Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Bộ Sưu Tập Tội Ác | David Baldacci (Hoàn) + Ebook

[Lấy địa chỉ]
81#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 07:37:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 37
(tiếp theo)

“Nhân viên FBI McCallister và Dupree”, cô trình thẻ ra và giở áo khoác để lộ huy hiệu và súng dắt bên hông. “Mở cổng, và làm ơn giữ con chó quỷ quái đó tránh xa chúng tôi”, cô ta đanh giọng.

“Nhân viên FBI làm cái quái gì giờ này lại ở đây?”, tên bảo vệ có vẻ hơi căng thẳng, nhưng hắn vẫn chạy ra mở cổng.

Annabelle và Milton bước vào. Cô ta quay sang bảo Milton, “Buộc tội chúng, và còng chúng lại”. Milton rút hai chiếc còng từ trong túi, và tiến về phía Stone và Reuben.

“Đợi đã”, một tên cản lại. “Chúng tôi có nhiệm vụ bắt những tên đột nhập và báo cho cảnh sát liền”.

Annabelle đến gần tay bảo vệ có khuôn mặt phúng phính, nhìn hắn từ trên xuống dưới rồi hỏi, “Này, chú em vào nghề bao lâu rồi thế?”

“Mười ba tháng. Tôi đã có thể được mang theo vũ khí rồi đó”, hắn tự hào trả lời.

“Chắc chắn là thế rồi. Nhưng mà bỏ cái khẩu súng đó qua một bên đi, kẻo lại gây thiệt mạng một người giống chị đây”.

Hắn ngần ngừ chĩa khẩu súng sang hướng khác khi Annabelle giơ thẻ ra lần nữa, “Cái thẻ này có tiếng nói hơn đámcớmđịa phương đấy”. Những tấm thẻ nhìn y như thật này, chỉ là một trong số những thứ cô đã nhờ Freddy chuẩn bị sẵn và luôn cất chúng trong hộp băng vệ sinh của mình.

Tên bảo vệ nhăn nhó, “Nhưng chúng tôi có quy tắc của mình, với lại bọn chúng đột nhập nữa”. Hắn chỉ về phía Stone và Reuben, lúc này đã bị còng tay. Phía sau áo khoác của Milton cũng là dòng chữ “FBI”, họ đã mua đủ đồ thứ súng ống, huy hiệu và còng giả tại cửa hiệu đồ chơi.

Annabelle cất tiếng cười lớn, “Đột nhập à!”. Rồi cô chống nạnh, “Hai chú em không biết hai chú em vừa tóm được ai sao?”

Chúng liếc nhau rồi hỏi dò, “Hai lão lang thang chứ gì?”

“Này, mày là thằng chó chết”, Reuben, tay vẫn bị còng, nhảy chồm lên trong cơn giận dữ. Milton ngay lập tức chĩa khẩu súng ngắn vào đầu của Reuben, hét lên, “Mày có im không, thằng khốn kia, không tao bắn vỡ sọ mày đấy”.

Ngay lập tức, Reuben đứng im.

Annabelle tiếp tục, “Gã “dễ thương” đằng kia là Randall Weathers, đang bị truy nã vì bốn tội danh khác nhau, bao gồm buôn ma túy, rửa tiền, bị tố cáo giết người và có dính dáng đến việc đánh bom nhà của quan tòa liên bang tại Georgia. Tên kia là Paul Mason, biệt danh là Peter Dawson, trong mười sáu cái tên giả khác của hắn. Tên chết tiệt này lại lần ra đường dây trực tiếp đến phòng chống khủng bố tại Trung Đông đang núp bóng điện Capitol. Chúng tôi vẫn đang theo dõi các cuộc điện thoại và thư điện tử của hắn. Tối nay, chúng tôi lần theo hắn đến đây và bắt quả tang hắn, có vẻ như bọn chúng đang âm mưu chôm vài món chất nổ. Rồi chúng sẽ đậu một chiếc xe tải, bên trong là vô số chất cần thiết, cùng đồng hồ hẹn giờ, đợi chín vị quan tòa đáng kính của chúng ta và “bùm” họ ra tro”. Cô ta nhìn Stone và Reuben với ánh mắt đầy kinh tởm. “Lần này bọn bay sẽ bị hạ gục hết. Hạ gục toàn bộ”, cô ta lặp lại.

“Hay thật đấy, Earl”, một trong hai tên quay sang tên còn lại, giọng phấn khích. “Khủng bố đấy!”

Annabelle rút ra một quyển sổ nhỏ, tiếp tục, “Để chị ghi tên hai chú em vào. Bảo đảm Cục điều tra sẽ cần phải biết tên ai để mà khen thưởng vì đã góp phần xuất sắc cho nhiệm vụ này”, rồi cô mỉm cười, “chị bảo đảm hai em sẽ sớm thăng tiến đấy”.

Hai tên bảo vệ nhìn nhau, hớn hở, “Tuyệt quá”. Bọn chúng đọc tên cho cô ta ghi, rồi cô ta quay sang Milton, ra lệnh, “Đưa chúng lên xe, Dupree. Những gã bại hoại này càng sớm vào tù chừng nào, càng tốt chừng đó”. Rồi quay sang hai tên bảo vệ, cô ta giải thích thêm, “Chắc chắn chúng tôi sẽ nộp chúng cho cảnh sát, có điều chỉ sau vài màn “hỏi thăm” nhẹ nhàng mà thôi, kiểu FBI đấy mà”. Cô ta nháy mắt với cả hai, “Mà xem như là hai chú em chưa nghe gì nhé”.

Hai tên cùng cười, ra vẻ hiểu biết, “Nhớ làm chúng phun ra hết sự thật nhé”, tên Earl nói với theo.

Cô ta trả lời, “Chắc rồi. Chúng tôi sẽ giữ liên lạc”.

Họ đẩy Stone và Reuben vào ghế sau của chiếc xe hơi và lăn bánh. Caleb đợi đám bảo vệ đi hết rồi vội vàng ra khỏi chỗ ẩn nấp, leo lên chiếc Nova và nối đuôi theo xe Annabelle.

Trong xe, Milton tháo còng cho Stone và Reuben. “Milton này, chú em cũng ra vẻ gớm nhỉ”, Reuben thốt lên, giọng đầy tự hào.

Milton nở một nụ cười hãnh diện. Ông giở mũ ra, và mái tóc xổ dài. Stone khen ngợi Annabelle, “Khi cô yểm trợ, cô làm việc tốt lắm. Cám ơn nhé!”

“Đã làm thì phải làm tới cùng chứ”, cô ta đáp lời. “Chúng ta đi đâu đây?”

“Đến chỗ của tôi”, Stone trả lời. “Chúng ta có nhiều chuyện cần bàn đấy”.

Chú thích

1.ppm: đơn vị đo liều lượng các chất hoá học.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

82#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 18:24:46 | Chỉ xem của tác giả
Chương 38

Roger Seagraves lái chiếc xe thuê chầm chậm qua những đường phố tĩnh mịch của vùng thủ phủ Washington thịnh vượng, rẽ trái vào đường Good Fellow. Vào giờ này, những căn nhà to lớn trong phố vẫn còn tối om om. Khi đi ngang qua nhà Jonathan DeHaven quá cố, hắn làm ra vẻ không chú ý đến nó. Lại sắp sửa có một trận bão.Hắn hơi mệt mỏi vì cái thời tiết này, nhưng đây là một cơ hội tốt, ta không thể để nó vuột mất.Xe chầm chậm lăn bánh, cảm giác hắn đang tận hưởng niềm yêu thích ngắm nghía những căn nhà cổ. Kế đến, hắn lái xe vòng xung quanh các dãy nhà, và rồi chạy ra hướng con đường song song, cẩn thận ghi nhớ cách bố trí nơi đó.

Tuy vậy, việc quan sát và phác thảo kế hoạch lại là hai việc hoàn toàn khác nhau. Hắn cần thời gian để suy nghĩ. Hắn chợt quan sát thấy một thứ: căn nhà đối diện nhà Behan. Một tên nào đó với chiếc ống nhòm, đang quan sát. Quan sát gì nhỉ? Không cần nói, chắc rằng hắn cũng phải nghĩ đến chuyện này khi bắt tay hành động. Và khi mắt đang bận quan sát như vậy, chỉ có một cách duy nhất để giết hại và tẩu thoát mà thôi.

Sau khi đã tiến hành do thám, Seagraves đỗ xịch xe hơi thuê tại một khách sạn. Xách theo chiếc cặp táp nhỏ, hắn bước vào quầy bar, gọi một ly rượu, rồi bấm thang máy như đi lên phòng mình. Hắn đợi một tiếng đồng hồ sau, rồi mới đi xuống, ra khỏi tòa nhà bằng một lối khác, Seagraves chui vào một chiếc xe đã chờ sẵn tại bãi đậu xe phụ. Hắn cần làm thêm một việc khác bên cạnh việc giết người.

Hắn lái xe đến một nhà trọ, ra khỏi xe, rút ra từ túi áo một chiếc chìa khóa. Chỉ cần mười sải chân, hắn đã đến được căn phòng ở tầng hai nhìn ra bãi đậu xe. Hắn mở cửa, nhưng không bật đèn lên, bước nhanh vào cánh cửa phòng bên trong, mở khóa và bước vào. Hắn cảm nhận được sự hiện diện của một người khác, nhưng không lên tiếng. Hắn cởi quần áo và leo vào giường với cô ả. Cô ta thật mềm mại, ấm áp, và đặc biệt nhất, phục vụ cho mục đích của hắn, cô ả là giám sát an ninh tại Cơ quan An ninh quốc gia.

Một tiếng sau, khi cả hai đã thỏa mãn, hắn mặc đồ và hút thuốc, trong khi cô ả bước vào phòng tắm. Hắn biết cô ả đang áp dụng cách hắn đang làm để tránh bị theo dõi, và có khi NSA cũng có nhiều nhân viên không kiểm tra xuể. Và cô ta cũng khéo léo biết cách tránh để người khác chú ý đến mình, và đó là lý do hắn đào tạo cô ta cho kế hoạch của mình. Và vì cả hai vẫn độc thân, cho nên nếu cuộc hẹn hò này bị phát giác, người ta cũng chỉ dừng lại ở việc kết luận rằng đó là mối quan hệ tình dục giữa hai người lớn tự nguyện, tình cờ cùng làm việc cho liên bang, và điều đó hoàn toàn hợp pháp ở Mỹ.

Tiếng nước chảy trong nhà tắm dừng lại, hắn gõ cửa nhà tắm, rồi giúp ả ra khỏi bồn tắm, đưa tay bóp lấy bờ vai trần của ả, rồi hôn một cái rõ kêu.

Ả thì thầm vào tai hắn, “Em yêu anh”.

Hắn nói lảng, “Hay là yêu tiền của anh?”

Ả cũng không vừa, “Cả anh và tiền”, tay ả lần xuống bên dưới, và ép sát hắn.

“Một lần là đủ rồi”, hắn lên tiếng, “Anh đâu còn trai trẻ đôi mươi nữa”.

Ôm chặt bờ vai lực lưỡng của hắn, ả tiếp lời, “Anh định lừa em đấy à, anh yêu”.

“Lúc khác đi”, hắn nói.

“Anh à, mình tiếp tục đi anh”, ả thổi vào tai hắn, “em muốn đau đớn như lúc nãy”.

“Anh đâu biết làm cách khác”.

Ả đẩy hắn vào tường, “Lạy Chúa, anh gợi tình quá”, ả rên rỉ.

“Ai cũng bảo thế”.

Hắn cố xô ả ra, nhưng ả vẫn bám theo. “Tiền chuyển đúng theo thời hạn chứ?”, ả hỏi giữa những hơi thở hổn hển.

“Anh có là em có thôi, bé yêu ạ”.

Đúng thế, ngu ngốc thật, tất cả chỉ vì tiền thôi.

Trong khi ả tiếp tục phần tắm táp, hắn quay trở về phòng, bật đèn, với lấy chiếc ví để trên tủ và khéo léo lấy một máy quay phim nhỏ ra khỏi ngăn trong cùng của ví. Hắn lấy thẻ nhớ 20 Gb ra khỏi khe máy và dùng móng tay khều nhẹ nắp nhựa đen của đầu đọc thẻ. Hắn nhìn chăm chăm vào cái thứ nhỏ xíu kia một lát, dù tí hon, nó lại đáng giá ít nhất là một triệu đôla, mà có khi còn hơn thế, đối với một tên nào đó ở vùng Trung Đông, kẻ không ưa gì nước Mỹ, kẻ rành về những kế hoạch chết chóc và phá hoại dành cho ai chống đối hắn.

Thông tin lưu trên miếng nhựa màu đen sẽ làm cuộc chiến trở về vị thế cân bằng, ít nhất là trong một thời gian, cho đến khi NSA phát giác ra việc hệ thống theo dõi của mình đã có vài sự dàn xếp nhỏ. Thế rồi, họ sẽ thay đổi nó, còn Seagraves thì nhận được một cú điện thoại, hắn lại gọi điện. Và chỉ vài ngày sau, hắn sẽ lại đến nhà trọ, ôm xiết người đẹp, bóc một miếng nhựa khác, và lại có một số tiền tám chữ số lần nữa. Công việc sẽ được lặp lại, và tiếp tục cho đến lúc NSA đánh hơi ra mùi gián điệp đâu đó. Hắn sẽ ngưng hoạt động tại NSA, trong một thời gian, vì các quan chức thường có trí nhớ kém. Trong lúc đó, hắn lại theo đuổi những mục tiêu khác. Lúc nào mà chẳng đầy ra đấy.

Hắn dùng một miếng kẹo cao su dán thẻ nhớ chứa thông tin về hệ thống giám sát của NSA vào phía trong răng hàm trước. Rồi bước vào phòng đầu tiên, tìm đến tủ quần áo, ở đó đã treo sẵn một bộ trang phục khác. Hắn tắm táp, thay đồ, rồi rời nhà nghỉ, đi bộ vài dãy phố, sau đó nhảy lên xe buýt, đến cửa hàng thuê xe hơi, thỏa thuận, và lái xe về nhà.

Hắn mất một tiếng để lấy dữ liệu ra khỏi miếng thẻ nhỏ xíu, và mất thêm một tiếng nữa tổng hợp dữ liệu để chuyển đi. Vì là một điệp viên cho nên Seagraves hoàn toàn quen thuộc với mật mã và lịch sử của chúng nói chung. Trong thời hiện đại này, máy vi tính khóa mã và giải mã tự động, trong đó những hệ thống bảo mật an toàn nhất sử dụng các dãy số hàng trăm, thậm chí đến hàng nghìn chữ số - có khi còn dài hơn cả những dòng tin nhắn được mã khóa nữa. Ít nhất để giải mã khóa mạnh nhất cần đến một máy vi tính tinh vi và có khi hàng nghìn, đến hàng triệu năm. Điều đó xảy ra vì những nhà giải mã đương đại cho rằng những đoạn tin mã khóa có thể bị lấy cho nên họ tạo ra những hệ thống giải mã cho tình huống trên, với câu thần chú rằng: bạn có thể nhận được chúng, nhưng chắc chắn rằng bạn không đọc được chúng.

Seagraves lại chọn một cách viết mật mã cổ điển, với cách này, qua việc truyền thông tin, sẽ là một thách thức lớn, khó phá vỡ hơn cho cả những chuyên gia xuất sắc, trang bị máy tính mạnh nhất, chỉ vì một nguyên lý đơn giản: Nếu bạn không thể nhận được tin, bạn chẳng có cơ hội nào đọc được nó cả. Dẫu sao thì những cách xưa cũng có giá trị của nó, hắn trầm ngâm. Đây hẳn là một bài học mà các giới chức tại NSA cần biết.

Sau khi hắn xong việc, cơn buồn ngủ ập đến, nhưng trước khi nhắm mắt, hắn còn kịp nghĩ đến lần hành động kế tiếp, và thế là “bộ sưu tập” của hắn lại có thêm một mục mới.

*

Trở lại với túp lều của mình, Stone lập tức tường thuật lại cho các bạn nghe về chuyến thám thính. Khi ông nhắc đến lớp chữ “5 nghìn ppm” ẩn bên trong trên thân trụ, Milton lập tức nhảy vào chiếc máy tính xách tay, và tìm đến kho thông tin lưu trữ trên máy. Đợi cho Stone nói xong, Milton mới tiếp, “Chất CO2 không được sử dụng ở những nơi chật hẹp do nó có thể gây ngộp thở cho người, vì nó lấy đi những hợp chất ôxy trong không khí để dập tắt lửa. Nếu sử dụng ở liều 5 nghìn trên hàng triệu, nó sẽ gây chết người; anh ta sẽ chết ngộp ngay khi anh ta có thể thoát ra ngoài. Và chết theo cách đó chẳng dễ dàng tí nào”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

83#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 18:25:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 38
(tiếp theo)

Annabelle làm động tác ho, đứng dậy rồi đến cửa sổ nhìn ra ngoài.

Stone nói nhanh, nhìn cô ta với vẻ quan tâm, “Tôi đoán rằng nó cũng có tác dụng làm lạnh nữa”.

Vẫn nhìn vào màn hình, Milton gật đầu, “Với hệ thống áp suất cao, sẽ có phun tuyết khô. Họ gọi là hiệu ứng tuyết vì nó nhanh chóng tản nhiệt, giảm nhanh nhiệt độ xung quanh và giúp ngăn ngừa sự phát tán của ngọn lửa. Dưới nhiệt độ thông thường, tuyết tan ra và không để lại dấu vết gì cả”.

Stone nói thêm, “Vào lúc Caleb và DeHaven được tìm thấy trong phòng, có lẽ nồng độ CO2 đã trở lại bình thường, và người ta có thể hiểu lầm phòng sách lúc nào cũng có cảm giác lành lạnh như vậy”.

“Nhưng nếu DeHaven bị chết ngạt bởi khí CO2, thì sao lại không được nhắc đến trong bản khám nghiệm tử thi?”, Reuben thắc mắc.

Trong lúc họ nói chuyện, tay của Milton tiếp tục lướt trên bàn phím, “Không nhất thiết vì đó là thông tin tôi tải từ trang web của Tổ chức Giám định Y khoa Quốc gia. Dĩ nhiên là khi bị ngộ độc khí cacbonnic, cơ thể sẽ biểu hiện qua sắc tố da màu đỏ tươi, nhưng ngộ độc khí cacbon đioxyt thì lại chẳng có biểu hiện gì mấy”. Vẫn tiếp tục đọc thông tin trên màn hình, Milton nói thêm, “Cách duy nhất để phát hiện ra nồng độ ôxy thấp ở người là thông qua một cuộc kiểm tra nồng độ máu để đo lượng ôxy so với lượng cacbon đioxyt trong máu người. Nhưng cuộc thử nghiệm như vậy chỉ dành cho những người còn sống để phát hiện ra cần tăng thêm lượng ôxy bao nhiêu. Chúng ta không khám nghiệm tử thi vì lý do đơn giản là người đó đã chết rồi”.

Caleb bồi thêm, “theo tôi được biết, sau khi người ta nhận định rằng Jonathan đã chết, người ta còn không thèm đưa ông ấy vào phòng cấp cứu nữa kìa”.

Stone nói tiếp, “Ống trụ với nhãn FM-200 đã bị chuyển đi là ống mà tôi muốn đề cập đến vì những lý do trên”.

Reuben thắc mắc, “Tôi vẫn chưa hiểu ý anh lắm”.

“Thư viện đang bỏ đi cái hệ thống Halon và nếu tôi không lầm thì họ đã cho mang vào một trụ đầy những chất cacbon chết người nhưng lại khéo léo sử dụng những tên nhãn khác, nếu họ không nhập lại những hợp chất Halon kia, thì có lẽ người ta đã nghi ngờ rồi”.

“Đúng vậy, họ phải mang vào chất khí họ sẽ thay thế, đó là chất FM-200”, Caleb phụ họa thêm. “Và họ đã làm việc đó tối nay, tháo gỡ hàng loạt trụ chứa chất khí Halon. Nếu chúng ta không có ở đó, chắc chẳng ai biết việc này đâu nhỉ”.

Stone gật đầu, “Tôi tin rằng trụ nối với hệ thống ống dẫn tối nay chứa đầy chất Halon, cái trụ rỗng từng chứa khí cacbonnic chắc hẳn đã được tháo ra khỏi ống dẫn ngay sau khi nó được mở ra. Giả dụ như cảnh sát đến kiểm tra, họ cũng chẳng tìm được điều gì bất thường cả, mà họ cũng đâu thể xét từng trụ khí được, cho dù có đi nữa, họ sẽ gửi cái trụ đó về Công ty Cứu hỏa. Tôi không tin rằng họ sẽ tìm được đáp án chính xác vì kẻ nào đang đạo diễn vụ này chắc cũng làm trong công ty đó”.

“Vụ án mạng hoàn hảo”, Annabelle nói cứng khi cô ta quay trở lại ngồi. “Câu hỏi là tại sao, tại sao lại có người giết hại Jonathan một cách dã man đến vậy?”

“Điều này phải quay trở lại tên Cornelius Behan”, Stone đáp, “bây giờ chúng ta biết về cái ống chứa chất cacbonnic gây ra cái chết cho DeHaven đã được thay bằng chất Halon. Chúng ta cũng biết rằng Công ty Chữa cháy do Behan làm chủ, gã đó chắc cũng có thể là chủ mưu trong vụ này. Tiếp theo sau đó, gã lại xuất hiện trong phòng đọc sách và gặp Caleb, cùng ngày với việc tháo dỡ các trụ khí ra khỏi thư viện. Tôi chắc rằng gã đang thám thính xem có ai quan tâm đến những cái miệng ống hay không, và cũng ắt hẳn hai tên Behan và Bob Bradley phải có mối liên hệ nào đó với nhau”.

Reuben suy đoán, “Có thể Bradley và Behan là thành viên của một nhóm điệp viên đang hoạt động tại đây. Bradley đến nhà Behan và Jonathan có thể tình cờ nghe hoặc thấy điều gì đó mà ông ta không nên. Mà cũng có khi ông ta phát hiện ra manh mối có liên quan đến Behan trong vụ án mạng Bradley. Behan phát hiện ra và giết ông ta trước khi DeHaven có thể đi trình báo để người ta tiến hành điều tra”.

Stone đồng tình, “Điều đó hoàn toàn có khả năng. Bây giờ chúng ta có nhiều manh mối hơn và cần phải chia việc ra. Caleb, sáng sớm mai anh phải vào phòng sách và kiểm tra phía sau tấm lưới của hệ thống điều hòa xem có dấu vết gì của máy quay phim gắn ở đó không. Kế đến kiểm tra hệ thống camera theo dõi của thư viện xem có ai đã vào phòng đọc”.

“Cái gì?”, giọng Caleb thảng thốt. “Nhưng tại sao chứ?”

“Chính anh là người đề xuất rằng kẻ nào đã giết hại Jonathan có quyền vào thư viện và vào phòng đọc. Tôi muốn biết những ai đã vào phòng sách vài ngày trước và sau cái chết của DeHaven”.

“Tôi không thể vào phòng trực và ra lệnh cho họ để tôi xem cuộn băng ghi hình được. Tôi phải đưa ra lý do nào hợp lý chứ?”

“Tôi sẽ giúp anh tìm ra lý do, Caleb ạ”, Annabelle cất lời.

“Hay thật”, Reuben lẩm bẩm. “Đầu tiên là lượt chơi của chú em Milton, giờ đến anh Caleb. Còn mình thì sao nhỉ? Chắc không đâu”.

Stone nói tiếp, “Reuben, tôi nhờ anh gọi một cuộc điện thoại nặc danh đến cảnh sát thủ đô và tiết lộ đôi chút về xilanh khí cacbonnic đó. Dùng điện thoại thẻ để họ không lần ra dấu vết của cuộc điện thoại. Tôi không chắc họ có nghĩ đây là chuyện nghiêm túc hay không, nếu có, khi họ đến nơi mọi thứ đã quá muộn. Nhưng chúng ta phải thử thôi”.

Caleb thắc mắc thêm, “Nhưng liệu điều đó có làm cho vài người nghĩ chúng ta đang chống lại họ không?”

“Cũng có thể”, Stone trầm ngâm. “ Nhưng vào tại thời điểm này đó là bằng chứng duy nhất chúng ta tìm thấy được trong vụ giết hại DeHaven. Sau đó, tôi muốn anh tiến hành theo dõi và quan sát con đường Fellow Street, ngay trong đêm nay nhé”.

“Chỗ đó đâu có thuận tiện cho việc theo dõi đâu, Oliver. Tôi ẩn mình ở đâu đây?”

“Caleb sẽ đưa cho anh chìa khóa và mã số mở cửa vào nhà DeHaven. Anh có thể đi vào từ ngõ sau và sẽ chẳng ai bắt gặp đâu”.

Milton lên tiếng, “Thế còn tôi, tôi làm gì?”

“Nhiệm vụ của anh là tìm ra thông tin càng nhiều càng tốt về mối liên hệ giữa người quá cố Bob Bradley và tên Cornelius Behan. Ghi nhớ là không bỏ sót một chi tiết nào dù là nhỏ nhất nhé”.

Annabelle nói thêm, “Thế còn ông, ông tính làm gì hả Oliver?”

“Tôi tiếp tục suy nghĩ”.

Khi những người khác lục tục kéo đi, Annabelle kéo Caleb về một phía và hỏi, “Anh tin tưởng người bạn Oliver của mình bao nhiêu vậy?”

Caleb nghiêm nghị, “Tôi sẽ tin anh ấy cả đời, mà hiện tại cũng luôn như thế”.

“Phải công nhận rằng anh ấy biết mình đang làm gì”.

“Đúng vậy”, Caleb tỏ vẻ trung thành. “Bây giờ cô bảo cô sẽ giúp tôi tìm cách lấy được cuộn băng ghi hình ở chỗ bảo vệ. Cách nào đây nhỉ?”

“Tôi sẽ báo cho anh biết đầu tiên khi tôi nghĩ ra”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

84#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 21:30:25 | Chỉ xem của tác giả
Chương 39

Vào lúc 10 giờ 15 phút, giờ địa phương, bang New Jersey chứng kiến một trậnđộng đấtlần đầu tiên trong lịch sử. Tâm địa chấn nằm ở thành phố Anlantic, phố Boardwalk - nơi đặt trụ sở của sòng bài Pompeii. Lúc đầu, Jerry Bagger chỉ bực bội chút ít, nhưng sự thịnh nộ và cơn giận càng tăng khi số tiền bốn mươi tám triệu đôla không đến ngay tại thời điểm 10 giờ. Khi đã quá 10 giờ, đến lúc hắn được báo rằng có sự rắc rối về vụ tiền bạc thì những tên cận vệ của hắn bắt đầu lảng tránh khi hắn đến gần. Chỉ năm phút sau, thì vị vua sòng bạc được nhân viên trình báo sự việc từ phía El Banco rằng không chỉ tám triệu đôla tiền lãi vướng rắc rối mà ngay cả số tiền gốc là bốn mươi triệu đôla cũng biến mất tăm, và ngân hàng chưa bao giờ nhận được số tiền trên cả.

Việc đầu tiên Bagger làm là muốn thủ tiêu luôn kẻ đưa tin. Cơn thịnh nộ của hắn thật mãnh liệt và không thể nào kiềm chế nổi, có thể hắn đã nhảy xổ vào giết luôn nhân viên đó nếu như đám cận vệ không kéo hắn ra, và năn nỉ hắn rằng có thể sự việc sẽ làm hắn vướng rắc rối thêm. Việc kế đến Bagger làm là nhảy đến điện thoại và đe dọa đáp chuyến bay sớm nhất đến El Banco, đến nơi hắn sẽ xé xác từng người một. Tay chủ tịch ngân hàng cũng không vừa gì, gã thách hắn đến, vì gã tự tin vào đội ngũ chuyên nghiệp với vũ khí tối tân và xe tăng bảo vệ xung quanh tòa nhà.

Thật ra họ cũng đã gửi cho hắn bản kế toán xác nhận ba lần chuyển tiền đã được nhận, cả bảng hiển thị rằng số tiền quỹ từ một tài khoản khác được lệnh chuyển khoản vào tài khoản ký thác của hắn, đồng nghĩa với số tiền lãi mười phần trăm trong vòng chỉ hai ngày. Cả ba lần chuyển khoản, lần nào hắn cũng nhận được tiền lãi, tuy vậy, lần chuyển tiền thứ tư lại không xảy ra. Khi văn phòng điện chuyển khoản ngân hàng của hắn được kiểm tra kỹ lưỡng thì mới phát hiện ra rằng đã không có mã ủy quyền hoàn chỉnh từ ngân hàng, để phát hiện ra sai sót, mọi người phải tiến hành việc kiểm tra từng chi tiết.

Khi nhận được tin, Bagger lập tức nhào đến tấn công tay trưởng phòng bất hạnh bằng chiếc ghế ngay trong phòng tên này. Hai tiếng sau đó, sau khi đã tiếp tục điều tra toàn diện, sự việc được sáng tỏ rằng, một phần mềm gián điệp tinh vi đã xâm nhập vào hệ thống điện chuyển khoản của sòng bài cho phép một nhân tố thứ ba điều khiển nó. Khi biết điều này, Bagger ra lệnh mang một khẩu súng lục và triệu tập tay trưởng phòng thông tin đến gặp. Tuy vậy, tay này khôn ngoan chạy trốn trước, và bị người của Bagger tóm gọn tại Trenton. Sau cuộc điều tra mà khiến CIA cũng phải tròn mắt kinh ngạc, đã cho thấy người đàn ông không có liên quan đến âm mưu chỉ là một nạn nhân của trò lừa bịp mà thôi. Phần thưởng mà Bagger dành cho anh ta là một viên đạn xuyên vào đầu, và thủ phạm không ai khác cũng chính là Bagger. Xác của người đàn ông xấu số đượcthảyxuống một bãi rác gần đó, dù vậy, sau khi giết hại không nương tay, cơn thịnh nộ của Bagger cũng không tài nào thuyên giảm.

“Tao sẽ giết con quỷ cái đó, chúng mày có nghe không”, Bagger nhoài người ra cửa sổ của văn phòng trên cao của hắn, la lớn xuống phía bên dưới, nơi dòng người đang tấp nập xuôi ngược trên phố Boardwalk. Hắn quay ngoắt lại bàn, mở tủ lấy ra tấm danh thiếp, trên đó là hàng chữ, cô Pamela Young, Công ty Quản lý Quốc tế. Hắn nghiến răng xé tấm danh thiếp thành từng miếng nhỏ và nhìn như điên dại vào tay đội trưởng đội vệ sĩ. “Tao muốn giết người, tao muốn giết đứa nào đó ngay lập tức, mẹ kiếp”.

“Ông chủ ơi, xin ông bớt giận, chúng ta phải kìm xuống thôi. Tay nhân viên chuyển tiền đang nằm trong bệnh viện cùng với các tên vô dụng khác. Ông vừa mới khử xong thằng khốn kỹ thuật, vậy là ngày hôm nay cũng khối thứ đã xảy ra. Tên luật sư có nói khó mà tránh cảnh sát ngửi mùi vụ này đấy”.

“Tao phải tìm ra con quỷ đó”, Bagger hầm hè, quay lại phía cửa sổ. “Tao phải tìm ra nó, và hành hạ nó chết dần chết mòn”.

“Chúa sẽ chứng giám cho ông, thưa ông”, tên vệ sĩ cơ bắp hùa theo.

“Tiền của tao, bốn mươi triệu đôla của tao!”, giọng hắn như điên như dại làm tên vệ sĩ vội vã quay sang hướng cửa chính.

“Chúng tôi sẽ tìm ra nó, tôi thề đấy, thưa ông”.

Cuối cùng rồi Bagger cũng tìm lại chút bình tĩnh, “Tao muốn bằng mọi cách mày có thể tìm ra con quỷ cái đó, và thằng khốn đi chung với nó. Moi hình nó ra từ cái đám máy quay và đi vòng quanh, kiếm cho ra tên tuổi của nó. Nó không thuộc dạng lừa đảo, lang thang đầu đường xó chợ đâu. Ngoài ra, tìm vài thằng cảnh sát có quan hệ với chúng ta đi vào phòng nó, dò cho ra dấu vân tay nó để lại, gọi hết những thằng chúng ta có quan hệ tốt đấy nhé”.

“Vâng, thưa ông chủ”, tên vệ sĩ bắt đầu lao ra ngoài.

“Đợi đã!”, Bagger gọi với theo. Tên vệ sĩ e dè quay lại, “Không ai được biết chuyện tao bị lừa nhé, mày hiểu không? Jerry Bagger không phải là mục tiêu đàm tiếu đâu. Mày có hiểu không?”

“Rõ thưa ông, rất rõ”.

Rồi hắn biến ra ngoài.

Bagger ngồi xuống bàn làm việc, nhìn những mảnh vụn từ tấm danh thiếp của Annabelle nằm rải rác trên thảm. Ả sẽ giống như vậy, hắn nghĩ bụng,sau khi mình xử đẹp ả.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

85#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 21:34:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 40

Anh bạn Albert của tôi hôm nay có vẻ phấn khích lạ thường nhỉ”, Seagraves lên tiếng trong lúc ngồi nhấm nháp cà phê trong văn phòng của Trent tại điện Capitol.

“Thị trường chứng khoán có một cú ngoạn mục hôm qua, kỳ này quỹ hưu trí1 của tôi có vẻ ấm hơn rồi”.

Seagraves thảy một tập hồ sơ lên bàn, “Tin tốt đấy. Còn đây là thông tin mới nhất từ CIA. Chúng ta có hai cấp cao hơn, đưa ra bản hướng dẫn chi tiết hơn. Các anh phải mất cả tuần nhai bản báo cáo đấy, rồi chúng ta sẽ lên kế hoạch gặp mặt trực tiếp sau”.

Trent nhìn vào xấp giấy và gật đầu, “Tôi sẽ kiểm tra thời gian biểu của các thành viên và báo anh biết ngày giờ cụ thể. Có gì đáng kể trong đây không?”

“Anh tự đọc lấy đi”.

“Không phải lo đâu, tôi lúc nào cũng tự làm đấy thôi”.

Trent sẽ mang những tờ giấy này về nhà, và một thời gian sau hắn ta sẽ có những thông tin mật cần thiết đã đánh cắp được từ NSA chuyển qua bước kế tiếp.

Phía bên ngoài, Seagraves nhảy xuống từng bậc tam cấp của điện Capitol, cứ suy nghĩ rằng những tay gián điệp nếu chỉ quẳng đồ trong công viên và đến nhận tiền mặt hoặc ngay tại vị trí giao hàng, hoặc tại một hộp thư bưu điện, thì cả hai nơi đều dễ dàng bị tóm gọn như chơi. Seagraves lắc đầu. Không bao giờ mình để bị rơi vào trường hợp của gã điệp viên nhị trùng Aldrich Ames2 cả, kết thúc bi thảm nơi bốn vách tường của CIA, cũng như vài gã bù nhìn với tư cách là điệp viên. Là một sát thủ của chính phủ, hắn sâu sát từng chi tiết nhỏ, còn khi là điệp viên, hắn chẳng thấy có lý do gì mà lại phải thay đổi M.O. của mình cả.

Hiện tại Seagraves đang điên đầu với một chi tiết nhỏ. Gián điệp nhị trùng của hắn tại Công ty Cứu hỏa vừa thông báo vài tin chẳng có vẻ khả quan lắm. Đó là thông tin về hai gã nào đó bị bắt quả tang khi đang do thám gần khu vực kho hàng tối qua, và hai gã cớm ngu ngơ đã giao chúng cho FBI. Chỉ có điều khi Seagraves kiểm tra vài tay thân quen làm việc trong FBI về thông tin này thì họ cho biết không hề có vụ bắt bớ nào. Ngoài ra, người báo tin của hắn cũng cho biết việc đám cớm có nhìn thấy một gã đang cố thoát khỏi hiện trường, là mảnh sân tại công ty. Tên này sau đó được báo là nhảy lên một chiếc xe cũ kỹ, hiệu Nova. Việc miêu tả cả người lái lẫn chiếc xe khiến Seagraves hình dung ra ngay một khuôn mặt, cho dù hắn chưa gặp người này lần nào. Hắn quyết định ngay lập tức rằng, đây là lúc tốt nhất để khắc phục tình hình. Trong thế giới tìm hiểu sự việc của hắn, chẳng ai có thể đoán được rằng liệu mặt đối mặt có trở nên hữu dụng sau này hay không.

Caleb đến chỗ làm sớm và thấy Kevin Philips, tay giám đốc, đang mở cửa phòng đọc. Họ thảo luận đôi chút về Jonathon và những dự án đang được triển khai tại thư viện. Caleb hỏi Philips liệu ông ta có biết thông tin nào về những hệ thống chữa cháy được lắp đặt mới hay không, nhưng Philips có vẻ không biết chuyện này. “Tôi không chắc ông bạn Jonathon biết chuyện này đâu”, Philips nhận xét, “Tôi còn nghi ngờ rằng có khi ông ta không biết khí gas nào đang sắp được sử dụng đấy”.

“Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến này”, Caleb thì thầm.

Sau khi Philips rời khỏi, và trước khi có người khác xuất hiện, Caleb đi nhanh đến bàn làm việc của mình và lấy ra một cái tua-vít và đèn pin nhỏ xíu. Quay lưng về phía camera theo dõi, ông bỏ những thứ trên vào túi và đi vào phòng sách. Nhanh chóng đến tầng thượng, ông dừng lại ngay lỗ thông gió, ông tránh không nhìn lại nơi đồng nghiệp bị sát hại. Ông dùng tua-vít mở lỗ thông gió, cảm thấy có chút hào hứng khi những con ốc được tháo bung ra một cách dễ dàng, cứ như là đã có ai từng tháo chúng ra trước đó vậy. Ông đặt cái thông gió xuống gần kệ sách, và chiếu đèn vào khoảng trống bên trong. Lúc đầu, ông chẳng thấy điều gì bất thường cả, nhưng khi chiếu đèn xung quanh lần thứ ba, ông chợt phát hiện ra một lỗ ốc vít ngay phần tường phía sau ống dẫn. Chắc đó là nơi chiếc camera quan sát được gắn vào. Ông đỡ tấm thông gió lên và ghé mắt nhìn qua nó, quả thật từ vị trí gắn ốc và phần lưới sắt bị bẻ cong, camera có một góc quan sát rõ vị trí của căn phòng.

Caleb gắn tấm lưới đậy lỗ thông gió lại và ra khỏi phòng, ông gọi điện thoại cho Stone và kể lại những điều mình đã thấy. Ngay khi ông chuẩn bị làm việc thì có người tiến vào.

“Chào Monty, ông mang theo gì thế?”

Monty Chambers, chuyên gia bảo quản sách kỳ cựu nhất của thư viện đang đứng trước bàn làm việc, mang theo vài thứ. Ông ta vẫn đeo chiếc tạp dề màu xanh lá cây quen thuộc, còn tay áo thì được xắn cao.

“Quyển Giáo lý (Doctrina) và quyển Sách bỏ túi của ngài Tướng quân (Constable’s Pocket-book)”, ông ngắn gọn.

“Chắc ông đang bận rộn lắm nhỉ. Tôi chẳng biết tí gì về việc quyển Giáo lý được mang ra bảo quản đấy. Quyển Giáo lý do Đức giám mục của Mê-hi-cô, tên là Juan de Zumárraga viết và được phát hành năm 1544, luôn được đánh giá là quyển sách hoàn chỉnh nhất trời Âu vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Còn quyển Sách bỏ túi của ngài Tướng quân được xuất bản vào năm 1710 nhỉ”.

“Kevin Philips đặt sách đấy”, Chambers trả lời, “cách đây ba tháng, quyển Sách bỏ túi của ngài Tướng quân cũng thế, chuyện nhỏ ấy mà, tôi lại thêm khối việc để làm đây. Thế anh vào phòng sách hay là tôi?”

“Sao cơ? À, để tôi mang vào cho. Cám ơn nhé!”, Caleb cẩn thận nhận lấy những quyển sách đã được gói kỹ lưỡng từ người đồng nghiệp và để chúng lên bàn làm việc. Ông ráng không nghĩ đến việc ông đang giữ trong tay hai quyển sách có đáng giá cả gia tài trong lịch sử thế giới.

“Tôi sẽ chăm chút mấy quyển của tác giả Faulkner anh đã nhờ ngay thôi. Hơi khó khăn chút, vì bị dính nước”.

“Vâng, cám ơn ông, ah, Monty này”, Caleb lên tiếng khi thấy Chambers dợm bước đi.

Chambers quay lại, giọng mất kiên nhẫn, “Có việc à?”

“Thế ông đã kiểm tra những bản sao của quyển Thánh ca chưa?”, Caleb đã bị ác mộng mỗi khi nghĩ đến việc mình đã chiếm đoạt những quyển sách hiếm đó khỏi tay Chambers, và ý nghĩ đó đã biến thành câu hỏi hơi vụng về trên.

Chambers có vẻ nghi ngại, “Quyển Thánh ca à? Sao anh lại hỏi vậy? Có chuyện gì sao?”

“Không, nào có, chỉ vì lâu tôi cũng không thấy. Hàng năm trời đấy”.

“Tôi cũng thế. Anh đâu thể nào bước vào phòng và kiểm tra quyển đó được đâu. Nó nằm trong những giá lưu trữ đặc biệt của khu gọi là Tài sản Quốc gia mà”.

Caleb gật đầu, ông có quyền xem xét bất kỳ quyển sách nào trong thư viện, nhưng những quyển đại loại như quyển Thánh ca trên được xem là “tài sản quốc gia”, và là phần sở hữu quan trọng nhất của thư viện, cho nên chúng được đánh số và cất giữ trong những khu đặc biệt. Trong trường hợp chiến tranh, hay thiên tai, chúng sẽ nhanh chóng được di rời đến những nơi an toàn để đời sau có thể tiếp tục được chiêm ngưỡng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

86#
 Tác giả| Đăng lúc 11-10-2013 21:36:08 | Chỉ xem của tác giả
Chương 40
(tiếp theo)

Chambers vẫn huyên thuyên, “Tôi đã bảo họ từ rất lâu rằng chúng ta phải sửa cái bìa, cải thiện gáy sách - dĩ nhiên là có thể trả lại tình trạng ban đầu - nhưng mà họ chẳng nói năng gì. Cũng chẳng hiểu tại sao, nhưng nếu họ không làm gì, có khi mấy quyển đấy chẳng tồn tại được bao lâu nữa. Sao anh không báo cho họ biết?”

“Tôi sẽ báo, cám ơn Monty”. Sau khi Chambers đi khỏi, Caleb ngồi thừ ra và tự hỏi bước kế tiếp sẽ làm gì. Lỡ như quyển Thánh ca ấy đã biến mất? Lạy Chúa, điều đó không thể xảy ra. Ông chẳng nhìn thấy quyển sách ấy ít nhất là ba năm. Và chắc chắn nó giống một trong số những quyển trong bộ sưu tập của Jonathon quá cố. Sáu trong số mười một bản quyển Thánh ca vẫn còn dang dở và trong tình trạng hủy hoại khác nhau. Và bộ sưu tập của Jonathan lại là bộ hoàn chỉnh, cho dù cũng trong tình trạng hư hại không kém gì của thư viện. Cách duy nhất để kiểm chứng đó là trực tiếp kiểm tra bộ sách Thánh ca tại thư viện. Kevin Philips có thể sẽ cho anh làm điều đó, anh sẽ tìm ra vài lý do chính đáng, có thể là nêu ra quan điểm Monty đã phàn nàn. Chắc sẽ được.

Ông để những quyển sách mà Monty đã mang đến lên kệ đúng vị trí của chúng sau khi đã quét vào hệ thống, rồi gọi điện cho Philips. Cho dù giọng ông ta có vẻ bối rối, ông ta vẫn cho phép ông tiến hành kiểm tra. Vì lý do an toàn, và tránh bị buộc tội góp phần hủy hoại thêm những quyển sách quý đó, Caleb đi cùng một nhân viên khác trong thư viện. Sau khi đã kiểm tra sách, Caleb có thể chứng thực rằng những gì Chambers nói là đúng. Có vẻ như người ta chưa động đến việc bảo quản nó gì cả. Tuy vậy, ông không thể khẳng định liệu đó có phải là quyển ông đã từng thấy ba năm về trước, vì sự giống nhau tương tự như quyển sách trong bộ sưu tập của Jonathan. Giả dụ như bằng cách nào đó Jonathan đã tráo đổi quyển sách quý bằng một quyển giả mạo, thì ắt hẳn quyển ông từng thấy ba năm về trước cũng không phải là quyển thật.

Đợi đã, ngốc thật. Caleb nghĩ bụng. Thư viện sử dụng mật mã đối với những quyển sách quý như vầy, và chúng nằm trên cùng một trang cho phép thể hiện sở hữu của thư viện. Ông lật đến trang đó và quét qua máy. Đúng là có ký hiệu thật! Nhưng ông thở phào khi biết rằng ký hiệu chỉ có tác dụng trong thời gian ngắn mà thôi. Có thể nó cũng bị làm giả, nhất là khi vào tay một người giống Jonathan. Thế còn quyển Thánh ca trong bộ sưu tập của Jonathan, liệu cũng có ký hiệu tương tự? Ông phải kiểm tra mới được. Và nếu đó là sự thật, liệu có chứng minh rằng Jonathan đã ăn cắp sách khỏi thư viện. Và lúc đó ông sẽ làm gì? Ông nguyền rủa cái ngày mà ông đã chọn Jonathan làm người phụ trách tác phẩm chưa in. Tôi tưởng ông thích tôi chứ, Jonathan.

Ông dành thời gian suốt buổi chiều với vài lời yêu cầu của những nhà học giả, một nhà sưu tập và nghe vài cú điện thoại quốc tế từ các trường đại học ở Anh và Thụy Sỹ cũng như giúp đỡ những bạn đọc trung thành của thư viện.

Cả bà lão Jewell English và ông Norman Janklow đều đến thư viện ngày hôm đó. Dù họ trạc tuổi nhau và đều có sở thích sưu tập sách, họ chẳng bao giờ trò chuyện với nhau, mà thậm chí họ còn tránh gặp nhau. Caleb biết được nguyên nhân của sự thù hằn này, và đó cũng là một kỷ niệm buồn trong sự nghiệp của ông. Số là có một lần English thể hiện niềm đam mê của mình về những tiểu thuyết rẻ tiền của Beadle cho Janklow nghe. Và thái độ của ông lão, theo cách nào đó, chẳng có vẻ được mong đợi, theo như những gì Caleb còn nhớ lại, “Beadle là tên khác gì tên bán dạo, rẻ tiền, và nói chuyện chỉ rác rưởi cho đám cặn bã, ngu xuẩn cùng địa vị như hắn”.

Và hoàn toàn dễ hiểu với cách bà lão Jewell English tiếp nhận lời chỉ trích niềm đam mê của cuộc đời mình, bà lão cũng không vừa gì, thế là, bà trả đũa bằng cách tấn công tác giả yêu thích nhất của cụ Janklow. Theo bà, tác giả Hemingway, cho dù có cố gắng hết mức đi chăng nữa cũng chỉ một nhà viết văn hạng xoàng với ngôn ngữ văn chương đơn điệu của mình. Bà lão còn nhấn mạnh rằng việc một tác giả như vậy mà đạt giải Nobel văn chương chỉ làm hạ thấp giá trị của chính giải thưởng trong lòng bà. Cay cú hơn, bà còn khăng khăng rằng văn Hemingway chẳng hay bằng F.Scott Fitzgerald3 và bà còn bồi thêm phần nhận xét của mình khi cho rằng người thợ săn và ngư ông Earnest Hermingway đầy nam tính kia chỉ là vỏ bọc cho bản chất mê trai trẻ, càng trẻ càng tốt của nhà văn.

Caleb vẫn còn nhớ như in khuôn mặt đỏ như gấc vì giận dữ của cụ ông Janklow, và ngay tại lúc đó, ông cứ nghĩ ông lão sắp đứt gân máu tại chỗ. Và đó cũng là lần đầu tiên và duy nhất trong sự nghiệp của mình Caleb phải xông vào can thiệp hai khách tại phòng đọc, cho dù cả hai đều ở tuổi thất thập. Lần đó, có thể dễ dàng nhận thấy hai ông bà từ đấu khẩu sắp sửa lao vào đấu tay chân, đến nỗi Caleb phải nhanh chóng dọn sạch đám sách quý trên bàn đọc, tránh để chúng bị xem là vũ khí. Ông nhắc cho họ nhớ về cách cư xử lịch sự trong phòng đọc và thậm chí còn đe sẽ hủy bỏ quyền lợi thành viên của họ nếu họ không biết kềm chế. Cụ ông Janklow lúc đó cố gắng thoát khỏi cánh tay của ông, nhưng ông vẫn “vững như thạch”, rõ ràng là ông hoàn toàn có thể khống chế ông cụ già xọm kia.

Trở lại với hiện tại, lâu lâu ông lại ngẩng đầu lên quan sát phòng đọc để chắc chắn rằng cuộc đấu khẩu như lần trước sẽ không xảy ra nữa. Không như những gì ông đang suy nghĩ, cụ ông Janklow vẫn đang chăm chú đọc sách, bên cạnh là quyển sổ ghi chú và cây bút chì nhỏ, thi thoảng ông cụ lại ngừng đọc để tháo mắt kính dầy cộm ra và lau cho rõ. Còn bà lão Jewell English dán chặt mắt vào quyển sách của mình, thình lình, bà ngẩng lên và bắt gặp ánh mắt của ông, bà đóng quyển sách lại và ra hiệu cho ông đến gần.

Khi ông ngồi xuống bên cạnh bà, bà thì thầm, “Anh vẫn còn nhớ quyển sách của Beadle bữa trước tôi có kể anh nghe chứ?”

“Vâng , có phải quyển hay số một không?”

“Tôi đã mua được rồi”, bà ta khẽ vỗ tay reo mừng.

“Chúc mừng bà, tuyệt quá. Sách vẫn còn trong tình trạng tốt phải không ạ?”

“Cũng may là thế, nếu không tôi đã nhờ anh rồi. Ý tôi là, dù sao anh cũng là chuyên gia mà”.

“Cám ơn”, Caleb khiêm tốn. Bàn tay xương xẩu của bà chợt nắm tay ông, cái nắm chặt đến kinh ngạc.

“Thế anh có muốn lúc nào đó đến xem sách không?”

Ông khéo léo vươn người ra khỏi cái nắm tay của bà, nhưng bà vẫn không buông ra, “Dạ, tôi phải xem lại lịch làm việc. Tôi sẽ báo cho bà biết khi bà đến thư viện lần tới, bà cứ hẹn ngày nào cụ thể, tôi sẽ sắp xếp!”

Giọng bà mời gọi, “Caleb à, lúc nào mà tôi chẳng rảnh”. Bà chớp chớp đôi lông mi giả về phía Caleb.

“Điều đó thật tuyệt”, ông lại cố vặn tay mình ra khỏi tay bà lão, nhưng bà vẫn nắm chặt.

“Vậy bây giờ mình hẹn ngày luôn nhé”, giọng bà ta nhẹ nhàng.

Trong lúc khó xử, ông nhìn về phía cụ ông Janklow, lúc này cũng bắt đầu quan sát họ. Chính ông ấy và bà cụ Jewell này cũng đang giành giật thời gian của Caleb giống như hai con sói đang dành miếng thịt bò béo bở. Đáng lý giờ này ông phải đến bên cạnh trò chuyện với ông cụ, nếu không muốn ông ấy phàn nàn hàng tuần về điều đó. Và cũng chính vì điều đó, Caleb chợt nảy ra một ý.

“Bà Jewell này, tôi tin rằng, nếu bà hỏi ông Norman, có khi ông ấy cũng thích đàm đạo về quyển sách mới của Beadle lắm đấy. Chắc giờ ông ấy cũng đã hối hận về việc chỉ trích lúc trước lắm rồi”.

Bà ta lập tức buông tay ông ra, giọng gắt gỏng, “Tôi chẳng có thời gian nói chuyện với bọn người nguyên thủy mọi rợ đó”, rồi mở túi xách cho ông kiểm tra trước khi rời phòng.

Caleb mỉm cười nhẹ nhõm, xoa tay và dành chút thời gian còn lại với Janklow, thầm cảm ơn ông ta vì đã giúp tạo điều kiện rời khỏi bà cụ. Sau đó ông quay lại bàn làm việc.

Tuy vậy, đầu óc ông vẫn lan man nghĩ ngợi đến những chuyện đã xảy ra, từ quyển sách Thánh ca bí mật, cái chết của Jonathan, cái chết của Chủ tịch Hạ viện, “Bob” Bradley, và cuối cùng là Cornelius, tên tài phiệt giàu có, mà rõ ràng gã ám sát chính người hàng xóm của mình.

Và cuối cùng ý nghĩ của ông đã quay trở lại với bản thân, trở thành thủ thư chỉ vì ông ghét áp lực, nhưng biết đâu ông lại thích hợp làm cho CIA hơn chăng, nhất là những lúc rảnh trong giờ làm việc chẳng hạn.

Chú thích

1.Quỹ hưu trí 401(k) là một hình thức bù đắp công lao của người lao động khi chủ hãng mở một quỹ hưu mang tên người lao động và đều đặn bỏ vào quỹ một phần lương chưa đóng thuế của người này. Với chương trình trợ giúp hưu trí 401 (k), người công nhân không phải đóng thuế tạm thu trên phần lương bỏ vào quỹ vì số tiền này không ghi trên bảng lương, nhưng họ phải đóng thuế An Sinh Xã Hội (FICA) và Y Tế trên nguồn lợi tức trích bỏ vào quỹ hưu 401(k).

2.Aldrich Ames: Điệp viên làm việc cho cả CIA và KGB (Uỷ ban An ninh Quốc gia Nga). (Bị bắt ngày 21/2/1994).

3.Francis Scott Key Fitzgerald (24 tháng 9 năm 1896 - 21 tháng 12 năm 1940) là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "Thời đại nhạc Jazz"
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

87#
 Tác giả| Đăng lúc 12-10-2013 09:50:14 | Chỉ xem của tác giả
Chương 41

Annabelle gọi món ăn trong khách sạn, tắm táp, quấn mình trong chiếc khăn tắm to và ngồi trước gương chải tóc. Trong lúc làm những công việc trên, cô ả suy nghĩ miên man. Vậy là ngày thứ tư cũng đã đến và tên Jerry Bagger ắt hẳn đã nhận ra rằng hắn đã mất đi bốn mươi triệu đôla. Đáng lý cô ả đã cách xa hắn ít nhất là sáu nghìn dặm rồi, nhưng thực sự cô ta chỉ ngồi một chuyến bay về miền nam. Cô ta chưa bao giờ thất bại trong kế hoạch tẩu thoát, và sự thật thì cô ta cũng chưa bao giờ có một vụ chồng cũ bị giết hại như vậy cả.

Cô ta bị Oliver và Milton gây tò mò và thích thú, dù ông bạn Caleb có vẻ hơi đặc biệt chút xíu và anh chàng Reuben thì lại ngồ ngộ với tính cách nồng nhiệt của mình. Và sâu xa trong lòng, Annabelle phải thừa nhận rằng cô ta thích giao du với những người có tính cách là lạ như vậy. Cho dù bản tính thích một mình, cô ta vẫn là một phần của nhóm, và cô ta cần điều đó. Từ thưở ấu thơ, cho đến lúc trưởng thành cô ta đã luôn thành lập những nhóm riêng của mình. Oliver và những người bạn của ông đã đáp ứng đúng nhu cầu đó dù theo một cách khác. Nhưng mà, cô ta cũng không nên có mặt ở đây.

Cô ta ngừng chải tóc, trút khăn tắm và chui người vào một cái áo sơ mi dài tay. Cô ta đến bên khung cửa sổ, nhìn xuống những con đường tấp nập bên dưới. Dòng xe cộ đông đúc, nối đuôi nhau, dòng người hối hả xuôi ngược trên phố, cô ta hồi tưởng lại những hành động của mình: đóng vai một nhà biên tập, trợ giúp Oliver thám thính Thư viện Quốc hội, phạm tội nghiêm trọng khi dám giả danh FBI, và bây giờ cô ta đang sắp sửa tìm ra kế hay giúp Caleb lấy được những đoạn phim theo dõi để tìm ra sự thật về cái chết của Jonathan. Và nếu những gì Oliver suy đoán là đúng, thì một kẻ nào đó, còn nguy hiểm hơn cả Jerry Bagger đang chống lại họ.

Cô ta rời cửa sổ, ngồi xuống giường và bắt đầu thoa kem dưỡng da lên chân. “Mày bị điên rồi Annabelle ạ”, cô ta tự nhủ. “Tay Bagger sẽ lật tung cả thế giới này để tìm ra mày, vậy mà bây giờ mày vẫn ngồi đây, ung dung tồn tại trong cái đất nước quỷ quái này”. Nhưng cô ta đã hứa sẽ giúp họ, và cô khăng khăng bào chữa với chính mình, rằng cô ta phải là một phần của kế hoạch. “Mình có nên lộ diện mà tin tưởng rằng vệ tinh của Bagger không tìm ra mình ở thủ đô D.C này không?”, cô nói to. Có kẻ nào đó đã giết hại Jonathan, và cô ta muốn trả thù, chỉ vì cô ta tức giận khi thấy kẻ nào đó đã can thiệp vào cuộc đời ông, kết thúc nó, trước khi nó chấm dứt.

Cô ta chợt nghĩ ra một chuyện và nhìn đồng hồ. Cô ta không biết múi thời gian hiện tại của gã, và cô ta cần phải biết. Cô ta chạy vội đến chiếc bàn ngay góc phòng, tóm lấy điện thoại, nhấn số và đợi tiếng reo của nó một cách thiếu kiên nhẫn. Cô ta đã đưa số này cho gã ta và cả điện thoại gọi quốc tế để họ có thể liên lạc với nhau chút ít sau trò bịp đó. Bất cứ ai nghe ngóng được tin tức của Jerry sẽ báo cho người còn lại biết.

Cuối cùng Leo cũng trả lời. “Chào em”.

“Chào anh thì có. Tôi cứ nghĩ anh chẳng bắt máy”.

“Anh đang ở hồ bơi”.

“Hay nhỉ, thế chỗ nào trong hồ bơi?”

“Đáy hồ”.

“Không phải, ý tôi là anh đang trú ở đâu đấy?”

“Không thể cho biết. Giả dụ như Bagger đang đứng tại đây thì sao?”

“Tôi hiểu rồi. Anh còn nghe được ai khác không?”

“Chẳng có tin gì?”

“Thế còn Bagger thì sao?”

“Không, mà anh cũng bỏ tên hắn ra khỏi sổ địa chỉ rồi”, giọng gã khô khốc.

“Ý tôi là anh có nghe ngóng được tình hình ra sao không?”

“Chỉ vài tin đồn. Mà cũng không muốn tìm ra sự thật lắm, em biết tính cách giết chóc của hắn rồi đấy”.

“Anh cũng hiểu rằng hắn sẽ chẳng buông tha chúng ta cho đến tận hơi thở cuối cùng”.

“Vậy thì chúng ta cùng cầu nguyện cho cơn đau tim này, anh chẳng muốn hắn phải chịu đựng quá lâu”. Leo ngưng lại một chút và tiếp, “Có chuyện anh cần báo với em đó Annabelle, mà em đừng nổi giận nhé”.

Cô ta ngồi thẳng lại, “Anh đã gây ra chuyện à?”

“Anh lỡ tiết lộ với Freddy một chút xíu về tiểu sử của em”.

Cô ta đứng dậy, “Ít hay nhiều vậy?”

“Họ của em, và những chuyện giữa em và Paddy”.

Cô ta gào vào điện thoại, “Anh bị mất trí rồi à?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

88#
 Tác giả| Đăng lúc 12-10-2013 09:51:54 | Chỉ xem của tác giả
Chương 41
(tiếp theo)

“Anh biết, anh biết, mình thật là ngu ngốc. Chỉ là tự nhiên bật ra, và anh cũng chỉ muốn cho hắn thấy em chẳng giống bố em tí nào cả. Nhưng anh không có kể cho Tony biết, anh không phải kẻ khờ khạo”.

“Cám ơn anh, anh Leo, cám ơn hàng vạn lần”.

Cô ta ngắt ngang cuộc điện thoại và đứng giữa phòng, nếu Freddy biết được họ của cô ta và biết được cha cô ta là Paddy Conroy, kẻ thù truyền kiếp của Jerry Bagger, và nếu như Jerry mò đến hắn, thì hắn sẽ khai hết. Cô ta sẽ bị tóm gọn, cô ta có thể hình dung ra số phận của mình. Tên Jerry đó sẽ xé xác cô ra, từng chút từng chút một.

Cô ta bắt đầu thu dọn hành lý. Xin lỗi anh nhé, anh Jonathan.

Khi Caleb trở về căn hộ của mình vào buổi tối, ông đã thấy có người đang chờ sẵn ở chỗ sân đậu xe.

“Chào ông Pearl, ông làm gì ở đây vào giờ này?”

Vincent Pearl nhìn không giống giáo sư Dumbledore1 với chiếc áo thụng thường thấy. Thay vào đó, ông ta mặc một bộ đồ vest lịch sự, sơ mi cổ cao, giày sáng bóng, râu và tóc chải chuốt cẩn thận. Ông ta nhìn có vẻ gầy hơn trong bộ y phục trang trọng, và cũng chính vì điều đó Caleb phốp pháp tự nhủ với lòng rằng ông sẽ không bao giờ mặc áo thụng cả. Mắt kính của Pearl trễ xuống sống mũi, ông ta chăm chú nhìn Caleb, cái nhìn có vẻ van nài và người thủ thư cảm thấy chột dạ.

“Vâng ông cứ nói tiếp đi”, cuối cùng ông phải lên tiếng.

Bằng giọng trầm và có vẻ thiểu não, Pearl phân trần, “Anh chẳng nghe điện thoại, cho nên tôi nghĩ mình phải xuất hiện bằng xương bằng thịt để anh thấy tôi thật sự quan tâm đến quyển Thánh ca ấy”.

“Vâng, tôi hiểu”.

Pearl nhìn xung quanh, “Có điều chỗ đậu xe như vậy chẳng thích hợp lắm cho câu chuyện về một trong những quyển sách quý giá nhất trên thế giới”.

Caleb thở dài, “Đúng vậy, thôi mình lên nhà đi”.

Họ cùng vào thang máy và lên trên căn hộ của Caleb, rồi cả hai cùng yên vị ngồi đối diện nhau trong căn phòng khách nhỏ.

“Tôi cứ sợ anh đã đề cập chuyện quyển Thánh ca đó với hai nhà đấu giá danh tiếng Sotheby và Christie rồi đấy”.

“Không, vấn đề không phải vậy, chỉ là tôi vẫn chưa quay trở lại căn nhà từ lúc gặp ông ở đó. Tôi cũng chưa gọi cho ông vì tôi vẫn đang cân nhắc”.

Pearl có vẻ thoải mái hơn khi nghe xong câu trả lời, “Ít ra trong thời gian này chúng tôi cũng có trách nhiệm kiểm tra quyển sách ấy. Tôi có quen vài công ty có danh tiếng tốt và có thể đảm trách việc này, mà tôi thấy chúng ta cũng chẳng cần phải đợi lâu thêm nữa”.

Caleb ngần ngừ, “Nhưng mà...”

“Anh càng trì hoãn lâu chừng nào thì anh lại càng không kiểm soát được dư luận biết về sự tồn tại của quyển Thánh ca thứ mười hai này”.

“Ý ông là sao?”, Caleb nghiêm túc ngồi thẳng dậy.

“Tôi không biết anh có nhận thức rõ ràng việc quyển sách được phát giác hay không?”

“Hoàn toàn ngược lại là khác, tôi biết được tầm quan trọng của nó chứ”.

“Nhưng tôi sợ thông tin sẽ bị tiết lộ”.

“Sao lại thế? Tôi đâu kể cho ai biết”.

“Bạn của ông thì sao?”

“Họ hoàn toàn đáng tin cậy”.

“Tôi hiểu, nhưng xin thứ lỗi nếu tôi không được tự tin như anh, bởi vì chỉ cần một ít thông tin tiết lộ ra thôi, mọi người lại bắt đầu xôn xao bàn tán, và danh tiếng của anh bạn Jonathan thế là tiêu tan”.

“Họ bàn tán điều gì?”

“Có trời mới biết, nhưng tôi có thể tưởng tượng ra họ sẽ nói như vầy: quyển sách là vật ăn cắp chẳng hạn”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

89#
 Tác giả| Đăng lúc 12-10-2013 09:53:21 | Chỉ xem của tác giả
Chương 41
(tiếp theo)

Caleb chợt liên tưởng đến giả thuyết của mình rằng quyển Thánh ca đang nằm trong thư viện là giả mạo. Tuy vậy, ông lại cố tạo ra vẻ ngây thơ, “Ăn cắp à? Ai lại tin điều đó nhỉ?”

Pearl thở ra, “Chẳng có ai sở hữu một trong những của quý trong lịch sử sưu tập sách lại có thể giữ bí mật lâu như thế, cho đến thời điểm này đấy”.

“Và ông cho rằng đó là bởi vì Jonathan đánh cắp nó ư? Điều đó hoàn toàn phi lý. Ông ta ăn cắp chắc tôi cũng ăn trộm mất rồi”. Làm ơn, làm ơn đó không phải là sự thật đi.

“Nhưng cũng có khả năng ông ta đã mua quyển sách đó từ một tay trộm nào đó, vô thức hay cố tình. Dẫu sao chuyện của ông ta cũng rất đáng ngờ, đó cũng phần nào lý giải cho việc anh ta cố tình giữ bí mật về quyển sách”.

“Thế ông có nghĩ quyển sách được lấy trộm từ đâu không? Ông bảo ông đã kiểm tra những nơi sở hữu loại sách như vậy”.

Pearl phản ứng, “Thế anh nghĩ rằng họ sẽ nói cái quái gì? Anh có nghĩ họ sẽ thừa nhận việc họ làm mất quyển sách Thánh ca ấy? Mà có khi họ cũng chẳng biết đâu. Còn thêm giả thuyết rằng, có một quyển sách giả mạo giống y như thật đang nằm ngay trên kệ, và họ cũng chẳng bỏ công kiểm tra mỗi ngày xem liệu có đúng quyển sách thật hay không”. Ông ta ngừng một chút rồi tiếp tục, “Vậy anh có tìm ra giấy tờ tài liệu nào liên quan đến quyển sách hay không? Giấy tờ mua bán gì đó? Chứng minh nó từ đâu đến?”

“Tôi không thấy”, Caleb thừa nhận, ông cảm thấy chùng lòng. “Nhưng có điều tôi vẫn chưa lục đống giấy của cá nhân Jonathan nữa, vì tôi chỉ có bổn phận kiểm tra bộ sưu tập sách mà thôi”.

“Không phải như vậy, anh có nhiệm vụ kiểm tra cho được bằng chứng sở hữu sách của ông ta. Anh có nghĩ rằng những nhà đấu giá Christie và Sotheby sẽ trưng bày quyển sách Thánh ca ấy tại phiên đấu giá mà chẳng hay biết gì về tính xác thực và sự hợp pháp hóa do DeHaven đứng tên à?”

“Dĩ nhiên rồi, tôi cũng biết họ sẽ quan tâm đến điều đó”.

“Chính vì vậy, anh Shaw ạ, nếu tôi là anh, tôi sẽ bắt tay vào việc tìm ra bằng chứng ấy. Nếu anh không tìm ra, ắt hẳn cũng là lúc chúng ta có thể đi đến kết luận rằng việc Jonathan sỡ hữu nó thông qua những hình thức chẳng rõ ràng cho lắm, trong thế giới sách hiếm của chúng ta, điều đó đồng nghĩa với sự thừa nhận rằng Jonathan đã chính tay lấy cắp, hay cố ý mua lại thứ người khác đã lấy cắp”.

“Tôi nghĩ nếu tôi hỏi qua ý kiến luật sư của ông ta, thì tôi sẽ có thể tìm bằng chứng trong đống hồ sơ để lại. Hay họ cũng có thể làm điều đó thay tôi, nếu tôi báo họ biết tôi đang cần gì”.

“Nếu anh làm theo cách đó, họ sẽ thắc mắc, và nếu trong trường hợp anh kể cho họ nghe, anh sẽ gần như không làm chủ được tình hình nữa”.

“Vậy ý ông muốn tôi tự kiếm bằng chứng sao?”

“Dĩ nhiên là vậy, anh là người phụ trách của ông ta mà, đó là cớ để hành động”.

“Nếu là vậy thì tôi chẳng quan tâm nếu lỡ bị người ta nói”, Caleb bắt đầu nổi nóng.

“Anh có được trích phần trăm trên số tiền bán đấu giá sách không?”

“Xin cho phép tôi không trả lời câu này”, Caleb thẳng thừng từ chối.

“Cứ xem như là có, vậy thì nếu anh cứ tiến hành buổi đấu giá mà không tìm ra bằng chứng gì cho thấy Jonathan đã sỡ hữu nó một cách quang minh chính đại, thì nếu sự việc vỡ lở ra, tất cả danh tiếng của Jonathan sẽ bị xóa sạch? Khi một sự việc dính dáng đến số tiền kếch xù thì cũng là lúc người ta nghĩ ra đủ thứ xấu xa liên quan đến nó”.

Caleb cứng họng vì sự thật là thế. Cho dù lời nhận xét của Pearl hoàn toàn là chẳng lọt lỗ tai, ông ta ít nhiều cũng có lý. Caleb không chịu nổi ý nghĩ rằng danh tiếng của người bạn quá cố của mình sẽ tiêu tan và Caleb hiển nhiên cũng chẳng muốn chìm sâu xuống đáy chung với nó.

“Tôi nghĩ tôi có thể xem xét lại đồ đạc trong nhà của Jonathan”. Ông biết Oliver và những người khác đã lục soát khắp nhà nhưng họ không tìm mấy tài liệu chứng nhận sở hữu bộ sưu tập sách.

“Tối nay anh sẽ đi chứ?”

“Giờ đã trễ rồi”. Và ông cũng đã đưa chìa khóa cho Reuben.

“Vậy thì ngày mai nhé?”

“Vâng, ngày mai vậy”.

“Cho tôi biết anh tìm thấy và không thấy những gì nhé”.

Sau khi Pearl ra về, Caleb tự rót cho mình một ít rượu chát, nhấm nháp nó cùng với một tô đầy khoai tây chiên, món ăn khoái khẩu của mình. Bây giờ ông căng thẳng đến nỗi không chắc có thể tiếp tục chế độ ăn kiêng nữa không. Sau khi ăn uống xong, ông nhìn vào bộ sưu tập sách của mình và nhủ thầm:

Ai mà lại nghĩ là sưu tập sách lại rắc rối đến thế cơ chứ?

Chú thích

1. Dumbledore là một nhân vật hư cấu trong bộ truyện Harry Potter của nữ nhà văn J. K. Rowling
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

90#
 Tác giả| Đăng lúc 13-10-2013 07:22:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 42

Sáng sớm hôm sau, Reuben báo cáo cho Stone nghe rằng không có động tĩnh gì từ nhà của DeHaven cả cũng giống như đêm hôm trước.

“Không có gì à?”, giọng Stone nghi ngờ.

“Không có động tĩnh gì trong phòng ngủ nếu đó là những gì anh muốn biết. Tôi có thấy Behan và vợ hắn về nhà lúc nửa đêm nhưng mà rõ ràng đèn phòng không sáng, và họ cũng không dùng phòng đó, chắc nó chỉ dành cho mấy cô em xinh đẹp mà thôi”.

“Anh có nhìn thấy gì khác không? Xe tải màu trắng chẳng hạn”.

“Không, tôi ra vào căn nhà này mà có ai biết gì đâu. Có một hàng rào cao cả mười feet1 che phủ cả sân sau, chuông báo động ngay phía cửa hông sau, thế là cũng nhiều thứ lắm rồi”.

“Anh có chắc là anh không quan sát ra thứ gì có thể giúp chúng ta sao?”

Reuben nhìn có vẻ không chắc lắm, “có vẻ như là thế, nhưng vào khoảng 1 giờ sáng sớm tôi thấy ánh sáng nhá lên từ cửa sổ căn nhà đối diện”.

“Có khi là chủ nhà đang ở trong ấy”.

“Vấn đề là ở chỗ đó, nhìn chẳng giống như nhà có chủ. Chẳng thấy xe hơi lẫn thùng rác trước cửa nhà, và hôm nay cũng là ngày đổ rác vì những nhà khác đã để sẵn rác ra ngoài từ tối hôm qua”.

Stone nhìn Reuben chăm chú, “Điều này hay nhỉ. Có khi nào ánh sáng ấy xuất phát từ cái gì đó có dính dáng đến kính”.

“Chắc không phải liên quan đến súng đâu, nhưng có thể là một cặp ống nhòm”.

“Vậy thì cứ để ý chỗ đó kỹ vào. Vậy còn việc gọi cảnh sát thì sao?”

“Tôi gọi điện thoại thẻ giống như anh nói, nhưng chuyện không vui vẻ gì mấy khi có một người phụ nữ bảo tôi ngừng ngay việc quay số đến cảnh sát liên tục như vậy”.

“Thôi được rồi, gọi và báo cho tôi biết công việc của anh vào sáng mai”.

“Tốt, nhưng thế thì khi nào tôi mới được ngủ đây, Oliver? Tôi phải chuẩn bị đến khu bốc dỡ hàng, và chắc là bận cả tối”.

“Khi nào anh hết ca?”

“Hai giờ sáng”. “Vậy thì đi ngủ đi. Phải tới 10 giờ hơn tôi mới cần anh có mặt tại nhà của Jonathan”.

“Cám ơn nhiều. Ít ra tôi cũng có thể dùng tạm thức ăn của ông ta nhé?”

“Cũng được, miễn anh thêm thức ăn mới vào chỗ cũ là được”.

Reuben bực bội, “Này anh bạn, đừng tưởng cứ sống trong lâu đài là sung sướng nhé”.

“Nhưng mà, anh đâu có thiếu thứ gì đâu”.

“Vậy trong lúc tôi cực khổ ngoài này, Bệ hạ sẽ làm gì ạ?”

“Bệ hạ sẽ suy nghĩ”.

“Thế anh có tin gì của Susan không?”, Reuben háo hức.

“Chẳng có một tí gì cả”.

Nửa giờ sau trong lúc Stone đang làm việc ngoài khuôn viên nghĩa trang thì một chiếc tắc-xi dừng phía cổng, Milton bước xuống. Stone đứng lên, phủi tay và cả hai cùng vào nhà. Trong lúc Stone lấy nước chanh uống thì Milton tranh thủ mở máy tính xách tay và lấy ra một xấp tài liệu ông ta mang theo.

“Tôi tìm ra được nhiều điều hay về hai gã Cornelius Behan và Robert Bradley”, Milton giải thích, “Chỉ có điều không biết liệu có hữu ích hay không”.

Stone ngồi xuống bàn và kéo xấp tài liệu về phía mình, hai mươi phút sau ông ngẩng lên và nói, “Có vẻ như hai gã này chẳng phải bạn bè gì nhỉ”.

“Chính xác hơn phải gọi là kẻ thù mới đúng. Mặc dù công ty của Behan đã chiếm được hai hợp đồng của chính phủ, nhưng Bradley lại là kẻ phá bĩnh cản trở ba hợp đồng khác, bằng cách phao tin rằng Behan đã mua chuộc chính quyền. Tôi có được thông tin này từ một số tay nhân viên của điện Capitol đấy. Họ cũng chẳng nói thẳng ra điều đó, chỉ là họ tiết lộ rằng lúc sau này chính Bradley đã thẳng thừng công kích Behan, nói gã là một tay tham ô xấu xa. Mà sự việc xảy ra cũng không cho chúng ta thấy liệu họ có nằm trong một tổ chức gián điệp nào không”.

“Dĩ nhiên là thế, trừ phi chỉ là màn đánh lừa. Nhưng tôi đồng ý với tay Chủ tịch Hạ viện Nhà Trắng quá cố rằng tên Behan đó đã tham ô. Nhưng liệu gã có phải là tên xấu xa đã ra tay giết người? Chuyện của Jonathan là một bằng chứng rõ ràng nhất”.

“Vậy cũng có thể suy đoán rằng Behan cũng đã sai người giết Bradley bởi vì hắn có động lực mạnh mẽ nếu như gã kia đang cố phá chuyện làm ăn của hắn”.

Stone nói tiếp, “Chúng ta đặt giả thuyết rằng Jonathan bị đầu độc bằng khí cacbonnic, và cái thứ khí gây chết người kia thuộc về một trong số công ty của Behan. Hôm qua Caleb vừa gọi cho tôi, báo cáo tình hình điều tra của anh ta, về việc anh ta vào phòng sách và kiểm tra phía sau lỗ thông gió bị bẻ cong. Có một lỗ đinh ốc ở phía vách ống dẫn, nơi bị nghi ngờ là từng gắn máy quay phim. Anh ta còn cho biết những con ốc phía tấm lưới sắt bên ngoài cũng dễ tháo ra cứ như đã từng có người làm điều đó trước đấy. Nhưng vẫn chưa đủ bằng chứng xác thực rằng máy quay phim thật sự đã được gắn ở đấy”.

“Vậy nếu như chúng không là đồng bọn với nhau, Jonathan cũng chẳng thể gặp chúng ở nhà gã Behan. Vậy sao vẫn giết hại ông ta nhỉ?”

Stone lắc đầu, “Tôi cũng chẳng biết, Milton ạ”.

Sau khi Milton đi rồi, Stone trở lại với công việc tại nghĩa trang. Ông kéo chiếc máy cắt cỏ ra khỏi kho, nổ máy và làm việc trên khoảnh sân phía bên trái căn nhà. Khi xong việc, ông tạm ngưng máy, quay lưng lại và thấy Annabelle đã ở đó, quan sát ông. Cô ta đội một chiếc mũ rộng vành, đeo kính râm và khoác áo khoác bằng da dài màu nâu phủ kín váy ngắn bên trong, phía sau cô ta là một chiếc xe hơi thuê chờ sẵn ngoài cổng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách