Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 4679|Trả lời: 54
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kiếm Hiệp] Bạch Ngọc Lão Hổ | Cổ Long

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Tên tác phẩm: Bạch Ngọc Lão Hổ



Tác giả: Cổ Long

Thể loại: Tiểu thuyết Kiếm hiệp

Độ dài: 10 hồi

Tình trạng sáng tác: đã hoàn thành.

Tình trạng edit: hoàn thành

Nguồn: http://vnthuquan.net/
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 24-10-2012 11:48:49 | Chỉ xem của tác giả
NGÀY LÀNH HOÀNG ĐẠO

Ngày hai mươi bảy tháng ba, đại cát.
Mọi sự đều nên làm.
Triệu Vô Kỵ đang nằm trên giường.
Chàng quất ngựa khinh kỵ, phi bôn đã ba trăm dặm, vừa xuống ngựa xông vào là xông thẳng ngã trên cái giường đó.
Cái giường vừa thơm tho, vừa mềm mại.
Là giường của Hương Hương, Hương Hương là nữ nhân, nữ nhân vừa thơm tho, vừa mềm mại, mỗi lần nhìn Triệu Vô Kỵ luôn luôn cười điềm mật như đường.
Ngoài song cửa ánh dương sáng lạn, khí hậu nắng ấm, hương hoa phởn phơ trong gió.
Triệu Vô Kỵ nhìn một góc trời xanh thẫm ngoài song cửa, chung quy thở phào từ tốn, lẩm bẩm:
- Hôm nay thật là một ngày tốt, ngày tốt để sát nhân.
Hương Hương hôm nay không ngờ không cười, chỉ hững hờ nói:
- Hôm nay quả thật là ngày tốt, ngày tốt để sát nhân.
Triệu Vô Kỵ dùng một ngón tay nâng cằm nàng, nhìn nàng:
- Nàng muốn sát nhân?
Hương Hương đáp:
- Chỉ muốn giết một người.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Giết ai?
Hương Hương đáp:
- Giết chàng!
Triệu Vô Kỵ tịnh không giật mình nhảy dựng, trái lại còn cười, còn cười xem chừng rất sảng khoái.
Hương Hương cắn môi:
- Tôi vốn thật muốn giết chàng, nhưng tôi nghĩ đi nghĩ lại, hôm nay chàng không ngờ còn muốn đến đây gặp tôi, cũng có thể tính là không phải dễ dầu gì.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Nàng biết?
Hương Hương đáp:
- Tôi đương nhiên biết, hôm nay là ngày đại hỷ của Triệu công tử.
Trong đôi mắt mỹ lệ của nàng đột nhiên có lệ quang:
- Tôi cũng biết Triệu công tử hôm nay đến đây chỉ bất quá vì muốn nói cho tôi biết từ nay về sau chàng và tôi đã như một đao bẻ làm hai đoạn, cho dù tôi sau này còn có thể nhìn thấy chàng, cũng nên làm như là người xa lạ.
Triệu Vô Kỵ không thể phủ nhận, cũng không thể bất giác có chút khó chịu:
- Ta còn mang đến một vật cho nàng.
Chàng rút từ trên người ra một chuỗi trân châu:
- Đây là ta đáp ứng cho nàng, ta còn chưa quên.
Trân châu tinh oanh tròn sáng, giống hệt như lệ thuần khiết của thiếu nữ vậy.
Hương Hương tiếp lấy, nhẹ nhàng vuốt ve, lẩm bẩm:
- Tôi biết chàng nhất định mang đến cho tôi, chàng luôn luôn là một nam nhân rất có tín dụng.
Nàng không ngờ không rơi lệ.
Tay nàng run lẩy bẩy, đột nhiên đứng bật dậy, dụng lực quăng chuỗi trân châu hướng thẳng vào mặt Triệu Vô Kỵ, hét lớn:
- Nhưng ai thèm ấp ủ chuỗi trân châu hôi thúi này của ngươi, ai thèm ấp ủ tên tiểu lưu manh ngươi.
Chuỗi trân châu tịnh không động được đến mặt Triệu Vô Kỵ, lại bay vụt ra ngoài song cửa.
Triệu Vô Kỵ lại cười:
- Tiểu lưu manh ít nhiều gì cũng có chỗ tốt chứ.
Hương Hương nhảy dựng:
- Có gì gọi là tốt, ngươi nói nghe thử?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Tiểu lưu manh ít ra cũng còn tốt hơn lão lưu manh, cũng còn tốt hơn lưu manh đã chết queo.
Chàng muốn giúp Hương Hương cười một tiếng.
Giữa bọn họ tuy tịnh không có điều kiện hay thệ ước gì, nhưng phân ly tất càng luôn khó tránh khỏi làm cho người ta bi thương.
Chàng một mực hy vọng lúc bọn họ ly biệt vẫn còn có thể cười một tiếng.
Hương Hương còn chưa cười thành tiếng, chuỗi trân châu hồi nãy bị nàng quăng ra ngoài song cửa lại đã bay trở vào.
Tiếp đó, “đinh” một tiếng, một mũi tên dài ba thước sáu tấc ghim chặt chuỗi trân chân trên cột.
Trên mũi tên lấp loáng ngân quang, lông bạc trên đuôi tên còn đang lay động, ngoài song lại có một mũi tên ngắn bay vào, ghim thẳng trên mũi tên đó.
Trường tiễn tuy cứng, đoản tiễn càng chuẩn.
Hương Hương nhìn ngây ngốc.
Tiễn pháp như vậy đích xác không phải là thời thường có thể nhìn thấy được.
Tiếng cười của Triệu Vô Kỵ lập tức biến thành cười khổ, thở dài nói:
- Đám chủ nợ của ta chung quy đã đến.
Hương Hương biến sắc:
- Bọn họ đến làm gì?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Chủ nợ đương nhiên là đến đòi nợ, nàng lẽ nào không nhìn ra hôm nay cũng là ngày tốt để đòi nợ sao?
Đây là một căn tiểu lâu, hiện tại đang là ngày xuân.
Ngoài tiểu lâu sáng tươi quang minh, trăm hoa đua nở, có đỏ tươi, có xanh thắm, có vàng chói.
Hai hắc y nhân đang đứng giữa đám hoa tươi, một nam một nữ, một trẻ một già.
Thiếu niên là một tráng hán người cao tám thước, lưng của lão phụ nhân đã cong vòng, đôi mắt lại lóe chớp phát sáng.
Hai người, hai cây cung, cung vàng tên bạc, một dài một ngắn.
Hương Hương đứng bên cạnh song cửa trên tiểu lâu, nhịn không được phải hỏi:
- Hai người đó là ai?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Là Hắc Bà Bà và con trai của bà ta.
Hương Hương hỏi:
- Hắc Bà Bà là ai?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Là người có thể dùng một mũi tên bắn trúng một con ruồi từ ngoài mười trượng.
Hương Hương biến sắc:
- Lão thái bà lưng còng đó lợi hại vậy sao...
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Nhi tử của bà ta tuy không bắn chuẩn như bà ta, nhưng hai cánh tay trời sinh thần lực, một khi gã cao hứng, lúc nào cũng đều có thể bắn xuyên qua cả hai người.
Chàng thở dài nói tiếp:
- Kim cung ngân tiễn, tử mẫu song phi, hai mẹ con đó ai lỡ gặp được đều thật không may mắn chút nào.
Hương Hương hỏi:
- Chàng thiếu bọn họ cái gì?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Thiếu bọn họ hai người.
Hương Hương không hiểu:
- Làm sao có thể thiếu bọn họ hai người?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Có một lần ta nửa đêm uống rượu từ Minh Hồ Xuân đi ra, nhìn thấy có hai tiểu cô nương đang chạy trước mặt, con trai của bà ta đang đuổi theo phía sau, có một tiểu cô nương đã trúng một tên, miệng thất thanh kêu la xin cứu mạng!
Chàng lại thở dài:
- Nhìn thấy một nam nhân cao to lại đi rượt đuổi một tiểu cô nương như vậy, ta đương nhiên phải bạt đao tương trợ, ngăn chận gã giùm cho bọn chúng, để bọn chúng chạy thoát.
Hương Hương hỏi:
- Rồi sau đó?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Sau đó ta mới biết hai tiểu cô nương đó căn bản không phải là tiểu cô nương.
Hương Hương càng không hiểu:
- Không phải là tiểu cô nương thì là gì?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Là nam nhân.
Hương Hương ngẩn người.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Trong giang hồ có bang thái hoa tặc kêu là “Nhất Oa Phong”, chuyên môn thích cải trang thành tiểu cô nương.
Hương Hương hỏi:
- Vậy hai tiểu cô nương đó đều là thái hoa tặc?
Triệu Vô Kỵ gật đầu cười khổ:
- May là hai mẹ con đó cuối cùng đã nhận ra ta không phải là đồng bọn của đám thái hoa tặc.
Hương Hương nói:
- Bọn họ đương nhiên cũng không thể buông tha chàng như vậy.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Bọn họ cho ta hạn kỳ ba tháng, kêu ta bắt hai tên thái hoa tặc đó đem về.
Hương Hương thốt:
- Hiện tại hạn kỳ đã đến.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Mau đến quá.
Hương Hương hỏi:
- Chàng có tìm ra người cho bọn họ chưa?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Còn chưa.
Hương Hương nhìn chàng, lắc đầu thở dài:
- Trên thế gian này có thứ người chừng như luôn luôn thích đem sâu bọ thảy trong đầu tóc mình, chàng tại sao lại khơi khơi là thứ người đó chứ?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Chỉ có một hai con bọ cũng không quan hệ gì.
Hương Hương hỏi:
- Trong đầu tóc chàng còn có gì nữa?
Triệu Vô Kỵ thở dài:
- Chừng như còn có năm sáu con bò cạp, bảy tám con độc xà.
Hương Hương không hỏi nữa.
Nàng đã kinh hãi đến mức thanh âm cũng tê dại.
Nàng đã nhìn thấy một đống độc xà!
Độc xà đang nằm bên trong một cái bao bố rách to tướng, thò đầu qua kẽ rách, le lưỡi đỏ lưởng.
Cái bao rách đang nằm trên lưng một người.
Một người hình dạng kỳ quái, không những mũi khuyết đi một nửa, tai cũng bị nhai cắn đến mức không còn giống tai nữa, trong đôi mắt đầy những tia máu li ti, chẳng khác gì lưỡi đỏ loét của độc xà.
Trên người hắn lại khơi khơi khoác một áo bào đỏ đỏ xanh xanh, ngũ nhan lục sắc, càng làm cho hắn hiển lộ vẻ quỷ bí khủng bố khôn tả.
Có độc xà trường bò trên vai hắn, quấn lấy cổ hắn, le lưỡi liếm mặt hắn, hắn lại chừng chư cả một chút cảm giác cũng không có.
Hương Hương lại là người có cảm giác, Hương Hương gần như muốn ói mửa liền tại chỗ.
- Người đó cũng là chủ nợ của chàng?
- Ừm.
- Chàng thiếu hắn cái gì?
- “Thiếu hắn năm con rắn” - Trong miệng Triệu Vô Kỵ xem chừng cũng đăng đắng - “Năm con rắn độc nhất”.
Hương Hương có chút không tin:
- Chàng đã cứu hai tên thái hoa tặc, đó là sự sai lầm của chàng. Còn độc xà như vậy chàng có giết bao nhiêu cũng là đáng, tại sao còn phải đền cho hắn?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Bởi vì hắn là Độc Bồ Tát.
Hương Hương hỏi:
- Độc Bồ Tát?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Hắn tuy đầy mình đều là độc, nhưng tâm của hắn lại giống như bồ tát.
Hương Hương hỏi:
- Bồ tát cũng nuôi rắn?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Người khác nuôi rắn là để hại người, hắn nuôi rắn lại vì để cứu người.
Chàng biết Hương Hương không hiểu, cho nên lại giải thích:
- Chỉ có thuốc dùng độc dịch và máu của độc xà luyện thành mới có thể giải được độc của độc xà.
Hương Hương lại hỏi:
- Chàng nợ hắn năm con độc xà gì?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Năm con độc xà đó là dị chủng, hắn lặn lội nơi cùng sơn ác thủy tìm kiếm cả ba năm trời mới bắt về được năm thứ độc vật đó.
Hương Hương hỏi:
- Bắt chúng về một lượt có ích lợi gì?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Dùng độc dịch của năm thứ độc xà đó có thể hợp thành một thứ thuốc giải được bách độc, nhưng lại nhất định phải đang lúc bọn chúng còn sống để cho bọn chúng tự phun ra độc dịch mới hữu dụng.
Hương Hương thốt:
- Tôi nghe nói độc xà chỉ có lúc cắn người mới có thể tự phun ra độc dịch.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Không sai.
Hương Hương hỏi:
- Vì muốn thâu tóm độc dịch của năm thứ độc xà đó, lẽ nào hắn chịu để cho bọn chúng đi cắn người?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Hắn chỉ còn cách đó.
Hương Hương hỏi:
- Hắn để bọn chúng đi cắn ai?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Cắn chính hắn.
Hương Hương lại ngẩn người.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Lúc ta nhìn thấy hắn, năm con độc xà đó đang cắn người hắn.
Hương Hương hỏi:
- Lúc đó chàng làm gì?
Triệu Vô Kỵ cười khổ:
- Nàng nói thử coi, ta còn có thể làm gì khác chứ, ta cả nghĩ cũng không nghĩ, bạt kiếm chém đứt năm con độc xà đó, mỗi một con đều chém thành bảy tám đoạn.
Hương Hương cũng không khỏi cười khổ:
- Xem ra kiếm pháp của chàng thật không tệ.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Nhưng chuyện đó ta lại đã làm sai.
Trong hoa viên rất tĩnh lặng, Hắc Bà Bà và Độc Bồ Tát hiển nhiên đều là người rất nhẫn nại.
Ngay lúc đó, xa xa đột nhiên truyền tới “tung tung” hai tiếng, thanh âm phảng phất ra xa vời, lại chừng như sát mang tai.
Nghe thấy thanh âm đó, sắc mặt của Hắc Bà Bà và Độc Bồ Tát đều chừng như có chút biến chuyển.
Hương Hương hỏi:
- Đó có phải là tiếng trống canh?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Phải.
Hương Hương hỏi lại:
- Tôi thật không nghe lầm chứ?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Nàng không lầm.
Hương Hương hỏi:
- Hiện tại là ban ngày, người đó lại đánh trống canh, có phải bị bệnh không?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Y không bị bệnh, y muốn đánh trống canh lúc nào là đánh lúc đó.
Hương Hương hỏi:
- Tại sao?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Bởi vì trống canh y đánh khác với người ta, không phải để báo giờ.
Hương Hương hỏi:
- Y đánh trống canh gì?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Là Đoạn Hồn Canh.
Hương Hương hỏi lại:
- Đoạn Hồn Canh?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Một khi y đánh trống canh ba, là có người nhất định phải đoạn hồn.
Trên mặt chàng cũng lộ xuất biểu tình kỳ quái:
- Đoạt Mệnh Canh Phu Liễu Tam Canh, nhất đả tam canh nhân đoạn hồn.
Lại có tiếng trống canh vang lên, thanh âm càng gần.
Tuy chỉ chỉ bất quá là tiếng trống canh rất phổ thông, nhưng hiện tại lọt vào lỗ tai người ta lại đã biến thành quỷ dị khôn tả.
Hương Hương nhịn không được phải hỏi:
- Hiện tại y đã đánh trống canh mấy?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Canh hai.
Hương Hương không nhịn được tay chân run lập cập:
- Canh hai vừa qua, canh ba càng mau chóng đến.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Không sai, canh hai vừa qua, canh ba rất mau chóng đến.
Hương Hương hỏi:
- Y cũng là chủ nợ của chàng?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Là chủ nợ lớn.
Hương Hương hỏi:
- Chàng nợ y cái gì?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Nợ y một đao!
Hương Hương hỏi:
- Chàng còn bao nhiêu chủ nợ nữa?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Chủ nợ lớn chỉ có ba người đó.
Hương Hương hỏi:
- Bọn họ đã sớm biết hôm nay chàng có thể đến đây?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Bọn họ không biết.
Hương Hương nói:
- Nhưng bọn họ đều đã đến một lượt.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Là ta hẹn bọn họ đến.
Hương Hương cơ hồ nhảy dựng:
- Là chàng hẹn bọn họ đến? Chàng tại sao lại hẹn đám chủ nợ thấy sợ đó đến?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Bởi vì món nợ thiếu người ta sớm muộn gì cũng phải trả.
Chàng bỗng cười cười:
- Lẽ nào nàng không thấy hôm nay cũng là ngày tốt để trả nợ?
Đoạn Hồn Canh lại vang lên.
“Tung tung, xèn”. Vẫn là canh hai. Tới lúc nào mới đến canh ba?
Ngoại trừ đoạt mệnh canh phu ra, không ai biết.
Liễu Tam Canh chầm chậm từ giữa muôn hoa bước tới, áo xanh vớ trắng giày xám hòa cùng khuôn mặt trắng nhợt.
Giữa muôn hoa vốn không có một người như vậy, hiện tại lại khơi khơi có một người như vậy bước ra.
Trong tay y có một cái cồng nhẹ, một khúc trúc gõ cồng, và một đoản trượng màu trắng.
Lẽ nào đó là vũ khí truy hồn đoạt mệnh của Đoạt Mệnh Canh Phu?
Người quanh năm không thấy ánh mặt trời, sắc mặt vốn trắng nhợt, đó tịnh không có gì là kỳ quái.
Kỳ quái là đôi mắt của y.
Đôi mắt của y cũng màu trắng, một thứ trắng tái kỳ bí, nhìn không thấy nhãn châu, cũng không thấy con ngươi.
Lẽ nào Đoạt Mệnh Canh Phu luôn luôn khiến cho người ta đoạn hồn lại là người mù?
Ngoài những luống hoa là một con đường nhỏ.
Con đường nhỏ uốn khúc, phô trương những viên sỏi tinh oanh như ngọc.
Hắc Bà Bà và con trai của bà ta đang đứng sát một cụm hoa thược dược gần con đường.
Người mù đương nhiên không nhìn thấy bọn họ.
Lúc Liễu Tam Canh đi lướt qua người bọn họ, lại bất chợt dừng chân, quay đầu hỏi:
- Hắc Bà Bà, không gặp lâu nay vẫn khỏe chứ?
Hắc Bà Bà lạnh lùng nhìn y, qua một hồi rất lâu mới hờ hững đáp:
- May nhờ phước khí của Liễu tiên sinh, đám cô nhi quả phụ bọn tôi còn chưa bị người ta chọc tức chết.
Liễu Tam Canh ngửa mặt lên trời, phảng phất đang trầm tư, cũng qua một hồi rất lâu mới thở dài thốt:
- Lần chia tay đó cũng đã mười ba năm rồi, ngày tháng trôi qua nhanh quá.
Hắc Bà Bà nói:
- Mỗi ngày đều có canh ba, quay đi là có canh ba, quay lại là có canh ba, ngày tháng làm sao không trôi qua nhanh được?
Liễu Tam Canh chầm chậm gật gật đầu, trên khuôn mặt trắng nhợt hoàn toàn không có tới một tia biểu tình.
“Hà huống có lúc một ngày còn chưa tới canh ba, quay đi là thấy canh ba, quay lại là thấy canh ba, có người già, có người chết, ngày tháng làm sao không trôi qua nhanh cho được?” Miệng hắn lẩm bẩm tự nhủ, đoản trượng màu trắng cầm trong tay lần dò trên đất, chầm chậm bước tới trước.
Bước đến trước mặt Độc Bồ Tát, y lại dừng chân.
Y còn chưa mở miệng, Độc Bồ Tát cũng không mở miệng, trong bao bố có hai con rắn như hai mũi tên bắn vụt ra, hoàn toàn không phát ra một chút thanh âm gì.
Người mù không nhìn thấy, đã không có thanh âm, người mù đương nhiên cũng không nghe thấy.
Hai con rắn đó vừa vút qua, đoản trượng trong tay y huy xuất, xảo diệu đập thẳng lên đầu của hai con rắn đó.
Hai con rắn lập tức như hay sợi dây từ trên không rơi xuống, nằm bất động dưới đất.
Liễu Tam Canh thở dài:
- Ta lại đã đập chết hai con rắn của ngươi?
- Hừm.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Ngươi có muốn ta bồi thường không?
Độc Bồ Tát hỏi ngược:
- Người bồi thường được sao?
Liễu Tam Canh hững hờ cười cười:
- Đó chỉ bất quá là một con trúc diệp thanh, một con phạn sản đầu, ngươi nếu muốn ta bồi thường, ta lúc nào cũng đều có thể bắt bảy tám chục con cho ngươi.
Độc Bồ Tát kinh ngạc nhìn y, thần sắc tuy đã biến, thanh âm lại rất lãnh đạm:
- Không cần ngươi nhọc tâm, tự ta cũng có thể tìm.
Liễu Tam Canh thốt:
- Ngươi đã không muốn ta đền bồi, ta cũng có câu khuyên ngươi.
Độc Bồ Tát nói:
- Ngươi cứ nói.
Liễu Tam Canh thốt:
- Ngươi xả thân vì rắn, dùng máu thịt đổi lấy độc dịch của chúng, tuy mỗi lần đều kịp thời trục độc ra, nhưng ít ít nhiều nhiều vẫn còn tàn độc lưu lại trong máu ngươi.
Y thở dài, lại nói:
- Bí kỷ trục độc thủ độc của Thiên Độc Tôn Giả tịnh không nhất thiết là tuyệt đối hữu hiệu.
Độc Bồ Tát không thừa nhận, cũng không thể phủ nhận.
Liễu Tam Canh thốt:
- Hiện tại tàn độc trong máu ngươi đã có một trăm lẻ ba thứ.
Độc Bồ Tát nhịn không được phải hỏi:
- Ngươi nhìn ra?
Liễu Tam Canh đáp:
- Ta là người mù, làm sao có thể nhìn ra?
Y hững hờ nói tiếp:
- Nhưng ta biết, độc tính trong máu ngươi chỉ cần thêm năm thứ nữa, bồ tát phải biến thành cứng đơ.
Triệu Vô Kỵ đã đi xuống lầu, đứng giữa ánh dương sáng lạn, nhìn Đoạt Mệnh Canh Phu.
Trong tâm chàng có phải đang tự hỏi mình?
Người đó thật ra có thật là người mù không? Hay là giả?
Chàng không biết.
Ngoại trừ Liễu Tam Canh ra, không có ai biết.
Trên con đường nhỏ trải đầy những viên sỏi tròn tròn bóng loáng, đoản trượng lò dò chấm trên sỏi, thanh âm phát ra rất kỳ lạ.
Đó tuyệt không phải là thanh âm của gậy trúc đụng lên sỏi đá, cũng không phải là thanh âm kim thiết gõ trên sỏi đá.
Cây đoản trượng đó dùng cái gì làm thành, Triệu Vô Kỵ cũng không đoán ra.
Chàng ngẩng đầu lên là nhìn thấy Liễu Tam Canh đã đi đến trước mặt chàng.
Đợi đến khi Liễu Tam Canh đã đi đến trước mặt, Triệu Vô Kỵ mới đoán định được Liễu Tam Canh tuyệt đối thật sự là người mù.
Bởi vì nhãn châu của y đã chết.
Một người có thể nhìn thấy tuyệt không thể có thứ nhãn châu đó, cho dù có giả cũng giả không được.
Liễu Tam Canh chợt hỏi:
- Ngươi đang nhìn nhãn châu của ta?
Triệu Vô Kỵ cơ hồ giật mình muốn nhảy dựng. Người đó tuy không nhìn thấy, lại phảng phất có đôi mắt thần bí kỳ dị ẩn tàng tại một nơi thần bí trên người y, nhất cử nhất động nào của bất cứ người nào đều chừng như không qua mắt được y.
Liễu Tam Canh lại nói tiếp:
- Ngươi có phải muốn nhìn kỹ thêm nữa?
Triệu Vô Kỵ quả thật đang rất muốn nhìn kỹ thêm nữa.
Liễu Tam Canh thốt:
- Ngươi cầm mà nhìn.
Y dùng một ngón tay tự móc nhãn châu của mình ra, mắt y lập tức biến thành một lỗ hổng đen ngòm.
Nhãn châu xám xịt chết chóc, cũng không biết là làm bằng pha lê hay thủy tinh, lăn qua lăn lại trong lòng bàn tay y, giống như là một con mắt sống.
Cho dù mình biết rõ nhãn châu đó là giả, vẫn khó tránh khỏi bị giật mình nhảy dựng.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Hiện tại có phải ngươi đã nhìn rõ ràng?
Triệu Vô Kỵ chung quy thở phào một hơi:
- Phải.
Liễu Tam Canh thốt:
- Ngươi tốt hơn hết là nên nhìn cho rõ, bởi vì đó là cái giá của chuyện ta làm sai.
Trên khuôn mặt trắng nhợt của y đột nhiên lộ xuất vẻ bi thống, chầm chậm nói tiếp:
- Hai mươi năm trước, ta đã nhìn lầm một người, tuy bị y móc cả đôi mắt, ta cũng không một chút oán trách, bởi vì mỗi một người làm sai chuyện đều phải trả một cái giá lớn lao, vô luận là ai cũng vậy.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Ta hiểu rõ.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Ngươi nghĩ chuyện đó bằng hữu của ngươi có phải đã làm sai không?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Phải.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Có phải cũng nên trả một cái giá lớn lao?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Nên.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Cho dù ta có chém một đao trên mình y, y cũng không chút oán trách?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Không sai.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Nhưng ngươi lại tình nguyện nhận một đao thế y?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Ta tình nguyện.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Tại sao?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Bởi vì y là bằng hữu của ta, hơn nữa đã thụ thương, không thể chịu thêm một đao nữa.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Ngươi có biết một đao của ta nặng cỡ nào không?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Không cần biết là nặng cỡ nào cũng vậy.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Ngươi không hối hận?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Ta cả đời này chưa từng hối hận.
Liễu Tam Canh chầm chậm thu hồi gắn con mắt trở lại, đôi nhãn châu xám xịt chết chóc phảng phất đang ngưng thị nhìn chàng.
Một đôi mắt giả có thể nhìn ra được gì?
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Hiện tại ngươi lúc nào cũng có thể động thủ.
Liễu Tam Canh nói:
- Tốt.
Đoản trượng của y vốn đang kè bên hông, y vừa phản thủ đã rút ra một thanh đao.
Đao giấu trong đoản trượng, đao sáng loáng như tuyết.
Triệu Vô Kỵ ưỡn ngực đứng thẳng, đã có quyết tâm chịu một đao, hà tất phải thoái lui.
Độc Bồ Tát đột nhiên nói:
- Đợi một chút.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Đợi cái gì?
Độc Bồ Tát đáp:
- Hắn còn có chủ nợ khác, ngươi ít ra nên đợi hắn trước tiên thanh toán hết món nợ với người ta rồi mới nói tiếp.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Nợ thiếu người ta sớm muộn gì cũng phải trả, ai trả trước trả sau đều như nhau.
Độc Bồ Tát hỏi:
- Ngươi thật đã chuẩn bị hôm nay trả hết tất cả nợ?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Nếu không, ta tại sao lại tìm các người đến.
Độc Bồ Tát thốt:
- Như vậy thì ngươi không phải là Triệu Vô Kỵ.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ta không phải?
Độc Bồ Tát trầm giọng:
- Ta chỉ biết có một Triệu Vô Kỵ.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Người nào?
Độc Bồ Tát đáp:
- Triệu Vô Kỵ của Đại Phong đường.
Đại Phong đường tịnh không phải là một bang phái phổ thông, tổ chức của bọn họ vừa rộng lớn vừa nghiêm mật, thế lực phân bố khắp nơi.
Tôn chỉ của bọn họ lại chỉ có bốn chữ: “Phù nhược sừ cường”.
Cho nên bọn họ không những làm cho người ta úy sợ, cũng được người ta tôn kính.
Độc Bồ Tát thốt:
- Đường chủ của Đại Phong đường tuy là Vân Phi Dương Vân lão gia tử, thực tế chấp hành mệnh lệnh lại là Triệu Giản, Tư Không Hiểu Phong, và Thượng Quan Nhẫn ba người, Triệu Vô Kỵ ta biết là công tử con của Triệu Giản.
Triệu Vô Kỵ thở dài:
- Không tưởng được ngươi không ngờ biết rõ mọi chuyện như vậy.
Độc Bồ Tát thốt:
- Ngươi nếu là Triệu Vô Kỵ đó, hôm nay không nên ở đây.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ta nên ở đâu?
Độc Bồ Tát đáp:
- Trong hỷ đường ở đại sảnh của Triệu phủ, đợi người ta đến chúc mừng.
Hắn nhìn Triệu Vô Kỵ chằm chẵm, từ từ nói tiếp:
- Cả Tư Không Hiểu Phong và Thượng Quan Nhẫn hôm nay nhất định có thể đến, có bọn họ ở đó, thiên hạ còn có ai dám đi đòi nợ ngươi?
Triệu Vô Kỵ nói:
- Ta thiếu nợ người ta, ta phải trả cho xong, hơn nữa phải tự mình hoàn trả, tịnh không quan hệ gì tới Đại Phong đường, cũng không quan hệ gì tới phụ thân ta.
Độc Bồ Tát thốt:
- Ngươi nếu thật là Triệu Vô Kỵ đó, hôm nay là ngày đại hỷ của ngươi.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Không sai.
Độc Bồ Tát thốt:
- Ngày đại hỷ thông thường đều không phải là ngày trả nợ.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Nhưng từ nay về sau, ta là một người khác, bởi vì ta đã có gia thất của mình, có thê tử, mình không thể tự do lo toan như trước nữa.
Trong ánh mắt của chàng chợt phát sáng:
- Thê tử của ta là bạn lữ trọn đời ta, bọn ta nhất định phải hỗ tương tôn kính nhau, ta không chịu để nàng lấy một nam nhân vô tín vô nghĩa, thiếu nợ mà không trả.
Độc Bồ Tát hỏi:
- Cho nên ngươi nhất định phải thanh toán hết mọi món nợ, giải quyết hết mọi tranh cãi bất đồng trước khi cưới nàng ta?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Phải.
Hắc Bà Bà bỗng thở dài nhè nhẹ:
- Ta nghĩ nàng ta nhất định là một nữ nhân vừa ôn nhu, vừa mỹ lệ, hơn nữa thật là có phước khí.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Ta có thể cưới được nàng tịnh không phải là phước khí của nàng, là phước khí của ta.
Hắc Bà Bà thốt:
- Cho nên ngươi nhất định phải để cho nàng cưới một người đường đường chính chính, thanh thanh bạch bạch.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Một người chỉ cần sống mà không thẹn với lòng mình, cho dù mất cả đôi chân, cụt cả tay, cũng không quan hệ gì.
Hắc Bà Bà thốt:
- Cho nên ngươi tuy không tìm ra hai tên thái hoa tặc kia, vẫn muốn ước hẹn ta đến.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Không sai.
Hắc Bà Bà chầm chậm bước qua, điềm đạm nói:
- Ngươi chuẩn bị dùng gì dể trả nợ cho ta? Một cánh tay? Hay một cái chân?
Ánh mắt của bà ta lóe sáng, thậm chí còn lạnh lẽo hơn cả đao quang của Liễu Tam Canh!
Triệu Vô Kỵ tịnh không tránh né ghê sợ mục quang đó, chỉ hỏi:
- Bà muốn ta trả bằng gì?
Hắc Bà Bà nhìn Độc Bồ Tát hỏi:
- Ngươi muốn hắn trả bằng gì?
Độc Bồ Tát trầm ngâm, từ từ đáp:
- Trên trời dưới đất, có trăm ngàn thứ độc xà, độc nhất lại chỉ có chín thứ.
Hắc Bà Bà nói:
- Chuyện đó ta đương nhiên không biết rõ như ngươi, ta cũng không muốn nghĩ tới.
Độc Bồ Tát thốt:
- Hắn thiếu ta năm con rắn độc, trong đó có ba con thuộc vào chín loại đó, ngoại trừ ta ra, trên thế gian tối đa chỉ có hai người có thể bắt sống ba thứ độc xà đó.
Hắc Bà Bà hỏi:
- Là hai người nào?
Độc Bồ Tát đáp:
- Không cần biết hai người đó là ai, đều tuyệt không phải là Triệu Vô Kỵ.
Hắc Bà Bà thốt:
- Cho nên ngươi đã tính hắn không có cách gì có thể trả nợ cho ngươi.
Độc Bồ Tát thốt:
- Cho nên ta vốn không phải là đến đòi nợ.
Hắc Bà Bà hỏi:
- Ngươi đến để làm gì?
Độc Bồ Tát đáp:
- Đến để báo ân.
Hắc Bà Bà hỏi:
- Báo ân?
Độc Bồ Tát đáp:
- Hồi nãy Liễu tiên sinh nói không sai, độc trong máu ta đích xác đã đến mức cực hạn.
Mục quang của Hắc Bà Bà ngưng trọng:
- Chính ngươi cũng vốn không biết?
Độc Bồ Tát thở dài:
- Đợi đến lúc ta phát giác, năm con rắn đã quấn trên người, không thể ngưng dẹp.
Hắc Bà Bà hỏi:
- Lẽ nào Triệu Vô Kỵ đã cứu ngươi?
Độc Bồ Tát đáp:
- Nếu không phải là vô tâm giúp ta giết chết năm con độc xà đó, hiện tại ta chỉ sợ đã cứng đơ.
Hắc Bà Bà nói:
- Không cần biết là hắn hữu tâm hay vô tâm, hắn thật đã cứu mạng ngươi.
Độc Bồ Tát nói:
- Không sai.
Hắc Bà Bà nói:
- Cho nên hắn không những không nợ ngươi cái gì, ngươi trái lại đã nợ hắn một mạng.
Độc Bồ Tát đáp:
- Không sai.
Hắc Bà Bà nói:
- Cái mạng của Độc Bồ Tát không thể đánh giá bằng tiền, ngươi chuẩn bị làm sao để đền trả cho hắn?
Độc Bồ Tát đáp:
- Ta có thể thay hắn trả một món nợ của hắn.
Hắc Bà Bà hỏi:
- Ngươi muốn thay hắn đi tìm bắt hai tên thái hoa tặc đó về?
Độc Bồ Tát đáp:
- Ta thậm chí còn có thể trả thêm chút lợi tức.
Hắc Bà Bà hỏi:
- Lợi tức gì?
Độc Bồ Tát đáp:
- Trả thêm cả một “Nhất Oa Phong”.
Hắc Bà Bà hỏi:
- Ngươi nắm chắc?
Độc Bồ Tát cười cười:
- Độc của ta tịnh không phải chỉ có thể cứu người, cũng có thể lấy mạng người vậy.
Hắc Bà Bà cũng cười:
- Dĩ độc công độc, dùng độc xà của ngươi đi đối phó với một tổ ong độc đó, thật là không còn gì hay bằng.
Độc Bồ Tát hỏi:
- Ngươi chịu?
Hắc Bà Bà đáp:
- Ta tại sao lại không chịu chứ?
Độc Bồ Tát nhìn Triệu Vô Kỵ, mỉm cười:
- Vậy món nợ với hai người bọn ta, hiện tại ngươi đã thanh toán sạch.
Triệu Vô Kỵ không nói tiếng nào, cả một chữ cũng không nói.
Giờ này phút này, mình còn kêu chàng nói gì được nữa?
Độc Bồ Tát hỏi:
- Hiện tại ta có phải cũng không còn nợ ngươi?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Ngươi vốn không thiếu ta.
Độc Bồ Tát thốt:
- Vậy ngươi phải đáp ứng ta một chuyện.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Chuyện gì?
Độc Bồ Tát đáp:
- Hôm nay là ngày đại hỷ của ngươi, ngươi nên mời ta đi uống chén rượu mừng.
Triệu Vô Kỵ cười:
- Uống một chén không được, muốn uống ít ra cũng phải uống bốn năm chục chén.
Liễu Tam Canh đột nhiên thốt:
- Ngươi không thể uống.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Tại sao?
Liễu Tam Canh đáp:
- Bởi vì ngươi đã thụ thương.
Triệu Vô Kỵ kinh ngạc hỏi:
- Ta đã thụ thương? Thụ thương chỗ nào?
Liễu Tam Canh lạnh lùng thốt:
- Một đao của ta chém vào chỗ nào, ngươi thụ thương chỗ đó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 24-10-2012 12:01:04 | Chỉ xem của tác giả
Đao còn đang trong tay y, lưỡi đao sáng như tuyết, vừa mỏng lại vừa bén.
Đao quang chiếu lên khuôn mặt trắng tái của Liễu Tam Canh, trên mặt y hoàn toàn không có bất cứ biểu tình gì.
Vô luận là ai đều nên nhìn thấy y tuyệt không phải là người dễ dàng bị làm cảm động.
Nếu quả mình nợ y một đao, tất phải trả cho y một đao, mình tuyệt không thể không trả, y cũng tuyệt không thể không đòi.
Vô luận là chuyện gì đều tuyệt không thể khiến cho y cải biến chủ ý.
Đoạn Hồn Canh lại vang lên.
“Tung, tung, tung”, là canh ba.
Là canh ba dùng lưỡi đao gõ ra.
Lòng bàn tay của Triệu Vô Kỵ đã đẫm mồ hôi lạnh.
Chàng tịnh không phải không sợ, chỉ bất quá chàng cho dù chàng có sợ gần chết, cũng tuyệt không thể bỏ trốn.
Liễu Tam Canh lạnh lùng nhìn chàng, lạnh lùng hỏi:
- Ngươi muốn một đao của ta chém chỗ nào?
Triệu Vô Kỵ thở dài:
- Lẽ nào ta còn có đất lựa chọn gì sao?
Liễu Tam Canh đáp:
- Ngươi không còn.
Đao quang lóe lên, người ngã gục xuống đất.
Một đao đó chém thẳng xuống ót, chém tịnh không quá mạnh.
Lưỡi đao vừa mỏng vừa bén như vậy, chém đứt đại huyết quản phía sau ót trái, máu tươi phún trào, cơ hồ bắn ra tới ngoài một trượng.
Máu màu xanh tái.
Máu tươi làm sao có thể có màu xanh tái? Có phải trong máu đã có quá nhiều độc?
Trong máu của Triệu Vô Kỵ không có độc.
Một đao đó cũng không chém lên người chàng.
Đao quang lóe lên, chàng đã chuẩn bị chịu đựng, nhưng một đao như tia chớp đó lại rơi trên ót trái của Độc Bồ Tát.
Độc Bồ Tát không tránh né.
Hắn tịnh không phải không muốn tránh né, chỉ bất quá đợi đến khi hắn tránh né, đã quá trễ rồi.
Hắn có nằm mộng cũng không tưởng được một đao đó lại chém hắn.
Mẹ con Hắc Bà Bà cũng không tưởng được, Triệu Vô Kỵ càng không tưởng được.
Bọn họ nhìn Độc Bồ Tát ngã quỵ, nhìn máu màu xanh tái từ dưới lưỡi đao phún ra.
Bọn họ tuy nhìn rất rõ, nhưng vẫn không minh bạch.
Triệu Vô Kỵ nhịn không được phải hỏi:
- Một đao của ngươi có phải đã chém lầm người?
Liễu Tam Canh đáp:
- Ta bình sinh chỉ lầm có một lần.
Y lầm đương nhiên không phải là lần này, từ sau khi bị người ta móc mắt của y ra, y chưa từng lầm qua lần thứ hai.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Người nợ ngươi một đao là ta, không phải là hắn.
Liễu Tam Canh nói:
- Ngươi đã nợ ta một đao, một đao đó của ta tùy tiện chém vào đâu chẳng được.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Nhưng ngươi không nên chém một đao lên người hắn.
Liễu Tam Canh nói:
- Một đao đó vốn nên chém lên người hắn.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Tại sao?
Liễu Tam Canh đáp:
- Bởi vì hôm nay ngươi không thể chết, cũng không nên chết! Người đáng chết là hắn.
Thân thể Độc Bồ Tát bất động, độc xà trong cái bao bố sau lưng hắn lại vẫn đang động.
Một con độc xà mềm mại bò ra, bò vào vũng máu của hắn, liếm máu hắn, độc huyết.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Trên lưng của hắn có phải có cái bao bố?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Phải.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Trong bao bố có gì?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Có rắn.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Có bao nhiêu rắn?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Trừ hai con hồi nãy đã chết ra, con có bảy con.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Hiện tại bảy con rắn đó có phải đã bò ra hết?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Phải.
Liễu Tam Canh thốt:
- Nhưng hiện tại trong bao bố nhất định vẫn chưa trống không.
Bao bố đích xác vẫn chưa trống không.
Độc Bồ Tát ngã quỵ xuống, bao bố đeo trên lưng hắn, độc xà tuy đã bò ra hết, bao vẫn còn phồng lên.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Ngươi tại sao không đến xem xem trong bao bố còn có gì?
Hắc Bà Bà xen lời:
- Để ta đi xem.
Bà ta dùng cây cung vàng của bà ta khều khều bao bố, lập tức có nhiều viên đạn giống hạt ngô đồng lăn vào vũng máu.
Đạn lăn đến đâu, độc xà lập tức tránh xa khỏi chỗ đó.
Triệu Vô Kỵ vốn nãy giờ thấy kỳ quái, Độc Bồ Tát luôn luôn có nghề phục xà, tại sao đám độc xà trong bao bố nãy giờ vẫn không thể an phục được?
Hiện tại Triệu Vô Kỵ mới biết tại sao.
Độc xà hễ đụng phải những viên đạn đó là giống như người đụng phải độc xà.
Hắc Bà Bà lại dùng kim cung khều một viên đạn ra khỏi vũng máu.
Bà ta không nói gì, cũng không cần nói gì, giữa mẹ con bà ta có một sự thỏa thuận ngầm mà bất cứ một ai cũng vô phương hiểu được.
Bà ta khều viên đạn đó ra, dây cung của con trai bà ta đã “bựt” một tiếng, ngân tiễn bay ra, đạn vỡ nát.
Chàng lập tức ngửi thấy một thứ hương khí hỗn hợp tạo thành từ tiêu thạch và lưu huỳnh.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Ngươi ngửi thấy gì?
Hắc Bà Bà còn đang ngẫm nghĩ, Triệu Vô Kỵ đã trả lời:
- Đó là Phích Lịch!
Phích lịch là một một tiếng sấm nổ, một tia chớp.
Phích lịch không thơm cũng không hôi, mình có thể tưởng đến, có thể nhìn thấy, lại tuyệt đối không ngửi thấy.
Triệu Vô Kỵ tại sao có thể ngửi thấy được?
Bởi vì phích lịch chàng nói tịnh không phải là sấm chớp trên trời, mà là một thứ ám khí dưới đất.
Hắc Bà Bà đã lão luyện giang hồ.
Bà ta từ lúc mười sáu tuổi đã bắt đầu xông pha giang hồ, hiện tại bà ta đã sáu mươi mốt.
Ba ta đã cưới chồng ba lần.
Chồng của bà ta đều là danh gia sử dụng ám khí, chính bà ta cũng tuyệt đối có thể liệt danh vào trong ba mươi vị danh gia ám khí đương thời, cung tiễn cũng có thể coi là ám khí.
Sự hiểu biết của bà ta về thứ ám khí đó lại tuyệt không nhiều như Triệu Vô Kỵ.
Bởi vì đó là độc môn ám khí của “Phích Lịch đường”.
Phích Lịch đường có thể uy trấn võ lâm, ít ra có một nửa nguyên nhân là vì thứ ám khí đó.
Lôi Chấn Thiên chủ nhân của Phích Lịch đường có thể liệt vào hàng đệ nhị trong số ba mươi danh gia ám khí cũng là vì thứ ám khí đó.
Tất cả mọi chuyện có liên quan đến thứ ám khí đó, đám đệ tử của Đại Phong đường từ nhỏ đã hiểu biết rất rõ.
Bởi vì Đại Phong đường và Phích Lịch đường là tử địch.
Bọn họ cho tới nay còn có thể cùng tồn tại chỉ là vì phe nào cũng không nắm chắc mình có thể thắng được đối phương.
Ngân tiễn bắn vỡ viên đạn, khí thế còn tồn đọng, “cạch” một tiếng ghim phập vào bản gỗ gần song cửa sổ của tiểu lâu, đuôi tên còn đang chấn động rung rung.
Hắc Bà Bà liếc mắt ra vẻ tán thưởng, nhìn con trai của mình một cái rồi quay đầu lại hỏi:
- Đó là Phích Lịch?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Dứt khoát.
Chàng tin chắc tuyệt không thể nhìn lầm.
Hắc Bà Bà hỏi:
- Nhưng nó tại sao lại không có oai lực của Phích Lịch như trong truyền thuyết?
Liễu Tam Canh đáp:
- Bởi vì độc huyết dưới đất.
Y từ từ cúi mình, dùng hai ngón tay lượm một viên Phích Lịch lăn gần dưới chân.
Y tuy nhìn không thấy, nhưng nghe được.
Tiếng gió lùa lá cây xào xạc, tiếng đạn lăn dưới đất, tiếng dây cung bắn “bựt”, nội trong vòng chu vi ba mươi trượng, tất cả mỗi một thứ thanh âm phát ra đều tuyệt đối không thoát qua khỏi tai y.
Viên Phích Lịch đó xem có vẻ vừa tươi vừa khô, giống như một trái khô cứng mới vừa rớt xuống từ trên cây.
Liễu Tam Canh búng ngón giữa, “vút” một tiếng, viên Phích Lịch bắn ra từ ngón tay giữa như một mũi tên.
Ngón tay đó của y giống như một dây cung căng cứng, viên đạn bay xa mấy chục trượng, vượt qua khỏi hoa viên rộng thoáng, văng trên một tảng đá lớn nơi góc vườn, lập tức phát ra một tiếng nổ thạch phá thiên kinh, khói xám đá vụn bay mù trời.
Hắc Bà Bà biến sắc.
Bà ta chung quy đã nhìn thấy oai lực của viên Phích Lịch đó, càng mãnh liệt đáng sợ hơn xa so với trong truyền thuyết.
Trong gió lại truyền đến mùi hỗn hợp tiêu thạch và lưu huỳnh, phảng phất còn kéo theo hương khí phấn sáp.
Trong Phích Lịch vốn đáng lẽ không có thứ mùi vị đó.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Đó là mùi gì vậy?
Liễu Tam Canh đáp:
- Sao ngươi không đi qua nhìn thử.
Triệu Vô Kỵ không cần phải bước qua nhìn, sắc mặt đã có biến chuyển.
Bụi phấn khói xám vừa hạ xuống, rơi rải trên một cụm hoa mẫu đơn mới nở, mẫu đơn đỏ tươi đột nhiên khô héo, từng cánh hoa rụng rớt biến thành đen sì.
Triệu Vô Kỵ thất thanh:
- Hương khí có độc.
Trong viên Phích Lịch đó không ngờ có trộn chung một thứ độc phấn.
Liễu Tam Canh nói:
- Nếu không phải vì độc huyết dưới đất đã hóa giải độc của nó, hồi nãy kịch độc trong viên Phích Lịch đó đã đủ để lấy mạng bọn ta rồi.
Hiện tại lần này tuy là từ ngoài ba mươi trượng bộc phát, hướng gió tuy tịnh không phải đang thổi về phía bọn họ, nhưng bọn họ vẫn cảm thấy lảo đảo, phảng phất muốn ói mửa.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Đừng quên độc của Độc Bồ Tát tịnh không phải chỉ có thể cứu người, cũng có thể lấy mạng người ta.
Một viên Phích Lịch độc phấn đó vốn đương nhiên đã chuẩn bị để đối phó đám quý khách đi uống rượu mừng của Triệu Vô Kỵ.
Người có thể được Triệu Giản mời đến Hòa Phong sơn trang của lão đương nhiên là tinh anh của Đại Phong đường.
Một ngọn lửa trong lồng đèn đã đủ để dẫn hỏa nổ ba bốn viên Phích Lịch, trong đại sảnh của Hòa Phong sơn trang, hôm nay đương nhiên đèn đuốc huy hoàng, cũng không biết có bao nhiêu lồng đèn bao nhiêu ngọn đuốc mà kể.
Nếu quả để cho Độc Bồ Tát trà trộn tiến vào, len lén đặt trong mỗi lồng đèn hai ba viên Phích Lịch, đợi đến khi độ nóng trong lồng đèn dung hóa vỏ bọc bên ngoài, có thể dẫn đến kết quả gì?
Nghĩ đến đó, y phục toàn thân Triệu Vô Kỵ cơ hồ đã thấm đẫm mồ hôi lạnh.
Liễu Tam Canh thốt:
- Ngươi nhất định không tưởng được Độc Bồ Tát đã đầu nhập Phích Lịch đường.
Triệu Vô Kỵ quả thật không tưởng nổi.
Liễu Tam Canh thốt:
- Ngươi nhất định cũng không tưởng được bọn chúng không ngờ dám hạ độc thủ với Hòa Phong sơn trang.
Bọn chúng dám làm như vậy chẳng khác gì đã tuyên chuyến với Đại Phong đường!
Một khi chiến tranh bùng nổ, tất trở thành quyết chiến sinh tử giữa hai bên, sự thảm liệt của chiến huống Triệu Vô Kỵ cơ hồ đã có thể tưởng tượng được.
Liễu Tam Canh thốt:
- Chuyện này cho dù không thành, tổn thất của bọn chúng chỉ bất quá là một mình Độc Bồ Tát, hắn tịnh không phải là trung kiên của Phích Lịch đường, có lẽ bọn chúng căn bản không để sinh mạng của hắn trong tâm.
Nếu chuyện đó thành công, tinh anh của Đại Phong đường rất có khả năng đã bị hủy đi trong phút chốc.
Triệu Vô Kỵ nắm chặt song quyền:
- Kỳ thật vô luận là thành hay không thành, kết quả đều như nhau.
Liễu Tam Canh hỏi:
- Tại sao?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Bọn chúng đã dám làm như vậy, nghĩ tất đã có quyết tâm không ngại cùng bọn ta quyết chiến.
Thanh âm của chàng vừa hưng phấn vừa trầm trọng:
- Đại Phong đường của bọn ta có vô số đệ tử, đương nhiên cũng tuyệt không thể kinh sợ mà co rúc!
Đại Phong đường chỉ có liệt sĩ chiến tử, tuyệt không có những kẻ hèn nhát co rúc.
Chàng cơ hồ có thể thấy huynh đệ của Đại Phong đường giữa những tiếng nổ của Phích Lịch đang đổ máu khổ chiến.
Trong những người đó, có trưởng giả tôn kính của chàng, cũng có bằng hữu thân mật của chàng.
Những người đó lúc nào cũng đều có thể cùng chàng đồng sinh tử, cộng hoạn nạn.
Chính chàng cũng chuẩn bị làm như vậy.
Có lẽ bọn họ tịnh không nắm chắc chiến thắng, nhưng một khi chiến tranh bùng nổ, bọn họ tuyệt không hỏi han gì đến sinh tử thắng bại!
Chàng tin đám đệ tử của Đại Phong đường mỗi một người đều có thể làm như vậy!
Liễu Tam Canh lại bỗng cười cười.
Đó là lần thứ nhất y cười, Triệu Vô Kỵ kinh ngạc nhìn y, không nghĩ ra được vì sao y lại cười.
Liễu Tam Canh thốt:
- Ta đang cười ngươi.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Cười ta? Tại sao lại cười ta?
Liễu Tam Canh đáp:
- Bởi vì ngươi lại đã lầm.
Y không để cho Triệu Vô Kỵ mở miệng, lại nói tiếp:
- Hiện tại Độc Bồ Tát đã chết, Hòa Phong sơn trang vẫn an nhiên tĩnh tại, cho nên chuyện đó căn bản chưa thể xảy ra, Phích Lịch đường chỉ dám phái thứ người như Độc Bồ Tát đến hạ thủ chỉ bất quá vì bọn chúng cũng không dám khinh cử vọng động, cho dù có người đến hỏi bọn chúng, bọn chúng cũng tuyệt không thể thừa nhận chuyện đó là chủ ý của bọn chúng.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Nhưng...
Liễu Tam Canh ngắt lời chàng:
- Cục diện đối đầu giữa Đại Phong đường và bọn chúng đã duy trì hai ba chục năm, rất co thể còn tiếp tục thêm hai ba chục năm nữa, sau này thậm chí có lẽ còn có thể hóa địch thành bạn, ngươi hiện tại hà tất phải nghĩ thái quá.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ta nên nghĩ làm sao?
Liễu Tam Canh đáp:
- Ngươi nên nghĩ đến tân nương tử mỹ lệ ôn nhu của ngươi, nghĩ đến chuyện về gấp uống rượu mừng với hảo bằng hữu của ngươi.
Ánh mắt của Triệu Vô Kỵ lại phát sáng. Chàng còn trẻ.
Chàng vốn là một thanh niên nhiệt tình như lửa, rất dễ dàng bị kích nộ, nhưng cũng rất dễ dàng biến thành cao hứng tràn trề.
Liễu Tam Canh thốt:
- Cho nên ngươi hiện tại nên mau mau cưỡi thớt khoái mã của ngươi trở về, hoán đổi áo lễ phục của ngươi, đến hỷ đường bái thiên địa.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Nhưng ta...
Liễu Tam Canh thốt:
- Hiện tại ngươi không còn nợ ta, cũng không còn nợ Hắc Bà Bà, nhưng ngươi nếu quả còn chưa đi, nếu quả còn để tân nương tử của ngươi bồn chồn lo lắng, ta tất phải tức giận.
Hắc Bà Bà thốt:
- Ta nhất định càng tức giận hơn!
Triệu Vô Kỵ nhìn bà ta, nhìn Liễu Tam Canh, đột nhiên phát hiện trên thế gian này tất vẫn có thể tìm được người tốt.
Thế giới này tất vẫn còn ấm cúng tràn trề, sinh mệnh tất lại càng khả ái.
Chàng lại cười.
Chàng lại cao hứng.
Tai họa tất lại càng cách xa chàng, rất xa, cẩm tú tiền trình ngập tràn hạnh phúc và yêu đương lại đang ở trước mặt chàng.
Chàng bật dậy:
- Được, ta đi liền.
Liễu Tam Canh thốt:
- Nhưng còn có chuyện ngươi nhất định phải ghi nhớ.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Chuyện gì?
Liễu Tam Canh đáp:
- Ngươi nhất định phải ghi nhớ ngàn vạn lần không thể bị người ta phục rượu say sưa.
Y lại nở nụ cười:
- Tân nương tử tuyệt không thích một ông chồng đang đêm động phòng hoa chúc mà ói mửa như một tên hồ đồ.
Hắc Bà Bà thốt:
- Không sai chút nào.
Khuôn mặt già nua của bà ta bỗng biến thành trẻ trung:
- Ta nhớ có một ngày ta làm tân nương tử, tân lang của ta uống say túy lúy bị ta đá văng khỏi giường ngủ cả đêm dưới đất, hơn nữa ít ra có ba ngày không thèm nói chuyện với y.
Trên mặt bà ta bỗng lại đỏ hồng, cười nhẹ:
- May là có những chuyện không nói cũng có thể làm được.
Liễu Tam Canh cười lớn.
Triệu Vô Kỵ tin rằng cả đời y rất có thể chưa từng cười lớn như vậy.
Triệu Vô Kỵ đương nhiên cũng cười:
- Ta nhất định ghi nhớ, lúc có người phục rượu ta, ta...
Hắc Bà Bà hỏi:
- Ngươi chuẩn bị làm sao?
Triệu Vô Kỵ nháy nháy mắt:
- Ta chuẩn bị trước hết trốn dưới đáy giường nằm, ít ra không bị người ta đá văng xuống.
Hắc Bà Bà cười lớn:
- Đó thật là chủ ý hay.
Nợ đã trả hết, sự tình đều đã giải quyết xong. Hiện tại còn chưa tối, gấp rút trở về vẫn còn kịp.
Tâm tình của Triệu Vô Kỵ khoan khoái cực kỳ.
Điểm làm cho chàng cảm thấy khoan khoái nhất là Hương Hương không những không kéo ghì chàng nữa, trái lại còn dắt ngựa đến trước cửa đợi chàng.
Trong ánh mắt của nàng tuy khó tránh khỏi bâng khuâng chút u oán, nhưng ít ra lệ ngân đã khô.
Nàng cúi đầu, dịu dàng thốt:
- Chàng đã nhất định phải đi, tôi cũng không muốn giữ chàng nữa, tôi có giữ cũng giữ không được.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Cám ơn nàng.
Trong tâm chàng thật cảm thấy rất cảm kích, cảm kích sự hiểu thấu của nàng, càng cảm kích sự khoan thứ của nàng.
Không cần biết ra sao, chàng ít ít nhiều nhiều cũng cảm thấy mình có điểm không phải đối với nàng.
Hương Hương lại ngẩng đầu ngưng thị nhìn chàng:
- Nhưng tôi biết chàng sau này nhất định đến gặp tôi nữa.
Triệu Vô Kỵ trong tâm đang thở dài, dịu dàng thốt:
- Ta không thể đến nữa.
Hương Hương hỏi:
- Tại sao?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Đến nữa cũng chỉ chuốc thêm khổ não ưu phiền, ta hà tất phải đến nữa.
Mỗi một người lúc còn trẻ đều khó tránh khỏi làm ra những chuyện hoang đường.
Người trẻ tuổi nào lại không phong lưu?
Chàng đã quyết tâm sau này phải làm một người chồng tốt, chàng có quyết tâm nhất định có thể làm được.
Hương Hương cắn môi:
- Nhưng tôi không tin.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Nàng không tin?
Hương Hương đáp:
- Tôi không tin chàng sau này vĩnh viễn không còn nhìn nữ nhân khác nữa.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Nam nhân gặp phải nữ nhân dễ nhìn, ngoại trừ kẻ mù và ngụy quân tử ra, ai cũng đều khó tránh khỏi phải nhìn một cái, nhưng ta tối đa cũng chỉ bất quá là nhìn nhìn mà thôi.
Hương Hương càng không chịu buông tha:
- Tôi cũng không tin bằng vào một mình nàng ta có thể vĩnh viễn cầm giữ được chàng.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Nàng ta có lẽ không cầm giữ được ta, nhưng ta biết sau này nhất định có người có thể giúp nàng ta cầm giữ ta.
Hương Hương hỏi:
- Người đó có thể cầm giữ chàng?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Chỉ có y mới có thể cầm giữ được ta.
Hương Hương hỏi:
- Người đó là ai?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Chính là ta.
o O o
[Vệ Phượng Nương và Triệu Thiên Thiên]
Vệ Phượng Nương đang ngồi trước gương trang điểm, nhìn bóng mình trong gương, trong tâm cũng không khỏi có cảm giác rất thỏa mãn về mình.
Nàng quả thật là một nữ nhân rất đẹp, đặc biệt là hôm nay, nhìn càng dung quang hoán phát, mỹ diễm chiếu nhân.
Bởi vì nàng bình thời rất ít khi mặc y phục tươi đẹp như vầy, trên mặt cũng rất ít khi thoa phấn.
Nàng luôn luôn rất biết cách kềm chế mình.
Nàng biết chỉ có một nữ nhân hiểu biết cách tự kềm chế lấy mình mới xứng làm dâu Triệu gia.
Từ cái ngày lần đầu tiên nàng gặp Triệu Vô Kỵ, nàng đã quyết tâm phải làm dâu Triệu gia.
Bắt đầu từ ngày đó, nàng đã đính hạ mục tiêu nỗ lực cho cuộc đời mình.
Nàng học may vá thêu thùa, học nấu nướng, học nội trợ trị gia.
Hiện tại đồ ăn nàng nấu có thể nói hơn hết các nhà bếp danh tiếng của bất cứ tửu điếm nào.
Y phục nàng may, vô luận bất cứ ai mặc vào, đều có cảm giác vừa vặn thoải mái.
Cho dù là người kén chọn tỉ mỉ nhất đều không thể không thừa nhận nàng quả thật là một người vợ lý tưởng.
Nỗ lực của nàng cũng tịnh không uổng phí trắng tay.
Hiện tại nàng cuối cùng đã bước vào cửa Triệu gia, đã trở thành người của Triệu gia.
Đó tịnh không biểu thị nàng chuẩn bị làm một thiếu nãi nãi kiêu kỳ trong nhà.
Nàng quyết tâm sau này vẫn phải làm càng tốt hơn, khiến cho Triệu Vô Kỵ vĩnh viễn không thể hối hận đã cưới người vợ này.
Triệu Vô Kỵ anh tuấn, cực kỳ thông minh, tính khí tuy có chút hư hỏng, lại là một thanh niên rất tốt.
Một nam nhân như vậy đương nhiên có rất nhiều cô gái thích chàng.
Nàng biết chàng trước đây cũng rất phong lưu.
Nàng thậm chí còn biết chàng có qua lại với một cô gái tên là Hương Hương.
Nàng đã quyết tâm sau này phải quên hết toàn bộ mấy chuyện đó, bởi vì nàng cũng tin rằng chàng sau này nhất định có thể thay đổi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 24-10-2012 12:02:10 | Chỉ xem của tác giả
Nàng nhận thấy chàng là một nam nhân thành thật, sau này cũng nhất định có thể làm một người chồng rất thành thật.
Có thể cưới một người chồng như vậy, một nữ nhân còn có gì không thỏa mãn chứ?
Nàng chỉ bất quá vẫn có chút khẩn trương.
Vừa nghĩ đến đêm hôm nay, nghĩ đến cái giường rộng rãi trong động phòng, tâm của nàng lại đập mạnh, mặt lại đỏ hồng.
Hiện tại tim của nàng đập rất nhanh... nhưng nàng cũng tịnh không quá lo lắng, mỗi một cô gái đều phải trải qua những chuyện đó, có gì mà phải lo sợ?
Hiện tại chuyện duy nhất khiến cho nàng lo lắng là Triệu Vô Kỵ hôm nay mới sáng sớm đã bỏ đi, đến bây giờ còn chưa quay về.
Hiện tại trời đã tối.
Nàng không những lo lắng mà đang bắt đầu khẩn trương, may là lúc đó, nàng nghe thấy thanh âm vui mừng của Thiên Thiên:
“Triệu Vô Kỵ đã về rồi”.
Triệu Thiên Thiên là muội muội của Triệu Vô Kỵ.
Nàng cũng như ca ca của nàng, thông minh, mỹ lệ.
Nàng không những là mỹ nhân hữu danh, cũng là hiệp nữ rất hữu danh trong giang hồ.
Từ lúc nàng còn rất nhỏ đã bắt đầu học kiếm, trong Đại Phong đường có rất nhiều cao thủ từng bại dưới kiếm của nàng, thậm chí cả ca ca của nàng đã từng bại.
Tuy nàng cũng biết ca ca cố ý nhường nàng, vẫn cảm thấy rất cao hứng.
Nàng năm nay mới mười bảy tuổi, đang ở tuổi hoa nở tươi tắn.
Đối với nàng mà nói, cuộc đời giống như một một chén rượu ngon ngọt đang đợi nàng thưởng thức.
Nàng cũng có tâm sự của nàng.
Một cô gái mười bảy làm sao mà không có tâm sự chứ?
Nàng vốn luôn luôn rất sảng khoái, cho đến buổi hoàng hôn đó.
Ngày xuân đó, nàng một mình ngồi ở hậu viên, nhìn hoa tươi đua nở khắp vườn, nhìn trời xanh trong vắt bao trùm mặt đất, nhìn tịch dương chầm chậm tan biến sau vùng núi xa xăm.
Nàng đột nhiên cảm thấy rất tịch mịch.
Nỗi tịch mịch của một cô gái muời bảy thông thường chỉ có một cách có thể giải trừ, một nam nhân có thể hiểu được nàng, hơn nữa phải là nam nhân nàng thích.
Nàng tìm không ra thứ nam nhân đó.
Bởi vì nàng một mực nghĩ nam nhân chân chính trên thế giới chỉ có hai người, một là phụ thân nàng, hai là ca ca của nàng.
Nam nhân khác nàng căn bản không để bọn họ trong mắt mình.
Nếu quả nàng còn mẫu thân, nàng còn có thể đem tâm sự của mình kể cho mẫu thân nghe. Bất hạnh là mẫu thân của nàng dã mất từ sớm.
Nàng cùng phụ thân thủy chung có một khoảng cách, đối tượng duy nhất nàng có thể nói chuyện là ca ca của nàng.
Hiện tại ca ca của nàng đã gần thành hôn, nàng biết mình sau này nhất định lại càng tịch mịch.
Tịch mịch.
Tịch mịch đáng sợ làm sao.
Triệu Vô Kỵ từ sớm đã bỏ đi, cho đến bây giờ vẫn còn chưa về, người lo lắng nhất là nàng.
Bởi vì chỉ có nàng mới biết ca ca mình đi làm gì.
Huynh muội bọn nàng luôn luôn không có bí mật.
“Huynh phải đi trả nợ, nhất định phải đi trả, nhưng có những món nợ huynh vị tất trả được, nếu quả huynh đến tối còn chưa về, rất có thể vĩnh viễn không thể về”.
Nàng không giữ ca ca lại, cũng không khuyên ca ca.
Bởi vì nàng hiểu ca ca, biết một nam nhân chân chính nếu quả quyết tâm muốn đi làm một chuyện, người khác có giữ cũng giữ không được, khuyên cũng vô dụng.
Trong tâm nàng luôn luôn kiêu ngạo mình có một ca ca như vậy.
Từ lúc hoàng hôn, nàng đã một mực chờ đợi, đứng trong góc hậu viên bên ngoài cửa chờ đời.
Đợi đến khi trời tối, nàng cũng đã bắt đầu khẩn trương.
Lúc đó, nàng nhìn thấy một người một ngựa như phong cuồng xông vào con hẻm ngoài hậu viên.
Nàng còn chưa nhìn thấy rõ dáng dấp của người đó đã biết người đó là ai.
Chỉ có Triệu Vô Kỵ mới có thể phong cuồng như vậy, chỉ có Triệu Vô Kỵ mới có thể cưỡi ngựa như vậy.
Nàng lập tức nhảy lên hoan hô.
“Triệu Vô Kỵ đã về rồi”.
Triệu Vô Kỵ đang thay y phục.
Cả thời gian tắm rửa cũng không có, chàng bắt đầu thay y phục, mặc cát phục của tân lang.
Trên người chàng càng nhuốm đầy mồ hôi, hai chân không những đau dần, hơn nữa da bắp chân đều trầy trụa vì va vào yên ngựa.
Ngựa chàng cưỡi trở về tuy là một thớt ngựa tuyển chọn từ nghìn con, hiện tại lại đã ngã quỵ.
Nó chưa ngã quỵ từ trước đã có thể coi là quá giỏi rồi.
Hiện tại chàng mới biến làm một tân lang thật không phải là chuyện dễ dàng.
Bắt đầu từ chuyện thay y phục đã rất không dễ dàng rồi.
Chàng trước đây chưa từng nghĩ đến mặc y phục tân lang lại phiền hà như vậy, còn khó khăn hơn cả mấy bé gái mặt y phục cho búp bê đất sét, may là chàng vẫn có thể nhẫn nại, bởi vì chàng biết cả đời mình tối đa cũng chỉ có một lần như vậy.
Ba người đang giúp chàng thay y phục.
Vốn đáng lẽ là ba nữ nhân, nhưng chàng kiên quyết nhất định phải dùng nam nhân.
Ba nữ nhân chàng vừa không quen biết vừa không thích muốn giúp chàng thay y phục, chàng không chịu được.
Chỉ bất quá trong phòng còn có nữ nhân.
Tuy nữ nhân đó trong mắt chàng mà nhìn tịnh không thể coi là nữ nhân, nhưng trong mắt người ta mà nhìn, nàng lại là một nữ nhân tuyệt đẹp, nữ nhân hoàn hoàn toàn toàn, ngoại trừ tính khí quá hư hỏng ra, cơ hồ có thể coi là nữ nhân trong nữ nhân.
Thiên Thiên đang ngồi trong góc phòng nhìn chàng thay y phục, đang ngồi dưới đất.
Trong phòng cho dù có tám trăm cái ghế, nàng cũng không ngồi trên ghế, bởi vì nàng thích ngồi dưới đất.
Nàng thích ngồi thoải mái dưới đất.
Cho dù dưới đất có hai vũng sình phía sau, một khi nàng thích ngồi, vẫn ngồi xuống như vậy.
Y phục dơ, nàng không thèm để ý tới một chút nào, người khác nói nàng ngồi mà không giống như ngồi, nàng càng không thèm để ý tới.
Nàng khác với Vệ Phượng Nương.
Nàng một mực chỉ làm chuyện nàng thích làm.
Triệu Vô Kỵ lắc đầu:
- Bằng vào cách ngồi của muội, sau này làm sao xuất giá chứ?
Thiên Thiên “hừm” một tiếng trong mũi:
- Huynh lo tôi không xuất giá được? Trời có sập tôi cũng không cưới người như huynh!
Triệu Vô Kỵ cười khổ.
Chàng chỉ còn nước cười khổ.
Thiên Thiên vẫn còn tức:
- Hà huống nam nhân như huynh còn có thể cưới vợ, tôi sao lại không xuất giá được chứ?
Triệu Vô Kỵ nhịn không được, lại muốn biểu thị ý kiến của mình:
- Nhưng muội là con gái, con gái ít ít nhiều nhiều gì cũng phải có chút bộ dạng như con gái!
Thiên Thiên bỉu môi:
- Con gái nên có bộ dạng ra sao? Giống như Hương Hương của huynh?
Đề khởi đến Hương Hương, Triệu Vô Kỵ không nói gì được nữa.
Thiên Thiên lại không chịu buông tha:
- Nàng ta có phải thật sự rất thơm? Nàng ta thật ra thơm bao nhiêu chứ?
Nàng chừng như rất có hứng thú đối với vấn đề đó, Triệu Vô Kỵ chỉ còn nước mau mau đổi chủ đề:
- Hôm nay có phải có rất nhiều người đến không?
- Ừm!
- Những người nào đã đến?
- Người nên đến lại chưa đến, người không nên đến đều đã đến.
Triệu Vô Kỵ liếc muội muội mình:
- Huynh biết con trai của Đại đại gia nhất định chưa đến!
Thiên Thiên nhịn không được phải hỏi:
- Huynh làm sao biết?
Triệu Vô Kỵ cố ý cười theo điệu bộ rất âm hiểm:
- Bởi vì hắn vốn nên đến.
Mặt Thiên Thiên đột nhiên đỏ hồng lên.
“Đại đại gia” là Trí Đa Tinh Tư Không Hiểu Phong, người trong giang hồ đều công nhận là người có quyền lực nhất của Đại Phong đường.
Con trai của lão là Tư Không Khúc.
Tư Không Khúc có ý với Thiên Thiên, vô luận đối với một ai mà nói đều không phải là bí mật.
Triệu Vô Kỵ rất đắc ý.
Chàng cuối cùng đã làm cho muội muội nhiều chuyện của mình tạm thời ngậm miệng lại, nhưng chàng đã quên mình cũng có rất nhiều bí mật không còn là bí mật.
Tròng mắt của Thiên Thiên háy háy, đột nhiên thở dài:
- Đáng tiếc, thật đáng tiếc!
Triệu Vô Kỵ cũng nhịn không được phải hỏi:
- Muội nói đáng tiếc cái gì?
Thiên Thiên đáp:
- Đáng tiếc một người lại không đến.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Người nào?
Thiên Thiên đáp:
- Là một người vốn nên đến.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ai?
Thiên Thiên đáp:
- Linh Linh đáng thương.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Nàng ta có gì liên quan đến huynh? Huynh còn chưa gặp mặt nàng ta nữa là.
Thiên Thiên đáp:
- Bởi vì huynh còn chưa gặp mặt nàng ta cho nên mới đáng tiếc.
Nàng cũng dùng khóe mắt háy ca ca mình:
- Huynh không phải luôn luôn rất muốn biết bộ dạng của nàng ta ra sao sao?
Triệu Vô Kỵ không có cách gì phủ nhận.
Chàng quả thật luôn luôn rất muốn gặp “Linh Linh đáng thương” đó xem dáng dấp ra sao. Đó cũng không phải là bí mật!
“Linh Linh đáng thương” đó là con gái một của Thượng Quan Nhẫn, Tam đại gia của bọn họ.
Tên của nàng là Linh Linh.
Thượng Quan Linh Linh.
Mọi người đều biết nàng là tài nữ, cũng là mỹ nữ.
Nhưng chưa từng có ai gặp được nàng.
Bởi vì nàng từ nhỏ đã bị phụ thân dẫn đến Hoàng Sơn, có người nói nàng đi học nghệ.
“Võ công của Hoàng Sơn “Diệu Vũ quán” Diệu Vũ sư thái là thích hợp nhất cho con gái”.
Cũng có người nói nàng đi dưỡng bệnh.
“Nàng trời sinh mắc một chứng bệnh kỳ quái, giống hệt như mẫu thân của nàng, nếu không thể an tâm tĩnh dưỡng rất có thể không sống quá được hai mươi tuổi”.
Thật ra nàng tại sao phải đi?
Không một ai biết, cũng không ai dám hỏi Thượng Quan Nhẫn.
Thượng Quan Nhẫn luôn luôn là người không dễ tiếp cận, càng không chịu để người ta đề cập đến vấn đề đó.
Cái chết của vợ lão, và con gái của lão đều là chuyện lão không chịu đề cập tới.
Nếu quả Thượng Quan Nhẫn không chịu đề cập tới chuyện gì, mình nếu đề cập tới, chẳng khác nào là chuốc khổ vào thân.
Không cần biết mình là ai cũng vậy.
Cả chủ nhân của Đại Phong đường Vân Phi Dương Vân lão gia tử đều biết tính khí kỳ quái của lão.
Đề cập đến Linh Linh, Triệu Vô Kỵ lại chỉ còn nước mau mau đổi đề tài:
- Lão đầu tử hôm nay có uống thuốc chưa?
Thoại đề đó vĩnh viễn là thoại đệ quan tâm nhất của bọn họ.
Bởi vì lão đầu tử là phụ thân của bọn họ.
Lối xưng hô “lão đầu tử” tuyệt đối không có một ý tứ không tôn kính nào, chỉ bất quá biểu thị sự quan tâm thân mật giữa phụ thân và huynh muội bọn họ mà người khác vĩnh viễn vô phương hiểu thấu được.
Trong mắt người khác, phụ thân của bọn họ có lẽ là một người rất đáng sợ, đại đa số người trong giang hồ một khi đề cập tới năm chữ “Kim Long Kiếm Triệu Giản”, trong tâm đều sinh ra một sự tôn kính gần như sợ sệt.
Trong mắt bọn họ, ông ta không những là nghiêm phụ, cũng là từ mẫu của bọn họ.
Triệu phu nhân mất qua đời từ rất sớm, ông ta một tay nuôi dưỡng huynh muội bọn họ thành nguời.
Những đêm lạnh trích thủy thành băng, người đắp mền cho bọn họ là ông ta.
Những bình minh tươi tắn gió xuân, dẫn bọn họ đi thả diều ngoài vườn cũng là ông ta.
Vì nuôi dưỡng hai đứa con, vị võ lâm cao thủ năm xưa một kiếm tung hoành giang hồ hiệp trợ bằng hữu Vân Phi Dương sáng lập Đại Phong đường đã dần dần thay đổi tính khí.
Những năm gần đây tính khí của ông ta càng vui vẻ, thân thể lại dần dần suy nhược, rất dễ bị mệt.
Sau khi xử lý chuyện quan trọng của Đại Phong đường, ông ta thường một mình ngồi trong thư phòng, mệt mỏi đến mức nói không ra hơi, có lúc thậm chí toàn thân đau đớn đến mức co cuộn lại.
Huynh muội bọn họ dần dần đã phát hiện ra sự đau đớn của ông ta, đoán định ông ta nhất định đang ẩn tàng một căn bệnh trong người.
Huynh muội bọn họ tuy có thể bắt ông ta miễn cưỡng đi gặp đại phu, nhưng lão nhân quật cường đó lại thường thường không chịu uống thuốc.
Ông ta thường nói:
- Chỉ có nữ nhân mới uống thuốc ngày này qua tháng nọ, lẽ nào các ngươi muốn ta coi ta như nữ nhân?
Ý tưởng đó tuy rất không chính xác, nhưng một khi ông ta nghĩ là đúng, tuyệt không có một ai có thể khiến cho ông ta sửa đổi.
Thiên Thiên thở dài nhè nhẹ:
- Hôm nay cha lại len lén đổ chén thuốc xuống cống.
Triệu Vô Kỵ cười khổ:
- Huynh thật nghĩ không ra cha tại sao lại sợ thuốc như một đứa trẻ vậy.
Thiên Thiên thốt:
- Nghe nói một người đến lúc tuổi già thường thường có thể phản lão hoàn đồng.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Nghe nói Lục lão bá ở Hoa Sơn đặc biệt đến đây, bệnh của cha tuy người khác không chẩn đoán ra là bệnh gì, nhưng dưới tay của Lục lão bá, thiên hạ còn có bệnh gì mà không trị hết được?
Lục lão bá là “Hoa Sơn Y Ẩn” Lục Thông, không những là danh đồ của Hoa Sơn kiếm phái, cũng là thần y hữu danh trong giang hồ.
Thiên Thiên nói:
- Hôm nay sau khi ăn cơm trưa xong, Lục lão bá đã bắt mạch cho cha.
Nàng nghĩ ngợi, lại nói:
- Hai người bọn họ còn ngồi trong thư phòng đàm luận rất lâu.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Bọn họ khi đi ra có nói gì không?
Thiên Thiên đáp:
- Lúc bọn họ đi ra, lão đầu tử có vẻ rất cao hứng, còn đặc biệt bài một bàn rượu, hẹn Tam đại gia uống rượu ở hậu viên.
Tam đại gia là một trong ba vị cự đầu của Đại Phong đường, cả ngày khó nói ra tới một câu, “Thiết Kiếm Kim Nhân” Thượng Quan Nhẫn.
Kim nhân, tượng vàng. Tượng vàng còn có lúc mở miệng, muốn lão nói chuyện đơn giản còn khó hơn cả mở miệng tượng vàng.
Thiên Thiên nói:
- Lão hôm nay cũng uống rất nhiều rượu với lão đầu tử. Cho đến hôm nay tôi mới biết tửu lượng của lão rất có thể còn mạnh hơn cả huynh.
Triệu Vô Kỵ tươi mặt:
- Nói như vậy, bệnh của lão đầu tử nhất định đã có cơ hội biến chuyển.
Thiên Thiên thốt:
- Nhưng Lục lão bá lại tỏ vẻ tâm sự trùng trùng, không chịu uống rượu.
Triệu Vô Kỵ lại nhíu mày.
Lúc đó ngoài song cửa chợt truyền vào tiếng bước chân nặng nề, một người bên ngoài cất tiếng hỏi:
- Đại thiếu gia có trong đó không?
Triệu Vô Kỵ và Thiên Thiên đều nghe thấy đó là thanh âm của lão Khương.
Lão Khương đã sống trong Triệu phủ mấy chục năm nay, từ chức thư đồng của Triệu Giản đã trở thành tổng quản của Hòa Phong sơn trang, đôi chân vốn nhanh mạnh hơn ai hết, những năm gần đây lại mắc bệnh phong thấp, bước đi rất khốn khó.
Nhưng Triệu Giản trong tâm mục của lão lại vĩnh viễn là đại thiếu gia năm xưa.
Thậm chí cả cách xưng hô lão cũng không sửa đổi.
Thiên Thiên từ dưới đất nhảy dựng lên, đẩy song cửa sổ, phát hiện lão Khương luôn luôn nhẫn nại hiện tại không ngờ chừng như rất khẩn trương, tuy đã dừng chân, vẫn đang thở hổn hển không ngừng.
Nang nhịn không được phải hỏi:
- Thật ra có chuyện lớn gì mà ông khẩn trương vậy?
Lão Khương hớp hơi:
- Tư Không đại gia đã từ Bảo Định Phủ đến, đang ngồi trong hoa sảnh đợi đại thiếu gia ra gặp mặt, đại thiếu gia lại không biết đã đi đâu.
Thiên Thiên hỏi:
- Ông có đi tìm chưa?
Lão Khương đáp:
- Tôi chỗ nào cũng tìm rồi, không những tìm không được đại thiếu gia, cả Thượng Quan tam gia cũng biến mất không thấy bóng dáng đâu hết.
Thiên Thiên cũng có chút khẩn trương.
Lão Khương đã theo phụ thân nàng bốn chục năm, đối với một gốc cây một ngọn cỏ trong Hòa Phong sơn trang, lão đều rõ như lòng bàn tay.
Nếu quả cả lão cũng tìm không được, còn có ai tìm được?
Triệu Vô Kỵ chợt nói:
- Để tôi đi tìm.
Lão Khương hỏi:
- Ngươi biết ông ta đang ở đâu?
Triệu Vô Kỵ cười:
- Chỗ đó chỉ có tôi biết, để tôi đi tìm cho ông.
Chàng cũng không lo là trên người mình đã mặt áo tân lang, vừa nhún người một cái đã xông ra ngoài.
Lão Khương nhìn chàng, lắc đầu thở dài:
- Tính khí của tiểu thiếu gia thật giống hệt đại thiếu gia lúc trẻ.
Lão tuy thở dài, trong ánh mắt lại tràn đầy vẻ hân hoan.
Đại thiếu gia của lão cả đời chưa từng làm chuyện hại người, hiện nay tất có thiện báo.
Có thể chứng kiến tiểu thiếu gia trưởng thành cưới vợ, cuộc đời ông ta không có gì để hối hận nữa.
Lão chỉ hy vọng tiểu thiếu gia có thể mau chóng tìm ra đại thiếu gia của lão, mau chóng đi bái thiên địa, vào động phòng, để cho lão lại thở ì ạch đi tìm lão đầu bếp uống vài chén thống thống khoái khoái.
Thiên Thiên lại có chút không tin tưởng cho lắm:
- Tôi không tin ở đây còn có nơi mà cả bọn ta cũng không biết đến.
Lão Khương thốt:
- Có những nơi bọn ta vốn không nên biết.
Thiên Thiên hỏi:
- Tại sao?
Lão Khương đáp:
- Bởi vì đó nhất định là trọng địa cơ mật mà đại thiếu gia xử lý công sự, đại thiếu gia luôn luôn công tư phân minh, đương nhiên không thể để cho bọn ta biết.
Thiên Thiên hỏi:
- Vậy tại sao Triệu Vô Kỵ biết được?
Lão Khương đáp:
- Tiểu thiếu gia là truyền nhân của đại thiếu gia, tương lai sau khi đại thiếu gia thoái hưu sẽ kế thừa sự nghiệp của ông ta, những chuyện đó ông ta đương nhiên nên để cho tiểu thiếu gia biết.
Thiên Thiên càng không tin:
- Tại sao chỉ có ca ca của ta mới có thể biết? Ta lẽ nào không phải là con ruột của ông ta?
Lão Khương đáp:
- Ngươi? Ngươi là con gái.
Thiên Thiên hỏi:
- Con gái thì sao?
Lão Khương đáp:
- Con gái phải xuất giá, sau khi xuất giá là người của nhà người khác.
Lời nói của lão là lời nói thật, lão luôn luôn nói thật.
Thiên Thiên muốn bác lão mà không có cách nào bác, chỉ còn nước trừng mắt nhìn lão:
- Tôi không cưới chồng xem ông làm sao.
Lão Khương cười:
- Ta làm sao? Ta có thể làm gì chứ?
Lao nhíu mày, lại nói:
- Chỉ sợ đến lúc đó, người khác cho dù có muốn ngươi không xuất giá cũng không được.
o O o
[Ngày lành hoàng đạo]
Tổ chức Đại Phong đường vừa nghiêm mật, vừa bao la, thế lực của Đại Phong đường không những trải đều khắp Trung Nguyên, mà còn vói xa tới tận quan ngoại.
Đại Phong đường có thể có ngày nay, ngoại trừ nhờ vào hùng tâm khí phách khó ai bì kịp của “Long Quyển Phong Thần” Vân Phi Dương ra, cũng còn vì lão còn có ba hảo bằng hữu một mực cùng lão đồng sinh tử cộng hoạn nạn, cùng lão sát vai tác chiến, thủy chung không chia cách.
Ba người đó là Tư Không Hiểu Phong, Triệu Giản, và Thượng Quan Nhẫn.
Bọn họ dùng máu và mồ hôi sáng lập nên Đại Phong đường, thắng lợi và quang vinh đương nhiên cũng nên chia sẻ cho bọn họ cùng hưởng.
Từ khi Vân Phi Dương lão gia tử tuyên bố bế quan năm năm, khổ luyện một thứ kiếm pháp tuyệt đại vô song, quyền đảm trách Đại Phong đường đã hoàn toàn đè lên vai bọn họ.
Bọn họ vốn là sinh tử chi giao, không những có thể cộng hoạn nạn, cũng có thể cộng phú quý.
Cho nên giữa bọn họ chưa từng có chuyện tranh quyền đoạt lợi xảy ra, chỉ một lòng đối ngoại, phù nhược sừ cường.
Nhưng tính khí và tính cách của ba người bọn họ lại tuyệt đối là ba điển hình bất đồng.
Tư Không Hiểu Phong lớn tuổi nhất, tính khí ôn hòa nhất, là “trí giả” hữu danh trong giang hồ.
Lão bình sinh không chịu tranh đo với người ta, càng không thích giết người đổ máu.
Lão nghĩ vô luận là chuyện gì đều có thể dùng trí tuệ của con người để giải quyết, căn bản không cần động đến đao kiếm.
Cho nên người trong giang hồ lén đặt cho lão một ngoại hiệu khó nghe, gọi lão là “Tư Không Bà Bà”!
Đệ tử môn hạ của Đại Phong đường đối với lão thập phần tôn kính, tâm lại tịnh không nhất định thật sự bội phục.
Đám thiếu niên nhiệt tình huyết khí phương cương luôn luôn nghĩ chuyện lão làm khó tránh khỏi có điểm hư ngụy, có điểm yếu nhược.
Bọn họ tràn trề hùng chí, lại không thể thi triển ra.
Bởi vì Tư Không Hiểu Phong đã sớm quyết định phương châm cho bọn họ đối phó Phích Lịch đường.
“Người không phạm ta, ta không phạm người”.
Chưa đến lúc tất yếu, tuyệt không xuất thủ.
Đệ tử môn hạ của Đại Phong đường nếu xâm nhập vào địa giới của Phích Lịch đường, giết không tha!
Thượng Quan Nhẫn là tượng vàng vô luận gặp chuyện gì cũng đều “ngậm kín miệng”.
Cả những người thân tín đã theo lão nhiều năm cũng đều rất khó nghe được lão mở miệng nói một câu.
Lão thủy chung nghĩ mỗi người đều có quyền bảo vệ chuyện riêng tư, tuyệt không cho phép bất cứ một ai hỏi chuyện riêng tư của lão.
Cư thất của lão luôn luôn cấm vệ sâm nghiêm, chưa từng có ai dám vọng nhập một bước.
Lão cũng giống như Triệu Giản, vợ đã quá cố, con gái duy nhất lại đưa đến nơi xa.
Hiện tại lão không những không có thân nhân, thậm chí cả bằng hữu cũng không có bao nhiêu người.
Sự cô tịch và cao ngạo của lão, thiên hạ đều biết, căn bản không có ai có thể tiếp cận lão.
Cho nên ba người bọn họ, được đám đệ tử ưu ái nhất là Triệu Giản.
Triệu Giản thời thiếu niên quất ngựa xông pha giang hồ, ân thù vạch định phân minh, giữa đường bạt kiếm, máu phún năm bước.
Tính khí của lão lúc về già tuy đã dần dần bình tịnh hòa hoãn, lại vẫn là người trung kiên tính tình quang minh lỗi lạc.
Một khi mình thật là bằng hữu của lão, cho dù có muốn lão cắt đầu lâu xuống giao cho mình, lão cũng không nhíu mày.
Thứ người đó chính là anh hùng điển hình trong tâm mục của đám thiếu niên.
Mọi người không những tôn kính bội phục lão, hơn nữa thật tâm yêu thích lão, hôm nay là ngày đại hỷ của con trai duy nhất của lão, mọi người đương nhiên đều muốn đến uống một chén rượu mừng với lão.
Cả Vân lão gia tử đã bế quan hai năm trên đỉnh núi Thanh Thạch cũng đặc biệt phái người đem quà lễ đến mừng.
Mọi ngươi đang đợi xem phong thái của tân lang, càng muốn xem tân nương tử vừa hiền tuệ vừa mỹ lệ.
Triệu Vô Kỵ vừa xuất hiện, mọi người đã vây quanh.
Tuy chàng tịnh còn chưa bước ra tới đại sảnh, nhưng trong hậu viên cũng có người, đâu đâu cũng đầy người.
Mọi người nhìn thấy tân lang mặt cát phục còn chưa bái thiên bái địa đã chạy loạn ra, đều cảm thấy vừa kinh ngạc, vừa cao hứng, tuyệt không có một ai nghĩ là chàng thất lễ.
Công tử của Triệu nhị gia vốn nên là một nam tử hán không câu nệ tiểu tiết, hào sảng phóng khoáng.
Triệu Vô Kỵ chừng như không dễ gì thoát khỏi vòng vây của bọn họ, xuyên qua một cánh rừng đào hoa trong hậu viên, bước qua một con đường nhỏ uốn khúc, đã đến một tiểu viện bao bọc trúc xanh.
Gió lùa lá trúc xào xạc, tiếng cười nói bên ngoài không lọt được vào đây.
Trong tiểu viện có mái hiên năm gian, ba sáng hai tối, chính là nơi tĩnh tại đọc sách của chủ nhân Hòa Phong sơn trang.
Lão Khương đương nhiên biết nơi này, đương nhiên đã tìm đến.
Lão không tìm ra đại thiếu gia của lão chỉ vì ở đó vốn không có người, sau sau trước trước đều không có ai hết.
Nhưng Triệu Vô Kỵ tịnh không cảm thấy thất vọng, bởi vì chàng biết bí mật của địa phương này. Chỉ có chàng biết.
Gian nhã thất ở mặt sau mới là thư trai của Triệu Giản, bốn mặt đều có kệ sách, bước vào là như lọt vào một thành trì sách vở.
Nhưng ở đó cũng không có người.
Triệu Vô Kỵ bước dài vào trong, xác định ở đó không có ai, không những không khẩn trương, trái lại càng yên tâm.
Bởi vì chỉ có chàng biết cái kệ sách bên vách trái còn có một bí mật, đó mới là trọng địa cơ mật nơi phụ thân chàng xử lý sự vụ của Đại Phong đường.
Chàng tin rằng phụ thân chàng nhất định đang ở trong đó, rất có thể đang cùng Thượng Quan tam gia thương nghị đại sự cơ mật gì đó.
Chàng tịnh không trực tiếp tiến vào, chỉ dùng một cái chặn giấy bằng làm đồng xanh gõ nhẹ ba tiếng lên xà gỗ.
Chàng gõ ba lần đều không có phản ứng gì.
Lúc đó chàng mới bắt đầu có chút khẩn trương, dụng lực đẩy kệ sách, kệ sách hé mở một đường, chàng xông thẳng vào.
Phụ thân chàng quả nhiên đang trong mật thất, trên người còn đang vận trường bào màu tím đặc biệt đặt may để mặc trong ngày vui của con trai lão, trong tay còn đang cầm một hộp thúy ngọc đựng thuốc lá mà bình thời lão không thể nào buông cất.
Nhưng đầu lâu của lão đã biến mất.
Triệu Vô Kỵ quỵ xuống, không khóc rống, cũng không rơi lệ.
Trong mắt chàng không có lệ, chỉ có máu!
Một cơn gió từ bên ngoài thổi vào, thổi bay hai tờ lịch, chừng như bị một bàn tay vô hình bóc lật, lật đến trang thứ ba, trên mặt viết rõ ràng:
“Hai mươi bảy tháng ba, đại cát, nên cưới hỏi”.
Ngày đó quả thật là ngày nên làm mọi sự, là ngày lành hoàng đạo đại cát đại lợi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 24-10-2012 12:28:25 | Chỉ xem của tác giả
HUNG THỦ


Kim Long kiếm khách Triệu Giản danh chấn giang hồ, một trong tam đại cự đầu của Đại Phong đường, không ngờ vào ngày đại hỷ của con trai mình lại mất đầu một cách thần bí.
Đó đương nhiên là đại sự oanh động thiên hạ. Cho dù là người không biết tới hay chưa từng gặp Triệu Giản, ít ra cũng đã từng nghe qua tên tuổi của lão.
Lão có bằng hữu, đương nhiên cũng có thù địch. Không cần biết là bằng hữu hay là thù địch của lão, đối với chuyện đó đều cảm thấy rất kinh ngạc, rất hiếu kỳ.
Có những người biết ít nhiều về chuyện đó, vô luận đi đến đâu đều trở thành đối tượng bị người ta hỏi dò, một vấn đề mà ai ai đều muốn biết nhất là: “Hung thủ là ai?”
Vấn đề đó ai cũng không biết, ai cũng không dám nói bừa. Bởi vì nếu quả có người nói bậy câu đó, người đó cũng rất có thể bị mất đầu đang lúc nửa đêm. Cho nên trong giang hồ khó tránh khỏi nghị luận tọc mạch:
- Triệu Giản thật đã chết, thật đã bị người ta cắt mất đầu?
- Tuyệt đối là thật.
- Lão chết hồi nào?
- Là ngày thành hôn của con trai lão, hai mươi bảy tháng ba.
- Nghe nói ngày đó là ngày lành hoàng đạo đại cát đại lợi, mọi chuyện đều nên làm.
- Ngày đó đích xác là ngày tốt.
- Rước dâu đương nhiên phải chọn ngày tốt, lẽ nào sát nhân cũng phải chọn ngày tốt?
- Ngày đó mọi chuyện đều nên làm, nên cưới hỏi, cũng nên sát nhân.
- Cho nên người giết lão cho đến hiện tại còn chưa bị người ta tìm ra.
- Muốn tìm ra người đó, chỉ sợ không mấy dễ dàng.
- Nhưng người của Triệu gia ít ít nhiều nhiều cũng đáng lẽ có chút manh mối.
- Chừng như có một chút.
Có những người nhiệt tâm lại bắt đầu ngẫm nghĩ tìm giùm manh mối cho Triệu gia:
- Triệu Giản chết ở đâu?
- Chết ở Hòa Phong sơn trang.
Ngày đó người đi mừng tiệc ở Hòa Phong sơn trang nhất định rất nhiều, tại sao lại không có ai thấy cả?
- Bởi vì lão đã chết trong mật thất của lão.
- Mật thất đó thật rất bí mật?
- Tuyệt đối bí mật, thậm chí cả con gái của lão cũng không biết tới.
- Có ai biết?
- Nghe nói người đã từng vào mật thất của lão, ngoại trừ lão ra, tổng cộng chỉ có ba người.
- Ba người nào?
- Tư Không Hiểu Phong, Thượng Quan Nhẫn và con trai của lão.
- Lẽ nào chỉ có ba người đó mới có thể giết chết lão?
- Ta thật rất khó lòng nghĩ ra người thứ tư.
- Tại sao?
- Triệu Giản tịnh không phải là người bình thường, lúc lão còn chưa tới hai mươi tuổi, bằng vào một thanh kiếm của mình đã bắt đầu xông pha giang hồ.
- Ta cũng có nghe nói, lúc lão mười bảy tuổi, ở Trường An đã bạt kiếm giết chết “Trường An Hổ”.
- Từ lúc đó trở đi, trong vòng ba năm, lão đã giết chết “Quan Đông thất hùng”, “Hoàng Hà tứ giao”, còn đánh bại kiếm khách thành danh nhất ở Quan Trung, Tiếu đạo nhân và Đào Trung Hùng.
- Cho nên lão chưa đến hai mươi đã danh động thiên hạ.
- Lão còn chưa đến ba mươi đã trợ giúp Vân Phi Dương sáng lập Đại Phong đường, ngươi nghĩ coi, một người như vậy làm sao có thể tùy tùy tiện tiện bị người ta cắt đầu mang đi?
- Ta căn bản nghĩ không thông.
- Ngươi đáng lẽ nên nghĩ ra, người cắt đầu lão nhất định là người rất quen thuộc với lão, cho nên lão mới không giới bị người đó.
- Võ công của người đó nhất định cũng rất cao, xuất thủ cũng nhất định rất nhanh.
- Hoa Sơn Y Ẩn Lục Thông đương thời cũng có mặt tại trường, hơn nữa cũng đã khám nghiệm qua tử thi của Triệu nhị gia.
- Ông ta nói gì?
- Ông ta chẩn định hung khí giết chết Triệu nhị gia tuyệt đối là một thanh kiếm, hơn nữa một kiếm đã cắt đứt đầu Triệu nhị gia.
- Tư Không Hiểu Phong và Thượng Quan Nhẫn đều là cao thủ dụng kiếm.
- Bọn họ đều là nhất đẳng cao thủ.
- Con trai của Triệu nhị gia có phải là Triệu Vô Kỵ lúc nào cũng có thể chịu một đao cho bằng hữu?
- Chính là hắn!
- Hắn đương nhiên không thể là hung thủ.
- Tuyệt không thể.
- Vậy theo ngươi thấy, hung thủ thật ra là Thượng Quan Nhẫn? Hay là Tư Không Hiểu Phong?
- Ta không biết.
- Ngươi đoán thử xem?
- Ta không dám đoán.
Những cuộc nghị luận đó có thể nghe thấy một cách công khai ở nơi công cộng.
Vào lúc canh ba nửa đêm, ngồi nhâm nhi chén tạc chén thù trong tiểu viện gần tư thất, còn có những lời mà người ngoài không nghe được.
- Nghe nói người đáng hiềm nghi nhất là Tư Không Hiểu Phong.
- Tại sao?
- Bởi vì lão vốn là người cuối cùng đến Hòa Phong sơn trang, tới tối ngày hai mươi bảy tháng ba mới đến.
Người đến cuối đáng lẽ không bị hiềm nghi mới đúng.
- Nhưng sau đó có người điều tra ra, lão đã rời khỏi Bảo Định Phủ vào ngày hai mươi lăm.
- Vậy đáng lẽ tới ngày hai mươi sáu lão đã đến Hòa Phong sơn trang.
- Trễ nhất đáng lẽ sau ngọ đã đến.
- Từ sau ngọ ngày hai mươi sáu cho đến tối hai mươi bảy, trong thời gian hơn một ngày đó, lão đã đi đâu?
- Không có ai biết.
- Cho nên mới có người nghĩ lão là người đáng hiềm nghi nhất.
- Không sai.
- Nhưng ta nghe nói sau ngọ ngày hai mươi bảy, chỉ có một mình Thượng Quan Nhẫn thủy chung ở cùng chỗ với Triệu nhị gia.
- Cho nên Thượng Quan Nhẫn bị hiềm nghi cũng không ít.
- Hai người bọn họ hiện ở đâu?
- Cho đến hôm nay bọn họ vẫn còn ở Hòa Phong sơn trang.
- Ai bỏ đi, bị hiềm nghi càng nặng, bọn họ đương nhiên không ai có thể bỏ đi.
- Kỳ thật bọn họ đi hay không đi cũng như nhau.
- Tại sao?
- Bởi vì bọn họ đều là sinh tử chi giao của Triệu nhị gia, đều không có một chút lý do gì để hạ độc thủ như vậy, nếu quả không tìm ra bằng chứng xác thật, ai cũng không dám hoài nghi bọn họ.
- Hiện tại có tìm ra chứng cứ gì không?
- Không có.
Hôm nay đã là mồng bốn tháng tư. Đã qua “cúng thất”.
o O o
[Thượng Quan Bảo Phố]
Đêm.
Hiện tại thời gian từ cái ngày Triệu Vô Kỵ phát hiện ra thi thể của phụ thân mình đã bảy ngày rồi.
Bảy ngày qua, Triệu Vô Kỵ vẫn không rơi lệ, cả một giọt cũng không.
Chàng cũng không uống tới một giọt nước, đương nhiên cũng không ăn tới một hột cơm.
Môi của chàng khô ran, thậm chí cả da cũng đã nứt nẻ.
Hốc mắt của chàng sâu hoắm, sắc mặt đỏ hồng tươi tắn đã biến thành giống hệt một tờ giấy trắng.
Toàn thân chàng đều đã tê dại cứng đơ.
Nhìn chàng ra nông nổi đó, ai ai cũng đều lo sợ, thậm chí cả Thiên Thiên cũng lo sợ.
Nhưng không ai có thể khuyên chàng.
Chàng cái gì cũng đều không nghe, cái gì cũng đều không thấy.
Người khó chịu nhất đương nhiên là Vệ Phượng Nương, nàng lúc nào cũng chảy nước mắt, nhưng hiện tại cả nước mắt của nàng cũng đã cạn khô.
Trong bảy ngày đó, mọi người đều rất ít khi nói chuyện, mỗi người đều đang tìm kiếm, tìm tòi một chút manh mối điều tra chân hung vụ án.
Nhưng bọn họ đều tìm không ra.
Mỗi một tấc đất trong Hòa Phong sơn trang đều bị bọn họ lục lọi tìm kiếm, cũng không tìm ra một chút manh mối gì có thể trợ giúp bọn họ điều tra ra chân hung.
Ai ai cũng đều không dám hoài nghi Thượng Quan Nhẫn, càng không dám nghi ngờ Tư Không Hiểu Phong, nhưng ngoại trừ hai người đó ra, càng không thể có chút hiềm nghi người nào khác.
Nếu quả hung thủ là một người khác, vậy hung thủ đó nhất định có thể là yêu ma vô ảnh mà đến, vô tung mà đi.
Mọi người tuy rất ít khi nói chuyện, ít ít nhiều nhiều cũng có nói vài câu.
Thượng Quan Nhẫn lại một chữ cũng không nói.
Đoạn thời gian lúc Triệu Giản bị hại, họ Thượng Quan đã đi đâu?
Lão không giải thích, cũng không có ai dám kêu lão giải thích.
Sau này người ta mới biết lúc đó lão đã say, say gục trong khách phòng mà Khương tổng quản đã an bài cho lão.
Đó là một tòa viện có năm gian phòng, lão và đám tùy tùng của lão đều an bài trú ngụ ở đó.
Phụ trách tiếp đãi bọn họ là Triệu Tiêu.
Triệu Tiêu không những là lão gia đinh của Triệu gia, hơn nữa còn là bà con xa của Triệu nhị gia.
Triệu Tiêu đã chứng thực rằng, vào ngày hai mươi bảy tháng ba đó, từ lúc hoàng hôn trở về sau, Thượng Quan tam gia một mực nằm ngủ trong phòng.
Lúc lão còn tỉnh tuy rất ít khi lên tiếng, lúc say nằm ngủ lại ngáy. Tiếng ngáy của lão có rất nhiều người từng nghe qua.
Trong giang hồ có rất nhiều người đều nghĩ Tư Không Hiểu Phong có thể có ngày nay tịnh không phải là vì võ công của lão, mà là vì hàm dưỡng của lão.
Nội gia Cẩm Quyền và Thập Tự Tuệ Kiếm của lão còn chưa luyện đến mức đăng phong tạo cực, nhưng công phu hàm dưỡng của lão lại tuyệt đối là thiên hạ đệ nhất.
Những lời nói đó tuy mang chút vẻ trêu chọc, lại cũng là sự thật.
Chỉ bất quá mọi người tựa hồ đều đã quên, một người công phu luyện khí nếu không đến mức đăng phong, làm sao có hàm dưỡng cao như vậy?
Lão biết người của Hòa Phong sơn trang đối với lão khó tránh khỏi có hoài nghi, bởi vì lão quả thật đã đến từ ngày hai mươi sáu.
Nhưng thái độ của lão tuyệt không để lộ một chút bộ dạng bất an nào, càng không tự biện bạch cho mình.
Lão đến sớm một ngày đích thị là vì một chuyện khác.
Đó tuyệt đối là bí mật, tuyệt không thể để bất cứ một ai biết được.
Mấy ngày nay lão vẫn một mực trấn định lãnh tĩnh như ngày thường, bởi vì lão biết, dưới tình huống như vầy, nhất định phải có người bảo trì sự lãnh tĩnh mới có thể khiến cho tình huống không biến thành hỗn loạn thái quá.
Vô luận dưới tình huống nào đi nữa, lão đều tuyệt không thể bỏ quên chuyện nên làm bên trong.
Lão an bài việc táng liệm Triệu Giản, khuyên nhủ đám đệ tử của Đại Phong đường, lão tin rằng chân tướng của chuyện này sớm muộn gì cũng phơi bài, thủy lạc thạch xuất.
Không cần biết người khác nói gì, ai cũng không thể phủ nhận lão đích xác có thứ lực lượng có thể khiến cho người ta ổn định an tâm.
Cho nên Đại Phong đường vĩnh viễn không thể thiếu mất lão.
“Cúng thất” đã qua, đám đệ tử cuối cùng của Đại Phong đường còn lưu lại phụ giúp cũng đều đã trở về cương vị bình thường.
Triệu Giản tuy là một cột trụ của Đại Phong đường, nhưng Đại Phong đường tuyệt không thể vì cột trụ đó bị ngã mà toàn thể rời rạc sụp đổ.
Đó chẳng khác gì một tòa nhà thiết kế kiên cố cố kiên, tuy đã thiếu mất một cột trụ, lại vẫn còn đứng nguyên bất động, vẫn còn có thể chống chọi mưa to gió lớn.
Tư Không Hiểu Phong đã giúp cho đám đệ tử minh bạch được điểm đó, lão hy vọng mọi người đều có thể biến bi phẫn thành một thứ lực lượng!
Linh đường đặt tại đại sảnh, ngoại trừ người của Triệu gia ra, người ở lại không còn nhiều.
Thượng Quan Nhẫn chợt đứng lên:
- Họ Âu Dương đang đợi ta.
Nói xong câu đó, lão đã bước dài đi ra.
Câu nói đó chỉ có sáu chữ, ngoại trừ Tư Không Hiểu Phong ra, ai cũng không rõ ý tứ của lão.
Nhưng chỉ cần có một người minh bạch là đủ.
Nếu quả chỉ dùng sáu chữ đã có thể nói rõ ý tứ của mình, Thượng Quan Nhẫn tuyệt không nói bảy chữ.
Thiên Thiên nhìn lão đi ra, nhịn không được phải hỏi:
- Lẽ nào lão bỏ đi như vậy?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Lão không đi không được.
Thiên Thiên hỏi:
- Tại sao?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Bởi vì lão và họ Âu Dương đã có ước hẹn gặp mặt.
Thiên Thiên hỏi:
- Họ Âu Dương là ai?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Là Âu Dương Bình An.
Âu Dương Bình An là tổng tiêu đầu của tiêu cục liên doanh mười tám nhà ở Trung Nguyên, bọn họ đã sớm có kế hoạch muốn liên minh cùng Đại Phong đường.
Lần này chuyện thương nghị giữa Âu Dương Bình An và Thượng Quan Nhẫn tưởng nhất định phải là chuyện đó.
Thiên Thiên không hỏi nữa. Nàng cũng ẩn ước đã từng nghe qua về chuyện đó, Đại Phong đường quả thật rất cần một minh hữu có thực lực.
Từ khi bọn họ biết Phích Lịch đường đã kết thông gia với Đường môn ở Thục Trung, đã hy vọng minh ước này có thể sớm được ký kết.
Hỏa khí độc môn của Phích Lịch đường đã đủ đáng sợ, hiện tại lại thêm vào độc dược ám khí và thủ pháp ám khí độc môn của Đường môn ở Thục Trung đã uy trấn thiên hạ một trăm sáu chục năm nay, không còn nghi ngờ gì nữa, chẳng khác gì hổ thêm cánh.
Đó luôn luôn là nỗi lo lắng trong ruột gan của Tư Không Hiểu Phong. Lão chỉ hy vọng Âu Dương Bình An không vì chuyện này mà thay đổi kế hoạch đã định.
Bên ngoài văng vẳng truyền vào tiếng vó ngựa, Thượng Quan Nhẫn hiển nhiên đã dẫn đám tùy tùng rời khỏi Hòa Phong sơn trang.
Tiếng vó ngựa đã đi xa, linh đường lại càng trầm tịch.
Triệu Vô Kỵ vẫn bất động quỳ trước linh vị của phụ thân, đôi môi khô nứt đã ri rỉ máu tươi.
Tư Không Hiểu Phong chầm chậm nói:
- Chuyện ở đây, đại trí đều đã có an bài, qua ngày mai ta cũng phải đi rồi.
Lão đương nhiên sớm muộn gì cũng phải đi.
Vân Phi Dương đang bế quan, Triệu Giản đột nhiên qua đời, Đại Phong đường càng không thể thiếu đi lão.
Thiên Thiên cúi đầu, muốn nói gì đó lại nhịn lại.
Nàng cũng không dám tùy tiện nói gì, chỉ cần nói sai một câu, bọn họ rất có thể phải gia phá nhân vong.
Nhưng trong tâm nàng thật sự đang lo sợ. Phụ thân nàng đã chết, ca ca lại biến thành như vậy, Hòa Phong sơn trang lại nhất định phải duy trì.
Gánh nặng ngàn cân đó, không còn nghi ngờ gì nữa, đã lạc trên người nàng.
Nàng phải làm gì?
Tư Không Hiểu Phong nhìn nàng, phảng phất đã nhìn ra tâm sự của nàng, dịu giọng:
- Ta biết ngươi là một cô gái rất ngoan cường, nhưng bọn ta thật có chút lo lắng cho hắn.
Lão lo lắng đương nhiên là vì Triệu Vô Kỵ.
Mọi người đều lo lắng cho Triệu Vô Kỵ, lại hy vọng chàng có thể đứng lên, ưỡn ngực đứng lên.
Nhưng ai ai cũng không biết phải đợi đến lúc nào chàng mới có thể đứng lên.
Linh đường an tịch đột nhiên truyền vào tiếng cước bộ nặng nề, Thiên Thiên không cần quay đầu lại đã biết là lão Khương.
Hô hấp của lão khẩn trương, trên mặt cũng vì hưng phấn mà đỏ hồng, trong tay cầm một chén rượu từ bên ngoài chạy vụt vào.
Lão có phải đã uống say?
Không phải.
Trong chén rượu tịnh không phải là rượu, mà là đất.
Lão Khương thở hổn hển:
- Đây là tôi tìm được trong khách phòng nơi Thượng Quan tam gia trú ngụ.
Lão lại giải thích:
- Thượng Quan tam gia vừa đi, tôi mang người vào quét dọn phòng.
“Quét dọn” đương nhiên chỉ bất quá là cái cớ.
Thượng Quan Nhẫn cũng bị hiềm nghi, chỉ bất quá lúc lão còn ở đó, không ai dám dò la căn phòng đó.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Thật ra ngươi đã tìm thấy cái gì?
Lão Khương đáp:
- Tôi đang muốn mời đại gia xem giùm.
Trong chén chỉ có một thứ bột màu vàng đầy hơn nửa chén, phảng phất là cát bụi quét từ dưới đất lên.
Nhưng nửa chén đất cát đó lại mang theo một hương khí kỳ dị đặc biệt.
Tư Không Hiểu Phong dùng hai ngón tay quét chút bụi, đặt vào lòng bàn tay, dùng ngón tay chà chà nghiên cứu, lại đưa lên gần mũi ngửi thử.
Trên mặt lão lập tức lộ xuất biểu tình cực kỳ kỳ quái.
Lão Khương nói:
- Tửu án chấp sự là lão Trần, cái mũi thính nhất, tôi đã kêu lão ngửi thử, lão nói trong đó không những có vôi đá, hơn nữa còn có xạ hương và long giác.
Tư Không Hiểu Phong chầm chậm gật gật đầu.
Lão cũng không thể không thừa nhận lỗ mũi của lão Trần quả thật rất thính, trong nhúm cát bụi đó quả thật có xạ hương, long giác và vôi đá.
Lão Khương nói:
- Đó là tôi quét từ dưới bàn trong phòng ngủ của Thượng Quan tam gia.
Khóe mắt lão Khương phảng phất đang giật giật, tay cũng phát run:
- Không những có dưới đất, cả trên mặt bàn cũng có, tôi... tôi nghĩ không ra Thượng Quan tam gia muốn dùng những thứ đó làm gì?
Lão thậm chí cả thanh âm cũng phát run, bởi vì lão biết những thứ đó có công dụng gì.
Xạ hương và long giác đều là hương liệu rất danh quý, không những có thể dùng để pha thuốc, cũng có thể dùng để phòng chống rữa nát.
Vôi đá lại là thứ chống ẩm rất phổ thông.
Trong phòng của Thượng Quan Nhẫn có những thứ cần để phòng chống thối rữa, bảo trì sự khô ráo.
Trong quan tài của Triệu Giản cũng có ba thứ đó, dùng để bao trì sự hoàn chỉnh và khô sạch của thi thể.
Nhưng đầu lâu của Triệu Giản lại không có trong quan tài.
Đầu lâu của ông ta đang ở trong tay ai?
Người đó có phải cũng muốn dùng ba thứ đó để bảo tồn đầu lâu của ông ta?
Những vấn đề đó vừa nghĩ đến đã biến thành một vấn đề rất đáng sợ.
Trong phòng của Thượng Quan Nhẫn có những thứ đó, lẽ nào là vì muốn bảo tồn đầu lâu của Triệu Giản?
Lẽ nào lão ta chính là hung thủ giết chết Triệu Giản?
Cho đến hiện tại, vẫn không có ai có thể xác định chuyện đó, thậm chí cả nói cũng không dám nói ra!
Nhưng trên mặt Thiên Thiên đã hoàn toàn không còn một chút huyết sắc, toàn thân cũng bắt đầu run rẩy không ngừng.
Thậm chí cả Tư Không Hiểu Phong cũng đã biến sắc.
Lão miễn cưỡng bảo trì vẻ trấn định, trầm giọng hỏi:
- Hôm đó ai nhìn thấy Thượng Quan tam gia nằm ngủ trong phòng?
Lão Khương đáp:
- Là Triệu Tiêu.
Tư Không Hiểu Phong thốt:
- Đi tìm gã đến đây.
Lão Khương đáp liền:
- Tôi đã phái người đi tìm gã!
Lão đã phái mười hai người đi, mười hai người đều là hảo thủ trong đám gia đinh của Triệu phủ.
Hiện tại bọn họ đã trở về phục mệnh.
- Triệu Tiêu đâu?
- Ở bên ngoài!
- Kêu gã vào!
- Gã đã không còn cách nào tự tiến vào!
- Vậy khiêng gã vào.
Bốn người dùng một cái cáng khiêng Triệu Tiêu vào, lão Khương tuy là đồng sự lâu năm với gã, hiện tại cũng cơ hồ nhận không ra gã là Triệu Tiêu.
Toàn thân gã đã biến thành sưng tếu đen sì, khuôn mặt càng sưng to, đen tuyền, ngũ quan đều đã méo mó biến hình.
Lúc gã tiến vào còn thở cầm hơi, vừa nhìn thấy Tư Không Hiểu Phong, lập tức đoạn khí.
- Là ai đã giết gã?
- Không biết, ngực gã trúng ám khí, hồi nãy chừng như không có hiện tượng gì, không tưởng được vừa mới đó đã biến thành như vậy!
Người khiêng gã vào, trong ánh mắt đều mang theo một thần sắc cực kỳ khủng bố!
Biến hóa đáng sợ như vậy, bọn họ tuy tận mắt chứng kiến, lại vẫn không dám tin.
Tư Không Hiểu Phong trầm giọng:
- Đem đao đến.
Có người rút trong ống giày ra một lưỡi trủy thủ.
Tư Không Hiểu Phong dùng mũi đao rạch y phục trước ngực Triệu Tiêu, nhìn thấy một mũi ám khí rất nhỏ rất nhẹ, giống như kim châm vậy, đâm trên ngực trái của gã, vết thương tuy không có máu, lại ri rỉ chất nhờn đen sì hôi thúi.
Lão Khương trợn tròn mắt, thất thanh la:
- Ám khí độc quá.
Tư Không Hiểu Phong nhìn đao trong tay mình, lưỡi đao chỉ bất quá lướt nhẹ trên vết thương, hiện tại đã biến thành màu đen.
Sắc mặt lão càng trầm trọng.
Trên trời dưới đất, chỉ có một thứ ám khí mới mang theo thứ độc đáng sợ như vậy.
Thiên Thiên cắn môi, môi cũng đã ứa máu:
- Đó có phải là Độc Tật Lê của Thục Trung Đường gia?
Tư Không Hiểu Phong chầm chậm gật gật đầu, đáp từng tiếng:
- Không sai, đó là ám khí độc môn của Đường môn, Độc Tật Lê kiến huyết phong hầu!
Sắc mặt mọi người đều đã có biến.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 24-10-2012 12:31:35 | Chỉ xem của tác giả
Thục Trung Đường môn đã kết thành thông gia với Phích Lịch đường, người của Đường gia làm sao trà trộn vào Hòa Phong sơn trang được?
Đó thật sự quá đáng sợ.
Một thiếu niên gia đinh hồi nãy khiêng cáng vào chừng như muốn nói gì, lại không dám nói bừa.
Tư Không Hiểu Phong đã chú ý đến thần sắc của gã, lập tức hỏi:
- Ngươi muốn nói gì?
Thiếu niên gia đinh đó do dự:
- Có một chuyện tiểu nhân không biết có nên nói ra không.
Tư Không Hiểu Phong thốt:
- Ngươi cứ nói.
Thiếu niên gia đinh đó lại do dự cả nửa ngày mới ráng thu hết dũng khí nói:
- Trong đám tùy tùng mà Thượng Quan tam gia dẫn đến, chừng như có người từ Tứ Xuyên Thục Trung đến!
Tư Không Hiểu Phong động dung:
- Sao ngươi biết được?
Thiếu niên gia đinh đó đáp:
- Bởi vì mẫu thân của tiểu nhân là người Thục, tiểu nhân cũng có thể nói vào câu Xuyên thoại, hôm qua tôi vô ý nghe thấy tiếng nói của vị tùy tùng của Thượng Quan tam gia là Xuyên thoại.
Gã ngẫm nghĩ, lại nói:
- Hơn nữa người Tứ Xuyên vì để kỷ niệm Gia Cát Vũ Hầu, bình thời đều thích quấn khăn bố trắng trên đầu, người đó đến đêm lúc đi ngủ cũng quấn khăn bố trắng trên đầu, tôi vốn muốn dùng Xuyên thoại trò chuyện với gã, ai biết được gã có chết cũng không thừa nhận là người Tứ Xuyên, đến sau này cơ hồ còn nổi giận với tôi nữa.
Lão Khương nói tiếp:
- Trong đám tùy tùng mà Thượng Quan tam gia dẫn đến lần này đích xác có người tôi chưa từng gặp qua, tôi vốn muốn hỏi thử họ theo Thượng Quan tam gia từ lúc nào?
Nhưng tôi cũng biết tính khí của Thượng Quan tam gia, lại không dám hỏi.
Hiện tại đương nhiên bất tất phải hỏi nữa.
Tất cả chứng cớ đều chỉa mũi dùi về phía một hung thủ.
Thượng Quan Nhẫn mua chuộc Triệu Tiêu tạo ngụy chứng cho lão, lại sợ miệng Triệu Tiêu không kín, sai gã tùy tùng từ Xuyên Trung đến giết Triệu Tiêu diệt khẩu.
Nhưng đệ tử Xuyên Trung Đường môn luôn luôn rất kiêu ngạo, làm sao lại chịu làm tùy tùng của Thượng Quan Nhẫn?
Trong đó tưởng tất còn có âm mưu to lớn khác.
- Lẽ nào Thượng Quan Nhẫn đã có liên lạc với Thục Trung Đường môn và Phích Lịch đường?
- Lão giết Triệu Giản, lẽ nào là vì muốn xu nịnh bọn chúng?
Những vấn đề đó mọi người không những không dám nói ra, đơn giản có nghĩ tới cũng không dám nghĩ tới.
Tư Không Hiểu Phong nắm chặt tay quyền, trong tay đã lấm tấm mồ hôi lạnh.
Ngay lúc đó, Triệu Vô Kỵ mọt mực quỳ dưới đất đột nhiên nhảy vụt lên xông ra ngoài.
Toàn thân Triệu Vô Kỵ đã tê dại cứng ngắc, chàng đã hoàn toàn hư thoát, đã tiếp cận bến bờ hôn mê bất tỉnh.
Kỳ quái là, trong tâm chàng trái lại đã biến thành một màn thấu suốt không linh, phản ứng cũng biến thành mẫn nhuệ hơn bình thời, vô luận thanh âm lớn nhỏ gì, trong tai chàng nghe cũng đều rõ mồn một như sấm sét!
Thanh âm nói chuyện của mọi người đều chừng như đang la rống bên tai chàng.
Đó có lẽ chỉ vì cả người chàng đều đã trống không, đã biến thành yếu nhược như một món đồ sứ.
Nhưng chàng tịnh không đánh mất lực phán đoán của mình.
Tại sao một người thể lực đang lúc suy nhược nhất, tư tưởng trái lại càng linh mẫn?
Chàng đã phán đoán ra ai là hung thủ. Chàng nhảy vụt dậy, xông ra ngoài.
Không có ai ngăn trở chàng, chỉ có Tư Không Hiểu Phong.
Tư Không Hiểu Phong chỉ thò tay nhẹ nhàng phất một cái, chàng đã té quỵ xuống.
Hồi nãy chàng bị thù hận kích khởi một phân tiềm lực cuối cùng, hiện tại đã dùng tận.
Hiện tại cả một đứa bé cũng có thể dễ dàng đánh chàng té.
Tư Không Hiểu Phong thốt:
- Ta biết ngươi muốn đi đâu, ta vốn không muốn ngăn cản ngươi, bởi vì chính ta cũng muốn đi.
Ánh mắt của Triệu Vô Kỵ đầy tia máu đỏ li ti, nhìn giống như dã thú đã bị thương.
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Nhưng ngươi hiện tại tuyệt không thể đi, ta không thể để ngươi đi tìm chết.
Mắt Thiên Thiên đỏ ngầu, hét lớn:
- Nhưng bọn ta lại nhất định phải đi, không đi không được!
Tư Không Hiểu Phong thốt:
- Thượng Quan Nhẫn âm chí thâm trầm, thủ hạ vốn toàn là đám tử sĩ có thể bán mạng cho lão, lại thêm vào độc môn ám khí của Đường môn, bọn ta cho dù phải đi, cũng không thể đi như vầy.
Thiên Thiên hỏi:
- Bọn ta phải làm sao mới có thể đi?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Phải đợi đến khi nắm chắc nhất kích tất trúng mới có thể đi!
Lão thở dài, lại nói:
- Nếu quả nhất kích không trúng, để cho lão ta toàn lực thoái lui, sau này bọn ta chỉ sợ vĩnh viễn không có cơ hội thứ hai.
Lời lão nói là sự thật.
Nhưng thuộc hạ của Hòa Phong sơn trang lại cự tuyệt tiếp thu.
Trong phút chốc lão Khương đã thống suất một trăm ba mươi sáu tên gia đinh tụ tập trong sân trước linh đường, mọi người đều đã chuẩn bị cung căng nõ cứng trương thương khoái đao.
Trong một trăm ba mươi sáu người đó, ít ra có một nửa đã từng khổ luyện võ công trên mười năm.
Lão Khương quỳ trước mặt Tư Không Hiểu Phong, vập đầu binh binh trên đất, đổ máu rướm rỉ trên trán.
Máu chảy đầu mặt, lão không cần ai săn sóc băng bó, chỉ cầu Tư Không Hiểu Phong để cho bọn họ đi phục thù.
Tư Không Hiểu Phong đương nhiên cũng thấy được vô luận là ai đều không còn cách nào có thể cải biến chủ ý của bọn họ.
Lão vốn luôn luôn không tán thành sử dụng bạo lực.
Nhưng dĩ bạo chế bạo, dĩ huyết hoàn huyết, ngay cả lão cũng vô phương phản đối.
Lão chỉ còn nước đồng ý:
- Được, các người cứ đi, ta cũng đi theo các ngươi, nhưng Triệu Vô Kỵ...
Lão Khương xen lời:
- Tiểu thiếu gia cũng không thể không đi, bọn tôi đã chuẩn bị cho tiểu thiếu gia một tô canh sâm, hai cỗ xe lớn, trước khi đến Thượng Quan Bảo Phố, thể lực của tiểu thiếu gia nhất định đã khôi phục lại.
Triệu Vô Kỵ một mực không thích uống canh sâm, nhưng hiện tại chàng nhất định phải cưỡng bách mình uống.
Chàng nhất định phải khôi phục thể lực. Chàng nhất định phải tận tay giết kẻ thù giết cha.
Chỉ tiếc chàng đã quên một chuyện. Cho dù thể lực của chàng đạt đến mức đăng phong, cũng tuyệt không phải là địch thủ của Thượng Quan Nhẫn.
Tư Không Hiểu Phong lại không quên điểm đó.
Đới với kiếm thuật, võ công, xuất thủ độc lạt, phán đoán chuẩn xác của Thượng Quan Nhẫn, không ai có thể biết rõ hơn Tư Không Hiểu Phong.
Bọn họ lúc còn thiếu niên đã chung vai tác chiến, mỗi năm bình quân đều có ba chục lần hợp lực.
Trước khi sáng lập Đại Phong đường, bọn họ ít ra đã trải qua hai trăm trận lớn nhỏ.
Lão đã vô số lần tận mắt thấy mũi kiếm của Thượng Quan Nhẫn đâm phập vào yết hầu của địch nhân, mỗi một lần đều tuyệt đối trí mệnh, cơ hồ rất ít khi thất thủ.
Có một lần bọn họ đối phó Quan Đông Thất Kiếm, đối thủ của Thượng Quan Nhẫn là “Thiểm Điện Khoái Kiếm” Tào Tấn cực kỳ thành danh trong võ lâm đương thời, vừa mới bắt đầu là lão đã thụ thương ở bảy chỗ, có một kiếm thậm chí đã đâm xuyên qua áo giáp của lão.
Nhưng cuối cùng Tào Tấn vẫn chết trong tay họ Thượng Quan, trước khi lão ngã quỵ vẫn một kiếm đâm xuyên qua yết hầu của Tào Tấn. Đó mới là chỗ chân chính đáng sợ nhất của lão.
Lão cơ hồ có sức chịu đựng thống khổ như loài bò sát trong sa mạc, cơ hồ có sức nhẫn nại của lạc đà.
Có một lần, xương sườn của lão bị người ta đánh gãy sáu chỗ, lúc người ta đến thay khăn trải giường cho lão, cả giường đều thấm đẫm mồ hôi lạnh vì đau đớn mà toát chảy, nhưng lão cả một tiếng cũng không rên rỉ.
Vân Phi Dương lúc đó cũng đang bên cạnh trông nom, từng nói một câu mà mọi người đều không thể không đồng ý:
“Vô luận là ai có địch thủ đối đầu như Thượng Quan Nhẫn, đêm nằm nhất định ngủ không an giấc”.
Câu nói đó Tư Không Hiểu Phong thủy chung không quên được.
Cách nhìn của Vân Phi Dương đối với họ Tư Không, họ Tư Không đương nhiên cũng không nên quên.
“Nếu quả có một ngày Tư Không Hiểu Phong muốn tìm đánh ta, hắn vừa đến là ta chỉ có nước bỏ trốn cho mau”.
Có người hỏi:
- Tại sao vậy?
- “Bởi vì hắn tuyệt không đánh mà không nắm chắc” - Vân Phi Dương đáp - “Một khi hắn đã đến, biểu thị hắn nhất định đã có tin chắc tất thắng”.
Vân Phi Dương tài năng tuyệt thế, nhất thế chi hùng, đương nhiên cũng rất biết cách nhìn người.
Ông ta đương nhiên tuyệt không nhìn sai bằng hữu của ông ta.
Cả một đời Tư Không Hiểu Phong đích xác chưa từng làm qua chuyện không nắm chắc.
Lần này lão có phải cũng có tin chắc tất thắng?
Lão Khương cũng đang ngồi trên xe.
Phong thấp lâu năm khiến cho lão không thể đi xa, cũng không thể cưỡi ngựa.
Thùng xe rất rộng rãi, có đủ chỗ có thể khiến cho bốn người bọn họ ngồi rất thư thả.
Nhưng lão ngồi tịnh không thư thái, trên sự thật, lão cơ hồ đang đứng trong đó.
Lão luôn luôn rất minh bạch thân phận của mình là gì, tuy thiếu chủ nhân của lão đã từ lâu không xem lão như một gia nhân, lão lại chưa từng vượt qua quy củ cẩn kính bao lâu nay.
Đối với điểm đó, Tư Không Hiểu Phong luôn luôn rất tán thưởng, Tư Không Hiểu Phong bình sinh thống hận nhất là người không giữ quy củ.
Cho nên bọn họ tịnh không kêu lão Khương ngồi thoải mái, chỉ bất quá hỏi:
- Bọn ta nên dùng cách nào để tiến nhập Thượng Quan Bảo Phố? Nếu dùng cách nào để đối phó Thượng Quan Nhẫn? Ngươi có phải đã có kế hoạch gì?
Lão Khương đáp:
- Phải.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Tại sao ngươi còn chưa nói ra?
Lão Khương đáp:
- Bởi vì đại gia còn chưa hỏi.
Tư Không Hiểu Phong thốt:
- Hiện tại ta đã hỏi, ngươi nói thử coi.
Lão Khương đáp:
- Được.
Lão trầm mặc rất lâu, đem kế hoạch nghĩ đi nghĩ lại trong đầu, lại suy xét trong tâm kỹ càng, xác định trong kế hoạch đó tịnh không có lỗ hổng quá lớn.
Sau đó lão mới dám nói ra.
Thượng Quan Nhẫn cô tịch nghiêm cẩn, Thượng Quan Bảo Phố dưới sự thống lãnh của lão đương nhiên là cấm vệ sâm nghiêm, tuyệt không cho phép người ngoại lọt vào một bước.
May là Tư Không Hiểu Phong tịnh không phải là người ngoài.
Lão Khương nói:
- Cho nên bọn ta nếu quả muốn an toàn tiến nhập, nhất định phải cần đại gia ông ra mặt, hiện tại Thượng Quan Nhẫn còn chưa biết bí mật của lão đã bị vạch trần, không những tuyệt không dám ngăn cản, hơn nữa nhất định đại khai của Bảo Phố, tự mình ra nghênh tiếp.
Lão đại khái thống kê trong Thượng Quan Bảo Phố tổng cộng có hơn ba trăm nam đinh, cơ hồ mỗi người đều đã luyện qua võ công, trong đó còn bao gồm cả một đoàn tử sĩ đã được huấn luyện từ lâu, lúc nào cũng đều có thể bán mạng cho họ Thượng Quan.
Lão Khương thốt:
- Lần này bọn ta chỉ mang đến một trăm ba mươi sáu người, địch đông ta ít, bọn ta rất có thể không phải là đối thủ của bọn họ.
Tư Không Hiểu Phong đồng ý.
Lão Khương nói:
- Nhưng Thượng Quan Nhẫn nếu quả thân chinh ra nghênh tiếp, người theo cạnh nhất định không quá đông.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Ngươi chuẩn bị động thủ lúc đó?
Lão Khương đáp:
- Cầm tặc trước hết nên cầm vương, chỉ cần bọn ta có thể trước hết hạ thủ chế ngự Thượng Quan Nhẫn, thuộc hạ của lão tuyệt đối không dám khinh cử vọng động.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Ai có tự tin có thể chế ngự được lão?
Lão Khương đáp:
- Nếu quả do tiểu thiếu gia chính diện xuất thủ, đại gia ông và nhị tiểu thư hai bên giáp kích, lại thêm tôi suất lãnh một đội cách ly đám tùy tùng của lão ra, không khó gì nhất kích là trúng.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Nếu quả lão không ra tiếp thì sao?
Lão Khương đáp:
- Vậy bọn ta chỉ còn nước xông vào, liều với bọn chúng.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Ngươi liều bằng cái gì?
Lão Khương đáp:
- Dùng mạng của bọn ta mà liều.
Lão nắm chặt song quyền:
- Người của bọn chúng tuy đông, lại vị tất đã chịu liều mạng với bọn ta.
“Liều mạng”, phương pháp đó không cần biết sử dụng lúc nào, chỗ nào, đều là một trong những chiến lược đáng sợ nhất, hơn nữa thông thường đều rất hữu hiệu.
Tư Không Hiểu Phong thở dài:
- Chuyện đã đến nước như vậy, xem ra bọn ta cũng chỉ còn nước dùng phương pháp đó.
Nhưng phương pháp đó bọn họ tịnh không dùng đến, bởi vì bọn họ căn bản không có cơ hội dùng đến.
Ngay lúc đó, bọn họ nhìn thấy xa xa có một ngọn lửa bốc cháy, soi rực cả nửa bầu trời.
Địa phương khởi hỏa chừng như chính là Thượng Quan Bảo Phố.
Đợi khi bọn họ đến nơi, Thượng Quan Bảo Phố đã bị thiêu rụi thành bình địa, cả một bóng người cũng không thấy.
Trong đống tro tàn không có tới một phần hài cốt, càng không lưu lại một chút manh mối nào, Thượng Quan Nhẫn và đám thuộc hạ, nam nữ lão ấu tổng cộng hơn bốn trăm người đã thất tung như vậy, chừng như hoàn toàn biến mất khỏi mặt đất.
Chuyện đó làm hết sức ngoan độc chu mật, phóng mắt nhìn khắp thiên hạ, đơn giả không có một ai có thể bì kịp.
“Sự ti bỉ vô sỉ âm hiểm độc lạt của người đó khiến cho người ta có cảm giác không thể không bội phục lão, cũng không thể không sợ lão!”
Đó là kết luận của cuối của Tư Không Hiểu Phong về Thượng Quan Nhẫn.
Câu nói đó Triệu Vô Kỵ sau này cũng không bao giờ quên.
Ngoại trừ những mỹ đức sở hữu của một hiền thê lương mẫu ra, Vệ Phượng Nương còn có một tập quán tốt.
Mỗi ngày trước khi đi ngủ, nàng đều đem những đại sự phát sinh trong ngày hợp cùng ý tưởng của mình viết xuống, lưu lại sau này.
Lúc nàng từ nhỏ đã có tập quán đó, cho dù lúc bi thống nhất, nàng cũng không bỏ qua một ngày nào.
Chuyện phát sinh bao ngày nay, nàng đương nhiên cũng ghi hết lại, tuy có chút hỗn loạn, nhưng cách nhìn của nàng đối với con người của Triệu Vô Kỵ và những chuyện đó đều là cái người khác nhìn không ra.
“Mồng bốn tháng tư, trời trong.
Hung thủ sát hại lão gia tử không ngờ có thể là Thượng Quan Nhẫn, thật sự là chuyện làm cho người ta không tưởng được.
Tôi luôn luôn nghĩ giao tình giữa lão ta và lão gia tử còn tốt hơn nhiều so với người khác, cho đến sau ngọ ngày hôm đó, lúc hai người bọn họ ngồi uống rượu trong hoa viên, tôi vẫn còn nghĩ như vậy.
Chỉ bất quá ngày đó tôi cũng cảm thấy có chuyện rất kỳ quái.
Từ song cửa sổ trên căn tiểu lâu nơi tôi trú ngụ, có thể nhìn thấy đình viện nơi bọn họ uống rượu.
Ngày đó tôi tận mắt nhìn thấy Thượng Quan Nhẫn chừng như muốn quỳ xuống, hướng về phía lão gia tử vập đầu, lại bị lão gia tử kéo lại.
Quy củ giữa huynh đệ bọn họ vốn rất to tác, tam đệ vập đầu hướng nhị ca tịnh không phải là chuyện rất đặc biệt.
Thêm vào ngày hôm đó tôi một mực đang lo cho Triệu Vô Kỵ, sau đó lại phát sinh ra thảm án, cho nên tôi cũng quên đi chuyện đó.
Nhưng hiện tại tôi nghĩ lại, mới phát giác một bái đó nhất định có lý do rất đặc biệt.
Có phải vì Thượng Quan Nhẫn có bí mật gì không thể để tiết lộ đã bị lão gia tử phát hiện? Cho nên lão ta mới hướng lão gia tử vập đầu tạ tội?
Lão gia tử tuy đã lượng thứ cho lão ta, lão ta vẫn không yên tâm, cho nên mới tính kế giết lão gia tử diệt khẩu?
Triệu Vô Kỵ và Thiên Thiên đều đã theo Tư Không đại gia đến Thượng Quan Bảo Phố, tới bây giờ còn chưa trở về.
Lúc chàng đi, cả nhìn cũng không nhìn tôi một cái, nhưng tôi tịnh không hận chàng.
Tôi biết tâm tình của chàng, tâm của tôi cũng rất rối loạn, rất rối loạn.
Tôi biết tôi đêm nay nhất định không ngủ được.
Mồng năm tháng tư, trời trong.
Triệu Vô Kỵ và mọi người mới sáng sớm hôm nay đã về tới, mọi người đều rất khẩn trương, sắc mặt đều rất khó coi.
Sau tôi mới biết, lúc bọn họ đến đó, Thượng Quan Bảo Phố đã bị thiêu rụi thành tro, Thượng Quan Nhẫn cũng đã bỏ trốn.
Chuyện lão ta làm luôn luôn thận trọng chu mật, đương nhiên đã sớm tính toán bí mật của lão sớm muộn gì cũng bị người ta phát hiện, đã sớm có chuẩn bị, nếu không cho dù lão ta có thể bỏ trốn, cũng không có cách nào đem hết bộ thuộc đi theo.
Đông người như vậy cùng đi trên đường, nhất định rất câu dẫn sự chú ý của người ta, ít ít nhiều nhiều gì đều có thể lưu lại một chút dấu tích.
Tư Không đại gia đã nghĩ đến điểm đó, đã phái người chia thành bốn đường truy đuổi.
Nhưng tôi nghĩ truy tung lần này nhất định không có kết quả gì, bởi vì Thượng Quan Nhẫn nhất định cũng có thể nghĩ ra điểm đó, nhất định phân chia thuộc hạ thành nhiều nhóm cải trang ra đi.
Hôm nay Triệu Vô Kỵ vẫn không nói với tôi tiếng nào, tôi vẫn không trách chàng.
Tôi đã vào cửa Triệu gia, đã là người của Triệu gia, không cần biết chàng muốn tôi đợi bao lâu, tôi đều không oán trách.
Tôi thật hy vọng có thể luộc một con gà xé phay và một tô canh giò heo mà chàng thích ăn nhất, tận tay đút cho chàng ăn.
Nhưng tôi cũng biết tôi không thể làm vậy.
Đây là một đại gia đình, nhất cử nhất động của tôi đều phải đặc biệt cẩn thận, tuyệt không thể để người ta nói này nói nọ.
Tôi chỉ hy vọng chàng có thể tự bảo trọng.
Mồng sáu tháng tư, trời âm u.
Cho đến bây giờ vẫn không có một chút tin tức về Thượng Quan Nhẫn, tâm tình của mọi người càng khẩn trương.
Kỳ quái là Triệu Vô Kỵ trái lại lại có vẻ trấn định hơn xa mấy ngày trước, hơn nữa, mỗi ngày đều ăn mấy chén lớn.
Tôi từ nhỏ đã chú ý đến chàng, đương nhiên rất hiểu rõ tính khí của chàng, chàng đột nhiên biến thành như vậy nhất định là vì chàng đã hạ quyết tâm muốn đi làm một chuyện.
Tuy tự chàng không nói ra, chỉ là tôi tin chàng nhất định muốn tự mình đi tìm Thượng Quan Nhẫn, phục thù cho lão gia tử.
Bằng vào lực lượng một mình chàng mà đi phục thù, không những quá nguy hiểm, hy vọng cũng rất ít.
Nhưng tính khí như chàng, nếu đã hạ quyết tâm muốn đi làm một chuyện, có ai có thể khuyên cản chàng?
Tôi chỉ hy vọng chàng có thể đến gặp tôi một lần, nói với tôi chàng đang chuẩn bị lúc nào đi, cũng để cho tôi có thể nói với chàng rằng, không cần biết chàng đi đâu, không cần biết đi bao lâu, tôi đều có thể đợi chàng.
Cho dù muốn tôi đợi cả đời, tôi cũng nguyện ý.
Mồng bảy tháng tư, trời âm u.
Bốn đội người đi truy tung đã có hai đội trở về, quả nhiên cả một chút kết quả cũng không có.
Thượng Quan Nhẫn thật ra đã trốn ở đâu? Chỗ nào có thể để cho bọn chúng giấu thân?
Tôi đã nghĩ đến một chỗ, nhưng tôi không dám nói.
Quan hệ của chuyện này thật quá lớn, tôi tuyệt không thể nói bừa.
Nhưng tôi cầu xin Triệu Vô Kỵ không nghĩ đến chỗ đó, bởi vì chàng nếu quả đi tìm, chỉ sợ vĩnh viễn không thể trở về.
Sau khi trời tối, bên ngoài mưa bắt đầu rơi, càng khiến cho tâm tôi rối bời.
Triệu Vô Kỵ, chàng tại sao không đến nhìn tôi? Chàng có biết tôi muốn nói chuyện với chàng quá không? Chỉ nói một câu cũng tốt rồi.
Hôm qua tôi mới viết đến đây, bên ngoài chợt có người gõ cửa, tôi phải dừng tay.
Đoạn này là tôi hôm nay bổ sung vào, bởi vì đêm hôm qua Triệu Vô Kỵ đã đi, tôi không có cách nào cầm bút.
Tối như vậy còn đến tìm tôi, đương nhiên là Triệu Vô Kỵ.
Tôi nhìn thấy chàng, thật là cao hứng khôn tả, lại khó chịu khôn tả.
Tôi cao hứng là vì tôi cuối cùng đã gặp được chàng, khó chịu là vì tôi đã đoán ra chàng đến để từ biệt tôi.
Tôi quả nhiên nghĩ không sai.
Chàng nói chàng phải đi, đi tìm Thượng Quan Nhẫn, cho dù phải tìm đến chân trời góc biển cũng phải tìm ra Thượng Quan Nhẫn, phục thù cho lão gia tử.
Chàng nói sau khi chàng gặp tôi là phải đi liền, ngoại trừ tôi ra, chàng không nói cho ai khác biết, cả Thiên Thiên cũng không biết.
Tôi vốn không muốn khóc trước mặt chàng, nhưng nghe những lời đó, nước mắt của tôi lại nhịn không được phải trào ra.
Chuyện đó chàng chỉ nói cho một mình tôi biết, lúc sắp đi chỉ đến cáo biệt với một mình tôi, điều đó biểu thị trong tâm chàng còn có tôi, nhưng chàng tại sao không chịu mang tôi đi theo?
Kỳ thật tôi cũng biết chàng không thể dẫn tôi theo, chuyến đi này của chàng, tiền đồ mờ mịt, tôi cũng không thể gây lụy đến chàng.
Nhưng tôi lại không thể không khó chịu.
Tôi không muốn để chàng đi, lại không thể không để chàng đi.
Tôi nếu không để chàng đi báo thù, tất đã biến chàng thành tội nhân của Triệu gia, tương lai làm sao dám nhìn mặt lão gia tử dưới cửu tuyền?
Chàng nhìn thấy tôi lưu lệ, an ủi tôi, nói mấy năm nay chàng luôn luôn khổ luyện, đối với võ công của mình rất có tự tin, hơn nữa lần này xuất môn cũng đã có chuẩn bị.
Chàng thật đã có chuẩn bị, không những không thiếu tiền lộ phí, còn ghi xuống các bằng hữu có giao tình với lão gia tử.
Phân đà của Đại Phong đường ở các nơi chàng cũng nhớ rất rõ, cho nên chàng kêu tôi an tâm, ở bên ngoài tuyệt không phải không có chỗ chiếu cố.
Tôi thật muốn nói với chàng tôi hy vọng chàng có thể phụ giúp kề bên chàng, có thể chiếu cố đến chàng.
Nhưng tôi không nói gì được, tôi không muốn để chàng đi rồi còn phải vì nhớ đến tôi mà khó chịu.
Tôi thà nguyện một mình rơi lệ ở đây.
Hôm nay là mồng bảy tháng tư, mưa đã ngừng rơi, khí trời đột nhiên biến thành rất nóng, giống như là trời mùa hạ.
Sáng sớm hôm nay tôi mới biết Tư Không Hiểu Phong đêm hôm qua đã bỏ đi, sau khi ông ta đi, Triệu Vô Kỵ mới đi.
Tới khi trời sáng, có nhiều đội người đi tìm Triệu Vô Kỵ, tôi hy vọng bọn họ có thể kéo chàng về, lại hy vọng bọn họ tìm không ra chàng, để cho chàng đi làm chuyện chàng nên làm.
Không cần biết ra sao, tôi đều quyết tâm không cần phải ngồi ì trong phòng chảy nước mắt nữa, tôi nhất định phải chấn chỉnh lại tinh thần, phụ giúp Thiên Thiên lo cai quản việc nhà cho tốt, bởi vì đây cũng là nhà của tôi.
Tôi muốn để linh hồn của lão gia tử trên trời biết rằng tôi là dâu ngoan của Triệu gia”.
o O o
[Người sống trên giá]
Đêm tối tiêu hồn. Mưa đêm như tơ, tơ mưa lạnh buốt như ngọn roi quất trên mặt Triệu Vô Kỵ, lại không dập tắt được một ngọn lửa trong tâm chàng.
Nộ hỏa vì thù hận thiêu đốt mà bừng cháy, cả nước mắt của Vệ Phượng Nương cũng không dập tắt được, hà huống gì là trận mưa lâm râm đó. Chàng một mực quất ngựa cuồng bôn không ngừng, tịnh không phải vì chàng đã xác định được mục tiêu, vội vàng muốn đi đến đó, chỉ bất quá vì chàng muốn xa rời ánh mắt và lệ châu ngập tràn nhu tình của Vệ Phượng Nương. Chàng không thể để ánh mắt của bất cứ một ai đả động quyết tâm của chàng.
Đêm đã rất khuya, trên con đường tối tăm lại bất chợt xuất hiện một ánh đèn.
Trong đêm tối mưa lắc rắc như tơ như vầy, trên đường làm sao có thể còn có người qua lại? Triệu Vô Kỵ không nghĩ ngợi, cũng không nhìn, chàng căn bản không muốn để ý tới chuyện của người khác, ai biết được người đó lại khơi khơi chận cản đường chàng đi.
Kiện mã của chàng hí vang, người đứng dựng lên, cơ hồ muốn quăng cả chàng khỏi yên.
Chàng đã nổi giận, lại khơi khơi không thể bực tức, bởi vì người ngăn đường chàng chỉ bất quá là một tiểu hài tử.
Một tiểu hài tử vận đại hồng y, đầu kết tóc bím, tả thủ cầm một cây dù giấy dầu, hữu thủ nhấc một trản khổng minh đăng, đang nhìn chàng cười hì hì. Trên khuôn mặt vui cười mỗi bên có một lúm đồng tiền.
Mình làm sao có thể tức giận một đứa bé như vậy? Nhưng một đứa bé như vậy tại sao nửa đêm canh ba còn đi trên đường?
Triệu Vô Kỵ trước hết chế trụ ngựa, sau đó mới hỏi:
- Ngươi tại sao còn chưa tránh đường? Lẽ nào ngươi không sợ thớt ngựa này dẫm chết ngươi?
Tiểu hài tử lắc đầu, mới cọng tóc bím cũng lắc lắc theo, giống như một búp bê đất sét. Triệu Vô Kỵ vốn thích con nít, hài tử đó cũng vốn rất khoái người ta thích, nhưng đảm khí của nó thật quá lớn, cũng không giống đảm khí của tiểu hài tử chút nào.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ngươi thật không sợ?
Tiểu hài tử đáp:
- Tôi chỉ sợ thớt ngựa đó bị tôi không cẩn thận mà hại chết, tôi đền không nổi đâu.
Triệu Vô Kỵ cười, lại nhịn cười nghiêm mặt, lạnh lùng hỏi:
- Ngươi cũng không sợ gia gia má má của ngươi đang lo lắng đợi chờ ngươi sao?
Tiểu hài tử đáp:
- Tôi không có gia gia, cũng không có má má.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Không cần biết ra sao, hiện tại ngươi cũng nên về nhà rồi.
Tiểu hài tử đáp:
- Tôi mới từ trong nhà đi ra.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Đêm khuya như vầy, ngươi còn đi ra làm gì?
Tiểu hài tử đáp:
- Đi tìm ông.
Lời nói của tiểu hài tử đó tuy mỗi một câu đều nằm ngoài ý tưởng của người ta, nằm ngoài ý tưởng nhất lại vẫn là câu đó.
Triệu Vô Kỵ hỏi lại:
- Ngươi đi tìm ta?
Tiểu hài tử đáp:
- Ừm.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ngươi có biết ta là ai không?
Tiểu hài tử đáp:
- Tôi đương nhiên biết, ông họ Triệu, tên là Triệu Vô Kỵ, là đại thiếu gia của Triệu nhị gia ở Đại Phong đường.
Triệu Vô Kỵ ngây người. Tròng mắt của tiểu hài tử đó láy động, lại cười:
- Nhưng ông nhất định không biết tôi là ai.
Triệu Vô Kỵ quả thật không biết, chàng cũng chưa từng gặp một tiểu hài tử như vậy.
Chàng chỉ còn nước hỏi:
- Ngươi là ai?
Tiểu hài tử đáp:
- Tôi là con nít.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Ta biết ngươi là con nít.
Tiểu hài tử hỏi:
- Ông đã biết vậy còn hỏi tôi làm gì?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Hỏi tên họ của ngươi.
Tiểu hài tử thở dài:
- Tôi cả gia gia má má cũng không có, làm sao có tên họ?
Triệu Vô Kỵ cũng không khỏi thở dài trong tâm, lại hỏi:
- Trong nhà ngươi còn có ai không?
Tiểu hài tử đáp:
- Ngoại trừ sư phụ tôi ra, còn có khách nhân.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Sư phụ ngươi là ai?
Tiểu hài tử đáp:
- Tôi có nói ra ông cũng không thể nhận ra.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ông ta đã không nhận biết ta, còn sai ngươi tìm ta làm gì?
Tiểu hài tử hỏi ngược:
- Ai nói là ông ta sai tôi đến?
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Không phải là ông ta, lẽ nào là vị khách nhân kia?
Tiểu hài tử lại thở dài:
- Tôi còn nghĩ ông vĩnh viễn không đoán ra, không tưởng được ông cũng có lúc thông minh.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Khách nhân của các ngươi lẽ nào là Tư Không Hiểu Phong?
Tiểu hài tử vỗ tay cười:
- Ông càng lúc càng thông minh, theo như vầy có lẽ có một ngày sẽ trở nên thông minh như tôi.
Triệu Vô Kỵ chỉ còn nước cười khổ.
Tiểu hài tử hỏi:
- Ông có đi không?
Triệu Vô Kỵ làm sao mà không đi, Tư Không Hiểu Phong đã tìm chàng, chàng có trốn cũng không trốn khỏi.
- Nhà của ngươi ở đâu?
Tiểu hài tử giơ tay chỉ về phía một cánh rừng thưa bên đường.
- Trong đó.
Mưa lắc rắc như tơ, tơ mưa như tấm màn, một cánh rừng thưa phảng phất đằng sau bức màn châu.
Cho nên mình nhất định phải tiến vào mới có thể nhìn thấy ánh đèn bên trong hai song cửa sổ.
Có ánh đèn, có nhà.
Hai song cửa sổ đó tịnh không lớn, căn nhà đương nhiên cũng không lớn. Đó vốn là một căn nhà nho nhỏ.
Tư Không Hiểu Phong sao lại đến đây?
Triệu Vô Kỵ nhịn không được phải hỏi:
- Sư phụ của ngươi tại sao lại muốn xây nhà ở đây?
Tiểu hài tử thốt:
- Ở đây có nhà sao? Sao tôi không nhìn thấy ở đây có nhà vậy cà?
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Đó không phải nhà thì là gì?
Tiểu hài tử lắc đầu, thở dài:
- Ông sao lại biến thành khờ dại rồi? Sao cả một cỗ xe ngựa mà cũng không nhận ra?
Triệu Vô Kỵ lại ngây người.
Nhưng chàng cuối cùng đã phát hiện bên dưới cái “nhà” đó còn có bốn bánh xe.
Nếu quả đó là một cái nhà, đương nhiên không thể coi là nhà lớn, nếu quả đó là xe ngựa, tất phải tính là một cỗ xe ngựa lớn.
Đó thật là một cỗ xe ngựa.
Triệu Vô Kỵ chưa từng thấy cỗ xe ngựa nào lớn như vậy, đơn giản giống hệt như một căn nhà nhỏ.
Tiểu hài tử hỏi:
- Ông có từng sống trên xe ngựa chưa?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Chưa.
Tiểu hài tử thốt:
- Cho nên ông mới không biết, sống trên xe ngựa lý thú hơn nhiều so với sống trong nhà.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Có gì lý thú?
Tiểu hài tử đáp:
- Nhà có thể chạy đi đâu không?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Không thể.
Tiểu hài tử thốt:
- Nhưng cỗ xe ngựa có thể chạy, hôm nay ở Hà Đông, ngày mai đến Hà Tây, chừng như nơi nào cũng đều là nhà của bọn tôi!
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Các người luôn luôn coi cỗ xe ngựa đó như nhà?
Tiểu hài tử gật gật đầu, còn chưa mở miệng, trong xe đã có người đang hỏi:
- Có phải Triệu Vô Kỵ đã đến không?
Đó đương nhiên là thanh âm của Tư Không Hiểu Phong!
Thùng xe rộng lớn, dùng màn vải bố màu đỏ tím chia thành hai phần, phía sau màn tưởng tất phải là phòng ngủ của chủ nhân.
Bên ngoài có một cái giường dài, một cái bàn, vài cái ghế gỗ tử đàn. Vài bức danh gia tự họa, vài thứ đồ cổ tinh mỹ, còn có một ngọn đèn, một lư hương, một bàn cờ.
Mỗi một vật hiển nhiên đều đã trải qua thiết kế tinh trí, bày biện ở nơi xảo hợp nhất.
Mỗi một tấc mỗi một phân đều được lợi dụng tối đa, cho dù là người tỉ mỉ khó khăn nhất cũng tìm không ra một điểm lỗi.
Ngã người trên giường là một trung niên nhân tóc hai bên thái dương điểm bạc, tu sức chỉnh tề, y phục vừa vặn, trên khuôn mặt anh tuấn luôn luôn mang theo nụ cười ôn hòa.
Vô luận là ai đều nên nhìn thấy ông ta trước đây nhất định là một nam nhân rất được nữ nhân ưa thích.
Nếu quả không phải vì lưng ông ta, ông ta hiện tại nhất định cũng rất được nữ nhân ưa thích.
Nhưng trên lưng ông ta lại mang một cái giá đúc bằng nhôm, nếu quả không có cái giá đó, cả người ông ta có thể biến thành nhão nhẹt ra.
Vô luận là ai lần đầu tiên nhìn thấy ông ta, trong tâm đều có một thứ cảm giác rất kỳ quái.
Thứ cảm giác đó giống như mình lần đầu tiên nhìn thấy một người một người đang chịu khổ hình vậy.
Chỉ bất quá khổ hình người ta chịu rất mau chóng đi qua, ông ta lại phải chịu cả đời.
Triệu Vô Kỵ chỉ nhìn người đó một lần.
Bởi vì chàng không muốn nhìn lần thứ hai, cũng bất nhẫn nhìn lần thứ hai.
Tư Không Hiểu Phong ngồi trên một cái ghế gỗ tử đàn đối diện cửa xe, mỉm cười:
- Ngươi cuối cùng đã đến!
Triệu Vô Kỵ tịnh không hỏi lão “Ông làm sao biết tôi có thể đến?”
Con người đó chừng như luôn luôn biết những chuyện vốn đáng lẽ không thể biết.
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Ta vốn muốn tự mình đi tiếp ngươi, nhưng ta...
Triệu Vô Kỵ bỗng ngắt lời lão:
- Nhưng ông sợ mắc mưa.
Tư Không Hiểu Phong lộ vẻ kinh ngạc:
- Sao ngươi biết?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Tôi biết, ba chuyện ông sợ nhất là đạp phân, đánh cờ, mắc mưa.
Tư Không Hiểu Phong cười lớn.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Tôi luôn luôn không hiểu ông tại sao lại sợ đánh cờ?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Bởi vì đánh cờ không những phải dụng tâm, mà còn quá tổn thương thần.
Một người như lão đương nhiên không chịu để lãng phí tâm thần vào chuyện đánh cờ.
Trên thế gian nàycòn có rất nhiều chuyện cần lão dụng tâm thương thần. Rất nhiều chuyện quan trọng hơn đánh cờ!
Chủ nhân trên giường bỗng cười cười:
- Một phế nhân lưu lãng bốn phương như ta lại không sợ dụng tâm thương thần!
Nụ cười của lão tuy ôn hòa, lại mang theo một nỗi tịch mịch khôn tả:
- Ta chỉ sợ không có ai đánh cờ với ta.
Gió phì mưa phà ngoài song cửa, vài giọt rơi trên nửa cuộc cờ tàn!
Lẽ nào ông ta luôn luôn sinh sống ngày ngày như vầy, luôn luôn vác cái giá đó trên lưng?
Triệu Vô Kỵ tuy một mực giả như không nhìn thấy nỗi thống khổ của ông ta, lại giả không kín cho lắm.
Chủ nhân lại cười cười:
- Ta đương nhiên cũng rất sợ cái giá khủng khiếp này của ta, chỉ là ta không thể không có nó.
Triệu Vô Kỵ cũng không thể giả như không nghe, nhịn không được phải hỏi:
- Tại sao?

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 24-10-2012 12:32:48 | Chỉ xem của tác giả
Chủ nhân đáp:
- Bởi vì trên lưng ta có một cột xương sống khủng khiếp, đã hoàn toàn gãy vụn, nếu quả không có cái giá khủng khiếp này, ta có thể biến thành giống hệt một vũng bùn!
Ông ta mỉm cười, lại nói:
- Cho nên cả ta cũng cảm thấy rất kỳ quái, ta không ngờ còn có thể sống tới bây giờ.
Triệu Vô Kỵ chợt cảm thấy sống lưng mình đã phát lãnh, từ sống lưng lạnh tới gót chân.
Tuy chàng vô phương hiểu thấu con người đó thật ra đang chịu đựng thống khổ tới cỡ nào, nhưng một người biết rõ mình cả đời phải sống trên giá không ngờ thường có thể nở nụ cười, bằng vào một điểm đó, đã đủ để khiến cho chàng không thể không bội phục.
Chủ nhân phảng phất đã nhìn ra trong tâm chàng đang nghĩ gì:
- Nhưng ngươi không cần phải bội phục ta, kỳ thật mỗi một người trên mình đều có một cái giá như vậy, chỉ là không để ngươi nhìn thấy.
Ông ta ngưng thị nhìn Triệu Vô Kỵ, giống như một người đang thưởng thức tận tường một món đồ sứ:
- Thậm chí cả ngươi cũng vậy.
Triệu Vô Kỵ không hiểu:
- Tôi cũng vậy?
Chủ nhân đáp:
- Ngươi cũng là bệnh nhân, trên mình ngươi cũng có một cái giá, cho nên ngươi còn chưa ngã quỵ.
Triệu Vô Kỵ hiển nhiên vẫn chưa minh bạch ý tứ của ông ta, chỉ còn nước bảo trì vẻ trầm mặc đợi ông ta nói.
Chủ nhân thốt:
- Trên người ngươi vận tang phục, biểu thị gần đây ngươi nhất định có người rất thân cận đã qua đời.
Triệu Vô Kỵ buồn bã.
Nghĩ đến cái chết của phụ thân mình, trong tâm chàng đau đớn, đau đớn đến nỗi cơ hồ vô phương chịu đựng.
Chủ nhân nói:
- Sắc mặt của ngươi trắng tái tiều tụy, trong mắt toàn những tia máu li ti, biểu thị trong tâm ngươi không những bi thương mà còn chứa đầy cừu hận.
Ông ta thở dài, lại nói:
- Bi thương và cừu hận đều là tật bệnh, ngươi đã bệnh rất trầm trọng.
Triệu Vô Kỵ thừa nhận.
Chủ nhân nói:
- Tới bây giờ ngươi còn chưa ngã quỵ chỉ là vì muốn phục thù, cho nên không thể ngã quỵ.
Triệu Vô Kỵ nắm chặt song quyền:
- Ông không nhìn lầm!
Chủ nhân nói:
- Ý niệm phục thù là cái giá của ngươi, không có cái giá đó, ngươi đã sớm ngã gục!
Hiện tại Triệu Vô Kỵ cuối cùng đã minh bạch ý tứ của ông ta.
Ý tương của con người đó tuy đặc biệt, lại bao hàm một thứ triết lý làm cho người ta sực tỉnh, khiến người ta vô phương biện bác.
Nhục thể của ông ta tuy đã tàn phế, tư tưởng lại linh mẫn kiện toàn hơn xa đại đa số người.
Triệu Vô Kỵ nhịn không được muốn hỏi: “Con người đó thật ra là ai?”
Chàng còn chưa hỏi, Tư Không Hiểu Phong đã mỉm cười:
- Con người đó là quái nhân.
Tại sao ông ta là quái nhân?
Tư Không Hiểu Phong nói tiếp:
- Ta chưa từng nhìn thấy ông ta làm ra một xu, nhưng ông ta lại sống hệt như vương hầu.
Triệu Vô Kỵ nhìn ra điểm đó.
Trong cỗ xe ngựa, mỗi một thứ đồ cổ và đồ trang hoàng giá trị đều trên ngàn vàng, y phục trên người ông ta vô luận thức dạng hay chất liệu đều rất cao quý.
Đương nhiên còn có những chuyện Triệu Vô Kỵ nhìn không ra.
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Chính ông ta tuy sống trong cỗ xe ngựa, lại ít ra có ba chục người nội trong vòng năm trăm dặm quanh cỗ xe này đang đợi chờ ông ta phân phó, trong đó bao gồm cả bốn gã đầu bếp giỏi mà cả nhà bếp của hoàng cung cũng không mời được, và cả mã phu từng nuôi ngựa cho đại tướng quân chinh tây!
Chủ nhân mỉm cười:
- Không phải là bốn, là sáu người.
Trong nụ cười của ông ta không có ý kiêu ngạo, cũng không có ý tự khoa trương.
Câu nói đó của ông ta chỉ bất quá muốn cải chính một chút sai lầm của người khác.
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Thùng xe và bánh xe của cỗ xe ngựa này đều đặc biệt tinh chế, còn kiên cố hơn xa phòng ốc của nhà người bình thường, cho nên kích cỡ khó tránh khỏi nặng nề, tám thớt ngựa kéo xe tuy đều là ngựa tốt, sau khi kéo bốn năm trăm dặm là có một trạm đổi ngựa của ông ta.
Lão thở dài, lại nói:
- Theo ta tính toán, ngựa ông ta nuôi ít nhất cũng có trên tám trăm thớt, hơn nữa còn toàn là ngựa tốt tuyển chọn trong cả ngàn con.
Một người nuôi tám trăm thớt ngựa, đó cơ hồ là thần thoại.
Nhưng Tư Không Hiểu Phong lại nói một cách rất thành khẩn, Triệu Vô Kỵ cũng biết lão tuyệt không phải là người khoác lác thổi phồng.
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Chỉ duy trì ba chục người tùy tùng danh tiếng và tám trăm thớt ngựa, chi phí mỗi tháng của ông ta tối thiểu cũng cỡ năm ngàn lượng!
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Nhưng ông chưa bao giờ nhìn thấy ông ta làm ra một xu tiền.
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Ông ta thậm chí cả một mẫu đất làm nhà cũng không có.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Không chừng ông ta đã mở nhiều tiệm buôn bán, thương mại luôn luôn là nghề làm ra tiền.
Chủ nhân bỗng thở dài:
- Lẽ nào ngươi nhìn thấy ta là thương nhân? Lẽ nào ta nhìn tục khí như vậy?
Triệu Vô Kỵ không thể không thừa nhận con người đó nhìn quả thật không giống thương nhân, không có một chút tục khí nào.
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Ông ta tuy hành động bất tiện, cả con ruồi cũng không đập chết được, nhưng người vô lễ đối với ông ta lại thông thường có thể sang ngày thứ hai vô duyên vô cớ đột nhiên bộc bệnh mà chết.
Chủ nhân thở dài:
- Một người nhẫn tâm khi phụ người tàn phế, ông trời luôn luôn giáng vận xui cho hắn!
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Ta lại luôn luôn không rõ cho lắm, vận xui của những người đó thật ra là do ông trời giáng cho, hay là do chính ông ta?
Lão cười cười, lại nói tiếp:
- Ta chỉ biết trong ba mươi tùy tùng đó, ít nhất có mười người tuyệt đối có thể coi là nhất lưu cao thủ trong võ lâm.
Triệu Vô Kỵ nghe lão kể giống như đang nghe một cố sự về nhân vật trong thần thoại.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Hiện tại ngươi có biết ông ta là ai chưa?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Không biết!
Tư Không Hiểu Phong cười khổ:
- Kỳ thật ta cũng không biết, ta cùng ông ta đã kết giao bằng hữu rất lâu năm, cả tên tuổi thật của ông ta mà ta cũng không biết, nhưng ta một khi biết ông ta đang ở vùng phụ cận là ta có thể bỏ mọi thứ đến gặp ông ta!
Chủ nhân mỉm cười:
- Bọn ta đã rất lâu rồi không gặp, cho nên ngươi muốn đến thăm ta.
Ông ta quay về phía Triệu Vô Kỵ:
- Nhưng người trẻ tuổi này lại vị tất muốn đến gặp một người tàn phế như ta, hiện tại trong tâm hắn không chừng cảm thấy rất buồn chán!
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Có thể gặp một người như ông, vô luận là ai đều không thể cảm thấy buồn chán!
Chàng nói rất thành khẩn:
- Chỉ tiếc tôi còn có chuyện khác, hiện tại đã phải đi rồi!
Chủ nhân nói:
- Nếu quả ngươi chịu lưu lại, ta bảo đảm đêm hôm nay ngươi còn có thể nhìn thấy bao nhiêu người càng lý thú hơn, bao nhiêu chuyện càng lý thú hơn.
Triệu Vô Kỵ do dự, tâm hiếu kỳ của chàng đã bị kích thích, vô phương cự tuyệt lời mời đó.
Chủ nhân cười càng khoan khoái. Một người cả đời sống trong cô độc luôn luôn đặc biệt hiếu khách.
Ông ta lại bảo đảm với Triệu Vô Kỵ lần nữa:
- Ta nghĩ ngươi tuyệt không thể thất vọng đâu.
Đêm hôm nay thật ra có những người nào đến đây?
Trong một cỗ xe ngựa kỳ quái như vầy, đối diện một vị chủ nhân kỳ quái như vậy, đã là một kinh nghiệm khiến người ta rất khó quên.
Triệu Vô Kỵ không nghĩ ra đêm hôm nay còn có thể gặp chuyện gì càng lý thú hơn!
Trên chỗ dựa tay gần giường có treo một cái chuông vàng nho nhỏ, Chủ nhân cầm cái chuông nhỏ lên, rung nhẹ một tiếng.
Ông ta mỉm cười giải thích:
- Đây là cái chuông ta dùng để kêu người, ta chỉ rung một tiếng biểu thị người ta muốn gọi là Hồ Cự, quản gia của ta.
Tiếng chuông vừa vang lên, ông ta còn chưa dứt lời, Hồ Cự đã xuất hiện, giống như một tinh linh giờ nào phút nào cũng đều đang đợi chờ ma pháp hiệu triệu.
Gã là một người khổng lồ cao chín thước, mắt sâu hoắm, đầu tóc quăn queo, trên mặt đen bóng, mang theo vẻ hung hãn như dã thú, đôi tay to nổi vồng gân xanh, giắt bên hông một thanh loan đao Ba Tư lấp lánh ánh hàn quang, khiến cho gã nhìn càng nguy hiểm đáng sợ.
Nhưng trước mặt chủ nhân của gã, gã lại hiển lộ vẻ cung thuận phục tùng tuyệt đối.
Gã vừa xuất hiện đã vập đầu quỳ bái sát rạt dưới đất, bái lạy dưới chân chủ nhân, dùng thái độ cung kính nhất nhẹ nhàng hôn lên đôi giày mềm mại của chủ nhân gã.
Đối với gã mà nói, có thể hôn giày chủ nhân đã là một vinh sủng to lớn.
Thái độ của chủ nhân đối với gã lại lãnh tuấn nghiêm túc:
- Hiện tại đã gần đến giờ tý phải không?
- Dạ.
- Ngươi đã chuẩn bị hết rồi phải không?
- Dạ.
Chủ nhân tuy rất vừa lòng, lại không để lộ một chút ý tứ tán thưởng nào, chỉ điềm đạm phân phó:
- Vậy hiện tại bọn ta có thể bắt đầu rồi.
“Dạ”. Hồ Cự lại vập đầu rồi mới lui ra.
Gã tuy chỉ nói một chữ “dạ”, Triệu Vô Kỵ lại nghe rõ khẩu âm của gã cứng ngắc kỳ dị phi thường.
Chủ nhân lại nhìn ra sự hiếu kỳ của khách nhân:
- Phụ thân của gã là thương nhân Ba Tư, gã vốn là lực sĩ dưới trướng đại tướng quân, có một lần ngộ phạm quân pháp, đáng lẽ phải bị xử quyết.
Quân lệnh của đại tướng quân như núi, thiên hạ đều biết, gã làm sao có thể thoát khỏi lưỡi đao?
Chủ nhân nói:
- Là ta dùng một đôi hãn huyết mã Đại Uyển danh chủng đổi lấy cái mạng của gã từ trong tay đại tướng quân.
Đại tướng quân thích ngựa quý, trong mắt của đại tướng quân mà nhìn, một đôi ngựa tốt danh chủng còn trân quý hơn xa bất cứ tính mạng của một ai.
Tư Không Hiểu Phong thở dài:
- May là ông có một đôi ngựa quý mới có thể đánh đổi một bộc nhân trung tâm như vậy.
Chủ nhân thốt:
- Gã không phải là bộc nhân của ta, gã là nô lệ của ta, ta lúc nào cũng có thể kêu gã đi chết.
Ông ta điềm đạm nói, tịnh không có một chút khoa trương, chỉ bất quá nói ra sự thật.
Nhưng trong tai người khác mà nghe, lại không còn nghi ngờ gì nữa, giống hệt cố sự trong thần thoại.
May là Triệu Vô Kỵ đối với mấy chuyện này đã dần dần quen thuộc, dã không còn kinh ngạc nữa, càng không thể hoài nghi.
Tới lúc đó, trong khu rừng hắc ám đột nhiên sáng choang như một kỳ tích.
Triệu Vô Kỵ vốn cả một trản đèn cũng không thấy, hiện tại bốn bề lại đã được ánh đèn chiếu rọi sáng như ban ngày.
Những cây cổ thụ đứng trước cỗ xe ngựa đột nhiên toàn bộ ngã xuống. Cây vừa ngã xuống là rất mau chóng bị một vòng dây kéo đi.
Một khoảnh rừng trong phút chốc đã biến thành bình địa. Triệu Vô Kỵ tuy tận mắt chứng kiến, cơ hồ vẫn không tin vào mắt mình.
Trên khuôn mặt trắng nhợt của chủ nhân chung quy đã lộ vẻ thỏa mãn.
Đối với hiệu suất hành sự của đám thuộc hạ của ông ta, không ai còn có thể cảm thấy không thỏa mãn.
Tư Không Hiểu Phong lại đang thở dài. Lão luôn hy vọng thuộc hạ của lão làm việc cũng có thể có hiệu suất như vầy.
Lão nhịn không được phải nói:
- Người như Hồ Cự, phải dùng mười đôi ngựa quý đi đổi cũng đáng giá.
Chủ nhân mỉm cười.
Con người đó tuy không phải là thương nhân, lại luôn luôn rất ít khi làm chuyện mua bán lỗ vốn.
Mưa đã tạnh.
Bên ngoại cánh rừng đột nhiên vang lên tiếng gõ ống tre, một người rao lớn:
- Thịt bò ướp ngũ vị hương, hoành thánh thịt bằm đây.
Trong tiếng rao xuất hiện một người đầu đội nón tre, gánh một đòn gánh hoành thánh bước vào khoảnh đất trống.
Một gánh phía trước đòn gánh có một lò lửa cháy phừng phừng, nhiệt khí trong cái nồi trên lò bốc đằng đằng, gánh đằng sau ngoại trừ chén dĩa gia vị nêm nếm ra còn có một lồng đậy vải lụa che thịt bò. Ở Giang Nam, lúc nửa đêm ngủ không được, lúc nào cũng đều có thể đi tìm một gánh hàng rong như vầy ăn một chén hoành thánh nóng hổi.
Nhưng Triệu Vô Kỵ có nằm mộng cũng không tưởng được ở đây cũng có thể nhìn thấy thứ gánh hàng rong đó.
Nơi này có ai có thể ăn hoành thánh của gã?
Gánh hoành thánh vừa đặt xuống, bên ngoại lại vang lên tiếng rao bán, một người dùng tiếng Tô Hàng rao:
- Bánh bột lọc chấm đường đây, bánh bột lọc nhân đậu xanh đậu đỏ đây.
Bao nhiêu thứ bánh bột lọc đó đều là món ăn chơi ưa thích nhất ở đất Tô Hàng.
Nhưng gã làm sao có thể đem đến tận đây để bán?
Người đến cũng không chỉ có hai người đó.
Theo sau bọn họ còn có người bán dưa muối, bán rượu, bán bánh tai heo Hồ Bắc, bán bánh bột chiên, bán bánh bò Sơn Đông, bán bánh bột nhào đường Phúc Châu, bán bánh bột gạo Lĩnh Nam, bán vịt quay, bán bánh da lợn, bán chè tào hủ, bán sữa đậu nành Bắc Kinh, ngũ hoa bát môn, đủ các thức các dạng hàng gánh, dùng đủ các thức các dạng lời rao từ nam chí bắc, từ bốn phương tám hương đổ vào một khoảnh đất trống sáng choang ánh đèn đó.
Phiến bình địa đột nhiên biến thành nhiệt náo, giống như tụ tập đình đám vậy.
Triệu Vô Kỵ ngây người.
Chàng chưa từng nhìn thấy bao nhiêu gánh hàng rong bán đồ ăn như vậy, càng không tưởng được bọn họ có thể đến đây.
Bọn họ đến đây làm gì?
Ở đây có ai có thể ăn đồ ăn bọn họ bán?
Không ai ăn, bọn họ chừng như chuẩn bị tự mình ăn.
Nhưng trước khi bọn họ bắt đầu ăn uống, mỗi người đều bưng đồ mình bán, chọn ra một phần ngon lành nhất dâng cho chủ nhân thần bí trong cỗ xe ngựa thần bí.
Người bán hoành thánh trước hết bưng một chén hoành thánh bốc khói đằng đằng đi tới, quỳ ngoài cửa xe cung cung kính kính nói:
- Đây là chút ý tứ đệ tử hiếu kính chủ nhân, cung chúc chủ nhân thân thể khang kiện, mọi sự như ý.
Chủ nhân chỉ mỉm cười gật gật đầu, cả một tiếng “cám ơn” cũng không nói ra.
Nhưng người bán hoành thánh đã cảm kích muốn chết, cao hứng muốn chết, bởi vì gã đã nhìn thấy nụ cười mỉm của chủ nhân.
Sau đó người bán bánh bột lọc, bán dưa muối, bán rượu, bán tào hủ chiên, bán bánh bột nhào đường... từng người từng người đều đi qua, đều quỳ xuống dùng tiếng nói quê hương của mình nói vài lời cảm kích chúc tụng chủ nhân của bọn họ.
Nghe tiếng của bọn họ, nam bắc đều có, hiển nhiên không phải cùng đến từ một nơi.
Bọn họ không hẹn mà đến, khôn ngại đường xa vạn dặm mà đến đây, lẽ nào chỉ vì muốn dâng một chén hoành thánh, một cái bánh ngọt?
Triệu Vô Kỵ càng cảm thấy kỳ quái!
Đợi đến khi chàng nhìn thấy một lão thái bà bán đậu phộng rang bưng một dĩa đậu phộng tới, chàng cơ hồ nhịn không được muốn kêu lên.
Lão thái bà bán đậu phộng rang đó không ngờ chính là “Kim Cung Ngân Tiễn”
Hắc Bà Bà danh chấn giang hồ.
Hắc Bà Bà lại chừng như căn bản không nhìn thấy chàng, càng không nhận ra chàng, cung cung kính kính quỳ dưới đất, hiến xuất lễ vật của mình, đổi lấy nụ cười mỉm của chủ nhân, cảm kích muôn phần lui ra.
Triệu Vô Kỵ cũng chỉ còn nước miễn cưỡng kềm chế sự hiếu kỳ của mình. Chàng luôn là người rất có gia giáo, chàng không chịu thất lễ trước mặt vị chủ nhân hiếu khách đó.
Lúc đó bọn gánh hàng rong đã bắt đầu ăn uống, ngươi uống rượu của ta, ta ăn hoành thánh của ngươi trừ, ăn uống cực kỳ thống khoái. Cách ăn uống đó quả thật lý thú, thống khoái hơn xa ngồi ăn một bàn đầy vi cá.
Bọn họ không những đều quen biết nhau, hơn nữa chừng như là bằng hữu rất thân.
Mọi người không khác gì là vì sinh hoạt phải bôn ba, rất khó gặp mặt được một lần, trong năm có một ngày nay mới có thể hoan tụ cùng một chỗ ăn uống no nê, hoan lạc tận hưởng rồi mới chia tay.
Kỳ quái là người bán hoành thánh tịnh không giống như bán hoành thánh, người bán bánh ngọt cũng không giống như bán bánh ngọt.
Thân phận của những người khác tuy không thể xác định, ít ra Triệu Vô Kỵ biết được Hắc Bà Bà tuyệt không phải là người bán đậu phộng rang.
Lẽ nào người khác cũng như bà ta, chỉ bất quá dùng gánh hàng rong để che giấu thân phận của mình.
Bọn họ bình thời làm gì?
Triệu Vô Kỵ uống vài chén rượu, ăn bánh tai heo Hồ Bắc, lại ăn bảy tám món tạp nhạp khác, đều là những món mà ngày thường chàng tuyệt đối không có cách nào ăn cùng một lúc được.
Chủ nhân nhìn chàng, trong mắt chứa chan vẻ vui mừng:
- Ta thích người trẻ tuổi có khẩu vị tốt, người cường tráng không để chuyện gì đè nặng tâm sự mới có thể có khẩu vị ngon lành được.
Lời nói của ông ta chừng như có chút kỳ quái, lại rất có đạo lý.
Ông ta lại hỏi Triệu Vô Kỵ:
- Ngươi xem bọn họ có phải rất lý thú không?
Triệu Vô Kỵ thừa nhận:
- Nhưng tôi còn chưa thấy chuyện gì lý thú, ăn mấy món này tịnh không thể coi là rất lý thú được.
Chủ nhân mỉm cười:
- Ngươi sẽ thấy.
Triệu Vô Kỵ còn chưa thấy chuyện gì lý thú, những người đó đã bỏ đi.
Trước khi đi, mỗi người lại hướng về vị chủ nhân thần bí đó cúi đầu chúc phước, sau đó cùng hô:
- Năm sau tái kiến!
Tiếng hô còn lòng vòng quanh màng nhĩ, người của bọn họ đã hoàn toàn đi hết, mấy cây đòn gánh mấy đồ đạc buôn bán bọn họ đem đến lại lưu lại hết, lẽ nào bọn họ vì say quá đã quên hết?
Tư Không Hiểu Phong nhịn không được phải hỏi:
- Ông sao không kêu bọn họ đem mấy vật đó đi?
Chủ nhân đáp:
- Đó vốn là bọn họ đặc biệt mang đến dâng cho ta, sao lại mang đi?
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Bọn họ tại sao lại muốn dâng cho ông những vật đó?
Chủ nhân đáp:
- Bởi vì bọn họ biết ta phải nuôi ba chục tùy tùng và tám trăm thớt ngựa.
Tư Không Hiểu Phong nhịn không được cười:
- Nhưng ông cần những vật đó làm gì? Lẽ nào ông cũng muốn đổi nghề đi bán hoành thánh?
Chủ nhân cũng cười.
Tới lúc đó, bên ngoài khu rừng lại vang lên thanh âm của người khác, giống như tiếng sấm sét vậy, chấn động mang tai.
Một người cười lớn nói:
- Ta biết ngươi nhất định đang ở đây, ngươi trốn không khỏi ta đâu.
o O o
[Đổ Quỷ]
Lúc tiếng cười mới vang lên, còn ở rất xa, tiếng cười vừa kết thúc, người đó đã đến trước mặt bọn họ.
Một đại hán cơ hồ còn cao hơn cả Hồ Cự, hai tay cầm hai cái bao bố có thể đủ để chứa một thạch gạo, trên lưng còn vác thêm một bao, lại giống hệt như một con yến tử từ trong khu rừng bay ra.
Triệu Vô Kỵ chỉ nhìn thấy bóng của hắn lóe lên một cái, người đó đã đứng bên ngoài cửa xe.
Nếu quả chàng không tận mắt nhìn thấy, chàng thật vô phương tin rằng một đại hán như vậy có thể có thân pháp linh xảo đến thế.
Khí trời tháng tư đã bắt đầu nóng, đại hán đó lại vận áo hồ cừu, đầu tóc rối bù như cỏ dại dùng một sợi dây thừng thắt giữ, trên đôi chân trần mang một đôi giày cỏ.
Chân của hắn còn chưa đứng yên, lại đã chỉ tay về hướng mũi chủ nhân cười lớn:
- Hảo tiểu tử, ngươi thật có hai tay, cả ta cũng không tưởng được năm nay ngươi lại chọn một nơi như vầy, không ngờ ở ngay bên đại lộ, không ngờ còn kêu đám đồ tử đồ tôn của ngươi giả làm mấy tên gánh hàng rong bán hoành thánh.
Đới với vị chủ nhân mà người người đều rất tôn kính, hắn lại không có một chút bộ dạng tôn kính nào.
Nhưng chủ nhân tịnh không trách cứ, trái lại chừng như lại cười rất khoan khoái:
- Ta cũng không tưởng được năm nay ngươi vẫn có thể tìm ra.
Đại hán đó cười:
- Hiên Viên Nhất Quang ta tuy đánh bạc đâu thua đó, nghề tìm người lại là thiên hạ đệ nhất!
Chủ nhân thốt:
- Nghề thua tiền của ngươi cũng là thiên hạ đệ nhất.
Hiên Viên Nhất Quang nói:
- Điểm đó cũng không phải là xạo.
Chủ nhân hỏi:
- Ngươi đã biết ngươi đánh bạc đâu thua đó, tại sao năm nay còn đến?
Hiên Viên Nhất Quang đáp:
- Mỗi một người đều có lúc đổi vận, năm nay vận xui của ta đã đi hết, đã đổi vận rồi.
Chủ nhân hỏi:
- Năm nay ngươi thật vẫn còn muốn đánh bạc?
Hiên Viên Nhất Quang đáp:
- Không đánh bạc thì là con cháu của con rùa đen.
Hắn chợt trút hết đồ trong ba cái bao lớn ra:
- Ta dùng những thứ này đánh bạc với ngươi đổi lại mấy cây đòn gánh mà đám đồ tử đồ tôn của ngươi lưu lại dưới đất.
Triệu Vô Kỵ lại ngây người.
Từ trong bao trút ra tuy cũng là đồ lắt nhắt, cái gì cũng có, lại không có cái nào là không mắc tiền.
Dưới đất kim quang lấp lánh, chân đèn cầy làm bằng vàng, lư hương vàng, tượng Bồ Tát vàng, mão vàng, dây thắt lưng vàng, vòng vàng, nhẫn vàng, chén vàng, chung vàng, bình vàng, thậm chí còn có cả bô vàng.
Một khi có thể nghĩ tới vật gì có thể dùng vàng đúc thành, trong bao của hắn đều không thiếu, có những vật còn khảm đầy minh châu bảo ngọc còn trân quý hơn cả hoàng kim.
Người đó có phải bị điên không?
Chỉ có người điên mới có thể dùng bao nhiêu hoàng kim đó đi đánh cá đổi mới dụng cụ buôn gánh bán bưng kia.
Không tưởng được chủ nhân không ngờ còn điên hơn, không ngờ lại nói:
- Ta không chơi.
Mặt Hiên Viên Nhất Quang lập tức biến thành như bị ai nhéo tai, hét lớn:
- Tại sao ngươi không cá?
Chủ nhân đáp:
- Bởi vì vốn của ngươi còn chưa đủ.
Ai cũng không thể nghĩ vốn của hắn còn chưa đủ, không tưởng được chính hắn trái lại cũng phải thừa nhận, cười khổ:
- Cho dù lần này vốn liếng ta mang đến còn thiếu một chút, ngươi cũng không thể không đánh bạc.
Chủ nhân hỏi:
- Tại sao?
Hiên Viên Nhất Quang đáp:
- Mười năm nay, ta không thắng ngươi được tới một lần, ngươi cũng nên cho ta một lần cơ hội chứ.
Chủ nhân không ngờ lại do dự, đắn đo một hồi rất lâu mới miễn cưỡng đồng ý:
- Được, ta cho ngươi một cơ hội!
Lời nói của ông ta còn chưa nói dứt, Hiên Viên Nhất Quang đã nhảy dựng:
- Mau, mang xí ngầu ra.
Xí ngầu đã chuẩn bị từ sớm, chừng như chủ nhân đã sớm biết hắn sẽ đến!
Xí ngầu dùng bạch ngọc khắc thành, chén đúc bằng hoàng kim.
Hiên Viên Nhất Quang lập tức phấn chấn tinh thần:
- Nhìn thấy ba hột xí ngầu đó là ta đã thống khoái, có thua cũng thống khoái.
Chủ nhân hỏi:
- Ai đổ trước?
Hiên Viên Nhất Quang đáp:
- Ta.
Chủ nhân hỏi:
- Chỉ có hai ta đổ, có phân nhà cái không?
Hiên Viên Nhất Quang đáp:
- Không phân.
Chủ nhân thốt:
- Vậy cho dù ngươi có đổ được “tứ ngũ lục”, ta vẫn có thể theo kịp.
Hiên Viên Nhất Quang nói:
- Được, ta đổ “tứ ngũ lục” xem ngươi làm sao mà theo.
Hắn thò tay bóc ba hột xí ngầu trong chén, dùng ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa giữ xí ngầu, gõ vào thành chén “đinh đinh đinh” ba tiếng, sau đó giơ lên cao, “keng keng keng” quăng xoáy vào lòng chén.
Thủ pháp của hắn vừa thuần thục, lại vừa đẹp mắt, chỉ nhìn thấy ba hột xí ngầu xoay động giữa lòng chén không ngừng.
Hột xí ngầu thứ nhất đã ngừng quay, là mặt “tứ”, hột thứ hai vừa ngưng, là mặt “lục”.
Hiên Viên Nhất Quang hét lớn một tiếng:
- Ngũ.
Hột xí ngầu thứ ba không ngờ đã ngã ra mặt “ngũ”, hắn không ngờ đã thật sự đổ ra “tứ ngũ lục”.
Ngoại trừ “báo tử” ba hột đồng điểm ra, “tứ ngũ lục” là lớn nhất.
Quăng xí ngầu muốn quăng ra “báo tử” đơn giản còn khốn khó hơn cả thiết thụ khai hoa.
Hiên Viên Nhất Quang cười lớn:
- Xem ra vận khí của ta thật đã đổi, lần này ta cho dù có muốn thua cũng không dễ gì.
Hắn chợt quay mặt nhìn Triệu Vô Kỵ, chợt hỏi:
- Ngươi có từng đổ xí ngầu không?
Triệu Vô Kỵ đương nhiên đã từng chơi.
Chàng tịnh không thể coi là một đứa bé ngoan, cờ bạc ngón nào chàng cũng đã từng chơi qua, chàng thường đem hết tiền lì xì đánh bạc thua trắng tay.
Chủ nhân hỏi:
- Ngươi có thể thay ta đổ một bàn được không?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Được.
Một khi chàng nghĩ chuyện tịnh không nhất định phải cự tuyệt, chàng có thể đáp một cách rất thống khoái: “Được”!
Chàng luôn luôn rất ít khi cự tuyệt yêu cầu của người ta.
Chủ nhân hỏi:
- Ta có thể nhờ hắn thay ta đổ bàn này không?
Hiên Viên Nhất Quang đáp:
- Đương nhiên có thể.
Chủ nhân hỏi:
- Nếu hắn đổ ra “báo tử”, ngươi cũng không hối hận chứ?
Hiên Viên Nhất Quang đáp:
- Nếu hắn có thể đổ ra “báo tử”, ta...
Chủ nhân hỏi:
- Ngươi làm sao?
Hiên Viên Nhất Quang đáp:
- Ta cho hắn tùy tiện làm gì cũng được.
Chủ nhân hỏi:
- Ý tứ của ngươi muốn nói hắn muốn ngươi làm gì, ngươi cũng làm cái đó?
Hiên Viên Nhất Quang đáp:
- Không sai.
Chủ nhân hỏi:
- Ngươi có biết câu nói đó vốn không thể tùy tiện nói ra không?
Hiên Viên Nhất Quang hỏi:
- Tại sao?
Chủ nhân đáp:
- Trước đây ta biết có một cô gái rất thích đánh cá với bằng hữu của ta, cũng thường thường thích nói câu đó!
Hiên Viên Nhất Quang hỏi:
- Kết quả ra sao?
Chủ nhân đáp:
- Kết quả nàng đã thành vợ của bằng hữu của ta.
Triệu Vô Kỵ bỗng cười cười:
- Nhưng ngươi có thể yên tâm, không cần biết ra sao, ta đều không thể bắt ngươi làm vợ ta.
Chàng cũng làm giống hệt Hiên Viên Nhất Quang, cũng bóc xí ngầu từ trong chén lên, cầm bằng ba ngón tay, “đinh đinh đinh” gõ vào thành chén, “keng keng keng”
quăng ba hột xí ngầu vào lòng chén, xoáy động không ngừng.
Hiên Viên Nhất Quang đinh đinh nhìn ba hột xí ngầu, ánh mắt thẳng đơ.
Chủ nhân đột nhiên thở dài:
- Ngươi lại thua rồi.
Câu nói đó vừa dứt lời, ba hột xí ngầu đã ngưng quay, không ngờ lại là ba mặt “lục”.
“Lục báo”, đó là chí tôn bảo trong trò đổ xí ngầu.
Hiên Viên Nhất Quang ngây người, ngây cả nửa ngày, chợt hét lớn một tiếng:
- Tức chết ta đi được!
Lăng không xoay ba vòng, hình lẫn bóng đều đã biến mất.
Hắn nói đi là đi, đi còn nhanh hơn cả đến, nếu không phải còn có chén vàng chung vàng vòng vàng nhẫn vàng mà hắn mang đến còn lưu lại dưới đất, chừng như căn bản không thể biết có một người như hắn vừa tới.
Tư Không Hiểu Phong nãy giờ một mực cười mỉm, tĩnh tọa ngồi kề bên xem xét, lúc đó mới mở miệng nói:
- Ta nhớ năm xưa trong “Thập Đại Ác Nhân” có “Ác Đổ Quỷ” Hiên Viên Tam Quang.
Đó đương nhiên cũng là chuyện trước đây từ rất lâu, rất lâu.
Vào thời đại đa tư đa thái đó, trong giang hồ anh hùng nổi dậy khắp nơi.
“Ác Đổ Quỷ” Hiên Viên Tam Quang, “Huyết Thủ” Đỗ Sát, “Bất Ngật Nhân Đầu”
Lý Đại Chủy, “Bất Nam Bất Nữ” Đồ Kiều Kiều, “Mê Tử Nhân Bất Bồi Mạng” Tiêu Mê Mê, “Tiếu Lý Tàng Đao” Cáp Cáp Nhi... còn có thiên hạ đệ nhất thông minh nhân là Tiểu Ngư Nhi và huynh đệ song sinh của hắn là Hoa Vô Khuyết, đều là nhân vật phong vân danh động thiên hạ đương thời.
Cho đến bây giờ, tên tuổi của bọn họ vẫn chưa bị quên lãng, ánh sáng của bọn họ còn chưa tiêu tán hết.
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Nhưng ta lại không biết trong giang hồ có người tên là Hiên Viên Nhất Quang.
Chủ nhân mỉm cười:
- Ngươi đương nhiên không thể biết hắn.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Sao vậy?
Chủ nhân đáp:
- Bởi vì ngươi không đánh bạc.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Hắn cũng là Đổ Quỷ?
Chủ nhân đáp:
- Hắn còn hung hơn so với Hiên Viên Tam Quang thuở trước, cũng thua nhiều hơn so với Hiên Viên Tam Quang.
Tư Không Hiểu Phong thừa nhận:
- Hắn quả thật có thể thua.
Chủ nhân thốt:
- Hiên Viên Tam Quang phải đợi đến trời sáng rõ, lúc không còn ai hết, tiền mới có thể thua sạch.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Còn hắn?
Chủ nhân đáp:
- Trời còn chưa sáng, người cũng còn chưa hết, tiền của hắn đã thua sạch, hơn nữa một lần là thua sạch bách.
Tư Không Hiểu Phong thốt:
- Cho nên hắn tên là Hiên Viên Nhất Quang.
Chủ nhân mỉm cười:
- Lẽ nào ngươi còn có thể kiếm cho hắn một cái tên hay hơn?
Tư Không Hiểu Phong cũng cười:
- Ta không thể.
Chủ nhân lại hỏi Triệu Vô Kỵ:
- Con người của hắn có phải có rất nhiều tiền không?
Triệu Vô Kỵ chỉ còn nước thừa nhận:
- Phải.
Chủ nhân thốt:
- Hắn nhất định cũng không thể quên ngươi, người có thể quăng ra ba mặt xí ngầu đồng điểm tất càng không có nhiều.
Triệu Vô Kỵ nói theo:
- Người như vậy quả thật không có quá nhiều.
Chủ nhân thốt:
- Có thể tìm được ngươi đổ xí ngầu cho ta là vận khí của ta, ta đương nhiên cũng nên tưởng thưởng ngươi một chút.
Triệu Vô Kỵ cũng không phản đối.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 24-10-2012 12:33:56 | Chỉ xem của tác giả
Chủ nhân thốt:
- Những cây đòn gánh bên kia ngươi có thể tùy tiện chọn vài cây mà mang đi.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Được.
Chàng tịnh không hỏi:
- Ta không bán hoành thánh, tại sao lấy đòn gánh làm gì?
Chàng nghĩ thứ chuyện đó không cần thiết phải cự tuyệt, cũng không đáng để hỏi.
Chủ nhân nhìn chàng, trong ánh mắt lim dim có vẻ tán thưởng, lại nói:
- Ngươi có thể chọn năm cây.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Được.
Chàng lập tức bước qua, tùy tiện cầm một cây đòn gánh lên, vừa cầm lên, trên mặt đã lộ xuất nét kinh dị.
Cây đòn gánh đó nặng khủng khiếp, chàng cơ hồ cầm không nổi.
Chàng lại chọn một cây khác, biểu tình trên mặt càng kinh hãi, nhịn không được phải hỏi:
- Những cây đòn gánh này lẽ nào đều đúc bằng vàng?
Chủ nhân đáp:
- Tất cả.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Là thuần kim?
Chủ nhân đáp:
- Thuần kim vàng mười.
Không những đòn gánh đúc bằng thuần kim, những thứ khác cũng vậy, cho dù không phải là thuần kim, cũng là thuần ngân.
Triệu Vô Kỵ bây giờ mới biết Hiên Viên Nhất Quang tịnh không điên, chủ nhân cũng không điên, điên chính là đám gánh hàng rong kia.
Chủ nhân cười cười:
- Kỳ thật bọn họ cũng không điên.
Triệu Vô Kỵ hỏi lại:
- Không?
Chủ nhân đáp:
- Bọn họ biết ta phải nuôi ba mươi tùy tùng và tám trăm thớt ngựa, cũng biết ta chỉ có chi mà hoàn toàn không có thu nhập, cho nên ngày hôm nay mỗi năm bọn họ đều dâng vài thứ cho ta.
Bọn họ đương nhiên không phải làm nghề bán hoành thánh, bán hoành thánh ba trăm năm cũng không đủ tiền đúc thành một cây đòn gánh như vầy.
Chủ nhân nói:
- Trước đây bọn họ đều là bộ hạ cũ của ta, hiện tại lại đã trở thành thương nhân hết.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Xem ra nghề bọn họ làm nhất định không tệ.
Chàng tịnh không muốn hỏi quá nhiều, cũng không muốn biết quá nhiều.
Chủ nhân lại hỏi chàng:
- Ngươi biết Hắc Bà Bà?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Nhận ra.
Chủ nhân hỏi:
- Ngươi có biết bà ta làm nghề gì không?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Không biết.
Chủ nhân hỏi:
- Ngươi cũng không muốn biết?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Không muốn!
Chủ nhân hỏi:
- Tại sao không muốn?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Mỗi người đều có quyền bảo vệ chuyện riêng tư của mình, tôi tại sao lại muốn biết?
Chủ nhân lại cười:
- Bọn họ cũng không muốn để người ta biết, cho nên bọn họ mỗi năm lúc đến nơi, hành tung đều rất bí mật.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Tôi đã thấy.
Chủ nhân nói:
- Chỗ bọn ta mỗi năm tụ hội cũng rất ổn mật, hơn nữa mỗi năm đều đổi chỗ.
Triệu Vô Kỵ trầm tư, chợt thốt:
- Nhưng Hiên Viên Nhất Quang mỗi năm đều tìm ra ông.
Chủ nhân nói:
- Đó là canh bạc lớn hàng năm của hắn, hắn chưa từng bỏ lỡ!
Triệu Vô Kỵ mỉm cười:
- Nghề thua tiền của hắn thật không tệ.
Chủ nhân thốt:
- Đâu chỉ là không tệ, đơn giản là thiên hạ đệ nhất.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Nghề tìm người của hắn cũng là thiên hạ đệ nhất.
Chủ nhân đáp:
- Tuyệt đối.
Ánh mắt của Triệu Vô Kỵ phát sáng, lại cúi đầu tùy tiện chọn năm cây đòn gánh, dùng hai tay ôm lấy bước tới.
Năm cây đòn gánh nặng quá nặng.
Chủ nhân nhìn chàng, điềm đạm cười:
- Nếu quả Hiên Viên Nhất Quang muốn tìm một người, tùy tiện người đó có trốn ở đâu, hắn cũng có cách tìm ra, chỉ tiếc người khác muốn tìm hắn lại rất khốn khó.
Triệu Vô Kỵ chừng như căn bản không nghe thấy ông ta nói gì, chầm chậm đem đòn gánh để xuống, chợt nói:
- Ngựa của tôi tuy không phải là thứ Đại Uyển danh chủng, nhưng tôi cũng không muốn đè nó chết.
Chủ nhân lập tức hiểu ý chàng:
- Năm cây đòn gánh này có thể đè nó chết?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Năm cây đòn gánh đó thậm chí có thể đè tôi chết!
Chủ nhân lại cười:
- Ngươi đương nhiên chưa muốn chết.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Cho nên tôi hiện tại chỉ còn nước lưu chúng lại ở đây, nếu quả đến lúc tôi cần dùng, tôi nhất định đến lấy.
Chủ nhân hỏi:
- Ngươi có thể tìm ra ta?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Cho dù tôi tìm không ra, ông cũng nhất định có cách có thể để tôi tìm ra.
Chủ nhân hỏi:
- Ngươi có phải luôn luôn rất ít khi cự tuyệt người khác?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Rất ít khi.
Chủ nhân thở dài:
- Vậy ta chừng như cũng không có cách nào cự tuyệt ngươi.
Triệu Vô Kỵ ngẩng đầu, ngưng thị nhìn ông ta:
- Cho nên ông nhất định phải nghĩ cách để cho tôi có thể lúc nào cũng tìm ra ông.
Chủ nhân lại cười, quay về phía Tư Không Hiểu Phong:
- Người trẻ tuổi đó xem chừng có vẻ thông minh như ngươi.
Tư Không Hiểu Phong mỉm cười:
- Hắn đích xác không khờ dại!
Chủ nhân nói:
- Ta thích người thông minh, ta luôn hy vọng người thông minh có thể sống lâu.
Câu nói của ông ta rất kỳ quái, trong đó phảng phất bao hàm thâm ý gì đó.
Triệu Vô Kỵ cũng nghe không hiểu cho lắm.
Chủ nhân chợt lấy cái chuông vàng đặt trên chỗ dựa tay xuống, trao cho chàng:
- Lúc ngươi muốn tìm ta, chỉ cần rung cái chuông đó, rung bảy lần, sẽ có người dẫn ngươi đến gặp ta.
Triệu Vô Kỵ không hỏi nữa, lập tức đem chuông vàng cất kỹ trong người.
Trên mặt Tư Không Hiểu Phong lộ xuất nụ cười mỉm mãn nguyện.
Lúc đó, xa xa có tiếng trống canh truyền đến, là canh hai.
Triệu Vô Kỵ lại chừng như cảm thấy rất kỳ quái.
Tiếng trống canh đó tuy rất xa, nhưng lọt vào tai lại ngân vang, nghe chừng như có người đang gõ chiêng ngay sát tai.
Chàng nhịn không được phải hỏi:
- Hiện tại thật còn chưa đến canh ba sao?
Không có ai trả lời chàng.
Tất cả ánh đèn đều đã hoàn toàn tắt phụt.
Cánh rừng lại lập tức biến thành một màn hắc ám, từ tánh đèn trong thùng xe hắt ra, ẩn ước có thể nhìn thấy có một đoàn người bước tới, còn khiêng theo một cái rương rất lớn.
Nhìn từ xa, đó có phải là một cái rương? Hay là một cỗ quan tài?
Chủ nhân chợt thở dài, lẩm bẩm:
- Y chung quy cũng đã đến.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ai đến?
Trên mặt chủ nhân lộ xuất một biểu tình rất kỳ quái, qua một hồi rất lâu mới đáp từng tiếng:
- Là người chết.
Người chết thông thường đều nằm trong quan tài.
Cái rương đó quả nhiên không phải là rương, mà là một cỗ quan tài.
Tám hắc y nhân vừa gầy vừa cao khiêng cỗ quan tài đen sì đó bước đến.
Trên quan tài không ngờ còn có một người ngồi, một tiểu hài tử mới mười mấy tuổi, vận y phục trắng như tuyết.
Đợi đến khi ánh đèn rọi trên mặt đứa bé, Triệu Vô Kỵ thất kinh.
Đứa bé đó không ngờ chính là đứa bé hồi nãy dẫn chàng đến, chỉ bất quá đã thay y phục trắng như tuyết!
Nó tại sao lại đột nhiên ngồi trên quan tài? Triệu Vô Kỵ còn chưa nghĩ ra, bên cạnh đã có người nắm chéo áo chàng, nhẹ nhàng hỏi:
- Ông nhìn đứa bé ngồi trên quan tài xem có phải giống tôi không?
Triệu Vô Kỵ lại giật mình. Đứa bé nắm áo chàng mới là tiểu hài tử hồi nãy dẫn chàng đến, trên người vẫn vận bộ y phục đỏ tươi.
Hai đứa bé không ngờ lại giống hệt nhau.
“Tung! Tung!”
Tiếng trống canh lại vang lên, Triệu Vô Kỵ chung quy đã nhìn thấy người đánh trống canh, khuôn mặt trắng nhợt, áo xanh quần trắng giày bố, trong tay cầm cái chiêng nhẹ, khúc tre gõ chiêng, và một đoản trượng màu trắng.
“Đoạt Mệnh Canh Phu” Liễu Tam Canh cũng đã đến!
Y không nhìn thấy Triệu Vô Kỵ, y cái gì cũng không thấy.
Y còn đang chuyên tâm gõ chiêng canh.
Hiện tại tuy còn chưa đến canh ba, nhưng đã quá canh hai, canh ba đâu còn xa mấy.
Phải đợi đến lúc nào mới là canh ba?
Lần này y chuẩn bị đoạt hồn ai?
Tiểu hài tử vận bạch y đoan đoan chính chính ngồi thẳng như ngọn bút trên quan tài, cả động cũng không động.
Tiểu hài tử vận hồng y đang cười cười nhìn nó.
Nó làm mặt nghiêm, không thèm để ý đến.
Tiểu hài tử vận hồng y xông đến trước mặt nó làm mặt xấu.
Nó quay đầu đi, cả nhìn cũng không nhìn.
Hai đứa bé tuy giống hệt nhau, nhưng tính khí chừng như hoàn toàn bất đồng.
Triệu Vô Kỵ chung quy nhịn không được, len lén hỏi:
- Ngươi biết nó?
“Đương nhiên là biết”. Tiểu hài tử vận hồng y đáp.
Triệu Vô Kỵ lại hỏi:
- Nó là huynh đệ của ngươi?
- Nó là đối đầu của tôi.
Triệu Vô Kỵ càng kinh hãi:
- Các ngươi còn là con nít, làm sao lại biến thành đối đầu?
Tiểu hài tử vận hồng y đáp:
- Bọn tôi là đối đầu trời sinh, vừa sinh ra là đã đối đầu.
Triệu Vô Kỵ lại hỏi:
- Trong quan tài là người nào vậy?
Tiểu hài tử thở dài:
- Ông sao càng lúc càng khờ vậy, trong quan tài đương nhiên là người chết, ông lẽ nào cả chuyện như vậy mà cũng không biết?
Quan tài đã đặt xuống, đặt bên ngoài cửa xe, quan tài đen sì, đang lấp lánh phát sáng dưới ánh đèn.
Không phải là ánh sáng của lớp sơn bóng!
Cỗ quan tài đó lẽ nào cũng giống như mấy cây đòn gánh? Cũng là dùng hoàng kim đúc thành?
Tám hắc y nhân khiêng quan tài tuy mặt mày lạnh như sắt, hoàn toàn không có một chút biểu tình, nhưng trên trán lại lấm tấm mồ hôi.
Cỗ quan tài đó hiển nhiên rất nặng, chừng như thật là dùng vàng ròng đúc thành.
Bọn họ dùng một cỗ quan tài hoàng kim khiêng một người chết đến đây làm gì?
Tiểu hài tử vận bạch y vẫn đang ngồi trên quan tài, đột nhiên hướng về phía Liễu Tam Canh vẫy tay.
Liễu Tam Canh giống như có thể nhìn thấy vậy, lập tức đi tới, rùn hông xuống.
Tiểu hài tử vận bạch y chầm chậm đứng lên, không ngờ một chân bước với ra, đứng trên vai y.
Đoạt Mệnh Canh Phu danh động giang hồ xem ra lại tôn kính úy sợ tiểu hài tử đó thập phần, để cho nó đứng trên vai mình, cả một chút dáng vẻ không cao hứng cũng không có.
Tiểu hài tử vận hồng y lại thì thầm với Triệu Vô Kỵ:
- Ông có tin không, từ lúc hắn sinh ra cho tới nay, trên chân hắn chưa từng dính qua một chút đất cát.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Ta tin.
Tiểu hài tử vận hồng y thở dài:
- Nhưng chân tôi lại toàn đất cát.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Ta thích con nít trên chân dính đầy đất cát, ta hồi còn nhỏ trên mặt cũng đầy đất cát.
Tiểu hài tử vận hồng y lại cười, chợt nắm tay chàng:
- Tôi cũng thích ông, tuy ông có lúc biến thành khờ khạo, tôi vẫn thích ông.
Triệu Vô Kỵ cũng muốn cười, lại cười không nổi.
Nắp quan tài đã được khiêng xuống, một người nằm thẳng như ngọn bút trong quan tài, song thủ xếp chéo, đặt trên lồng ngực, y phục trắng như tuyết không nhiễm chút bụi trần, trên khuôn mặt trắng nhợt khô cằn cả một chút huyết sắc cũng không có, nhìn giống như đã chết từ rất lâu, đã biến thành cứng ngắc.
Quan tài đen sì, người chết trắng nhợt, dưới ánh đèn ảm đạm mà nhìn càng hiển lộ vẻ quỷ dị khủng bố.
Bọn họ vì sao phải mở cỗ quan tài đó ra? Lẽ nào muốn để thi thể lạnh cứng đó nhìn thấy vị chủ nhân này? Hay là muốn để vị chủ nhân này nhìn thấy thi thể lạnh cứng đó?
Cương thi lạnh cứng nhắm mắt.
Cương thi cũng không không có gì đáng nhìn.
Nhưng chủ nhân lại đích xác đang nhìn thi thể, đột nhiên thở dài:
- Một năm cuối cùng đã trôi qua, ngươi vẫn khỏe chứ?
Ông ta không ngờ đang nói chuyện với cương thi đó.
Lẽ nào cương thi cũng có thể nghe?
Cương thi không những có thể nghe, hơn nữa còn có thể trả lời, đột nhiên đáp:
- Ta không khỏe.
Nghe ba chữ phát ra từ miệng của cương thi đó, cả Tư Không Hiểu Phong cũng giật mình.
Lão không thể không nhớ đến trong truyền thuyết cổ xưa thần bí, có cố sự cương thi phá quan tài sống lại.
Cương thi lại hỏi:
- Còn ngươi?
Chủ nhân đáp:
- Ta cũng không khỏe.
Cương thi bỗng thở dài:
- Tiêu Đông Lâu, ngươi đã hại ta, ta cũng đã hại ngươi.
Cho đến bây giờ Triệu Vô Kỵ mới biết vị chủ nhân thần bí đó tên là Tiêu Đông Lâu.
Cương thi đó lại là ai? Thanh âm của y tuy lạnh lạnh khàn khàn, lại mang theo một thứ bi thương và hối hận khôn tả.
Một người nếu thật đã chết, thật đã biến thành thi thể, không thể có thứ tình cảm đó.
Nhưng y xem ra rõ ràng là người chết, hoàn toàn không có một chút sinh khí, càng không còn một chút sinh cơ.
Y cho dù có còn sống, cũng vị tất là y còn muốn sống.
Bởi vì y đã không còn sinh thú.
Tiêu Đông Lâu luôn luôn nở nụ cười mỉm trên mặt, giữa giây phút đó cũng biến thành ngập tràn niềm hối hận bi thương, nhưng ông ta lập tức lại cười, mỉm cười nói:
- Ta biết ngươi vừa đến là có thể nói ra tên của ta.
Cương thi thốt:
- Ngươi nếu không chịu để người khác biết danh tánh của ngươi, ta có thể giết hết những người nghe thấy ba chữ đó.
Tiêu Đông Lâu nói:
- Ngươi biết bọn họ là ai không?
Cương thi đáp:
- Không cần biết bọn họ là ai cũng vậy.
Y cả đôi mắt cũng không mở ra, thiên hạ căn bản không có người nào có thể được y để trong mắt.
Nhưng chính y lại chỉ bất quá là một thi thể nằm trong quan tài, quanh năm không thấy ánh dương.
Triệu Vô Kỵ bỗng cười lên. Tiếng cười đâm thọc vào màng nhĩ.
Chàng chưa bao giờ chịu cự tuyệt hảo ý của người khác, cũng chưa bao giờ chịu để người khác coi thường.
Cương thi tuy đang nhắm mắt, tai lại không điếc, đương nhiên nghe thấy tiếng cười của chàng.
Cương thi quả nhiên hỏi:
- Ngươi đang cười ai đó?
Triệu Vô Kỵ trả lời rất thẳng thừng:
- Cười ngươi!
Cương thi hỏi:
- Ta có gì đáng cười?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Ngươi nói chuyện không những đáng cười, đơn giản rất hoạt kê.
Trong đôi mắt của cương thi đột nhiên bắn ra một luồng ánh sáng còn chói hơn cả ánh chớp, vô luận là ai đều tuyệt không thể tưởng được một người nằm chết như vậy còn có đôi mắt phát sáng như vậy.
Đôi mắt đó đang trừng trừng nhìn Triệu Vô Kỵ.
Triệu Vô Kỵ không ngờ cũng đang trừng trừng nhìn đôi mắt đó, sắc mặt không ngờ không có tới một chút biến động.
Cương thi hỏi:
- Ngươi biết ta là ai không?
Triệu Vô Kỵ lạnh lùng đáp:
- Không cần biết ngươi là ai cũng vậy.
Câu nói đó vừa nói xong, thi thể đã đứng bật dậy.
Trên dưới toàn thân của y cả động cũng không động, ai cũng không nhìn ra y làm sao mà đứng lên được.
Y đã không nhún chân, cũng không nhấc cẳng, nhưng người y đột nhiên trong phút chốc đã bay ra ngoài quan tài, thò đôi tay to lớn gầy gò toàn xương với da ra, phách không một trảo, bao nhiêu kiện kim khí đều bay vào tay y.
Bình vàng, chén vàng, chung vàng, đều là thuần kim, lọt vào tay y lại biến thành như bùn sình, bị y tùy tùy tiện tiện bóp nắn, mới đó đã thành một cây kim côn, nghênh gió rung rung, đứng thẳng như ngọn bút.
Lòng bàn tay của Triệu Vô Kỵ toát mồ hôi lạnh.
Chứng kiến khí công và chưởng lực như vậy, nếu quả nói không sợ chút nào thì thật là nói láo.
Chỉ bất quá chàng cho dù sợ muốn chết cũng tuyệt không thoái lui bỏ trốn.
Cương thi lại hỏi:
- Hiện tại ngươi có tin ta lúc nào cũng có thể giết chết ngươi không?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Ta tin.
Cương thi hỏi:
- Hồi nãy ngươi cười ai?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Là ngươi.
Cương thi đột nhiên ngửa mặt lên trời rú một tiếng, một côn đâm tới, tốc độ và lực lượng của một côn đó, thiên hạ tuyệt không có một ai có thể tránh né khỏi.
Nhưng một côn đó tịnh không đâm lên người Triệu Vô Kỵ.
Người y đâm là Tiêu Đông Lâu.
Tiêu Đông Lâu đương nhiên càng vô phương né tránh.
Chỉ thấy kim quang lấp lóe, lần dọc theo tay chân ông ta điểm xuống thiếu dương huyệt, trong phút chốc đã điểm vào sáu mươi bốn huyệt đạo lớn nhỏ trước mình ông ta.
Kim côn đột nhiên lại phóng lên, vun vút bao quanh người ông ta, lại phản thủ điểm luôn sáu mươi bốn huyệt đạo sau lưng ông ta, tốc độ của thủ pháp cực nhanh, không những làm kinh hãi mọi ngươi, đơn giản không thể tưởng tượng được.
Trên thân người ba mươi sáu đại huyệt và bảy mươi ba tiểu huyệt vốn là chỗ yếu hại trí mệnh, dưới thứ thủ pháp đó, chỗ nào cũng đều là chỗ yếu hại.
Nhưng Tiêu Đông Lâu tịnh không chết.
Ông ta nhẹ nhàng như một chiếc lá rơi lạc trên cái võng mềm mại, trên mặt trái lại hiển lộ một thứ biểu tình rất thư thái, giống như vừa mới khỏi bệnh, lại giống như vừa mới đặt được một gánh cực nặng xuống.
Sau đó ông ta mới thở phào một hơi, lẩm bẩm:
- Xem ra ta lại có thể chịu đựng thêm một năm nữa.
Cương thi hỏi:
- Còn ta?
Tiêu Đông Lâu đáp:
- Một khi ta chưa chết, ngươi không thể chết.
Cương thi thốt:
- Bởi vì ngươi biết chỉ có ta mới có thể bảo trụ được cái mạng của ngươi.
Tiêu Đông Lâu nói:
- Một điểm đó ta tuyệt không quên.
Cương thi hỏi:
- Giải dược ở đâu?
Tiêu Đông Lâu chầm chậm thò tay ra, trong tay có một bình sứ hoa hòe nho nhỏ.
Uống thuốc trong bình sứ xong, trên mặt cương thi cũng có biểu tình y hệt như Tiêu Đông Lâu.
Sau đó y lại tiến vào quan tài, nằm thẳng xuống như ngọn bút, nhắm mắt lại, phảng phất như đã ngủ.
Tiểu hài tử vận hồng y một mực nắm chặt tay Triệu Vô Kỵ, chừng như sợ chàng không nhịn được, càng sợ chàng nhiều chuyện.
Đợi đến khi thi thể đã nằm xuống, nó mới an tâm, len lén nói:
- Hồi nãy tôi thật hơi sợ.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Sợ cái gì?
Tiểu hài tử vận hồng y đáp:
- Sợ ông xông qua cứu sư phụ tôi, chỉ cần ông xuất thủ là đã hại ông ta.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Tại sao?
Tiểu hài tử vận hồng y đáp:
- Tôi cũng không rõ lắm, tôi chỉ biết chân khí của ông ta bị nghẽn, nếu không có thủ pháp độc môn của thi thể đả thông cho ông ta là không được, bởi vì thân thể của ông ta mềm nhũn, căn bản không có cách nào tự đả thông chân khí mình, ngoại trừ cương thi đó ra, tuyệt đối không còn bất cứ một ai có thể một hơi đả biến một trăm hai mươi tám huyệt đạo trên toàn thân ông ta.
Nó nghĩ ngợi, lại nói:
- Quan trọng nhất là một hơi đó tuyệt không thể ngưng, vừa ngưng là không có cách cứu.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Đó là bí mật của sư phụ ngươi, ngươi vốn không nên nói cho ta biết.
Tiểu hài tử vận hồng y đáp:
- Bọn ta đã là bằng hữu, tôi tại sao không thể nói cho ông nghe.
Triệu Vô Kỵ không nói gì nữa.
Chàng là người rất dễ cảm động, lúc chàng bị cảm động, luôn luôn nói không nên lời.
Tiểu hài tử vận hồng y chớp chớp mắt, chợt hỏi:
- Nếu quả hồi nãy cương thi đó lại hỏi ông hồi nãy ông cười ai, ông sẽ trả lời làm sao?
Triệu Vô Kỵ đáp không do dự:
- Ta đang cười y.
Tiểu hài tử vận hồng y lại hỏi:
- Ông có nhìn thấy lúc y điểm huyệt là dùng thủ pháp gì không?
Triệu Vô Kỵ hỏi lại:
- Có phải là kiếm pháp?
Tiểu hài tử vận hồng y đáp:
- Không sai, là kiếm pháp, có thể dùng kiếm pháp để điểm huyệt tịnh không phải là chuyện dễ.
Triệu Vô Kỵ thừa nhận.
Kiếm pháp khinh linh lưu động, rất khó lòng điểm trúng huyệt đạo của người ta.
Tiểu hài tử vận hồng y nói:
- Ông có bao giờ nhìn thấy kiếm pháp nhanh như vậy không?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Chưa bao giờ.
Chàng lại bổ sung:
- Ta cũng chưa bao giờ nhìn thấy kiếm pháp chuẩn như vậy, không những có thể trong một hơi đâm ra một trăm hai mươi tám kiếm, hơn nữa mỗi một kiếm đều chuẩn xác điểm vào huyệt đạo, không sai một ly.
Tiểu hài tử vận hồng y hỏi:
- Ông có phải cũng bội phục y?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Ta chỉ bội phục kiếm pháp của y.
Tiểu hài tử vận hồng y cười:
- Ông có biết tôi tại sao lại thích ông không?
Nó tin rằng Triệu Vô Kỵ cho dù có biết cũng không nói ra.
Cho nên nó tự nói ra:
- Con người ông đầu cổ thiệt cứng ngắc, cứng muốn chết!
Triệu Vô Kỵ tịnh không phản đối, một điểm đó vốn là điểm chàng thường kiêu ngạo.
Tiểu hài tử vận hồng y chợt lại hỏi:
- Ông xem đứa bé kia có phải luôn luôn trừng mắt nhìn tôi không?
Triệu Vô Kỵ cũng đã sớm chú ý đến điểm đó.
Tiểu hài tử trên chân không dính chút cát bụi một mực dùng đôi mắt to tròn sáng loáng trừng trừng nhìn bọn họ.
Tiểu hài tử vận hồng y nói:
- Hắn nhất định tức chết!
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Nó tức cái gì?
Tiểu hài tử vậy hồng y đáp:
- Bởi vì hắn đang đợi tôi, tôi lại ở đây nói huyên thuyên với ông.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Nó đợi ngươi làm gì?
Tiểu hài tử vận hồng y đáp:
- Nó đang đợi đánh với tôi.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Đánh?
Tiểu hài tử vận hồng y đáp:
- Sư phụ của hắn đến đây ngoài việc cần giải dược ra, còn là vì muốn hắn đánh với tôi!
Tiểu hài tử vận hồng y lại cười:
- Bọn tôi từ lúc tám tuổi đã bắt đầu mỗi năm đánh một lần, đánh đã được năm năm rồi.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Các ngươi tại sao lại phải đánh?
Tiểu hài tử vận hồng y đáp:
- Bởi vì sư phụ của hắn và sư phụ của tôi đã vô phương đánh nhau nữa, cho nên bọn họ đồng thời thu đồ đệ, sư phụ đã không có cách nào đánh nhau nữa, thì phải kêu đồ đệ đánh, đồ đệ của ai thắng thì người đó thắng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 24-10-2012 12:46:01 | Chỉ xem của tác giả

Triệu Vô Kỵ nhìn nó, lại nhìn tiểu hài tử trên chân chưa bao giờ nhuốm cát bụi, nhịn không được phải hỏi:
- Các ngươi có phải là huynh đệ không?
Tiểu hài tử vận hồng y nghiêm mặt:
- Bọn tôi không phải là huynh đệ, bọn tôi là đối đầu trời sinh.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Nó đã đang đợi ngươi, tại sao không kêu ngươi qua?
Tiểu hài tử vận hồng y đáp:
- Bởi vì hắn giả như một người rất có phong độ, hơn nữa rất có tu dưỡng, rất kiên nhẫn.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Cho nên ngươi hiện tại cố ý muốn kích thích làm cho nó tức tối.
Tiểu hài tử vận hồng y nói:
- Hắn học kiếm pháp, tôi học nội lực, nếu quả tôi không chọc tức hắn, chỉ sợ đã bị hắn đả bại năm lần rồi.
Triệu Vô Kỵ đã hiểu rõ ý tứ của đứa bé.
Học kiếm trọng mẫn ngộ, nội lực trọng căn cơ, hai ngươi tuy là cùng một mục tiêu nhưng cách thức đường lối khác nhau, tiến độ học kiếm luôn luôn nhanh hơn, nhưng không cần biết học cái gì, đang lúc giao thủ đều không thể nổi nóng.
Nổi nóng là có thể tạo thành sơ xuất, không cần biết sơ xuất nhỏ cỡ nào đều có thể trở thành trí mệnh.
Tiểu hài tử vận bạch y lại có chút nhẫn nhịn không được, đột nhiên hét lớn:
- Ê!
Tiểu hài tử vận hồng y không thèm để ý tới nó.
Thanh âm của tiểu hài tử vận bạch y càng lớn:
- Ê, ngươi biến thành người điếc từ hồi nào vậy?
Tiểu hài tử vận hồng y chung quy đã quay đầu nhìn nó:
- Ngươi đang nói chuyện với ai đó?
Tiểu hài tử vận bạch y đáp:
- Với ngươi!
Tiểu hài tử vận hồng y nói:
- Ta không phải tên Ê.
Tiểu hài tử vận bạch y chợt nhún người, từ trên vai Liễu Tam Canh bay lên nóc xe:
- Không cần biết ngươi tên gì cũng vậy, ngươi qua đây!
Tiểu hài tử vận hồng y chung quy đã từ từ bước qua:
- Ta đã qua nè!
Tiểu hài tử vận bạch y thốt:
- Ngươi lên đây!
Tiểu hài tử vận hồng y lắc đầu:
- Ta không thể lên đó.
Áo trắng hỏi:
- Tại sao?
Áo đỏ đáp:
- Ta không thể đứng trên đầu sư phụ ta mà đấu với ngươi.
Nó cười cười, lại nói:
- Ngươi có thể không có quy củ, nhưng ta không thể không có quy củ.
Sắc mặt của áo trắng đã đỏ bừng, chợt bay xuống.
Mưa đã tạnh, thân pháp của nó tuy nhẹ nhàng, vẫn bắn bùn đầy chân.
Áo đỏ thốt:
- Ui da!
Áo trắng hỏi:
- Ui da cái gì?
Áo đỏ đáp:
- Ta ui da giùm cho chân ngươi, người có thân phận như ngươi, trên chân làm sao có thể nhuốm bùn sình được?
Áo trắng cười lạnh:
- Ngươi không cần lo lắng cho ta, ta lúc nào cũng có thể đổi giày.
Áo đỏ hỏi:
- Ngươi có bao nhiêu đôi giày?
Áo trắng cười lạnh:
- Ít nhất cũng có bảy tám chục đôi.
Áo đỏ cười lớn:
- Hay, cực hay, giày của ngươi đơn giản còn nhiều hơn cả của Dương Quý Phi!
Nó cố ý làm ra bộ dạng rất thành khẩn:
- Chỉ bất quá ta vẫn có chút lo lắng cho ngươi.
Mặt mày áo trắng đã trắng nhợt, lại nhịn không được phải hỏi:
- Ngươi lo cái gì?
Áo đỏ đáp:
- Ta sợ ngươi không cao được.
Hai đứa bé xem ra vốn giống hệt nhau, đợi đến khi bọn chúng đứng dậy cùng một lúc, người ta mới có thể nhìn thấy đứa bé áo đỏ cao hơn đứa bé áo trắng hai tấc.
Áo đỏ lại nói:
- Con nít không chịu dính đất cát trên chân, luôn luôn không cao được, hà huống ngươi lại quá nóng tính.
Một đứa cố ý chọc cho đứa kia tức giận, đứa kia tuy liều ráng làm ra bộ dạng người lớn, không thèm hạ mình so bì kiến thức với đứa nọ, lại khơi khơi nhịn không được, tức muốn chết, nói ra vẫn toàn là lời nói của trẻ nít.
Nhìn hai đứa bé sáng sủa giống hệt nhau tinh nghịch đấu khẩu, vốn là chuyện rất vui mắt.
Nhưng đợi đến khi bọn chúng xuất thủ, không có ai còn cảm thấy quá vui mắt nữa.
o O o
[Hai đứa bé]
Hai đứa bé bày trò tinh nghịch, giống hệt nhau không khác gì là anh em ruột thịt.
Một đứa cười hì hì, một đứa hay nổi nóng, một đứa cưỡi ngựa đến, một đứa chân lấm bùn sình, ui da!
Bọn chúng đã là huynh đệ, tại sao phải đánh nhau như vầy?
Bọn chúng dùng kiếm, hai thanh kiếm hình thức dài ngắn phân lượng nặng nhẹ chất liệu cứng mềm đều hoàn toàn như nhau.
Đứa bé áo đỏ chọn một thanh:
- Ngươi chuyên luyện kiếm pháp, nên nhượng ta ba chiêu.
Áo trắng cả một chiêu cũng không nhượng.
Động tác bạt kiếm của nó còn nhanh hơn xa đứa áo đỏ, xuất thủ cũng nhanh, trong phút chốc đã đâm ra mười một kiếm.
Áo đỏ cười cười.
Đứa bé áo trắng lại đã trúng kế của nó, nó vốn muốn để đối phương xuất thủ trước.
Bởi vì kiếm pháp của nó tịnh không bằng vào thủ thắng mau lẹ, mà bằng vào “lấy tĩnh chế động, lấy chậm trừ nhanh, đánh sau kèm người”, đó mới là tinh nghĩa trong kiếm pháp của nó.
Nhưng kiếm pháp của áo trặng tịnh không bị chế ngự.
Lối xuất thủ của nó vừa nhanh vừa chuẩn, mỗi một kiếm đều là sát thủ trí mệnh, tuyệt không chừa cho đối phương chỗ chọn lựa.
Người bọn chúng tuy rất khả ái, kiếm pháp lại đáng sợ hơn nhiều so với trong tưởng tượng của bất cứ một ai.
Tiêu Đông Lâu nhìn biểu tình kinh dị trên mặt Tư Không Hiểu Phong, mỉm cười hỏi:
- Ngươi xem kiếm pháp của bọn chúng ra sao?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Nếu quả Bách Hiểu Sanh năm xưa sống lại, kiếm của hai đứa bé này nhất định có thể liệt tên vào Binh Khí Phổ của ông ta.
Đó là nói vậy, kiếm thuật của hai đứa bé đó có thể liệt vào hàng năm mươi cao thủ nổi danh trong thiên hạ.
Hiện tại bọn chúng chỉ bất quá mới mười hai mười ba tuổi.
Tiêu Đông Lâu chợt thở dài:
- Chỉ tiếc bọn chúng vĩnh viễn cũng không thể trở thành thiên hạ đệ nhất cao thủ.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Sao vậy?
Tiêu Đông Lâu đáp:
- Bởi vì bọn chúng quá thông minh.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Thông minh có gì là không tốt?
Tiêu Đông Lâu đáp:
- Muốn làm thiên hạ đệ nhất cao thủ, ngoại trừ kiếm pháp thắng người ra, còn phải có tấm lòng bác ái, và một dũng khí và quyết tâm ngoan cố không lùi bước. Đó nhất định phải là từ trong vô số kinh nghiệm thảm thống mới có thể trui rèn nên.
Ông ta cười khổ:
- Người quá thông minh luôn luôn không chịu được bao nhiêu phiền não buông thả đó, nhất định nghĩ cách tránh né không lọt vào tình thế đó, hơn nữa luôn luôn có thể tránh né được.
Tư Không Hiểu Phong thốt:
- Không chân chính trải qua bao nhiêu phiền não buông thả, vĩnh viễn không thể trui rèn thành đại khí.
Tiêu Đông Lâu nói:
- Tuyệt đối không thể.
Tư Không Hiểu Phong thốt:
- Nhưng người chịu đựng phiền não buông thả cũng chưa chắc gì thành đại khí.
Tiêu Đông Lâu nói:
- Cho nên mấy chục năm gần đây trong võ lâm căn bản không có sáu chữ “thiên hạ đệ nhất cao thủ”.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Hoa Mãn Thiên truyền nhân duy nhất của Lục Tiểu Phụng đại hiệp và Tây Môn công tử từng quyết chiến với nhau trên đỉnh Côn Lôn năm xưa thì như thế nào?
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Ngươi có biết kết quả trận chiến đó ra sao không?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Nghe nói hai người bọn họ đều rơi xuống vực sâu vạn trượng, đồng quy vu tận.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Tây Môn công tử nếu thật là thiên hạ đệ nhất cao thủ, còn có ai có thể bức ông ta đồng quy vu tận?
Mục quang của Tư Không Hiểu Phong láy động:
- Còn vị bằng hữu hồi nãy nằm trong quan tài?
Tiêu Đông Lâu điềm đạm cười cười:
- Y nếu là thiên hạ đệ nhất cao thủ, làm sao có thể biến thành bộ dạng như vậy?
Tư Không Hiểu Phong không hỏi nữa.
Trong phút chốc, trận đấu giữa hai đứa bé đã đến hồi kịch liệt hung hiểm.
Bọn chúng xuất thủ càng lúc càng hiểm ác, chiếu theo tình huống này, rất có thể cũng giống như Hoa Mãn Thiên và Tây Môn công tử, lọt vào tình thế lưỡng bại câu thương, đồng quy vu tận.
Nhưng hiện tại bọn chúng đã không thể thu hồi chiêu thế, ai cũng không thể ngưng tay trước.
Lúc đó, đột nhiên nghe “keng” một tiếng, một đạo bạch quang bay đến, đánh gãy hai thanh kiếm trong tay bọn chúng.
Hai đoạn kiếm gãy lần theo một cây đoản trượng bạch sắc rơi xuống, hai tiểu hài tử cũng bị chấn động tản ra.
Người đứng giữa bọn chúng không ngờ chính là người mù cái gì cũng nhìn không thấy, Liễu Tam Canh.
Hài tử áo trắng sắt mặt trắng tái, hét lớn:
- Ngươi làm gì vậy?
Liễu Tam Canh chầm chậm lượm đoản trượng dưới đất, không nói tiếng nào, cúi đầu thoái lui.
Tiêu Đông Lâu mỉm cười:
- Liễu tiên sinh sao không nói gì?
Liễu Tam Canh đáp:
- Ta chỉ bất quá là nô tài, làm sao dám nói.
Tiêu Đông Lâu cười:
- “Đoạt Mệnh Canh Phu” danh chấn thiên hạ làm sao lại có thể là nô tài của người ta?
Cương thi chợt đứng bật dậy, chợt nói:
- Y là.
Cho đến bây giờ, Triệu Vô Kỵ còn chưa tin Liễu Tam Canh có thể thừa nhận mình là nô tài của người khác. Nhưng y quả thật đã thừa nhận, hơn nữa trên mặt thậm chí cả một chút biểu tình phẫn nộ không phục cũng không có.
Cương thi nói:
- Xương cốt máu huyết linh hồn của y đều đã thuộc về ta, ta lúc nào cũng có thể kêu y đi chết, con của ta lúc nào cũng có thể kêu y đi chết.
Trên mặt Liễu Tam Canh vẫn không có chút biểu tình gì:
- Ta lúc nào cũng chuẩn bị đi chết cho Hầu gia.
Tiểu hài tử áo trắng cười lạnh:
- Vậy ngươi hiện tại sao còn không đi.
Liễu Tam Canh không do dự, lập tức rút kiếm giấu trong đoản trượng tự đâm vào yết hầu mình.
Triệu Vô Kỵ muốn xông qua cứu y, đã không còn kịp nữa.
Lưỡi kiếm đã đâm tới yết hầu y, máu tươi đã rướm, tiểu hài tử áo trắng đã biến sắc.
Cương thi thốt:
- Dừng tay!
Động tác của Liễu Tam Canh lập tức đình đốn.
Cương thi lạnh lùng hỏi:
- Hiện tại ngươi có còn muốn y chết không?
Y đang hỏi tiểu hài tử áo trắng. Tiểu hài tử áo trắng cắn môi, chung quy lắc lắc đầu.
Cương thi thốt:
- Rất tốt.
Kiếm của Liễu Tam Canh rơi xuống, yết hầu tuy đã bị cắt một đường phun máu, trên mặt vẫn không để lộ một chút biểu tình gì.
Cương thi lại hỏi tiểu hài tử áo trắng:
- Hiện tại ngươi có hiểu mỗi một câu nói phát ra từ cửa miệng của ngươi là có thể quyết định sinh tử của người khác chưa?
Tiểu hài tử áo trắng đáp:
- Tôi đã hiểu.
Cương thi đáp:
- Hiểu thì tốt.
Tiểu hài tử áo trắng nói:
- Nhưng lần sao y nếu quả còn dám đánh gãy kiếm của tôi, tôi vẫn phải kêu y đi chết.
Cương thi thốt:
- Cực tốt.
Tiểu hài tử áo trắng còn chưa hết giận, lại hỏi:
- Hồi nãy ai kêu y xuất thủ vậy?
Cương thi đáp:
- Là ta.
Tiểu hài tử áo trắng ngây người.
Cương thi nói:
- Lần sau cho dù ngươi biết rõ ta kêu y xuất thủ, chỉ cần y đánh gãy kiếm của ngươi, ngươi vẫn có thể giết y.
Y lạnh lùng nói tiếp:
- Vô luận là ai đánh gãy kiếm của ngươi, vô luận là y vì cái gì, ngươi cũng đều không thể tha y, ngươi cho dù phải chết, cũng trước hết phải giết y.
Tiểu hài tử áo trắng ưỡn ngực, nói lớn:
- Tôi đã rõ, tôi nhất định làm được!
Kiếm, là vinh dự của kiếm khách.
Vinh dự của kiếm khách còn quan trọng hơn xa tính mạng, không cần biết là tính mạng của ai cũng vậy.
Đó là bài học mà cương thi muốn dạy đứa bé.
Y muốn đứa bé trở thành một tuyệt đại kiếm khách, y muốn đứa bé tự kiêu ngạo vì mình.
Tiêu Đông Lâu chợt nói:
- Ngươi qua đây.
Ông ta kêu đứa bé lấm lem:
- Kiếm của ngươi có phải cũng bị người ta đánh gãy?
Tiểu hài tử áo đỏ đáp:
- Phải.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Hiện tại ngươi chuẩn bị làm sao?
Tiểu hài tử áo đỏ đáp:
- Thanh kiếm đó do bọn chúng mang đến, bọn chúng muốn đánh gãy kiếm của mình, đâu có quan hệ gì tới tôi.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Nếu kiếm của ngươi bị ngươi ta đánh gãy thì sao?
Tiểu hài tử áo đỏ đáp:
- Vậy tôi lại đi mua thanh kiếm khác về luyện, luyện cho đến khi người ta không đánh gãy được kiếm của tôi nữa.
Tiêu Đông Lâu cười lớn:
- Giỏi, cực giỏi.
Ông ta muốn đứa bé làm một người tấm lòng rộng rãi, không xem trọng quá đáng thành bại nhất thời.
Nếu quả không thể làm một người đường đường chính chính, làm sao có thể làm kiếm khách tuyệt đại vô song?
Triệu Vô Kỵ nhịn không được đang tự hỏi mình trong tâm.
Hai đứa bé đó hôm nay tuy bất phân thắng bại, sau này thì sao?
Phương đông đã sáng, xa xa đã có tiếng gà gáy.
Tiêu Đông Lâu nói:
- Trời sắp sáng rồi, ngươi nên đi đi.
Chỉ có người chết mới không muốn thấy dương quang, cương thi đó lẽ nào thật là người chết?
Tiểu hài tử áo trắng trừng mắt nhìn tiểu hài tử áo đỏ:
- Năm sau ta nhất định đánh bại ngươi, ngươi đợi đó.
Tiểu hài tử áo đỏ đáp:
- Ta chỉ hy vọng ngươi năm sao có thể cao thêm một chút.
Lần này Triệu Vô Kỵ không cười.
Chàng biết cương thi đó nhất định không thể buông tha chàng, chàng luôn luôn đợi chờ, nhưng chàng đã nghĩ lầm.
Cương thi lại nằm dài, nhắm mắt lại, tựa hồ đã quên đi có chàng.
Triệu Vô Kỵ chợt xông tới, hét lớn:
- Hồi nãy người ta cười là ngươi.
Cương thi nói:
- Ta biết, ngươi đã nói hai lần rồi.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Lẽ nào ngươi bỏ đi như vậy?
Cương thi hỏi:
- Ngươi nhất định muốn ta giết ngươi?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Phải.
Cương thi chung quy đã mở mắt, một người tồn tâm muốn tìm chết, vô luận là ai cũng nhịn không được phải nhìn xem.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ngươi không chịu xuất thủ chỉ vì ngươi căn bản không để ta trong mắt, sống trên đời bị người ta khinh tiện như vậy, sống còn có ý nghĩa gì chứ?
Cương thi hỏi:
- Ngươi không sợ chết?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Đại trượng phu sinh có gì đáng mừng, chết gì đáng sợ?
Cương thi nhìn chàng, hàn quang trong ánh mắt lóe động như làn chớp.
Triệu Vô Kỵ cũng trừng trừng nhìn y, tuyệt không có một chút ý tứ co rúc thoái lui.
Cương thi lạnh lùng thốt:
- Ngươi nếu thật muốn chết, sau ngày rằm cứ đến Cửu Hoa sơn, ta có thể giúp ngươi xứng tâm như ý.
Cương thi lại nhắm mắt, quan tài cũng đã đậy lại.
Cương thi sống lại, trước khi trời sáng là phải trở về cõi u minh.
Tiểu hài tử vận bạch y lại còn đang trừng trừng nhìn tiểu hài tử áo đỏ, chợt hỏi:
- Ngươi có thể làm một chuyện cho ta không?
Tiểu hài tử áo đỏ hỏi:
- Chuyện gì?
Tiểu hài tử áo trắng đáp:
- Ngày này năm sau, ngươi có thể tắm rửa trước khi đến không?
Nói xong câu đó, nó đã phóng lên quan tài, xếp bằng ngồi xuống, đám hắc y nhân khiêng quan tài, Đoạn Hồn Canh gõ nhẹ, bọn chúng bước ra khỏi cánh rừng đó, bất chợt tiêu tán giữa sương mù mênh mông.
Tiểu hài tử áo đỏ lại vẫn đang si si nhìn phía trước, phảng phất còn muốn tìm tiểu hài tử áo trắng đánh thêm một trận.
Triệu Vô Kỵ đang chú ý tới nó, cố ý thở dài:
- Xem ra các ngươi thật là một cặp đối đầu trời sinh.
Trên mặt của tiểu hài tử áo đỏ lộ xuất biểu tình rất kỳ quái, chợt lắc lắc đầu:
- Bọn tôi không phải là đối đầu, bọn tôi là huynh đệ, nếu không phải tôi sinh ra trước hắn nửa canh giờ, hắn đã thành ca ca của tôi!
Bọn chúng quả nhiên là huynh đệ song sinh.
Tiêu Đông Lâu và cương thi đó đã muốn mượn đệ tử giảo nghiệm võ công của bọn họ, đương nhiên phải tìm hai đứa bé tư chất niên kỷ trí tuệ đều hoàn toàn giống nhau.
Huynh đệ song sinh không còn nghi ngờ gì nữa là sự tuyển chọn tốt nhất.
Chỉ bất quá hai cây giống hệt nhau về hình dáng lại đang sinh trưởng trong hoàn cảnh khác biệt, vị tất có thể nở ra một đóa hoa giống nhau.
Triệu Vô Kỵ thở dài, chỉ cảm thấy mệnh vận đối với hai huynh đệ đó khó tránh khỏi quá tàn khốc.
Tiểu hài tử áo đỏ lại cười.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ngươi đang cười cái gì? Lại đang cười ta hả?
Tiểu hài tử áo đỏ lắc đầu:
- Lần này tôi đang cười chính tôi, tôi một mực đã nhìn lầm ông.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Ồ?
Tiểu hài tử áo đỏ nói:
- Tôi luôn nghĩ ông có chút khờ dại, tới bây giờ mới biết nguyên lai ông thông minh hơn ai hết.
Nó nghiêm ánh mắt nói:
- Hồi nãy ông chạy tới cương thi có phải là vì ông đã sớm biết y tuyệt không thể xuất thủ, người khác cũng tuyệt không thể để y giết ông?
Triệu Vô Kỵ không mở miệng.
Tiểu hài tử áo đỏ nói:
- Nhưng ông cũng vị tất đã thật sự tin chắc.
Triệu Vô Kỵ chợt hỏi:
- Người có từng cờ bạc chưa?
Tiểu hài tử áo đỏ len lén nhìn sư phụ một cái, len lén đáp:
- Tôi đã từng chơi thử.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Vậy ngươi cũng nên biết, ngươi nếu muốn thắng tiền của người khác, mình cũng phải mạo hiểm một chút.
Chàng cười cười, lại nói:
- Trong cuộc đời có rất nhiều chuyện đều như vậy, rất nhiều chuyện.
Trời đã sáng.
Cây bị kéo ngã lại đã dựng lên, đồ vật bày bừa đều đã được thu dọn sạch sẽ.
Nếu quả người sáng sớm hôm qua đi ngang qua đây, hôm nay lại đến đây, tuyệt không thể nhận thấy nơi này đêm hôm qua đã xảy ra bao nhiêu chuyện như vậy.
Đó có phải là kỳ tích?
Tiêu Đông Lâu kêu người đi nấu một bình trà Ô Long cho Triệu Vô Kỵ, mỉm cười nói:
- Đó không phải là kỳ tích, trên thế gian căn bản không có kỳ tích, nếu quả có, cũng là do người tạo thành.
Trong ngôn từ của ông ta luôn mang theo một triết lý thâm sâu khiến cho người ta không khỏi nghĩ ngợi.
- “Chỉ có người mới có thể sáng tạo kỳ tích” - Ông ta nói - “Dùng quyết tâm, nghị lực và trí tuệ, dùng phương pháp xảo diệu, dùng sự huấn luyện nghiêm cẩn...”
Triệu Vô Kỵ nói tiếp:
- Dùng kim tiền tạo thành...
Tiêu Đông Lâu cười lớn:
- Không sai, kim tiền đương nhiên vĩnh viễn là vật không thể thiếu.
Tư Không Hiểu Phong nói:
- May là kim tiền cũng không phải là vật chủ yếu nhất, tịnh không phải mỗi một người có tiền đều có thể làm những chuyện mà ông làm.
Trong lời nói của lão cũng có thâm ý: “Tiền cũng giống như kiếm vậy, cũng phải xem xem nó đang ở trong tay ai”.
Triệu Vô Kỵ lại không muốn nghe nữa.
Chàng đến đây tịnh không phải là vì muốn nghe người ta giảng đạo.
Tiêu Đông Lâu phảng phất vĩnh viễn đều có thể nhìn ra tâm ý của khách nhân mình:
- Ta biết ngươi nhất định muốn đi.
Triệu Vô Kỵ lập tức đứng dậy, dùng hành động trả lời.
Tiêu Đông Lâu nói:
- Ta nghĩ ngươi nhất định sẽ đi Cửu Hoa sơn.
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Tôi nhất định sẽ đi.
Tiêu Đông Lâu nói:
- Cửu Hoa sơn nam vọng Lăng Dương, tây triều Thu Phố, bắc tiếp Ngũ Kê Đại Thông, đông tế Song Long Phong Khẩu, có tám chín ngọn núi nổi danh trong hơn bốn chục ngọn, còn có mười bốn mười lăm động, mười bảy mười tám thác nước, là một địa phương rất rộng lớn.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Tôi biết.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Vậy ngươi tại sao không hỏi y phải đến đâu?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Tôi bất tất phải hỏi.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Ngươi có thể tìm ra y?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Tôi tìm không ra.
Chàng chợt hỏi:
- Nếu quả ông muốn đi đến một ngọn núi, ông kêu ngọn núi đi tới, núi có thể đi tới không?
Tiêu Đông Lâu đáp:
- Không thể.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Vậy ông làm gì?
Tiêu Đông Lâu đáp:
- Tự ta đi.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Tôi làm chuyện gì cũng thường dùng cách đó, nếu quả tôi tìm không ra y, tôi có thể nghĩ ra cách để y đến tìm tôi.
Triệu Vô Kỵ đã đi.
Lúc chàng muốn đi, rất ít có người có thể ngăn cản chàng, cơ hồ chưa từng có ai có thể ngăn cản chàng.
Đợi cho bóng chàng đã xa xăm, Tiêu Đông Lâu mới hỏi:
- Ngươi nói người trẻ tuổi đó tên là Triệu Vô Kỵ?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Phải.
Tiêu Đông Lâu nói:
- Xem ra hắn cũng là một người rất thông minh.
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Hắn tuyệt đối là người rất thông minh.
Tiêu Đông Lâu thốt:
- Nhưng hắn xem ra chừng như có rất nhiều tâm sự không giải khai được, người thông minh vốn không nên có nhiều tâm sự như vậy.
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Ta muốn hắn đến đây là vì muốn hắn biến thành thông minh hơn.
Lão lại giải thích:
- Tâm sự duy nhất của hắn không giải khai được là hắn còn chưa tìm ra thù nhân của hắn.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Thù nhân của hắn là ai?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Thượng Quan Nhẫn.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Có phải là Kim Nhân dùng kim khí đúc thành?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Phải.
Tiêu Đông Lâu thở dài:
- Xem ra hắn quả thật còn chưa đủ thông minh, bằng vào võ công của hắn, có thể đỡ được mười chiêu của Thượng Quan Nhẫn cũng không dễ dầu gì!
Tư Không Hiểu Phong nói:
- Cho nên tôi kêu hắn đến đây, cốt là giúp hắn biết trong giang hồ ngọa hổ tàng long, bằng vào võ công của hắn căn bản chưa thể xông pha giang hồ, hà huống là đi phục thù.
Lão đột nhiên lại thở dài, lại nói:
- Hiện tại ta mới biết ta đã lầm.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Lầm chỗ nào?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Ta không nên kêu hắn đến.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Tại sao?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Thượng Quan Nhẫn tâm cơ thâm trầm, đã cao bay xa chạy, muốn tìm lão ta đơn giản khó khăn như lên trời.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Hiện tại Triệu Vô Kỵ muốn tìm lão ta không phải cũng khốn khó như vậy sao?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Nhưng hiện tại Triệu Vô Kỵ lại đã biết Hiên Viên Nhất Quang.
Nếu quả Hiên Viên Nhất Quang muốn tìm một người, cho dù là người đó trốn ở chân trời, hắn vẫn có thể tìm ra.
Đó không những là truyền thuyết, cũng là sự thật.
Tư Không Hiểu Phong lại nói:
- Thượng Quan Nhẫn thân kinh bách chiến, nội ngoại công đều đã đến mức đăng phong tạo cực, Triệu Vô Kỵ vốn tịnh không tin chắc có thể đối phó lão ta, cho dù biết lão ta ở đâu, cũng vị tất dám khinh cử vọng động.
Tiêu Đông Lâu hỏi:
- Còn hiện tại?
Tư Không Hiểu Phong đáp:
- Hiện tại hắn lại đã có chuông vàng của ông, lại có một câu nói của vị bằng hữu trong quan tài.
Tiêu Đông Lâu thốt:
- Hắn nếu quả thật sự có thể đến Cửu Hoa sơn, nếu quả không chết dưới kiếm của bằng hữu tự xưng là Cửu U Hầu đó, ít ít nhiều nhiều gì cũng có thể có lợi điểm.
Tư Không Hiểu Phong cười khổ:
- Cho nên đảm khí của hắn nhất định sẽ to hơn nhiều.
Tiêu Đông Lâu thốt:
- Đó cũng là vận khí của hắn.
Tư Không Hiểu Phong thở dài:
- Bọn ta không hy vọng hắn có vận khí như vậy.
Tiêu Đông Lâu nói:
- Ta nhớ trước đây có một người rất thông minh có nói qua một câu rất có đạo lý.
Tư Không Hiểu Phong hỏi:
- Nói gì?
Tiêu Đông Lâu đáp:
- Y nói vô luận một người trời sinh xoay sở tháo vát, hay là trời sinh dũng cảm, đều không bằng trời sinh hạnh vận tốt.
Ông ta mỉm cười, lại nói:
- Triệu Vô Kỵ đã có vận khí như vậy, ngươi hà tất phải lo lắng cho hắn?
Tư Không Hiểu Phong không nói gì nữa, nhưng thần sắc lại càng ưu lự, phảng phất trong tâm có bí mật gì đó không thể nói ra.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 24-10-2012 20:17:41 | Chỉ xem của tác giả
ĐỔ BÁC

Doanh gia thực tự sắc giai dã.
Ý tứ của câu nói đó là mỗi một người đều phải ăn cơm, mỗi một người đều phải làm “công tác” truyền tông kế thừa, không cần biết mình có vui thích hay không.
Cho nên mỗi một địa phương đều có quán ăn, mỗi một địa phương đều có nữ nhân, có nữ nhân chỉ thuộc về một nam nhân, có nữ nhân mỗi một nam nhân đều có thể mua được.
Còn có một số nữ nhân chỉ có một số nam nhân mới có thể mua được, số nam nhân có tiền nhiều hơn, cũng chịu xài tiền hơn.
Ngoại trừ hai thứ “thực sắc” ra, nghe nói nhân loại còn có thứ “đổ tính”, tính cờ bạc.
Ít ra người có tính cờ bạc luôn luôn nhiều hơn nhiều so với người không có tính cờ bạc.
Có rất nhiều người thông thường đều đánh bạc trong nhà mình, trong nhà bằng hữu mình.
Nhưng trong nhà hay có lúc không tiện lợi thoải mái lắm, có lúc bà vợ không cao hứng, có lúc mấy đứa con ồn ào, có lúc tìm không ra bạn chơi.
May là còn có chỗ vĩnh viễn không có mấy thứ không tiện lợi thoải mái đó, đổ trường.
Cho nên mỗi địa phương đều có đổ trường.
Có đổ trường trên mặt đất, có đổ trường dưới mặt đất, có đổ trường công khai, có đổ trường không thể công khai, có đổ trường đổ rất lớn, có đổ trường lại đổ rất nhỏ.
Nhưng mình một khi muốn đi cờ bạc, lúc nào cũng đều có thể lén bà vợ của mình mà đi.
Trong nhiều thành thị rộng lớn, trong nhiều đổ trường lớn, gần đây đã xuất hiện một người may mắn.
Trong đổ trường, ý tứ của “người may mắn” thông thường đều có nghĩa là người thắng tiền, cũng gọi là “người thắng”.
Không cần biết người ta có nói gì đi nữa, trong đổ trường ít ít nhiều nhiều gì cũng thường có thể thấy người thắng.
Chỉ có điều người thắng này đi nhiều chỗ mà chỉ đổ xí ngầu.
Một khi hắn cầm xí ngầu lên, vừa quăng xuống là đúng ba mặt “lục”.
“Lục báo”.
Chí tôn bảo của trò chơi xí ngầu, căn cứ vào thống kê của những tay cờ bạc có kinh nghiệm, đại khái phải quăng hơn chín mươi vạn lần mới có thể xuất hiện một “lục báo”.
Có những người đánh bạc cả đời, mỗi ngày đều đánh bạc, mỗi ngày đều đổ xí ngầu, cũng chưa từng đổ ra “lục báo”.
Nhưng người may mắn đó chỉ cần cầm xí ngầu lên, đổ ra liền đúng là “lục báo”.
“Hắn nhất định là?lang trung?”. Có những người hoài nghi.
Trong đổ đường, ý tứ của hai chữ “lang trung” tịnh không phải là đại phu khám bệnh, mà là người lúc đánh bạc có thể dùng thủ pháp xảo quyệt lừa gạt người ta.
Chỉ bất quá “lang trung” thật sự tuyệt không thể tiêu dao tự tại như vậy, tuyệt không thể câu dẫn sự chú ý của người ta như vậy.
Đó là đại kỵ của “lang trung”.
“Lang trung” chân chính tuyệt không thể phạm vào thứ kỵ đó, nếu quả mình quăng ra ba điểm, gã tối đa cũng chỉ ra năm điểm.
Năm điểm đã đủ để thắng ba điểm.
Đối với một “lang trung” chân chính mà nói, gã chỉ cần có thể thắng được mình là đã đủ quá rồi.
Có lúc gã thậm chí còn cố ý thua mình một hai lần, bởi vì gã sợ mình ngưng đổ.
Nhưng người may mắn này lại chưa từng thua.
Một khi hắn cầm xí ngầu lên, hễ hắn quăng ra là phải ba mặt “lục”, chưa một lần quăng sai.
- Thật có người như vậy sao?
- Thật.
- Gã thật mỗi lần đều có thể đổ ba mặt “lục”?
- Thật!
- Ngươi nhìn thấy tận mắt?
- Không chỉ có ta thấy, rất nhiều người đã thấy qua.
- Hắn đổ xí ngầu ra sao?
- Chỉ cầm ba hột xí ngầu lên, tùy tùy tiện tiện quăng xuống.
- Ngươi nhìn không ra thủ pháp hắn dùng?
- Không những ta nhìn không ra, cả Đại Ngưu cũng nhìn không ra!
Đại Ngưu họ Trương, là một tay cờ bạc có tiếng, ăn sạch cả một đồng bạc cuối cùng của bằng hữu đã từng lớn lên với gã từ tấm bé, chỉ mời bằng hữu uống một chén sữa đậu nành.
Người vốn còn có chút hoài nghi về người may mắn đó hiện tại đã không còn hoài nghi nữa:
- Nếu quả cả Đại Ngưu cũng nhìn không ra, còn có ai có thể nhìn ra?
- Không còn ai hết.
- Lẽ nào người đó trời sinh may mắn như vậy? Trời sinh là người thắng?
- Chắc vậy!
- Nếu quả hắn thật có vận khí như vậy, ta tình nguyện giảm thọ mười năm để đổi lấy.
- Ta tình nguyện giảm thọ hai chục năm.
- Ồ?
“Ồ?” là thở dài.
Không những thở dài vì mình tại sao không có thứ vận khí đó, ít nhiều gì cũng còn có chút ganh tỵ.
- Ngươi đã gặp hắn?
- Đương nhiên đã gặp.
- Con người hắn ra sao?
- Hắn là một tiểu tử trẻ tuổi anh tuấn, nghe nói rất giàu, hiện tại tiền của hắn nhất định đã nhiều tới mức cả chính hắn cũng không biết làm sao để tiêu cho hết.
- Ngươi biết tên họ của hắn không?
- Hắn tên là Triệu Vô Kỵ.
o O o
Đây là một kiến trúc cổ xưa, nhìn từ bên ngoài không khác gì từ đường của một vọng tộc.
Nhưng người có kinh nghiệm đều biết địa phương đó không phải là từ đường, mà là đổ trường.
Đổ trường lớn nhất nội trong vòng năm trăm dặm phụ cận.
Cũng giống như những đổ trường khác, lão bản của đổ trường này cũng là đầu mục của một bang hội bí mật.
Lão họ Giả, đại đa số người đều gọi lão là Giả đại gia, những bằng hữu thân cận hơn gọi lão là lão Giả, cho nên tên của lão là gì dần dần đã không còn ai biết nữa.
Đối với lão bản của một đổ trường mà nói, tên họ vốn không phải là chuyện trọng yếu nhất.
Lão tuy họ Giả, lại không ai dám giả dối gian lận trong đổ trường của lão, nếu không những tay du côn thủ hạ do lão nuôi nấng có thể rất khách khí mời người đó đi ra ngoài.
Đợi đến khi người đó tỉnh dậy khỏi cơn đau, thường phát hiện mình đang nằm giữa cống rãnh hôi thúi.
Sau đó người đó có thể phát hiện mình đã gãy mất ba cái xương sườn.
Ít nhất là ba cái.
Bên trong chỗ đó đương nhiên còn huy hoàng hơn bề ngoài xa, cũng lý thú hơn xa.
Trong đại sảnh đèn đuốc huy hoàng thông thường đều tề tụ đủ các thức các dạng người, xấp xấp ngân phiếu, chồng chồng tiền đồng, lớp lớp kim ngân, run rẩy trong lòng bàn tay đổ mồ hôi lạnh.
Trong đó đương nhiêu có một đại bộ phận cuối cùng đều chuyển vào tay nhà cái, cho nên tay nhà cái vĩnh viễn khô ráo, ổn định.
Triệu Vô Kỵ vận y phục mới tinh tươi tắn, nhẹ nhàng khoan thai lướt theo làn gió đêm bước vào đại sảnh đèn đuốc huy hoàng đó.
Lúc ban đầu chàng cảm thấy có chút nóng nực ngột ngạt, nhưng không khí nhiệt liệt trong đại sảnh lập tức khiến cho chàng mau chóng quên đi.
Muốn tiến vào đại sảnh đó tịnh không dễ dàng gì.
Chàng đương nhiên cũng là được một vị “bằng hữu” có kinh nghiệm đưa đến, chàng đã tiêu năm chục lượng bạc và một bữa ăn tối rất phong phú mới kết giao được vị bằng hữu đó.
Y phục vừa vặn khiến cho chàng nhìn tươi trẻ khỏe mạnh, anh tuấn thon cao, giống như một công tử phong lưu giàu có.
Một người như vậy, vô luận đi đến đâu vốn đều câu dẫn sự chú ý của người ta.
Hà huống gần đây trong đổ trường chàng cũng có một ngoại hiệu rất bất bình thường, “hạnh vận báo tử”.
Đó là ngoại hiệu mà những tay cờ bạc ngầm đặt cho chàng, bởi vì chàng chuyên đổ ra “báo tử”, ba mặt “lục”.
Đám người cờ bạc thông thường đều lưu động, trong đổ trường này cũng có những người đã từng gặp chàng ở đổ trường khác.
Chàng bước vào còn chưa đến một khắc, trong đám đông đã bắt đầu xôn xao:
- Hạnh vận báo tử đã đến.
- Ngươi đoán thử hắn hôm nay có còn có thể đổ ra sáu mặt “lục” không?
- Ngươi có muốn cá với ta không?
- Cá làm sao?
- Ta dùng một trăm lượng cá với năm chục lượng của ngươi, cá hắn hôm nay vẫn có thể đổ ra “báo tử”.
- Ngươi làm sao tin chắc vậy?
- Bởi vì ta đã nhìn thấy hắn đổ chín lần.
- Chín lần đều là ba mặt “lục”?
- Cả thảy chín lần.
Đám người đứng rìa quanh một cái bàn lớn nhất đột nhiên tản khai ra, nhượng đường cho Triệu Vô Kỵ bước tới.
Mọi người đều đang nhìn tay chàng.
Trên đôi tay đó thật ra có ma pháp gì có thể khiến cho mỗi lần đổ đều đổ ra “báo tử”?
Bàn tay đó ngón tay thon dài hữu lực, móng tay cắt tỉa sạch sẽ, nhìn lại không có gì khác với tay người khác.
Chủ nhân của bàn tay đó xem ra cũng chỉ bất quá là một người trẻ tuổi lịch lịch sự sự, anh anh tuấn tuấn.
Không cần biết mình nhìn kiểu nào, chàng đều không giống một “lang trung”.
Mọi người quả thật đều không hy vọng chàng bị đám du côn kia mời ra ngoài.
Trong tâm mỗi một tay cờ bạc đều hy vọng có thể nhìn thấy một anh hùng có thể hạ được nhà cái.
Triệu Vô Kỵ mỉm cười bước tới giữa sự chú ý của mọi người, giống như một diễn viên danh tiếng đang bước lên hí đài.
Chàng tỏ lộ vẻ trấn định thong dong đặc biệt, đối với mình tràn đầy sự tự tin, đối với màn kịch này chàng tuyệt đối tin chắc.
Nhà cái lại bắt đầu có chút khẩn trương.
Triệu Vô Kỵ mỉm cười:
- Cái bàn này có phải là đổ xí ngầu không?
Đương nhiên là phải.
Trong một cái chén sứ tinh trí to bự, ba viên xí ngầu đang lấp lánh dưới ánh đèn.
Triệu Vô Kỵ lại vừa cười vừa hỏi:
- Ở đây có giới hạn đặt tiền không?
Nhà cái còn chưa đáp lời, bên cạnh đã có người xen miệng:
- Ở đây chưa bao giờ giới hạn đặt tiền.
- Nhưng ở đây chỉ đổ hiện kim và ngân phiếu do tiêu hiệu Sơn Tây phát ra, nếu là châu bảo trang sức thì phải giảm giá chút ít.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Tốt.
Chàng mỉm cười rút ra một tập ngân phiếu, đều là ngân phiếu phát ra từ tiền trang và tiêu hiệu có chiêu bài cứng cựa nhất.
Chàng nói:
- Lần đổ này ta đặt một vạn lượng.
Thường có câu: “Tiền đến đổ trường, người đến pháp trường”.
Ý tứ đó là muốn nói, người đã đến pháp trường là không thể coi là người nữa, tiền đã đến đổ trường cũng không thể coi là tiền xài được nữa.
Nhưng một vạn lượng cũng vẫn là một vạn lượng, không phải là một vạn lượng sắt đồng, mà là một vạn lượng bạc.
Nếu dùng một vạn lượng bạc đi đè người, ít ra cũng có thể đè chết nhiều người.
Đám đông lại bắt đầu xôn xao, người đang ngồi ở những bàn khác cũng đều đã chen lấn qua xem nhiệt náo.
Nhà cái ho khan vài tiếng:
- Một bàn thắng thua?
Triệu Vô Kỵ mỉm cười gật đầu.
Nhà cái hỏi:
- Còn có ai khác đổ không?
Không có ai.
Nhà cái thốt:
- Hai nhà đối đổ, một nhà đổ một nhà xem, nếu ai đổ báo tử trước thì nhà kia kể như thua không cần đổ nữa.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ai đổ trước?
Chót mũi của nhà cái đã đọng giọt mồ hôi bằng hạt đậu, lại dặng hắng lấy giọng mới nói ra một tiếng mà gã rất là không muốn nói:
- Ngươi.
Người đặt đổ trước, đồng điểm thì nhà cái ăn, đó là quy củ trong đổ trường, không cần biết là đổ trường nào cũng vậy.
Triệu Vô Kỵ vẫn cười cười, cầm ba hột xí ngầu lên, tùy tùy tiện tiện quăng xuống.
Người đứng xem bên cạnh đã la lớn cho chàng:
- Ba mặt “lục”.
- Đại báo tử!
Tiếng la còn chưa dứt, hột xí ngầu đã ngừng quay, quả nhiên là đại báo tử ba mặt “lục”.
Tiếng la lập tức biến thành tiếng hoan hô, vang vọng đến mức cả nóc nhà cũng muốn nhảy dựng lên.
Nhà cái đang đổ mồ hôi, càng lúc càng toát dầm dề.
Triệu Vô Kỵ lại không chớp mắt tới một lần, kết quả đó chừng như luôn luôn trong dự liệu của chàng.
Chàng chừng như đã sớm biết mình sẽ quăng ra số điểm đó.
Nhà cái đang chuẩn bị chung tiền, đôi mắt lại láo liên hỗn loạn.
Lúc đó, một bàn tay đã hạ trên vai Triệu Vô Kỵ, một bàn tay vừa thô vừa to, lưng bàn tay gân xanh nổi vồng lên, bốn ngón tay cơ hồ dài ngắn như nhau, trống trơn không có móng tay.
Cho dù là người chưa từng luyện qua võ công cũng nhìn ra bàn tay đó nhất định đã luyện qua công phu Thiết Sa chưởng.
Cho dù là người chưa từng bị đánh cũng có thể tưởng tượng được bàn tay đó chỉ đánh ra một chưởng tư vị nhất định rất khó chịu.
Tiếng cười và tiếng hoan hô lập tức không còn nghe thấy nữa.
Chỉ có người đó còn đang cười, cười nhăn nhở nhìn Triệu Vô Kỵ:
- Đại gia họ là chi?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Ta họ Triệu.
Người đó nói:
- Ồ, hóa ra là Triệu công tử, hân hạnh hân hạnh.
Biểu tình trên mặt gã lại không có một chút ý tứ “hân hạnh” gì, dùng ngón tay cái vuốt vuốt mũi mình:
- Tôi họ Tôn, người ta đều gọi tôi là Thiết Sa Chưởng.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Hân hạnh hân hạnh.
Thiết Sa Chưởng nói:
- Tôi muốn mời Triệu công tử ra ngoài đàm luận.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Đàm luận chuyện gì?
Thiết Sa Chưởng đáp:
- Tùy tiện chuyện gì cũng được.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Được, đổ cho đã tay rồi đi.
Thiết Sa Chưởng trầm mặt:
- Tôi mời ông đi bây giờ.
Sắc mặt của gã vừa trầm xuống, bàn tay vốn đang đặt trên vai Triệu Vô Kỵ cũng bấu chặt.
Mọi người đều đổ mồ hôi giùm cho Triệu Vô Kỵ.
Bị bàn tay như vậy bấu vào, xương bả vai cho dù không vỡ vụn, tư vị cũng tuyệt không tốt đẹp gì.
Ai biết được Triệu Vô Kỵ cả nhíu mày cũng không nhíu một cái, còn mỉm cười thốt:
- Nếu ngươi nhất định muốn nói chuyện với ta bây giờ, nói ở đây cũng được!
Thiết Sa Chưởng biến sắc, hét lớn:
- Cho ngươi giữ mặt mũi mà ngươi không biết trọng mặt mũi, lẽ nào muốn ta lôi ngươi ra khỏi nơi đây? Ngươi nếu không phải là “lang trung” làm sao mà dám cá một vạn lượng một ván?
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Thứ nhất, bởi vì ta có tiền, thứ hai, bởi vì ta cao hứng, thứ ba, bởi vì ngươi không cần phải lo.
Thiết Sa Chưởng giận dữ:
- Ta phải lo.
Thiết Sa chưởng của gã vừa giơ lên, một chưởng quật vào mặt Triệu Vô Kỵ tức khắc.
Gã không đánh trúng.
Bởi vì người của gã đã bay ra ngoài.
Triệu Vô Kỵ nhẹ nhàng giật cổ tay gã, vừa phẩy một cái đã đẩy người của gã bay ra ngoài, bay qua đỉnh đầu mấy chục người, “bình” một tiếng, văng thẳng vào một cây cột to bự, đầu đổ máu chảy ròng ròng.
Giờ phút này đã đến lúc trầm trọng, đổ trường lập tức nhốn nháo, mười bảy mười tám đại hán vạm vỡ mắt ốc mũi bạnh giống như cọp dữ từ bốn phương tám hướng ùa tới.
Nhưng đám cọp dữ đó trong mắt Triệu Vô Kỵ chỉ bất quá là một đám chó bệnh.
Chàng đang chuẩn bị dạy cho đám chó bệnh đó một bài học, phía sau một cánh cửa che màn chợt có người khiển trách:
- Dừng tay!
Bức màn trên cửa làm bằng lụa Hồ Nam, trên có thêu hoa mẫu đơn quyền quý.
Một đại hán đầu hói ăn mặc hoa lệ, trong tay cầm một ống điếu thúy ngọc, bước ra khỏi cửa.
Mọi tiếng động lập tức ngưng đọng hẳn, mọi người càng ngấm ngầm lo lắng cho Triệu Vô Kỵ.
Hiện tại Giả lão bản cũng đã xuất hiện, Triệu Vô Kỵ có muốn toàn thân nguyên vẹn đi ra có lẽ cũng không dễ dầu gì.
- Lui ra.
Giả lão bản quả nhiên có cái uy phong của một đại lão bản, nhẹ nhàng phẩy tay một cái, đám đại hán như bệnh cẩu đó lập tức len lén thoái lui.
Giả lão bản cao giọng:
- Không có chuyện gì không có chuyện gì, chuyện gì cũng chấm dứt hết rồi, mọi người cứ thoải mái vui chơi, muốn uống rượu thì ta mời.
Lời nói thoát ra khỏi cửa miệng của lão, người lão đã đến trước mặt Triệu Vô Kỵ, nhìn Triệu Vô Kỵ từ trên xuống dưới một lượt, khuôn mặt bạnh núng nính chợt lộ xuất một nụ cười:
- Vị này chính là Triệu công tử?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Không sai, ta họ Triệu.
Giả lão bản thốt:
- Ta họ Giả, đám bằng hữu đều gọi ta là lão Giả, là ông chủ của cái đổ trường nho nhỏ này.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Giả lão bản có phải cũng muốn mời ta ra ngoài nói chuyện?
Giả lão bản đáp:
- Không phải là ra ngoài, mà là vào trong.
Ống điếu thúy ngọc chỉ vào cánh cửa che màn:
- Bên trong có vị bằng hữu muốn đổ vài bàn với Triệu công tử.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Đổ bao nhiêu?
Giả lão bản cười cười:
- Không giới hạn, càng lớn càng tốt.
Triệu Vô Kỵ cười:
- Muốn tìm ta nói chuyện, ta có lẽ không chịu, muốn tìm ta đánh bạc, ta lúc nào cũng phụng bồi.
Giả lão bản gật gật đầu:
- Vậy thì cực hay!
Triệu Vô Kỵ và Giả lão bản bước qua cánh cửa đó, bức màn trên cửa lại hạ xuống.
Mọi người lại len lén đàm tiếu:
- Người nào mà dám đánh bạc với tên hạnh vận báo tử đó thật chẳng khác nào một con heo mập nằm chờ bị mổ xẻ.
Bên cạnh có người cười lạnh, thấp giọng nói:
- Ngươi làm sao biết được trong đó thật có người muốn cá độ với hắn? Bên trong đang đợi hắn không chừng là một thanh khoái đao, tên hạnh vận báo tử đó vừa bước vào chỉ sợ liền biến thành một con báo chết.
Trong phòng không có đao, chỉ có người.
Tính luôn Giả lão bản, tổng cộng có chín người, tám người đứng, một người ngồi.
Tám người đứng không phải là đại hán vạm vỡ thần thái uy mãnh y phục hoa lệ, mà là trung niên nhân mục quang tinh minh khôn khéo kinh nghiệm, bộ dạng không có người nào không phải là một đại lão bản.
Ngồi trên một cái ghế dựa làm bằng gỗ tử đàn bọc thảm đỏ lại là một tiểu lão đầu tiều tụy thấp bé, trên khuôn mặt vàng khè như nghệ lấp láy đôi mắt tam giác bé xíu, râu lưa thưa vài cọng như râu dê núi, đầu tóc hoa râm, cơ hồ gần rụng hết.
Nếu quả nói lão đầu đó giống như một con sơn dương, thà nói lão giống như một con khỉ.
Nhưng khí phái của lão lại khơi khơi hung mãnh hơn ai hết, tám người đứng trước mặt lão đối với lão cũng cung cung kính kính, không dám hó hé chút nào.
Triệu Vô Kỵ hơi phát lãnh trong tâm.
“Lẽ nào tiểu lão đầu mặt mày không có gì đặc biệt này chính là Đổ Vương danh chấn nam thất bắc lục cả thảy mười ba tỉnh?”
o O o
[Đổ Vương]
Trong mỗi một nghề đều có “Vương”, trong nghề cờ bạc cũng vậy.
Đổ Vương họ Tiêu, không cần biết là người biết hay không biết lão đều tôn xưng lão là Tiêu Thất thái gia.
Tiêu Thất thái gia trong cái nghề này không những vang danh mà còn có địa vị tôn quý.
Tiêu Thất thái gia bình sinh đổ lớn đổ nhỏ không dưới ngàn vạn lần, nghe nói chưa từng thua lần nào, ít ra sau ba mươi tuổi chưa từng thua.
Tiêu Thất thái gia năm nay đã bảy mươi hai.
Tiêu Thất thái gia không những đổ giỏi, mắt lại càng độc, không cần biết là “lang trung” lớn, “lang trung” nhỏ, “lang trung” chơi cho vui, hay là chuyên gia “lang trung”, chưa từng có ai dám phô trương một chút thủ pháp trước mặt ông ta, bởi vì không cần biết mình dùng thủ pháp gì, Tiêu Thất thái gia vừa nhìn là nhìn ra ngay.
Tiêu Thất thái gia vào cái ngày đại thọ sáu mươi sáu tuổi đã trải qua kim bồn tẩy thủ, thoái xuất khỏi ngành nghề.
Nghe nói Tiêu Thất thái gia lại ra mặt là vì Bát Đại Kim Cương môn hạ của ông ta thỉnh mời ra.
Lão nhân gia đã cao niên như vậy, cao thân cao phận như vậy, còn ra để làm gì?
Ra để đối phó tên hạnh vận báo tử đó, ông ta cũng muốn xem xe tên hạnh vận báo tử đó thật ra có vận may gì mà mỗi lần đều đổ ra ba mặt “lục”?
Triệu Vô Kỵ đã sớm nghe được tin đó, đương nhiên cũng nghe qua từ vị “bằng hữu” kia.
Nhưng chàng lại không tưởng được vị Đổ Vương danh chấn mười ba tỉnh đó không ngờ lại là một tiểu lão đầu xấu xí như vầy.
Tiêu Thất thái gia dùng hai bàn tay móng tay dài lộ cả ba tấc bưng một bình thuốc lào thuần ngân rít hai hơi dài rồi mới nhìn Triệu Vô Kỵ cười cười:
- Ngồi, mời ngồi.
Triệu Vô Kỵ đương nhiên ngồi xuống, chàng chưa bao giờ có thói quen đứng trước mặt người ta.
Tiêu Thất thái gia nhíu mày quan sát Triệu Vô Kỵ, nhíu mày cười hỏi:
- Vị này là Triệu công tử?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Còn quý tính của ông?
Tiêu Thất thái gia đáp:
- Ta họ Tiêu, trong nhà xếp hàng thứ bảy, cho nên người ta gọi ta là Tiêu Thất.
Triệu Vô Kỵ không có chút phản ứng nào, chừng như chưa từng nghe qua cái tên đó.
Tiêu Thất thái gia cười nhẹ:
- Nghe nói Triệu công tử gần đây vận khí không tệ?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Cũng được.
Tiêu Thất thái gia hỏi:
- Không biết Triệu công tử có chịu nể mặt tiểu lão đầu này đổ vài ván không?
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Đổ cái gì?
Tiêu Thất thái gia đáp:
- Đương nhiên là đổ xí ngầu.
Triệu Vô Kỵ cũng cười:
- Đổ cái khác tôi có lẽ không dám phụng bồi, đổ xí ngầu thì tôi lại chưa bao giờ cự tuyệt.
Tiêu Thất thái gia hỏi:
- Tại sao vậy?
Triệu Thiên Thiên cười đáp:
- Bởi vì lúc tôi đổ xí ngầu, vận khí đặc biệt tốt.
Tiêu Thất thái gia chợt giương đôi mắt tam giác nãy giờ hi hí nhìn Triệu Vô Kỵ.
Đôi mắt của lão vừa giương lên chẳng khác nào có hai đạo tinh quang bắn ra, người lần đầu tiên nhìn thấy nhất định phải giật mình.
Triệu Vô Kỵ không bị ông ta làm giật mình.
Lúc đôi mắt đó giương tròn nhìn chàng, chàng không giật mình chút nào.
Chàng trời sinh không phải là người dễ bị giật mình.
Tiêu Thất thái gia trừng trừng nhìn chàng, ánh mắt lại từ từ nhíu lại:
- Nhưng vận khí thường thường đều có thể thay đổi, có lúc vận khí tốt biến thành xấu, có lúc vận khí xấu cũng có thể biến thành tốt.
Lão cười nhẹ, lại nói:
- Chỉ có một thứ người vận khí vĩnh viễn không biến.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Thứ người nào?
Tiêu Thất thái gia đáp:
- Thứ người không dựa vào vận khí.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Không dựa vào vận khí thì dựa vào cái gì?
Tiêu Thất thái gia đáp:
- Dựa vào kỹ xảo!
Lão dùng một bàn tay bảo dưỡng kỹ càng phi thường, làm một động tác rất ưu mỹ, mới chầm chậm nói tiếp:
- Chỉ cần có một chút kỹ xảo là được rồi.
Triệu Vô Kỵ chừng như nghe hoàn toàn không hiểu gì, ngơ ngẩn hỏi:
- Kỹ xảo gì?
Tiêu Thất thái gia cũng làm như coi chàng không hiểu gì, không ngờ lại giải thích cho chàng:
- Kỹ xảo thao túng xí ngầu.
Ông ta mỉm cười, lại nói:
- Xí ngầu là vật rất đơn giản, không có sinh mệnh, cũng không có đầu óc, chỉ cần mình có chút kỹ xảo, mình muốn nó làm gì, nó có thể làm cái đó.
Triệu Vô Kỵ cười, chừng như còn chưa tin lắm, lại hỏi:
- Trên thế gian thật có chuyện đó?
Tiêu Thất thái gia đáp:
- Tuyệt đối có.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Ông có thể không?
Tiêu Thất thái gia lim dim mắt:
- Ngươi muốn thấy sao?
Triệu Vô Kỵ đáp:
- Rất muốn.
Lão phẩy tay, Giả lão bản lập tức bưng đến một cái chén lớn, trong chén có ba hột xí ngầu chạm trổ hoàn mỹ.
Giả lão bản nói:
- Cái chén này xuất xứ từ lò nung có tiếng ở trấn Cảnh Đức Giang Tây, xí ngầu là tinh phẩm điêu khắc từ Bảo Thạch lão điếm của Vương quả phụ ở kinh thành.
Tiêu Thất thái gia rất vừa lòng:
- Rất tốt, đánh bạc không những là một thứ học vấn rất cao, cũng là một thứ hưởng thụ, công cụ ngàn vạn lần không thể không kỹ càng chọn lọc.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Ta hoàn toàn đồng ý.
Tiêu Thất thái gia nói:
- Điểm quan trọng nhất là tiệm Bảo Thạch đó luôn luôn có tín, phân lượng xí ngầu chế xuất ra không những tuyệt đối hoàn toàn đúng tiêu chuẩn, mà còn tuyệt đối không phải là xí ngầu giả bơm chì hay thủy ngân.
Triệu Vô Kỵ thốt:
- Ta tin.
Tiêu Thất thái gia lại thò bàn tay bảo hộ rất kỹ càng móng tay dài ba tấc ra, cầm lấy ba hột xí ngầu đó.
Xí ngầu vừa lọt vào tay ông ta là chẳng khác gì kiếm lọt vào tay Tây Môn Xuy Tuyết đại tôn sư về kiếm thuật thiên hạ vô địch năm xưa.
Về phương diện cờ bạc, Tiêu Thất thái gia đích xác xứng đáng là nhất đại tôn sư.
Ông ta nhẹ nhàng cầm ba hột xí ngầu quăng xuống, thủ pháp của ông ta rất tự nhiên, vừa thuần thục, vừa ưu mỹ.
Triệu Vô Kỵ cả nhìn cũng bất tất phải nhìn là đã biết ba hột xí ngầu đó đổ ra nhất định là ba mặt “lục”, quả nhiên là ba mặt “lục”.
Triệu Vô Kỵ thở dài:
- Xem ra vận khí của ông gần đây cũng không tệ.
Tiêu Thất thái gia thốt:
- Đó không phải là vận khí, đó là kỹ xảo, mọi người đều có thể đem ba hột xí ngầu đó đổ ra ba mặt “lục”.
- Ồ?
Tiêu Thất thái gia hỏi:
- Ngươi không tin?
Triệu Vô Kỵ đang cười.
Tiêu Thất thái gia thốt:
- Được, các ngươi thử cho Triệu công tử xem xem.
Giả lão bản là người đầu tiên thử.
Lão cầm xí ngầu lên, quăng xuống, quả nhiên là ba mặt “lục”.
Bảy người khác mỗi người đều quăng một lần, toàn bộ đều quăng ra ba mặt “lục”.
Triệu Vô Kỵ chừng như ngây ngốc.
Tiêu Thất thái gia hỏi:
- Ngươi có nhìn ra đó là tại sao không?
Triệu Vô Kỵ lắc đầu.
Tiêu Thất thái gia làm như chàng nhìn không ra thật:
- Trong mấy hột xí ngầu đó có bơm thủy ngân, chỉ cần là người hiểu chút ít kỹ xảo là rất dễ dàng đổ ra ba mặt “lục”.
Ông ta lim dim mắt:
- Xí ngầu của tiệm Bảo Thạch tuy tuyệt không có giả, nhưng bọn ta chỉ cần dâng một chút lễ vật nho nhỏ cho lão sư phụ làm xí ngầu, tình huống bất đồng ngay.
Triệu Vô Kỵ làm như nghe đến ngây người.
Tiêu Thất thái gia quay đầu hỏi một trung niên nhân sắc mặt vàng lợt, lưỡng quyền nhô cao:
- Lần trước ngươi dâng cho lão sư phụ đó cái gì?
Trung niên nhân đó đáp:
- Là một căn nhà lớn ngoài thành tây, trước sau bảy mẫu, thêm vào toàn bộ đồ đạc trang hoàng bày biện trong nhà, lại thêm vào mỗi năm một ngàn lượng tiền dưỡng lão.
Tiêu Thất thái gia hỏi:
- Lão ở tiệm Bảo Thạch một năm có thể làm được bao nhiêu tiền?
Trung niên nhân đáp:
- Ba trăm sáu mươi quan tiền, thêm vào tiền hoa hồng, tối đa cũng chưa đến bảy trăm lượng.
Tiêu Thất thái gia nhìn Triệu Vô Kỵ cười nói:
- Đạo lý đó ngươi hiện tại đã minh bạch rồi chứ?
Triệu Vô Kỵ thở dài:
- Nếu không nhờ có ông chỉ điểm, trước đây tôi thật không nghĩ ra trong hột xí ngầu còn có học vấn cao thâm như vậy.
Tiêu Thất thái gia nói:
- Dân cờ bạc trong thiên hạ, chỉ cần nhìn thấy xí ngầu Bảo Thạch là lập tức an tâm đánh bạc, cho nên bọn chúng phải thua cả vợ cho người ta, còn há miệng nhất định tin rằng thua không oan uổng chút nào.
Ông ta cũng thở dài:
- Kỳ thật mười lần đổ đã có chín lần gian lận, người không bao giờ đổ mới là người thắng chân chính.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Nhưng còn ông?
Tiêu Thất thái gia thở dài:
- Ta đã lún sâu rồi, có bò lên lại cũng dính đầy bùn đất!
Ông ta lại nói tiếp:
- Nhưng con trai con gái cháu chắt của ta lại không cờ bạc.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Bọn họ không thích đánh bạc?
Tiêu Thất thái gia đáp:
- Đánh bạc thì ai ai cũng thích, chỉ bất quá bọn họ thích tay của mình hơn.
Ông ta điềm đạm nói tiếp:
- Mười ba đứa con trai của ta, có sáu người chỉ còn lại một tay.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Sao vậy?
Tiêu Thất thái gia đáp:
- Bởi vì bọn họ lén đi đánh bạc.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Vậy ông đã chặt đứt một bàn tay của họ?
Tiêu Thất thái gia đáp:
- Con cháu nhà họ Tiêu một khi dám đi đánh bạc, đổ lần đầu là ta chém đứt một bàn tay, đổ lần thứ nhì là ta chém đứt một bàn chân.
Triệu Vô Kỵ hỏi:
- Còn đổ lần thứ ba?
Tiêu Thất thái gia điềm đạm đáp:
- Không có ai dám đi đổ lần thứ ba, không có người nào dám.
Triệu Vô Kỵ cười khổ:
- Nếu quả tôi là con cháu nhà họ Tiêu, tôi nhất định cũng không dám.
Tiêu Thất thái gia mỉm cười:
- Nhưng ta tuyệt không phản đối người khác đánh bạc, bởi vì càng lúc càng có nhiều người đánh bạc trên thế gian này thì ngày ngày của đám người bọn ta mới càng lúc càng tốt.
Ông ta chợt quay về phía Giả lão bản hỏi:
- Ngươi có bao nhiêu đứa con?
Giả lão bản cười bồi:
- Không nhiều.
Tiêu Thất thái gia hỏi:
- Không nhiều là bao nhiêu?
Giả lão bản đáp:
- Mười bảy.
Tiêu Thất thái gia hỏi:
- Bọn chúng mỗi người mỗi một năm cần xài bao nhiêu tiền?
Giả lão bản đáp:
- Ngoại trừ đứa lớn nhất ra, mỗi một đứa bình quân phân phối một năm cỡ năm trăm lượng.
Lão lại bổ sung:
- Đứa lớn nhất thì một ngàn lượng.
Tiêu Thất thái gia hỏi:
- Trong nhà ngươi một năm tốn bao nhiêu tiền?
Giả lão bản đáp:
- Khó nói lắm, đại khái tính sơ sơ cũng chừng bảy tám ngàn lượng.
Tiêu Thất thái gia hỏi:
- Tiền ngươi xài còn chưa tính tới?
Giả lão bản cười bồi:
- Tôi mỗi ngày đều chén tạc chén thù với người ta, bằng hữu Lục Phiến Môn cũng phải ứng ra chút ít, đám vương công đại thần cũng phải chi ra chút đỉnh, mỗi năm ít ra cũng phải tốn trên vạn lượng bạc mới đủ.
Tiêu Thất thái gia thở dài:
- Nhưng một gia đình bình thường mỗi năm chỉ cần cỡ một trăm lượng bạc là đủ sống rất ấm cúng rồi.
Ông ta lại hỏi Triệu Vô Kỵ:
- Ngươi đương nhiên cũng nên tưởng được tiền lão ta xài là ở đâu ra.
Triệu Vô Kỵ gật gật đầu, chợt cười nói:
- Nhưng tiền tôi xài lại từ chỗ của lão ra.
Tiêu Thất thái gia thốt:
- Cho nên ta nghĩ bằng vào tài nghệ của ngươi, chỉ cần đừng làm thái quá, tương lai của ngươi nhất định cũng tốt đẹp như bọn họ.
Triệu Vô Kỵ nói:
- Tôi không có tài nghệ, cũng không có kỹ xảo, chỉ bất quá vận khí hên một chút.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách