôi tên là Regina Collins”, Annabelle cất giọng vui vẻ giới thiệu, vừa đưa danh thiếp cho cô nàng tại quầy tiếp tân. “Tôi có gọi xin một cuộc hẹn với ông Keller trước đó rồi”. Cô ta và Milton đang đứng trước khu vực tiếp tân của công ty kiến trúc Keller và Mahoney. Công ty này tọa lạc tại khu phố cao tầng sầm uất gần Nhà Trắng. Cô nàng tha thướt trong bộ váy đen tuyền và làm nổi bật lên mái tóc nhuộm đỏ. Milton đứng phía sau, loay hoay hết chỉnh chỉnh sửa sửa cà-vạt màu cam lại vuốt vuốt chỏm tóc đuôi ngựa mà cô nàng Annabelle đã tự tay thiết kế.

Một phút sau đó, một người đàn ông cao lớn, trạc năm mươi, với mái tóc xám xuất hiện, tiến đến gần họ. Ông ta mặc một bộ áo kẻ sọc, tay áo xắn lên, và thắt dây lưng màu xanh. “Cô Collins phải không ạ?”, ông ta cất tiếng hỏi. Họ bắt tay nhau và cô đưa cho ông ta danh thiếp của mình.

“Rất hân hạnh được biết ông, ông Keller. Cảm ơn vì đã dành thời gian quý báu để gặp chúng tôi dù chúng tôi chỉ thông báo cho ông chưa được bao lâu. Cô trợ lý của tôi đáng lẽ phải gọi cho ông trước khi chúng tôi rời nước Pháp. Chỉ cần biết rằng, tôi có trợ lý mới rồi đây”. Rồi cô ta chỉ về phía Milton, “Cộng sự của tôi, anh Leslie Haynes”.

Milton vừa cúi chào vừa bắt tay người đàn ông dù ông ta chẳng có chút tự tin nào.

“Xin ông thứ lỗi vì chúng tôi vẫn còn chút mệt mỏi sau chặng đường dài”, Annabelle nhanh nhảu nói đỡ cho sự vụng về của anh ta. “Thường thì chúng tôi bay chuyến chiều, nhưng lần này hết chỗ, cho nên chúng tôi phải dậy sớm để kịp chuyến bay. Quả là mệt”.

“Không sao, tôi hiểu mà. Chúng ta cùng vào văn phòng tôi nào”, Keller vui vẻ trả lời.

Tại văn phòng của ông ta, mọi người cùng ngồi trò chuyện tại một bàn họp nhỏ.

“Tôi biết ông là người rất bận rộn nên tôi xin phép được đi thẳng vào vấn đề chính. Như những lời tôi trao đổi với ông qua điện thoại, tôi hiện là giám đốc điều hành của một tạp chí kiến trúc cho ngành thương mại Châu Âu”.

Keller liếc nhìn tấm danh thiếp của Annabelle, “La Balustrade. Cái tên hay nhỉ”.

“Cám ơn ông. Giới quảng cáo tốn nhiều thời gian cho nó, còn chúng tôi thì tốn nhiều tiền phát triển nó. Tôi nghĩ ông hiểu điều đó hơn ai hết”.

Keller cười lớn, “Vâng, đúng vậy. Ban đầu chúng tôi cũng xây dựng như vậy, nhưng cuối cùng lại quyết định là lấy tên mình đặt tên cho công ty”.

“Ước gì chúng tôi cũng có lựa chọn như vậy”.

“Nhưng cô không phải người Pháp phải không?”

“Câu chuyện bắt đầu từ khi tôi là cô nữ sinh trung học, người Mỹ, đến Paris trong một chương trình giao lưu. Tôi yêu Paris. Tôi nói được chút ít tiếng Pháp, đủ để gọi món, một chai rượu vang hảo hạng, và giải quyết một số tình huống cấp bách”. Rồi cô ta nói vài câu tiếng Pháp.

Keller bối rối, “Tôi e rằng mình không hiểu cô đang nói gì”.

Annabelle lấy quyển sổ từ chiếc cặp da mang theo, “Để cho buổi lễ khánh thành được diễn ra tốt đẹp, chúng tôi muốn viết một câu chuyện về việc trùng tu tòa nhà Jefferson do chính công ty ông cùng trụ sở Quốc hội hợp tác đảm nhiệm”.

Keller gật gù, “Quả là vinh hạnh cho chúng tôi”.

“Một công trình vĩ đại phải không, từ năm 1984 đến năm 1995?”

“Cô quả là nghiên cứu kỹ vấn đề này. Do chúng tôi đồng thời trùng tu lại tòa nhà Adam phía đối diện và lau chùi, bảo quản những bức tranh trên tường của tòa nhà Jefferson. Tôi theo đuổi công việc này đúng mười một năm đấy cô ạ!”

“Và mọi người đã hoàn thành xuất sắc công việc. Như những gì tôi được biết thì chỉ mỗi khu vực đọc sách thôi cũng tiêu tốn thời gian và công sức của công trình. Nào là những vấn đề về cấu trúc thiết kế, nâng đỡ cột chèo, tôi nghe nói mái vòm cũng là một thử thách lớn, khi vỉ kèo cần được tu sửa lại cũng khá nhiều?”. Đây là những thông tin mà Milton vừa tìm ra được trên mạng chỉ mới sáng nay, vậy mà cái cách cô ta miêu tả hàng trăm trang thông tin một cách ngắn gọn và sắc sảo làm cho ông ta thầm kinh ngạc.

“Dĩ nhiên chúng tôi phải gặp nhiều khó khăn, dù cô cũng biết đó là tòa nhà được xây dựng cách đây hàng trăm năm. Nhưng ở vào thời đó mà xây được tòa nhà như thế cũng là cả kỳ công đấy”.

“Tôi phải thừa nhận rằng việc mạ vàng lại ngọn đuốc học tập trên đỉnh tòa nhà với vàng lá 23.5 carat quả là một tác phẩm tuyệt đẹp”.

“Tôi không dám nhận lời khen đó, nhưng tôi cũng công nhận là nhìn ngọn đuốc ấy sáng rực trên lớp mái vòm màu đồng của tòa nhà”.

“Nhưng ông xứng đáng nhận lời khen ngợi vì đã sử dụng những công nghệ xây dựng tiên tiến nhất để giúp tòa nhà trở nên khang trang hơn”.

“Vâng, đúng vậy. Bây giờ thì chúng ta có thể yên tâm rằng tòa nhà sẽ vững chãi thêm vài trăm năm nữa. Hơn tám mươi triệu đôla đổ vào đấy, chắc chắn rằng công việc trùng tu phải có kết quả tốt chứ”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

73#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2013 19:05:18 | Chỉ xem của tác giả
Chương 33
(tiếp theo)

“Chúng tôi có được chụp hình bản thiết kế của công trình không ạ?”

“Tôi e là không, vì lý do an ninh, thưa cô”.

“Tôi hiểu điều đó, nhưng tôi vẫn muốn hỏi ý ông liệu chúng tôi có thể nhìn sơ qua? Khi chúng tôi viết báo, chúng tôi muốn chuyển tải câu chuyện thật đầy đủ về những công việc vĩ đại mà công ty của ông đã bắt tay đảm nhận. Và khi chúng tôi tận mắt xem qua những bản thiết kế ấy, cảm xúc sẽ càng mãnh liệt hơn. Tạp chí của chúng tôi sẽ có mặt tại tám quốc gia khác nhau, cho dù ông không muốn công ty của mình bị đưa lên quảng cáo quá nhiều, nhưng nếu có thì cũng không đến nỗi nào phải không ạ?”

Keller nở một nụ cười, “Có vẻ như bài báo này sẽ thuận lợi cho việc làm ăn của chúng tôi nhỉ. Chúng tôi cũng có dự định mở rộng kinh doanh ra nước ngoài đấy”.

“Vậy thì không còn gì tiện hơn nữa”, Annabelle nhanh chóng đáp lời.

“Vậy thì cô có ý định xem qua giai đoạn thi công cụ thể nào không?”

“Tôi muốn xem qua hết, nhưng có thể tập trung vào tầng hầm và tầng hai, tôi nghe nói hai chỗ đó khó khăn lắm”.

“Tất cả đều là thử thách, cô Collin ạ”.

“Xin gọi tôi là Regina. Và việc thiết kế lại hệ thống báo cháy nữa chứ?”

“Vâng, đúng là trọng trách khó khăn”.

“Tôi tin là bài báo của mình sẽ thật xuất sắc đấy”.

Keller quay số điện thoại và vài phút sau, họ chăm chú cùng nhau nhìn những bản thiết kế. Milton đứng ở vị trí thuận lợi nhất, vận dụng hết công suất của bộ não, cố gắng ghi nhớ từng chi tiết nhỏ trên bản vẽ. Keller nói chi tiết từng phần, còn Annabelle lại nhanh chóng chuyển hướng câu chuyện sang việc bình luận về phòng chữa cháy của tầng hầm, hệ thống báo cháy và mái vòm phòng đọc sách.

“Vậy là các thiết bị của hệ thống báo cháy được lắp đặt tập trung và nằm dưới bề mặt sàn?”, cô ta đặt câu hỏi, vừa chạy dọc ngón trỏ theo phần đang tìm hiểu.

“Chính xác. Chúng tôi thành công trong việc này nhờ vào hệ thống cấp khí mà chúng tôi có. Nhưng hiện tại họ đang chuẩn bị quy trình thay đổi chất chữa cháy”.

“Chất Halon 1301”, Milton chen vào, Annabelle nhìn ông ta và mỉm cười cám ơn. “Sát thủ của tầng Ozone. Chỗ chúng tôi cũng có tình trạng tương tự”.

“Đúng vậy”, Keller đồng ý.

“Và hệ thống ống chữa cháy này lại dẫn đến mái vòm quanh khu phòng đọc sách”, cô ta tiếp tục.

“Vâng, điều này quả là gay go vì không gian ở đó hơi hẹp. Nhưng chúng tôi đã cố gắng thiết kế một số hệ thống ống dẫn chính ngay trên các cột chống kệ sách”.

“Mà vẫn chịu lực tốt được phải không ạ. Quả thật là khéo léo”, Annabelle buột miệng khen.

Họ tiếp tục tham khảo bản thiết kế thêm nửa giờ đồng hồ cho đến lúc Annabelle cất tiếng thỏa mãn, “Này anh Lessie, anh có cần xem thêm gì nữa không?”

Ông ta lắc đầu, mỉm cười đầy ý nghĩa, chỉ tay vào trán đầy ngụ ý, “Tôi đã tham khảo xong hết rồi”.

Annabell bật cười, và Keller nhanh chóng cười theo.

Cô ta chụp hình Keller và công sự của ông ta, Mahoney để đính kèm theo bài báo, và hứa sẽ gửi cho họ một bản báo biếu khi xuất bản.Đừng nín thở các bạn nhé.

Khi họ chuẩn bị ra về thì Keller nói với theo, “Nếu mọi người còn câu hỏi nào, đừng ngần ngại gọi điện cho chúng tôi nhé”.

“Ông quả thật là đã giúp chúng tôi rất nhiều đấy ạ”, Annabelle trả lời thật lòng.

Khi họ leo lên chiếc Ford mà Annabelle đã thuê ở đâu đó, Milton thở phào, “Lạy Chúa, mọi việc cũng xong. Tôi đổ mồ hôi hột, run lẩy bẩy, tí nữa là không mở nổi cửa xe đấy”.

“Anh đã làm rất tốt, anh Milton ạ. Câu buột miệng về chất Halon hóa ra lại làm cho Keller thấy thoải mái trò chuyện hơn”.

“Vâng, câu chuyện có vẻ dễ thở hơn, dù có vài lần tôi chỉ muốn nôn mửa”.

“Quên chuyện đó đi. Chuyện nào cũng có giới hạn của nó, nhưng quả là anh cũng khá điêu luyện với cách xử lý tình huống đấy chứ”.

Milton rạng rỡ, “Cô thích câu đó à? Tự nhiên tôi buột miệng nói đấy”.

“Tôi tin là anh rất nghề”.

Ông nhìn cô ta, ngưỡng mộ, “Còn cô thì có vẻ rất quen với những chuyện như vậy nhỉ”.

Cô ta nhấn ga, “Chỉ may mắn thôi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

74#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2013 20:07:41 | Chỉ xem của tác giả
Chương 34

Trong lúc Annabelle và Milton gặp gỡ với đám kiến trúc sư, Stone lại thám thính nơi Bob Bradley từng ở. Ông đội chiếc mũ mềm, mặc áo khoác rộng, quần thụng, và dắt theo con Goff, chó lai của Caleb. Chú chó này là được đặt theo tên của vị giám đốc đầu tiên tại Khoa Sách Quý Hiếm. Đây là mánh khóe ông từng sử dụng hồi còn làm việc cho chính phủ vì chẳng ai lại nghi ngờ một người đang dẫn chó đi dạo cả. Dĩ nhiên, ông chẳng tài nào đoán ra liệu tên Roger Seagraves có dùng cách tương tự để trốn thoát sau khi giết Bradley không nữa.

Khi đến nơi, ông chỉ còn nhận ra phần còn lại của căn nhà là những cột nhà cháy đen, nằm nghiêng ngả, ống khói xạm đen. Hai căn nhà nằm bên cạnh nhà Bradley cũng bị hư hại nghiêm trọng. Stone nhìn xung quanh, khu vực này cũng không lấy gì làm khá giả lắm. Đâu phải cứ là đại biểu Quốc hội là lại phất lên như diều gặp gió, thường thì những người này phải ở hai nơi, một là quê nhà, hai là ở thủ phủ, và lúc nào giá nhà ở Washington cũng cực đắt. Vài đại biểu, đặc biệt là người mới nhậm chức, thường ở chung nhà, hay thậm chí ngủ lại trong văn phòng vì lý do trên. Vậy mà cựu chiến binh Bradley chỉ ở một mình.

Milton đã phần nào cung cấp một số thông tin chính về người đàn ông này, Stone cũng tìm hiểu thêm về ông ta thông qua đống báo chí tại chỗ trú ẩn của mình. Họ cùng nhau phác họa ra chân dung của Bradley, về Kansas, nơi ông ta được sinh ra và lớn lên, về cuộc đời chính trị đơn thuần của ông, với đặc điểm đáng chú ý nhất là phục vụ mười hai nhiệm kỳ trong Nhà Trắng và từng vươn lên đứng đầu cơ quan tình báo của Nhà Trắng gần mười năm trước khi giữ chức Chủ tịch Hạ viện. Stone nhận biết rằng ông ta có vẻ là người trung thực, và cuộc đời sự nghiệp của ông ta không vướng vào bất kỳ vụ xì-căng-đan nào cả. Có vẻ như mục đích làm trong sạch Quốc hội đã làm nảy sinh vài kẻ thù đầy thế lực và dẫn đến cái chết của ông ta. Có người sẽ cho rằng ám sát một người đứng vị trí thứ ba ứng cử chức vụ tổng thống quả là táo tợn và liều lĩnh. Stone biết rằng đó là điều không tưởng - vì nếu có thể giết tổng thống, thì thế giới chẳng còn gì là an toàn cả.

Án mạng của Bradley vẫn được công khai là trong giai đoạn điều tra, dù các phương tiện truyền thông báo chí sau thời gian liên tục đăng tải câu chuyện, cũng bắt đầu chìm vào im lặng. Có vẻ như cảnh sát đang dần kết luận rằng chẳng hề tồn tại nhóm khủng bố nào, và cái chết của Bradley còn có nhiều uẩn khúc hơn; chỉ là hành động quá khích của một nhóm người nào đó.

Ông dừng lại tại một gốc cây cho chú chó Goff “trút bầu tâm sự”. Stone có thể đánh hơi được bầu không khí điều tra dò xét đang bên cạnh mình. Dẫu sao thì ông cũng dày dặn kinh nghiệm gián điệp để nhận biết chiếc xe tải đậu phía cuối con đường chỉ là giả mạo, và hai người đàn ông ngồi trên xe có nhiệm vụ giám sát căn nhà của nạn nhân để tìm ra thêm manh mối nào đó. Một trong số căn nhà trong khu vực chắc chắn đã được FBI và nhóm điều tra trưng dụng cho việc theo dõi 24/24 trong suốt tuần. Chắc chắn ông cũng không lọt ra khỏi tầm ngắm của ống nhòm và các thiết bị theo dõi. Bất giác, ông kéo mũ xuống thêm một chút, làm ra vẻ gió mạnh vừa thổi qua.

Đang đảo mắt nhìn quanh, bất chợt ông phát hiện ra một thứ, ngay lập tức ông quay ngoắt lại và bước nhanh về hướng khác, kéo lê con Goff theo. Một chiếc xe tải nhỏ màu trắng với dòng chữ “Công trình công cộng D.C” vừa mới rẽ vào con đường, và đang tiến về phía ông. Ông chẳng có ý định là tìm hiểu xem liệu đó có phải là xe công, hay là trên xe lại đầy những kẻ chuyên gây đau đớn cho người khác.

Ông rẽ phải vào ngõ kế tiếp và cầu thầm trong bụng cho chiếc xe không đi theo. Dù khu vực dày đặc cớm FBI, nhưng điều đó cũng chẳng đảm bảo rằng ông sẽ an toàn. Đám FBI đó cũng có thể sẽ hùa đẩy ông vào chiếc xe tải đầy những kẻ thích tra tấn và rồi vẫy tay chào tạm biệt ông. Ông mải miết đi thêm hai dãy phố nữa trước khi giảm tốc độ, cho con Goff nhảy nhặng xị lên, ông từ từ liếc nhìn về phía sau lưng. Không còn thấy bóng dáng chiếc xe tải đâu cả, nhưng đó cũng có thể là chiêu lừa của chúng, vì trong lúc ông không để ý nhất, chúng sẽ lại xuất hiện từ phía khác. Vừa nghĩ đến đó, ông gọi di động ngay cho Reuben. Người anh em to lớn của ông vừa mới xong việc tại khu vực bốc dỡ.

“Tôi sẽ đến đó trong vòng năm phút nữa, Oliver”. Giọng Reuben vang lên qua điện thoại, “Có một trạm gác của cảnh sát cách chỗ anh đứng hai dãy phố, cứ thẳng tiến, nếu mấy tên chết tiệt đó có động tĩnh gì, anh cứ la làng lên như sắp sửa xảy ra một vụ đẫm máu vậy”.

Stone tiến bước, dẫu sao thì ngoài những lỗi lầm của mình, Reuben vẫn là người bạn chân thật và mạnh mẽ nhất mà ông đang cần phải có.

Đúng như lời hứa, Reuben đang lái chiếc xe tải chở hàng lao nhanh từ phía cuối đường, Stone và Goff nhảy phóc lên xe.

“Xe máy của anh đâu?”, Stone hỏi khi vừa yên vị trên xe.

“Mấy tên du côn cuỗm đi mất rồi. Tôi muốn giữ bí mật chuyện này”.

Khi họ ra khỏi khu vực nguy hiểm, Reuben giảm tốc độ rồi dừng hẳn.

“Nãy giờ tôi luôn nhìn vào kính chiếu hậu, Oliver ạ”, ông ta kể lại sự việc, “Nhưng tôi chẳng thấy động tĩnh gì cả”.

Stone vẫn cảnh giác, “Chắc chúng thấy tôi trên đường”.

“Anh hóa trang đánh lừa chúng được mà”.

Stone lắc đầu phản đối, “Những người như thế đâu dễ đánh lừa”.

“Vậy chúng chỉ nhử mồi thôi, đợi anh dẫn chúng đến mỏ vàng”.

“Vậy thì đợi hơi lâu rồi”.

“À, tôi định nói với anh rằng, một người bạn của tôi ở Lầu Năm Góc đã gọi lại. Anh ta cũng không biết nhiều về Behan và cái hợp đồng quân sự đó, nhưng anh ta có tiết lộ chút thông tin đáng quan tâm. Tôi cũng có nghe nói về việc thông tin mật bị ăn cắp và tiết lộ qua báo chí, nhưng sự thật còn tệ hơn nhiều. Từ câu chuyện của bạn tôi, tôi phát hiện ra thêm vài phần tử xấu mưu đồ bán nước cho kẻ thù chúng ta ở vùng Trung Đông và Châu Á”.

Stone nghịch nghịch sợi dây dắt con Goff rồi hỏi, “Reuben này, thế còn bạn của anh trong Đội Trọng án, hay FBI có liên lạc lại với anh không?”

“Điều đó mới lạ, chẳng ai thèm liên lạc lại. Tôi đang tự hỏi tại sao đây”.

Vậy mà tôi lại hiểu đấy,Stone nghĩ bụng,tôi cực kỳ hiểu rõ tại sao.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

75#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 07:23:24 | Chỉ xem của tác giả
Chương 35

Họ gặp nhau tại căn lều của Stone chiều hôm đó. Annabelle và Milton kể lại cuộc chạm trán với đám kiến trúc sư. Dựa vào trí nhớ siêu phàm của mình, Milton đã vẽ lại chi tiết bản phác thảo vị trí căn phòng chữa cháy và hệ thống thông gió.

Caleb nghiên cứu bản vẽ, thốt lên, “ Tôi biết chính xác nó ở vị trí nào rồi, chắc là phòng lưu trữ”.

“Có khóa không?”, Stone hỏi.

“Chắc có”.

“Tôi cá rằng chúng ta phải có chìa khóa ở đâu đó nhỉ”, Stone lẩm bẩm.

Caleb có vẻ cảnh giác, “Chìa khóa à? Ý anh là gì đây, anh bạn?”

“Tôi nghĩ có vẻ như anh ta đang lên kế hoạch đột nhập vào căn phòng đó”, Annabelle lên tiếng trả lời thay.

“Này Oliver, anh không nói đùa đấy chứ. Tôi mong là tôi nghe nhầm, việc anh đóng vai học giả người Đức vào khu đọc sách nghe còn có vẻ khả thi, chứ tôi không tán thành việc anh đột nhập vào Thư viện Quốc hội đâu nhé”.

Annabelle nhìn Stone với ánh mắt ngưỡng mộ.,“Anh đóng vai học giả người Đức à? Hay nhỉ”.

“Cô đừng khiêu khích anh ta nữa”, Caleb bắt đầu cáu gắt. “Oliver này, tôi là người làm công của liên bang đấy”.

“Có khi nào chúng tôi phủ nhận điều đó đâu?”, Reuben chen ngang.

Stone tiếp tục, “Caleb, nếu chúng ta không đột nhập vào phòng đó, thì việc liều mạng chiếm được cái bản vẽ chẳng có nghĩa lý gì cả”. Rồi chỉ vào bản vẽ, ông tiếp, “Anh thấy đó, hệ thống thông gió dẫn đến khu phòng đọc cũng nằm trong phòng chữa cháy. Vậy là một công đôi việc”.

Caleb lắc đầu, “Căn phòng đó nằm ở gần hành lang của tầng hầm chính, lúc nào cũng có người qua lại, chắc chắn chúng ta bị phát hiện liền”.

“Chúng ta cứ giả vờ là đang làm việc tại đó, chắc chẳng ai chú ý cả”.

Annabelle tán thành, “Anh ấy nói đúng đấy, Caleb ạ”.

“Tôi cũng đi nữa”, Reuben chen vào, “Tôi chẳng muốn bỏ lỡ trò vui nào nữa đâu”.

Milton phụ họa, “Thế còn chúng tôi thì sao?”

Caleb rên rỉ, “Sao lại đi cả đám thế này?”

Annabelle lên tiếng, “Chúng ta sẽ yểm trợ nhé Milton. Bất cứ kế hoạch nào cũng có thể có bất trắc xảy ra cả”.

Stone nhìn cô với ánh mắt ngạc nhiên, “Tốt thôi, vậy các bạn sẽ yểm trợ cho chúng tôi. Tối nay, chúng ta hành động thôi”.

“Tối nay à!”, Caleb thảng thốt, “Tôi cần cả tuần để thu hết can đảm đấy. Tôi vừa nhút nhát, lại chỉ là một tay thủ thư quèn ở thư viện, làm sao mà dám liều mạng thế”.

“Anh có thể làm được mà, Caleb”, Milton an ủi. “Hôm nay tôi cũng tưởng mình yếu ớt như thế, nhưng mà việc lừa gạt người khác cũng không đến nỗi quá khó. Tôi còn lừa được mấy tay kiến trúc sư, huống hồ gì là anh, chỗ đó là chỗ anh làm việc mà. Ai lại gây khó dễ với anh cơ chứ?”

“Tôi chẳng biết nữa, sao tôi lại để mình dây vào việc nguy hiểm này cơ chứ?”, Caleb rên rỉ, “Còn nữa, khi chúng ta đến nơi, có khi thư viện đã đóng cửa mất rồi”.

“Anh có thể giúp chúng tôi vào bằng thẻ làm việc của anh không?”

“Chẳng biết nữa, có thể được, có thể không”, ông ta yếu ớt trả lời.

“Caleb”, Stone cứng rắn. “Chúng ta cần phải hành động”.

Caleb thở dài, “Vâng, tôi biết, tôi hiểu”, rồi nói thêm, “Nhưng mà ít nhất cũng cho tôi cơ hội giả vờ chống đối chứ”.

Annabelle đặt tay lên vai ông ta, và mỉm cười, “Anh biết không Caleb. Anh giống một người bạn của tôi, tên anh ta là Leo. Lần nào trước khi làm gì anh ta cũng rên rỉ, than thở, nhưng cuối cùng lúc nào cũng thành công cả”.

“Tôi xem đó là lời khen vậy”.

Stone đằng hắng và mở một quyển tạp chí mang theo, “Tôi nghĩ ít ra tôi cũng tìm ra phần nào những gì chúng ta đang cần”.

Họ hướng sự chú ý sang ông. Trước khi nói, ông bật một bài nhạc cổ điển từ chiếc radio bỏ túi mang theo rồi giải thích, “Lỡ chúng ta đang bị nghe trộm”. Ông lại hắng giọng, rồi kể cho mọi người nghe về chuyến thám thính căn nhà bị hủy hoại của Bradley. “Họ giết ông ta rồi cho nổ tung nhà. Ban đầu tôi nghĩ đó là vì lý do lẩn trốn của bọn khủng bố, nhưng giờ thì tôi cho rằng có thể còn có lý do khác: biết đâu rằng, dưới danh nghĩa là một người đàn ông chân chính và trung thực, Bob Bradley lại là một tên đồi bại. Và vết tích đồi bại ấy đã tiêu tan đi cùng vụ nổ sau đó”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

76#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 07:24:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 35
(tiếp theo)

“Không thể có việc đó được”, Caleb chống chế. “Người tiền nhiệm ông ta đúng là thối tha, nhưng Bradley thì không. Họ tiến cử Bradley thế vào vị trí của hắn để cải tổ mọi thứ”.

Stone lắc đầu, “Với kinh nghiệm của tôi tại Washington, chẳng ai có thể leo lên cái ghế Chủ tịch Hạ viện của Nhà Trắng chỉ vì kế hoạch thanh trừ tệ nạn tham nhũng cả. Để được như vậy, người đó cần củng cố thế lực của mình cũng như tìm kiếm đồng minh ủng hộ trong nhiều năm. Rõ ràng là việc thăng tiến của Bradley khá bất thường, nếu lãnh đạo phe đa số tại Thượng viện không bị buộc tội chung với Chủ tịch Hạ viện tiền nhiệm thì có lẽ ông ta đã nhận công việc đó. Đảng luôn ủng hộ ông ta. Nhưng rồi các vị lãnh đạo trở nên đồi bại và ngài Bradley của chúng ta trở thành vị anh hùng có công thanh lọc bộ máy chính phủ. Nhưng tôi chẳng muốn đề cập quá nhiều đến chuyện tham nhũng đó nữa. Vai trò của Bradley với tư cách là Chủ tịch Hạ viện đã lấp đi những chức danh khá quan trọng khác mà ông ta đang đảm nhiệm: đó là người đứng đầu Ủy ban Tình báo. Với chức vụ này, Bradley gần như được báo cáo liên tục về những hoạt động bí mật của mọi tổ chức tình báo của Mỹ, bao gồm CIA, NSA và Lầu Năm Góc. Ông ta và đội ngũ của mình sẽ ắt hẳn có thể tiếp cận với những bí mật quốc gia và những tài liệu đáng giá với kẻ thù của chúng ta”. Stone lật thêm vài trang báo, rồi nói tiếp, “Trong vài năm gần đây, đã xảy ra rất nhiều hoạt động gián điệp chống lại các tổ chức tình báo của nước Mỹ, vài vụ trong số đó đã dẫn đến cái chết của những tay nằm vùng, bốn vụ mới nhất mà báo chí phanh phui và gọi là đồng minh của bộ ngoại giao. Còn theo những nguồn do Reuben cung cấp, có lẽ sự việc còn tệ hơn thế”.

“Vậy theo ý anh, Bradley là gián điệp à?”, Milton lên tiếng hỏi.

“Tôi đặt trường hợp là có thể”.

Caleb tiếp lời, “Nhưng nếu Bradley làm việc cho kẻ thù của người Mỹ, sao chúng lại giết hắn?”

Stone giải thích, “Có hai khả năng, một là hắn đòi thêm tiền, và bị thủ tiêu, hai là...”

Annabelle ngắt ngang, “Người của tađã giết hắn”.

Stone liếc xéo cô ta và nhẹ gật đầu, tán thành. Những người còn lại tỏ vẻ kinh ngạc.

Caleb thốt lên, “Người của ta? Ý là người trongchính phủcủa chúng ta!”

“Sao lại giết hắn? Sao không buộc tội hắn trước tòa?”, Mitlon cũng cất tiếng hỏi.

“Bởi vì nếu làm như thế, mọi thứ sẽ bị lộ”, Stone trả lời.

“Và cũng có thể vì CIA và Lầu Năm Góc chẳng muốn người khác biết chuyện họ thất bại”, Reuben thêm vào.

“Và CIA cũng chẳng có lòng nhân từ đâu”, Stone chua chát. “Ngay cả Chủ tịch Hạ viện Nhà Trắng cũng không thoát khỏi bị làm bia đỡ đạn”.

“Nhưng nếu chính phủ chúng ta đứng sau tất cả chuyện này, thì ai là người đã bắt cóc và tra tấn anh vậy, Oliver?”, Milton hỏi tiếp.

Lần này đến lượt Annabelle, “Ông bị tra tấn à?”

“Tôi đã bị một nhóm đầy kinh nghiệm thẩm vấn toàn diện”, Stone thừa nhận.

“Thẩm vấn toàn diện cái khỉ gì? Chúng cố dìm chết anh đấy”, Caleb tức tối, “Bằng cách dìm anh vào nước”.

Reuben giận dữ vỗ đùi cái đét rồi tiếp lời, “Dìm nước à. Lạy Chúa, đó chỉ là trò hề của rạp xiếc. Những gì chúng làm với anh bạn Oliver của chúng ta phải gọi là hình thức tra tấn “Ván và nước”1đấy chứ, có khi còn dã man hơn thế”.

“Để trả lời câu hỏi của anh, Mitlon ạ, tôi có thể khẳng định rằng tôi không biết những người bắt cóc tôi có liên quan gì ở đây. Chẳng có lý gì nếu như chính phủ đã ra tay giết hại Bradley lại quan tâm đến việc chúng ta tìm ra manh mối. Họ biết hết cả rồi”.

“Vẫn có lý do nếu như tổ chức giết hại Bradley làm việc đó vì động cơ riêng của nó, còn một tổ chức khác lại chơi trò rượt đuổi”, Annabelle đặt giả thuyết, “Ở đây có lẽ đang có sự mâu thuẫn giữa các tổ chức”.

Stone nhìn cô ta với ánh mắt đầy ngưỡng mộ, “Giả thuyết rất hay. Còn chuyện chúng ta tham gia vào trò chơi thế nào cũng còn chưa biết được”.

“Ông vẫn nghĩ rằng cái chết của Jonathan có liên quan đến chuyện này à?”, Annabelle hỏi.

“Mẫu số chung chúng ta tìm được đến giờ là Cornelius Behan”, Stone tiếp lời. “Sự xuất hiện của hắn tại thư viện, cách hắn quan tâm đến hệ thống báo cháy càng làm sự nghi ngờ của chúng ta có cơ sở. Hắn là đầu mối cho vụ của Jonathan. Và để tìm rõ ngọn nguồn chúng ta cần phải tìm hiểu cái chết của Jonathan”.

“Vậy là chúng ta vẫn phải đột nhập Thư viện Quốc hội”, Caleb quay lại rên rỉ.

Stone đặt tay lên vai ông bạn mình an ủi, “Nếu tôi nói điều này anh sẽ cảm thấy dễ chịu hơn, Caleb, đây không phải là tòa nhà chính phủ đầu tiên tôi đột nhập vào đâu”.

Chú thích

1. “Ván + nước” là hình thức tra tấn từng được sử dụng tại trại giam khét tiếng Tuol Sleng thời Khơmer Đỏ ở Campuchia.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

77#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 07:26:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 36

Caleb giúp Stone và Reuben qua khỏi cổng bảo vệ nhờ vào uy tín của mình và lời nói dối rằng đây là những khách viếng thăm khu triển lãm của thư viện sau giờ làm việc, dù giọng nói và điệu bộ của ông ta thật vụng về và gượng gạo.

Trong lúc họ đi thang máy xuống tầng hầm, Caleb cất tiếng phàn nàn, “Tôi có cảm giác mình vừa gây ra tội ác nghiêm trọng vậy”.

“Tội ác chỉ sắp diễn ra thôi, Caleb”, Stone hưởng ứng, tay giơ cao chùm chìa khóa, “Những gì anh đã làm trên ấy tính ra chẳng thấm thía vào đâu cả”. Caleb chỉ còn biết trân trân nhìn ông.

Họ tìm ra vị trí căn phòng, với những lớp cửa đôi to và dầy, Stone nhanh chóng tìm ra chìa khóa mở chúng. Chỉ thoáng chốc sau, họ đã ở trong một căn phòng rộng, và các thiết bị chữa cháy được đặt phía góc tường.

“Giờ thì tôi hiểu tại sao lại cần lớp cửa đôi rồi”, Stone thốt lên.

Những khối xilanh to lớn, mỗi cái có thể nặng cả tấn, sẽ không thể lọt qua khung cửa bình thường. Vài xilanh được nối với ống dẫn xuyên qua trần nhà. Trên các xilanh này là dòng chữ “Khí Halon 1301”. Stone đọc tên của công ty đã lắp đặt hệ thống “Công ty Cứu hỏa”. Tên công ty này cũng được in trên các trụ xilanh trong phòng. Sau đó ông bắt tay vào việc nghiên cứu hệ thống ống dẫn, “Có một cái công tắc dùng tay để điều chỉnh khí, và các ống dẫn phải chạy đến một số phòng khác nữa, ngoài phòng sách. Nhưng tôi không rõ ống nào mới là ống dẫn đến chỗ anh làm việc Caleb ạ”.

Reuben nhìn qua vai Stone, “Và anh cũng chẳng biết rõ liệu ống nào đã thoát khí ra đấy”.

Stone đến quan sát hệ thống điều hòa không khí, rồi rút bảng vẽ của Milton, chăm chú nhìn vào phần hệ thống điều hoà không khí chạy đến trần nhà.

“Oliver, sao anh có vẻ quan tâm đến hệ thống điều hòa không khí quá nhỉ?”, Reuben thắc mắc.

“Nếu có loại khí nào đó gây ra cái chết của Jonathan, thì tên sát nhân phải biết vị trí chính xác của ông ấy trước khi mở đường ống khí từ tận dưới tầng hầm này”.

Caleb tán thành, “Đúng rồi, sao tôi lại không nghĩ ra điều này nhỉ. Vì đâu có báo cháy thì khí gas sẽ không hoạt động, nên chắc chắn để khí thoát ra, chỉ có cách điều chỉnh bằng tay mà thôi. Nhưng phải có mặt trong phòng này thì mới làm được điều đó, tên sát nhân làm cách nào mà biết chính xác Jonathan sẽ đứng tại vị trí nhất định trong phòng sách nhỉ?”

“Tôi nghĩ hắn biết công việc thường nhật của Jonathan. Lúc nào, ông ấy cũng là người đầu tiên có mặt tại phòng sách, kiểm tra một số khu vực nhất định, cả nơi ông ta bị sát hại nữa”.

Reuben lắc đầu, “Cũng có lý, nhưng theo như Caleb kể lại thì anh ta tìm thấy xác của ông bạn DeHaven của chúng ta tại vị trí cách vòi khí khoảng sáu mét, khẳng định khí gas là nguyên nhân chính gây ra tử vong. Nhưng làm thế nào mà kẻ giết người lại biết sự việc rõ khi hắn ở dưới này nhỉ?”

Stone vẫn còn đang nhìn chăm chăm vào bản vẽ của Milton, thình lình ông chỉ tay vào hệ thống điều hòa không khí. “Cái ống này dẫn thẳng đến phòng sách, đi qua tất cả các đường ống của hệ thống”.

“Điều đó có nghĩa là gì?”

Stone nhìn xung quanh hệ thống điều hòa, rồi chợt dừng lại, ông chỉ tay vào một góc khuất tầm nhìn từ vị trí chính của căn phòng. Reuben và Caleb cùng bước đến.

“Sao lại có một hộp truy nhập nằm ngay trong hệ thống này nhỉ?”, Reuben tỏ vẻ không hiểu.

Stone mở hộp và nhìn vào trong, “Caleb này, anh có nhớ đến miệng ống gần nơi phát hiện ra xác của Jonathan không? Có phải là tấm lưới sắt bị bẻ cong?”

“Vâng, đúng vậy, anh còn chỉ tôi xem mà. Có liên quan gì đến chuyện này?”

“Nếu có ai đó đặt một camera có gắn cọng cáp dài bên trong hệ thống thông khí của phòng sách, bẻ cong tấm lưới sắt thì chắc rằng tầm nhìn của camera có thể quay lại rõ vị trí của Jonathan trong phòng sách sáng hôm đó. Còn người này chỉ cần ở dưới này, với thiết bị thu tín hiệu từ camera, tôi tin rằng, hắn hoàn toàn có thể nhìn thấy từng cử động nhỏ của Jonathan”.

“Mẹ kiếp”, Reuben cất tiếng chửi thề, “Chúng biết lợi dụng hệ thống này quá nhỉ”.

“Vì đó là cách duy nhất để nối dây cáp. Hệ thống vô tuyến không thể hoạt động qua cái đống bê tông và những vật cản khác”, Stone giải thích, “Tôi tin rằng khi chúng ta kiểm tra hệ thống điều hòa không khí trong phòng sách sau miếng lưới sắt bị bẻ cong, chúng ta có thể tìm ra được dấu tích nơi camera được gắn. Tên sát nhân ngồi đây đợi, rồi hắn nhìn thấy Jonathan, mở công tắc, trước đó là tắt hệ thống báo động, và mười giây sau, khí gas tràn ngập phòng và sát hại Jonathan”.

“Nhưng tên này sau khi sát hại Jonathan, chắc phải tháo camera ra chứ, vậy sao hắn không bẻ tấm lưới sắt lại cho đàng hoàng?”, Reuben hỏi tiếp.

“Hắn có làm, chỉ có điều, khi đã bẻ cong rồi, rất khó làm lại hình dáng ban đầu”, ông ngưng lời, nhìn sang Caleb, “Này anh sao vậy?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

78#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 07:28:18 | Chỉ xem của tác giả
Chương 36
(tiếp theo)

Mặt Caleb trắng bệch, “Nếu những gì anh nói là đúng, vậy thì kẻ nào đó, hiện đang làm việc tại thư viện chính là tên sát nhân. Chẳng ai được bước vào phòng sách một mình cả”.

“Tiếng gì vậy?”, Reuben rít lên.

Stone nhìn cánh cửa, cảnh giác, “Có người đang đến, nhanh lên, lại đây nào”.

Họ nép mình vào phía sau hệ thống điều hòa không khí, Reuben gần như phải đỡ ông bạn Caleb đang run lẩy bẩy vào chỗ nấp. Họ chỉ kịp vào chỗ an toàn thì cửa bật mở. Bốn người đàn ông bước vào, tất cả đều mặc đồ bảo hộ lao động màu xanh da trời. Một chiếc xe nâng do người đàn ông thứ năm lái cũng vừa trờ tới sau lưng. Người mới xuất hiện, cũng là ông chủ, lấy ra một bìa hồ sơ và những người còn lại đứng xung quanh.

“Rồi bây giờ chúng ta sẽ lấy trụ này, trụ này, và trụ đằng kia”, ông ta vừa nói vừa chỉ vào ba xilanh, gồm cả hai cái đang gắn với ống dẫn, “rồi thay chúng bằng những trụ đang nằm trên xe nâng nhé”.

Những người thợ cẩn thận tháo rời những trụ xilanh cồng kềnh khỏi ống dẫn. Stone và các cộng sự dõi theo từ chỗ nấp. Reuben nhìn Stone, tính cất tiếng hỏi, nhưng ông lắc đầu, ra hiệu im lặng. Còn Caleb vẫn không ngớt run rẩy, đến nỗi Stone phải nắm chặt một cánh tay, còn Reuben đỡ tay kia để giữ ông ta đứng thẳng.

Nửa tiếng sau đó, ba trụ xilanh đã được đặt yên vị trên xe nâng, trong lúc ba trụ mới được gắn vào hệ thống ống dẫn. Chiếc xe nâng rời khỏi phòng, và những người thợ nối đuôi theo sau. Khi cửa vừa đóng, Stone lập tức đến bên những trụ mới, và đọc nhãn ghi trên thân, “Chất khí FM-200. Caleb này, anh nói rằng thư viện đang thay đổi hệ thống khí chữa cháy à. Chắc là chất này đây”.

Caleb trả lời, “Chắc thế”.

“Vậy thì chúng ta sẽ đi theo họ”, Stone quả quyết.

Caleb lắp bắp, “Làm ơn đi, Oliver, không đi có được không?”

“Caleb, chúng ta phải đi”.

“Tôi... không... muốn chết!”

Stone lay ông ta thật mạnh, “Này, bình tĩnh nào anh bạn. Đi thôi!”

Caleb nhìn trân trối Stone rồi lại lắp bắp, “Tôi chẳng thích cái kiểu anh hành hung tôi như thế”.

Stone phớt lờ, “Chỗ đi lên ở đâu nhỉ?”

Caleb trả lời, rồi mọi người lục tục kéo ra ngoài. Lúc này, điện thoại của Stone reo, đó là Milton. Stone kể vắn tắt chuyện đã xảy ra rồi kết luận, “Chúng tôi theo dấu mấy cái trụ, sẽ liên tục báo tin cho anh”.

Milton tắt điện thoại, nhìn Annabelle. Họ đang ở trong khách sạn của cô ả, ông kể lại câu chuyện.

“Nghe có vẻ nguy hiểm đấy”, cô ả nhận xét. “Họ không biết họ sắp gặp chuyện gì cả”.

“Vậy chúng ta nên làm gì?”

“Yểm trợ họ, anh nhớ chứ?”

Cô ả chạy lại tủ, lôi ra một cái túi, lấy một hộp nhỏ ra khỏi túi.

Milton lập tức bối rối vì nó là hộp đựng băng vệ sinh. Nhận thấy điều này, Annabelle lên tiếng, “Đừng mắc cỡ, anh Milton ạ. Phụ nữ hay giấu những thứ họ không muốn người khác tìm ra trong hộp này đấy”. Cô mở hộp, lấy một món đồ rồi bỏ vào túi áo. “Họ nói tên công ty là “Chữa cháy” à. Tôi nghĩ họ đang đi đến kho hàng của công ty này đấy. Anh tìm ra chỗ được không?”

“Khách sạn này có mạng không dây, nên tôi tra trên mạng nhanh mà”, vừa nói tay ông ta đã lướt trên bàn phím.

“Tốt quá. Có cửa hàng bán đồ dùng nào gần đây không nhỉ?”, cô ả hỏi thêm.

Ông suy nghĩ một lát, rồi trả lời, “À, có đấy, có cả vài món đặc biệt nữa. Mà lại mở cửa đến tối nữa chứ”.

“Tuyệt vời”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

79#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 07:34:17 | Chỉ xem của tác giả
Chương 37

Chiếc Nova theo sau chiếc xe tải của Công ty Cứu hỏa trong một cự ly an toàn. Caleb ngồi ở vị trí tài xế, kế đến là Stone, còn Reuben ngồi phía sau.

“Sao chúng ta không gọi cảnh sát và để họ lo vụ này nhỉ?”, Caleb lên tiếng.

“Rồi nói gì cho họ nghe?”, Stone phản ứng. “Anh đã chẳng bảo rằng thư viện đang đổi hệ thống cũ. Những gì chúng ta biết nãy giờ, chẳng qua là đúng quy trình. Làm vậy, có khi còn làm cho người vô can tưởng chúng ta có âm mưu gì khác. Chúng ta cần sự dò xét, không cần bọn cớm làm gì cả”.

Caleb trả miếng, “Hay thật đấy! Vậy là tôi phải lao vào nguy hiểm chứ không phải đám cảnh sát kia à? Vậy tôi trả tiền thuế cho chúng làm cái quái gì nhỉ?”

Chiếc xe tải lúc này rẽ trái rồi lại rẽ phải. Họ đi ngang qua khu vực điện Capitol rồi tiến vào vùng khá tồi tàn của thành phố.

Stone cất tiếng, “Chạy chậm lại thôi, xe tải dừng rồi đấy”.

Caleb thắng xe lại bên vệ đường. Lúc này chiếc xe tải dừng trước một cánh cổng khóa bằng xích, một người đàn ông từ phía sân trong bước ra mở cổng.

“Đó là khu nhà kho”, Stone suy đoán.

Xe tải chạy qua cổng vào bên trong, và cánh cổng được khóa lại như cũ.

“Vậy là chúng ta chỉ có thể làm bấy nhiêu mà thôi”, Caleb thở phào nhẹ nhõm. “Trời ơi, chắc tôi phải uống một ly cà phê sữa đậm đặc để lấy lại tinh thần sau một tối kinh hoàng như thế này”.

Stone cắt ngang, “Chúng ta cần lọt vào phía sau hàng rào”.

“Đồng ý”, Reuben tán thành.

“Hai anh điên hết rồi!”, Caleb thảng thốt.

“Anh có thể ngồi đợi ngoài xe, Caleb ạ”, Stone trấn an. “Còn tôi phải xem chuyện gì đang xảy ra trong ấy”.

“Lỡ anh bị bắt thì sao?”

“Phải chịu thôi. Nhưng tôi nghĩ cũng đáng mà”, Stone trả lời.

“Còn tôi vẫn ngồi trong xe à?”, Caleb chậm rãi nói. “Nhưng có vẻ như không công bằng cho hai anh lắm, hai anh phải liều mạng...”

Stone ngắt lời ông ta, “Nếu chúng tôi cần chuồn nhanh, thì anh ngồi trong xe, sẵn sàng là tốt chứ sao”.

“Đúng thế”, Reuben gật đầu.

“Vậy thì quyết định vậy thôi”. Caleb nắm chặt vô-lăng và nghiêm nghị, “Đôi khi tôi cũng cài số xe chạy nước rút đấy”.

Stone và Reuben nhẹ nhàng ra khỏi xe và lần về phía tường rào. Nép mình sau vài tấm ván cũ ngay phía ngoài khu nhà kho, họ dõi theo hướng chiếc xe tải đang đỗ xịch ngay góc sân. Những người thợ bước xuống, và đi vào khu nhà chính. Vài phút sau, họ thay đồ, rồi lái xe riêng đi mất. Một nhân viên bảo vệ khóa cổng và quay trở vào trong.

“Tốt nhất chúng ta nên leo vào từ phía bờ rào bên kia, nơi có xe tải đang đậu”, Reuben đề nghị. “Như vậy, lỡ như tên bảo vệ có quay ra cũng bị xe tải che tầm nhìn”.

“Ý kiến hay”, Stone tán thành.

Họ hối hả đi vòng về hướng bên kia hàng rào. Trước khi họ chuẩn bị leo rào, Stone lấy cây ném về phía hàng rào rồi nói, “Như vậy để xem có điện hay không”.

“Ừ”

Họ chầm chậm leo qua tường rào, rồi nhẹ nhàng đáp xuống đất, cúi thấp và bắt đầu tiến về phía chiếc xe tải. Khi được nửa đường, Stone dừng lại, ra hiệu cho Reuben cúi rạp người, nhìn xung quanh, khi không thấy ai, họ lại tiếp tục tiến về phía trước. Thình lình, Stone chuyển hướng từ chiếc xe tải sang hướng một khu nhà bê-tông nhỏ sát tường rào. Reuben hấp tấp bám theo sau.

Cánh cửa bị khóa, nhưng Stone vẫn dùng chìa mở được. Bên trong là hàng khối trụ lớn. Stone bật đèn pin nhỏ mang theo bên mình và chiếu xung quanh. Trong nhà, là một bàn gỗ với đầy đủ dụng cụ, máy phun sơn nhỏ trong góc, đặt cạnh vài thùng sơn và chất dung môi, phía trên một vách tường là một bình ôxy với mặt nạ. Stone bật chiếc bật lửa gần những khối trụ lớn, ánh sáng đủ để đọc những dòng chữ trên đó, “FM-200, Innergen, Halon 1301, CO2 , FE-25”. Ông quay lại quan sát xilanh CO2 kỹ hơn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

80#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 07:35:57 | Chỉ xem của tác giả
Chương 37
(tiếp theo)

Reuben chạm khẽ vào tay ông và bảo, “Nhìn này”. Stone nhìn theo hướng tay chỉ lên tấm bảng trên tường.

“Công ty Cứu hỏa. Chúng ta biết rồi mà”, Stone nói, giọng thiếu kiên nhẫn.

“Nhìn hàng bên dưới kìa”.

Stone thở gấp, “Chữa cháy là một công ty con của Công ty Cổ phần Công nghệ Paradigm”.

“Công ty của Cornelius Behan đó”, Reuben thì thầm.

Caleb ngồi bồn chồn trong chiếc Nova, ánh mắt hướng về khu vực hàng rào. Ông lẩm bẩm ,“Thôi nào, sao mà lâu thế?”

Đột nhiên, ông nghiêng người qua một bên. Một chiếc xe chạy vụt qua hướng về phía khu nhà kho. Khi nó đi qua rồi, ông ngồi thẳng dậy, ngực vẫnđánh lô tô.Đó là một chiếc xe tuần tiễu, phía ghế sau chễm chệ một con chó Béc-giê Đức rõ to.

Caleb lập tức bấm điện thoại để gọi Stone, nhưng máy lại hết pin. Lúc nào ông cũng quên phải xạc pin cho cái điện thoại quỷ quái này cả, vì ông không thích lúc nào cũng kè kè theo nó.

“Lạy Chúa!”, Caleb rên rỉ. Ông hít một hơi thật sâu. “Mày có thể làm được mà Caleb Shaw. Mày làm được”. Ông thở ra một hơi, tập trung và đọc vài dòng thơ yêu thích để lấy can đảm, “Nửa đoàn quân, nửa đoàn quân/Nửa đoàn quân tiến về phía trước/Đến thung lũng Chết/Sáu trăm người cùng tiến bước/Tấn công, hỡi đoàn khinh binh/Xung phong vì súng ống/Tướng quân ra lệnh/Tiến vào thung lũng Chết/Sáu trăm người cùng tiến bước”. Ông ngừng đọc, và ngẩng lên đối diện với thực tại nơi có bảo vệ vũ trang tận răng và chó nghiệp vụ cùng vào cuộc. Lúc này thì ý chí của ông biến đâu mất ngay khi ngừng đọc thơ.

Ông bực bội, “Quý ngài Tennyson chẳng biết quái gì về nguy hiểm thật sự cả”.

Caleb leo ra khỏi xe, và ngần ngừ tiến về phía hàng rào.

Phía trong bờ rào, Stone và Reuben đang tiến về phía xe tải. Stone cảnh giác, “Nhớ canh chừng khi tôi thám thính nhé”. Ông leo vào phía thân sau xe. Thùng xe trống, chỉ có những thanh gỗ được đóng quanh thân xe, giữ hàng hóa. Ông dùng đèn pin soi rõ phần sơn trên thân trụ. Chỉ có một ống được sơn chữ “Chất Halon 1301”, còn tất cả những ống khác lại được sơn dòng chữ “FM-200”. Ông lấy ra trong túi một hộp nhựa thông và một miếng giẻ vớ được từ khu nhà kho rồi chùi mạnh trên trụ có dòng chữ FM-200.

“Nhanh nào, nhanh nào”, Reuben vừa nói, mắt vừa láo liên khắp nơi.

Khi lớp sơn phủ bên ngoài dần tan ra, Stone dừng lại và soi ánh đèn pin vào dòng chữ bên dưới, “Chất CO2”, “5 ngàn ppm”1.

“Chết tiệt!”, giọng Reuben vang lên từ ngoài. “Chạy thôi nào anh bạn Oliver của tôi”.

Stone nhìn qua phía thân xe. Chó đặc vụ vừa nhảy phóc khỏi chiếc xe tuần tra ngay gần cổng ra vào.

Stone nhảy vội ra khỏi xe tải, nhờ xe tải che khuất tầm nhìn, họ tiến vội về phía hàng rào. Nhưng con chó đánh hơi được mùi của họ, và chỉ thoáng chốc sau, nó bắt đầu gầm gừ, và sục sạo đi về phía họ, theo sau là hai tên lính canh.

Stone và Reuben nhảy bổ về phía hàng rào và bắt đầu leo, nhưng con chó có vẻ nhanh hơn họ. Nó táp vào quần Reuben.

Phía bên ngoài, Caleb quan sát thấy hết sự việc, có điều, ông không chắc mình có thể làm gì được, ông chỉ có thể thu hết can đảm để làm điều gì đó.

“Giữ lấy nhé”, một giọng cất lên. Reuben ráng hết sức bình sinh đá mạnh chân để con chó thả quần ông ta ra, nhưng nó vẫn ngoạm chặt. Khi Stone quay xuống nhìn, thì đã thấy hai miệng súng đen ngòm chĩa về phía họ.

Một tên bảo vệ đanh giọng, “Xuống mau, kẻo con chó cắn đứt chân ông đấy”. “Mau!”

Stone và Reuben từ từ leo trở lại. Con chó tha cho họ, dù vẫn còn gầm gừ.

*

“Tôi nghĩ đây chỉ là sự hiểu lầm mà thôi”, Stone lên tiếng phân bua.

“Đúng thế, cảnh sát sẽ tin ông”, tên còn lại chát chúa.

“Chúng tôi có mặt kịp thời để hỗ trợ mấy chú em đây”, tiếng phụ nữ tiếp lời.

Họ cùng nhìn về hướng tiếng nói. Annabelle đứng phía ngoài cổng, bên cạnh chiếc xe hơi, Milton đứng bên cạnh, trong chiếc áo gió và đầu đội mũ với dòng chữ “FBI”.

“Mấy người là ai thế?”, một trong hai tên bảo vệ hỏi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách