Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 25691|Trả lời: 53
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại] Thực Tâm Giả | Tân Di Ổ (HOÀN)

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 16-4-2013 21:18:27 | Xem tất |Chế độ đọc
THỰC TÂM GIẢ





Tác giả: Tân Di Ổ


Edit: Sweetttwinter


Thể loại: Tiểu thuyết


Tình trạng sáng tác : Đã hoàn thành


Nguồn: http://sweetttwinter.wordpress.com/ngon-tinh/










VĂN ÁN



Bất cứ người nào trong lòng đều có một ánh trăng sáng tỏ. Người ta xem nó như là thánh kinh, mỗi một bước đi đều cung kính sùng bái.

Đối với cô gái Phương Đăng mà nói, thế giới của cô không tồn tại mặt trời.

Phó Kính Thù giống như một ánh sáng le lói, tuy không bằng ánh mặt trời chói lọi, nhưng lại đủ chiếu sáng con đường trước mắt cô.

Có thể cô biết, thế giới của Phó Kính Thù thật ra cũng không có ánh sáng.

Cho nên Phương Đăng quyết định giúp đỡ Phó Kính Thù. Nếu như anh là gương, thì cô chính là đèn. Như vậy, cô có thể chiếu sáng cho anh, hơn nữa ánh đèn khúc xạ trong gương thì có thể nhìn thấy ánh sáng.

Có thể hướng về người mình yêu, có thể biết trong lòng đối phương cũng có một chỗ dành cho mình, như vậy cho dù suốt đời chỉ có thể ở trong màn đêm tăm tối, xem ra cũng là hạnh phúc.

Thế nhưng cuối cùng Phó Kính Thù không cách gì chống lại những cám dỗ trần tục, vì đạt mục đích mà ngay cả tấm lòng của Phương Đăng, anh đều không để ý.

Trái tim mình bị Phó Kính Thù một tay hủy diệt, ánh mặt trời trong lòng Phương Đăng cũng hoàn toàn lịm tắt.

Rốt cuộc chúng ta phải làm thế nào mới có thể không đi đến đoạn kết này?

Rốt cuộc trong câu chuyện này, là ai đã gặm mòn trái tim ai?

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 16-4-2013 21:26:20 | Xem tất
ngại quá.cho ta xin ít đất nhà nàng nhé
hehe.cái này là tem của truyện mới nhá
mở hàng cho nàng luôn.đọc văn án đã thấy mê rồi
chúc nàng làm ăn khấm khá nha.

Bình luận

Ừ, mình đang chuẩn bị post :)  Đăng lúc 16-4-2013 09:40 PM
đang hóng chương đầu tiên của bạn  Đăng lúc 16-4-2013 09:37 PM
Cảm ơn bạn nhiều nha !  Đăng lúc 16-4-2013 09:34 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2013 21:31:29 | Xem tất
Mục lục:





Chương 1       ***       Chương 2         ***      Chương 3          ***       Chương 4         ***      Chương 5


Chương 6         ***       Chương 7         ***       Chương 8         ***       Chương 9          ***      Chương 10


Chương 11       ***       Chương 12        ***       Chương 13       ***       Chương 14        ***       Chương 15


Chương 16       ***       Chương 17        ***       Chương 18       ***       Chương 19         ***      Chương 20



Chương 21         ***      Chương 22       ***       Chương 23       ***         Chương 24         ***       Chương 25


Chương 26       ***       Chương 27       ***       Chương 28        ***        Chương 29       ***       Chương 30


Chương 31       ***       Chương 32       ***       Chương 33        ***        Chương 34       ***       Chương 35


Chương cuối         ***       Review













Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2013 21:46:11 | Xem tất
Vài nét về Qua Âm Châu (Thực Tâm Giả)





Lúc mới bắt đầu đọc Thực Tâm Giả, cũng như bao nhiêu độc giả khác, tôi đều có câu thắc mắc trong lòng, thật ra Qua Âm Châu nằm ở đâu trên đất Trung Hoa? Sau nhiều lần tìm kiếm, dò la tôi tình cờ lạc vào blog mà ở đó, Tân Di Ổ khẳng định, Qua Âm Châu trong truyện thật ra chính là đảo Cổ Lãng, hay còn gọi là Cổ Lãng Dự, nằm ở thành phố Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến. (Thật trùng hợp là tháng 6 năm nay tôi có chuyến đi Hạ Môn, chắc sẽ tranh thủ thời gian ghé qua nơi này)

Từ Hạ Môn đến Đảo Cổ Lãng đi phà chỉ mất 5 phút. Hòn đảo này nổi tiếng với những bãi biển dài xinh đẹp, kiến trúc độc đáo, khung cảnh bình yên. Hòn đảo này không thể đi xe đến, phương tiện giao thông duy nhất kết nối với đất liền là phà. Đảo Cổ Lãng từ xưa đã có nhiều người nước ngoài sinh sống, nên văn hóa và kiến trúc Tây phương ảnh hưởng sâu sắc đến dân cư trên đảo. Hòn đảo này còn có bảo tàng đàn piano, và được mệnh danh là Hòn đảo Dương Cầm (Dương cầm chi hương).

Sau đây là vài hình ảnh gợi nhớ đến không khí trong “Thực Tâm Giả”

Con đường mòn uốn lượn, nơi Phương Đăng và Phó Kính Thù cùng đi học về, còn vang vọng đâu đây tiếng kêu “Tiểu Thất”

Cô nhi viện Thánh Ân.

Đây có phải là căn phòng trọ của Phương Đăng, trong và ngoài cửa, cha cô và Tiểu Thất, hai thế giới phân chia rõ rệt.

Hoa viên Phó gia năm đó phải không? Ai đã bỏ đi vì tương lai của ai chứ?

Trường học của họ, sau sự kiện đánh nhau lần đó, lần đầu tiên Phương Đăng giận Phó Kính Thù.

Đây là quán rượu trong sách nhắc đến, nơi cha của Phương Đăng chết, và nhiều chuyển biến khác trong đời cô đã xảy ra.

Tượng của Trần Gia Canh – nguyên bản là ông cố của Phó Thất trong truyện.

Đây là đoạn video về đảo Cổ Lãng, xem qua, chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa, hồn của Qua Âm Châu trăm năm mà Tân Di Ổ đề cập chính là đây.








( Link này xem video rõ hơn : http://www.youtube.com/watch?fea ... d&v=QAUROl97xBw )


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2013 21:49:28 | Xem tất


Chương 1: Bí mật Qua Âm Châu





Ấn tượng về Qua Âm Châu trong lòng Phương Đăng giống như một tấm gấm Tô Châu sờn cũ, vừa tú lệ lại vừa phủ đầy tro bụi của thời gian. Người ta luôn cho rằng nó đẹp, nhưng lại không cẩn thận ngắm nhìn. Có thể cũng do mùi vị ẩm ướt của thủy triều, nhưng đó cũng là mùi vị mốc meo mà nơi khác không hề có được. Nhưng chỉ mới một tuần trước thôi, điều này chỉ tồn tại trong tưởng tượng của cô, cô sinh ở khu vực phía Nam, trong suốt mười lăm năm của cuộc đời chưa từng bước đến hòn đảo nhỏ này, nơi cha cô từng sống, tựa như cô chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy Gấm Tô Châu, tất cả đều là do cô Chu Nhan lúc còn minh mẫn kể lại.

Tám tháng trước, cô cô qua đời, chỉ còn lại hai cha con Phương Đăng. Vì thiếu tiền, chủ nợ truy đuổi gắt gao, cùng đường, cha cô mới dẫn theo con gái quay lại nơi này. Còn số tiền thiếu, là cô cô hay cha nợ, Phương Đăng không biết cũng không hỏi. Cô đã quen với kiểu chuyển từ nhà cao đến nhà thấp. Lần này điểm đáng nói duy nhất vì nơi cô đến là Qua Âm Châu, một nơi cô hoàn toàn xa lạ nhưng lại có thể gọi ra vô số tên các con hẻm nhỏ ở địa phương. Lao đến mà không cần biết đích phía trước, không phải “đi đến” mà là “trở về”, Phương Đăng phát hiện, bản thân cô cũng không ghét thứ cảm giác này.

Trước khi chuyển đi, Phương Đăng vừa mới học xong năm lớp mười. Lần này vì ghét thủ tục chuyển trường phức tạp, cha cô không muốn để cô đi học tiếp. Tuy là ít tiền trường ông cũng miễn cưỡng đưa ra, nhưng vì ông cảm thấy học nhiều như vậy kiến thức cũng chẳng để làm gì, không bằng dùng số tiền đó đem đi mua rượu. Phương Đăng cũng không muốn cãi lời cha. Cho dù có thể đầu tư thời gian, công sức, biểu hiện của cô cũng không tệ, cô chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có ngày chỉ vì khổ công học hành mà cô trở thành trụ cột trong xã hội này. Cuối cùng, tất cả đều nhờ vào những nhân viên từ Văn phòng Khu phố và Trường học đến nhà thuyết khách: “Quốc gia khuyến khích nữ nhân cũng phải đọc nhiều sách”, “Dù sao cũng đã học nửa học kỳ, kết quả thế nào đi nữa, lấy được bằng tú tài mới không thua thiệt”, với các lý do đó, lúc này cha cô mới đồng ý. Người đàn ông này chỉ tỏ ra mạnh mẽ với con gái ở nhà lúc say xỉn, còn đối với đại đa số người ngoài, ông luôn là kiểu người bảo sao nghe vậy. Hơn nữa, gắn mác “Nhà nước” hoặc nghe từ “Quốc gia” vào, ông ta nhất định không can đảm mà nói dù chỉ nửa từ “Không”. Phương Đăng ngồi ở góc phòng nhìn cha mình khom lưng tiễn người thuyết khách đi, trong lòng cảm thấy có chút buồn cười. Chiều hôm đó, cô đội mưa tự đi làm thủ tục nhập học cho mình.

Qua Âm Châu chỉ có một trường trung học, bao gồm Trung học cấp một và trung học cấp hai, học sinh hơn một nửa là con cái của cư dân trên đảo, cả trường tính luôn thầy lẫn trò cũng chưa đầy ba trăm người. Trường học này lúc trước là do giáo hội dựng nên, sau khi giải phóng thì đổi thành trường công lập, đến nay còn có một hai “chị em” lâu năm phục vụ ở phòng ăn và thư viện. Những con người đặc biệt đó giống như “lão làng” và những ngôi nhà đổ nát rải rác trên đảo, đều nhớ rõ quá khứ của hòn đảo nhỏ này.

Hơn nửa thế kỷ trước, Qua Âm Châu còn được xem là một thành thị nằm ở rìa các hòn đảo nhỏ vô danh, rải rác khắp nơi trên các thửa ruộng trồng dưa, cái tên Qua Âm Châu cũng từ đó mà ra đời. Lúc này người dân ở đây chỉ ăn hải sản trên biển, sinh sống bằng nghề đánh cá. Lúc chiến tranh loạn lạc, cuộc sống khó khăn,  nơi đây lại là lối đi thông ra biển, trên đảo không ít người trở thành “Lợn con”, một nửa bị lừa gạt, một nửa bị bán ra nước ngoài làm lao công, còn một phần nhỏ không chịu được cảnh mùa màng đói kém, trôi dạt xuống Nam Dương. Đa số những người này đều trở thành các linh hồn tha hương, không thể quay về nguồn cội, nhưng cũng có nhiều người mạng lớn, gan dạ mà tạo được của cải vô số. Dân bản xứ đầu óc linh hoạt, chịu đựng cơ khổ, hơn nữa nặng tình yêu cố thổ, bất luận lẫn lộn với bên ngoài thế nào, hứng phải mưa gió thế nào, cũng đều mong về già lá rụng về cội, được chôn xương trên đảo nhỏ, cho nên những người giàu có áo gấm về làng kia một lần nữa ở trên đảo này dựng lên những ngôi nhà lớn để sau này đưa gia đình cùng về dưỡng già. Họ như làn sóng cuồn cuộn không ngừng trở về hòn đảo trước kia rất cô tịch, dần dần, ruộng dưa bị ngói đỏ tường trắng thay thế, đường ruộng ngang dọc bùn lầy thay bằng các cửa hàng lát đá xanh, những con đường quanh co uốn lượn dẫn vào các ngôi nhà lớn giàu có đầy cây xanh hoa đẹp. Từ đó trở đi, Qua Âm Châu nổi tiếng xa gần là nơi tập trung kiều bào hồi hương nhiều nhất, người có tiền từ nơi khác cũng đến đây xây nhà ở. Nhất thời, hòn đảo nhỏ tụ tập đầy người giàu có, rải rác các phú thương, đô thị phồn hoa cả ngày làm bạn với gió biển..

Nhưng tất cả đều là chuyện xưa, trải qua hơn trăm năm thay đổi, đầu tiên là khi chiến tranh bị quân Nhật giày xéo, sau đó đến Cách Mạng Văn hóa rối reng, hậu duệ của các gia đình giàu có kia đa số đi khỏi nơi này, trốn ra nước ngoài, những gia đình không di dời mà ở lại thì phân nửa cũng trở nên suy bại. Các ngôi nhà lầu cao lớn trở nên trống vắng, sau đó quá trình giải phóng Tân Kỹ Nghệ lại đem đến một số lượng cư dân mới, đời ông nội Phương Đăng nghe nói chính lúc này đã di cư lên đảo. Bọn họ lấy thân phận chủ nhân mới của xã hội chủ nghĩa tịch thu, thường dân chỉ có thể nhìn lên các đình đài lầu ngòi, các vườn hoa cũ, các tiểu lâu, hành lang, đại viện bị phân chia thành vô số gian phòng nhỏ, những cây Bạch Ngọc Lan lung lay đưa hương theo gió và các gốc cổ thụ già um tùm phơi rể, sự giàu có đẹp đẽ trở nên xa xôi và mông lung, phố thị ồn ào náo nhiệt bị thay thế bằng dung tục tầm thường, các con hẻm nhỏ thường xuyên bị mất cắp phụ kiện đồng trong đèn đường, các lan can đá cẩm thạch được chạm trổ tinh xảo vẫn khư khư kể về quá khứ.

Cho đến bây giờ Phương Đăng vẫn vô duyên với những thứ tinh hoa xa xỉ. Cô có thể cảm giác được, mỗi góc sân hoang phế trên đảo, mỗi khối gạch xanh bị tàn phá đều từ khe hở tràn ra những cảnh tượng ngày xưa, cực kỳ khác biệt với cuộc sống bình yên của cô, nhưng cũng rất khó tưởng tượng cuối cùng là khác biệt ở chỗ nào. Dù chỉ mới mười lăm tuổi, cô cũng mơ hồ hiểu, cảnh tượng phồn hoa của Qua Âm Châu không thể nào trở lại, nó giống như đã đi qua sự nhộn nhịp của một nền văn minh cũ, là mùi vị hấp dẫn khó lòng diễn tả, tốt hơn nhiều so với thời khai nguyên cằn cỗi và hoang vắng. Hơn nữa đây là hòn đảo được thiên nhiên ưu ái ban tặng đầy đủ sắc màu độc đáo, biển đảo xanh mướt, gió biển ẩm ướt, cô cô và cha của Phương Đăng đều yêu thích mùi vị ngọt ngào của quê hương. Cô không nghĩ ra tại sao lúc đầu họ chịu rời khỏi nơi này?

Đang đi qua mùa mưa, mưa nhỏ lách tách một tuần nay không hề dứt. Phương Đăng trên đường từ trường học trở về chợt nghĩ, nói không chừng, mình đối với quá khứ của Qua Âm Châu luôn là hơi nước hòa trong trí tưởng tượng, không phải vì làn sương mù phả ra từ miệng cô cô lúc nhắc chuyện quá khứ, cũng không phải vì lúc cô cô che giấu vẻ u sầu trên mặt mà là vì nơi đây là nơi quá khó để nhìn thấy mặt trời, không mưa thì là sương mù, làm cho người ta cảm thấy u ám đến tận xương tủy.

Đi đến căn nhà nằm giữa hẻm, cô sập dù lại, chui vào lối đi vừa hẹp vừa tối. Tiếng của ông chủ cửa hàng tạp hóa và mùi khai của nước tiểu xông vào mũi như âm hồn không tiêu tán.

“Cô bé nhà họ Phương, không gọi tôi lên uống rượu với “máu mủ” nhà các người à?”

Phương Đăng không trả lời, rũ nước mưa trên dù, đập thình thịch lên mặt đất. Cô và cha cô lúc mới đặt chân đến đây đã ở trong con hẻm ngay giữa đảo, hay nói chính xác hơn là một ngôi nhà xây bất hợp pháp ở giữa hai tòa nhà cũ của Thánh đường bỏ hoang và cô nhi viện Thánh Ân. Tầng dưới là cửa hàng tạp hóa duy nhất trên đảo, đối diện là hoa viên nhà họ Phó nổi tiếng ở Qua Âm Châu, vị trí  được coi là “Đắc địa”. Ông chủ tiệm tạp hóa dùng gạch đỏ thay tường, xây căn lầu nhỏ hai tầng xiêu vẹo, trên nóc che bằng gạch ngói xi măng, tầng một là cửa hàng và nơi ở của mình, trên lầu chia thành vài “chuồng bồ câu” cho người ta mướn. Phương Đăng cùng cha ở nửa tầng trên gác lửng. Mỗi khi bên ngoài trời mưa to, cơ hồ chỉ cần chạm đến tấm gạch ngói xi măng trên đầu là nước rơi tí tách tạo thành một cơn mưa nhỏ khác.

Đi vào gian phòng nhỏ dùng màn vải che thành hai nửa, quả nhiên như Phương Đăng đoán, cha cô – Phương Học Nông đang nằm ngủ gà ngủ gật trên chiếc giường bằng tre ở bên ngoài. Trước khi ra ngoài, cô đã dùng thùng  nhựa để hứng mưa nhỏ xuống trên nóc nhà, lúc này trên rảnh nước không ngừng tràn ra, vậy mà Phương Học Nông vẫn bình yên say ngủ, y như là không có cảm giác.

Phương Đăng không nói một lời, giơ cao chiếc thùng đi tới bên cửa sổ, dùng sức hướng ngay giữa mặt đường. Có lẽ nước bắn lên cửa, ở lầu dưới chủ tiệm tạp hóa mắng mấy tiếng. Đang lúc này, cô nhìn thấy màn cửa sổ của góc phòng ngay lầu hai trong khu vườn nhà họ Phó đối diện giật giật, có lẽ người ở bên trong giật mình do tiếng nước mà cô dội xuống, một bàn tay vén nhẹ góc màn ở cửa sổ lên, lộ ra nửa mặt người đứng bên cửa sổ, chiếc rèm cửa lại bị kéo xuống, cánh cửa sổ lá sách nhẹ nhàng khép lại từ bên trong.

Đây là lần đầu kể từ khi dọn đến đây, Phương Đăng cảm nhận được động tĩnh của phía đối diện. Chỉ mấy ngày trước kia, cánh cửa trong con hẻm và hầu hết các khu vườn ngoài cửa sổ luôn được bao phủ bởi một tấm màn nhung dầy cộm đỏ thẫm, thế giới bên khung cửa từng một thời cực thịnh vậy mà bây giờ cùng với ngôi vườn hoang phế của Phó gia trong truyền thuyết đều thần bí như nhau.  Khoảng cách cùng lắm chỉ là hai ba mươi mét, vậy mà ngôi biệt thự tư nhân kia cùng con hẻm nhỏ này giống như cách xa một trời một vực, cuộc sống bên này càng thêm tươi mới, thêm nhiều âm thanh huyên náo, càng nhiều hơi thở thế tục, những lời đối đáp thô tục… Là hơi thở của cuộc sống.

Phải, nếu so sánh với bên này, khu vườn nhà họ Phó đối diện bình yên như chết. Nếu như không phải là âm thanh ồn ào của tiếng mưa rơi vào trong sân, có những tàn cây cổ cao che trời, tiếng gió vù vù xuyên qua bốn bề hành lang trống rỗng, thỉnh thoảng mưa nhỏ lại, chú chim nhỏ vỗ cánh ghé vào vách tường căn gác nhỏ, đậu trên lá cây huyết đằng,thì nó giống như chiếc quan tài pha lê khổng lồ bị đóng băng với thời gian, như bức tranh cổ trong câu chuyện liêu trai mê hoặc lòng người, tĩnh mịch, u ám, thế giới đằng sau bức rèm phảng phất như không mưa gió nào có thể ăn mòn được.

Đây mới là Qua Âm Châu theo lời kể của cô Chu Nhan, hồn phách Qua Âm Châu co ro ẩn mình trong đất nhà giàu đã bị bỏ hoang hơn nửa cùng với Phương Đăng, cha cô – Phương Học Nông, chủ tiệm tạp hóa ở lầu dưới cùng nhà và với đa số người dân trên đảo hôm nay đều không có bất kỳ quan hệ gì. Nếu như có ai đó đang ngồi sau chiếc rèm này, Phương Đăng nghĩ thầm, hẳn là cũng giống cô Chu Nhan, một mỹ nhân già cỗi, da thịt cằn khô nhưng vẫn còn phảng phất vẻ kiều diễm nhu mì, ngồi ngay ngắn trước đèn, xa xa mọi người đều tập trung phỏng đoán vẻ đẹp rạng ngời của ngày xưa.

Chẳng qua đây cũng chỉ là điều cô gái nhỏ Phương Đăng tưởng tượng, nhưng nếu nghĩ sâu xa, sẽ phát hiện sự tưởng tượng này hình như gượng gạo. Nhà họ Phó năm đó một thời hiển hách, hôm nay tuy không so được với ngày xưa nhưng con cháu một nửa đều ở nước ngoài, cũng coi là không bị suy vong, cho đến giờ, một phần nguồn kinh tế của cô nhi viện Thánh Ân đều là do hậu nhân của nhà họ Phó đích thân quyên góp. Đúng là hậu nhân nhà giàu có, dù không nói ra, nhưng Phương Đăng đã cương quyết sẽ không giống như cô Chu Nhan, phải dựa vào “việc đó” để kiếm cơm. Huống chi cô Chu Nhan cùng cha cô Phương Nông Học đều cùng một mẹ sinh ra, đời trước đều xuất thân nghèo khổ, chưa từng trải qua phú quý giàu sang. Những điều này trong lòng Phương Đăng đều hiểu rõ, chẳng qua cô nghi hoặc… tại sao người ta nói…

“Dù mày có đổ bao nhiêu lần đi nữa, cái nhà này cũng không ngăn nắp gọn gàng đến nở hoa được đâu!”

Phương Nông Học trở mình trên giường tre, lầm bầm một câu trong cổ họng, cắt đứt suy nghĩ kỳ quái của Phương Đăng.

Phương Đăng nặng nề xách chiếc thùng nhựa đặt lại chỗ cũ, nhanh mồm trả lời: “Nếu con để yên, người cha có thể mọc rêu xanh luôn đó.”

Phương Nông Học hừ hai tiếng, giống như đang cười. Khó khăn lắm mới có một buổi chiều ông ta không say rượu. Ở trên đảo mấy ngày, Phương Đăng bắt đầu cảm thụ sâu sắc được cha cô quả không hổ là người xuất thân từ Qua Âm Châu. Ở đây đa số người dân lớn tuổi đều biết tên ông – dĩ nhiên, hơn một nửa bọn họ đều gọi ông bằng biệt danh không hay cho lắm “Phương máu mủ”, lời chào hỏi và nụ cười trên mặt họ đều mang vẻ khinh miệt giống y nhau.

Chẳng thể trách người khác coi thường, Phương Đăng cũng biết ba mình rất uất ức. Lúc còn trẻ ông cũng không có công việc đàng hoàng, chỉ dựa vào làm những việc mà người khác không muốn làm để kiếm sống. Ví dụ như con cái nhà ai chết yểu, thường sẽ giao cho Phương Học Nông, chỉ cần chi cho ông ta ít tiền hay ít gạo, gì cũng được, ông ta sẽ đứng ra tìm chỗ chôn ngay. Nếu trên đảo có tang sự, gánh thi hài, nâng quan tài, rắc tiền vàng bạch… đều là sở trường trong tay ông ấy. Lúc không có loại việc này để làm, dọn dẹp hố xí cho người ta, thu rác rưởi, chỉ cần đổi lấy ít tiền sống tạm qua ngày, tất cả ông đều tự nguyện làm. Phương Học Nông không có dũng khí, cũng chẳng đặng đừng, dù ai nói lời cay nghiệt cỡ nào đều cười hì hì, ngày thường cũng lôi thôi lếch thếch, có ít tiền đều đem mua rượu uống, tất cả mọi người đều đem ông ra làm chuyện kể khôi hài. Cũng chẳng biết tên ác miệng nào bày đầu, mọi người liền y theo gọi tên ông là “Phương máu mủ”, ông cũng thuận miệng trả lời.

Mấy năm ở bên ngoài với em gái cùng mẹ khác cha Chu Nhan, lúc đầu Phương Học Nông chỉ làm các công việc vặt vãnh. Ông uống rượu nhiều, không làm được các công việc đòi hỏi dùng sức, trong trí nhớ của Phương Đồng, tuổi thơ của cô luôn là bữa đói bữa no. Sau đó có một ngày, cô Chu Nhan tháo màn vải trong phòng xuống, Phương Học Nông kéo bé Phương Đăng ra ngồi dưới hiên ngoài cửa cả buổi chiều, bất luận con gái hỏi gì, ông đều không lên tiếng. Chạng vạng tối, Phương Đăng thấy cô mình lấy mấy tờ ngân phiếu đặt vào tay cha, cô nhớ rõ ràng lúc đó mặt trời vừa lặn qua núi, bầu trời hơi tối, tóc của cô Chu Nhan xốc xếch, trên mặt không lộ chút cảm xúc nào. Nhưng khi nhận lấy tiền, Phương Học Nông khóc lớn, buổi tối đập vỡ bình rượu, uống say đến tận chiều hôm sau. Mấy ngày sau đó, ông thường xuyên từ bên ngoài đưa đàn ông về tới phòng của người cô, rồi ngồi bên ngoài uống rượu, lại từ trong tay người cô đón lấy những đồng tiền có khi cũ có khi mới, đi mua đồ ăn cho bọn họ. Sau khi Chu Nhan chết, Phương Học Nông cũng hết sức lăn lộn bên ngoài, liền mang theo Phương Đăng trở về Qua Âm Châu, tính làm nghề xưa để kiếm sống. Ông thường xuyên trơ mặt ra nhìn Phương Đăng cười, nói chỉ vài năm nữa thôi, con gái có thể giúp ông dưỡng lão.

Công bằng mà nói, Phương Học Nông đối với Phương Đăng không quá tệ, dù là bản thân hạ tiện như rác rưởi, nhưng cũng không hề bỏ đói đứa con gái duy nhất này một bữa nào, hơn nữa cũng không có ngược đãi cô, cùng lắm khi say rượu về tóm lấy cô cho hả giận, nếu nổi cơn lên thì tuyên bố phải đem con gái đi bán. Có thể nói vài năm gần đây, Phương Đăng cũng không còn quá sợ ông ta bán cô, ngay cả cơm ông ta cũng không thể tự ăn, có say chết cũng không người biết. Lúc ông ta điên lên vì cơn say cô cũng không còn sợ, trước đây không lâu có một lần, ông uống rượu say lên, vô cớ sai bảo Phương Đăng làm cái này làm cái nọ, Phương Đăng mãi làm bài tập không để ý, ông ta vô cớ nổi giận, níu lấy tóc con gái tóm vào tường. Phương Đăng giãy giụa mấy cái, da đầu đau đến tê dại, vẫn không thoát được tay ông, vội vàng nhấc chân nhắm thẳng vào bụng con sâu rượu đạp một phát, Phương Học Nông buông tay, té ngồi ở góc tường hồi lâu không đứng lên nổi. Ngày hôm sau tỉnh rượu, ông ta chỉ lầm bầm vuốt bụng nhưng cũng không nhắc đến chuyện đêm qua.

Có lúc Phương Đăng nghĩ, trên đời này làm gì có người con gái nào ngu xuẩn đến mức sinh con đẻ cái cho người như cha cô.Nhưng nếu như không có người con gái như vậy thì cô làm thế nào mà ra đời? Chẳng lẽ cô là con nuôi? Phương Học Nông nuôi sống bản thân đã khó khăn, làm sao vĩ đại đến mức thu dụng một người không hề có liên hệ gì đến mình? Có một thời gian, hình như là sau khi tốt nghiệp tiểu học không lâu, Phương Đăng hoài nghi mình là con của cô Chu Nhan. Cô thậm chí ngượng ngùng gọi cô của mình là “mẹ” nhưng người cô chưa bao giờ trả lời. Phương Đăng càng gọi, cô Chu Nhan không chịu nổi liền đẩy cô đi chỗ khác.

Cho tới giờ Phương Đăng cũng không biết mình từ đâu tới, nhưng cô đã học được thái độ chẳng quan tâm. Được nhặt về cũng tốt, là con ruột Phương Học Nông cũng tốt, do người cô sinh ra cũng tốt, đối với Phương Đăng mà nói đều không có gì khác.Cô vẫn tròn mười lăm tuổi, chỉ mấy năm nữa thôi đã có thể tự làm chủ bản thân mình.

Như thường lệ Phương Đăng ngồi ở cửa sổ, lấy ánh sáng mà nhặt rau, một lúc không kềm chế được cô lại nhìn về cánh cửa sổ hướng bên kia. Khuôn mặt vừa hé lộ ra sau cửa sổ đã khơi dậy điểm tò mò sâu nhất trong nội tâm cô, nhưng đến khi nàng đã nhặt xong bó rau cho bữa trưa mai, bên phía kia vẫn không có bất kỳ động tĩnh gì, ngay cả tấm rèm màu đỏ thắm cũng im lìm sau cánh cửa sổ lá sác đóng chặt lại, huống hồ gì là người ở phía sau rèm.

Phương Đăng dù sao cũng là một cô bé, trong lòng rất hiếu kỳ, ngơ ngẩn một hồi, không nhịn được liều quay sang nhìn người nằm trên giường, hỏi: “Cha, người ta đều nói con cái nhà họ Phó đều ở nước ngoài, vậy tại sao trong hoa viên có người ở? Người đó là ai?”

“Mày để ý chuyện này làm gì?” – Một hồi lâu Phương Học Nông mới trả lời.

“Con chỉ tiện miệng hỏi thôi. Không phải nói Chính phủ đã đem nhà trả lại cho họ Phó sao? Bọn họ giàu như vậy, sao lại để cho đất đai tổ tiên hoang phế chứ?”

“Tao không biết, chuyện này với mày có can hệ gì? Với tao lại có quan hệ chó gì chứ?” – Phương Học Nông ngồi dậy, tiếng giường tre kêu những tiếng kẽo kẹt sắc lẻm khi ông đột ngột bật lên.

Phương Đăng không phải là ngốc, cô sớm biết cha mình dù luôn miệng nói chuyện ở nhà đối diện không có quan hệ gì, nhưng mỗi khi cô vô tình hay cố ý nhắc tới nhà họ Phó, cha cô luôn hết sức phiền não. Ông ta vốn quen bị người khác chà đạp, vậy mà mấy ngày nay sau khi uống rượu, ông cũng theo bản năng mà nhìn lấm lét về hướng nhà đối diện. Chỉ là không giống như sự tò mò của Phương Đăng, ánh mắt của Phương Học Nông nhìn về nhà họ Phó tràn đầy sự độc địa tiểu nhân. Càng nói thì sự nghi ngờ trong lòng Phương Đăng càng to lớn hơn. Cô đã hiểu được không ít chuyện, bên ngoài nghe được lời đồn đại, còn có những đầu mối mà trước đây cô Chu Nhan vô tình thổ lộ với cô, tạo nên một sợi dây vô hình vặn vẹo. Sợi dây bên này bện chặt cô và người cô, với cha cô, còn đầu bên kia lại như con rắn độc từ từ trườn về cánh cửa sổ tuy gần trong gang tấc lại xa đến ngàn dặm kia. Nghĩ đến đây, cô cũng không kềm chế được, nói ra những lời định giữ trong lòng.

“Trước đây cô có sinh một đứa bé, bây giờ nó đang ở trong hoa viên của nhà họ Phó phải không?”

Phương Học Nông sửng sốt một hồi, mặt nghệch ra đỏ bừng, giống như là sắp nổi trận lôi đình, ngay cả lời nói cũng không thốt ra nổi. “Thật là… nói láo, mày nghe ở đâu…Cô của mày làm sao có thể…với cái loại cầm thú nhà đối diện không có chút quan hệ nào… Không có…”

“Cha định gạt ai chứ? Cô và cha đều không gạt được con. Cha thử đi hỏi xem, trên đảo này có ai mà không biết?”

Phương Đăng không hề nói láo, trước kia cô cô định xuất giá, nghe nói đối phương mang họ Phó. Cô cô cũng từng nói qua với Phương Đăng là mình từng sinh một đứa con trai, lại lớn hơn Phương Đăng hai tuổi. Hơn nữa ngày thứ hai sau khi Phương Đăng cùng cha dọn vào đây, ông bà chủ tiệm tạp hóa dưới nhà liền lấy cô ra đùa: “Bé con, mày không phải là cháu gái Chu Nhan sao? Sao không vào nhà lớn đối diện? Dù sao đều là người một nhà cả mà”.

Những quá khứ đều chỉ là lời đồn đại hoặc che giấu trong vài câu nói, hay thật ra cô Chu Nhan đã rời khỏi Qua Âm Châu vì nguyên nhân này, cũng là nguyên nhân Phương Nông Học tránh nhắc đến, vậy mà, mười mấy năm trôi qua, chuyện này ở Qua Âm Châu cũng không phải điều gì bí mật.

Bình luận

bóc cái tem đầu nào!!!!!!!!  Đăng lúc 17-4-2013 05:24 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 16-4-2013 22:36:46 | Xem tất


Chương 2: Khu vườn ảo mộng




Phương Học Nông lại ngủ vùi sau cơn say bí tỉ. Phương Đăng nằm trên chiếc giường nhỏ bên kia rèm, nghe tiếng chai rượu thủy tinh rơi xuống đất đánh ầm một tiếng nhưng không vỡ, quay tít trên sàn nhà, ngay sau đó là tiếng ngáy lớn của cha cô như sóng cuồn cuộn tới. Cô thử cố thiếp đi, chợt mùi tanh của bùn từ xung quanh bay tới, lúc này cô mới biết, thứ âm thanh thay nhau ập đến không phải là tiếng ngáy, mà là tiếng gió.

Gió thổi rơm rạ quét qua gò má Phương Đăng, cô cúi đầu, hoa dại không tên bị cô giẫm dưới lòng bàn chân, bốn phía là cỏ hoang khô héo cao đến ngực cô, đổ rạp trong gió, cúi đầu, nỉ non thì thầm. Căn phòng nhỏ mà cô và cha thuê trọ biến thành một bóng xám nhạt nhòa phía sau lưng, cách Phương Đăng không xa, đằng sau cây kê huyết đằng có hoa màu tím và những sợi râu lòng thòng của cây đa, rèm cửa sổ màu đỏ khẽ rung lên trong gió.

Vậy là cô đang ở trong sân vườn hoang của Phó gia hoa viên. Mảnh đất tổ của ông vua cao su Nam Dương xinh đẹp trong truyền thuyết đã thành một khu vườn hoang tàn, chỉ có căn lầu nhỏ ở phía Đông vẫn giữ nguyên, hành lang bằng đá ngọc bích ở phía Tây đã sụp đổ chỉ còn là đống gạch ảm đạm.

Phương Đăng dẹt cỏ phía trước, đi về hướng căn lầu nhỏ. Rõ ràng khoảng cách cùng lắm chỉ khoảng mười mấy bước, có thể do cây cỏ rậm rạp dưới chân giống như tấm lưới buộc lại, khiến chân cô chậm chạp, ngón tay bị cỏ cào nứt nẻ, nhưng không đau. Cô thở hồng hộc, cánh cửa sổ kia vẫn còn xa lắm. Trong lòng như lửa đốt, Phương Đăng không chút suy nghĩ liền quay về hướng cửa sổ đó kêu lên một cái tên.

Từ đâu cô nghe được cái tên này? Là trong tiếng than khóc của cô cô, hay là từ những lời nói linh tinh của những người rảnh rỗi trên đảo? Cái tên đó bị gió thổi bay tứ tán, lúc này, tấm rèm cửa sổ màu đỏ có một người từ từ kéo ra.

Anh đứng ngay bậu hoa hình vòm cung bên cửa sổ, lẳng lặng nhìn Phương Đăng ở bên ngoài, chính là khuôn mặt từng hoảng hốt vào buổi chiều nay, vừa đẹp vừa nhợt nhạt, phảng phất tựa như đá cẩm thạch sau khi bị mưa trút nước dội qua, sạch sẽ lại hơi lạnh lẽo.

Trong mắt Phương Đăng, mùa mưa triền miên ở Qua Âm Châu lần đầu tiên trở nên quang đãng. Đằng sau anh, cũng là thế giới mà cô tò mò sau khung cửa sổ, lại là một mảnh trời màu xanh, mang theo sự trong sáng an nhiên đặc biệt khi cơn mưa to đi qua, không thấy được bờ bến.

Dáng vẻ cô lúc đó để lộ sự ngốc nghếch, giống như con bé nhà quê lên tỉnh, thậm chí có chút sợ hãi, từ từ dừng bước, không dám tiến lên, lại không muốn bỏ đi.

Không ai lên tiếng, cô nghe thấy tiếng gió, vậy thì tốt… Nhưng, sao gió lại từ từ xen lẫn vào tiếng trả lời nhẹ nhàng, nghe quen thuộc, giống như… hạt mưa nhỏ xuống phiến ngói xi măng.

Phương Đăng mở mắt, rồi mau chóng nhắm mắt lại, chỉ uổng công thôi, cô đã tỉnh. Không có bầu trời màu xanh, thế giới ngoài cửa sổ chìm trong cơn mưa lặng lẽ buổi sáng sớm.

Buổi tối sau khi Phương Học Nông uống xong hơn nửa bình rượu mạnh liền nôn đầy nhà. Đang qua ngày chủ nhật, mai phải đến trường, Phương Đăng cố hết sức mới dọn dẹp xong tàn cuộc, sau đó đi nấu cháo cho hai cha con. Buổi trưa, Phương Học Nông mơ màng từ từ bò dậy, chuyện đầu tiên là sai con gái đi xuống lầu mua rượu. Trước kia ông cũng uống nhiều, nhưng giống như hôm nay, vừa thức dậy lại muốn uống rượu thì là chuyện hiếm.

“Không có tiền!” Phương Đăng tức giận từ chối. Sau khi dọn đến Qua Âm Châu, cha cô không ra ngoài làm việc, trong tay cô có một ít tiền, đó là tiền ăn cho hai người trong nửa tháng, có đánh chết cô cũng không đưa ra.

“Không có tiền thì nợ, mày xuống lầu nói với lão Đỗ là tao muốn uống rượu, lão ta sẽ đưa không”.

Nghe vậy Phương Đăng cười nhạt, lão chủ tiệm tạp hóa dưới lầu chỉ biết hỏi: “Thằng cha Phương máu mủ lúc nào mới có thể đóng tiền phòng nửa tháng sau đây?”

Phương Học Nông thấy con gái không lên tiếng, bực bội đưa tay đẩy cô: “Đi, mua rượu!!!”

Phương Đăng vốn định đẩy tay cha xuống, ngẩng đầu lên thấy cặp mắt đục ngầu của cha mình, trong mắt phủ đầy những tia đỏ màu máu, vẻ mặt lại hết sức bi thương. Đã rất lâu cô không cảm nhận tình huyết nhục ở người đàn ông này, trừ khát khao với rượu, còn lại ông ta đều như cái xác không hồn, lúc cô cô Chu Nhan chết, ông chỉ thẫn thờ đem đi hỏa táng.

“Ngoan nào, tao chỉ muốn nửa cân, uống xong nửa cân này sẽ không uống nửa”. Phương Học Nông lấy giọng nhẹ nhàng van nài con gái, ông ta biết nếu tự mình đi, lão Đỗ sẽ không bao giờ bán.

Phương Đăng dĩ nhiên không tin lời một con ma men, nhưng cô chợt cảm thấy xót thương con người bạt nhược này. Ông ta sống trên đời này còn có ý nghĩa gì? Có gì vui vẻ? Trừ cơn mê ngắn ngủi sau khi bị cồn trong rượu kích thích.

“Tốt nhất là uống chết luôn đi!”.

Phương Đăng kẹp tóc lại rồi đi nhanh xuống lầu. Cô biết rõ không thể mua thiếu. Có khi tạm thời tiết kiệm được chút tiền, rồi cũng sẽ đánh đổi bằng thứ khác. Lúc cô đem tiền nửa cân rượu bỏ lên chiếc tủ kính đầy vết nứt bẩn thỉu trong tửu điếm của lão Đỗ, ông ta rót rượu, đem bình đưa lại cho cô, không biết vô tình hay cố ý sờ một cái lên mu bàn tay Phương Đăng.

Tay Phương Đăng run lên, chai rượu chưa đậy nắp bắn mấy giọt ra ngoài, mùi vị đó khiến người ta muốn nôn nửa, cô không động đậy, liếc nhìn lão già đối diện.

Lão Đỗ sờ soạng được rồi, thấy cô bé nhỏ này mặt mày lạnh tanh, không hoảng sợ cũng không tránh né, có thể là bị hù dọa phát khiếp, hay là đang dọn đường cho hươu chạy, trong lòng mừng thầm, vì vậy gan lại lớn thêm vài phần, giơ cánh tay thăm dò tìm kiếm hướng về ngực cô.

“Mày và cô của mày năm đó dáng dấp y nhau, thật là đẹp… Mái tóc này…”

Ban ngày mở cửa làm ăn, lão Đỗ cũng không dám lỗ mãng quá mức, đầu ngón tay quệt lên quệt xuống tên lọn tóc thả dưới đầu ngực Phương Đăng, như một điểm dừng ngắn để tiến xa hơn tiếp.

Phương Đăng cúi đầu gạt tay hắn ra, bất thình lình lui về khống chế cổ tay hắn lại, nhăn mày kêu lên một tiếng, giây tiếp theo tính là sẽ khóc lớn lên. Lão Đỗ không ngờ đến chuyện này xảy ra, muốn mau chóng bịt miệng cô lại. Phương Đăng vùng lên hét một tiếng, âm thanh không lớn không nhỏ, đủ để lão Đỗ hốt hoảng. Bà vợ ông ta đang ở phía sau cửa hàng nấu cơm, hai nơi chỉ cách một căn phòng ngủ. Bà vợ lại hung dữ vô cùng, thường ngày không có chuyện gì, lão Đỗ còn sợ bà ta ba phần, lá gan của ông ta to lắm cũng chỉ là đùa với con bé nhỏ nhà ma men này một chút, nếu bị bà ta bắt gặp, không chết cũng phải chịu bị lột da.

“Đừng la! Con gái mà bị người khác nhìn thấy thì mất mặt lắm!”

“Ông không biết xấu hổ!” Nét mặt Phương Đăng lộ vẻ hoảng sợ, đôi mắt rưng rưng, liều chết lùi lại nhưng không buông tay lão ta ra, cũng không biết ở đâu ra sức nữa.

Lão chủ hoảng sợ liếc mắt nhìn ra phía cửa sau nhà, nóng lòng thoát khỏi, càng cố thì tiếng của Phương Đăng càng lớn hơn vài lần: “Ông muốn làm gì hả? Tay chân để yên cho đúng đắn chứ!”

Lúc này là giờ ngọ, mọi người đa số đều ở trong nhà chuẩn bị ăn cơm, mưa lại lớn, người đi trên đường cũng không nhiều, có thể lão Đỗ tựa hồ nghe tiếng bước chân từ nhà bếp vọng lên.

“Coi chừng bà ta cào nát mặt mày!”. Lão ta tức giận đe dọa.

“Ông táy máy tay chân trên người tôi, tôi sẽ nói cho bà ta biết!” – Phương Đăng khóc thút thít.

Lão Đỗ thở mạnh: “Ai sẽ tin lời của con nhóc chết tiệt như mày hả?”

“Sẽ có người tin!”

Phải, dù cho cha của cô đúng là ma men, không dám động thủ với lão chủ nhà, có thể bà vợ của Lão Đỗ sẽ cào nát mặt cô, nhưng nhất định phải chém đứt tay lão chồng trước đã.

Lão Đỗ nhìn cô gái như nụ hoa lê mong manh trong mưa nhưng dáng vẻ cứng cỏi, có hơi hiểu ra, nhỏ tiếng cầu xin: “Đừng làm lớn, bà cô này, mày muốn gì? Hay cứ cầm rượu về, tao không lấy tiền!”

Lão ta vội vã cầm tiền trên quầy, tiện tay còn lấy một viên kẹo nhét hết vào lòng bàn tay Phương Đăng.

Tiếng khóc thút thít của Phương Đăng khiến ruột gan lão bị hù dọa cũng sắp vỡ, lão gật đầu một cái: “Hạ nửa tháng tiền thuê phòng tao đã thu, được không, được không hả?”

Bàn tay ông ta bị khóa chặt lại nay đã được nới lỏng, lão ta còn không kịp phản ứng, chai rượu trong tay kia của Phương Đăng rơi bể nát trên sàn nhà của tiệm tạp hóa, bà Đỗ đứng ngay cửa sau tiệm tạp hóa, mặt mũi hồ nghi.

“Các người làm gì vậy?”

Phương Đăng vừa khóc vừa nói: “Chú Đỗ vung tay quá nhanh, tôi không cầm chắc. Rượu đổ rồi, cha không thể không đánh chết tôi!”

“Tao không biết, bán rượu thì phải thu tiền”. Bà Đỗ liếc một cái lên chai rượu vỡ nằm trên sàn nhà: “Còn ông nữa, đến rót rượu cũng không xong, lau sàn nhà sạch sẽ cho tôi!”. Giọng nói của bà hùng hổ cao lên, quay đầu lại đi vào nhà bếp.

Lão Đỗ thở phào nhẹ nhõm, lòng mắt hơi hạ xuống, nhìn thấy nước mắt của Phương Đăng còn chưa ráo, gương mặt không phân biệt được buồn hay vui, trong lòng lại đánh trống một trận. Lần này, đầu óc lão ta đã linh hoạt hơn, liền nghiêng đầu cầm bình rượu mới đưa cho cô.

Phương Đăng đưa tay đón lấy, không quên nói một tiếng: “Cám ơn, chú Đỗ!”

Cô ra khỏi tiệm tạp hóa, còn nghe được tiếng lão Đỗ lầm bầm phía sau: “Thật gian xảo!”

Vừa định theo lối hẹp đi lên lầu, Phương Đăng bỗng nhiên dừng lại, né người nhìn về phía bên trái tiệm tạp hóa, cách đó không xa bên cạnh bồn hoa của cô nhi viện Thánh Ân quả nhiên có một người đứng, ước khoảng năm giây, cô mới thực sự thắc mắc người đó là ai.

Qua Âm Châu không có nhiều đại lộ rộng lớn, nếu không phải là sườn núi cao thì là sườn núi thấp, vườn của nhà họ Phó và cả tiệm tạp hóa đều là nằm trên ngọn đồi cao, cho nên người cùng đi đến mới vừa rồi là ở phía dưới. Lão Đỗ và cả Phương Đăng nhìn về phía cửa cũng không phát hiện có người, nhưng từ góc độ anh ta đứng, Phương Đăng nghi ngờ anh ta đã chứng kiến hết màn kịch kia rồi, hơn nữa là cố ý không muốn bị cuốn vào chuyện ồn ào.

Giờ đây vở kịch hay đã dứt, anh ta cũng từ từ bước qua bồn hoa nhỏ, tiếp tục đi theo con đường của mình.

Phương Đăng không di chuyển, vẫn đứng ở tư thế cũ lách người nhìn anh ta. Lúc đi ngang qua cô, anh ta xem như không có chuyện gì, coi cô như thảm hoa dại ven đường hay là cái thùng rác trong ngõ hẻm, hoàn toàn chẳng liên quan gì đến mình.

Phương Đăng há miệng, cổ họng như mắc phải vải bông nghẹn lại, giơ mắt nhìn anh ta đi qua tiệm tạp hóa của lão Đỗ, ma xui quỷ khiến thế nào lại bước theo anh ta.

Trời mưa rả rích, anh ta cầm cây dù màu đen, vác giá vẽ, Phương Đăng một tay ôm bình rượu, còn một tay khác che đỉnh đầu lại một cách vô ích. Cô không cố ý đi rập theo bước chân của anh ta một cách đều đặn. Tiếng giày khua cùng tiếng mưa rơi xuống mặt đường lát đá xanh, anh ta nhất định cảm giác được có người đang đi theo sau lưng mình, nhưng anh ta không quay đầu lại, càng không tiến nhanh hoặc thả chậm tốc độ, bản vẽ đánh đều theo bước chân anh ta, nằm trên sống lưng gầy và thẳng tắp đó.

Tóc Phương Đăng đã ướt, vẫn còn ngu ngơ mơ hồ đi theo sau lưng anh ta, nhưng không biết có tác dụng gì nữa, tựa hồ như chưa hoàn toàn tỉnh lại sau giấc mơ tối hôm qua. Không kể đến giấc mơ, trên thực tế cô chỉ gặp gương mặt của người này lóe lên sau tấm rèm, có thể cô biết anh ta chính là người đó, vẻ mặt của anh ta đúng là của người đó, tư thế lúc bước đi tất cả đều là dáng vẻ trong trí tưởng tượng của cô.

Phó gia hoa viên vốn nằm xéo bên trên tiệm tạp hóa, đi một lát đã đến ngay trước cửa. Toàn bộ ngôi nhà cùng vườn hoa đều có tường cao, cổng sắt khóa kín, anh ta dừng lại, dùng chìa khóa mở cánh cửa sắt bên trên.

Cánh cửa sắt kêu két một tiếng rồi bật ra, anh ta đi vào rồi khóa lại lần nữa. Phương Đăng đứng cách đó không xa, đối mặt với anh ta bên trong cánh cửa sắt. Cô cắn môi dưới, không lên tiếng, đầu cũng không dám ngẩng quá cao, giơ mắt nhìn bàn tay có những ngón thon dài đang hí hoáy với chiếc khóa sắt, cho đến khi tất cả đều đã đâu vào đó, bên trong cửa, anh vẫn còn đứng ở đó, cô mới ngước mắt nhìn đối lại với tầm mắt của anh.

Chai rượu trong tay bị cô ôm trước ngực, ít nhất ở tư thế này cô nhìn có chút mạnh mẽ hơn, kiểu hùng hồn ngay thẳng hơn một chút.

Ánh mắt anh ta chỉ dừng lại trên mặt Phương Đăng một giây. Đó là tò mò? Nghi hoặc… hay là… khinh bỉ? Anh ta đã đi vào một hướng khác trong vườn. Ngoài cửa, Phương Đăng nhớ lại màn kịch ở tiệm tạp hóa, cô chưa bao giờ thấy chán ghét bản thân mình như lúc này.

Phương Học Nông nhìn thấy cả một bình rượu mới toanh thì vui không tả xiết, ngay cả hỏi rượu từ đâu có cũng không, liền nhanh tay mở nắp bình mà uống. Phương Đăng buồn bã nằm xuống giường một lúc, khi ngẩng dậy đã là hoàng hôn, Phương Nông Học nằm trên giường tre, có dùng hai chân mà đá ông ta cũng không biết kêu đau. Như vậy cũng tốt, cô vốn không có khẩu vị gì, ngay cả cơm tối cũng có thể tiết kiệm.

Phương Đăng lại nghĩ đến người đó. Cô từng nghe nói một chuyện liên quan đến anh ta, vậy là anh ta sao? Anh ta cũng biết trên đời có một người như cô tồn tại, vậy anh ta nhất định cũng biết cô là con gái của tên ma men thối rửa. Người cha hư hỏng thì cô con gái cũng hư hỏng thôi, cho nên hành động của anh ta như vậy cũng chẳng có gì kỳ lạ cả. Nghĩ đến đây, cô cảm thấy hơi khổ sở, cảm giác này đã lâu rồi chưa xuất hiện trong đầu cô. Cô đã quen bị người ta chê cười, bị xem thường, nếu như những lời đồn đại đều là thật, vậy trừ cha cô, trên đời này cô vẫn còn lại người thân. Đây thật sự là một chuyện kỳ lạ, một người như vậy lại có cùng huyết mạch với cô, nhưng mọi quan hệ hoàn toàn khác nhau, hơn nữa so với cô lại xuất thân từ một dòng họ danh giá hơn, sống tại hoa viên trong truyền thuyết chỉ cách một con đường. Anh ta tốt như vậy, giống như là một đám mây bay hay chỉ trong ảo mộng. Liên quan đến anh ta là điều sạch sẽ đẹp đẹp đẽ duy nhất tồn tại đối với cô trong thế giới ô trọc này.

Bầu trời trước kia đổ mưa như bị thủng, nay như thu lại, chỉ còn tầng mây cũ dầy cộm nặng nề đè nén không trôi. Phương Đăng vỗ tay phủi nước bùn, leo ngồi trên tường rào nhìn xuống quan sát. Cô là người có thói quen tự do thoải mái, nhờ địa thế của gốc cây ăn quả ven đường, leo lên bức tường sụp đổ một bên của nhà họ Phó cũng không phải là chuyện gì khó khăn cho lắm. Lối này cũng không hướng ra hẻm, chẳng ai phát hiện ra cô, những chỏm đỉnh bằng thép sắc bén dựng trên tường rào cũng bị bong ra chừa một lỗ hổng, vừa đủ cho cô leo lên ngồi.

Cô nhai cục kẹo cao su mà buổi trưa lão Đỗ đã kín đáo dúi vào tay, rướn cổ lên nhìn xung quanh. Anh ta đang ở căn lầu nhỏ phía Đông gần đó, chỉ vì cửa sổ đều hướng về bên kia, dưới chân cô là một khoảng đất rộng. Trong góc vườn có một căn chòi mát nhỏ đã sập một nửa, kế bên chòi mát là miệng giếng, bốn phía hoa cỏ sum xuê, cũng hoang vắng như lối cửa chính. Phương Đăng còn đang suy nghĩ có nên nhảy xuống xem một chút hay không, chợt hiểu ra tại sao nơi này hoa cỏ được chăm sóc rất chu đáo. Vì người cô muốn tìm cầm cây kéo làm vườn trong tay, đang ở góc rẽ nơi mà tầm mắt cô có thể nhìn thấy, cúi đầu cắt tỉa một chậu hoa mà cô không biết tên gì, dường như anh cũng không phát hiện có người khách không mời mà đến đang ngồi trên tường ở bên ngoài.

Bề ngoài của anh ta không đem lại cho người khác cảm giác thân thiện, cũng không hẳn là lạnh lùng, chỉ có vẻ như xa cách,mọi thứ đều như có một chút khoảng cách, buổi trưa đã một lần làm cho Phương Đăng khó xử. Cô cảm thấy anh ta ở trong nhà cũng là kẻ ăn trên ngồi trước, thật sự ra dáng con cái nhà giàu, mặt dù con nhà giàu bình thường sống ra sao làm gì, bản thân cô cũng không biết rõ. Dù sao cũng không phải như cô đang nhìn thấy bây giờ, ống tay áo, gấu quần đều bị nước mưa vấy trên hoa cỏ làm ướt, trên một bên mặt còn dính cả chút bùn.

Động tác của anh ta rất nhuần nhuyễn, ánh mắt tập trung, kéo làm vườn trong tay anh ta vừa nhịp nhàng vừa linh hoạt, cảnh tượng này khiến con người anh ta trở nên hiền hòa hơn rất nhiều. Phương Đăng cũng suồng sả đứng lên, tiện tay nhặt hòn gạch vỡ trên đầu tường ném nhẹ về hướng đó. Viên gạch vừa đúng rơi trên nhánh cây ngọc lan ngay trước mặt anh, anh hoảng hốt đưa tay ra chặn lại khiến nước trên cây văng tứ phía, vừa nghiêng đầu là nhìn thấy Phương Đăng. Lần này, vẻ mặt anh ta lộ rõ sự kinh ngạc.

“Phó Kính Thù, là anh phải không? Phó Kính Thù?”

Cô cũng cảm thấy những lời nói này không mấy hay ho, nên tự mình nở nụ cười trước.

“Cô theo tôi làm gì?” Anh ta không cười, nhưng cũng không có vẻ tức giận.

Phương Đăng nói: “Thì ra anh biết nói chuyện, tôi còn tưởng rằng anh bị câm. Hồi trưa tại sao anh không hỏi?” Cô cố tình làm ra vẻ dửng dưng, thổi kẹo cao su đang nhai thành bong bóng, nhưng nào ngờ dùng sức quá mạnh, kẹo cao su nổ một phát dính đầy miệng.

Cô không dám chắc trên khóe môi anh ta có phải thoáng qua một nụ cười không. Anh ta nói: “Hồi trưa? Ah… tôi sợ cô lừa tôi.”

Lời nói như vậy mà anh ta nói ra thật nhẹ nhàng. Phương Đăng tức tối lấy lưỡi liếm một vòng kẹo cao su trên khóe miệng, tưởng có thể chùi sạch nào ngờ lại quá khó khăn. “Kẹo quái gì thật tởm!” Nghĩ cũng biết lão Đỗ sẽ chẳng cho thứ gì tốt! Cô không muốn thừa nhận tâm tình trở nên hỏng bét là vì câu nói tưởng vô tình nhưng quan trọng của Phó Kính Thù.

Anh ta không nói gì thêm, lại cúi đầu xuống dùng kéo tỉa chậu hoa có hình thù kỳ lạ. Phương Đăng càng kéo kẹo cao su, trong lòng lại càng buồn bực.

“Lão ta chẳng tốt đẹp gì. Từ lúc cha con tôi dọn vào đó, ánh mắt lão ta đã lộ rõ là dại gái, luôn nghĩ đến chuyện lợi dụng”. Cô cúi đầu nhìn xuống đầu ngón chân mình, co chân đá một cái thẳng vào nhánh cây trên tường của sân vườn. “Nên tôi cũng lợi dụng đồ của lão ta, có thể nói cho lão ta đáng đời! Dù sao cũng cần có người dạy dỗ lão ta một chút!”

Cô nói xong những lời đanh thép đầy chính nghĩa đó, bản thân cũng cảm thấy không thú vị gì. Cô là sứ giả chính nghĩa sao? Đi lừa ma gạt quỷ thì có.

“Cha tôi trong nhất thời không thể đóng tiền thuê phòng nửa tháng sau được. Đối với tôi mà nói tiền rất quan trọng.” Cô không muốn bị hai vợ chồng lão Đỗ tống cổ ra ngoài, không thể dọn nhà nữa. Mặc dù phòng trọ đó đầy mùi hôi thối, nhưng cô lại cảm thấy rất tốt, ít nhất là nơi đó còn một cánh cửa sổ.

Nói xong, cô nín thở để xem phản ứng của anh ta. Mắt anh ta vẫn hướng về phía chậu hoa, tư thế như đang cắt tỉa, đường kéo chậm lại, một lúc sau mới lên tiếng: “Tôi không có rượu, cũng không phải là chủ nhà của cô, cũng chẳng có tiền”.

Không phải là lời phê phán đầy đạo đức, cũng không phải khinh khi, chẳng có chút an ủi hay thương hại nào. Phương Đăng cảm thấy trong lòng cũng trở nên thoải mái hơn, gương mặt đã khôi phục lại dáng vẻ vui tươi, nở nụ cười.

“Sao anh không có tiền? Anh có nhà lớn như vậy, vườn hoa lớn như vậy”. Vừa nói cô vừa hoa chân múa tay. “Cái gì mà anh không có?”

Động tác của cô đưa ra quá mạnh, suýt nữa là ngồi không yên, toàn thân trên chóp tường lảo đảo suýt ngã.

Phó Kính Thù nói: “Tôi cũng không có tiền thuốc nuôi người bị té gãy chân đâu!”

Phương Đăng phát hiện, so với con người lãnh đạm, giọng nói như của anh ta lại êm ả như gió mùa xuân. Vừa ôn hòa, vừa kềm nén, không nhanh không chậm, dường như trời ban cho sức mạnh khiến người ta hoàn toàn tâm phục. Cô nghĩ, nếu dùng thanh âm này mà thuyết phục cô đêm tối là ban ngày thì e là cô cũng sẽ tin.

“Anh đang làm gì đó? Tôi có thể giúp anh. Hay là để tôi tưới hoa thay anh nhé, sức tôi cũng không tệ đâu.”

“Cám ơn, vừa mới mưa xuống, hoa sẽ bị cô tưới chết…Mà nè, cô cũng đừng nhảy xuống”

Anh còn chưa nói dứt, Phương Đăng đã bò lổm ngổm trong bụi cỏ ở góc tường.

“… Cẩn thận!”

Phương Đăng vừa định đứng lên, không để ý một con chó lớn màu trắng phục sẵn trong bụi cỏ cách đó không xa, nghe nửa câu sau của anh ta, không khỏi run lên một phát.

Sớm biết trong sân có chó, cô dĩ nhiên sẽ cẩn thận hơn.

“Mẹ ơi… gọi chó của anh về đi!!!” Phương Đăng bụm mặt co rúm người lùi lại phía sau.

Phó Kính Thù không nhúc nhích, con chó lớn màu trắng kia cũng không động đậy, cô dụi dụi mắt, chẳng trách cô không để ý, khi trời u ám, trong bụi cỏ có một tảng đá khắc hình con chó đang ngồi, sắc vóc lớn nhỏ so với chó thật không có gì khác biệt.

“Ý tôi là nói cô cẩn thận đừng để đau chân.”

“Sao anh không chịu nói hết câu?”. Phương Đăng chán chường đi xích lại gần xem con chó đá. Không phải, con “chó” kia càm hơi nhọn, hai lỗ tai thẳng đứng, mặc dù chịu đựng mưa gió bão bùng trong vườn, hoa văn điêu khắc trên thân hình không còn rõ nét nhưng vẫn hiện lên thần thái ma mị đáng sợ. Đây không phải là chó, mà là hồ ly.

“Khó trách có người gọi nhà của anh là vườn nhà họ Hồ” *

(Hồ: Hồ ly, cáo)

Lúc trước nghe người ta gọi thế này, Phương Đăng còn tưởng rằng khẩu âm địa phương chữ “Phó” và chữ “Hồ” có phát âm tương tự, như bọn họ hay gọi “Phương Học Nông” là “Phương máu mủ”. Chưa bao giờ nghĩ ở đây thật sự có hồ ly.

Lúc nói chuyện, cô quay đầu lại nhìn anh, kinh ngạc phát hiện ra vẻ vui vẻ trên mặt anh ta. Là vì cô té xuống trong bối rối sao? Lúc này anh ta đang cười, Phương Đăng nghĩ, lúc nở nụ cười trên người Phó Kính Thù giống như có một tầng hào quang nhàn nhạt.

“Anh cũng là hồ ly sao?” – Phương Đăng biết mình vừa nói ra một câu ngu ngốc, một vườn hoa vừa đẹp vừa vắng lặng như vậy, một người như vậy, ở trong lúc hoàng hôn nửa sáng nửa tối, rất khó không làm cho người ta có suy nghĩ thế này.

Anh ta càng vui vẻ hơn: “Cô bây giờ không phải càng giống hồ ly hơn sao?”

Phương Đăng ngẩn ra một lúc mới hiểu được ám chỉ trong lời nói của anh ta, cô đang bò lổm ngổm trong bụi cỏ, cùng với con hồ ly đá kia nhìn nhau, tư thế giống nhau như đúc.

“Cũng phải,thường thì bề ngoài của hồ ly đều rất đẹp”. Cô vừa đứng lên vừa tự bào chữa, cũng không cảm thấy xấu hổ. Rất nhiều người đều xem thường vì cô là con gái của con sâu rượu, nhưng cũng có không ít người thừa nhận con ma men Phương máu mủ có một đứa con gái xinh đẹp.

Phương Đăng chợt động lòng, nhìn Phó Kính Thù không chớp mắt.

“Cô nhìn tôi làm gì?” Sự già dặn xuất hiện trở lại trên mặt Phó Kính Thù, dù sao tuổi anh ta cũng không lớn lắm, bị ánh mắt của Phương Đăng nhìn trực diện có chút không tự nhiên.

Phương Đăng không nói vòng vo: “Người khác đều nói tôi và cô Chu Nhan lúc còn trẻ khá giống nhau, vậy có khi nào tôi và anh cũng giống nhau không?”

Sự vui vẻ trên mặt Phó Kính Thù biến mất, giống như ánh lửa biến mất trong màn đêm vậy. Cây kéo cắt hoa trong tay anh run lên trên cành lá còn sót lại, làn mi dầy che phủ đôi mắt: “Cô đi nhanh đi, đừng để lão Thôi nhìn thấy, tính khí ông ta không tốt lắm đâu.”

“Lão Thôi là ai?”

Anh ta hiển nhiên đã không cùng nàng đối thoại một cách hăng hái nữa.

“Đi mau”.

“Tôi ra ngoài từ đâu đây?”

“Cô đã nhảy vào thì phải từ đây nhảy ra ngoài”.




Hoa kê huyết đằng

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 05:43:38 | Xem tất


Chương 3: Hoa Nát Cùng Bùn







Phương Đăng  muốn trèo ra ngoài bức tường của Phó gia hoa viên, vì không tìm được điểm dừng chân thích hợp, so với lúc vào càng đi xa hơn rất khổ sở, tư thế cũng hết sức chật vật. Phó Kính Thù nhân lúc mưa đã tạnh tiếp tục cắt tỉa chậu hoa, đứng gần sát bên cô, thà ngửa mặt nhìn lên khối rêu xanh trên tường rào sắp tróc ra vì cô cố sức bám vào, cũng không hề đưa tay ra giúp cô một chút. Ngược lại Phương Đăng đối với chiếc kéo làm vườn sắc bén trong tay anh lại khá sợ hãi, chỉ e mình sơ ý rời tay té xuống, chẳng may bị cây kéo đâm thì chết chắc.

Lúc đã an toàn từ đầu kia của tường rào hạ xuống đất, cô nghe một giọng nam già nua từ trong sân truyền ra.

“Tiểu Thất, vào ăn cơm.”

Chắc đây chính là “Lão Thôi” người mà Phó Kính Thù nhắc đến.

Sau này Phương Đăng nghe được từ chỗ bà Đỗ, lão Thôi chính là người trông coi khu vườn nhà đối diện, thuận tiện nên cũng chăm sóc luôn Phó Kính Thù. Phó gia hoa viên lớn như vậy, hiện giờ cũng chỉ có hai người họ ở.

Phương Đăng không hiểu, Phó Kính Thù coi như không có mẹ, nhưng dù sao vẫn còn có cha. Dù là cha mẹ đều mất, người của Phó gia tại sao lại để một mình anh ta ở trên đảo làm bạn cùng khu vườn hoang phế, chỉ để cho người làm vườn chăm sóc cuộc sống của anh ta. Nói đến vấn đề này, bà Đỗ cũng không nói kỹ càng gì, đại khái chỉ giải thích tự nhiên là vậy.

Đến học ở một trường mới đối với Phương Đăng mà nói không có gì mới lạ cả, trừ lúc đi học, giọng nói  với âm ngữ địa phương của thầy giáo khiến cô không có cách gì thích ứng nổi, những chuyện khác cũng chẳng đem đến cho cô bất kỳ phiền nhiễu nào, dù sao cô cũng chưa bao giờ mong đợi có thể quen biết bạn bè thân thiết trong môi trường học đường. Hòn đảo nhỏ này, chuyện vui buồn, sanh lão bệnh tử luôn có, Phương Học Nông lấy tiền phí không cao nên thỉnh thoảng cũng có việc làm. Từ sau khi quay lại Qua Âm Châu, cuộc sống của ông chỉ giới hạn trong vài tấc đấc, ít chạy đông chạy tây, Phương Đăng không cần bôn ba theo, sau giờ tan học cũng không giống như thời còn ở với cô Chu Nhan, ngược lại thời gian học tập nhiều hơn, chương trình học nào cũng đều vượt qua được cả.

Dù lớp mười và lớp mười một học chung trường, nhưng Phương Đăng ở trường cũng ít khi vô tình gặp mặt Phó Kính Thù, chỉ có là lúc cô cố ý bồi hồi đứng ở cửa trường, đợi anh ta đi ra, sau đó theo đuôi anh ta dọc suốt đường về nhà. Trừ khi trong lớp có chuyện khác hoặc là bị thầy giáo giữ lại, cô mới tạm thời hụt hẫng cắm sào chờ nước. Cuộc sống của Phó Kính Thù trên căn bản chính là trường học cùng với Phó gia hoa viên, mỗi sáng chủ nhật lại đón phà vượt biển vào thành phố học vẽ.

Lúc tan học, học sinh ào ra khỏi cổng trường như ong vỡ vổ, nhưng mau chóng túa ra đầy các ngõ nhỏ trên đảo nên chẳng còn ai. Đoạn đường Phương Đăng về nhà không có nhiều học sinh, trừ người của cô nhi viện Thánh Ân, chỉ có cô và Phó Kính Thù. Khi không có người khác, cô thường tự đắc ngâm nga một bài hát bất kỳ sau lưng anh, thi thoảng lại ranh mãnh bắt chước giọng lão Thôi gọi anh: “Tiểu Thất”.

Lần đầu tiên Phó Kính Thù nghe được từ này từ miệng Phương Đăng, anh hết sức kinh ngạc quay đầu lại nhìn cô.

“Ai cho cô gọi vậy?”

Đương nhiên ngữ điệu của anh cũng chẳng vui vẻ gì. Lúc ấy ở ven đường vừa đúng có một con chó đi lạc đang lang thang kiếm cơm, Phương Đăng không đáp lại lời anh, kêu lên thêm một tiếng: “Tiểu Thất”, ánh mắt hướng về phía con chó gầy trơ cả xương kia. Phó Kính Thù quay đầu đi thẳng, từ đó về sau bất kể cô ở phía sau cười hì hì gọi “Tiểu Thất à, Tiểu Thất ơi” loạn cả lên, anh chỉ làm ngơ như không nghe thấy, cũng không hề lên tiếng ngăn cản.

Chỉ cần là trời không mưa, bầu trời không có gợn đen, Phó Kính Thù đều ngồi ở góc nào đó trong sân vườn, táy máy sửa đi sửa lại mấy chậu hoa, hoặc là sáng tác bên giá vẽ. Phương Đăng thỉnh thoảng cố tình leo lên ngồi trên tường rào, chỉ là không nhảy vào trong một cách lỗ mãng nữa mà chỉ ngồi ở chóp tường bắt chuyện cùng anh.

“Này, Tiểu Thất, anh ở đây vẽ gì vậy?”

“Thất Thất, chậu hoa này là hoa gì? Nhìn nó sắp chết rồi.”

“Tại sao lão Thôi lại gọi anh là Tiểu Thất, anh có bảy anh chị em sao? Họ đi đâu cả rồi? Tôi từ nhỏ chỉ có một mình, cô tôi nói lúc tôi chào đời, trăng còn sáng hơn cả ngọn đèn đường ngoài cửa sổ, nên mới đặt tên tôi là Phương Đăng”.

Thông thường anh sẽ không đáp lại, nhưng cũng vì vậy Phương Đăng không cần sợ anh lên tiếng xua đuổi cô. Cô thích gọi anh là “Tiểu Thất” hơn là “Phó Kính Thù”, mặc dù hai người ở trong lòng cô đều đặc biệt như nhau. Phó Kính Thù như nước chìm phía sau tấm rèm cửa sổ đỏ thẫm, là người trong mộng khó lòng nắm bắt; Tiểu Thất ít nói trong góc vườn hoa lại có ánh mắt hiền hòa, thoải mái trong thế giới của chính mình. Anh sẽ đổ mồ hôi như mưa để tưới nước cho hoa sum suê cành lá, khi không hài lòng về bức tranh đang vẽ, anh sẽ ném bút vẽ trở về ống tre đựng bút, sẽ vẽ một đường sơn màu sáng lên ống tay áo, sau khi nghe Phương Đăng nói lên những lời hết sức chán chường, sẽ không cẩn thận đem con sâu mới vừa bắt được từ lá cây đến bỏ lên người cô; sẽ không kềm chế được nụ cười khi nhìn thấy thời khắc một đóa hoa mới nở.

Thông thường lão Thôi lúc này đang ở trong nhà bếp nấu cơm, rất ít khi vào sân vườn, chỉ có một lần, Phương Đăng suýt nữa bị ông bắt gặp tại chỗ. Lần đó như thường lệ cô leo lên chóp tường làm huyên náo, đột nhiên Phó Kính Thù ho khan một trận, chỉ một lát sau bước chân lão Thôi đã rất gần, Phương Đăng liền lăn một vòng chạy đi ngay dưới mi mắt ông, núp ở chân tường nghe một già một trẻ nói chuyện với nhau bên trong.

“Cậu đang nói chuyện với ai vậy?”

“Ở ngoài có con chó đi lạc sủa không ngừng, chỉ là muốn xua nó đi nhanh một chút”.

Phương Đăng ở dưới chân tường không nhịn được cười, thì ra anh ta còn biết cắn ngược một phát trả đũa.

Ít nhất Phó Kính Thù không ghét cô, điều này cô có thể cảm giác được. Nói vậy có khi anh cũng đã sớm biết cô là ai, cùng với cô Chu Nhan có quan hệ thế nào. Chỉ là cho đến giờ anh vẫn luôn đè nén cảm xúc, không bao giờ đề cập đến.

Phương Đăng cũng không thấy bất ngờ, trên đời này làm gì có bức tường nào không bị gió lùa, những năm tháng ở bên ngoài cô Chu Nhan dựa vào cái gì mà sống, nhất định không phải không ai biết. Bất kể năm đó tại sao cô cùng với cha của Phó Thất chung sống, tại sao lại chia lìa, có thể nói con cái nhà bình thường, hơn một nửa cũng không thể chấp nhận chuyện mẹ mình ở bên ngoài làm nghề buôn bán thân xác, nói gì là anh ta.

Đối với Phương Đăng mà nói, anh có nhận cô là thân thích hay không cô cũng không gấp rút, chỉ cần anh biết giữa hai người rõ ràng có liên quan, biết cô không phải là người dưng, vậy là đủ rồi.

Khi bầu trời bắt đầu quang đãng, mùa hè hừng hực lại đến với Qua Âm Châu. Mỗi tuần một lần đều có khóa kỹ năng lao động, Phương Đăng và các bạn học trong lớp bị phái đến hồ nước duy nhất trên đảo để nhặt rác. Mặt trời bỏng rát đến mức không mở mắt ra được, nước trong hồ đều gần như khô cạn. Phương Đăng không tụ tập cùng chúng bạn, một mình sử dụng thanh trúc dài đi moi rác từ trong bùn bỏ vào túi nhựa rồi đem thả vào lồng đựng rác. Cô đã quen làm những chuyện này, khi còn nhỏ đã không ít lần đi theo ba cô nhặt đồ cũ, nên chuyện này tự nhiên chẳng có gì đáng kể, không phải là bạn bè cùng lứa tuổi với cô ai cũng có thể chịu được ánh mặt trời chói chang cùng với mùi hôi thối ở trong hồ nước.

Cách đó không xa dưới bóng cây, những lời bình phẩm của đám nữ sinh đang ngồi hóng mát thỉnh thoảng bay vào tai cô.

“Tụi mày nhìn coi động tác của nó kìa, thuần thục ghê ha.”

“Đương nhiên rồi… mày không biết Phương máu mủ sao… cái này là bẩm sinh đó..”

“Nói sao cuối cùng tao cũng ngửi được mùi trên người nó… Nghe nói cha của nó…thường hay chôn xác con nít chết yểu… Còn nhặt rác nữa… Khiếp chết được”.

“Tao nghe nói lúc nào nó cũng đi theo hết… Da mặt dầy thật…”

“Mày không nghe sao…”

Trong lòng Phương Đăng cũng chẳng hề để tâm, những lời bình luận và đùa cợt đó hình như đã theo cô mà lớn lên, nếu như cô vì chuyện này mà buồn khổ, sợ rằng đã sớm chết đi trong đau khổ rồi. Cô chỉ có cách tránh xa bọn họ một tí, xa hơn chút nữa, còn không thì coi như mình bị điếc.

Cô không quan tâm, cô tự nói với mình như vậy, vì vậy cô đem sự chú ý đặt vào nơi khác.

Rác rưởi xung quanh trên căn bản đã dọn dẹp đi không ít, chỉ còn lại một đùm dây bầu ngoan cố trôi lơ lửng trên mặt nước. Trong đầu Phương Đăng chợt lóe lên ý nghĩ, nghe nói bùn nhão bám trong hồ sử dụng để làm vườn là cực kỳ tốt. Nghĩ là làm, vừa đúng lúc bên tay có túi hóa chất bỏ không, nhìn qua rất sạch sẽ, trước khi thầy giáo gọi kết thúc công việc, đúng lúc cô đã đào được hơn nửa túi bùn, đều là từ chỗ sạch sẽ nhất đào lên, lại còn khá ẩm ướt, anh ấy nhất định sẽ dùng tới.

Lúc kết thúc công việc cũng là lúc tan trường, công cụ của mọi người đều là từ nhà mang tới, thầy giáo kiểm tra lại nhân số một lần nữa rồi để cho ai về nhà nấy. Phương Đăng một tay cầm sọt rác đem theo từ nhà, một tay kia cầm nửa túi bùn lấy được từ đáy hồ như cầm bảo vật đi về. Nhìn sơ qua mớ bùn đất không nhiều, nhưng trọng lượng cũng không nhẹ, khí trời lúc này lại quá nóng, cô tự cho mình sức lực không kém, trên đường cũng không khỏi dừng lại nghỉ ngơi một lúc.

C

ách cửa chính của trường học không xa, một tay Phương Đăng vẫy vẫy, vừa quay đầu là nhìn thấy thân hình quen thuộc đi về hướng của cô. Lúc đầu cô cho rằng anh ta sẽ như bình thường xem như không có chuyện gì, nào ngờ Phó Kính Thù nhìn thấy sọt rác cùng với túi hóa chất to bên chân cô, có chút ngạc nhiên đi chậm lại nhìn đến mấy lần.

Phương Đăng thấy anh để ý, mừng khấp khởi cầm túi bùn giơ ra trước mặt anh: “Cho anh, cái này tốt lắm đó, dùng để…”

Anh cũng không lập tức gạt đi.

“Thứ tốt gì chứ?”

Không phải là Phó Kính Thù vừa nói, Phương Đăng bực bội quay đầu lại, một cậu bé trạc tuổi cô, dáng dấp trắng trẻo, trên mặt lại nở một nụ cười nhạo báng.

“Hôm nay có người cho cái này hôm qua lại có người tặng cái kia. Khó trách cha mẹ tao nói mày hiện giờ ở cùng với người làm vườn của nhà họ Phó so với ăn xin cũng không có gì khác biệt”.

Đứa bé trai kia không chờ Phó Kính Thù và Phương Đăng trả lời, xề lại gần giả bộ muốn xem trong túi có bảo bối gì, kết quả là lùi lại hai bước, bịt mũi lại hét lên: “Đồ gì vậy, thúi chết đi thôi!”

“Tôi không cho cậu, là thúi hay thơm có liên quan gì đến cậu?” Phương Đăng không biết cậu ta là ai, chỉ là không thích cậu ta nói chuyện với Phó Kính Thù bằng giọng điệu khinh thường.

Hình như lúc này cậu bé đó mới nhìn thẳng vào Phương Đăng quan sát, rồi ngẩng người hỏi: “Mày học lớp nào?”

Phía sau có khá nhiều học sinh trong trường xúm lại xem rất náo nhiệt, trong đó có mấy cô gái bụm miệng cười, có người thay Phương Đăng trả lời vấn đề này với cậu bé: “Không biết nó là ai hả? Chắc phải biết Phương máu mủ chứ, cái gã ma men đi nâng quan tài rải tiền vàng bạc cho người ta là cha nó đó”.

“Nghe nói đầu óc cha nó có vấn đề, nó cũng không bình thường, đào một đống bùn hôi rình thúi quắc cũng cố ý cầm đến tặng nữa”.

“Người ta tới giờ cũng chẳng để ý đến mày, mày còn mặt dầy mà đi theo hay sao?”

Phương Đăng nhìn Phó Kính Thù một cái, gương mặt anh ta lãnh đạm lạnh lẽo, không nói một lời.

Phương Đăng cắn chặt môi, thân thể sớm đã vũ trang thật đầy đủ đã bắt đầu có chút cảm giác đau đớn.

Anh ta đương nhiên không giống cô, nhưng cô vẫn muốn là, trong cuộc sống tồn tại những thứ khác biệt như vậy là chuyện tốt đến dường nào, trong vũng bùn còn có thể ngửi được mùi hoa trên mây. Thật không ngờ điều này trong mắt người khác là điều châm biếm to lớn nhất, hoa trên mây há còn cần hướng đến mùi hương thối tha hay sao chứ? Phương Đăng không cần ai phải đứng ra nhắc nhở, cô là người phải xấu hổ vì là con gái của Phương máu mủ, mỗi thứ thuộc về cô đều là mùi hôi thối bẩn thỉu, còn Phó Kính Thù thì vô cùng tốt đẹp, không chỉ Phương Đăng mà người khác nhìn cũng thấy được. Chính là sự khác biệt một trời một vực này, cho nên sự nhiệt tình và hy vọng xa vời của cô mới trở nên buồn cười một cách đáng thương.

“Cậu nói nó cầm túi bùn kia để làm gì…”

“Cút!” Phương Đặng đột nhiên phát ra âm thanh khiến người xung quanh giật nảy mình, cô cắn môi cười nhạt nói: “Các cậu đừng quên tôi là người đầu óc không bình thường!”.

Ai ai cũng ghét người có bệnh, nhưng không ai tự nguyện cùng với người có bệnh lấy đá chọi đá cả. Quả nhiên, những thanh âm bên cạnh ít nhiều giảm xuống, có người còn tức tối bỏ đi.

Vậy mà cậu bé tràn đầy khiêu khích đó cũng chưa chịu đi, còn khảy miệng cười nói: “Tao cảm thấy tụi bây như vậy quá bình thường, dù sao cũng là người một nhà, con gái của máu mủ cùng với nghiệt chủng của em gái máu mủ, đều là chuột trong cùng một ổ rồi!”

“Mày nói lại lần nữa đi!” Lúc nói lời này ngược lại Phương Đăng đã bình tĩnh hơn rất nhiều.

“Tao nói sai sao, đúng là trong cùng một ổ…”

Phương Đăng vừa cử động cơ thể một phát, Phó Kính Thù lập tức ngăn cánh tay cô lại.

“Đủ rồi” Lời của anh vừa giống như đang khuyên Phương Đăng, vừa như nói với cậu bé kia. Phương Đăng không nhìn ra vẻ tức tối trên mặt anh, cho dù đối phương dùng lời độc địa làm nhục anh, anh cũng không hề tỏ ra quan tâm đến điều đó. Cô hung hăng hất tay anh ra, trước khi thằng bé kia ngậm miệng lại, cô cầm túi bùn nhanh chóng nhét vào trong miệng cậu ta.

Cậu bé vẫn há miệng như cũ, đứng hình mất vài giây, rồi lấy lưng bàn tay lau vết bùn ở khóe miệng, khom lưng nôn ra ào ạt mà không hề báo trước.

Từ đó về sau tình hình trở nên hỗn loạn, cậu ta nôn thốc nôn tháo, khóc đến mức thiếu chút nữa thì ngất đi, người vây kín xem càng lúc càng nhiều, trong đó không ít người lớn, Phương Đăng mau chóng bị người ta tóm lấy, sau đó phụ huynh của cậu ta vội vã cùng thầy giáo chạy đến trường.

Cha mẹ cậu bé nhìn qua cũng biết là người danh giá, nhìn thấy con trai trong tình trạng bi thảm trong lòng vô cùng đau xót, cha cậu ta tìm người đi đường hỏi rõ ngọn ngành, người mẹ mắt đỏ hoe, vóc người đẫy đà nhào tới bên Phương Đăng, giơ tay lên tát một bạt tai, lập tức trên mặt cô in dấu bàn tay hình cánh quạt, Phương Đăng bị người khác níu lấy không kịp né, chỉ biết nhắm mắt lại, đợi thật lâu cơn đau rát cùng sự tủi nhục trong lòng mới lắng xuống.

Phó Kính Thù chặn tay mẹ cậu bé lại, điềm tĩnh kêu lên một tiếng: “Chị Hai”

Lúc đó trên gương mặt gần bốn mươi tuổi của người phụ nữ kia chợt có vẻ lúng túng, thù hằn, chán ghét xen lẫn hoài nghi, giằng co một hồi cuối cùng phải hậm hực rút tay về.

Sau đó Phương Đăng bị cả đoàn người đem về trường học, thầy giáo đưa cô một mình đến căn phòng làm việc nhỏ, nghiêm nghị trách cứ một phen, bảo là muốn đến tìm nhà cô. Phương Đăng không sợ điều này, nhưng cô chưa phục hồi tinh thần lại từ câu “chị Hai” của Phó Kính Thù.

Sau khi từ trường học trở về, giữa lúc nghe thầy giáo khiển trách, cô mới biết cậu bé bị cô nhét cả túi bùn vào miệng kia tên là Phó Chí Thời, khó trách…. Thì ra bọn họ đều là người nhà họ Phó. Nhưng tại sao đều là nhà họ Phó mà không vào ở Phó gia hoa viên, hơn nữa bất luận là đứa con trai hay cha mẹ, ánh mắt bọn họ nhìn Phó Kính Thù đều không có sự yêu thương của người trong gia đình?

Cho đến tận hơn tám giờ tối, chủ nhiệm lớp của Phương Đăng mới xác định sẽ không có người nhà đến bảo lãnh cho học sinh phạm lỗi này, vì vậy cô bị cảnh cáo hết lần này đến lần khác, bắt cô viết bản kiểm điểm rồi mới chịu cho về. Phương Đăng có chút bất ngờ, mùi vị bùn trong ao cô biết rất rõ, Phó Chí Thời kiêu hãnh đến vậy, ăn phải cái này dù không nhiều, vậy mà cả nhà bọn họ cũng không đến tìm cô làm phiền nữa. Muốn nghĩ bọn họ nể mặt Phó Kính Thù, cô cũng không tin, nếu bọn họ làm vậy vì kiêng nể Phó Kính Thù thì thân là con cháu, Phó Chí Thời cũng không dám tùy miệng nói ra những lời ác ý đó.

Trên đường về nhà, Phương Đăng chỉ làm bạn với chiếc bóng của chính mình dưới đèn đường, sau khi trải qua chuyện ồn ào đó, sọt rác cùng với túi bùn cũng bị lấy đi. Phương Học Nông cũng vừa về tới, nháy mắt hỏi con gái có cơm ăn chưa. Phương Đăng lắc đầu, ông giơ chai rượu lên hỏi cô có muốn vài hớp không, Phương Đăng giơ tay kéo soạt tấm màn vải trước giường.

Ngày hôm sau, khi mặt trời ló dạng, khu vườn Phó gia đối diện đã bình yên như cũ. Không biết sự nóng giận trong lòng Phương Đăng xuất phát từ đâu, buổi trưa sau khi tan học, cô ra ngoài tìm chồng báo cũ, đem đến dán bít cả cánh cửa sổ duy nhất trong phòng trọ lại thật chặt, trong phút chốc căn phòng nhỏ trở nên tối đen như mực.

Phương Học Nông vừa nhai đậu phộng, vừa lẩm bẩm: “Tốt quá, như vậy là tốt nhất!”

Những ngày sau đó, sau khi tan học Phương Đăng về nhà một mình, trong hẻm nếu gặp Phó Kính Thù, cô liền làm bộ như không thấy, nhanh chóng vượt qua mặt anh mà đi tới, càng không có những ngày leo tường đi tìm anh nói chuyện. Cô cũng hiểu đôi chút, Phó Kính Thù có lẽ không ghét cô, nhưng cũng chỉ lần này mà thôi, có lẽ chính là dáng vẻ này của anh, không bao giờ thân mật với bất kỳ ai, cũng không đặc biệt ghét bất cứ người nào. Anh sẽ không cố tâm xua đuổi con chó đi lạc dưới chân tường, nhưng cũng sẽ không đưa tay vuốt đầu nó, vì anh biết, trên người con chó đó rất bẩn. Từ điểm đó mà nói, anh và những người khác cũng không có gì khác biệt. Tấm lòng nhiệt tình chan chứa của Phương Đăng giờ đây chỉ còn là trái tim nguội lạnh.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 05:46:50 | Xem tất


Chương 4: Máu trên ngón chân Phật





Bỏ Phó Kính Thù ra ngoài cuộc sống, cái nhìn của Phương Đăng về Qua Âm Châu trở nên mới mẻ hơn. Trước đây cô chỉ nhìn thấy bóng lưng của anh, bây giờ mới phát hiện trên con hẻm nhỏ về nhà, hai bên đường đều nở đầy hoa mỹ nhân, lá xanh chen chúc các bông hoa lớn sặc sỡ trên cành cây màu mỡ, dù còn non vẫn mang một màu đỏ thẫm, vẻ đẹp như mê hoặc lòng người. Cô thích nhất là hái hoa mỹ nhân xuống rồi vạch bên trong tìm mật ngọt. Ngoài ra, sau khi tan học không cần phải đến tường rào bên khu vườn Phó gia nữa, cô tự mình làm lưới rồi mò ra hồ bắt cá, ngày may mắn có thể bắt cả mười mấy con, về nhà chiên xù lên, Phương Học Nông rất thích dùng món này nhắm rượu, mỗi khi nhìn thấy đều không ngừng khen cô là “con gái ngoan”.

Khoảng mười ngày sau, sọt rác nặng nề mà Phương Đăng trước đây tưởng là đã bị nhân công dọn dẹp vứt đi lại một lần nữa xuất hiện ở góc hành lang phòng trọ, bên trong còn có túi phân bón được xếp chồng lên một cách gọn gàng. Cô buồn bực liếc về khu vườn nhà họ Phó một cái, không biết có phải do ảnh hưởng từ tình cảm hay không, cô nhớ lại cho đến giờ, mùi hôi trong con hẻm nhỏ dường như cũng bay đi đâu mất.

Ngày hôm sau, Phương Đăng phải trực lớp nên về trễ, đi tới cửa tiệm tạp hóa của lão Đỗ, cô cảm giác có gì đó là lạ, vừa quay đầu lại, rèm cửa sổ ở trên căn lầu nhỏ đối diện bị một người kéo lên. Cô thong dong xách thùng cùng lưới cá đến hồ nước định tìm vận may, mới đi vài bước liền nghe có người gọi.

“Phương Đăng, cô đến đây.”

Đúng là giọng nói đó, cũng là lần đầu tiên từ trước đến nay mới gọi tên cô, ngay cả Phương Đăng còn cảm thấy cái tên của mình có chút gì xa lạ. Cô làm ra vẻ lơ đãng quay đầu lại.

“Chuyện gì?”

“Cô vào đây, tôi có cái này cho cô xem”.

Lúc này Phương Đăng mới để ý, cánh cửa sắt thật lớn quanh năm suốt tháng khép kín Phó gia hoa viên bây giờ lại mở ra phân nửa, Phó Kính Thù đứng bên trong cửa. Cô chợt nhớ đến câu chuyện ly kỳ không biết lúc nhỏ đã nghe được ở đâu: một đứa bé bị ác ma dùng thuật mê tâm dẫn vào huyệt động, từ đó về sau không thể trở ra được nữa.

“Không! Có gì nói mau đi!”

Cô đứng ngoài cửa, cứng rắn trả lời.

Anh ta không đáp lại ngay, đúng là con người chậm chạp khiến người ta chán ghét. Nếu còn chần chừ nữa, khi trời tối xuống, ra hồ câu cá thật là không mấy an toàn. Phương Đăng tỏ ra mất kiên nhẫn, chân cũng không hề xê dịch.

“Cái này cho cô.”

Nhìn theo ánh mắt của Phó Kính Thù, Phương Đăng thấy bên chân anh có một chậu hoa, hình như là… hoa mỹ nhân?

“Hả, ai mà trồng cái này?” Phương Đăng cố tình dùng cách nói châm biếm để che giấu sự kinh ngạc. Trước đây đa số cây hoa mỹ nhân mà cô thấy đều không như vậy, mọc đầy trên đảo, đều là loại hoa dại tự sinh tự diệt, chưa bao giờ nghe nói có ai cố ý trồng nó, còn bỏ vào một chậu hoa đẹp thế này.

Phó Kính Thù nói: “Tôi hái từ ngoài đường bỏ vào chậu, là dùng bùn của cô cho đó”.

“Nói sao lại bốc mùi ghê vậy!” Phương Đăng cố ý hít mũi một cái.

“Chỉ bốc mùi lúc đầu thôi, nghiền nát rồi phơi nắng, có thể bón cho cây màu mỡ. Tôi đã chọn cái chậu tốt nhất, cô đem về chỉ cần tưới nước là được”.

Phương Đăng mạnh mẽ từ chối: “Tôi không muốn.”

Phó Kính Thù cũng không giận, cười nói: “Tính tình cô thật nhỏ mọn”.

Phương Đăng cúi đầu kéo tấm lưới đi lên một chút, hờ hững nói: “Chỗ tôi ở không có vườn.” Chỗ ở của cô khác với anh ta, đừng nói là vườn hoa, ngay cả bệ cửa sổ còn không có, đến cả người còn không có đất để ở, lấy đâu ra thời gian rỗi rảnh để làm vườn.

“Đây không phải là loại hoa dễ tàn, chỉ cần…”

“Anh cứ để nó tự lớn lên ở góc tường không được sao, cần gì lãng phí cả chậu hoa… Nghĩ thế nào?”

“Không phải cô thích sao?” giọng nói của anh ta nghe vẫn ung dung như cũ, làm cho người ta rất khó mà từ chối.

Phương Đăng chợt thấy không vui, lớn tiếng nói: “Ai nói tôi thích? Tôi chỉ thích ăn nó, nhai nát rồi phun ra thôi”.

“Vậy cô hãy cầm về rồi ăn đi” Phó Kính Thù nói một cách rất tự nhiên, Phương Đăng bắt đầu cảm thấy để chọc giận Phó Kính Thù quả là một nhiệm vụ bất khả thi.

“Tôi không ăn”. Cô tin mình nói thật. Lúc đầu quả là trong lòng có tức giận, cuối cùng lại giống như bản thân đang cố cãi chày cãi cối. Phương Đăng không phải là ghét chậu hoa này, thậm chí cũng không phải là ghét người trồng hoa. Chỉ là cô hiểu quá rõ nếu bưng chậu hoa này về, không bao lâu cũng sẽ bị cha cô ném bỏ, sau đó sẽ đem chậu hoa đi làm thứ để chứa đồ nôn mửa. Hoa dù chẳng đáng giá bao nhiêu, nhưng nếu đã bứng nó đem đi trồng nơi khác, cũng nên đối tốt với nó một chút.

Phó Kính Thù cũng tỏ ra suy nghĩ, nói lầm bầm một mình: “Hay là tôi thay chủ nhân chăm sóc nó?”

“Tùy anh”.

Phương Đăng biết mình không thể nói thêm gì nữa, nếu không dù bị cha mình mắng, cô cũng phải bưng chậu hoa về chăm sóc thật tốt đêm nay. Trước khi trời sập tối, cô chạy tới bên hồ nước, nhưng ngay cả nòng nọc cũng không hề bắt được.

Không thu hoạch được gì, khi trở lại phòng trọ, cô vẫn còn áo nảo không nhớ người đó hôm nay rốt cuộc đã nói với mình bao nhiêu câu, khi ấy cô thấy hai vợ chồng lão Đỗ đều đứng ở trước cửa tiệm tạp hóa xem cảnh náo nhiệt. Cửa lớn nhà họ Phó đối diện mở rộng, đèn đuốc sáng choang, thỉnh thoảng có tiếng nói và tiếng chân bên trong vọng ra ngoài, hiếm thấy cảnh ồn ào đến vậy.

Trong lòng đầy nghi hoặc, Phương Đăng dừng chân lại xem, một lát sau thấy mấy nam nhân mình trần rối rít bê đồ ra ngoài, trong đó có cột trụ, có bàn đá, còn có mấy món đồ nhìn qua không khác vật dụng trong nhà.

“Cẩn thận một chút, cẩn thận một chút chứ, đừng làm hỏng đấy!”. Một người nam tuổi trung niên đang đứng một bên giám sát, vóc người hơi mập, mang mắt kiếng, mặt ửng đỏ. Phương Đăng nhận ra đó là cha của Phó Chí Thời.

Ông già đứng bên cạnh cửa, mặt mày thâm trầm chính là lão Thôi, trong tay còn cầm giấy bút, mỗi món đồ mang ra, ông liền viết lên tờ giấy.

“Khoan đã! Đây là khung giàn hoa lầu hai, ở trong không có gì tốt cả!”. Mẹ của Phó Chí Thời cuối cùng cũng đến, là người mà Phó Kính Thù gọi là “Chị Hai!”. Trong tay bà ta cầm một vật bằng gỗ, hình thù tinh xảo, bị lão Thôi nghiêm túc cản lại.

“Mũi lão già này còn thính hơn chó! Ai nói đây là của lầu hai, rõ ràng là để ở lầu giữa”. Người đàn bà đó xem ra cũng chẳng quan tâm gì đến lão Thôi, cười gằn hai tiếng:

“Hơn nữa, nếu là lầu hai thì sao? Từ đông sang tây, từ trong ra ngoài không phải đều là đồ vật của nhà họ Phó hay sao? Năm đó lúc chúng tôi ở đây, ông cũng chỉ là một gã làm vườn, bây giờ vẫn vậy thôi, lúc nào đến phiên ông lên tiếng?”

Lưng lão Thôi hơi còng xuống, giọng nói không nhẹ không nặng nhưng lại khá mỉa mai: “Các người ở đây sao? Tôi mười ba tuổi đã thay cha vào Phó gia hoa viên làm việc, năm nay tôi bảy mươi ba tuổi. Dù chân què tai điếc nhưng đầu óc vẫn còn chưa hồ đồ. Hơn mười năm trước khi cha các người là Duy Nhân tiên sinh của còn ở đây, đã đóng dấu tay đem toàn bộ bất động sản bán cho bà chủ Trịnh của chúng tôi. Ngôi nhà này một khắc các người cũng chưa từng ở, đồ vật bên trong vì vậy không có gì là của các người cả”.

“Hả? Bà chủ Trịnh của “chúng tôi”. Cách xưng hô của lão người làm ông thật là thân thiết làm sao. Cha chúng tôi cũng đã mất rồi, ông có bản lĩnh thì đi theo bà chủ Trịnh của “chúng tôi” đến Mã Đại (Malaysia) đi. Đáng tiếc, các người có ló đầu ra ngoài, Tam gia cũng chưa chắc nhớ là có người như vậy”. Mẹ của Phó Chí Thời từ cách trang điểm đến khẩu khí cũng là phụ nữ, thẹn quá hóa giận nhưng nói chuyện cũng đâu ra đó. Bà vỗ vỗ đầu của mình, cất giọng the thé: “Thiếu chút nữa là quên, ông đi đâu không đi lại đi tìm ra con chó giữ nhà, rồi thuận tiện chăm sóc luôn cái loại nghiệt chủng đó nữa”.

Lúc nói câu sau cùng, bà ta cố ý hạ thấp giọng, nhưng Phương Đăng vẫn nghe thấy. Đèn trên lầu hai sáng rực, Phương Đăng thật sự hy vọng tốt nhất có một cơn gió thổi qua lúc này, đem mấy lời nói ác độc kia thổi hết đi, đừng truyền đến tai anh, mặc dù cô không hiểu tại sao bà ta lại muốn nói mấy lời đó.

Lão Thôi dù sao cũng lớn tuổi, khó thể cãi lại một người đàn bà mồm năm miệng mười, giận đến mức thở hì hộc trong lồng ngực. Vừa thở hổn hển vừa nói: “Các người cũng đừng mặt dầy đưa tay ra đòi tiếp tế, không có bà chủ Trịnh, mấy năm trước nhà các người có xây được nhà mới hay không? Nói ra mà không biết xấu hổ sao?”

“Chúng tôi có nói gì đến Tam gia đâu, những thứ đồ này không phải các người cũng đồng ý rồi sao?” – Cha của Phó Chí Thời đi ra giảng hòa.

“Đồng ý?” Lão Thôi cao giọng: “Các người không biết cái gì gọi là chiếm đoạt hay sao?”

“Người trong nhà đều không lên tiếng, sao ông lại lắm mồm?” Người đàn bà bất chấp lời khuyên can của chồng, tranh luận tiếp một hơi: “Có giỏi thì ông gọi điện ra nước ngoài kêu bà Tam gia về đây mà kiện đi, bà ấy dù có muốn lo chuyện này, cũng sẽ không liều mạng đem sự hòa thuận trong nhà để ném lại cho cái lão vớ vẩn nhà ông”.

“Nói hay lắm, nói hay lắm! Bà có nói hàng ngàn hàng vạn lần, người bên trong mới chính là chủ nhân đích thực của căn nhà này, vật các người lấy đi cậu ấy không hề đồng ý, coi như một cọng cỏ cũng là ăn cướp! Ăn cướp! Tam gia đã nhịn vậy rồi, không trách nhà các người….!

“Ông nói ai? Nhà tôi thế nào…”

“Đừng ồn nữa!”. Cảnh tượng đang diễn ra kịch tính đột nhiên bị gián đoạn, như dội một gáo nước lạnh vào trong chảo nóng. Dưới tàng cây ngoài sân, không biết Phó Kính Thù đã đứng ở đó từ bao giờ, hướng vào lối ra cửa nói: “Ông Thôi, ông đi nghỉ đi. Anh Hai, chị Hai, đồ các người lấy rồi, các người cũng về đi”.

Lão Thôi thở dài, quay đầu trở lại vào sân. Người đàn bà kia vẫn còn định lên tiếng, nhưng ông chồng dùng sức kéo vạt áo bà ta giật mấy cái, như ý bảo bà ta hãy thôi đi. Bọn họ sau lưng cười nhạo Phó Kính Thù không kiêng nể, ở trước mặt lại có hơi e dè. Mặc dù đa phần anh không buồn để ý hay khách khí, càng như vậy bọn họ lại càng muốn làm anh mất mặt.

“Tôi cũng chả muốn ở cái nơi quỷ tha ma bắt này một phút nào”. – Bà ta nói.

Người chồng kéo vợ trở về, nhân tiện giận dữ nhìn về hướng cửa tiệm tạp hóa nhà lão Đỗ, còn có cả Phương Đăng đứng đó: “Cút ngay! Nhìn cái gì hả? Không có chuyện của các người”.

Một lúc sau, Phương Đăng lại quen đường mà trèo lên tường rào của Phó gia,  lúc đó Phó Kính Thù đang khom lưng cùng lão Thôi dọn dẹp lại khu vườn đang lộn xộn. Khi nãy nhóm người kéo đến dọn đồ đã đạp hư mấy bụi hoa, còn làm ngã hai bồn hoa từ trên cao xuống, vỡ làm mấy mảnh, dính đầy bùn đất. Anh dọn dẹp từng thứ một, vừa cẩn thận vừa nhu hòa lấy tay đỡ từng nhánh hoa. Điều càng khiến Phương Đăng kinh ngạc là căn chòi mát nhỏ vốn ở bên cạnh miệng giếng khô nay đã hoàn toàn bị phá hủy, bên trong bàn đá ghế đá bị dời đi không còn thứ gì. Cô nhớ lại lúc Phó Kính Thù đứng ở chòi mát vẽ tranh, dáng vẻ lúc táy máy vẽ hoa cỏ trên bàn đá, trong lòng bỗng cảm thấy khó chịu thay cho anh.

Lúc này lão Thôi cũng phát hiện ra Phương Đăng, quát lên: “Con cái nhà ai vậy? Sao dám tùy tiện ngồi ở đó? Còn không mau đi xuống, đi mau!”

Phó Kính Thù nghe vậy nhìn lên, mỉm cười khi thấy Phương Đăng. Bộ dạng của anh lúc cười khiến Phương Đăng nghĩ đến giấc mơ thấy bầu trời màu xanh đằng sau anh, điều này càng khiến cô tin, hành vi của bọn tiểu nhân nhà Phó Chí Thời không thể làm tổn thương anh được.

Lão Thôi thấy Phó Kính Thù cười, có hơi ngạc nhiên, nghĩ là chắc mình hoa mắt khi nhìn thấy có ai đó trên tường rào, lão phủi hai ống quần dính đầy bụi, nói khẽ với Phó Kính Thù: “Tôi mệt rồi, đi ngủ trước đây.”

Đợi lão Thôi đi xa, Phương Đăng nhảy tõm một cái vào trong sân. Phó Kính Thù nói: “Cô coi chừng dưới chân chứ, nếu bất cẩn mà té thì thành cô gái què đó, phải, là cô gái què”.

Phương Đăng thấy anh còn có tâm tình mà đùa giỡn, nể mặt nên nhếch nhếch môi, kề mông xuống ngồi trên cổ, dựa lưng vào con hồ ly bằng đá.

“Bọn họ không đem nó đi sao?”

“Chắc họ cảm thấy nó không đáng giá”.

Trên kệ hoa của anh có mấy chậu hoa mỹ nhân vừa mới nhổ về trồng, trong đó có một chậu hoa mới nở, anh hái mấy đóa hoa xuống, đưa cho Phương Đăng: “Cho cô, con nít đều thích ăn cái này”.

“Anh nói giống như già lắm vậy, không phải anh chỉ hơn tôi hai tuổi sao? Già gì chứ?” Phương Đăng cầm lấy rồi ngẩng đầu lên hút mấy lần khiến nụ hoa sạch hết mật, cười hì hì, ánh mắt đảo tới đảo lui. Cô vỗ vỗ sau lưng con hồ ly đá, hỏi: “Chẳng lẽ anh không phải người, là hồ ly đá biến thành sao? Mấy thứ này thường có đôi, sao bây giờ chỉ còn lại một con? Người ta nói vật nào sống quá lâu sẽ có linh tính, biến thành yêu quái. Tôi đã sớm cảm thấy anh không giống người rồi”.

“Cô đang mắng tôi hay khen tôi vậy?” Phó Kính Thù nhìn cánh hoa mỹ nhân bị Phương Đăng ném qua một bên, cười nói: “Hoa mỹ nhân còn gọi là hoa Ngu Mỹ Nhân, theo truyền thuyết Phật giáo, nó là do máu trên ngón chân của Phật Tổ hóa thành. Cả ngày cô đều ăn cái này, nói không chừng cũng có linh tính, sẽ biến thành hồ ly tinh đó”.

“Sao anh lại biến thành người, còn tôi lại biến thành hồ ly?” Phương Đăng nghĩ đến lời anh ta, càng nghĩ càng thấy sợ. “Anh nói là tôi đang liếm đầu ngón chân Phật tổ sao?”

“Cô thấy chưa, tôi nói xong là cô hiểu ngay mà”.

Phương Đăng nhặt lấy đóa hoa rơi ném vào người anh ta, “Phó Kính Thù, đồ xấu xa!”

Anh nghiêng đầu tránh, ngồi xuống một bên của con hồ ly đá giống như cô. “Ơ, sao hôm nay cô lại gọi tên tộc của tôi rồi?”

“Phó Thất cũng chẳng phải tốt đẹp gì”. Phương Đăng lầm bầm, trong lòng đã thôi không còn giận.

“Sao anh lại để mặc cho bọn người xấu đó dọn hết đồ của mình đi vậy?” Nói xong, tự nhiên cô cảm thấy sợ câu trả lời, vì vậy có hơi lấm lét dò xét: “…Anh để bọn họ đem mấy thứ đó đi, để người nhà thằng mập họ Phó đó không làm phiền tôi sao?”

Phó Kính Thù nói: “Dù sao cuối cùng họ cũng tìm ra lý do đến dọn đồ. Cũng chẳng có gì đáng kể, năm ngoái gió thổi vào quật cả gốc ngọc lan, làm sụp chòi mát, năm trước ngôi đình phía Tây cũng đổ sụp hoàn toàn. Cho dù nhà Phó Chí Thời không đến đây, ngôi nhà này cũng mỗi ngày mỗi đổ nát, nói không chừng lúc nào đó, nhà phía Đông cũng chỉ còn là một đống gạch vụn mà thôi”.

Cách giải thích của anh càng nhẹ nhàng, Phương Đăng càng thấy áo não đến mức không thể thốt nên lời. Cô tuyệt đối không nghĩ đến sự kích động nhất thời của mình lại tạo nên hậu quả như thế, hận không thể đem bùn mà tự nhét vào miệng mình.

Phó Kính Thù nhìn thấy sắc mặt cô chán nản yên lặng, đoán được cô đang suy nghĩ gì, lấy cọng cỏ đuôi chồn cầm trên tay quét qua chóp mũi cô tinh nghịch: “Cô suy nghĩ gì chứ? Cái gì đi thì đi, cái gì đến sẽ tự nhiên mà đến”.

“Bọn họ là người thân của anh thật sao?” Phương Đăng buồn buồn hỏi.

Cọng cỏ Đuôi chồn trong tay anh khẽ run lên. Anh chỉnh lại tư thế thoải mái hơn nói: “Lão Thôi gọi tôi là Tiểu Thất, vì tôi đứng hàng thứ bảy trong số các anh em. Bây giờ cũng không hiểu vì sao ông lại vẫn gọi thế nữa, tư tưởng cũ khó lòng lay chuyển, không chịu gọi tên tôi, nhưng đều là dùng cách này để gọi, một mạch kêu tôi là thiếu gia. Tôi cũng chẳng phải Đại thiếu gia gì, lão Thôi nuôi tôi lớn, ông ấy chẳng khác nào cha tôi”.

“Vậy cha ruột của anh đâu? Sao lại bỏ một mình anh ở đây?… Cô Chu Nhan nói ông ấy đã đi nước ngoài” Phương Đăng ân hận vì mình lỡ lời, cô quên rằng với Phó Thất mà nói, Chu Nhan là điều cấm kỵ không thể chạm đến.

Quả nhiên, anh không muốn nói đến cái tên đó, coi như chưa nghe những gì Phương Đăng hỏi.

“Cha của Phó Chí Thời gọi là Phó Kính Thuần, ông nội của ông ta và ông nội tôi là hai anh em ruột, ông cố tôi – Phó Học Trình có bốn người con, ba nam một nữ. Con trai lớn là Phó Truyền Bản, con trai thứ hai là Phó Truyền Cách, con trai thứ ba là Phó Truyền Thanh, con gái là Phó Truyền Vân”.

“Tôi biết cụ ông của anh, thầy giáo lịch sử ở trường đã nói nhiều về ông ấy, còn có Phó Truyền Thanh, bọn họ đều là những người phi phàm. Phó Truyền Vân… có phải đó là nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng không?” Phương Đăng nói xong không khỏi ngẩn ngơ một lúc, nghĩ đến những người để lại dấu ấn trong lịch sử ít nhiều gì đều là cố nhân lưu dấu ở đây đều nằm trong họ tộc của anh ta, chảy cùng dòng máu với anh ta, đúng là một cảm giác vô cùng kỳ diệu.

Phó Kính Thù gật đầu: “Trong số ba người con trai của cụ, người con lớn Truyền Bản đã sớm qua đời, chỉ để lại duy nhất một người con trai là Duy Nhân, cũng chính là ông nội của Phó Chí Thời, là bác Cả của tôi. Mẹ của bác Cả hiếm muộn, không có anh chị em thân thích, ông là một người nhân hậu an phận, không ham đua chen sóng gió thương trường, lúc còn trẻ dù gia đình giàu có, ông vẫn nhất định ở trên đảo làm thầy dạy học, gia sản rộng lớn đều giao cho Tam gia thay mặt quản lý. Trước giải phóng, Phó gia chuyển ra nước ngoài sinh sống, bác Cả cũng không chịu đi, lý do vì nơi đây là cội rễ của ông, cả đời ông dạy học, cư xử trong sạch, bất cứ thời cuộc biến hóa thế nào cũng không ảnh hưởng đến ông. Trên thực tế sau này ông vô cùng khổ sở, chuyện đó cũng một phần vì người của Phó gia lưu lạc ở bên ngoài”.

“Sao ông ta lại đem cả sản nghiệp Phó gia mà bán cho bà chủ Trịnh, bà chủ Trịnh là ai?”

“Ah, chuyện này đợi một lúc tôi sẽ kể cho cô nghe, sau giải phóng không lâu, người ở trong nhà Phó gia không phải là người của nhà họ Phó, chính phủ đã tịch thu nhà làm của công. Nghe lão Thôi nói, thời điểm này có hơi hai mươi mấy hộ chen chúc vào ở, ồn ào náo nhiệt không thể tưởng, cổng chính trong hoa viên đều dựng thành phòng nhỏ”.

Phương Đăng cười chế nhạo: “Thật tức cười, anh đúng là kẻ no cơm không biết đói là gì. Tôi từ nhỏ đã sống cảnh “náo nhiệt” y như vậy, bây giờ cũng chẳng “cô độc” hơn chút nào. Nói không chừng trong hai mươi mấy nhà lúc đó có cả tổ tiên thân thích nhà tôi nữa đó”.

Phó Kính Thù cười nhẹ, tiếp tục kể lại chuyện cũ về gia tộc của mình.

“Sau đó, nhờ chính sách ổn định kiều dân, chính phủ đem ngôi nhà này trả lại cho Phó gia, những người đó mới bắt đầu dọn đi. Lúc ấy ngôi nhà lớn phía Tây đã hư hỏng không thể tưởng, ngôi nhà phía Đông tôi đang ở hiện giờ tuy nhỏ hơn nhà ở phía Tây, người ở tuy chật, nhưng cũng chưa đến nỗi tàn tạ thảm hại. Nhà của bác Cả đã ở bên ngoài hai mươi mấy năm, bọn họ bị giày vò đến mức vô cùng sợ hãi, không muốn liên can bất cứ chuyện nào của gia tộc nữa, hơn nữa từ trước đến nay bọn họ vốn đã không có nhà. Cho nên trước khi bác Cả Duy Nhân qua đời, đã đem sản nghiệp mà mình làm chủ, cũng chính là căn nhà lớn của Phó gia, bán lại cho người trông coi sản nghiệp Tam gia, vợ của ông nội tôi – bà chủ Trịnh.”

“Vợ của ông nội” – từ này nghe có chút không mấy tự nhiên, Phương Đăng hiểu điều khác thường trong đó, nhưng sợ chạm đến tử huyệt của anh, không dám tùy tiện hỏi nữa.

“Sau khi ký tên, nhà của Phó gia đã hoàn toàn không còn liên quan gì đến nhà bác Cả nữa. Phó Kính Thuần còn có một người anh, sau khi bác Duy Nhân qua đời, hai anh em bọn họ bán nhà chia tiền vượt biên. Người con lớn đi về phương Bắc, nghe nói cũng không qua được. Phó Kính Thuần làm ăn thua lỗ nhất thời hồ đồ, thời điểm thảm nhất còn bị người ta truy sát đòi nợ, ngay cả nhà cũng không dám trở về. Cũng may khi cải cách mở ra, bọn họ cùng người nhà Phó gia bên ngoài có chút liên lạc, Nhị gia, Tam gia đều biết Đại gia sống không dễ thở, thường xuyên tiếp tế, nên so với đại đa số người trên đảo, nhà bọn họ sống cũng tốt lắm rồi”.

“Bọn họ đúng là thứ khinh người!” Sắc mặc của Phương Đăng lúc nghĩ đến người nhà của Phó Chí Thời giận đến mức không thể nói nên lời.

“Ai mà không muốn sống thanh cao, đều là do thực tế ép buộc thôi, bọn họ là sợ nghèo, hận vì bản thân không có tài cán gì. Tôi nghĩ trong lòng họ không phải quá oán hận, đều là nhà họ Phó, thân nhân ở hải ngoại vẫn còn sống tốt, bọn họ lại thay người một nhà đứng ra lãnh tội”.

“Vậy cũng không thể bắt anh ra lãnh được!”

“Sợ mạnh hiếp yếu vốn chính là quy tắc của thế giới này.” Phó Kính Thù nói thật nhẹ: “Những người kia viện trợ cho họ, bọn họ tự nhiên vị nể. Tôi không cho họ được bất cứ cái gì, chuyện này rất bình thường”.

“Kế tiếp là Nhị gia. Gia đình Nhị gia Phó Truyền Cách thì đơn giản hơn nhiều, ông cụ tôi từng có một người vợ lẽ, chỉ sinh ra một gái là Phó Truyền Vân, vì sợ người vợ lẽ sau này không có nơi nương tựa nên ông cụ mới quyết định đem con trai của người quản gia về cho bà nuôi dưỡng”.

“Hả, nói vậy Nhị gia Phó Truyền Cách không phải là con ruột của ông cụ sao?”

“Đúng vậy, nhưng ông ấy đối với ông cụ cũng không khác gì con ruột, một lòng hiếu thuận. Nhị gia Phó Truyền Cách tin vào tôn giáo, lúc đó cưới con gái của nhà họ Khâu vốn là gia đình danh tiếng ở Đài Loan, cũng là tín đồ Cơ đốc. Họ tiếp quản việc làm ăn của cụ tổ, kinh doanh phát đạt, từng giàu có một phương. Nhị gia có bốn người con trai, hai con gái, là gia đình có nhân số đông đảo nhất Phó gia”.

“Đáng tiếc dù sao đi nữa, dòng máu trên người ông ta cũng không phải huyết mạch của Phó gia, khó trách Tam gia lại chiếm ưu thế”. Phương Đăng ưu tư nói.

“Thế mới nói cô đúng là tiểu hồ ly, cái gì cũng hiểu rõ mấy phần”. Phó Kính Thù cầm cọng cỏ đuôi chồn đuổi muỗi hai bên gò má. “Mặc dù trong tông phổ họ đích thị là người của Phó gia, nhưng Nhị gia cũng biết dù sao mình cũng không phải huyết mạch chính thống, cho nên từ đó Phó Truyền Cách bắt đầu tạo dựng sự nghiệp lâu dài ở Đài Loan, một lòng dựng nguồn cội ở đó. Mặc dù khu nhà tổ Phó gia này có một phần là của họ, thật ra họ cũng chẳng sống ở đây được mấy ngày, chuyện của gia tộc cũng rất ít khi hỏi đến, Đại gia không có chí lớn, nên Tam gia ngồi vị trí bề trên. Bọn họ nhớ công đức ông cụ tổ, ở Đài Loan nghe nói cũng cho xây một tổ đường giống y thế này, cũng gọi là Phó gia Hoa viên. Tuy nói là bắt chước, nhưng so với Phó gia hoa viên hiện giờ ở đây nhất định đẹp hơn rất nhiều lần. Hậu nhân của Nhị gia đông đảo, tôi cũng tình cờ nghe được tin tức của họ, nghe nói phân nửa số đó không theo nghiệp kinh doanh, nếu không phải là bác sĩ thì làm nghệ thuật, phần lớn đều sống trong dư dả”.

Phương Đăng chưa từng nghe anh nói một hơi nhiều như vậy, nhưng nhìn bộ dạng của anh cũng không chán, dường như anh cũng cần có lúc trút bầu tâm sự thế này. Nghe anh nói với Phương Đăng cũng như là một kiểu hưởng thụ, ngay cả phải chịu đựng muỗi bay trong sân cũng không cảm thấy chán ghét.

“Tam gia Phó Truyền Thanh chính là ông nội của anh, danh tiếng của ông ta cũng không khác gì ông cố anh mà!”

“Ông nội tôi Phó Truyền Thanh là con út của ông cụ, do chính bà vợ lớn sinh ra, coi như báu vật. Ông cũng rất nhanh nhẹn, từ nhỏ đã giỏi tính toán, thông minh quả cảm, phong độ khí phách như ông cụ năm xưa, nên ông cụ cũng thương ông nhất. Năm hai mươi tuổi, ông nội dưới sự an bài của gia tộc đã tới Tây Á cưới con gái của Tổng đốc xứ này, họ Trịnh, cũng chính là bà chủ Trịnh mà mọi người nói đến hiện giờ. Sau khi cưới, ông chính thức thay cha xử lý kinh doanh, thừa kế cơ nghiệp, phát triển mua bán gỗ và cao su rất lớn. Ngoài dốc sức thay ông cụ cai quản cơ nghiệp, bản thân ông còn sắm thuyền buồm, khai thác thuyền vụ. Đó là thời điểm cường thịnh nhất của Phó gia, tiền vào như nước, giàu có vô cùng, nhà tổ của gia tộc cũng là do tay ông làm mới, chỉnh đốn hoa viên, xây thêm tòa nhà phía Đông ba phòng cho vợ con ở. Tên chữ của ông nội tôi là Phong Đào, tòa nhà phía Đông lúc đó gọi là Phong Đào biệt viện, chính là nơi tôi ở bây giờ”.

“Ông nội anh có mấy người vợ? Mấy người con?” Đây mới là mấu chốt của vấn đề nên Phương Đăng dè dặt hỏi.

“Tam gia không có nhiều con cái như Nhị gia, ông nội tôi chỉ có một người vợ, chính là bà chủ Trịnh đó”.

Phương Đăng gật đầu nói: “Thế thì…”

Phó Kính Thù thật giống như một lão hồ ly tu luyện ngàn năm, luôn có thể nhìn xuyên tâm tư của đối phương. Anh xuôi theo câu nói của Phương Đăng: “Bà chủ Trịnh vốn là một tài nữ, nhân phẩm và tài mạo cũng không thua ông  nội tôi. Bà vốn là con một, tính tình khôn khéo, hoạt bát thông minh, lúc chưa gả chồng cách ăn nói cũng rất biết cân nhắc. Khi gả vào Phó gia, bà mang theo của hồi môn kếch sù. Có thể nói, nếu như không có bên nhà mẹ bà giúp đỡ, Phó gia ở Nam Dương không thể nào tồn tại bốn đời chưa lụi tàn. Khi còn sống ông nội tôi cũng rất kính trọng bà…”

“Tôi hiểu rồi, là ông nội anh sợ bà ấy” – Phương Đăng vỗ tay cười, nhưng tự thấy ngượng, lấy tay che mặt lại.

Phó Kính Thù cũng cười một mình: “Tóm lại, bà chủ Trịnh vốn là người vợ hiền của ông nội tôi. Chỉ là… Sau khi cưới vài năm, bà sinh được một trai một gái, tất cả đều chết yểu, sau đó rất lâu cũng không sinh thêm được đứa con nào.”

“Sau đó thì sao..?”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 05:48:16 | Xem tất

{ Tiếp chương 4 }





Cuối thập niên bốn mươi, thế cục trong nước dần dần tươi sáng hơn. Ông nội tôi đồng ý với đề nghị của bà chủ Trịnh, đem Tam gia tạm thời di cư sang Mã Đại. Nhị gia thì vẫn ở đảo Đài Loan, trong Phó gia Hoa viên, trừ Đại phòng, còn có hai nhà không ai trông coi và chẳng người ở”.

“Tôi muốn hỏi sau đó ông nội anh còn có người con khác hay không?” Phương Đăng muốn nói, thật ra cô chỉ quan tâm đến thân thế cùng vận mệnh của Phó Kính Thù, còn tất cả đối với cô chẳng liên quan.

“Cô đúng là thiếu kiên nhẫn”. Phó Kính Thù cười nhạo cô. “Tôi đang nói về vấn đề đó đây. Đêm trước ngày giải phóng, tam phòng Phó gia, thật ra cũng là người thừa kế sản nghiệp của Phó gia, tất cả các vật dụng đáng tiền đều được mang đi, chỉ để lại một người canh giữ vườn, cũng chính là lão Thôi, cùng một người hầu… còn có… hài nhi trong bụng của người hầu đó”.

“Đó chính là cha anh sao?” Vừa nói dứt câu, Phương Đăng tự vả vào mặt mình một cái nhẹ, hễ hấp tấp là đầu óc cô trở nên ngu ngốc. Dù sao cũng là chuyện nhiều năm trước rồi, đúng là vậy, Phó Thất tuyệt đối không bận tâm đến câu hỏi của cô gái tiểu yêu tà này.

Phó Kính Thù chỉ vào trán cô, cười nói: “Phương Đăng, cô đúng là…” . Nụ cười của anh lúc nào cũng rất nhanh, chỉ chớp mắt một cái là tắt mất. “Đúng vậy đó chính là cha tôi, ông tên là Phó Duy Nhẫn”.

“Sao người khác tin đó là con trai của ông chủ, mà không phải là con của người hầu với người làm vườn chứ?” – Phương Đăng âm thầm cầu nguyện lão Thôi không nghe được lời của cô.

“Vì người hầu với người làm vườn đó chính là hai chị em. Một năm sau, ông nội tôi đích thân gửi giấy tờ thừa nhận đứa con trai này, còn ủy thác cho nhiều người trong gia đình quan tâm cậu bé đó. Ông vốn định chờ vài năm, khi bà chủ Trịnh đã phần nào bớt giận sẽ đón hai mẹ con họ về, nhưng chỉ chớp mắt thời cuộc không cho phép ông làm điều đó, bẳng đi một thời gian đã qua mấy chục năm’”

Phương Đăng nói: “Vậy là lúc đầu cô người hầu bị để lại, cũng là do ý của bà chủ Trịnh”.

Phó Kính Thù đáp: “Có lúc cô rất thông minh, có khi lại quá ngốc. Nhưng lúc thông minh cũng khá thường xuyên. Người hầu đó gọi là Tiểu Xuân, ai cũng gọi là Tiểu Xuân cô nương. Bà là con gái của vú nuôi ông nội tôi, lớn hơn ông nội tôi vài tuổi”.

Phương Đăng há hốc mồm kinh ngạc: “Vậy sau này Tiểu Xuân cô nương đó, hay cũng chính là bà nội anh đã sang Mã Đại sao?”

“Không, bà đã chết. Thật ra cũng tính là đi được. Dù sao Tiểu Xuân cô nương đó cũng đã sinh hạ huyết mạch duy nhất cho ông nội tôi, không ngờ bà chủ Trịnh tìm danh y chữa bệnh, lúc ba mươi lăm tuổi lại sinh một đôi song sinh trai gái. Cho nên không muốn đón thêm người con nào nữa. Đến khoảng mười năm trước, ông nội tôi qua đời, đã dặn dò bà chủ Trịnh nhất định phải đem Phó Duy Nhẫn về chăm sóc thật tốt. Bà chủ Trịnh nhớ tới ân tình vợ chồng mấy chục năm, cuối cùng mới đồng ý.” Chuyện này Phó Kính Thù chỉ nói qua có vài lời.

“Tại sao Tiểu Xuân Cô Nương lại chết? Sao anh không cùng cha anh đi Mã Đại chứ?”

“Cô hỏi nhiều quá. Tôi không đi, vì bà chủ Trịnh chỉ làm theo lời dặn của ông nội tôi, đem con trai về Mã Đại, không dẫn theo bất kỳ người nào khác”.

“Anh cũng là người khác sao?” – Cô mơ hồ cảm thấy nguyên do đó nhất định có liên quan đến cô Chu Nhan, nếu không Phó Duy Nhẫn cũng không thể nào bỏ lại vợ con một mình đi xa, nhưng điều này Phương Đăng không dám hỏi.

Chuyện Phó Kính Thù không muốn nói, không ai có cách khiến anh mở miệng.

“Cô bị muỗi cắn đủ chưa? Không chừng mai đến trường cô sẽ bị người ta gọi là con bé mặt rỗ đó!” – Anh ta chuyển sang đề tài khác.

Phương Đăng nghiêng đầu nhìn sang chỗ anh. Ở góc sân có một ngọn đèn mờ, sắc mặt Phó Thất dưới đèn vẫn bình thường, nhưng Phương Đăng thấy rất rõ ràng, đôi mắt lúc nào cũng trong sáng đó lúc này lại có chút mơ màng, dường như vẫn còn bị lạc trong khoảng thời gian xưa cũ mà nãy giờ anh nhắc đến.

“Vậy tôi về, mặt tôi ngứa lắm rồi”. Phương Đăng đi đến chân tường, quay đầu nhìn lại nói với anh một câu: “Thật tốt, tôi thật ngưỡng mộ anh”.

“Ngưỡng mộ tôi?” – Câu nói không đầu không đuôi của cô làm cho Phó Kính Thù có hơi kinh ngạc.

Phương Đăng gật đầu nói: “Người nhà của anh đều như người sống trong chuyện xưa vậy, khó trách mọi người đều nói trên đảo này, Phó gia là một gia tộc hàng đầu. Nếu tôi là anh, tôi nhất định sẽ cảm thấy rất kiêu hãnh”.

Phó Kính Thù dùng tay véo một cành cỏ đuôi chồn ném vào trong bụi cỏ, bật cười, trong lời nói có chút buồn bã: “Cô thật sự cảm thấy ngoài cái họ này, tôi và người nhà Phó gia thật sự giống nhau sao?”

“Dĩ nhiên!” Phương Đăng đáp ngay không do dự. “Nói không chừng so với bọn họ anh còn tốt hơn… anh xem, anh còn biết vẽ, biết trồng hoa”. Cô cũng có cảm giác lời nói của mình hơi lung tung, nên gãi gãi đầu, cười nói: “Dù sao tôi cũng chẳng quen người nhà Phó gia nào còn sống, trừ anh ra…thằng quỷ nhỏ Phó Chí Thời cùng người nhà hắn thì không tính, bọn họ không xứng, giống như trong ổ Phượng Hoàng mà sinh ra con chồn vậy, chỉ biết làm mấy chuyện trộm gà trộm chó thôi”.

Phương Đăng vừa nói xong đã phóng thẳng lên đầu tường rào, tư thế xem ra cũng không dịu dàng gì. Cô đanh thép nói người khác là kẻ trộm gà trộm chó, còn mình thì đi ra khỏi nhà người ta bằng cách này. Hai chân cô lanh lẹ chạm đất nhảy ra ngoài, Phương Đăng còn chưa hiểu lúc đưa mắt nhìn cô nhảy khỏi tường, Phó Kính Thù cười cái gì nữa. Chỗ anh đang ngồi khá ảm đạm không có ánh sáng, nhưng nụ cười đó lại giống y như là ánh trăng trên mái hiên nhà.

Hoặc là tất cả đều xuất phát từ trí tưởng tượng của cô.





Hoa mỹ nhân
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 05:49:36 | Xem tất


Chương 5: Tôi đã thắng sao?





Qua ngày hôm sau, Phương Đăng ngồi xé mấy tờ báo đã dán trên tường xuống, theo thói quen lại hướng mắt nhìn khung cửa sổ trên căn lầu nhỏ đối diện. Cô ngạc nhiên khi nhìn thấy mấy chậu hoa mỹ nhân đặt trên bệ cửa sổ phòng anh, chậu hoa còn ướt, dường như vừa được tưới nước, những đóa hoa màu vàng xinh đẹp nhú ra giữa tảng lá xanh biếc màu mỡ.

Tờ báo bị xé ra, ánh sáng tràn vào làm chói mắt Phương Học Nông lúc bấy giờ đang ngủ trên giường tr, lấy một tay che mắt, ông ngồi dậy càu nhàu: “Sáng sớm mà cười vui vẻ gì vậy?”

Phương Đăng sờ lên mặt, mới biết đúng là mình đang cười, cô ngượng ngùng trả lời cha một câu: “Cha thích xem mặt con ám chướng hả?”

Phương Học Nông nhặt chai rượu tối qua lên, cầm quơ quơ: “Mẹ kiếp, lại hết rồi. Lão Đỗ lầu dưới có mở cửa không?”

“Ông ta có mở hay không con không biết, ba có giỏi thì tự mình xuống hỏi mua rượu đi”. Phương Đăng vừa chải tóc vừa nói.

Thấy con gái không chịu mua thiếu, sắc mặt Phương Học Nông càng thêm giận dữ, ông ta vô tình nhìn thẳng vào mắt con gái, hừ một tiếng lạnh lùng, nói đầy kỳ quái:

“Con gái khuê nữ kiểu gì mà sáng sớm đã cười tươi như hoa. Mày nghĩ có ai đang nhìn thẳng vào mày đấy hả?”

“Cha đang nói gì vậy!”

“Khó trách ngay cả lão Đỗ cũng nói cả ngày mày chỉ biết theo đuôi của người ta, lúc trước tao còn không tin. Nói ra thật mất mặt…”

Phương Đăng dù sao cũng còn nhỏ tuổi, bị cha nói câu này, mặt đã nóng lên, vừa xấu hổ, vừa giận dữ, ném cái lược thẳng lên giường: “Ném vào mặt cha đó… Cha nghĩ cha còn có mặt mũi sao? Đừng tưởng con không biết tại sao sáng sớm cha đã nổi cơn, có phải muốn con thay cha xuống lầu mua rượu không?”

“Vậy mày còn không đi nhanh?” Nói đến rượu, bất cứ cái gì khác Phương Học Nông đều quên cả.

“Bà Đỗ hai ngày nay đã về nhà mẹ đẻ rồi, nói không chừng ông ta sẽ chịu bán thiếu hai chai đó”. Phương Đăng làu bàu trong miệng. Cặp mắt đục ngầu của Phương Học Nông sáng lên, đến sát bên cô, trơ mặt gọi “Con gái ngoan”, Phương Đăng liền nói sang chuyện khác: “Người ta dựa vào cái gì mà cho cha thiếu nợ tiền rượu, mặt mũi cha ở đâu để người ta tin chứ?”

Cô ôm lấy túi đựng sách đi ngay, mau chóng thoát khỏi cánh tay Phương Học Nông đang cố tóm cô lại.

“Mày dám đùa với ông hả? Tao đánh chết mày!” Ông ta mắng nhiếc dữ dội, nhưng bước chân của kẻ say rượu không thể theo kịp Phương Đăng, nhìn thấy con gái đi xuống lầu, chỉ biết lớn tiếng mắng: “Đều là thứ không có gì tốt! Tao sớm biết bọn mày đều đê tiện như nhau, cứ cho là có thể một phút trèo lên cao, mày và cô cô mày đều không có kết quả tốt đâu….”

Phương Đăng vừa chán ghét vừa kinh ngạc quay đầu lại liếc một cái, mặt của cha cô đỏ bừng, đã lâu rồi ông ta không nổi xung thiên đến như vậy, cô thậm chí không biết hiện giờ ông ta đang tỉnh hay mê sảng nữa.

“Bọn mày nghĩ cái thứ đối diện là của bảo trân quý gì sao? Bất quá chỉ là một bọn nghiệt chủng, đều là người xấu… Một ngày nào đó ông đây sẽ lột da bọn nó…”

Tiếng mắng chửi của ông càng lúc càng xa dần và thôi lọt vào tai, Phương Đăng hiểu rõ cha mình nhất, cho dù ông có mắng chửi nhiều hơn nữa, thông thường cũng không dám xông lên đánh cô. Cô chẳng qua không hiểu tại sao ông đối với Phó gia lại tỏ thái độ thù ghét sâu xa đến vậy, chẳng lẽ duyên cớ đều là do cô Chu Nhan mà ra cả hay sao?

Xuống tới lầu dưới, Phương Đăng khẽ lắc đầu, liếc một cái qua phía cửa sổ đằng xa có đặt chậu hoa mỹ nhân, muốn mượn nó để xua tan sự bực bội mà cha cô lúc nãy đã tạo ra. Lão Đỗ hôm nay mở cửa thật sớm, vừa từ trong nhà đi ra, vừa gặm cái bánh bao mới mua ở bên cạnh trường học.

“Ô, sao hôm nay sớm vậy? Ăn gì chưa? Bánh bao mới vừa đem tới, còn rất nóng!”. Lão Độ ân cần nhìn vào Phương Đăng chào hỏi. Mụ vợ hung dữ không có nhà, cho nên lá gan ông ta cũng lộ ra thật lớn: “Mày đến nếm thử một chút đi, sợ cái gì, tao không có lấy tiền của mày đâu.”

Phương Đăng cười nhạt, trên đời này làm gì có bữa ăn nào miễn phí, lão già háo sắc này thật ra biết dùng lợi lộc để hòng lung lạc người khác.

“Không lấy tiền thật à? Tôi có thể nếm thử không?”

Một thanh âm e dè truyền đến, Phương Đăng lúc này mới để ý ở trước cửa tiệm còn có một đứa bé đang đứng. Đó là một cậu bé gầy gò, trên người cũng mặc bộ đồ học sinh giống cô, nhưng tuổi tác nhìn qua chắc nhỏ hơn cô vài tuổi, gương mặt đen đúa, chảy dài hai hàng nước mũi, thỉnh thoảng hít lên sợi dài sợi ngắn.

“Mày đừng mơ, thằng nhóc chết tiệt.” Lão Đỗ tức tối xua cậu bé đi, ánh mắt cậu bé dường như dính chặt vào cái bánh bao đang để trên quầy. Đúng là bánh bao mới ra lò buổi sáng, vỏ ngoài nướng cháy vàng thơm ngon, bọc giấy nylong trong suốt hấp dẫn, là sự cám dỗ tuyệt đối với bất kỳ ai.

Lão Đỗ bị Phương Đăng lạnh nhạt, thấy cậu bé vẫn đứng yên không nhúc nhích, trong lòng giận như bốc lửa, muốn đẩy cậu ta ra xa một chút, lại thấy cậu ta trên người dơ bẩn, sợ bẩn tay mình, liền mắng: “Đồ tham ăn chết tiệt! Muốn ăn hả? Tìm Thiên Chúa mà xin tiền đi!”

Nghe lão Đỗ nói vậy, Phương Đăng cũng liếc nhìn cậu bé này một chút. Quả thật trên người cậu ta có đeo một cái cặp sách màu đen bạc màu, đó là dấu hiệu đặc biệt của cô nhi viện Thánh Ân. Cô nhi viện này tuy có chính phủ và người dân cùng quyên góp ủng hộ, nhưng dù sao thu vào cũng có hạn, nguồn chi ra lại quá nhiều, nên cuộc sống của các cô nhi trong đó rất kham khổ, điều này ai cũng biết, có thể duy trì ấm no cho đa số trẻ em cũng không thành vấn đề, nhưng nếu có mẹ nuôi chăm sóc quần áo dầu gì cũng có chút chỉnh tề, không nhiều người ăn mặc bẩn thỉu như cậu bé trước mặt. Dù sao suy nghĩ kỹ một chút cũng chẳng có gì lạ, Phương Đăng thầm nghĩ, nơi nào cũng có cá lớn nuốt cá bé mà? Cô nhi viện cũng không ngoại lệ. Nhìn cậu bé này gầy gò ốm yếu, không bị người khác khi dễ mới là lạ, e rằng bình thường đến cả mẹ nuôi cậu ta còn chưa gặp được, nên mới ăn mặc giống như tiểu ăn mày thế này.

Phương Đăng tự nhủ bản thân mình cũng chẳng hơn gì, không có thừa tình cảm mà xót xa cho loại tiểu quỷ vô dụng này. Trước khi quay đi, cô còn nghe cậu bé kia ấp úng hỏi lão Đỗ: “Tôi có thể trao đổi với ông không?”

“Đổi con khỉ! Cút đi xa xa, đừng có cản ông mày buôn bán!”

Một món đồ nhỏ đan bằng cỏ rơi sát bên người Phương Đăng, nhìn sơ qua giống như  con chuồn chuồn, một hình  mô phỏng khá giống, chẳng qua không biết cậu bé đó nghĩ viễn vông thế nào, cho là thứ đồ chơi này có thể đổi miếng ăn từ lão Đỗ.

Cậu bé nức nở đi nhặt lại con chuồn chuồn cỏ, mặt mày buồn so, nhưng ngay cả tiếng khóc cũng đè nén không dám bật ra, hai hàng nước mũi nhỏ xuống cả lối đi khi cậu ta khom lưng xuống. Phương Đăng lắc đầu bỏ đi.

Lúc ở trường, Phương Đăng nhìn lên tấm bảng đen, trong đầu cũng chỉ có mấy chậu hoa mỹ nhân. Một ngày trôi qua rất nhanh và thoải mái, hoàn thành ca trực xong cũng là giờ tan học.

Trên đường về nhà, trời đã bắt đầu sụp tối, Phương Đăng rẽ vào con hẻm nhỏ gần khu cô ở, chợt nhìn thấy ở đằng xa, Phó Chí Thời đang lầm lũi đi về hướng mình. Nhà của Phó Chí Thời nằm ở mặt bên kia đảo, thông thường cậu ta xuất hiện ở đây cũng là đến tiệm để mua quà vặt. Phương Đăng cảm thấy rất chán ghét, thừa dịp cậu ta chưa để ý tới mình, vội vàng rẽ qua một đường mòn khác để tránh về cùng đường với cậu ta. Cô cũng không phải là sợ cái tên quỷ nhỏ đó, chỉ là không muốn đối mặt với cậu ta, rồi khi nghe mấy lời xấu xa từ miệng cậu ta phun ra, nhất thời khó kềm chế mà gây xung đột, sau đó cậu ta lại quay đầu gây phiền toái cho Phó Kính Thù.

Những con đường mòn với tường rào cao thấp xen nhau là nơi rất tốt để Phương Đăng giấu mình vào đó, y như cô đoán, Phó Chí Thời đi sang một con hẻm nhỏ khác. Lúc cậu ta đi ngang bụi rậm ở ngã ba chỉ cách sau lưng Phương Đăng chừng mươi bước, Phương Đăng nhìn thấy mặt cậu ta giương giương tự đắc, trong tay cầm một thứ đồ chơi.

Vật mà Phó Chí Thời cầm trên tay rất quen mắt – đó là con chuồn chuồn cỏ.

Đợi đến lúc Phó Chí Thời đi xa, Phương Đăng mới tiếp tục đi về nhà, đi ngang qua vườn hoa nơi giáp ranh giữa cô nhi viện Thánh Ân và tiệm tạp hóa, cô không ngạc nhiên tí nào khi thấy cậu nhóc bẩn thỉu ngồi khóc thút thít vì mất đi món đồ chơi yêu quý.

Có lẽ cảm giác được bước chân Phương Đăng dừng lại nhìn mình, cậu bé dơ bẩn càng khóc nhiều hơn nữa rất thương tâm, có thể là cậu ta buồn thật, tiếng khóc đó không chỉ là sự đau khổ xuất phát từ lồng ngực mà còn là âm thanh nghẹn ngào phát ra trong mũi. Bị người ta bắt nạt, ngay cả khóc rống lên cũng không dám. Cho dù cậu ta đang cúi đầu, Phương Đăng cũng có thể tưởng tượng hai hàng nước mũi thò lên thụt xuống rất đáng thương kia mãi mãi sẽ không thể nào lau sạch.

Trong lòng cô dâng lên cảm giác vừa tức tối vừa khó chịu. Cách đây rất lâu, vì bị con trai nhà hàng xóm trêu chọc, con gái của ma men từng núp ở góc tường len lén khóc, nhưng cô mau chóng hiểu ra nước mắt chỉ là vô dụng, phải biến bi thương cùng giận dữ thành công cụ sắc bén tự bảo vệ bản thân mình, không thể nào tự hành hạ bản thân trong bóng tối.

“Nó cướp đồ của cậu, cậu không đánh nó sao?” – Phương Đăng tức giận hỏi.

Cậu bé nhỏ bẩn thỉu không ngờ cô sẽ bắt chuyện với mình, dừng khóc một lát, hồi lâu mới cất giọng run run trả lời: “Tôi làm sao có thể đánh thắng cậu ta được”.

Đúng vậy thật, Phó Chí Thời cao hơn cậu ta gấp đôi, đừng nói là đánh nhau, e rằng đối phương chỉ cần hăm dọa một phát, liền có thể cướp đi đồ trong tay cậu ta được chứ. Dù sao Phương Đăng cũng cảm thấy điều này không quan trọng, cô không nhịn được nên mắng: “Coi như đánh không lại nó đi, nhưng nó đánh cậu ba đấm, cậu không thể đá lại nó một cước sao? Tôi không tin nó đánh cậu gãy một tay, cậu cũng không thể đánh gãy một cái răng của nó”

Cậu nhóc bé nhỏ quả nhiên bị lời nói này của Phương Đăng hù dọa, ngẩng đầu lên, mở to mắt nhìn cô, đến nước mũi cũng quên cả hút vào, mặc nó cứ lòng thòng treo ngay trên càm.

“Không dám, phải không! Vì cậu vô dụng như vậy nên người khác mới coi thường cậu!” Phương Đăng khinh bỉ nói.

“Cậu ta…” mặt mũi cậu nhóc đầy nước mắt, theo bản năng mà co rúm lại vào chỗ bồn hoa. “Tôi không dám!”

“Vậy thì khóc cho chết cậu luôn đi!” Phương Đăng bỏ đi về phía trước mấy bước, bộ dạng vui vẻ của Phó Chí Thời lúc cầm món đồ chơi bằng cỏ không ngừng hiện lên trước mắt cô, còn nhớ trước đây không lâu, cậu ta ở trước mặt mọi người cười nhạo cô mà không chút nể mặt Phó Kính Thù…Lúc thấy cha mẹ của Phó Chí Thời mượn chuyện của con trai mà giống như cường đạo vào dọn sạch cả hoa viên Phó gia, trong lòng Phương Đăng như nhóm lên ngọn lửa. Cô mím chặt môi, quay phắt lại lôi cậu nhóc từ dưới đất dậy.

“Có gì mà không dám? Cậu đi theo tôi.”

Cơ thể cậu bé đáng thương nhẹ như chiếc lá rụng, mặc cho cô lôi kéo đi nhanh về phía trước, quẹo trái quẹo phải đuổi theo qua vài con hẻm cũng thấy Phó Chí Thời đang lơ đãng bước đi cách đó không xa.

Phương Đăng thấy bốn bề vắng lặng, trời đã mờ tối, đèn đường lại chưa sáng tỏ, liếc mắt ngụ ý cho cậu bé bên cạnh đi nhẹ nhàng, nhặt một cái giỏ rác bằng tre để ven đường, y như mèo phóng vài bước tới sau lưng Phó Chí Thời, thừa dịp cậu ta chưa kịp quay đầu lại, nhanh chóng lấy giỏ rác úp vào đầu cậu ta, chân thì đá đầu gối cậu ta khuỵu xuống, Phó Chí Thời không hề đề phòng, lúc bị tấn công vội vàng mới kêu lên một tiếng: “Ai?”, cả người mất thăng bằng té nhào về phía trước. Phương Đăng không đợi cậu ta đứng dậy được, vội giơ cặp táp lên đập cậu ta nằm thẳng xuống mặt đường đá xanh.

Lúc Phó Chí Thời ngã xuống đất, mặt cậu ta vẫn còn dính vào giỏ rác, cả người Phương Đăng lại đè ở trên, khi cậu ta quay mặt lại, cái miệng đang há to ra lãnh nguyên một đống rác đầy bụi bay vào.

“Dám coi thường tao, còn bắt nạt kẻ khác sao!”

Lúc Phó Chí Thời không để ý, dù bị cô đánh một phát vào mông, nhưng không có la lên tiếng, cũng không cố gắng giãy giụa, chỉ biết ngơ ngác cố nhìn Phương Đăng đang cởi trên lưng mình.

“Cậu tới đây!” Phương Đăng giục cậu bé nhỏ đang đứng run sợ xích lại gần, ra lệnh thật mau: “Đánh nó, như tôi vừa đánh ấy, mau lên!”

Cậu bé kia sợ quá, nước mũi lại bắt đầu chảy ra, Phương Đăng giận đến mức không nói nổi, lúc này Phó Chí Thời bắt đầu bò dậy cố gắng thoát khỏi tay cô, Phương Đăng dùng cặp táp đè nửa người trên của cậu ta lại, giọng cô dồn dập nhưng chói tai: “Tôi kêu cậu đánh nó, cậu nghe không? Nếu không thay trời hành đạo, sau này nó vĩnh viễn coi thường cậu!”

Cậu bé rụt vai, lùi lại một bước.

“Tụi mày dám… Buông tao ra, tao sẽ giết tụi bây!” Lúc này Phó Chí Thời đã giãy giụa mãnh liệt hơn, với sức của Phương Đăng cũng không khác gì cậu bé đó là bao, chẳng qua chỉ dựa vào thủ xảo đánh lén nên mới tạm thời khống chế được đối phương.

“Đồ ngốc! Nó đã nhìn thấy cậu, dù cậu có đánh nó hay không, sau này nó cũng không tha cho  cậu!” Phương Đăng vừa thở vừa nhìn cậu bé gào lên. Những lời này của cô đã có tác dụng, cậu bé gầy gò do dự chớp mắt một cái, luống cuống tay chân rồi ngồi xuống, thay Phương Đăng đè nửa người của Phó Chí Thời, rồi tóm tóc cậu ta một phát, nhắm mắt lại, dùng tư thế khoát tay phẩy lên mặt của Phó Chí Thời, sức vun ra nhẹ nhàng chẳng khác nào thay cậu ta phủi bụi.

Nhìn thấy thằng nhóc nhát gan như con kiến hôi dám động thủ với mình, sự kiêu ngạo trong lòng Phó Chí Thời càng dậy sóng hơn, hất tay cậu bé ra ngoài, dùng một tay kia bấm vào cổ cậu bé thật mạnh. Cậu bé cố gắng hấp thu toàn lực vào một tay kia, trong lúc giằng co dùng sức cắn mạnh vào tay của Phó Chí Thời, Phó Chí Thời đau đới kêu lên một tiếng.

“Cậu có biết phải làm sao để người khác không coi thường không? Làm cho hắn ta sợ cậu! Cậu thắng nó, nó sợ, mới có thể tránh xa cậu ra. Nhát gan sợ đau sẽ bị người khác đánh đau hơn, cả đời không ngóc đầu lên được!” giọng nói của Phương Đăng văng vẳng bên tai cậu bé.

Hai người dù gì cũng mạnh hơn một người, cậu bé cùng Phương Đăng hợp lực áp ngã Phó Chí Thời xuống đất, dường như cậu nhóc nhỏ cũng bị chọc tức, một tay mò vào túi của Phó Chí Thời để lấy lại con chuồn chuồn cỏ, bàn tay gầy trơ xương như móng gà của cậu ta nắm lại thành đấm, cứ như mưa giáng xuống người của Phó Chí Thời

Nhìn thấy Phó Chí Thời không còn phản kháng được nữa, Phương Đăng biết đã đến lúc dừng lại, cô ngồi dậy từ trên người cậu ta, ngăn bàn tay cậu bé đang vô cùng giận dữ kia lại: “Được rồi, đi mau!”

Thừa lúc trời tối, cả hai nhanh chân chạy như điên, đèn đường ở phía sau bắt đầu sáng lên, nhưng ánh sáng này cũng không làm tiêu tan màn đánh đấm vừa khoái chí vừa xen lẫn sợ hãi đó được. Chạy về đến nơi, Phương Đăng đứng trước cửa cô nhi viện há mồm thở dốc, sắc mặt cậu bé càng trắng bệch, thiếu chút nữa ngay cả đứng cũng không dễ gì vững.

“Cậu về đi. Nếu nó có đến tìm cậu, có đánh chết cậu cũng đừng nhận. Không ai tin cậu dám đánh nó đâu, sơ tổng quản cũng sẽ không tin. Nếu nó đánh cậu, cậu cứ liều mạng với nó, nhưng tôi đoán cậu ta chưa chắc có gan đâu!” Phương Đăng nói xong, vẫn thấy cậu bé kia đứng yên tại chỗ không nhúc nhích, khóe miệng chỉ giật giật, tựa như muốn nói gì rồi lại thôi.

“Thế nào, bây giờ sợ rồi à?” Phương Đăng nhoẻn miệng cười, không trách cậu ta sợ, ngay cả cô bây giờ cũng không biết có phải đã ra tay quá nặng hay không. Dù sao cô cũng không sợ lúc Phó Chí Thời tìm đến tính sổ với mình, kẻ chân đất còn sợ gì mang giày nữa chứ.

Cậu bé hít nước mũi, miệng run rẩy phát ra câu nói: “Tôi thắng sao? Tôi đánh thắng sao?”

“Cậu…” Phương Đăng vừa ngạc nhiên vừa buồn cười, nhưng chưa kịp nói gì đã thấy Phó Chí Thời đầu tóc đầy bụi bẩn xuất hiện ở đầu hẻm, cậu ta đã đuổi theo đến tận nơi.

“Cậu về mau đi!” – Phương Đăng đẩy mạnh cậu bé. Không ngờ nhanh như vậy Phó Chí Thời đã tìm đến cửa, là họa thì khó lòng tránh khỏi.

Toàn thân cậu bé run lên, hoảng hốt lùi về phía sau hai bước trốn vào cô nhi viện, dùng bàn tay run rẩy nhặt một tảng đá cạnh bồn hoa lên, núp sau lưng Phương Đăng.

“Phương Đăng, mày dám đánh tao hả?” Phó Chí Thời tiến lại gần mấy bước.

“Mày là đồ xấu xa hèn hạ, tao đánh mày thì sao?” Phương Đăng nói đầy châm chọc: “Mày còn không mau về tìm cứu binh đi, tìm cha mẹ mày thay mày ra mặt, bị đánh đầy bùn đất trên người còn đuổi tới đây, đồ hèn!”

Dù miệng cô nói những lời đanh thép, nhưng đối mặt với xung đột này, nói cho cùng sự “trả thù” của Phó Chí Thời cũng có chút đáng sợ, bàn chân cô bắt đầu giật giật, trong hoàn cảnh gay go hiện giờ, cô còn có thể chạy sao.

Phó Chí Thời tiến đến càng gần, mắt của cậu ta long lanh dưới ánh đèn đường, Phương Đăng định thần nhìn kỹ lại, đó là nước mắt. Lúc đứng đối diện cô, Phó Chí Thời cao giọng lặp lại một lần nữa câu vừa rồi: “Phương Đăng, mày dựa vào cái gì mà dám đánh tao?”

Sau tiếng tố cáo mạnh miệng, cậu ta không hề nhào tới trả đũa như Phương Đăng đoán mà òa lên khóc ngon lành, giống như là một đứa bé bị oan ức. Nghĩ đến chuyện thường ngày cậu ta được cha mẹ nâng như nâng trứng, sống trong chăn êm nệm ấm, khoa trương tự đại, chưa từng gặp qua khổ sở, trong phút chốc bị đánh trở về con người nguyên bản, trong lòng cô trào lên niềm vui sướng.

Phương Đăng khẽ nhếch môi, trong lúc chấn động nhất thời chưa thốt nên lời, lúc đánh nhau chẳng làm kinh động đến ai, nhưng khi đồ hèn nhát này khóc rống lên thì người khác đều nghe thấy, ngay cả lão Đỗ cũng phải ra ngoài cửa tiệm đứng nhìn.

“Ai đang ồn ào đây hả? Không phải là con trai nhà ông chủ Phó sao? Lại bị thế nào nữa rồi? Phương Đăng, cái đồ hư hỏng mày đã làm chuyện xấu xa gì nữa đó?” Gia cảnh Phó Chí Thời được xem trọng, cha mẹ cậu ta ở trên đảo này cũng là nhân vật có thể diện, bản thân cậu ta cũng thường vung tiền mua đồ ăn vặt ở tiệm của lão Đỗ. Lão Đỗ cố ý nịnh bợ, bước lên phía trước nhìn kỹ, thấy mặt khổ sở của Phó Chí Thời bẩn thỉu, bên tai sưng đỏ, đã biết cậu ta bị bắt nạt trong tay Phương Đăng, vừa giận Phương Đăng không đối xử tốt với cậu ta, liền làm ra mặt đau lòng: “Nhất định là cái con quỷ khốn kiếp Phương Đăng đó đã coi thường cậu. Đi, tôi đưa cậu về, để cho cha mẹ cậu tìm bọn nó tính sổ…”

Phó Chí Thời không nói câu nào, nước mắt chảy như suối nhìn chằm chằm vào Phương Đăng, dường như muốn đâm vào người cô cho chảy máu mới hả giận.

“Cậu cứ nói đi, có phải con bé đó xem thường cậu không? Đừng sợ, tôi biết con bé đó rất xấu xa. Hay là cứ về bảo cha mẹ cậu đến tìm người cha ma men của nó quỳ xuống xin bồi…”

“Chú Đỗ, chú thật biết nói đùa. Nhìn hai người bọn họ có giống là đang coi thường cậu ấy không?” Phó Kính Thù từ trong vườn nhà Phó gia đi ra, xoay bàn tay đóng cửa hoa viên lại, ngắt lời lão Đỗ.

Mặc dù tiệm tạp hóa của lão Đỗ dù rất gần hoa viên Phó gia, nhưng cách một con đường, từ trước đến giờ hai bên đều phân biệt rõ ràng, Phó Kính Thù ít giao du bên ngoài, thậm chí ngay cả lão Thôi cũng ít giao thiệp cùng ai, lúc này anh chợt lên tiếng, trong nhất thời lão Đỗ cũng không biết phải làm sao nói tiếp.

“Sao cậu không nói lời nào?” Phó Kính Thù đưa mắt nhìn về phía Phó Chí Thời, hỏi lại lần nữa: “Là hai người bọn họ đánh cậu thành ra như vậy sao?” Ngữ điệu của anh rất chậm rãi, khi nói chuyện, cố ý dừng lại ở Phương Đăng và cậu bé đang nấp sau lưng cô, khóe miệng như đang cười. Những lời thâm ý đó làm sao mà Phó Chí Thời không hiểu, Phương Đăng đích thị là một cô gái nhỏ, còn cậu bé kia thì gầy gò như con gà chết, nếu thừa nhận mình bị hai người đó họp lại đánh, chỉ sợ không có gì làm vẻ vang cả.

Phó Chí Thời là người háo thắng, hơn nữa lại không cách biệt bao nhiêu tuổi, Phó Kính Thù trước mặt cậu ta lại là vai vế bề trên.

“Mắc mớ gì đến mày! Mày lo chuyện của mày đi, đồ nghiệt chủng”

Phó Kính Thù không giận dữ, lạnh lùng nói: “Cậu không gọi tôi là chú Bảy cũng không sao, chẳng qua để người khác nghe thấy, còn nghĩ là cha mẹ cậu không biết dạy con, nói không chừng còn cười nhạo cả nhà họ Phó ngay cả chút lễ nghĩa cũng không có”.

“Mày là người nhà Phó gia gì chứ? Cha mẹ tao nói mày là tiểu nghiệt chủng, cha mày là đại nghiệt chủng, ngươi dù sao cũng là do kỹ nữ sinh ra…” Phó Chí Thừa căm tức nhất chính là vai vế của Phó Kính Thù lớn hơn mình, dù đối với người ngoài, cha mẹ cậu ta đối với Phó Kính Thù khá lịch sự, nhưng trong mắt cậu ta anh không là gì cả.

“Tốt lắm, những lời này do cha mẹ cậu nói sao? Tôi không tin, nếu vậy hay là chúng ta đi tìm anh Hai chị Hai, ba mặt một lời hỏi cho ra chuyện?”

Phó Chí Thời dĩ nhiên không dám, cha mẹ hắn đối với Phó Kính Thù còn ba phần kiêng nể, bởi vì Đại gia không thể nào thiếu được viện trợ từ nước ngoài của Tam gia, tuy người nhà Tam gia chỉ còn một mình Phó Kính Thù ở trên đảo, nhưng các trưởng bối cũng không nói là không thừa nhận anh, dù sao bây giờ anh cũng danh chánh ngôn thuận là chủ nhân của hoa viên Phó gia. Có thể ở trước mặt anh cười nhạo thế nào cũng được, mâu thuẫn giữa trẻ con với nhau cũng có thể nói vài câu rồi cho qua, nhưng nếu làm mất mặt người lớn, lúc ấy Phó Chí Thời khó lòng mà được cha mẹ cậu ta thương tưởng.

“Mày dựa vào cái gì bảo đi thì tao đi chứ? Cha mẹ tao không rảnh mời bọn mày đến đâu”. Phó Chí Thời nhanh miệng nói.

“Chuyện này không cần vội. Lời nói của tôi không đủ mạnh, lần sau lúc bà chủ Trịnh gọi điện thoại về, tôi sẽ nhờ hỏi anh Hai chị Hai có phải đã nói về tam phòng chúng tôi như vậy hay không”.

“Ồ, không ngờ mày nói nhiều như vậy!” Phó Chí Thời thấy hối hận, trong lúc nhất thời không để ý đã bị dính vào bẫy. Phó Kính Thù bình thường ghét nhất người ta gọi mình là tiểu nghiệt chủng, cậu ta lại hết lần này đến lần khác bám theo anh không buông, nếu cha mẹ cậu ta mà biết, chỉ sợ không cần biết cậu ta bị Phương Đăng đánh lén ở đâu mà cũng tự tay cho cậu ta một trận.

“Phương Đăng, mày nhớ kỹ đó! Sớm muộn gì tao cũng sẽ tìm tụi bây tính sổ!” Phó Chí Thời vừa bỏ đi vừa quay đầu lại đe dọa, lão Đỗ thấy vậy cũng ngượng ngùng quay trở về cửa tiệm.

Đến khi Phó Chí Thời khuất dạng, Phương Đăng cúi đầu, nhìn thấy trong tay cậu bé vẫn còn nắm chặt viên đá, cô trêu: “Cậu muốn tối nay ôm nó ngủ hả?”

“Không thể để cho sơ tổng quản nhìn thấy”. Dường như cậu ta chẳng nghe lời nói đùa của cô, nghiêm túc cầm viên đá lớn bằng cú đấm, bỏ vào trong cặp táp màu đen, chần chừ một chút, không nhịn được lại hỏi: “Chúng ta thắng sao?”

Phương Đăng liếc mắt: “Cậu thắng rồi!”.

Cậu bé lấy tay lau nước mũi, lần đầu tiên nở nụ cười trước mặt cô.

“Tên tôi là Tô Quang Chiếu, mẹ nuôi gọi tôi là A Chiếu.” Tự giới thiệu xong, cậu ta móc từ trong túi ra con chuồn chuồn cỏ đã không còn nguyên vẹn, giơ lên trước mặt Phương Đăng giống như là dâng bảo vật. “Cho cô cái này, đây là đồ chơi đẹp nhất của tôi”.

Phương Đăng cười nói: “Cậu giữ lại đi, nói không chừng hôm nào đó lão Đỗ thấy vui, cậu có thể dùng nó mà đổi bánh bao đấy”.

Cậu bé A Chiếu thấy cô không chịu lấy, thì cầm con chuồn chuồn cỏ đưa qua cho Phó Kính Thù. Phương Đăng dẫn cậu đi đánh nhau khi cậu bị người ta bắt nạt, còn Phó Kính Thù chỉ cần mấy câu nói đã có thể đuổi người xấu đi, ở trong mắt cậu, hai người họ đều trở nên rất phi phàm.

Phó Kính Thù nói: “Cám ơn!” bàn tay giơ ra cầm lấy con chuồn chuồn cỏ trên tay A Chiếu. Anh đưa mắt nhìn Phương Đăng, Phương Đăng liền hiểu ý rõ ý anh.

“Tôi chỉ không ưa cái kiểu phách lối của cậu ta” – Cô lớn tiếng biện hộ – “Dù sao cho cậu ta nếm mùi khổ sở một lần, tôi không cảm thấy hối hận”.

Phó Kính Thù nói: “Tôi còn nghĩ cô là người thông minh. Để cậu ta chịu khổ còn nhiều cách mà, cô hết lần này đến lần khác lại chọn cách ngu xuẩn nhất để làm”

“Nhẫn nại giống anh thì bọn họ sẽ sợ sao?” Phương Đăng nói xong, đợi một lúc cũng không nghe lời đáp của Phó Kính Thù. Cô lặng lẽ ngẩng đầu lên liếc anh một cái, miệng anh mím chặt lại, gương mặt vô cảm.

Cô thấy không có gì vui, cũng không biết nói gì cho phải, chỉ biết đảo mắt sang A Chiếu đang đứng cạnh đó.

“Cậu còn ở đây làm gì? Không có chuyện của cậu, đi mau đi.”

A Chiếu dĩ nhiên không muốn đi, nhưng dáng vẻ hung hăng của Phương Đăng làm cậu ta có chút hoảng sợ, cô nhi viện cũng quản lý nghiêm ngặt, một ngày ba bữa đều có giờ giấc, về chậm một chút chỉ sợ ngay cả cơm thừa cũng không có mà ăn.

Sau khi cậu nhóc ốm yếu bỏ đi, bên bức tường cao yên tĩnh của Phó gia chỉ còn lại có hai người. Phương Đăng đùa với ngón tay một lúc, tự nhiên lại len lén quay sát anh vài lần. Anh không nói gì cả, bây giờ cô cũng không biết phải làm gì.

Một lát sao, Phó Kính Thù mở miệng: “Cô còn đứng đây làm gì? Về đi!”

Phương Đăng mừng thầm, cảm tạ trời đất, cái người như tượng Phật bằng đất sét kia rốt cuộc cũng chịu lên tiếng, dù lời nói của anh với câu xua đuổi mà cô nói với A Chiếu giống hệt như nhau.

“Chỉ mình anh được đứng đây sao? Chỗ này không phải là đất của Phó gia nhà anh” Cô nghiêng đầu nhìn anh cười ra tiếng: “Anh nói trước đi, sao anh còn đứng ở đây?”

Anh không trả lời. Phương Đăng sợ anh lại giận cô nên bất đắc dĩ xuống nước: “Phải, anh nói đúng, tôi không nên gây chuyện, sau này tôi sẽ không đi chọc ghẹo thằng quỷ nhỏ… Phó Chí Thời đó nữa, được không?”

“Được hay không là chuyện của cô.” Phó Kính Thù dù ngoài miệng nói vậy, ánh mắt rõ ràng đã dịu đi không ít, liếc Phương Đăng một cái nói: “Cô nghĩ rằng lần nào cũng có thể thắng sao?”

“Sợ gì, tôi ăn muối còn nhiều hơn cậu ta ăn cơm. Người giống cậu ta, tôi thấy nhiều rồi, không cần biết thắng hay thua, nhưng ít nhất không để họ thấy tôi là người dễ bắt nạt”.

Phương Đăng hạ giọng, nhưng Phó Kính Thù biết, nếu như không phải quen với việc bị người khác xem thường, chịu đựng sự khinh khi, chưa chắc cô sẽ có bộ dạng này. Cô sinh trưởng ở gia đình thế nào, Phương Học Nông cha cô là dạng người gì, anh không phải là không biết.

“Nữ anh hùng, đánh thắng rồi cũng phải về ăn cơm chứ, trời tối rồi đó. Hôm nay tôi đang đợi bưu phẩm, một lát sẽ về”.

“Bưu phẩm?” Ngày thường, mấy chuyện như vậy đều là do lão Thôi làm. Phương Đăng không vui hỏi: ‘Lão Thôi đâu? Đã muộn thế này, người đưa thư hôm nay đã đi qua rồi chứ?”

“Tôi đang chờ một bưu phẩm. Lão Thôi có chuyện phải rời đảo một thời gian”.

Phương Đăng vốn còn muốn hỏi rõ nguyên do, nhưng nhìn bộ dạng anh dường như không muốn nói nhiều. Cô chỉ có thể nhón chân lên cùng anh nhìn ra đầu hẻm tối, lẩm bẩm nói: “Anh chắc chắn hôm nay sẽ có sao?”

Phó Kính Thù trầm ngâm một lúc: “Không chắc. Tôi nghĩ hôm nay sẽ không có. Về thôi”.

Anh bảo Phương Đăng về nhà, bản thân cũng quay về hướng hoa viên Phó gia. Vẻ mặt cùng cách nói chuyện của anh vẫn hời hợt như cũ, nhưng lúc Phương Đăng leo lên lầu nhà mình, nhì thấy anh khóa cửa sân vườn lại, còn kiễng chân hướng về phía bưu tá có thể đến mà nhìn lần nữa.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách