Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Bộ Sưu Tập Tội Ác | David Baldacci (Hoàn) + Ebook

[Lấy địa chỉ]
91#
 Tác giả| Đăng lúc 13-10-2013 07:23:58 | Chỉ xem của tác giả
Chương 42
(tiếp theo)

Ông dùng khăn lau mặt, đẩy máy cắt cỏ vào khoảnh sân phía trước nhà nơi Annabelle đang đứng. Cô ta đẩy cặp kính râm lên và hỏi.

“Mọi việc thế nào rồi anh Oliver?”

Ông im lặng trong một lúc rồi mới cất lời, “Nhìn cô có vẻ giống như chuẩn bị đi đâu à?”.

“Vâng, đó là lý do tôi đến đây để báo cho anh về sự thay đổi trong kế hoạch. Vài giờ nữa tôi cất cánh rồi, và sẽ không quay lại”.

“Thật vậy ư?”

“Đúng vậy”, giọng cô ta cương quyết.

“Vâng, tôi chẳng trách cô đâu, chuyện đang dần nguy hiểm hơn”.

Cô ta nhìn thẳng vào mặt ông, “Nếu anh nghĩ điều đó là nguyên nhân khiến tôi bỏ đi, thì anh không phải là người thông minh như tôi tưởng”.

Ông nhìn cô ta một lát rồi chống chế, “Vậy thì kẻ nào đang tìm cô chắc cũng phải nguy hiểm không kém”.

“Anh cứ xem tôi là một người cũng phải có kẻ thù đi”.

“Tôi không đi tìm kẻ thù, chỉ là họ quyết tâm tìm ra tôi mà thôi”.

“Ước gì tôi có thể kể ra, tôi lại có xu hướng tạo kẻ thù đấy”.

“Vậy cô có tính nói cho những người kia biết không?”

Cô lắc đầu, “Tôi hy vọng anh sẽ giúp tôi làm điều đó”.

“Chắc bọn họ sẽ buồn lắm đấy, nhất là Reuben, còn về phần Milton thì tôi chưa bao giờ thấy anh ta vui vẻ như vậy trong thời gian cô đến đây. Anh bạn Caleb tuy bề ngoài có hơi lạnh lùng chút, nhưng anh ta sẽ cũng chẳng vui gì hơn”.

“Thế còn anh thì sao?”, cô ta hỏi, mặt cúi gằm.

Ông dùng mũi giày bốt gạt đám cỏ khỏi bánh xe máy cắt cỏ, “Cô cũng có vài tài lẻ đáng ngạc nhiên đấy”.

“Ý anh đang nhắc đến chuyện tôi móc túi anh à. Mà chuyện đó cũng chỉ xảy ra từ hồi nảo hồi nao rồi, từ lúc tôi lên tám đấy”, cô ta nhìn ông với ánh mắt dò xét.

“Tôi chắc cô lúc đó là một bé gái khôn lanh lắm nhỉ”.

Cô ta nở một nụ cười mỉm, “Dù sao thì lúc đó cũng là thời gian vui vẻ. Các anh bảo trọng nhé, giống như anh từng nói, kẻ thù luôn tìm các anh mà”.

Cô ta quay lưng, rảo bước.

“Susan, nếu chúng tôi tìm ra được lời giải đáp, liệu cô có muốn chúng tôi liên lạc với cô, cho cô biết về vụ của Jonathan không?”

Cô ta quay lại và nhìn ông, “Tôi nghĩ tôi nên để quá khứ ngủ yên”.

“Còn tôi lại nghĩ cô muốn biết, vì mất đi vị hôn phu theo cách như vậy không dễ quên đâu”.

“Anh có vẻ từng trải quá nhỉ?”

“Tôi cũng từng có vợ mà. Nhưng cũng lâu lắm rồi”.

“Anh chị ly dị à?”

“Không phải”.

“Nhưng chuyện của tôi và Jonathan lại khác. Chính ông ấy đã quyết định chấm dứt cuộc hôn nhân, còn tôi cũng chẳng biết sao mình đang ở đây”.

“Tôi hiểu. Vậy thì liệu tôi có thể nhận lại tấm hình không?”

“Sao cơ?”, cô ta giật mình.

“Hình Jonathan. Tôi muốn trả hình về nhà ông ta”.

“À... tôi không có mang theo đây”.

“Vậy thì khi cô đến nơi đâu, nếu tiện, cô gửi trả lại cũng được”.

“Anh có vẻ tin người quá đáng đấy, Oliver. Chẳng có gì có thể khiến tôi trả tấm hình lại cả”.

“Vâng, đúng thế. Không có gì”.

Cô ta tò mò nhìn ông, “Anh là một trong số những người kỳ lạ mà tôi từng gặp, và điều đó cũng nói lên chút gì đó”.

“Cô phải lên đường thôi, chắc cô không muốn lỡ chuyến bay đâu nhỉ”.

Cô ta liếc nhìn những ngôi mộ xung quanh, “Anh không thấy mình đang bị vây quanh bởi sự chết chóc ư. Cảm giác thật u ám. Đã đến lúc anh cần tìm một công việc khác rồi đấy”.

“Cô cảm nhận được cái chết và nỗi buồn dưới lớp đất lạnh kia, còn tôi, tôi lại thấy cuộc đời đã toàn vẹn, và những gì thế hệ đi trước đã làm có ảnh hưởng sâu sắc đến lớp trẻ tương lai”.

“Triết lý vị tha quá, tôi không thấu hiểu nổi đâu”.

“Tôi cũng từng nghĩ vậy”.

“Chúc may mắn”, cô ta bắt đầu quay đi.

“Nếu cô cần một người bạn, cô biết tìm tôi ở đâu rồi đấy”.

Bờ vai cô ta hơi sững lại trong chốc lát khi nghe ông nói lời này. Rồi cô ta đi mất. Về phần mình, Stone cất máy cắt cỏ vào kho, sau đó ra ngồi phía ngoài hè, lặng ngắm những nấm mồ xung quanh ông trong cái lành lạnh của cơn gió ngang qua.

Chú thích

1. Đơn vị đo độ dài (1feet = 0,3048 m) .
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

92#
 Tác giả| Đăng lúc 13-10-2013 07:27:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 43

Caleb đứng dậy chào người đàn ông vừa bước vào phòng đọc.

“Tôi có thể giúp gì anh ạ?”

Roger Seagraves chìa cho Caleb xem tấm thẻ thư viện mà bất cứ ai cũng có thể dễ dàng có được từ tòa nhà Madison phía đối diện chỉ bằng cách xuất trình bằng lái xe hay hộ chiếu, dù là thật hay giả. Cái tên trên thẻ là William Foxworth, tấm hình trên thẻ cũng là khuôn mặt của hắn, cả thông tin trên hệ thống máy tính của thư viện cũng tương tự.

Seagraves đưa mắt liếc nhìn xung quanh phòng đọc, chỉ có vài người đang ngồi, và nói, “Tôi đang tìm một vài loại sách”, rồi hắn đọc tên sách cần tìm.

“Được thôi. Anh có sự yêu thích cụ thể nào về kỷ nguyên đó không?”

“Tôi thích nhiều thứ”, Seagraves trả lời, “đó chỉ là một trong số sở thích của tôi mà thôi”. Hắn quan sát Caleb một lúc, làm ra vẻ như đang suy nghĩ ra điều gì để nói. Thật ra, đoạn đối thoại đã được hắn chuẩn bị kỹ lưỡng, và hắn cũng thuộc nằm lòng những chi tiết về Caleb Shaw. “Tôi cũng là người sưu tập sách, có điều mới vào nghề thôi. Tôi vừa mua vài quyển văn học Anh đang tính nhờ người kiểm tra giùm xem. Đáng lý tôi phải làm điều này trước khi mua chúng, nhưng như anh đã biết, tôi chỉ vừa vào nghề. Tôi kiếm được một chút vốn, và cũng có người mẹ làm tại thư viện trong vài năm. Lúc nào tôi cũng yêu thích sách cả, có điều sưu tập sách là một cuộc chơi mới với tôi”.

“Tôi hoàn toàn đồng ý, và có khi cũng hơi khốc liệt đấy”, Caleb nhận xét, và rồi châm chước, “Theo cách chính thống thôi. Mà nói gì thì nói, lĩnh vực chuyên ngành của tôi là văn chương Anh thế kỷ thứ mười tám đấy”.

“Hay quá”, Seagraves thốt lên, “Quả là một ngày may mắn”.

“Thế anh có sách gì vậy, anh Foxworth?”

“Cứ gọi tôi là Bill, nguyên tác của tác giả Defoe”.

“Quyển Robinson Crusoe hay là Moll Flanders?"

“Moll Flanders”, Seagraves trả lời.

“Tốt quá. Thế còn gì nữa?”

“Tác phẩm của Goldsmith - Cuộc đời của Richard Nash. Và một quyển của Horace Walpole”.

“Ý anh là tiểu thuyết Lâu đài Otranto à, xuất bản năm 1765?”

“Đúng thế. Vẫn còn trong tình trạng tốt”.

“Anh vẫn chưa quen với việc nhìn nhận chúng. Tôi rất sẵn lòng giúp anh vì anh biết đấy, có rất nhiều dị bản đấy. Người nào mua sách cũng suy nghĩ đơn giản rằng họ đang mua đúng nguyên tác, nhưng có khi chỉ là bị gạt thôi, mà chuyện như vậy cũng xảy ra với cả người sành sỏi nhất”, và tiếp tục nói thêm, “Nhưng không phải là cố ý đâu”.

“Tôi sẽ mang theo sách khi tôi đến đây lần tới nhé”.

“Tôi không chắc anh sẽ làm được điều đó, nhất là khi anh mang chúng ngang qua phòng bảo vệ, trừ phi anh đã thỏa thuận trước đó. Vì họ có thể nghĩ rằng anh đã ăn cắp sách, còn anh thì cũng đâu muốn bị bắt đúng không nhỉ”.

Seagraves vờ tái mặt, “Đúng rồi, tôi cũng chưa nghĩ đến chuyện đó nữa. Ôi Trời, cảnh sát, trước giờ tôi còn chưa nhận thẻ phạt xe đậu trái phép nữa là”.

“Cứ bình tĩnh, mọi việc đâu còn có đó”, giọng Caleb đầy tự hào, “Thế giới sách quý hiếm, theo tôi, rất phức tạp, có pha chút mạo hiểm. Nhưng nếu anh nghiêm túc về việc sưu tập sách của thế kỷ mười tám, anh cần phải quan tâm đến một số tác giả tiêu biểu của thời kỳ này. Tôi có thể gợi ý cho anh vài người, như là Jonathan Swift và Alexander Pope, hai nhà văn được xem là bậc thầy của nửa đầu thế kỷ. Ngoài ra, còn có tác phẩm Tom Jones của Henry Fielding, rồi nhà văn Tobias Smollett, Edward Gibbon, Fanny Burney, Ann Radcliffe và Edmund Burke nữa, đó cũng không hẳn là một niềm đam mê tốn kém lắm đâu”.

“Tôi sẽ cố gắng tìm hiểu”, Seagraves cất giọng ủ rũ.

“Việc này không giống như thu thập nắp chai nhỉ?”, Caleb bật cười vì lời ví von của mình, “À, mà anh cũng đừng quên cây đại thụ của kỷ nguyên đấy, bậc thầy văn chương của nửa sau thế kỷ, ngài Samuel Johnson. Tuy danh sách tôi kể ra vẫn chưa đủ, nhưng cũng là khởi đầu tốt đấy”.

“Anh quả là uyên bác về lĩnh vực văn học thế kỷ mười tám nhỉ”.

“Hẳn là thế, vì tôi làm tiến sỹ về đề tài này mà. Còn về chuyện đánh giá sách, chúng ta cũng có thể gặp nhau ở đâu đó, cứ báo tôi biết thôi”. Ông thò tay vào túi, và đưa cho Seagraves một tấm danh thiếp với số điện thoại văn phòng của ông trên đó. Ông nhiệt tình vỗ mạnh vai của Seagraves và tiếp lời, “Giờ anh lấy sách nhé”.

Khi Caleb mang sách ra cho hắn, ông còn dặn với theo, “Chúc anh đọc sách vui nhé”.

Hắn liếc nhìn Caleb và cười thật tươi. Chắc chắn rồi, anh Caleb ạ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

93#
 Tác giả| Đăng lúc 13-10-2013 07:29:41 | Chỉ xem của tác giả
Chương 43
(tiếp theo)

Như đã hẹn trước, Caleb gặp Reuben rồi cả hai cùng đến nhà của Jonathan sau khi Caleb tan sở. Họ tìm kiếm trong hai giờ đồng hồ nhưng chỉ tìm thấy hóa đơn mua bán sách các loại trong ngăn bàn nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy giấy chứng nhận sở hữu Thánh ca của Kinh Cựu ước của tay quản thư.

Kế đến Caleb vào phòng sách, ông cần phải kiểm tra mã thư viện trên sách vì điều đó có thể chứng minh xem liệu Jonathan có đánh cắp nó không, nhưng ông không tự tin bước vào. Lỡ như có mã thư viện trên sách thì sao? Ông không hình dung mình sẽ như thế nào nếu đó là sự thật. Cuối cùng, Caleb đã quyết định hành động theo bản chất của mình: trốn tránh sự việc, và tự an ủi rằng quyển sách vẫn còn đó.

Ông bảo Reuben, “Tôi thật không hiểu, Jonathan là người chân thật mà”.

Reuben nhún vai, “Đúng thế, nhưng anh vẫn bảo người ta hay thích sưu tập mà, và vì quyển sách quý giá đó, biết đâu ông ấy lại làm điều xấu, và cũng là lý do ông ta giữ bí mật”.

Caleb chống chế, “Nhưng cuối cùng rồi cũng bị phát giác thôi, ông ấy cũng phải chết mà”.

“Nhưng không phải đột ngột như vậy, có thể ông ta đã lên kế hoạch mà không có cơ hội thực hiện”.

“Vậy tôi làm sao có thể bán đấu giá một quyển sách mà không có giấy tờ chứng nhận sở hữu?”

“Caleb, tôi biết ông ấy là bạn anh nhưng cũng có lúc sự thật phải được phơi bày”, Reuben nói nhỏ.

“Sẽ có xì-căng-đan mất”.

“Tôi không biết anh giải quyết vụ việc ra sao, miễn đừng vướng vào nó thôi”.

“Tôi nghĩ anh có lý. Cám ơn nhé, anh có ở lại đêm nay không?”

Reuben nhìn đồng hồ, “Vẫn còn khá sớm, nhưng tôi nghĩ tôi sẽ đi với anh rồi quay lại sau. Ít ra tôi có thể ngủ một lúc chiều nay”.

Cả hai rời khỏi nhà. Ba giờ sau, trước khi đồng hồ điểm 11 giờ, Reuben lọt vào nhà qua cửa sau. Ông ta chuẩn bị món ăn nhẹ trong bếp rồi lên tầng. Ngoài hướng thông qua căn phòng “tình yêu” của Cornelius Behan, căn gác cũng cho phép nhìn ra toàn cảnh đường Good Fellow qua cửa sổ bán nguyệt. Reuben luân phiên quan sát cả nơi trú ngụ của Behan lẫn căn nhà đối diện bằng ống nhòm mang theo.

Khi chiếc xe hơi Cadillac màu xanh lá đỗ xịch trước nhà Behan vào lúc một giờ sáng, Reuben quan sát thấy gã ta, và một phụ nữ trẻ trong chiếc áo khoác da dài màu đen và vài tên cận vệ của gã bước ra. Tất cả cùng vào nhà. Chắc là quý phu nhân lại đi vắng, Reuben thầm nghĩ và di chuyển đến hướng cửa sổ nhìn sang nhà Behan. Ông chẳng phải đợi lâu vì chỉ một lát sau, đèn trong phòng ngủ bật sáng và nhà tài phiệt giàu có cùng cô gái mỹ miều bước vào.

Behan ngồi xuống ghế, vỗ tay và ngay lập tức, cô gái bắt đầu hành động. Cô ta cởi từng nút áo một, và trong lúc cô ta làm điều này, Reuben từ xa tuy thừa biết chuyện gì sẽ xảy ra vẫn nín thở theo dõi qua ống nhòm: đôi tất lưới dài, chiếc áo ngực cùng hàng nút bấm, và chiếc quần nhỏ xíu. Ông thở ra một hơi dài, để cảm giác đỡ căng thẳng.

Trong lúc Reuben đang quan sát, thì thình lình ông nhận thấy một vầng lửa đỏ lóe lên từ cửa sổ căn nhà nhìn ra ngoài đường. Ông ngẩng lên, nhưng không để tâm lắm vì nghĩ đó là ánh sáng từ chân thắng xe hơi vừa vút ngang, ông nhún vai, và lại tiếp tục quan sát qua ống nhòm. Lúc này, cô gái đã cởi bỏ xiêm y, và để chúng rơi tự do trên sàn, cô nàng đang ngồi xuống ghế và chậm rãi cởi đôi tất chân, thân hình hiện dưới ánh đèn.

Không nên được voi đòi tiên nhé, Reuben tự an ủi bản thân trước những cảnh tượng nóng bỏng kia và lại buông tiếng thở dài. Ông liếc mắt về phía cửa sổ căn nhà đối diện, và lần này ông thấy rõ ánh sáng đỏ quạch kia. Đó chẳng phải là xe hơi, ông chạy đến bên cửa sổ và nhìn chăm chăm vào nó. Có cháy nhà chắc. Ông chăm chú lắng nghe, liệu có phải đó là tiếng còi hụ của xe chữa cháy? Liệu có ai báo cảnh sát chưa?

Ông không kịp tìm ra câu trả lời bởi vì một cú đánh mạnh từ phía sau gáy hạ ông gục xuống sàn. Roger Seagraves bước vòng qua thân thể bất động của Reuben và tiến về phía cửa sổ nhìn sang nhà Behan, nơi hắn có thể chắc mẩm như in, dù không hề nhìn qua ống nhòm thì cô gái xinh đẹp kia đã trút bỏ toàn bộ xiêm y, và đang ở trước mặt anh chàng cực kỳ hạnh phúc mang tên Cornelius Behan.

Và đó cũng chẳng phải là điều cuối cùng.

Khi Reuben tỉnh lại, mở mắt ra, ông không nhận biết mình đang ở đâu. Ông chậm rãi ngồi dậy và căn phòng hiện ra rõ hơn, ông vẫn còn trên gác. Ông run rẩy đứng dậy và lần nhớ lại chuyện gì đã xảy ra. Ông vớ lấy một tấm ván nằm trên sàn làm vũ khí và ông đảo mắt xung quanh gác, nhưng không thấy ai khác. Reuben hoàn toàn ở một mình, nhưng chắc hẳn có kẻ nào đó đã ở trong phòng này, và đã dùng sức mạnh đánh ông bất tỉnh.

Tiếng động phía dưới đường làm ông quan tâm. Ông nhìn xuống cửa sổ, và thấy hàng đoàn xe cứu hỏa đang xếp hàng, chữa cháy cho căn nhà phía đối diện, và cả xe cảnh sát cũng có mặt tại hiện trường.

Vội xoa xoa đầu vì ê ẩm, ông liếc nhìn hướng nhà của Behan. Tất cả đèn đã bật sáng, và việc cảnh sát đang tràn ngập trong nhà hắn làm Reuben cảm thấy bồn chồn. Ông đi đi lại lại trong phòng và rồi lại quan sát qua ống nhòm. Đèn phòng ngủ vẫn sáng, chỉ có điều là không khí và khung cảnh hoàn toàn khác mà thôi.

Tên Cornelius Behan đang nằm úp mặt trên sàn, trên người vẫn là bộ quần áo lúc trước. Tóc của gã đỏ sậm hơn lúc nãy vì một lỗ hỗng khá lớn sau đỉnh đầu. Cô gái đang ngồi trên giường, và theo như những gì Reuben có thể quan sát được, cô ta cũng loang lổ máu me đầy người, có vẻ như cô ta cũng bị sát hại ngay ở phần đầu. Cảnh sát mặc sắc phục và một số nhân vật khác đang khám nghiệm trong phòng. Mình đã bất tỉnh bao lâu rồi? Ông bắt đầu kết nối sự kiện lại với nhau. Ông nhìn thấy hai lỗ đạn trong cửa sổ phòng ngủ và hướng thẳng vào cửa sổ phòng ông đang đứng. “Chết tiệt thật!”, Reuben thốt lên và chạy về phía cửa, ông vấp phải cái gì đó và ngã lăn ra sàn. Ông vươn tay với vội thứ gì đó và chạm tay vào một thứ. Khi hoàn hồn đứng dậy, ông thấy mình đang nắm chặt một khẩu súng trường, hung khí chắc chắn đã gây ra cái chết cho hai nạn nhân bên kia. Ông lập tức buông súng, và bước vội ra khỏi phòng, khi đi ngang qua nhà bếp, ông chợt thấy phần thức ăn thừa vẫn dang dở và ông nhận ra rằng có thể dấu vân tay mình vẫn ở khắp mọi nơi. Có điều là ông không còn thời gian để suy nghĩ về vấn đề này nữa, ông hướng về phía cửa sau của căn nhà. Ánh sáng chói nhòa ngay mặt ông, khiến ông phải đưa tay che mặt và giọng của viên cảnh sát vang lên, “Đứng yên, cảnh sát đây!”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

94#
 Tác giả| Đăng lúc 13-10-2013 07:32:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 44

Tôi đã tìm cho anh ấy một người luật sư đấy”, Caleb mở lời, “Anh chàng này cũng còn trẻ mà lại không đắt tiền như những tay lão luyện khác, nên cũng không chắc kết quả có khả quan không. Nhưng phần nào đó tôi cũng giúp cho Reuben khi nói dối với đám cảnh sát rằng Reuben ở tại hiện trường theo yêu cầu của tôi, để kiểm kê số sách thu thập và đó là lý do anh ta có chìa khóa và mã số mở cửa. Tôi cũng bổ sung thông tin tên tuổi của luật sư của Jonathan trong trường hợp họ biết chức danh của tôi là người phụ trách bản thảo của ông ta”.

Milton và Caleb đang ngồi trong nhà của Stone, cái tin Reuben bị bắt vì phạm tội giết hại Cornelius và cô ả bạn gái của gã đã làm khuôn mặt mọi người lo lắng.

“Anh ta có được tại ngoại không?”, Milton hỏi.

Stone lắc đầu, “Họ có rất nhiều nghi vấn xung quanh việc anh ta đang có mặt tại hiện trường cũng như tình tiết vụ việc. Chỉ hy vọng thông tin mà Caleb đưa ra sẽ giúp họ giảm nhẹ mức án mà thôi”.

Caleb nói thêm, “Sáng nay tôi có gặp Reuben một lúc. Anh ta kể rằng anh ta đang quan sát nhà của Behan thì tự nhiên phát giác ra đám cháy và sau đó bị đánh vào đầu bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, anh thấy Behan và bạn tình của hắn đã chết. Rồi khi anh ta ráng thoát ra khỏi rắc rối thì lại bị cảnh sát bắt”.

“Những tờ báo đưa dòng tít lớn rằng ngài tài phiệt của chúng ta đã bị ám hại chung với cô nhân tình lõa thể, trong khi quý phu nhân thì lại đang chu du ở New York tối qua”, Milton thêm vào.

Stone hỏi, “Chúng ta cần phải tìm ra sát thủ thật sự”.

Milton thắc mắc, “Liệu bằng cách nào đây?”

“Bằng cách tiếp tục cuộc điều tra của mình”. Ông nhìn thẳng Caleb và tiếp, “Chúng ta cần phải xem qua những đoạn băng của máy quay phim tại thư viện”.

“Susan có bảo sẽ hỗ trợ tôi phần này mà tới giờ cũng chưa thấy cô ấy có động tĩnh gì”.

“Tôi e là anh phải tự thân vận động thôi”.

Caleb có vẻ ngạc nhiên nhưng cũng không hỏi lại Stone. Stone tiếp tục trình bày, “ Vậy là bây giờ chúng ta cứ kết luận rằng Behan và Bradley không phải là bạn, lúc trước tôi từng nghĩ rằng Behan đã nhờ người ám sát Bradley, và giả thuyết đó vẫn đúng, chỉ có điều là ai đã giết Behan và tại sao lại làm vậy?”

Milton đặt giả thuyết, “Hay là trả thù cho cái chết của Bradley?”

“Nếu vậy, chúng ta phải truy tìm đầu mối bằng mọi cách, tôi cần biết về tên tuổi nhân viên của Bradley, cộng sự, bạn bè trong quân đội hay lĩnh vực tình báo, đó là những người có khả năng và cả phương tiện để hành động”.

Milton tán thành, “Có một thứ gọi là Thư mục không trúng cử có thể hữu ích cho chuyện này. Có điều đụng đến người quân đội, hay tình báo cũng mất khá nhiều thời gian đấy”.

“Kẻ nào đã giết hại Behan chắc chắn biết đến sự có mặt của Reuben ở đó, và gài bẫy anh ta, đồng nghĩa với việc chúng cũng đang theo dõi căn nhà”.

“Ý anh là những kẻ ở căn nhà đối diện mà Reuben đề cập phải không?”, Caleb đánh bạo nêu ý kiến.

Stone lắc đầu phủ nhận, “Không phải vậy. Vụ hỏa hoạn sẽ do đồng bọn của tên sát thủ dựng ra, bọn chúng thừa biết vụ theo dõi đang diễn biến ra sao, và việc phóng hỏa chỉ là chiêu đánh lừa và tạo cơ hội cho chúng vào nhà, giết Behan và tẩu thoát”.

“Kế hoạch hay nhỉ”, Caleb ca tụng.

Stone trả lời, “Bây giờ tôi vào thành phố thăm Reuben đây”.

“Họ có hỏi căn cước hay gì không, Oliver?”, Milton hỏi.

“Họ có hỏi, nhưng lần trước khi tôi bị kiểm tra, cho dù không có cũng không gán là có tội”.

“Tôi tin là Susan có thể tìm cho anh một thẻ căn cước đấy”, Milton lên tiếng, “Cô ta có vài thứ đồ của dân FBI nhìn cứ như thật”.

Caleb hùa theo, “Mà cô bạn đồng nghiệp gan dạ của chúng ta đâu rồi nhỉ?”

“Cô ấy có vài kế hoạch khác rồi”, Stone trả lời.

Jerry Bagger ngồi trong phòng làm việc với vẻ ủ rũ thất bại hiếm có đối với một người như hắn. Những tấm hình của Annabelle và Leo đã được thận trọng gửi đi vào thế giới ngầm và tới giờ vẫn chưa có ai nói ra được hành tung của họ. Điều đáng ngạc nhiên ở đây không phải là chuyện không có một bức hình rõ ràng nào của hai kẻ đó, mà là việc có cảm giác họ biết chỗ nào có gắn máy theo dõi vậy. Hiện tại, cho dù người của hắn đã làm hết sức để ngăn chặn thông tin những tên lừa bịp đã tìm đến ngài Bagger đáng kính thì nó vẫn ít nhiều bị lộ ra, và điều đó có khi lại càng gây bất lợi hơn cả sự thật, bởi vì nó tạo điều kiện cho suy đoán và lời đồn nhảm. Tóm lại, hắn hiện là tâm điểm của những lời đùa cợt, và việc đó chỉ khiến gã thêm điên tiết, quyết tâm phải tìm được cặp nam nữ kia, xẻ thịt họ qua máy cưa trong lúc hắn điềm nhiên ngồi quay hình lại cảnh tượng rùng rợn nhất trên đời này.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

95#
 Tác giả| Đăng lúc 13-10-2013 07:33:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 44
(tiếp theo)

Phòng của họ đã bị lục soát kỹ lưỡng, tuy vậy không tài nào tìm ra một vết vân tay nhỏ, thậm chí ngay cả ly uống nước của họ cũng được lau sạch dấu vết. Còn cái điện thoại di động mà Annabelle ném bay vào tường đã nằm gọn trong sọt rác và bây giờ đang chu du đến khu đổ rác nào đó của bang Jersey cả cái cửa sổ trong bốn ngày cũng che dấu hành tung của họ. Bagger vò đầu, hắn chính là kẻ đã quyết định tăng thêm thời gian, và cũng chính hắn đã tự đưa mình vào tròng.

Con quỷ cái đó đã lên hết những kế hoạch như vậy, nó đưa cho mình cái thòng lọng, còn mình tự xiết dây.

Hắn đứng dậy và tiến về phía cửa sổ. Hắn luôn tự hào mình là kẻ đánh hơi ra những mưu mô như vậy trước khi có kẻ thực hiện nó và gây hại cho hắn. Nhưng hắn phải tự nhận đây là lần đầu tiên chính hắn là đối tượng của vụ lừa gạt, trong khi tất cả những lần khác đối tượng lại là sòng bạc của hắn. Đó chỉ là những mưu mô ngắn hạn, nhằm lừa tiền từ những bàn xì-phé, ru-lét của hắn mà thôi. Lần này thì khác, chỉ huy vụ bịp lần này là một phụ nữ biết chính xác muốn gì, và sử dụng tất cả những mánh khóe mà ả có, ngay cả cái thứ xưa như trái đất là tình dục.

Nhưng hắn phải công nhận ả nhập vai rất tốt, hắn vẫn còn nhớ như in những câu chuyện ả bịa ra, việc ả ngắt và mở hệ thống nghe trộm đúng lúc, ngay cả việc ả đã làm cho hắn tin tưởng ả là gián điệp chuyên nghiệp làm việc cho chính phủ. Chính những tiểu tiết như vậy đã góp phần làm cho hắn tin cả câu chuyện bịa to lớn hơn đằng sau.

Hắn liếc ra ngoài cửa sổ, trí óc liên tưởng đến cú điện thoại, cái cú điện thoại hẹn gặp gã sau khi cô ả giả vờ khám phá ra đám cận vệ của hắn đang bám theo. Hắn đã nói dối ả rằng hắn đã ra rời văn phòng, trên đường ra khỏi thành phố, còn ả thẳng thừng chỉ rõ hắn đang ở trong chính văn phòng. Chính từ lời nhận xét đó đã làm cho hắn tin tưởng ả hơn, rằng đám người nào đó đang theo dõi hắn. Theo dõi ư?

Hắn nhìn vào cái khách sạn cao hai mươi ba tầng trên đường Boardwalk, tương tự như tòa nhà của hắn, nơi dãy cửa sổ trông thẳng qua văn phòng của hắn. Đồ khốn nạn! Thế là đủ rồi! Hắn gào lên với tên vệ sĩ.

*

Sau vài thứ thủ tục, chất vấn phiền hà và cả cú điện thoại cho luật sư của Reuben, cuối cùng Oliver cũng được vào thăm bạn trong tù. Khi cánh cửa nhà tù đóng lại phía sau lưng ông, Stone hơi giật mình. Trước đây, dù gì ông cũng từng ở tù, cho dù không phải là nhà tù Mỹ. Không, cũng không hẳn, ông tự bào chữa, vì lần chất vấn gần đây nhất của ông là do những người Mỹ đồng hương thực hiện ngay chính trên đất Mỹ mà.

Cho rằng căn phòng thăm thân nhân được theo dõi chặt chẽ, Stone và Reuben nói nhỏ vừa đủ nghe, và chỉ sử dụng những từ ngữ vừa đủ, thậm chí Stone cũng bắt đầu gõ nhịp chân xuống sàn.

Reuben suy đoán, “Anh cho rằng âm thanh có thể làm rối thiết bị nghe trộm điện tử à?”

“Cũng không hẳn thế, nhưng điều đó làm tôi thấy thoải mái hơn”.

Reuben mỉm cười và cũng bắt đầu nhịp chân, “Vụ hỏa hoạn?”, ông thì thầm.

“Vâng, tôi biết”, Stone trấn an, “Anh ổn chứ?”

“Chỉ bị một cú vào đầu, luật sư của tôi sẽ xem đó là một lời biện hộ cho vụ này”.

“Thế còn dấu vân tay trên súng thì sao?”

“Không cố ý chạm phải”.

“Caleb có lý giải với đám cảnh sát rằng anh đang ở đó canh sách thôi”, Reuben gật đầu, “Còn gì khác không?”

Reuben lắc đầu, “Tôi chỉ quan tâm tới vụ điều tra của chúng ta, mà thấy sự việc có vẻ lắng xuống”.

“Vẫn đang tiến triển, tình hình là vậy”.

“Giữ liên lạc với nhau phải không?”

Stone gật nhẹ, “Anh còn cần gì thêm không?”

“Có, phải chi có Johnnie Cochran1 ở đây. Nhưng đáng tiếc là ông ta lại đang trong phòng xử án trên trời rồi”. Ông ngừng lại một chút, “Thế còn Susan thì sao?”

Stone ngần ngừ, “Cô ấy bận rồi”.

Khi Stone rời chỗ đó, ông thấy có hai người đàn ông, chắc hẳn là nhân viên cảnh sát, đang theo dõi từ một vị trí cố định. “Anh sẽ cho mấy chú em tung tăng một lúc”, ông lẩm bẩm và trong đầu hình dung ra người kế tiếp ông cần gặp.

Chú thích

1. Johnnie Cochran - luật sư nổi tiếng của Mỹ (mất vào tháng 3 năm 2005 vì u não, thọ 67 tuổi).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

96#
 Tác giả| Đăng lúc 13-10-2013 15:24:13 | Chỉ xem của tác giả
Chương 45

Roger Seagraves đọc tin trên mạng trong giờ làm việc, kẻ bị tình nghi là hung thủ đã được nhận dạng là Reuben Rhodes, có tật xấu là nghiện rượu, từng phục vụ trong quân đội và Cơ quan Tình báo Quốc phòng, là người đốt sạch nhiều cây cầu trong những năm còn đương chức. Hiện kẻ tình nghi này đang làm việc ở một kho bốc dỡ hàng tại thủ đô Washington và sống ẩn dật trong một căn nhà tồi tàn ở ngoại ô phía bắc bang Virginia. Tờ báo còn cố ý nhấn mạnh rằng, hung thủ là một tay chế tạo mìn hẹn giờ tài tình, và chính người này, với sự chán ghét chiến tranh đã từng thủ tiêu một tay chuyên làm giàu bằng cách cung cấp thứ vũ khí chết người cho những nơi cần chúng để tạo ra chiến tranh. Câu chuyện hay đến đáng ngờ.

Khi Seagraves nhìn thấy gã đàn ông to lớn bước vào nhà từ cánh cửa sau, hắn không biết phải xử lý thế nào. Liệu đó có phải là kẻ trộm, nhưng rõ ràng là chuông báo động không vang lên, và sáng sớm hôm sau, gã ra khỏi nhà tay không. Đêm hôm sau nữa, Seagraves đã tìm ra một cơ hội vàng để tạo ra vở kịch hay cho đám cảnh sát.

Hắn đã dành thời gian cho chính phủ, và tốn giờ cho liên bang, và bây giờ là lúc dành riêng cho hắn, hắn cần phải nhận một chút gì đó. Tuy hành động này chẳng có vẻ gì là thư giãn như với cô nàng ở Cơ quan An ninh Quốc gia, nhưng mà công việc thì phải có lúc này lúc khác. Điều quan trọng là phải giữ cho những mối làm ăn với hắn vui vẻ và theo guồng, đồng thời không bị nghi ngờ. Cũng may, nhờ vào vị trí của mình ở CIA, hắn có thể được tiết lộ vài thông tin quan trọng về những cuộc điều tra dành cho đám nhân viên tình báo nội bộ. Hơn thế, FBI có nhúng tay và giữ nhiều trọng trách quan trọng đi nữa, với mối quan hệ của mình, hắn có thể tìm hiểu xem kẻ nào được hân hạnh “trong danh sách tình nghi”.

Tài năng của hắn đã được chứng minh qua việc mũi tên tình nghi không bao giờ chĩa về hắn cả. Có vẻ như CIA không thể tin rằng một trong những tay ám sát kỳ cựu như hắn lại giở trò. Liệu chúng có ngây thơ nghĩ về điều đó một cách giản đơn như vậy? Nếu sự thật là thế, hắn thật sợ cho một viễn cảnh an ninh quốc gia suy yếu chỉ vì những kẻ cầm đầu đám tình báo lại dễ bị xỏ mũi đến vậy. Nhưng cũng còn tên Alderich Ames là bằng chứng được phanh phui đấy chứ, có điều Seagraves này khôn ngoan hơn gã đó nhiều lắm.

Seagraves nhận lệnh giết người từ chính phủ, do vậy, nguyên tắc cam kết, trong ngữ cảnh này pháp luật và mệnh lệnh không được áp dụng với hắn. Hắn giống như một vận động viên chuyên nghiệp, khéo léo xử lý tình huống khi làm chủ được sàn đấu. Những tay như vậy bộc lộ những nét hấp dẫn khán giả ngay trên sân thi đấu, và cũng chính những tính cách đặc trưng ấy làm họ trở nên nguy hiểm hơn. Nếu như Seagraves có thể không bị vướng vào những vụ giết người bao năm qua, thì hắn tin rằng không có gì mà hắn không thể làm cả. Thậm chí cho dù hắn có xem sát thủ là nghề của mình, hắn cũng không muốn làm việc cho ai cả. Hắn tự thân vận động, cho dù là ở Trung Đông hay Viễn Đông, hay bất cứ nơi nào người ta muốn hắn đến và kết liễu đời kẻ nào đó. Hắn vẫn là kẻ thích một mình, đã được chứng nhận về tâm lý, và đó cũng là lý do ngay từ đầu hắn được đào tạo làm tay sát thủ.

Hắn đánh xe đến một khu thể thao tại McLean, bang Virginia, cách đầu não của CIA một đoạn không xa, chạy theo đường Chain Bridge. Hôm nay hắn sẽ chơi quần vợt với tay trưởng ban, một gã lúc nào cũng tự phụ về lòng yêu nước, yêu công việc và cả cú sở trường đánh xoáy bóng bằng tay trái.

Họ hòa nhau trong hai ván đầu, và Seagraves phải đấu tranh với bản thân xem liệu có nên cho ông sếp của mình thắng ván thứ ba hay không. Nhưng cuối cùng, tinh thần thể thao không nhân nhượng của hắn đã chiến thắng dù hắn cũng giả bộ sắp thua tới nơi. Dẫu sao thì hắn cũng trẻ hơn ông ta mười lăm tuổi mà.

“Tôi thua rồi, Roger”, gã sếp than thở.

“Có lẽ tối nay tôi chơi hăng thôi, nhưng mà cũng chẳng phải dễ dàng gì đâu, nếu chúng ta trạc tuổi nhau, chắc gì tôi có thể đánh bại ông”.

Theo đánh giá của người sếp, hắn là một tay đã trụ vững ở tổng hành dinh của CIA tại Langley, Virginia trong một thời gian dài, và sự đối mặt với nguy hiểm bao nhiêu lại càng khiến hắn thích thú bấy nhiêu. Tay sếp này biết rất ít về những hoạt động trong quá khứ của hắn cho Cục, vì rõ ràng câu lạc bộ ba số sáu của hắn được bưng bít thông tin gần như tuyệt đối, điều dễ hiểu thôi. Tuy vậy, gã lại biết rất rõ việc Seagraves đã làm việc nhiều năm cho lĩnh vực tình báo, và được Cục cho leo lên hàng “đỉnh”. Cũng vì những lý do đó, Seagraves nhận được nhiều sự kính trọng hơn mấy tay ngang hàng với hắn.

Trở lại khu giữ đồ, trong lúc đợi tay sếp tắm táp, Seagraves mở hộc tủ và lấy khăn tắm ra. Hắn lau mặt và lau khô tóc. Rồi cả hai cùng lái xe đến trung tâm Reston và dùng bữa tối tại nhà hàng Clyde, cùng ngồi thưởng thức các món ngon gần lò sưởi trong không khí ấm cúng của nhà hàng. Sau đó, cả hai tạm biệt nhau, và mỗi người đi mỗi ngả. Seagraves đợi tay sếp lái xe chạy đi, rồi thong dong tản bộ xuống khu đường chính của trung tâm, hắn dừng trước một rạp hát.

Rạp hát, công viên và những nơi công cộng đại loại như vậy là nơi cung cấp tài liệu và nhận tiền của đám tình báo trước đây. Seagraves có thể hình dung ra cảnh trao tay một gói bắp rang, mà bên trong chắc chắn chứa những thứ quan trọng hơn chỉ là bơ, tuy tế nhị, nhưng hoạt động tình báo kiểu vậy có vẻ vụng về. Rõ ràng là hắn đã thực hiện việc trao đổi với tay trưởng ban mà chắc hẳn kẻ nào cho dù có quan sát cũng không nhìn ra được. Đám CIA hầu như chưa bao giờ thực hiện những màn theo dõi hai nhân viên gặp gỡ, đặc biệt là chơi vài ván quần vợt và ăn tối với nhau. Khái niệm về những tay đặc vụ truyền thống cho rằng đó là hành động một mình, nên đó cũng là lý do hắn mời tay sếp ngây thơ làm tấm bình phong cho mình.

Hắn lái xe về nhà, cầm chiếc khăn tắm mang theo từ tủ đồ, bước vào một gian phòng nhỏ ở tầng hầm, ẩn sau vách tường ngụy trang. Đó là một dạng “két sắt” của hắn, nơi không ai được phép dòm ngó. Hắn để khăn tắm lên bàn và với tay lấy chiếc bàn ủi hơi nước. Biểu tượng của trung tâm thể thao được may thẳng vào bề mặt khăn, có điều nếu khăn này là khăn của khu trung tâm đó. Bản sao cũng tạm chấp nhận, có điều cái lô-gô chỉ dính hờ lên trên nền vải, kiểu mấy miếng dán được là lên quần áo của trẻ nhỏ. Miếng lô-gô nhanh chóng bị tróc ra và mặt sau của nó là thứ mà Seagraves phải trầy trật đổ mồ hôi sau 3 ván quần vợt mới có được: đoạn băng ghi âm dài đúng 4 inch.

Sử dụng một dụng cụ phóng đại khá tinh vi, mà chỉ có những người giữ chức vụ quan trọng mới được sở hữu, hắn bắt đầu đọc và giải mã thông tin trên đoạn băng ghi âm. Sau đó hắn lại mật mã hóa đoạn băng, sắp xếp thành hình thức thích hợp và gửi cho Albert Trent. Hắn mày mò làm đến tận khuya, nhưng có hề gì, khi đóng vai là sát thủ, hắn thường phải làm việc lúc khuya như vậy, và những thói quen cũ khó mà bỏ được.

Hắn còn một việc nữa để làm trước khi ngày kết thúc. Hắn đến ngăn tủ đặc biệt của mình, mở khóa, tắt hệ thống bảo vệ và bước vào trong. Mỗi ngày hắn đến đây một lần để nhìn bộ sưu tập của mình. Tối nay, hắn đã tìm thêm một thứ nữa, dù hắn thấy hơi bực mình khi chỉ có một cái, đáng lý phải là một cặp. Hắn lôi thứ đó ra khỏi túi áo khoác. Đó là khuy áo măng-sét của Cornelius Behan mà một cộng sự của hắn hiện đang làm việc cho Công ty Cứu hỏa đã đưa cho hắn. Chắc là Behan đã làm rơi nó khi đi thăm khu nhà kho, một cuộc viếng thăm đã dẫn đến cái chết của hắn. Behan đã có thể phần nào đoán ra cái chết của Jonathan và hắn không được phép tiết lộ thông tin cho bất cứ ai.

Seagraves đặt khuy áo măng-sét lên một cái kệ nhỏ trong phòng cạnh một cái yếm của trẻ em. Hắn vẫn chưa có thứ gì của cô gái hắn đã bắn, nhưng hắn sẽ tìm ra được tông tích của cô ta và lấy thứ gì đó. Hắn đã bắn Behan đầu tiên, gã nằm quỵ xuống sàn, và chừa một khoảng trống để hắn dễ xử lý luôn cô ả. Hắn vẫn còn nhớ rõ lúc đó, cô ả vẫn đang quỳ gần cửa sổ và nhìn ra phía viên đạn đầu tiên được bắn ra. Seagraves không biết liệu cô ả có thấy hắn hay không, nhưng điều đó không quan trọng nữa. Hắn cũng chẳng cho ả có cơ hội rên la, vì viên đạn bay thẳng vào khuôn mặt xinh đẹp của ả. Đám tang với quan tài đậy kín sẽ dành cho cả hai vì vết thương ra lúc nào cũng nặng hơn vết thương vào cả.

Khi hắn nhìn đến khoảng trống kế bên cái khuy măng-sét, hắn tự hứa với lòng sẽ tìm cho ra một vật của ả ta và như vậy bộ sưu tập của hắn sẽ luôn được cập nhật mới hoàn toàn. Và hắn thích thế.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

97#
 Tác giả| Đăng lúc 13-10-2013 15:27:09 | Chỉ xem của tác giả
Chương 46

Phải mất một ít sức lực Stone mới cắt được hai cái đuôi theo sau. Sau đó, ông lập tức vào trong một ngôi nhà bỏ hoang, ông gọi đó là nơi ẩn nấp an toàn, ông thay đổi trang phục và quay trở lại phố Good Fellow. Ông đi ngang qua nhà của DeHaven rồi đến nhà của Behan. Đám phóng viên đã đứng lố nhố phía bên ngoài chờ đợi sự xuất hiện của người góa phụ xấu số và bị qua mặt. Căn nhà bị hỏa hoạn phía đối diện đường lần trước vẫn hoang tàn.

Từ góc đường ông giả vờ dừng lại xem bản đồ và bí mật quan sát ngôi nhà của Behan thì một chiếc xe tải chở đồ đạc dừng trước cửa nhà, có hai gã lực lưỡng bước xuống xe. Một cô hầu gái bước ra mở cửa và cả đám phóng viên nhộn nhạo hẳn lên. Đám thợ vào trong nhà, vài phút sau họ khệ nệ khiêng ra một rương gỗ lớn. Rõ ràng đám thợ rất khoẻ nhưng cũng phải dùng hết sức bình sinh để khiêng cái rương, và cũng như đám phóng viên, Stone có chung ý nghĩ: Bà quả phụ đang nấp trong rương để thoát khỏi đám phóng viên. Thế nào đó cũng lại là một tin sốt dẻo cho mà xem!

Một vài tiếng chuông điện thoại reo vang, và đám phóng viên nhảy vào xe, theo đuôi chiếc xe tải. Hai chiếc xe hơi đang bám trụ tại phía sau nhà xuất hiện và chạy theo. Tuy nhiên, còn vài tay phóng viên ở lại, có lẽ họ cũng cảm nhận được chút mánh khóe gì đó. Họ giả vờ như chạy theo về phía cuối đường, nhưng lại đậu xe ở một góc khuất nào đó và tiếp tục quan sát. Một phút sau, cửa trước nhà mở toang, và lần này một phụ nữ trong trang phục người làm xuất hiện cùng chiếc mũ rộng vành. Người phụ nữ leo lên một chiếc xe đậu sẵn phía trước sân và lái đi.

Stone lại cảm nhận ý nghĩ hiện tại của đám phóng viên còn lại, theo đó chiếc xe tải chở hàng chỉ là kế ngụy trang, và bà quả phụ hóa trang thành cô hầu gái. Lần này những tay phóng viên còn lại chạy theo chiếc xe của cô người hầu. Có sự tham gia của hai chiếc xe khác từ góc đường kế bên, hòa chung sự nhộn nhịp của những người cùng ngành.

Stone nhanh chóng đi vòng ra cuối góc phố và đến dãy nhà kế tiếp, tiếp giáp với phía hông sau nhà của Behan. Ở đó có một hẻm nhỏ, ông kiên nhẫn đợi tại bờ tường rào khu đó. Ông chẳng phải đợi lâu vì vài phút sau, một phụ nữ trong trang phục quần tây, áo khoác đen dài và đội mũ rộng vành lụp xụp xuất hiện. Đó chính là Marilyn Behan, vợ của người quá cố. Khi đi đến cuối hẻm, bà ta dừng lại và nhìn xung quanh.

Lúc này, Stone bước ra khỏi bờ tường và cất tiếng, “Bà có phải là bà Behan không ạ?”

Bà ta giật mình và nhìn ông.

“Anh là ai? Lại là tay phóng viên dai như đỉa nữa chứ gì?”

“Không, tôi là bạn của Caleb Shaw, người hiện đang làm việc tại Thư viện Quốc hội. Chúng ta từng gặp nhau tại đám tang của Jonathan DeHaven”.

Bà ta có vẻ đang lục lọi trí nhớ, với thái độ của bà ta, có vẻ như bà ta đang say, dù không thấy mùi rượu trong hơi thở. Liệu có phải do bà ta say thuốc không?

“Ah, tôi nhớ rồi. Tôi còn nhớ mình đã đưa ra lời châm biếm về cách hiểu của CB về đột tử nữa kìa”. Bà ta thình lình ho khan và lúi húi lôi ra một mảnh khăn giấy trong giỏ.

“Tôi xin chia buồn cùng bà”, Stone thành khẩn, dù hy vọng bà ta sẽ không nhớ ra chuyện Reuben, kẻ đã bị buộc tội giết chồng bà ta, cũng nằm trong nhóm của họ.

“Cám ơn anh”, đoạn bà ta nhìn về phía cuối hẻm và nói tiếp, “Tôi nghĩ đứng đây có vẻ hơi kỳ nhỉ”.

“Tôi có nhìn thấy đám phóng viên thưa bà. Tôi hiểu đây quả là một giai đoạn khó khăn của bà, nhưng bà đã lừa được họ. Điều này chẳng dễ chút nào cả”.

“Nếu anh lấy một tay giàu có, người lúc nào cũng là tâm điểm của sự chú ý, chắc hẳn anh sẽ biết cách đánh lừa giới báo chí mà”.

“Tôi có thể nói chuyện với bà một chút không? Hay dùng một cốc cà phê nhé”.

Bà ta bối rối, “Tôi không biết nữa, lúc này quả là khó khăn”. Mặt bà ta đanh lại, “Tôi lại vừa mất chồng, mẹ kiếp!”

Giọng Stone vẫn thản nhiên, “Việc này có liên quan đến cái chết của chồng bà đấy. Tôi muốn hỏi bà về những gì ông ta đã nói tại đám tang”.

Bà ta đột ngột ngưng lại, giọng cảnh giác. “Anh biết về cái chết của chồng tôi à?”

“Cũng không hẳn là nhiều, có điều tôi nghĩ nó phần nào liên quan đến cái chết của Jonathan, cũng có vẻ mờ ám, và cả hai người lại là hàng xóm, cả hai đều chết rất lạ”.

Đột nhiên bà ta tỉnh táo hẳn, “Anh cũng không nghĩ là Jonathan cũng chết vì bị nhồi máu cơ tim phải không?”

Cũng? “Bà Behan, bà có thể dành ra vài phút không, chuyện rất quan trọng đấy”.

Họ cùng ngồi nhấm nháp cà phê tại một nhà hàng nhỏ. Stone lên tiếng trước, “Chồng của bà có nhắc với bà vì cái chết của DeHaven à?”

Bà ta nhấp một ngụm cà phê, kéo mũ thấp xuống và nói nhỏ, “Tôi có thể khẳng định với anh rằng CB không nghĩ là anh ta bị đau tim mà chết đâu”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

98#
 Tác giả| Đăng lúc 13-10-2013 15:29:01 | Chỉ xem của tác giả
Chương 46
(tiếp theo)

“Sao lại không? Ông ta biết điều gì?”

“Tôi không rõ, anh ấy chẳng trực tiếp nói gì cho tôi biết cả”.

“Vậy làm sao bà biết ông ấy không tin?”

Marilyn Behan ngần ngừ, “Sao tôi lại phải cho ông biết chuyện này nhỉ?”

“Vậy để tôi thể hiện sự thành thật của mình, và hi vọng bà sẽ đáp trả”. Rồi ông kể cho bà ta nghe chuyện của Reuben và tại sao anh ta lại vào nhà tù dù Stone khéo léo không đề cập vụ ống nhòm. “Anh ta chẳng giết chồng của bà đâu, anh ta ở đó vì tôi bảo anh ta trông nom căn nhà thôi. Có nhiều chuyện lạ đang xảy ra gần đây ở khu vực này”.

“Giống như chuyện gì?”

“Giống như kẻ ở căn nhà đối diện”.

Giọng bà ta căng thẳng, “Tôi chẳng biết tí gì về điều này cả, mà CB cũng chẳng bao giờ nhắc chuyện này. Tôi biết rằng anh ấy luôn có cảm giác người ta theo dõi mình, giống như bọn FBI, lúc nào cũng dò xét bới móc công việc của anh ấy. Việc xấu có thể có, có thể không, nhưng anh ấy có nhiều kẻ thù”.

“Bà bảo rằng ông ta chẳng nói trực tiếp với bà về cái chết của Jonathan nhưng tại đám tang, có vẻ như ông ta muốn có sự chắc chắn rằng đó chính là vì nhồi máu cơ tim. Ông ta còn cho rằng có khi việc khám nghiệm tử thi cũng không chính xác”.

Bà ta đặt cốc cà phê xuống, bối rối đưa tay chùi vệt son dính trên miệng cốc. “Ngày nọ, tôi có loáng thoáng nghe một cuộc điện thoại của CB, tôi chẳng phải cố tình nghe trộm hay ra sao cả”, bà ta nhanh chóng phân bua, “chỉ là vì lúc đó tôi đang tìm một quyển sách và anh ấy cũng có mặt trong thư viện và gọi điện, còn cửa thì chỉ khép hờ”.

“Tôi nghĩ bà không cố tình”, Stone trấn an.

“Tôi nghe thấy anh ấy nói chuyện với ai đó, rằng DeHaven vừa kiểm tra tim mạch và mọi thứ đều bình thường. Anh ta còn tiết lộ thêm rằng, sau vài cuộc nói chuyện với đám cảnh sát ở D.C anh ta biết thêm kết quả khám nghiệm tử thi của DeHaven có khi chẳng làm người ta vui đâu. Có điều họ chẳng nói ra thôi. Giọng anh ta có vẻ lo lắng và anh ta muốn tự mình sẽ tìm ra sự thật”.

“Liệu ông ta có làm điều đó?”

“Tôi chẳng có thói quen hỏi xem anh ta sẽ đi đâu và làm gì, và anh ấy cũng lịch sự như vậy với tôi. Ý tôi là, nguyên nhân cái chết của anh ấy đã chứng thực sự lầm lạc của mình. Lúc đó, tôi bay sang New York hơi vội cho nên tôi cũng không biết liệu mình có nhạy cảm, vì ánh mắt của anh ấy lúc đó làm tôi phải hỏi anh ấy đi đâu và có chuyện gì không. Mà nói thật, tôi còn không biết anh ấy đang sở hữu cái công ty quỷ quái đó nữa”.

“Công ty à, công ty gì?”

“Công ty Cứu hoả, tôi nghĩ thế. Hay đại loại thế”.

“Vậy là ông ta đến công ty?”

“Vâng”

“Có nói cho bà biết tại sao không?”

“Chỉ nói sơ rằng anh ta muốn kiểm tra thứ gì đó. À, anh ấy có nói về thư viện, hay là cái nơi nào đó mà Jonathan đang làm việc đấy, cả chuyện công ty anh ấy ký kết hợp đồng với thư viện để lắp đặt hệ thống chữa cháy này nọ. Và chuyện anh ấy biết rằng có một số xilanh bị tráo, và nhận xét rằng có vẻ như có sự lộn xộn kiểm kê gì đó”.

“Bà biết rằng ông ấy đã tìm ra điều gì à?”

“Không, tôi đã nói rằng tôi đi New York mà. Anh ấy chẳng gọi báo tôi, mà lúc tôi gọi thì anh ấy chẳng nhắc đến, tôi quên béng”.

“Giọng ông ấy có bực bội khi bà hỏi không?”

“Không, cũng như thường lệ”, bà ta ngừng một chút. “À, tôi nhớ rồi, anh ấy bảo chắc phải kiểm tra lại hệ thống ống dẫn trong nhà, tôi đang nghĩ anh ta nói đùa”.

“Hệ thống ống dẫn à? Ông ta nói đến ống nào?”

“Tôi không rõ. Tôi nghĩ đó là hệ thống khí gas, có thể bị rò rỉ và dễ gây nổ”.

Trong đầu Stone liên tưởng đến những gì đã xảy ra với ngài Bob Bradley, Chủ tịch Hạ viện. Nhưng sau đó, nghĩ đến chuyện khác làm ông hỏi ngay.

“Bà Behan này, trong nhà bà có hệ thống phun nước chữa lửa không?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

99#
 Tác giả| Đăng lúc 13-10-2013 15:30:33 | Chỉ xem của tác giả
Chương 46
(tiếp theo)

“Không, không thể. Chúng tôi có một bộ sưu tập tranh khá lớn, và không dùng nước được. Nhưng CB cũng sợ hỏa hoạn lắm, cứ nhìn những gì xảy ra phía căn nhà đối diện là anh cũng hiểu. Anh ấy cho lắp đặt một hệ thống có thể dập tắt lửa mà không dùng nước đấy. Tôi chẳng biết nó hoạt động ra sao cả”.

“Tôi hiểu rồi”.

“Vậy là anh tin rằng kẻ nào đã giết Jonathan cũng sát hại CB luôn à?”

Stone gật đầu, “Tôi tin vậy. Và nếu tôi là bà, tôi sẽ đến ở chỗ khác, tránh xa chỗ này càng sớm càng tốt”.

Bà ta mở to mắt, “Anh nghĩ tôi đang gặp nguy hiểm ư?”

“E là vậy”.

“Vậy tôi sẽ quay về New York trong chiều nay”.

“Hoàn toàn là quyết định sáng suốt”.

“Tôi mong là cảnh sát sẽ cho phép, vì tôi phải trình hộ chiếu cho họ xem. Tôi cũng thuộc diện tình nghi nữa. Dẫu sao tôi cũng là vợ, tuy tôi có chứng cớ ngoại phạm hoàn toàn thuyết phục, nhưng biết đâu họ lại chẳng nghĩ tôi sẽ mướn người khác làm”.

Stone thẳng thắn, “Chuyện này đã từng xảy ra”.

Họ cùng im lặng trong vài giây, rồi bà ta tiếp, “Anh biết đấy, CB rất yêu tôi”.

“Tôi cũng nghĩ thế”, Stone lịch sự trả lời.

“Không đâu, tôi hiểu những gì anh đang nghĩ. Nhưng đúng là anh ấy yêu tôi, những phụ nữ khác chỉ là chơi qua đường, họ đến và đi. Tôi là người duy nhất cùng anh ấy làm lễ ở nhà thờ, anh ấy để lại cho tôi mọi thứ”.

Bà ta nhấp thêm một ngụm cà phê nữa rồi nói tiếp, “Anh biết không, một điều nghịch lý là anh ấy làm giàu bằng việc buôn bán vũ khí, nhưng bản thân CB lại ghét súng ống, và chẳng có lấy một khẩu ở nhà. Anh ấy xuất thân từ kỹ sư và rất giỏi, anh ấy lại làm việc rất siêng năng”. Bà ta ngưng một chút, “Anh ấy yêu tôi, bằng bản năng của người phụ nữ, tôi cảm nhận điều đó. Tôi cũng rất yêu anh ấy, cho dù anh ấy phạm nhiều sai lầm. Tôi mãi vẫn không tin được anh ấy đã ra đi, và một phần tâm hồn tôi cũng chết theo anh ấy”. Bà ta lau vội nước mắt.

“Thưa bà Behan, tại sao bà lại nói dối tôi”.

“Sao cơ ạ?”

“Bà đã nói dối tôi? Bà vẫn không biết tôi là ai, sao lại nói dối?”

“Anh đang nói cái quái gì vậy? Tôi không nói dối. Tôi rất yêu anh ấy”.

“Nếu bà thật sự yêu ông ta thì bà đâu có thuê thám tử tư theo dõi ông ta từ căn nhà đối diện. Liệu hắn có phải là người chụp mấy tấm hình của những cô nàng trẻ trung hay ra vào nhà bà?”

“Sao anh dám nói vậy! Tôi chẳng có liên quan gì việc này cả. Biết đâu đó là người của FBI đang theo dõi CB”.

“Không đâu, đám nhân viên FBI đủ khôn ngoan để lập thành trạm ở đó, ít nhất cũng có một nam một nữ, và sẽ sống như gia đình bình thường ở đó. Họ cũng biết cách hòa nhập cuộc sống, như bỏ rác, và những công việc lặt vặt thường ngày, mà chẳng để cho ai phát hiện ra họ cả. Mà tại sao FBI lại phải quan sát nhà của bà nhỉ? Liệu họ có tin vào một lý lẽ kém thuyết phục rằng chồng bà sẽ gặp gỡ vài tên đồng bọn ở đó? FBI cũng không hẳn là có nhiều kinh phí để bám tại những nơi cần canh giữ, mặc cho chúng đáng ngờ cỡ nào”. Ông lắc đầu, “Tôi hy vọng bà không trả cho công ty đó nhiều tiền, vì họ chẳng được việc tí nào”.

Bà ta nhổm người dậy và nói to, “Đồ chết tiệt!”

“Bà đã nên ly dị ông ta, rồi ôm nửa gia tài, trở thành một phụ nữ tự do”.

“Sau khi hắn đã bôi nhọ tôi như thế ư? Kéo cả ổ điếm vào nhà của tôi? Tôi muốn hắn phải trả giá. Anh nói đúng: tôi đã thuê thám tử tư và sắp đặt cho anh ta trong căn nhà đó. Vậy thì sao nào? Ngay cả hình của lão chồng tôi và đám quỷ cái đó nữa? Với những thứ đó, tôi bắt lão phải trả bằng máu và ép lão phải đưa mọi thứ cho tôi. Nếu không, mọi thứ sẽ bị phanh phui hết, rõ ràng chính quyền liên bang không thích chuyện những nhà thầu tiến hành thỏa hiệp. Còn lão CB lại có rất nhiều cái gọi là sự dàn xếp tối mật. Lão sẽ chẳng làm ăn suôn sẻ nếu như chính phủ biết lão đang có âm mưu bất chính và bị đe dọa tống tiền. Sau khi hắn đã ký nhận sẽ chuyển mọi thứ cho tôi, tôi sẽ bỏ rơi lão. Lão không phải là người duy nhất lăng nhăng, tôi cũng có, và tôi sẽ chọn người mình tin tưởng cho bản thân để cùng sống chung. Nhưng giờ thì tôi có mọi thứ mà không cần phải tống tiền. Quả là một sự trả thù hoàn hảo”.

“Bà nên hạ giọng một chút, vì như bà cũng có nói, cảnh sát vẫn nghĩ bà trong diện tình nghi. Và cũng không nên làm tăng thêm sự nghi ngờ đó”.

Marilyn Behan nhìn xung quanh, mọi ánh mắt đang đổ dồn về phía bà ta. Bà tái mặt và ngồi xuống ghế.

Giờ thì đến lượt Stone đứng dậy, “Cám ơn vì đã dành thời gian cho tôi. Thông tin của bà thật hữu ích”. Và ông nghiêm mặt, “Một lần nữa chia buồn vì sự mất mát của bà”.

Giọng bà ta rít lên, “Hãy xuống địa ngục đi”.

“Nếu là tôi, tôi chắc rằng mình sẽ không đi một mình đâu”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

100#
 Tác giả| Đăng lúc 14-10-2013 08:21:52 | Chỉ xem của tác giả
Chương 47

Annabelle đang ngồi đợi chuyến bay nối tiếp chở cô ta ra khỏi bang Atlanta. Khi quan sát chặng đi mới của mình, cô ta chợt liên tưởng đến hành động ngu ngốc của Leo. Sao mà anh ta có thể làm điều đó nhỉ? Nếu cô ta muốn nói cho Freddy biết cô ta là ai, cô ta đã tự làm điều đó rồi.

Người phát thanh đã đọc tên chuyến bay, nhưng cô ta nán lại đợi dòng người xếp hàng trước. Dù cô ta đáp chuyến bay hạng nhất, và hoàn toàn có thể là người lên đầu tiên, nhưng theo thói quen, cô ta vẫn thích nhìn đám hành khách sẽ đi chung. Khi hàng người mỗi lúc một thưa đi là lúc cô ta chuẩn bị kéo túi xách bước vào trong. Cô ta không mang theo nhiều hành lý, chúng bị bỏ lại hầu hết ở D.C bởi vì cô ta không muốn người ta sẽ kiểm tra túi xách của mình, lỡ lại xoi mói việc của cô ta. Dù sao thì khi đến một nơi mới cô ta có thể mua nhiều thứ khác.

Trong lúc di chuyển về hướng sân bay, Annabelle tình cờ liếc nhìn màn hình chiếc ti-vi đặt tại sân bay, hiện đang chiếu thời sự của kênh CNN, cô ta đứng lại và nhanh chóng đến sát màn hình, đọc những dòng chữ phụ đề trên đó. Quân nhân từng tham dự chiến tranh Việt Nam, tên là Reuben Rhodes đã bị bắt. Tin tức về nhà tài phiệt Cornelius Behan và bạn tình bị bắn chết từ cửa sổ nhà bên. Rhodes đang bị tạm giam...

“Trời ơi”, Annabelle nhủ thầm.

Loa phóng thanh vang lên, “Chúng tôi xin thông báo chuyến bay suốt số hiệu 3457 đến Honolulu chuẩn bị cất cánh. Chúng tôi xin mời hành khách lên máy bay”.

Annabelle nhìn về hướng cổng sân bay, họ chuẩn bị đóng cổng, và cô ta quay lại màn hình. Bị bắn từ cửa sổ nhà gần bên à? Vậy là Behan đã chết, còn Reuben bị bắt. Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra thế này, cô ta phải tìm ra thôi.

Suy nghĩ của Annabelle thình lình chuyển hướng. Đây không phải là chuyện của mày, Annabelle ạ. Tên Jerry Bagger sắp mò đến rồi đấy. Hãy để cho những người kia tự lo liệu cho bản thân họ. Không thể nào Reuben đã giết hại Behan cả, và họ sẽ biết tìm cách, mà cho dù không có cách đi nữa, cũng không mắc mớ gì mày hết. Không thể.

Cô ta vẫn không nhấc chân lên nổi, lần đầu tiên trong đời cô ta do dự.

“Chúng tôi xin nhắc hành khách lên máy bay, chúng tôi sắp đóng cửa chuyến bay 3457”.

Cô ta yếu ớt thúc giục bản thân, “Đi thôi nào Annabelle, đi thôi. Mày đâu cần phải biết chuyện này, cũng chẳng gì phải đấu tranh cho nó cả, mày đâu mắc nợ ai đâu. Mày cũng chẳng nợ nần gì Jonathan cả”.

Cô ta nhìn cánh cửa cùng chuyến bay giúp cô ta chạy trốn khỏi gã Jerry Bagger đóng sập lại và cả người soát vé cũng bỏ đi về hướng khác. Mười phút sau đó, chiếc Boeing 777 từ từ cất cánh vào bầu trời, đúng theo thời gian biểu, trong lúc Annabelle mua một vé máy bay khác về hướng bắc, nơi cô chắc chắn mình sẽ nằm trong tầm kiểm soát của Jerry Bagger và máy chém của hắn. Cô ta không biết tại sao mình lại quyết định như vậy, nhưng tận sâu trong lòng, cô nghĩ mình có câu trả lời.

Albert Trent đang cố hoàn thành công việc ở văn phòng tại gia. Hắn bắt đầu công việc hơi trễ do tối qua phải thức khuya. Những nhiệm vụ hắn phải hoàn thành liên quan đến vị trí là một thành viên trong đội đặc nhiệm cao cấp của Ủy ban Tình báo, một vị trí hắn nắm giữ trong nhiều năm, và đã đào tạo hắn thuần thục gần như tất cả những vấn đề liên quan đến tình báo, hay ít nhất là những phần tổ chức chia sẻ với những người cầm đầu Quốc hội. Hắn vuốt vài lọn tóc, uống xong cốc cà phê, thu dọn cặp táp và vài phút sau đã sẵn sàng trong chiếc xe hơi hiệu Honda 2 cửa. Chỉ trong năm năm nữa thôi, hắn có thể lái một chiếc xe sang trọng hơn ở Azgentina chẳng hạn, hay là vùng Nam Thái bình dương, nơi hắn nghe nói là thiên đường.

Tài khoản bí mật của hắn hiện đang có tiền triệu, và hắn có thể nhân đôi số tiền ấy trong nửa thập niên tới. Những bí mật mà Seagraves bán cho hắn đáng giá cao nhất trong khung tiền thưởng. Điều này không giống như thời kỳ chiến tranh lạnh lúc người ta trao thông tin chỉ để đổi lại hai chục nghìn đôla. Những kẻ giao dịch với Seagraves toàn sử dụng con số bảy chữ số mà thôi, nhưng đổi lại bọn họ lại đòi hỏi rất nhiều thứ. Trent chưa bao giờ dò hỏi xem liệu Seagraves lấy mối từ những nguồn nào, hay hắn ta gặp ai. Chắc chắn rằng hắn chẳng bao giờ kể mà Trent cũng chẳng muốn hỏi. Nhiệm vụ duy nhất, nhưng lại khá quan trọng của Trent là tiếp nhận thông tin từ Seagraves để chuyển tiếp lên một cấp mới. Những thủ thuật hắn sử dụng hoàn toàn độc đáo và dễ qua mặt người khác, thậm chí có thể nói đó là những chiêu mà ngay cả bọn nhân viên của Cơ quan Tình báo Mỹ vẫn còn lóng ngóng.

Có rất nhiều tay gián điệp đầy kinh nghiệm và tâm huyết với việc điều tra bí mật bị lấy trộm và bán cho kẻ thù. Tuy vậy, đối với Trent, trong giới hạn làm việc của mình, hắn lại khéo léo luồn lách ra khỏi những sự rắc rối đó. Những kẻ điệp viên nói chuyện với hắn không thể nào ngờ rằng một nhân viên bình thường, với mái tóc có vẻ kỳ dị, chạy một chiếc xe cũ kỹ, sống trong căn nhà tồi tàn, mỗi tháng chi tiêu vừa đủ trên số tiền lương còm lại là một tay kỳ cựu trong một tổ chức đang phá hoại danh tiếng của Cơ quan Tình báo Mỹ.

Đối với chính quyền cao cấp, điều này hoàn toàn có thể dễ hiểu từ một nguyên nhân sâu xa. Với hoạt động của một tổ chức tình báo, ngốn hơn năm mươi tỷ đôla một năm, hơn 120 nghìn nhân viên, khối lượng công việc thật khổng lồ, và chẳng ai lại chú ý đến những chuyện nhỏ nhoi cả. Tuy vậy, Trent lại nhận thấy tay đồng nghiệp của mình, Roger Seagraves hoạt động hiệu quả và chưa bao giờ bỏ qua chi tiết nào, dù là nhỏ nhất.

Trent cố tìm ra vài thông tin về gã khi họ bắt đầu quen biết nhau, nhưng chẳng được gì, cho nên, một người đầy kinh nghiệm như hắn thừa hiểu rằng gã Seagraves hoàn toàn là một tay biết cách che dấu khéo léo và đầy kinh nghiệm, và cũng vì thế không nên xâm phạm gã làm gì. Mà Trent cũng không muốn điều đó, hắn thà chết già và giàu có ở một nơi khác hơn.

Ngồi trong xe, hắn suy nghĩ về cuộc đời mới của mình, chắc sẽ khác bây giờ nhiều, dĩ nhiên là vậy. Có điều hắn chưa bao giờ nghĩ đến sinh mạng của bao nhiêu kẻ đã bị cướp đi vì lòng tham vô đáy của hắn. Những kẻ bán nước như hắn làm gì có cái gọi là lương tâm.

*
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách