Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: bluerose9446
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại] Thực Tâm Giả | Tân Di Ổ (HOÀN)

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 05:53:49 | Xem tất


Chương 6: Con rơi nhà giàu





Có thể do Phương Đăng để ý, ba ngày liên tục, cô đều vô tình hay cố ý nhìn thấy Phó Kính Thù, có lúc ngoài cửa, có khi đứng trước cửa sổ chờ đợi. Anh đang chờ bưu phẩm đến muộn kia, nét bình tĩnh trên mặt anh hiện giờ cũng lộ lên vài phần sốt ruột.

Cho đến giờ Phương Đăng chưa bao giờ nhận được bưu phẩm, thậm chí đến cả một lá thư cũng chưa ai viết cho cô, cô không hiểu mùi vị chờ đợi bưu phẩm đó là thế nào, chỉ biết bưu phẩm đó đối với Phó Kính Thù mà nói nhất định không phải tầm thường, mới có thể làm cho anh bỏ đi thói quen của bản thân để chờ đợi không thể kềm chế như vậy. Dường như sự chờ đợi này cũng giống một loại vi khuẩn thần bí lây lan qua cô, đến mức mỗi khi nghe được tiếng leng keng giống tiếng xe đạp của bưu tá, cô đều không thể tự chủ mà ngừng tay quay đầu lấm lét nhìn, cho dù lần nào thanh âm đó đều đến từ xe thu mua phế phẩm.

Có một lần, Phương Đăng ở bến phà gần đó gặp được bưu tá vừa lên đảo, cô vội vàng chặn người này lại, hỏi xem có bưu kiện giao đến cho hoa viên Phó gia không. Cho dù người ta không giao bưu phẩm cho cô, ít nhất có thể đem tin tốt lành về cho Phó Kính Thù, đối với cô mà nói cũng là một điều vui sướng.

Cái lắc đầu của người đưa thư làm Phương Đăng thất vọng, nhưng cô chưa từ bỏ ý định, năn nỉ ông ta kiểm tra bưu phẩm để trong túi xách lần nữa để xác định lại. Bưu tá nói với cô, ông đã đưa thư trên đảo này mười mấy năm, không bao giờ xảy ra sai sót, đúng là mỗi năm sẽ có một bưu phẩm từ nước ngoài gửi đến Phó gia, ông nhớ không sai, nhưng năm nay quả là chưa nhận được.

Phương Đăng ỉu xìu như người đưa đám, cô cũng chẳng biết là từ lúc nào tâm tư của cô không thể tự chủ, đều là nằm trong tay của Phó Thất, anh ta vui là cô vui, anh ta buồn thì cô buồn. Bấm ngón tay tính, đã gần cuối tháng mười, sắp đến ngày sinh nhật anh, là do lúc trước Phương Đăng lén nhìn vào học tịch ở trường mà ghi nhớ. Cô nghĩ đến cách làm cho anh vui vẻ, dù là chỉ chọc cho anh cười một cái cũng tốt rồi.

Lục lọi mãi Phương Đăng mới moi ra một ít tiền lẻ, đến tiệm văn phòng phẩm mua một tấm thiệp đẹp nhất, hiếm hoi lắm Phương Đăng mới vào đây mua đồ, những thứ không liên quan đến áo cơm đối với cô mà nói đều là thứ đồ xa xỉ. Để dành được ít tiền cũng không phải dễ dàng gì, tiền bạc trong nhà bình thường do cô quản lý, nhưng trừ ăn cơm, mua rượu, số tiền còn lại trong nhà rất ít ỏi, còn chưa kể những lúc say rượu, cha cô điên cuồng đào khắp nhà để kiếm tiền.

Tấm thiệp sinh nhật đó một mặt in hình bó hoa không biết tên, phía trên còn gắn kim tuyến lòe loẹt, nhìn có hơi giống chậu hoa mỹ nhân màu vàng mà Phó Kính Thù đặt ở bồn trước cửa sổ. Cô nghĩ, anh trồng nhiều loại hoa như vậy, nhất định sẽ biết bó hoa in trên thiệp này là loại hoa gì.

Vì muốn viết thật đẹp, Phương Đăng đã dùng giấy nháp tập thử vài lần, sau đó mới viết lên vài câu bên trong tấm thiệp: “Phó Thất, sinh nhật vui vẻ”. Cô không phải là người ăn nói vụng về, vậy mà suy nghĩ hồi lâu, cũng chỉ nghĩ ra có mấy chữ này để nói với anh. Cô chỉ hy vọng anh vui vẻ, chỉ một lần này mà thôi. Cuối cùng ở chỗ ký tên bên dưới, cô nguệch ngoạc vẽ một ngọn đèn bằng nét chì xiêu vẹo.

Nếu như anh là gương, thì cô chính là đèn. Như vậy cô có thể chiếu sáng cho anh, hơn nữa ngọn đèn khúc xạ lên gương thì cũng sẽ nhìn thấy ánh sáng.

Đến ngày sinh nhật Phó Kính Thù, Phương Đăng đã sắp đặt từ sáng sớm. Cô định ở bến phà chặn người đưa thư lại, gửi tấm thiệp đến hoa viên Phó gia, làm cho anh ngạc nhiên. A Chiếu dũng cảm xung phong tiếp nhận nhiệm vụ này.

Sau khi trải qua chuyện hôm đó, A Chiếu lòng thòng mũi xanh ngày nào cũng xuất hiện ở bên cạnh Phương Đăng và Phó Kính Thù. Cậu ta nhìn chung đã quen với sự cô đơn, bình thường xung quanh cậu ta chỉ có những người miệt thị xem thường, nên khi gặp người đối tốt với mình một chút, so với cậu ta lại mạnh mẽ hơn nhiều, cậu ta như người chết chìm bắt được phao cứu tử, nhất quyết không buông.

Phương Đăng hiếm khi hòa nhã với A Chiếu, lúc bị làm phiền sẽ không nể mặt mà mắng nhiếc cậu ta, dù sao giữa cô và Phó Kính Thù, A Chiếu đối với cô cũng có chút thoải mái hơn. Mặc dù Phó Kính Thù chưa bao giờ nói những lời hà khắc với A Chiếu, A Chiếu vẫn hơi sợ anh, nói chính xác là kính nể. Cậu ta dùng ánh mắt sùng bái mà nhìn chàng trai đang ở tại hoa viên Phó gia truyền thuyết trên đảo, như thể có bất kỳ thứ gì liên quan đến người ấy là chuyện đáng tự hào trong cuộc sống đầy sắc màu u ám của cậu ta.

Bởi vì vậy, thay Phương Đăng chạy vặt, lại là tặng quà cho Phó Kính Thù, đối với A Chiếu mà nói là điều vô cùng tự hào. Lúc đầu Phương Đăng có hơi do dự, nhưng nghĩ đến thời gian người đưa thư lên đảo đa phần là lúc hoàng hôn sau khi tan học, nếu cô ở bến phà chờ đợi, sẽ không kịp giờ về nấu cơm, Phương Học Nông mà đói thì khó để cô được yên thân. Huống chi, cô cũng muốn đứng ở trên lầu cao nhìn thấy cảnh Phó Kính Thù nhận được quà. Vì vậy, cô liên tục dặn dò, A Chiếu hớn hở nghe lệnh.

Chạng vạng tối, Phương Đăng vừa nấu cơm xong đã nghe tiếng huýt sáo của A Chiếu ở lầu dưới, có nghĩa là cậu ta đã hoàn thành việc ủy thác đưa thư một cách thuận lợi, dù sao cũng thành công, nói thế nào chứ bộ dạng làm ra kiểu đáng thương của A Chiếu cũng giúp ích không ít việc. Phương Đăng ló đầu ra ngoài cười tán dương A Chiếu một cái, A Chiếu vui vẻ chạy đi.

Sau đó, Phương Đăng vẫn lóng tai lắng nghe động tĩnh ngoài cửa sổ. Cho đến khi cô gom chén đũa sau bữa ăn tối xong mới nghe tiếng chuông xe đạp của người đưa thư truyền vào ngõ hẻm, với Phương Đăng mà nói đây là thứ âm thanh vô cùng tự nhiên.

“Hoa viên Phó gia, có bưu phẩm, xuống lấy đi.” Giọng nói khàn khàn của người đưa thư cất lên.

Phương Đăng đứng bên cửa sổ nhỏ, cắn môi dòm ngó động tĩnh dưới lầu. Phó Kính Thù từ trong hoa viên Phó gia đi rất nhanh ra ngoài, không biết có phải do ảo giác của Phương Đăng không, cô mơ hồ cảm thấy lúc đưa hai tay ra đón bưu phẩm, hai tay của anh khẽ run lên.

Từ chỗ đứng của Phó Kính Thù, Phương Đăng có thể nhìn thấy mặt anh. Tim cô đập mạnh lên khi quan sát vẻ mặt của Phó Kính Thù. Vui sướng? Buồn bực? Hồ nghi?…. Sau đó lại giống như là thất vọng và tức giận.

Người đưa thư đạp xe đi xa, Phó Kính Thù chậm rãi xoay người, Phương Đăng thấy anh đang mở tấm thiệp ra. Anh đưa mắt nhìn lên cửa sổ nhỏ nơi Phương Đăng đứng, Phương Đăng rụt đầu vào thật nhanh, nhưng cô thầm nghĩ nhất định không thoát khỏi ánh mắt của anh. Đếm thầm từ một đến hai mươi, cô một lần nửa rón rén nhìn xuống lầu dưới, anh vẫn còn đứng tại chỗ, không thấy tấm thiệp trên tay, dưới chân lại có một nắm giấy vụn vo tròn lại.

Lòng Phương Đăng rối bời, sự mong đợi và vui mừng như rớt thẳng xuống đáy vực. Cô xoay đầu hai vòng chạy khỏi căn gác chật chội, đi thật nhanh xuống lầu.

Phó Kính Thù nhìn cô đi tới, ánh mắt lạnh lùng, không phải, cô chưa bao giờ thấy anh ẩn chứa giận dữ đến thế này.

“Anh sao vậy? Tôi chỉ muốn anh vui thôi mà!” Phương Đăng cúi người xuống nhặt giấy vụn dưới chân anh, nói đầy tiếc nuối: “Coi như anh chê tôi đi, tấm thiệp này cũng đâu làm gì phiền đến anh, không phải sao?”

“Cô muốn tôi vui ? Còn chúc tôi sinh nhật vui vẻ? Dù cô có muốn tôi vui vẻ đến đâu cũng không nên bày ra trò này để đùa cợt tôi chứ”. Phó Kính Thù cố gắng nói với âm giọng bình thường, nhưng hơi thở hổn hển khiến cho sự cố gắng của anh trở nên thất bại.

Phương Đăng cũng hiểu, đây không phải là bưu phẩm anh lúc nào cũng chờ đợi , anh không cần lời chúc buồn cười của cô, nếu nói đây là món quà “ngạc nhiên” mừng sinh nhật càng làm cho anh không vui, nên anh mới tức giận.

Cô cũng ý thức được chuyện mình làm không đúng lúc, khó trách anh cảm thấy cô ngốc. Dù có hối hận cũng khó lòng giảm bớt nỗi khổ sở trong lòng cô.

Phương Đăng ấm ức nhìn Phó Kính Thù, nói lớn: “Bưu phẩm của anh quan trọng đến vậy sao?”

“Phải”. giọng Phó Kính Thù rất nhẹ, nhưng hàm ý sâu xa, không chút nào do dự.

“Quan trọng vậy thì sao? Nó không tới thật đáng đời anh!” Phương Đăng ngoài miệng nói hùng hồn, nhưng lại không kềm chế được nước mắt tuôn ra như suối.

Phó Kính Thù sắc mặt trắng bệch không nói tiếng nào, giữa hai người là một khoảng không gian im ắng tĩnh mịch

Phó Chí Thời miệng ngậm kem đá đứng trước cửa tiệm tạp hóa của lão Đỗ, nói vu vơ, nhưng lại đủ để cho hai người đứng cách đó không xa nghe rõ ràng.

“Tsk tsk…có trò hay để xem rồi… chuột trong một ổ chắc chắn có ngày sẽ đánh nhau”! Ánh mắt khiêu khích của cậu ta nhìn về phía Phương Đăng: “Mày năn nỉ tao đi, không chừng tao sẽ cho mày biết chú Bảy tốt nhà tao đang chờ cái gì?”

“Cút!” Phương Đăng đang tức giận không có chỗ trút, thuận tay đem tấm thiệp vò lại thành một cục, ném về hướng Phó Chí Thời. Tấm thiệp nhẹ tênh, chưa kịp chạm vào người cậu ta đã rơi xuống đất.

Phó Chí Thời rút que kem từ trong miệng ra, khóe môi cậu ta còn chưa tan máu bầm, đó là dấu tích cách đây không lâu bị Phương Đăng đánh lén. Kỳ lạ là sau ngày cậu ta bị Phương Đăng cùng A Chiếu đánh một trận, cũng tuyệt đối không làm khó dễ gì, dù là công khai hay mờ ám đều không có. Phương Đăng tất nhiên không để mắt tới cậu ta, còn A Chiếu giấu viên đá vào cặp táp mấy ngày cũng không có cơ hội sử dụng. Phương Đăng cảm thấy, có thể do Phó Chí Thời là con người vô trách nhiệm, giống con rùa lật ngửa, chỉ biết há mồm cắn người, nếu đón đầu đánh nó, đè sự kiêu căng của nó xuống, nó chỉ biết rụt đầu vào mai rùa tự vệ.

“Mày kêu tao đi thì tao đi sao? Có bản lĩnh thì lại đây mà đánh tao, xem ai thua thiệt. Xem bộ dạng khóc lóc của mày kìa, tao còn sợ đánh mày bẩn tay tao đấy!”. Phó Chí Thời lấy bộ dạng khinh thường, liếc xéo Phó Kính Thù một cái, rồi nhìn Phương Đăng nói: “Mày tưởng mày là ai? Một tấm thiệp có thể so với thứ ở Đại Mã gửi về sao? Cái thứ cha không xót mẹ không thương đó chỉ dựa vào bưu phẩm gửi về kia để tưởng niệm mà sống qua ngày, để nghĩ nó không phải là nghiệt chủng, còn có người nhớ tới. Chú Bảy tốt của tao, nó không biết người ở Đại Mã bên kia cũng đã sớm không cần nó, một ngày nào đó nó cũng như căn nhà này mà sụp đổ thôi”.

“Cậu nói gì hả?” Phó Kính Thù từ trước đến giờ không so đo với cậu ta, vậy mà bây giờ cũng không ngăn được cơn giận, giọng nói lạnh như băng giá.

“Không có gì, mày không phải thích dùng thân phận để áp đảo tao sao? Dù vai vế mày là bề trên, người trong nhà đều không nhìn nhận mày, chẳng ai coi mày là thân thích. Nếu không thì tại sao cha mày lại nhận tổ quy tông bỏ đi nước ngoài, để mày đơn độc ở lại đây? Tam gia đã nhận một tên đại nghiệt chủng là cha mày đủ lắm rồi, cái loại tiểu nghiệt chủng gạt người như mày thì không có cửa đâu. Cha mày mỗi năm ném cho mày một phong thư, gửi đại một ít đồ thì mày vui lắm hả? Phải mà, mẹ tao nói cái thứ như mày so với ăn mày cũng không có gì khác biệt. Bây giờ thì tốt rồi, ngay cả thứ đó cũng chẳng bố thí cho mày nữa…. Mày không phục sao? Vậy mày nói thế nào, tại sao bên Đại Mã không gửi đồ cho mày? Thừa dịp còn chưa muộn thì nên biến sớm tìm nơi an phận đi!”

Phương Đăng không dám nhìn vào mặt Phó Kính Thù, cô còn đang giận anh, nhưng lại càng hận Phó Chí Thời ném đá giấu tay hơn. Có nhiều người chỉ thích nhìn sự đau khổ của người khác làm thú vui cho bản thân, cô hận không thể xé xác cái khuôn mặt đang dương dương tự đắc đó ra làm trăm mảnh.

“Chó điên! Mày nói đủ chưa?” Phương Đăng nhìn bốn phía, đến chân tường nhặt lên một cục đá to bằng nắm tay. “Tao nói lần nữa, biến!”

Lúc Phương Đăng hét vào mặt Phó Chí Thời, cậu ta đúng là có hơi e sợ, rõ ràng cậu ta đã chọc giận cô, có chuyện gì mà cô không dám làm. Dù sao nhìn bộ dạng của

Phó Kính Thù, cậu ta cũng đã thấy vô cùng khoái chí, không phí công châm chọc, bỏ đi chẳng mất mát gì. Cậu ta há mồm cắn một mẩu kem sắp chảy hết, nghênh ngang bỏ đi mất. Phương Đăng không biết mình đứng lại còn có ý nghĩa gì, cô lau nước mắt, nghiêng mình bỏ chạy trở về gác trọ.

Ngày hôm sau là thứ bảy, Phương Đăng cùng A Chiếu đến hồ nước bắt cá. Cô không tập trung, A Chiếu nhìn qua có vẻ ngu ngơ nhưng học hỏi cũng rất nhanh, thân hình nhỏ bé như khỉ ốm linh hoạt đảo qua đảo lại, cái lưới cá so với cậu ta còn cao hơn một cái đầu, dù sao thu hoạch cũng không phải là ít. Nghĩ đến việc Phương Đăng đồng ý chừa cho cậu ta vài con cá nhỏ sau khi chiên xong, nước miếng của cậu ta cũng theo nước mũi mà rơi vãi.

“Chị Đăng, lúc tôi đi ra nhìn thấy anh Thất đang đứng trước cửa nhà, hình như vẫn còn ở đó chờ bưu phẩm!” A Chiếu vừa bỏ cá vào thùng nhựa, vừa nói với Phương Đăng. Miệng hắn ngọt sớt, trước mặt Phương Đăng cứ gọi là chị này chị nọ, rồi khi nghe Phương Đăng gọi Phó Kính Thù là Phó Thất, liền bắt chước gọi anh là anh Thất, dù sao Phó Kính Thù cũng không bằng lòng, nhưng cũng không phản đối cậu ta gọi anh như vậy. Theo lời A Chiếu kể, khi cậu ta sinh ra không lâu đã bị viêm phổi nặng rồi bị ném vào cô nhi viện Thánh Ân, chưa từng gặp qua cha mẹ mình. Bởi vì cơ thể yếu ớt, lại nhát gan, lớn nhỏ trong cô nhi viện Thánh Ân đều coi thường cậu ta, sơ tổng quản cũng thấy cậu ta lúc nào cũng chảy nước mũi dơ bẩn, không để ý chăm sóc; Phương Đăng là người duy nhất chịu đưa cậu ta theo bên mình, Phó Kính Thù cũng tự nguyện giúp đỡ, không chê bai cậu ta, trong mắt cậu ta xem họ giống như người thân vậy. Cậu ta dù không biết giữa chị Đăng và anh Thất đang xảy ra chuyện gì, chỉ biết là vì một phong thư mà cả hai đều không vui.

Phương Đăng cúi đầu nhìn mớ cá thu hoạch hôm nay, rồi lại nhìn ra chân trời, đứng dậy nói nhanh: “Kệ anh ấy. Về thôi, có lẽ trời sắp mưa rồi.”

Cô nói không sai, cơn mưa này đến mau hơn dự tính, hơn nữa không phải là mưa nhỏ. Phương Đăng cùng A Chiếu xách theo đồ lưới cá, theo đường mòn nhỏ quay về ngõ hẻm, lúc này quần áo trên người cả hai đã ướt như chuột lột.

Dù miệng nói không xen vào chuyện của anh, nhưng khi nép mình trú mưa ở trước hành lang, vẫn không nhịn được liếc một cái về hoa viên Phó gia. Phó Kính Thù cũng giống như lời A Chiếu nói, vẫn đang chờ bưu phẩm gửi cho mình, mưa đổ xuống cũng không biết tránh, cả người yên tĩnh, sắc mặt lạnh như nước, y như một bức tượng cổ đặt ở bên tường sân vườn vậy.

A Chiếu cũng nhìn thấy, không biết phải làm sao nên ngó qua Phương Đăng. Phương Đăng lớn tiếng mắng cậu ta: “Nhìn cái gì? Còn không chịu về hả? Muốn bệnh chết sao?”

A Chiếu tự nhiên bị lớn tiếng, ấm ức dùng hai tay che đầu tránh mưa nhảy vọt vào cổng lớn của cô nhi viện. Phương Đăng đi vào lối hành lang, đập đập nước xuống sàn nhà, đặt thùng cá xuống rồi chạy ngược lại ra bầu trời đang mưa.

“Anh ngốc sao, hôm nay là thứ bảy, mưa lại lớn như vậy, người đưa thư cũng không lên đảo đâu. Anh chờ như vậy có ích gì chứ?” Cô bực bội nhìn Phó Kính Thù kêu lên.

Phó Kính Thù nhìn cô một cái, nhẹ nhàng vuốt nước trên mặt mình: “Vậy cô nói đi, tôi phải làm sao mới có ích?”

“Tôi không biết, đổ bệnh rồi xem ai sẽ thương hại anh? Nói không chừng bưu phẩm chỉ là tới trễ thôi thì sao?”

“Vậy nên tôi mới đứng chờ ở đây”.

“Anh chờ ở đâu mà chẳng phải chờ? Bình tĩnh chờ không được sao? Đã đợi lâu như vậy rồi, nếu tới thì đã sớm tới, còn nếu người gửi đồ cho anh năm nay lại quên mất, chẳng lẽ anh muốn ở đây chờ đến chết?”

“Không đâu, đây là thời điểm duy nhất người đó nhớ đến tôi. Phương Đăng, chuyện này không liên quan đến cô, đừng xen vào”.

“Tôi không xen thì ai xen? Lão Thôi cũng không có ở đây mà”. Phương Đăng tức giận, ngày thường anh rõ ràng là người thông hiểu lý lẽ, đối với chuyện này lại hết lần này đến lần khác cố chấp như vậy. “Họ đem một mình anh bỏ lại đây cũng không phải là một hai hay ngày, thực sự còn nhớ lời hứa với anh sao, đến mức mỗi năm chỉ dùng một bao thư mà đẩy anh ra ngoài, còn lại cái gì cũng đều không bận tâm sao? Bưu phẩm của ba anh gửi đến nặng cỡ nào, chẳng lẽ không có nó anh không sống nổi sao?”

“Tôi đương nhiên là sống nổi, nhưng so với chết thì cũng không có gì khác biệt”. Đây là lần đầu tiên Phương Đăng nghe Phó Kính Thù lớn tiếng như vậy khi nói chuyện với mình, mưa càng nặng hạng, tựa hồ như ngay cả bản thân anh lúc này anh cũng chẳng quan tâm: “Phó Chí Thời nói không sai, đều là tại tôi, nếu không phải mang cái họ này, tôi với bọn họ mà nói chỉ là tạp chủng không hơn không kém. Tôi sống ở trong căn nhà lớn này, nhưng cũng như A Chiếu ở trong cô nhi viện đối diện có gì khác biệt. Phương Đăng, cô không phải là chưa từng thấy những kẻ xu nịnh đó xem thường tôi thế nào, tôi không muốn vậy, tôi không muốn cả đời này bị xem thường, không muốn sống ở cái nơi quỷ quái này. Bưu phẩm đó là thứ duy nhất chứng minh tôi là người của Phó gia, cô có hiểu không?”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 05:55:02 | Xem tất
Chương 7: Mộng Xưa Mây Khói





Phó Kính Thù hỏi Phương Đăng có hiểu không, Phương Đăng không hiểu. Cô chẳng qua chỉ là con gái của một tên ma men, sống một ngày qua một ngày, những thứ như nhà cao cửa rộng hay vinh dự đến bây giờ cũng chẳng hề liên quan đến cô. Nhưng suy nghĩ lại cô thấy có lẽ cũng không có gì khó hiểu, trên đời này có những thứ với kẻ khác chẳng đáng đồng xu, nhưng với người nọ lại là tất cả.

Trời tối thì mưa tạnh, qua sáng sớm hôm sau, mặt trời ló dạng rất nhanh, chiếu những tia sáng le lói còn lại của mùa thu xuống mặt đất. Bức tường đóng rêu của Phó gia Hoa viên bị nước mưa tưới sạch, trở nên xanh biếc màu gạch, lúc Phương Đăng đi ngang qua đó, cuối chân tường không có ai đứng đợi.

Hôm nay trên đường đi học về cô cũng không gặp Phó Kính Thù. Đến tối, trên tấm rèm nhung màu đỏ ở cửa sổ đối diện cũng không thấy ánh đèn hắt ra nữa. Anh đi đâu? Từ trước đến nay, Phương Đăng chưa bao giờ thấy anh rời đảo qua đêm, như anh nói, ở thành thị ngoài đảo anh cũng chẳng còn ai thân thích.

“Tôi đến phòng học xem thử nhưng thấy chỗ ngồi của anh Thất cũng trống không”. Lại một ngày trôi qua, A Chiếu vừa gặm cá chiên vừa nói với Phương Đăng. Mặt của cậu ta lúc này đã sạch đi đáng kể, Phương Đăng từng nói, nếu muốn ăn đồ cô nấu, ít nhất cũng phải lau sạch nước mũi đã.

“Chị Đăng, chị không thử nghĩ anh Thất có thể đi..”

“Không!”

A Chiếu sợ chọc giận Phương Đăng nên nín khe không dám nói thêm câu nào nữa, ăn xong con cá chiên, vẫn còn thèm thuồng liếm ngón tay, bỗng nhiên cất tiếng: “Nói không chừng anh Thất căn bản là không tồn tại… Ừ… giống như là biến hình rồi bay đi mất ấy. Người ta nói trong Phó gia hoa viên có hồ ly thành tinh, nên không chừng anh ấy đã biến mất rồi”.

“Còn nói nhảm nữa, tôi đánh cậu cho xem!”

A Chiếu bị cú một cái liền ôm đầu chạy.

Hoàng hôn buông xuống trên cánh cửa sắt trước Phó gia Hoa viên, từ khe hở nhìn vào, thấy được phía trong của toàn bộ khu nhà. Cạnh bồn phun nước đặt giữa vườn, cỏ dại mọc dài ra, héo úa. Trên bậc thang lá rụng đầy, chứng tỏ mấy ngày không ai quét dọn, mấy ngọn giả sơn bị sập bỏ phế từ lâu khiến cho Tây lâu càng lộ vẻ vắng lạnh. Cả khu nhà ngửi không được một tí mùi sinh khí nào. Khó trách A Chiếu tin vào những lời đồn ma quỷ đó.

Phương Đăng lại trèo tường vào bên trong, lão Thôi không có ở nhà, cô có thể yên lòng đi xuyên qua sau vườn hoa, băng qua ngôi nhà tróc nóc không ai ở, một đường thẳng tới cửa chính của Đông lâu.

Kiến trúc của khu vườn này khá đẹp, xem ra Phương Đăng không đi nhầm qua phía Tây mà đến đúng phía Đông của Phó gia Hoa viên rồi. Một bên là chòi nghỉ xây theo kiểu cổ cùng với hồ bán nguyệt, cửa chính lại có cột trụ và bậc thềm hai bên theo kiểu Tây, chắc là kiểu thiết kế thịnh hành hơn trăm năm trước, cũng là phong cách nhà cửa đặc trưng ở Qua Âm Châu này.

“Phó Thất, anh có ở trong không?” – Phương Đăng vỗ lên cánh cửa gỗ chạm hoa nặng nề. “Nè, anh không sao chứ! Nếu vẫn còn sống mạnh khỏe thì trả lời đi…”

Phương Đăng kêu suốt vài phút, bàn tay vỗ vào cánh cửa đã đỏ tấy lên, nhưng không biết cánh cửa lớn làm bằng thứ gỗ gì mà cứ trơ ra không nhúc nhích. Cô lùi lại mấy bước, hướng về cánh cửa sổ quen thuộc kêu tiếp, nhưng vẫn không có ai trả lời. Nhìn từ xa, phiến cửa sổ ở gian phòng Phó Thất thấy bình thường, nhưng đứng gần mới thấy nó cách mặt đất tầm năm thước, chung quanh không có chỗ nào để làm lực leo lên, dù Phương Đăng có linh hoạt cỡ nào, cũng nhất định không thể trèo lên đó được.

Phương Đăng chán nản lùa lá rụng, đặt mông ngồi xuống trên bậc thang bằng đá cẩm thạch mát lạnh. Anh có thể đi đâu chứ? Chẳng lẽ đúng như lời A Chiếu nói, khu vườn này chính là ảo giác mà hồ ly tinh đã tạo ra, anh là yêu quái trong khu vườn, chỉ muốn mê hoặc cô thôi? Nếu không thì tại sao trên hòn đảo này, mặt trời mọc hay lặn vẫn y như cũ, chẳng có ai quan tâm đến một người sống trong căn nhà lớn thế này bỗng nhiên biến mất, chỉ có một mình cô thấy nghi ngờ? Hồ ly trong truyện liêu trai còn ham thích dương khí của các công tử bảnh bao và tài cán, nhưng cô thì có gì để anh ham thích mà quyến rũ đây?

Đang ôm đầu suy nghĩ mấy chuyện chẳng đâu vào đâu, một âm thanh kỳ lạ bay tới sau lưng cô. Phương Đăng quay đầu lại , cánh cửa đóng kín mít mở ra một khe hở nhỏ, sau khe cửa đó, gương mặt của Phó Kính Thù lộ ra, vô cùng nhợt nhạt.

“Trời, anh ở trong đó sao lại để tôi gọi lâu vậy hả? Hai ngày nay anh làm gì? Tôi còn tưởng rằng anh chết trong đó rồi, đến xác trương lên cũng không ai biết”.

Nhìn cô xổ ra một tràng trách móc không ngừng, Phó Kính Thù chỉ đáp: “Chết thì chết, xác có thối lên thì có sao?”

Âm thanh của anh không lớn, trong giọng nói có một ít mùi vị giận dữ.

Phương Đăng cố nén lại, nhìn thấy dáng vẻ hiện giờ của anh, tự nhiên cảm thấy hơi buồn cười. Cô không nói tiếng nào chen vào khe cửa, vừa tò mò nhìn lấm lét xung quanh, vừa nói: “Nếu sống trong căn nhà lớn thế này, tôi sẽ không muốn chết”.

Phó Kính Thù có hơi miễn cưỡng nhìn cánh cửa sau lưng Phương Đăng tự nhiên khép lại, quay người đóng cửa rồi đi thẳng lên lầu, Phương Đăng theo đuôi anh như từ trước đến giờ.

Không biết do khắp nơi đều có màn vải che, hay là do tâm lý, vừa vào nhà Phương Đăng đã cảm giác ánh sáng chỉ lờ mờ, bốn phía đều rất sạch sẽ nhưng trong không khí luôn tràn ngập một thứ mùi không thể phân biệt, y như mùi củi mục, hương thơm nhàn nhạt,  như hơi thở thời gian từ rất lâu đời. Cô mơ hồ nghĩ đã từng ngửi thấy mùi này ở đâu đó nhưng nhất thời lại không thể nhớ ra.

Phương Đăng đi theo Phó Kính Thù lên lầu, lúc này mắt đã thích ứng với bóng tối trong nhà. Cô quay đầu lại quay sát lầu một vừa đi qua. Cửa sổ hình cung cao từ sàn đến tận trần nhà, bao phủ bởi rèm cửa dài bằng vải nhung, sàn cùng tường bốn phía đều ốp gỗ màu trầm, chính giữa trống trải một cách khác thường, hai bên trái phải đều có một cánh cửa không biết dẫn đi đâu, có thể tưởng tượng trước đó ở đây được bài trí rất nguy nga tráng lệ, vậy mà hôm nay trống rỗng, chỉ còn duy nhất một ngọn đèn treo trên nhánh bằng đồng rất lớn, dĩ nhiên chẳng còn ngọn đèn thủy tinh nào cả, chiếc đèn móc vào trần nhà lộ ra một nhánh gỗ nhỏ lung lay, Phương Đăng chỉ e nó sẽ rơi xuống đập nát đầu mình.

Căn phòng này nhìn qua nguy hiểm tứ phía, thật may là thang lầu cũng có chút bền chắc, cả hai người bọn họ cùng nhau đạp lên nhưng chẳng có chút âm thanh dao động nào. Phương Đăng sờ mó tay vịn khắc hoa sáng lên trong bóng tối lờ mờ, dùng chân giẫm giẫm lên mặt gỗ của cầu thang.

“Phó Thất, thang lầu nhà anh làm bằng gì vậy?”

“Gỗ lim”

Bình thường, công việc mà Phương Học Nông hay làm để kiếm cơm là lo tang sự mai táng cho nhà người khác, nên Phương Đăng có nghe cha nói qua về gỗ lim, trong truyền thuyết, loại quan tài cực kỳ quý đều làm từ gỗ lim vàng. Nghĩ đến đây, cô chợt hiểu tại sao luôn cảm thấy mùi hương trong phòng rất quen thuộc, đó là mùi đặc trưng của tang lễ thời xưa, mùi của cái chết.

Nghĩ vậy, dù tự cho mình là người không sợ trời không sợ đất, Phương Đăng cũng bất giác rùng mình, không tự chủ được nắm lấy cánh tay của Phó Kính Thù đi đằng trước.

Đầu ngón tay của anh lạnh như băng, lại có cảm giác ẩm ướt khác thường.

Phó Kính Thù bị hành động đột ngột của Phương Đăng làm hết hồn, ngẩn người một lúc rồi chậm rãi rút tay ra.

“Làm gì vậy?”

Phương Đăng nắm chặt tay vịn cầu thang, dừng lại không đi tiếp, ngôi nhà cũ ma quái này khiến cô không lạnh mà run như cầy sấy, cô không hiểu tại sao lại có người giống anh, sống cả ngày ở nơi như thế này được nữa.

“Anh nói thật đi, anh không phải là ma quỷ hay lão yêu tinh trong nhà này chứ?”

Phó Kính Thù nở nụ cười: “Không biết, coi chừng tôi moi ruột cô ra đó!”

Nụ cười của anh làm bay đi phần nào sự âm u thê thiết trong nhà. Phương Đăng cũng cười hì hì trả lời: “Lão yêu tinh, ngươi muốn lấy ruột ta làm gì? Chiên hay xào để ăn hả?”

“Yêu tinh đều không có trái tim, nên mới moi tim người khác đặt vào lồng ngực của mình”.

“Anh nghe ai nói?”

“Chuyện xưa nghe người khác kể lại thôi.”

“Tôi thích nghe chuyện này, anh kể một chút đi”.

“Để sau này đã!”

“Lúc nào?”

Phương Đăng nhất định không chịu, lúc này Phó Kính Thù đã bước một chân lên lầu hai, dựa vào chỗ hành lang cuối đường, hơi thở có phần bất ổn.

“Thời điểm thích hợp”. Anh nói.

Lúc này Phương Đăng mới phát hiện giọng nói của anh vô cùng mệt mỏi, sắc mặt cũng không tốt lắm, gò má đã thon gầy nay lại có phần hõm sâu vào.

“Anh bệnh sao?” – Cô tự trách mình sao quá vô tâm, khó trách mấy ngày liên tiếp anh không hề bước ra cửa, vậy mà cô còn nghĩ mấy chuyện ma quái thần vật đâu đâu.

Phó Kính Thù nghỉ một lát, lại đưa cô vào tận trong lầu hai.

“Bị cảm thôi”.

Kiểu nói chuyện của anh lúc nào cũng vậy, như chưa bao giờ có chuyện gì to tát, Phương Đăng lại không nghĩ thế.

“Mắc mưa không cảm mới là lạ, anh uống thuốc chưa?”

“Rồi”

“Không đi bác sĩ sao?”

Cô hỏi dài dòng khiến anh có chút không vui.

“Sao cô nói nhiều quá vậy? Tôi là lão yêu tinh đó, cảm một chút có là gì. Vào đi, chỉ cần không đứng gần tôi là được, nếu không tôi sẽ lây cho cô đấy”.

Anh đưa cô vào phòng khách ở lầu hai, rồi ngồi xuống trên chiếc ghế nệm nhỏ mềm mại trong góc phòng.

“Cô tự nhiên đi. Lão Thôi không có nhà, tôi cũng không có tâm trạng nấu nước, nên không pha trà cho cô được”.

Phương Đăng cơ bản đâu phải muốn uống trà, cô rất muốn đến xem lò sưởi trên tường, bên cạnh ghế nệm của anh, trước đây cô đã biết vật này qua hình vẽ bằng sáp trong sách, không ngờ trong phòng anh lại có, hình vẽ chạm trổ bên trên rất rườm rà khiến cô tấm tắc mãi, chỉ có điều trong lò sưởi đến cả tàn tro cũng không có, chắc là nhiều năm không dùng đến, bây giờ chỉ còn là đồ trang trí.

Không gian trên căn lầu nhỏ này tuy không thể so với lầu một ở gian nhà giữa, nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn dấu vết của đời sống bản xứ thường ngày, hoàn hảo hơn nơi khác, sàn nhà lót gạch bông tuy có vài vết rạn, nhưng đại khái vẫn coi như bằng phẵng, ánh sáng lan tỏa khắp nơi cũng khá nhu hòa. Trừ cái ghế nệm nhỏ Phó Kính Thù đang ngồi, cạnh bên lò sưởi còn có bộ ghế salon, bên kia có chiếc bàn thờ khá dài, màu đen tuyền, trên bàn thờ là một dãy tranh vẽ chân dung, được đóng khung gỗ cẩn thận, bề mặt bằng kính sáng bóng.

“Chỗ anh ở quả thật như trong tranh vậy, nói sao người khác đều bảo trước đây nhà họ Phó rất giàu”.

Phó Kính Thù theo tầm mắt của Phương Đăng nhìn một lượt xung quanh mình, nói theo kiểu hài hước: “Đây là gì chứ, cho dù là tranh vẽ, cũng là một bức tranh tàn lụi”. Anh chỉ vào góc trong phòng khác: “Ở đây trước kia có cái bàn tròn bằng gỗ kim đường kính tầm hai thước, coi như là vật đáng tiền. Ông nội tôi lúc còn trẻ đã sai người đem nó vào Hội chợ triển lãm Á Châu, nghe nói rất được tán thưởng. Chiếc bàn đó cùng với lò sưởi đều là vật để khoa trương, những thứ mà ông nội tôi yêu thích nhất, chuyện lớn nhỏ trong nhà đa số là bàn bạc ở đây. Thời điểm dời đi Tây Á, do quá vội vàng và luôn nghĩ sẽ có một ngày quay trở lại nên không đem chiếc bàn theo, bây giờ không ai biết rốt cuộc nó đang ở đâu nữa. Bàn thờ hiện giờ cô nhìn thấy bây giờ trước đây còn có một cái kệ, cùng với bàn thờ đều là từ gỗ tử đàn thượng hạng mà khắc thành, mười năm trước bảo tàng Qua Âm Châu “mời” chúng tôi đóng góp mất rồi. Chiếc bàn tròn trên sân thượng bị đổ, lão Thôi tiếc của không nỡ bỏ, dùng chân gỗ của nó làm giá lót rổ phơi rau. Khung hoa ngay trước lối vào hành lang lần đó đã bị nhà Phó Kính Thuần đến ngang nhiên lấy, nếu như không phải trên bàn thờ còn có hình vẽ của tổ tông, sợ rằng cũng không giữ được. Cái nhà này, đồ đáng giá đều bị lấy đi, những thứ còn lại chỉ là…” Anh cười một tiếng, không nói tiếp.

Trong đầu Phương Đăng tưởng tưởng ra tất cả những cảnh mà anh vừa tả, sự tưởng tượng mỗi lúc một tăng, vào thời điểm phồn thịnh nhất của Phó gia hoa viên, những nhân vật được ghi tên trong sách lịch sử cười và trò chuyện bên chiếc bàn tròn, những món đồ nội thất đồng bộ, chiếc bàn gỗ lim rộng hai thước cùng với chiếc kệ bằng gỗ tử đàn ở chính giữa, bốn phía còn có vô số thứ cô không biết gọi tên gì nhưng bài trí vô cùng lộng lẫy và tinh xảo, thậm chí giữa không gian còn có tiếng đàn dương cầm bay du dương trong gió…. Cô nhắm hướng bàn thờ đi tới, ngẩng đầu nhìn xem từng bức chân dung một. Chính là họ sao? Chủ nhân của Phó gia hoa viên, những người từng sống ở nơi này, những linh hồn người thân mà Phó Thất luôn khao khát được nhìn nhận?

“Đây là ai?” – Cô chỉ  vào ảnh một người đàn bà gầy đét ăn mặc theo kiểu “cổ trang”.

Phó Kính Thù nói: “Đó là mẹ của ông cụ tổ, Hoàng thị”.

“Đó là cụ tổ của anh sao?” Phương Đăng bước qua một bước, đứng dưới một bức họa giống như bức trước. Trên bức họa vẽ hình một người đội chiếc nón quả dưa bằng da, mặc đồ cưỡi ngựa, trên ngực đeo đầy huy chương của người Tây.

Phó Kính Thù gật đầu.

“Chính là người đã khai sáng cơ nghiệp Phó gia sao?” – Phương Đăng nhìn kỹ tướng mạo ông lão trong tranh vẽ, nghe nói hiện nay, trường đại học lớn nhất thành phố còn có tượng của ông ta, không kể tiền quyên góp cho trường học, hơn một nửa đường sá trên đảo này lúc đầu đều là do ông bỏ tiền túi ra xây dựng.

“Phải. Cụ tổ của tôi, Phó Học Trình lúc nhỏ gia cảnh bần hàn, tên tục là A Vượng, mấy đời cư ngụ trên đảo, bán mì hoành thánh sống qua ngày. Không biết nguyên do vì sao đắc tội với một hương thân, bất đắc dĩ phải nghỉ bán mì, đem theo tất cả gia tài chỉ có mười lăm đồng bạc đến Nam Dương. Năm ấy ông mới mười tám tuổi, trước đi tàu sang Ấn Độ, sau đó chuyển hướng đến Mã Đại, lúc đầu vẫn là bán mì hoành thánh, lưu động qua tất cả các con hẻm lớn nhỏ, người ta gọi ông là “Vượng Hoành Thánh”. Lúc ông hỏi cưới một cô gái thường xuyên đến mua hoành thánh của ông, chính là con gái của ông chủ một cửa hàng nhỏ.  Ông chủ cửa hàng coi thường người bán hoành thánh rong, không đồng ý lời cầu hôn. Ông cụ nhà tôi tức giận, dùng toàn bộ tiền bạc đổi sang bán hàng hóa, sau đó mới mở ra cửa hiệu…”

“Vậy sau đó ông có cưới con gái ông chủ cửa hàng kia không?” Dù sao Phương Đăng cũng chỉ là một cô gái, luôn để ý đến những huyền thoại diễm lệ trong truyền thuyết.

Phó Kính Thù vừa cười vừa nhìn cô: “Tôi cũng không biết. Tôi nghĩ là không có, vì bà cụ tổ của tôi cũng là người Qua Âm Châu mà”.

“Ồ..” Phương Đăng có hơi thất vọng, quả thật chuyện xưa đúng là không có cái kết hậu như trong tiểu thuyết. “Vậy có phải cửa hàng của ông cụ tổ nhà anh buôn bán càng ngày càng lớn không?”

“Sau khi mở cửa hàng, ông cụ tổ tôi bắt đầu tính đến chuyện giao thương quốc tế, lúc này ông lập ra “Công ty cổ phần Phú Niên”, cũng chính là tổ nghiệp đời trước của Phó gia. Thời kỳ Thế chiến thứ nhất, phạm vi kinh doanh của Phú Niên vươn đến ngành công nghiệp gạo, nông nghiệp và ngành sản xuất gỗ, còn mua cả vườn cây cao su lớn ở Ấn Độ, lúc đó ông cụ tổ được gọi là một trong bốn người giàu nhất Nam Dương, cũng trong năm đó trở thành người đứng đầu hiệp hội doanh nghiệp người Hoa ở Nam Dương”.

“Sau đó ông liền áo gấm về làng hả?”

“Có thể nói như vậy” – Năm 1919, ông cụ tổ tôi trở về Qua Âm Châu mua đất xây nhà…”

“Chính là chỗ này sao?”

“Chỗ này chỉ là một trong số đó, nhưng ngôi nhà cô thấy bây giờ cùng với hoa viên đều là xây dựng lại sau cơn hỏa hoạn, lúc đầu không phải thiết kế này. Ông cụ tổ tôi là người cố chấp lại rất truyền thống, trong nhà ai cũng có phần nể sợ ông. Nhưng đối với người ngoài ông lúc nào cũng nhiệt tâm, làm chuyện công ích, là người nhìn xa trông rộng. Cũng chính vì vậy, căn cơ của Phó gia ngày càng vững chắc, thực lực lúc đó là đứng đầu ngành hải dương, ở Thiên Tân, Hán Khẩu, Trùng Khánh và Quảng Châu cùng người ta mở tổ hợp mua bán, tham gia vào ngân hàng Hoa kiều, có thể nói ông đã sáng lập cho mình cả một đế quốc tài chánh”.

“Ô, tôi phát hiện dáng dấp anh có chút giống ông cụ tổ đó nha… là ở đây..” Phương Đăng chỉ vào càm trên bức họa. “Càm của ông ta rất nhọn, rất giống”.

“Sao tôi không thấy nhỉ?” – Phó Kính Thù cười nói – “Thật ra trong ba con trai của cụ tổ nhà tôi thì ông nội tôi Phó Truyền Thanh là giống ông cụ nhất”.

Phương Đăng bắt đầu đếm những hình vẽ trên tường: “Cái này chắc là con trai cả của cụ tổ, gọi là Phó Truyền gì… tôi quên rồi…”

“Phó Truyền Bản”

“Dù sao ông ta cũng là người của Đại phòng, có đứa cháu như Phó Chí Thời nên tôi không thích ông ta cho lắm”.

Phó Kính Thù ngồi sâu vào trong chiếc ghế nệm hơn, tiếng cười cũng nhỏ đến mức thậm chí không nghe được: “Cô đừng có đi qua đi lại nữa, tôi chóng mặt lắm”.

Có lẽ do nói nhiều nên anh mệt, thanh âm ngày càng trầm thấp, Phương Đăng nghe lời đến gần anh, ngồi trên sàn nhà, dựa vào lò sưởi, ngó về hướng mấy bức tranh phía đằng xa.

“Người mặt tròn đó là Nhị phòng Phó Truyền Cách phải không, ông ta đúng là con nuôi, nói sao nhìn chẳng giống với các anh chị em khác… Vậy … người mặc âu phục này nhất định là ông nội anh, Phó Truyền Thanh?”

“Phải” – giọng nói của anh có chút miễn cưỡng, không giống kiểu của anh cho lắm, tự nhiên Phương Đăng có cảm giác kỳ lạ.

“Nè, anh có phải đang ngủ gục không?”

“Sao lại vậy?” – Phó Kính Thù lại tiếp tục nói: “Năm ông nội tôi mười bảy tuổi, để thử nghiệm con trai, cụ tổ tôi đã giao một việc nhờ ông xử lý. Lúc đó là thời kỳ chiến tranh, ông nội dẫn theo mấy người tùy tùng, áp tải hàng ngàn bao gạo, trốn tránh mã tặc loạn binh, đến thẳng khu vực hạn hán Điền Tây, dự tính chuyến đi này sẽ thu lợi lớn, nhưng khi nhìn thấy cảnh người dân khổ sở đói khát, ông đã tự mình quyết định, đem ngàn bao gạo ra phát tế cho dân, sau đó cầm roi quay trở lại trước mặt ông cụ tổ xin nhận tội. Ông cụ tổ liền cười lớn nói: “Ta có đứa con trai ngoan, Phó gia có tương lai rồi”. Những chuyện này đều do chính miệng lão Thôi kể với tôi, năm đó ông là một trong những người tùy tùng thân tín của ông nội, đi theo ông nội từ nam ra bắc”.

Phương Đăng thật khó hình dung lão Thôi già nua cũng đã trải qua một thời đại truyền kỳ, là người đàn ông khỏe mạnh đi khắp đại giang nam bắc.

“Cơ nghiệp Phó gia bắt đầu từ cụ tổ của tôi, nhưng giữ nó được bền vững đều là nhờ công của ông nội, thậm chí là làm nó lớn mạnh hơn nhiều. Ông nội học trường Tây, nhưng cả đời tuân theo di huấn của ông cụ tổ “Không quên tổ nghiệp”. Năm đó ngôi nhà này bị hỏa hoạn phá hủy, có rất nhiều người kể cả bà chủ Trịnh đều khuyên ông nội rời bỏ vùng đất Qua Âm Châu nhỏ hẹp này , di cư sang Thượng Hải, không chỉ đông đảo mà khu vực thành thị cũng thuận tiện rất nhiều, nhưng ông nội tôi không chịu, ông nói cội rễ của ông là ở Qua Âm Châu, cho nên ông chịu tốn kém xây lại Hoa viên Phó gia lớn hơn gấp đôi so với thời của cụ tổ. Nếu không phải vì thời cuộc và nghĩ chẳng có cơ hội quay về, chắc chắn ông sẽ không bao giờ bỏ Phó gia hoa viên đến Tây Á định cư. Cha tôi nói, trước lúc lâm chung, vì chết trên xứ lạ quê người nên ông nội tôi không nguôi ân hận. Ông để lại hai di nguyện, một là để cho cha tôi nhận tổ quy tông, một chính là hy vọng hậu nhân của Phó gia sẽ xây dựng lại Phó gia hoa viên”.

“Vậy tại sao Phó gia Hoa viên hiện giờ vẫn còn cái vẻ ma quỷ thế này?” – Phương Đăng ái ngại hỏi.

Phó Kính Thù hạ giọng: “Xây dựng lại ư? Nói thì dễ…”

“Xem ra bà chủ Trịnh cũng không hoàn thành hết di nguyện của ông nội anh rồi!”

“Cô thấy không, trên bàn thờ có một gánh hoành thánh thu nhỏ đó.” Phó Kính Thù muốn chuyển sự chú ý của Phương Đăng sang hướng khác là chuyện rất dễ dàng, quả nhiên anh vừa nói xong câu đó, Phương Đăng lập tức nhỏm dậy đến gần xem, trên bàn thờ thật sự có một mô hình gánh hoành thánh làm bằng đồng. Cao khoảng một thước, điêu khắc rất tinh tế và sống động. “Mô hình gánh hoành thánh này là do cụ tổ tôi nhờ người ta làm ra, để ở đó chính là muốn hậu nhân đều nhớ khởi nghiệp thấp kém của Phó gia, chớ quên người đời trước đã khó khăn thế nào để dựng nên cơ nghiệp”.

Phương Đăng muốn sờ món đồ thú vị này một cái, liền vươn tay ra, nào ngờ lại làm ngã một bức tranh vốn để mặt trái trên bàn thờ. Bức tranh này so với mấy bức họa đặt ở giữa bàn thờ có nhiều khác biệt, nó chỉ lớn bằng bàn tay, nét vẽ sắc sảo, trên đó là một thiếu nữ đang ngồi nghiêng trên cỏ nở nụ cười. Nàng mặc một chiếc yếm bằng vải bố màu trắng, tóc đuôi sam đen tuyền thả xuống trước ngực, nụ cười và ánh mắt chứa chan ẩn tình. Phương Đăng nhìn kỹ, mau chóng phát hiện ra pho tượng mà thiếu nữ trong tranh dựa lưng vào chính là pho tượng con hồ ly đá nằm trong bụi cỏ hoang ở phía sau vườn hoa nhà Phó gia bây giờ, trong tranh còn có cái chòi mát nhỏ, không phải là cái chòi sập mà Phó Kính Thù hay ngồi vẽ bên trong sao, chỉ khác là lúc đó mọi thứ đều còn hoàn hảo, góc vườn hoa đầy hoa thơm cỏ lạ, đẹp tựa giai nhân.

“Đây là…”

“Chính là Tiểu Xuân cô nương. Cũng là người sinh hạ cha tôi”. – Không đợi cô hỏi hết câu, Phó Kính Thù đã nói ra câu trả lời.

Phương Đăng cầm bức tranh nhỏ trong tay, lật qua lật lại: “Vẽ đẹp thật, là ông nội anh vẽ sao?”

“Phải, ông và Tiểu Xuân cô nương lớn lên cạnh nhau, trừ ông ra còn ai vào đây nữa?. Nếu bà chủ Trịnh còn ở đây, bức tranh này chắc chắn không thể quang minh chính đại mà treo ra ngoài. Mấy năm nay, lão Thôi đoán chừng họ cũng sẽ không quay lại nữa, nghĩ đến việc ông nội tôi và Tiểu Xuân cô nương đều đã qua đời nhiều năm, mới len lén đem nó ra đặt ở chỗ này. Người dù gì cũng là chị ruột của ông, dù chỉ là một người hầu, nhưng cũng sinh được hậu nhân cho Phó gia, không thể thờ trong từ đường nhưng có thể để gần ông nội tôi một chút cũng tốt, mặc dù thế hệ này qua thế hệ khác, trong mắt người ta đều coi Người là loại nghiệt chủng không được nhận nhìn.

Giọng nói của anh thấp đến mức dường như không nghe được, nhưng trong lời nói khó che đậy sự mất mát, nỗi ưu tư khi kể lại những câu chuyện hoành tráng đáng tự hào của tổ tiên mình.

“Đừng như vậy mà!” Phương Đăng lo lắng cắt lời anh. “Anh là người của Phó gia, có cùng huyết thống với Phó Học Trình và Phó Truyền Thanh. Nói không chừng có một ngày, con cháu anh sẽ dùng âm điệu tự hào như vậy để kể về những chuyện anh từng trải qua đó.”

Phó Kính Thù sao lại không biết cô đang ý tứ an ủi mình, nên anh chỉ cười, sau khi cười liền ho một tràng không ngừng lại được.

“Anh sao vậy?” – Phương Đăng cảm thấy bất ổn khi nghe tiếng ho khan của anh, lo lắng đến cạnh bên anh hỏi – “Có cần tôi nấu cho anh chén nước không?”

“Không cần, tôi không sao.”

Tuy nói là không sao, nhưng giọng nói của anh rõ ràng không có sức, ngay cả ý chí kiên cường cũng chỉ là hữu tâm vô lực mà thôi. Phương Đăng lúc này mới nhớ, từ lúc cô vào nhà đến giờ, tình trạng của anh không tốt lắm, nhưng chính anh nói chỉ là cảm vặt nên cô cũng nhất thời không để ý, nhưng phải nói nhiều như vậy, càng lúc anh càng lún sâu vào chiếc ghế nệm, giọng nói cũng càng ngày càng thấp…

Phương Đăng cố gắng mở cánh tay anh ra, sờ vào trán anh.

“Chết rồi, sao lại nóng như vậy? Anh nóng như lửa đốt sao lại không chịu nói? Tôi đúng là ngu như heo vậy.” – Cô muốn nhanh nhanh đi rót cho anh ly nước, nhúng khăn lông ấm, nhưng vì hoàn cảnh xa lạ, trong lúc nhất thời cô không biết phải làm sao, chỉ biết đi vòng vòng tại chỗ như con kiến.

“Tôi nói cô đừng đi vòng vòng mà, ngồi xuống đi, ngồi xuống đây đi!” Anh yếu ớt chỉ vào vị trí bên cạnh mình.

Phương Đăng tìm được một bình nước, cô nổi giận đến phát rồ: “Ngồi cái gì mà ngồi? Ngồi xem anh chết làm sao hả?”

“Tôi chết rồi thì cô đi đâu tìm người kể chuyện xưa cho cô nghe chứ” – Anh càng cười thì tiếng ho khan lại càng dữ dội.

“Nhà anh bán vừng hay bán gạo thì có liên quan gì đến tôi chứ!”

Anh yên lặng một lúc, rồi lại hạ thấp giọng: “Là tôi muốn kể, từ trước đến giờ không có ai nghe tôi kể cả!”

Anh đúng là vẫn luyến tiếc thời hoàng kim.

“Kể kể kể…anh sợ chết rồi không ai kể hết chuyện cả dòng họ anh sao.”  – Câu nói vừa thoát ra khỏi miệng, cô mới biết mình nói xui, liền tức giận vả vào mặt mình ba cái – “Tức chết mà, ở đây có khăn sạch không?”

“Cùng tuổi với tôi, ông cụ tổ đã xuống Nam Dương, ông nội thì đi về đất miền Tây, nhưng tôi chỉ có thể ở lại nơi chết tiệt này, không làm được bất cứ điều gì cả”

“Anh sống rồi mới có thể làm được điều khác chứ”.

“Phương Đăng, Phương Đăng… Nếu như tôi nói, có một ngày tôi sẽ xây dựng lại Phó gia Hoa viên, cô có tin không?”

Mắt anh nhắm nghiền, lúc này lời nói gần như là mê sảng.

“Không được, anh phải đến bác sĩ.” Phương Đăng muốn đỡ anh đứng dậy, cơ thể nóng bỏng của anh nặng nề rủ xuống, toàn thân dường như nửa phần bất tỉnh.

“Cô tin không?” – Đến lúc này anh vẫn lẩm bẩm câu hỏi đó.

Ánh mắt Phương Đăng ửng đỏ, lớn tiếng trả lời anh: “Tôi tin! Đương nhiên là tin!”

Anh nên biết, cho dù anh nói xây dựng lại không chỉ là nơi này mà là vườn Viên Minh, cô cũng sẽ tin, ở trước mặt anh, cô chính là ngốc nghếch như vậy đó.

Câu trả lời này dường như đã đem lại niềm an ủi lớn lao cho Phó Kính Thù, sau cùng anh đã bị Phương Đăng cố sức đỡ ngồi dậy, nhưng cơ thể bắt đầu mềm nhũn ra, một nửa tựa vào người cô.

“… Trước kia…. Tôi cũng tin…. Nhưng bây giờ tôi từ từ bắt đầu không tin nữa…”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 05:57:16 | Xem tất


Chương 8: Không xa không rời





Phương Đăng tìm khắp phòng khách lầu hai, chỉ thấy một ít thuốc cảm, nhưng số thuốc này không đủ để đối phó với bệnh tình ngày càng nặng của Phó Kính Thù, hiện giờ cả người anh đều hâm hấp nóng, nếu không thể hạ nhiệt xuống, có khi sẽ biến thành viêm phổi không chừng.

Ngoài cửa sổ trời bắt đầu tối hẳn, cô nhi viện lúc này đã cấm ra ngoài, ngay cả tay sai vặt nhãi nhép như A Chiếu cũng không thể nhờ vả gì được, lão Thôi đoán chừng cũng chưa quay về, Phương Đăng không tìm được ai có thể phụ một tay đưa Phó Kính Thù đến gặp người của sở y tế. Chỉ có thể miễn cưỡng đưa anh quay lại nằm trên ghế nệm, một mình chạy đi tìm bác sĩ.

Trên đảo chỉ có duy nhất một sở y tế, ngày thường sau tám giờ tối là nhân viên y tế đã tan ca. Phương Đăng chạy đến mức tóc tai rối bời, lúc đứng trước sở y tế thở không ra hơi, cô mừng rỡ phát hiện đèn bên trong vẫn còn sáng.

“Bác sĩ….” Cô đẩy cửa vào, chỉ nhìn thấy một nhân viên đang nằm dưới đất.

“Hết giờ làm”. Người đàn bà trung niên nằm dài dưới đất ngẩng đầu lên nói với khách.

Phương Đăng nhìn lên chiếc đồng hồ treo trên tường phòng khám, kim chỉ vừa đúng quá tám giờ.

“Nhưng… Nhưng có người đang bệnh rất nặng.”

“Bác sĩ vừa mới ra về. Bảo bệnh nhân sáng mai quay lại, còn bệnh nặng thì đưa vào thành phố đi”.

“Bác sĩ ở đâu, tôi đi tìm ông ấy”. – Phương Đăng không chịu bó tay.

Người đàn bà nằm trở lại xuống sàn nhà: “Trong thành phố”.

Phương Đăng không nói thêm câu nào, quay đầu chạy thẳng về bến phà, nếu may mắn cô có thể đuổi theo bác sĩ để chặn lại trước khi ông lên phà vào thành phố. Từ sở y tế đến bến phà, đoạn đường dài như phải băng qua toàn hòn đảo, khi Phương Đăng chạy tới bến phà đèn đuốc sáng choang, đang khom lưng thở dốc thì nghe được tiếng còi báo hiệu phà đã sang bên kia bến.

Mái tóc đuôi ngựa của cô rơi xấp xãi xuống bờ vai, bị gió biển thổi phất lên mặt hơi ngứa rát, cổ họng như có lửa nhưng lại không khóc được.

Lúc trở lại Phó gia hoa viên, Phó Kính Thù vẫn còn nằm mê man trên ghế nệm, nếu không để ý hai gò má đỏ hồng trên khóe môi mím chặt, nhìn sơ qua giống như anh đang yên bình mà ngủ, trên gương mặt và mi mắt có thể thấy được vẻ ngây thơ vô ưu vô nghĩ, lúc này anh mới thật sự giống một cậu bé đúng với số tuổi của mình.

Anh không để lại cách thức liên lạc với lão Thôi, trong phòng cũng không có thứ gì để liên lạc với bên ngoài được dù chỉ là một số điện thoại. Phương Đăng biết mình không có cách nào đưa anh ra khỏi đảo vào lúc này được, chỉ có thể một mình chăm sóc anh, cầu nguyện anh có thể bình an mà qua được đêm nay.

Lúc cô ra ngoài, Phương Học Nông còn chưa về nhà, thức ăn đã nấu sẵn để trên bàn. Không biết nếu ông phát hiện cô về trễ sẽ phản ứng thế nào, sẽ đi tìm cô sao? Hay là nổi trận lôi đình? Hoặc là vì trút được gánh nặng bên mình mà cảm thấy vô cùng may mắn?

Từ cửa sổ phòng của Phó Kính Thù nhìn qua, gác xép của tiệm tạp hóa đã sáng đèn. Nếu cô trở về báo một tiếng, đừng hòng trở ra khỏi nhà một bước. Phương Đăng nhẹ nhàng vén rèm cửa sổ nhìn ra xa, lần đầu chạm tay tới tấm rèm cửa sổ màu đỏ này, y như cô nghĩ, nó vừa nặng vừa trơn tuột. Chưa bao giờ cô đứng ở góc độ này nhìn về cửa sổ kia, phía đối diện mới thật sự là chỗ của mình, Phương Đăng lại cảm thấy hơi xa lạ, dường như trong nhiều giấc mơ của cô, khi cô và anh cùng đứng bên cửa sổ ngắm hoa mỹ nhân nở rộ và trao nhau nụ cười, vậy còn cô gái cô độc bây giờ là ai chứ?

Phương Đăng không nhớ mình đã thay khăn ướt đắp lên trán của Phó Kính Thù bao nhiêu lần, chỉ biết là qua nửa đêm đều không ngừng lại. Lúc rạng sáng khoảng bốn giờ, cô đi xuống bếp nấu nước, trong lúc chờ sôi, nằm xuống gần bếp lò ngủ một giấc, khi tỉnh dậy hoảng hốt, may mà nước không trào ra, nếu không đã gây nên họa lớn..

Khi cầm nửa thau nước quay lại phòng khách, cô ngạc nhiên thấy Phó Kính Thù đã ngồi dậy, trên vai còn khoác tấm chăn mỏng mà cô đắp cho anh, hai tay che trên trán, dường như vẫn còn chưa tỉnh táo hẳn.

“Mệt thì nằm xuống đi!” – Phương Đăng rót một chén nước, cố giúp anh thổi nguội. Lúc đưa nước cho anh, thuận tay cô sờ lên trán anh xem thử. Cám ơn trời đất, cơn sốt cao hình như đã hạ xuống, chỉ còn ho khan chưa dứt, cô muốn giúp anh vỗ lưng, lại thiếu chút nữa làm cho anh sặc cả nước.

Cô ngượng ngùng cười nhẹ hai tiếng.

Phó Kính Thù nhấp một ngụm nước, đặt ly sang một bên, ngẩng đầu lên mở miệng. Phương Đăng như đoán được anh muốn nói gì, cô giành nói trước: “Không cần cám ơn tôi, tôi cũng không muốn nhìn thấy anh bệnh chết.”

“Cô hình như là rất thích đem chữ “chết” treo trên miệng”. Phó Kính Thù nói đùa bằng chất giọng khàn khàn, nhưng sau đó lấy lại giọng nói thoải mái bình thường: “Tôi muốn hỏi, lúc đang mơ màng, cô ngồi cạnh tôi hát giai điệu gì vậy?”

“Hát?”. Nếu anh không hỏi, chỉ e Phương Đăng cũng chẳng nhớ ra. Chần chừ một lát, mặt Phương Đăng hơi đỏ lên vì ngượng, cô nổi danh là phát âm không chuẩn, từ hồi còn tiểu học, mấy lần được gọi vào đội họp ca của trường do bề ngoài cũng không phải là quá tệ, nhưng khi vừa cất giọng liền bị các thầy cô giáo gạch tên loại trừ.

Đại khái là trong lúc hoảng loạn, lại cứ một mình diễn đi diễn lại động tác vắt khăn lông, trong vô thức đã ngâm nga vài âm điệu. Nhưng Phương Đăng cũng không tự nguyện thừa nhận: “Có sao?” Cô hỏi ngược lại.

“Phải, cô hát rất lớn, sau đó tôi liền tỉnh dậy”. Phó Kính Thù suy nghĩ một chút rồi ngâm nga nhè nhẹ lại một đoạn nhạc ngắn. “Chính là bài này. Đây là bài hát gì?”

Cô dĩ nhiên nhận ra giai điệu đó, Phương Đăng chỉ biết thừa nhận nhất định lúc ấy anh ngủ mê man nhưng không ngờ trí não lại nhớ dai kinh khủng, có thể hát lại y như vậy.

“Đây là bài hát ru” – Cô nói.

Phó Kính Thù nghi ngờ: “Từ trước đến nay tôi chưa từng nghe qua bài hát ru như vậy?”

“Cô cô tôi nói, khi còn nhỏ lúc tôi không chịu ngủ hay bị bệnh thì…” Phương Đăng sốt ruột biện bạch, nhưng mau chóng ngừng lại, sau đó cả hai người rơi vào khoảng không im lặng đầy căng thẳng.

“Phương Đăng, sao cô lại tốt với tôi như vậy?” – Anh phá vỡ yên lặng trước, nhưng vấn đề anh hỏi càng làm cho người ta khó trả lời hơn.

Phương Đăng ngẩng mặt lên, nói lầm bầm trong miệng: “Tôi đối tốt với anh sao?”

“Lúc tôi bảy tuổi, cha tôi đã đi Mã Đại, ông nói không thể dẫn tôi theo. Tôi biết, bà chủ Trịnh đã nói rõ chỉ cho một mình ông đi, nhưng ngược lại ông thở phào nhẹ nhõm. Trên đời này, người ông không muốn gặp nhất là tôi, ông đi mười năm, cũng rất ít khi gọi điện về. Nếu như không phải còn trách nhiệm và nghĩa vụ với tôi, tôi nghĩ ngay cả mỗi năm một lá thư và bưu phẩm cũng không miễn cưỡng gửi về. Lão Thôi… Ông ấy đối với tôi rất tốt, tôi rất cảm kích. Ông ấy chăm sóc tôi, giống như năm đó chăm sóc cha tôi, một phần do chủ nhân của Tam phòng đích thân phó thác, một phần vì tôi còn là hậu nhân của chị gái ông, trên cõi đời này, trừ ông ấy ra, không ai quan tâm đến sống chết của tôi, cũng không ai để ý tôi khỏe hay không khỏe…”

“Tôi quan tâm.” Phương Đăng vội vàng nói, chỉ hận không thể moi tim mình ra cho anh xem. “Tôi muốn nhìn thấy anh cười. Dù anh muốn làm gì, tôi cũng tự nguyện giúp anh. Thật đó, bất cứ chuyện gì đều có thể, tôi sẽ bảo vệ anh”.

“Cô bảo vệ tôi?” – Phó Kính Thù bị câu nói ngốc nghếch của Phương Đăng chọc cười: “Đây là lời mà đàn ông phải nói, sao cô….”

Chẳng qua cô thấy anh còn đáng thương hơn cả một cô gái nhỏ.

Mặt Phương Đăng càng đỏ hơn, nhưng cô vẫn không rút lại lời nói vừa rồi: “Tôi nói thật đó.”

“Thế nên tôi mới muốn biết tại sao?”

Tại sao? Nếu như Phương Đăng biết câu trả lời thì tốt quá rồi. Anh như một thanh nam châm, còn cô cứ theo bản năng mà tiến về phía anh như vậy. Là vì cô với anh là đồng loại, đồng loại như nhau, nhưng lại tốt hơn nhiều so với cô, có phải lý do này không? Cô không biết. Vậy mà anh lại cần câu trả lời, muốn cô cho anh biết một lý do chính đáng.

“Tôi không có nhiều người thân.” Phương Đăng nói đại.

Cô không đoán được vẻ mặt của Phó Kính Thù, anh cúi đầu đi tới đi lui trên thảm. Vào lúc cô bắt đầu cảm thấy ân hận, anh nhẹ giọng hỏi: “Người đó… là người thế nào… Ý tôi là cô cô của cô…”

Phương Đăng ngồi xuống sàn nhà, dựa lưng vào ghế nệm, suy nghĩ một chút rồi đáp: “Cô cô rất đẹp nhưng lúc nào cũng buồn bã”. Đây đúng là ấn tượng chân thật nhất về cô Chu Nhan trong trí nhớ cô lúc nhỏ. Trong suốt mười mấy năm qua, vẻ đẹp đã hao mòn dần vì cuộc sống, sự cơ khổ chồng chất lên cô cô như con sông tích lũy phù sa, dù cô cô chưa bao giờ khóc hay than vãn.

“Cô cô nói từng có một đứa con trai. Lúc cô ngồi bên cửa sổ ngân nga bài hát ru, tôi cảm giác cô cô đang hát cho con trai của mình nghe”.

“Vậy sao, nếu vậy tại sao người đó lại bỏ rơi con trai mình?” Phó Kính Thù phản bác.

“Sao lại vậy? Rõ ràng là do cha anh đòi ly hôn, là ông ta đã đuổi cô cô đi mà.”

“Đó là vì bà ta là người lẳng lơ, bà ta căn bản không yêu cha tôi, trong lòng cũng chưa bao giờ có cha con chúng tôi”.

“Ai nói với ai điều đó?” Phương Đăng ngạc nhiên quay người nhìn thẳng vào Phó Kính Thù, thật ra thì không cần hỏi cũng biết câu trả lời, đương nhiên là cha anh ta – Phó Duy Nhẫn. “Cha anh nhất định đã gạt anh”.

“Ông ấy suốt bao nhiêu năm trời đều vì chuyện này mà buồn bực không vui, cô nghĩ như vậy là gạt tôi sao?”

Tại sao cô cô một mực không quay lại tìm Phó Kính Thù, Phương Đăng không biết, nhưng nếu nói cô không yêu người đàn ông họ Phó, không nhớ đến con trai duy nhất của mình, có đánh chết Phương Đăng cũng không tin, nếu không thì vẻ bi thương khi cô cô một mình ngồi yên lặng từ đâu tới. Chu Nhan thường xuyên lâm vào tình trạng mất hồn, trong thời gian ngắn không phân biệt được đâu là ảo mộng đâu là thực tế, Phương Học Nông thường nói rằng tâm trí cô cô không minh mẫn cho lắm. Cứ như vậy bệnh tình lại càng lúc càng trở nên nặng hơn, vào thời điểm cuối cùng, người ở bên cô cô nhiều nhất chính là Phương Đăng.

“Tại sao lại gạt tôi? Con tôi đang ở đâu?” – Đây là câu nói trước khi chết Chu Nhan đã lặp đi lặp lại.

Phương Đăng nhớ đến bộ dạng tiều tụy của cô cô như ngọn đèn dầu cạn, không nhịn được nên có chút kích động: “Rõ ràng vì cha anh nói sau khi lên Đại học mới có thể cưới cô cô, sau khi lợi dụng cô cô rồi lại không cần người nữa”. Thật ra cô còn muốn nói người đàn ông này cực kỳ hèn hạ, nhưng nghĩ đến dù sao ông ta cũng là cha ruột của anh, nên cố gắng đem lời nói đó nuốt vào lòng.

Những chuyện này đều do Phương Đăng chắp vá lại từ mấy câu nguyền rủa của Phương Học Nông trong những lần say rượu. Phương Học Nông lúc tỉnh táo không dám đụng đến Chu Nhan, dù sao ông ta còn phải dựa vào việc buôn xác bán thân của Chu Nhan để kiếm cơm, nhưng chỉ cần uống vài giọt rượu, ông lại chỉ vào mặt Chu Nhan mà mắng cô ngu xuẩn, còn nói cô là đồ tiện nhân, cứ đua đòi với cao nào ngờ cuối cùng lại rơi vào hố thẳm.

Phương Học Nông và Chu Nhan là anh em cùng mẹ, cha của Chu Nhan trong cuộc cách mạng Văn hóa đã từng làm chủ nhiệm Ủy hội của Qua Âm Châu, tay cầm đại quyền sinh sát. Phó Duy Nhẫn ham học hỏi nhưng gia đình có phần hạn chế với cái danh “Tàn dư của chủ nghĩa tư sản”, nếu như ông ta không cưới Chu Nhan, căn bản không thể nào có tên trong danh sách vào đại học. Chẳng qua sau đó vừa qua khỏi cuộc Vận động Phong trào, cha Chu Nhan vì làm nhiều chuyện xấu nên rất nhanh bị thanh trừng, do cơ thể không khỏe, ít  lâu sau chết trong tù, sự hưng thịnh ngắn ngủi của gia đình Chu Nhan lại mau chóng tàn lụi. Không bao lâu sau khi cô sinh con trai, Phó Duy Nhẫn lấy đủ thứ lý do ép cô phải ly hôn, Chu Nhan cũng không đòi hỏi nhiều, chỉ một mình bỏ đi, cùng anh trai dọn khỏi hòn đảo nhỏ, cũng chẳng trở về. Mỗi lần Phương Học Nông chửi rủa không dứt, Phương Đăng đều không muốn nghe, nhưng cô Chu Nhan thì chưa bao giờ phản bác lại một câu nào, có khi là lâm vào tình trạng ngơ ngẩn, cũng có lúc rút thuốc lá ra hút từng điếu một, dù lúc đó cô đã bị bệnh ho lao nghiêm trọng.

“Chuyện này không thể nào!” Phó Kính Thù cau mày thật sâu – “Cô không biết cha tôi là người thế nào, ông rất thanh cao so với bất kỳ ai khác. Nếu nói ông vì cơ hội lên đại học mà phải trả giá bằng hôn sự của mình, đi cưới một người ông không thích, chuyện đó là tuyệt đối, tuyệt đối không thể, tôi nghĩ thà ông bị ép chết còn hơn. Ông… đối với cô cô của cô nhất định có tình cảm, nếu không cũng sẽ chẳng vì bà ta quay lưng phản bội mà suốt đời phải đau buồn”.

“Có chứng cứ gì nói cô cô tôi phản bội ba anh?” Cô cô là người từ nhỏ Phương Đăng gần gũi nhất, so với cha cô còn thân hơn vài phần, cô không thể chấp nhận lời bêu xấu rành rành thế này, cho dù là xuất phát từ miệng của Phó Kính Thù cũng không được. Cô có phần kích động.

“Cô đừng vội, làm tôi điếc cả tai.” So với cô, ngược lại Phó Kính Thù lãnh đạm và ăn nói mạch lạc hơn nhiều, dù anh đối với chuyện xưa cũng rất để tâm. “Tôi nhớ mang máng cha tôi và lão Thôi đều có nhắc qua, cô cô của cô có một mối tình đầu, nếu như không phải do ông ngoại cô, à, không phải, là cha của cô cô ham danh tiếng của Phó gia trên đảo, muốn thừa dịp Phó gia sa sút để leo lên nắm quyền thì đã không gả bà ấy cho ba tôi, bản thân cô cô của cô không muốn. Chuyện này sau khi cưới ba tôi mới biết, ông cả đời không có cách nào để thay thế người đàn ông kia trong lòng bà ta, chuyện này đối với ông không dễ dàng tha thứ”.

Phương Đăng căn bản không thể chấp nhận kiểu giáo hóa này: “Các người đúng là ngậm máu phun người. Tôi chính tay nghe cô cô nói, lần đầu tiên cô cô thích một người, đó là vào lúc mặt trời mùa thu lên cao ở Qua Âm Châu, cô và em gái ra cửa hàng trang sức ngoài chợ mua một cái gương nhỏ.Cô cô nói lúc cầm gương soi lên mặt, trong gương xuất hiện một người đi trên đường, lúc đó cô cô liền muốn trở thành vợ ông ta, người đó tên Phó Duy Nhẫn. Anh nói cái gì người tình đầu tiên, đều là nói năng bậy bạ”.

“Không phải!” Phó Kính Thù mơ hồ cảm thấy đã lần ra một ít đầu mối, anh cũng tỏ ra vô cùng kinh ngạc, tấm chăm mỏng nằm trên vai tuột xuống lúc nào cũng không hay. “Cô nói đến gương, tôi cũng có ấn tượng. Lão Thôi nói, người tình đầu đó đã tặng cho bà ấy một chiếc gương, bà ta thường xuyên ngẩn ngơ nhìn vào chiếc gương đó, cha tôi nhìn thấy đã hiểu không thể tách được hai người họ ra.. Nếu như những gì cô nói là thật, lão Thôi cũng không gạt tôi, nhất định vấn đề nằm ở chỗ đó”.

Anh bắt đầu suy nghĩ, Phương Đăng cũng vắt hết óc mà phân tích theo anh.

“Có khi nào…”

“Tôi biết rồi…”

Hai người đồng thanh lên tiếng, chỉ là Phương Đăng phản ứng có phần mãnh liệt hơn, cô nhảy cỡn lên.

“Chẳng lẽ “mối tình đầu” mà cha anh hận thấu xương đó lại chính là bản thân ông ta sao? Cô cô tôi và ông ấy đều không nói dối, chỉ là… Trời ơi, sao lại có thể như vậy?” Cô dậm chân liên tục, chuyện này dù là hoang đường cũng không thể xảy ra.

Ngay cả Phó Kính Thù cũng có phần hoảng loạn, hình như câu trả lời của anh cũng không khác biệt bao nhiêu.

Thật ra Phó Duy Nhẫn và Chu Nhan hai người hết dạ yêu nhau, hôm ở ngoài đường trên đảo Chu Nhan nhìn thấy Phó Duy Nhẫn trong gương, vừa gặp đã yêu, mà Phó Duy nhẫn cũng đã sớm thầm để ý cô. Hai người tâm ý tương giao, lúc đó cha của Chu Nhan làm Chủ nhiệm trong Ủy Hội đã để ý đến Phó gia vốn là gia đình danh giá trăm năm trên đảo, muốn mượn cớ giúp lên đại học để hai nhà kết thông gia, nở mày nở mặt. Hôn sự này được kết hợp thành công, nhưng hai người còn trẻ một bên cho là đối phương bị cha ép gả cho mình, một bên lại nghĩ người yêu kết hôn với mình vì ghi tên vào đại học. Chuyện này quả thật chỉ là hiểu lầm, lỗi là do hai người họ đều quá kiêu ngạo. Phó Duy Nhẫn không bày tỏ sự quan tâm, còn Chu Nhan trước sự lạnh lùng của ông ta cũng thừa nhận người mình nhớ thương chính là người ở trong gương. Thật ra thì từ đầu đến cuối mỗi khi cô nhìn người qua gương, chính là nhìn Phó Duy Nhẫn đứng ở phía sau mình.

Đáng buồn là đến khi chia biệt âm dương, họ cũng không có cơ hội nói lên tiếng lòng của mình với đối phương, cho đến khi hai hậu bối gặp nhau, gom góp sự hiểu biết lẻ tẻ của hai bên lại mới phát hiện ra chân tướng. Điều này thật là kỳ lạ, nhưng thật ra bản thân mỗi chúng ta đều như vậy, những câu nói thật lòng, thường chỉ có thể nói ra trước mặt người không can hệ.

Thật ra, cái gọi là “chân tướng” chẳng qua là do Phương Đăng và Phó Kính Thù cùng suy đoán, có bao nhiêu phần trăm sự thật đã vĩnh viễn chết đi theo Chu Nhan không thể nào biết được.

“Anh sẽ nói cho cha anh biết chuyện này?” Phương Đăng vẫn mong đợi, dù cô cô Chu Nhan không còn nữa, nếu như Phó Duy Nhẫn còn sống kia hiểu được tấm lòng mình, cô cô ở âm tào địa phủ cũng sẽ vui lòng. Đối với Phó Duy Nhẫn mà nói, điều này cũng giải tỏa tâm tư của ông suốt bao nhiêu năm qua.

Không ngờ, Phó Kính Thù nghe câu hỏi này liền lắc đầu: “Cha không muốn tôi gọi điện sang Mã Đại, dù tôi có viết thư, có thật là ông sẽ tin? Những gì chúng ta nghĩ là thật sao? Chuyện đã qua lâu như vậy, ông cũng không có ý định quay về, cho dù có là thật đi nữa, biết rồi ông sẽ cảm thấy thoải mái sao? Lúc đầu buông tay người ta cũng là ông, bây giờ nếu biết ông sẽ càng thêm khổ sở, cũng có ích gì. Sự thật của vấn đề thường không như chúng ta tưởng tượng, mọi người đều thích tin tưởng vào ảo giác của bản thân mình nhất.”

Điều anh nói không phải không có lý lẽ, Phương Đăng không thể nào cãi lại. Những sự việc tình cờ đó, đối với người ngoài chỉ là câu chuyện xưa kỳ ảo, còn với người trong cuộc lại thường là một sự cố bi thương. Chi bằng để thời gian đem sự cố này hoàn toàn chôn lấp.

“Tên lót của anh là “Kính” chính là nghĩa này sao?” Phương Đăng hỏi.

Phó Kính Thù cười nói: “Ngốc ạ. Anh họ tôi gọi là Phó Kính Thuần, chẳng lẽ cũng vì nghĩa này? Đời chúng tôi có chữ lót trong gia tộc là ‘Kính” cũng giống như chữ “Duy” của cha chúng tôi vậy. Tôi tên là Phó Kính Thù, cô cũng biết, “Thù” có nghĩa là khác biệt. Đại khái là vì tôi khác biệt so với các anh em trong dòng tộc. Thân phận cha tôi cũng có chút khó xử, bà chủ Trịnh làm theo di nguyện của ông nội đón nhận cha tôi, đối với một nữ nhân mà nói đó không phải là chuyện dễ dàng gì. Tôi từ nhỏ không có mẹ, cha cũng không thể dắt tôi theo, cũng đã nghe người ta nói bà ta bên ngoài đã làm những chuyện gì”.

“Cô cô chỉ là không còn cách nào khác, vì tôi và cha tôi liên lụy”. Trong lòng Phương Đăng suy nghĩ rất nhiều, muốn nói nhưng cổ họng nghẹn lại, không thốt ra lời. Một lát sau cô nói tiếp: “Thật ra thì cô cô rất đáng thương. Lúc ra đi, cô cô không có một thứ gì, đôi hoa tai bạc cũng đã bị cha tôi lột bán lấy tiền. Chỉ có chiếc gương là quý giá nhất đối với cô cô, tôi đặt nó trên người cùng cô cô hỏa táng”.

“Gương gì chứ?”

“Chỉ là cái gương nhựa rách rưới, chẳng đáng xu nào. Tôi đoán là chiếc gương lần đầu cô cô nhìn thấy mặt cha anh, nếu không cô cô cũng chẳng một mực mang theo bên người”.

Phó Kính Thù chợt chống tay xuống ghế nệm để đứng lên, Phương Đăng vội vàng nhanh tay đỡ anh lại: ‘Anh muốn làm gì?”

“Cô đợi tôi một chút!” – Anh đẩy Phương Đăng ra, một mình từ từ đi trở về phòng, một lát sau đem ra một vật đưa cho Phương Đăng. Đó là một mặt gương nhỏ bằng nửa lòng bàn tay.

Phương Đăng cầm mảnh gương trong tay, xoay qua xoay lại nhìn chẳng hiểu gì cả, chiếc gương này so với cái của cô cô Chu Nhan tinh xảo hơn nhiều, phía sau làm bằng bạc, màu sắc có hơi u ám, có lẽ là do quá cũ, phía tay cầm còn chạm trổ hoa văn. Những món đồ của nhà giàu sử dụng thường ngày thứ gì nhìn cũng vô cùng tinh tế.

“Đây là đồ cổ sao?” Phương Đăng chợt nghĩ, món đồ này mà đem bán không chừng trị giá không ít tiền.

Phó Kính Thù nói: “Không phải đồ cổ, lâu nhất chỉ là vật từ cuối đời nhà Thanh. Mảnh gương này lúc đầu do cụ tổ tôi tặng cho Tiểu Xuân Cô Nương. Tiểu Xuân Cô Nương để lại cho lão Thôi để giao lại cho cha tôi, coi như là cho ông một vật lưu niệm. Cha tôi sau đó đem nó làm lễ vật tân hôn cho cô cô Chu Nhan của cô, lúc bỏ đi bà đã để nó lại, cha tôi cũng không đem nó đi Mã Đại, cuối cùng nó ở trong tay tôi”.

Phương Đăng thầm nghĩ tại sao cô cô lại đem mảnh gương này trả lại cho Phó Duy Nhẫn, nhưng vẫn hằng đêm áp mặt vào tấm gương nhựa coi như là bảo vật, có lẽ trong lòng cô cô, mặt gương nhựa kia đã từng phản chiếu hình ảnh người yêu của cô lúc ban đầu.

“Ồ, mặt sau này còn có chữ …” Phương Đăng cố hết sức để đọc hai dòng chữ nhỏ khắc sau tấm gương bạc: “Không rời… cái gì… Không… Là… cái gì… Như…”

“Bất ly bất khí, thi vị chân như” (Không xa không rời, đó là sự thật) – Phó Kính Thù đọc.

Phương Đăng lẩm bẩm đọc theo một lần, cảm nhận được ngụ ý trong câu chữ đó: “Đây là lời ông tổ anh thề thốt cùng Tiểu Xuân cô nương sao?”

“Tôi không biết”. Phó Kính Thù nói thật nhẹ “Mảnh gương này đã qua tay nhiều người, câu nói “không xa không rời” đến cuối cùng còn không phải là đã rời xa sao?” Anh đem mảnh gương đặt vào tay Phương Đăng rồi rụt tay về: “Cái này cô giữ đi, để ở chỗ tôi cũng không có ý nghĩa gì, dù sao cha tôi cũng tặng nó cho cô cô rồi”.

Anh một mực không chịu gọi Chu Nhan là “mẹ”, nhưng lúc nhắc đến cô, vẻ mặt đã dịu đi rất nhiều. Phương Đăng không trách anh chẳng chịu đổi cách xưng hô, dù sao cô cô cũng bỏ rơi anh rất nhiều năm, ở trong lòng anh, vị trí thiếu sót đó đã thành một thói quen. Một người trong lòng đã có lỗ thủng thì rất khó lòng mà lấp lại cho đầy.

Phương Đăng không dám nhận.

“Chính vì mảnh gương  này đã qua tay nhiều người thân của anh như vậy, anh nên giữ lại nó”.

Phó Kính Thù hơi mỉm cười: “Phương Đăng, cô không hiểu thật sao?”

“Gì chứ?” Có lẽ do ánh đèn tự nhiên bừng sáng, ruột gan Phương Đăng cũng nhói lên theo.

“Tôi hỏi cô tại sao đối với tôi tốt như vậy, cô cho tôi một lý do đi”. Nụ cười của anh biến mất, ánh mắt nhìn xa xăm khiến Phương Đăng không hiểu: “Tôi nghĩ lý do của tôi cũng giống cô, tôi cũng chẳng có mấy người thân”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 05:58:18 | Xem tất


Chương 9: Giặc trong nhà khó phòng





Phương Đăng nhận mảnh gương, nhưng lại không cầm về. Cũng giống như khi Phó Kính Thù vì cô mà trồng chậu hoa mỹ nhân, tất cả đều là đồ quý, tuy nhiên cô lại không thể giữ bên mình, nhất là mảnh gương này nhìn qua còn đáng giá vài đồng, cô nghĩ nếu nó rơi vào tay người khác, có thể bị đem đổi lấy tiền uống rượu cũng nên.

Cô để Phó Kính Thù giữ lấy mảnh gương, thay mặt cô mà bảo quản, nói không chừng một ngày nào đó điều kiện cho phép, cô sẽ đến tìm anh mà lấy về. Thật ra thì Phương Đăng cũng có ý, cô muốn mỗi khi Phó Kính Thù nhìn thấy mảnh gương này sẽ nghĩ đến cô cô Chu Nhan… rồi tiện đó mà nghĩ đến mình. Cũng giống như giữa cô và anh có thứ gì đó ràng buộc với nhau, so với quan hệ máu mủ còn tuyệt vời hơn rất nhiều. Chữ khắc trên gương “không xa không rời” với cô mà nói giống như một lời nguyền ma mị khó lòng kháng cự.

Sau khi cơn sốt hạ, tinh thần Phó Kính Thù cũng chuyển biến tốt hơn, nghe lời Phương Đăng anh không vội đến trường, ở nhà nghỉ ngơi thêm một ngày, nếu phát hiện cơn sốt tái phát phải lập tức đến sở y tế chẩn đoán, sau khi nhìn anh uống thuốc cảm xong, Phương Đăng mới chịu quay về lo chuyện của mình.

Mặc dù đã sớm biết sau khi quay về sẽ không tránh khỏi bị dày vò, vậy mà khi Phương Đăng vừa đẩy cửa gác trọ, còn chưa kịp bước vào liền bị một vật gì đó xẹt gió bay thẳng vào mặt khiến cô hoảng hồn. Theo bản năng cô quay người tránh, vỏ chai rượu đập vào sau vách hành lang rơi xuống vỡ vụn.

“Mày chết bên ngoài thì tốt rồi, sao còn dám quay về.” Phương Học Nông gân cổ hét.

Khi xác định trong tay ông không có “hung khí”, Phương Đăng mới lắc mình vào nhà, mỉa mai cãi lại: “Tôi không về cha có đồ ngon để ăn sao? Sớm muộn gì cũng chết đói”.

“Mày nói đi, đã làm gì bên ngoài?”

“Ở nhà bạn học một đêm”

“Đồ thối tha, mày dám gạt ông sao”. Phương Học Nông giận dữ chỉ ra ngoài cửa sổ nói: “Tao chính mắt thấy mày từ nhà đối diện bước ra. Đồ không biết xấu hổ, có chết thì chết sớm đi, đừng làm chuyện dơ bẩn trước mắt tao”.

Phương Đăng nghe cha nói bóng gió, biết ông nghĩ mình đã làm chuyện không hay, gò má đỏ hồng lên, giải thích: “Cha đừng nói bậy, tại anh ta bệnh, lão Thôi không có nhà, tôi chỉ chăm sóc anh ta một chút thì sao chứ?”

“Sống chết của hắn có quan hệ gì đến mày, chết đi thì tốt!”

Có một điều Phương Đăng vẫn luôn không hiểu, cha cô tuy là kẻ vô lại, nhưng thường này trừ để ý chó mèo tè bậy cũng ít khi quan tâm chuyện người khác. Phó gia, hay nói đúng hơn là Phó Kính Thù đối với ông như một điều cấm kị, chẳng có tí gì liên quan, nhưng chỉ chút chuyện cũng làm ông phẫn nộ, sự căm hận tột cùng đến vậy từ đâu mà có?

“Rốt cuộc anh ta đắc tội gì với cha?” Phương Đăng quyết định nói lời khiêu khích, làm cho rõ ràng mọi chuyện: “Coi như cha anh ta Phó Duy Nhẫn có lỗi với cô cô đi, nhưng nói thế nào anh ta cũng là con trai ruột của cô cô, là họ hàng của cha! Mười mấy năm qua, năm hết tết đến cha cũng không quay về đảo, anh ta làm gì có lỗi với cha?”

“Tao khinh, đồ tiểu tạp chủng!” Phương Học Nông vẫn nói gay gắt như cũ.

Phương Đăng bực bội nói: “Cha mắng anh ta là tạp chủng, thì cũng như mắng cô cô Chu Nhan, trừ phi anh ta không phải là con trai của cô cô”.

Phương Học Nông thở hồng hộc, không trả lời, một lát sau khi Phương Đăng ôm cặp táp chuẩn bị đi học, ông lại không nhịn nổi mà lên tiếng: “Đừng để tao nhìn thấy mày và hắn ta ở cùng một chỗ, đồ con gái ngả ngớn, mày nghĩ gì tưởng tao không biết hả? Có bản lĩnh đến đâu cũng là đồ tiểu tạp chủng, chi bằng ra ngoài kiếm chút tiền cho ông thì tốt!”

Nghe mấy lời này, Phương Đăng thấy rất chói tai, cô cầm cặp táp đổ xuống đất, sách vở bút viết rơi đầy. Cô đỏ mắt lớn tiếng hỏi ngược lại: “Thế nào là làm ra tiền cho cha, giống như cô cô Chu Nhan vậy sao? Cha có phải là đàn ông không, có phải là người không! Cầm những đồng tiền đó trong tay cha không cảm thấy mình là đồ phế vật sao! Khó trách lúc còn sống cô cô coi thường cha, cô cô nói chết đi mới dứt, chết đi rồi có thể thoát khỏi cha!”

Sự bùng nổ nhất thời của Phương Đăng lúc này khiến cho Phương Học Nông kinh hãi, ông ngồi trên giường tre, mặt mũi đờ đẫn, giống như không nghe những lời lên án của con gái, vừa như đang suy nghĩ ý nghĩa trong lời nói của cô.

“Nó nói vậy sao?” Một hồi lâu, ông mới đưa đôi mắt đục ngầu nhìn thẳng vào Phương Đăng mà hỏi.

“Không chỉ cô cô nói, tôi cũng nghĩ cha như vậy. Cả ngày cha mắng người khác là tạp chủng, vậy còn cha là gì hứ? Cha là người đàn ông xấu xa nhất mà tôi biết! Tôi và cô cô đời này xui xẻo nhất chính là gặp phải con quỷ hút máu người như cha! Cha đã cho tôi cái gì? Trừ cái mạng này. Còn chai rượu nào không, cha đập đi, đánh chết tôi đi, đánh cho mạnh vào, tôi đi cùng cô cô Chu Nhan cũng được, chúng tôi ghê tởm chỉ muốn tránh xa cha!”

Phương Đăng vừa rơi nước mắt vừa nói những câu này, Phương Học Nông không nhúc nhích, như một pho tượng đất sét. Cô không muốn ở trước mặt người này mà khóc, nên cúi người nhặt hết đồ trên đất lên rồi chạy ra ngoài.

Trên đường, Phương Đăng gặp A Chiếu. A Chiếu thấy hốc mắt cô đỏ lên, liền theo sau hỏi: “Chị, sao chị lại khóc nữa rồi? Ai dám chọc chị, tôi sẽ đi đánh nó.”

Cậu ta quơ cặp táp giả bộ đang chọi đá, Phương Đăng quay đầu lại liếc nhìn bộ dạng yếu ớt của cậu ta, ánh mắt rụt rè như muốn nói: “Tôi cũng hơi sợ, nhưng tôi muốn giả vờ như không có chuyện gì”. Cô nghe nói bình thường bọn trẻ lớn hơn một chút hay tìm cậu ta để làm trò, nhưng do sợ thứ để trong cặp táp cậu ta, hiện giờ trong cô nhi viện cậu ta có thể ăn cơm no, không đến nỗi mới ăn được hai muỗng đã bị người khác tranh mất.

Phương Đăng tức giận “Cậu định làm anh hùng sao, còn kém lắm.”

Buổi chiều sau khi tan học, Phương Đăng cùng A Chiếu đi thăm Phó Kính Thù. Anh đã có thể đi lại được, dù những cơn ho khan vẫn chưa dứt, đang định xách nước đi tưới mấy bồn hoa cỏ mấy ngày chưa chăm sóc. A Chiếu chủ động gánh hết việc, cố sức vác thùng nước nhẹ hơn không bao nhiêu so với cậu ta, ánh mắt lại không kềm chế nổi mà cứ nhìn quanh Hoa viên Phó viên từ trước đến giờ chưa đặt chân vào. Thấy Phương Đăng và Phó Kính Thù đứng cạnh căn chòi sập nói chuyện, A Chiếu vừa làm việc vừa mỉm cười thỏa mãn, giống như một đứa trẻ mồ côi vừa tìm lại được gia đình.

Phương Đăng cố ý kéo dài đến khuya mới trở về nhà, không muốn lại cãi nhau với cha mình. Phương Học Nông đã nằm trên giường ngủ say sưa, cũng không biết đã ăn cơm hay chưa. Phương Đăng đến nhặt chai rượu lăn lóc dưới chân giường, ngạc nhiên phát hiện ông đang ôm chăn thật chặt, trên khóe mắt đầy nếp nhăn là mấy giọt nước mắt chưa khô.

Một tuần sau, lão Thôi quay lại, còn đem theo một người lạ. Phương Đăng nghe Phó Kính Thù nói lão Thôi phải về nhà ở phía Bắc lo tang sự cho một người anh họ xa, cũng là một trong số ít những người thân còn lại trên đời của ông ấy. Người thanh niên lần này đưa về gọi là Thôi Mẫn, cháu họ xa của lão Thôi, nghe nói nhà cửa chật chội, cha mẹ đều không còn, chẳng biết làm gì mưu sinh nên nhất định đòi theo lão Thôi kiếm sống.

Thôi Mẫn chừng hai mươi bảy hai mươi tám tuổi, thân hình tầm thước, vóc người khỏe mạnh, nhìn sơ qua thấy thật thà chất phác lại lanh lợi, lúc nào cũng vui vẻ nở nụ cười. Được Phó Kính Thù đồng ý, lão Thôi để cậu ta vào ở trong Phó gia Hoa viên, dựng một căn phòng nhỏ sát bên phòng của mình, ngày thường giúp lão Thôi chăm lo chuyện vụn vặt trong vườn, rảnh rỗi thì nhận chút việc làm thêm trên đảo kiếm ít tiền sinh hoạt.

Thật ra Phó Kính Thù nói có thể để cho Thôi mẫn được ở tại căn phòng nhỏ trong lầu một của Đông lâu, nhưng lão Thôi kiên quyết từ chối. Ông không thay đổi được tư tưởng cũ, chủ nhân của Đông lâu chính là Tam phòng, chỉ cần Tam phòng vẫn còn người  thì ông chỉ là kẻ làm vườn ở đây, Thôi Mẫn cũng giống như vậy. Phó Kính Thù biết ông cố chấp nên cũng không thúc ép. Nghe nói lão Thôi đã có thưa chuyện qua với bà chủ Trịnh bên kia, họ cũng đồng ý cho Thôi Mẫn vào nhà, dù sao lão Thôi cũng lớn tuổi, sớm muộn gì cũng phải tìm một người còn trẻ khỏe thay ông coi chừng đất đai nhà tổ, không thể để cho Phó gia Hoa viên hoang phế, họ cũng không ngại trả thêm tiền công cho một người nữa.

So với Phó Kính Thù, lão Thôi thường xuyên liên lạc với Tam phòng hơn, từ lâu, ông là cầu nối giữa Phó Kính Thù và bà chủ Trịnh phía bên kia, chi tiêu vật dụng thường ngày cũng là giao cho ông đưa qua cho Phó Kính Thù. Đối với những chuyện người bên Mã Đại đã đồng ý, Phó Kính Thù cũng ít khi lên tiếng, quá lắm thì cũng chỉ nhìn rồi để trong lòng.

Sau khi Thôi Mẫn vào ở, đối với Phó Kính Thù rất ân cần, anh ta trẻ hơn lão Thôi, tay chân mau lẹ, đầu óc lại linh hoạt nên có những chuyện lão Thôi chưa nghĩ tới thì anh ta đã làm trước, còn biết tìm những loại hoa cỏ từ bên ngoài mà trên đảo không có về nhà, anh ta biết Phó Kính Thù thích những thứ này. Phó Kính Thù ngược lại cũng không nhiệt tình cho lắm, anh vốn là người ít khi tiếp xúc hay mở lòng ra với ai, đối với bất kỳ ai cũng lãnh đạm, khách sáo, nhưng lúc nào cũng giữ một khoảng cách an toàn.

Phương Đăng bây giờ đã là khách quen của Phó gia Hoa viên, lão Thôi lúc đầu mở cửa cho cô còn có hơi miễn cưỡng, nhưng do Phó Kính Thù ngầm cho phép cô tự do ra vào, ông cũng không tiện nói nhiều. Đối với thân phận của Phương Đăng, thật ra lão Thôi cũng có chút nghi ngại, song khi ông thấy tiểu nha đầu này cùng với Tiểu Thất của ông tự nhiên thân thiết, dần dần ông cũng cảm thấy cô là người tốt. Những lúc Phương Đăng ở đó, người thường xuyên cô độc như Phó Kính Thù lại trở nên hào hứng tán chuyện. Bình thường họ ngồi học bài ở sau vườn, Phó Kính Thù hí hoáy vẽ chậu hoa, Phương Đăng lại ngồi rung bàn, cứ rung như vậy mãi, lão Thôi đứng một bên len lén để ý, phát hiện Tiểu Thất chẳng những sẽ đùa giỡn cùng cô, có lúc hai người còn vì mấy chuyện vặt vãnh mà cãi nhau ỏm tỏi. Sau cùng cũng là máu mủ tương thông, dù xuất thân hoàn toàn khác biệt cũng là cùng xương cốt với nhau. Nghĩ đến những chuyện này, sau đó lão Thôi khi chuẩn bị đồ ăn và trà cho Phó Kính Thù, cũng không khỏi để phần cho Phương Đăng một ít, có khi Phương Đăng ở lại ăn cơm, ông cũng không còn hầm hầm nét mặt.

Có lúc A Chiếu cũng sẽ cùng Phương Đăng đến đây, nhưng cậu lại nghĩ đồ ăn ngon đa phần là từ lão Thôi mới có, nên lúc nào cũng nhào vào phụ việc cho lão Thôi, suốt ngày quấn lấy ông. Lão Thôi bất đắc dĩ luôn mắng: “Con thỏ nhỏ đáng chết, con thỏ nhỏ đáng chết”, mặt mũi bực mình cũng không dám đuổi cậu ta ra ngoài.

Ngược lại với lão Thôi bảo thủ, Thôi Mẫn đối với “hai người bạn nhỏ” của Phó Kính Thù lại rất nhiệt tình. Phương Đăng không quan tâm lắm, cô luôn nói: “Chẳng có việc gì mà bợ đỡ thì rõ ràng là gian xảo”; A Chiếu lại khá thích Thôi Mẫn, vì so với lão Thôi, chú này hay cho cậu nhiều đồ ăn ngon, lại còn dạy cậu dùng cỏ làm ra nhiều đồ chơi mới.

Phương  Học Nông sau những cuộc cãi vả long trời lở đất thì lại làm hòa với con gái, mỗi lần uống rượu vào là say như chết, nhưng chỉ cần Phương Đăng đưa cơm và rượu ngon đến, ông cũng ít nói tiếng nào. Mấy lần Phương Đăng phát hiện Thôi Mẫn đưa cha mình xiêu vẹo về nhà, Phương Học Nông còn giơ chai rượu trong tay ra gọi anh ta là “Thôi huynh đệ” rất khách khí. Phương Đăng có hơi không vui, tay Thôi Mẫn này mới lên đảo ít lâu, sao lại nhanh như vậy mà lăn lộn chung một chỗ với cha cô được, làm sao lại trở thành bạn bè thân thiết của một người mệnh danh con sâu rượu lại còn vô dụng đến như thế. Cô để ý quan sát, phát hiện ra với bất kỳ ai Thôi Mẫn cũng giữ gương mặt tươi cười chào hỏi, có thừa nhiệt tình, lại thêm anh ta biết cách ăn nói, chỉ trong thời gian ngắn mà có quan hệ với không ít người ở Qua Âm Châu này. Điều này với người ngoài mà nói quả thật không dễ dàng, cũng coi như anh ta có chút bản lĩnh, chẳng trách lão Thôi còn đưa hắn từ xa đem về trên đảo.

Thời gian trôi qua thật nhanh, vừa qua khỏi Đông Chí không lâu, ngày cuối tuần Phó Kính Thù ra thành phố đến nhà thầy học vẽ, anh nói sẽ tranh thủ trước khi ao hồ đông cứng đào một ít bùn để trồng hoa, nên mấy canh giờ sau đã quay về đảo.

Phương Đăng ở bến phà chờ anh, thấy anh ăn mặc phong phanh, bèn nói anh nên về nhà mặc thêm quần áo, tiện thể để giá vẽ nặng nề lại luôn. Hai người quay về Phó gia Hoa viên, vừa tới trước cửa chính Đông lâu thì gặp Thôi Mẫn từ trong đó đi ra.

“Hôm nay cậu về sớm thật!” Thôi Mẫn thấy họ có chút không tự nhiên, cười híp mắt chào hỏi.

Phó Kính Thù nhìn anh ta một cái “Lão Thôi không có nhà sao?”

“Không có, chú tôi đi mua gạo. Trước khi đi đã dặn tôi phải đem mấy chậu hoa ở sau vườn lên đặt trên bồn hoa lầu hai, buổi tối lạnh, sợ sương xuống không tốt”. Thôi Mẫn xoa xoa tay, trên tay áo còn dính một ít đất từ trong chậu hoa. “Hai người đi mau đi, bên ngoài gió lớn, tôi đi tìm mấy khúc gỗ tốt về đóng giá trồng hoa”.

“À!”. Phó Kính Thù liếc mắt ngụ ý bảo Phương Đăng theo anh vào nhà, rồi đột nhiên dừng lại ở bên hồ bán nguyệt hỏi Thôi Mẫn: “Có phải lão Thôi dặn anh đem chậu hoa thụy hương tối qua tôi cắt tỉa lên lầu hai không?”

Thôi Mẫn cười nói: “Không sai, không sai, đúng là chậu hoa tối qua cậu cắt tỉa, cậu lên xem đi, hoa mới nở phải có người ngắm chứ. Tôi đi đây, nếu không mấy ngày nữa vẫn chưa làm xong khung đỡ bồn hoa mất”.

“Anh đi đi”.

Thôi Mẫn vừa mới bước đi, nhưng lại nghe tiếng nói không nặng không nhẹ của Phó Kính Thù bồi thêm một câu, “Người có thể đi, nhưng đồ để lại được không?”

“Gì chứ?” – Bước chân Thôi Mẫn hơi chậm lại.

Phó Kính Thù nói: “Anh là người thân của lão Thôi, tôi không muốn lục soát người anh”.

“Chuyện này… Cậu nói gì vậy, tôi nghe không hiểu, cô nhóc họ Phương, cô thay tôi nói một lời trắng đen đi”. Thôi Mẫn giả vờ kinh ngạc.

Phương Đăng không nói lời nào, ngẩng đầu nhìn Phó Kính Thù, sau đó lại quay sang nhìn chằm chằm trên người Thôi Mẫn.

“Lão Thôi sẽ không bao giờ dặn anh đem chậu kim thụy hương kia mà dời vào trong nhà, đó là loại hoa chịu lạnh không chịu nóng, ông ấy cũng biết rõ tôi không chịu được mùi thơm nồng của nó”.

“Nếu cậu không thích, tôi đem nó dời trở lại được không?” Thôi Mẫn cáu kỉnh nói.

“Tôi nói để đồ lại, anh có thể đi. Còn nếu anh muốn chờ lão Thôi quay lại, tôi cũng sẽ cùng anh ở đây chờ?”

Thôi Mẫn đứng đờ người một lúc lâu, nụ cười trên mặt từ từ cứng ngắc, lạnh như băng. Anh ta từ từ móc túi quần lót ra một chiếc đồng hồ quả quýt, một chiếc bút máy vàng, hai con dấu, còn có vài đồng tiền xưa, không nói tiếng nào khom người đặt xuống ở thềm đá trước cửa.

Phó Kính Thù nhìn lướt qua mọi thứ, quay sang nói với Phương Đăng: ‘Anh ta thật thông minh, biết chọn những thứ ngày thường không dùng được, nhưng lại là vật đáng tiền”.

Phương Đăng bước lên nhặt đồ trở lại, lạnh lùng liếc Thôi Mẫn một cái. Đúng như Phó Thất nói, Thôi Mẫn thật sự rất biết làm bộ, anh ta biết ngày thường lão Thôi không bao giờ để anh ta vào nhà phía Đông, đề phòng có người quay lại, cố ý ôm chậu hoa hôm trước Phó Thất vừa cắt tỉa để ngụy trang.

“Anh vào đây thời gian không ngắn, nhà tôi đối với anh cũng không tệ”. – Phó Kính Thù thấp giọng nói.

Thôi Mẫn bị vạch trần, chẳng những không buồn, lại đổi sang bộ mặt bất cần đời, bước lên một bước. Phương Đăng đề phòng anh ta, kéo Phó Kính Thù lùi lại hai bước: “Anh muốn gì?”

Thôi Mẫn đưa tay vuốt ve chóp tay vịn cầu thang chạm khắc bằng đá. “Mấy thứ này chẳng đáng gì. Chỉ là do tôi ấm ức, cũng đều là người như nhau, cậu dựa vào cái gì có thể ăn trên ngồi trước, còn tôi giống như con chó trong sân phải nghe lời cậu sai bảo, nếu không phải là tổ tông tích đức để lại mấy của tốt này. Tôi chẳng qua là mượn mấy món đồ vặt đi cầm kiếm tiền chi tiêu, cậu cần gì phải nổi giận như vậy”.

“Dù anh có lấy nhiều thứ hơn nữa, cũng không đủ mười lần đánh bạc chính lần thua. Tôi sẽ không nói ra, anh hãy lựa lời mà từ giã lão Thôi, ông ấy đã lớn tuổi, tôi không muốn ông ấy buồn phiền”.

Đêm đó Thôi Mẫn liền từ biệt lão Thôi, rời bỏ Hoa viên Phó gia. Lão Thôi có hơi bất ngờ, nhưng không giữ anh ta lại. Ông là người đã thấy nhiều chuyện thay đổi ở đời, hoặc là trong lòng cũng đã thầm nhận ra được điều gì đó, Phó Kính Thù muốn giữ mặt mũi cho ông, ông cũng không muốn nói thêm, nhưng tinh thần sa sút không ít, nhìn qua cũng thấy già đi gấp mấy lần.

Vừa qua khỏi tiết Thanh Minh, nửa đêm nọ lão Thôi nhận được điện thoại từ Tây Á gọi về, ông chỉ nghe không hề lên tiếng, một lát sau, che điện thoại lại nhìn về phía lò sưởi nơi Phó Kính Thù đọc sách, ánh mắt đầy phức tạp, muốn nói gì rồi lại thôi.

Thật ra thì đầu óc Phó Kính Thù cũng không hoàn toàn để vào trong trang sách, quay qua hỏi một câu: “Có phải bên đó muốn tôi nghe điện thoại không?”

Lão Thôi gật đầu, đem ống nghe đưa cho anh, khập khiễng bước qua một bên.

Phó Kính Thù hít một hơi mạnh, áp ống nghe vào tai, rất nhanh, ánh mắt đầy mong đợi của anh biến mất, đứng thẳng như tưởng, hai bàn tay lạnh ngắt đẫm mồ hôi.

“Tôi biết rồi.” – Anh đáp lại đầu dây bên kia. Điện thoại được trả về chỗ cũ, anh quay đi, nhìn thấy lão Thôi đứng một bên đang len lén chùi nước mắt.

Phó Duy Nhẫn chết, hơn bốn mươi tuổi, ông chết vì bệnh suy tim.

Từ lúc lão Thôi trở lại sau khi lo tang sự cho người thân không bao lâu, đã có liên lạc với bên Mã Đại, do một tay nuôi lớn Phó Duy Nhẫn, ông đã biết thể trạng ông ta không tốt, mới không gửi thư và bưu phẩm cho con trai. Nhưng cả lão Thôi và Phó Kính Thù đều cho rằng ông chỉ bệnh qua loa, chỉ cần điều trị một thời gian là chuyển biến tốt, nào ngờ ông còn đang ở tuổi trung niên đã nhắm mắt trừ trần.

Đột nhiên nhận được tin dữ  này, trong lòng lão Thôi tuy chua xót không dứt, nhưng ông biết có một người so với ông càng không có cách nào tiếp nhận sự thật này. Phó Duy Nhẫn có thể nói là người thân duy nhất trên đời của Tiểu Thất, cũng là người duy nhất cậu có thể trông cậy. Nếu ông còn sống, tương lai của Tiểu Thất cũng còn một con đường, sau việc lần này, chỉ sợ từ nay có ở lại trong căn nhà cũ của Tam gia, đứa trẻ mồ côi này càng không có ai quan tâm thăm hỏi, tương lai của anh ngày càng trở nên mờ mịt hơn nữa.

Lão Thôi nén cơn nghẹn ngào muốn an ủi Tiểu Thất mấy câu, Phó Kính Thù lại khoát tay ra hiệu không cần, không để cho lão Thôi lên tiếng. Anh từ từ quay về nơi khi nãy đang ngồi, đi rất vững, khép lại nửa quyển sách đang đọc, đồ kẹp sách rơi ra, anh cúi đầu nhặt lên hai lần vẫn không cầm được tấm kẹp sách mỏng dính. Sau đó anh khép cửa phòng lại trong ánh mắt lo lắng của lão Thôi. Suốt đêm, lão Thôi không nghe được trong phòng phát ra bất kỳ tiếng động nào.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 05:59:34 | Xem tất


Chương 10 – Hẹn ước nát tim





Phương Đăng rất lâu rồi không leo tường để vào Phó gia Hoa viên, đang mùa đông, tay chân cũng không lanh lẹ như bình thường, ngày hôm trước trời vừa mưa xuống, rêu xanh bám đầy tường lại trơn ướt, cô suýt chút nữa thì té chổng vó lên trời.

Lúc nãy khi cô đi gọi cửa, lão Thôi miệng nói Tiểu Thất không có ở đây, ánh mắt lại hướng về phía sau vườn. Cô cũng không phải là con ngốc, lẽ nào không hiểu ý của lão Thôi.

Phó Kính Thù quả nhiên ở đó, trên giá vẽ đặt gần miệng giếng khô treo một mảnh vải trắng, người dựa nhẹ vào bụi cỏ bên trên con hồ ly đá, một tay đang nhẹ nhàng ngắt cọng cỏ đuôi chồn.

“Nếu như cha anh là người chẳng ra gì như cha tôi, nói không chừng anh cũng không khổ sở như vậy”. Phương Đăng ngồi trên tường rào, phủi tay vào đùi nói.

Anh nghiêng đầu nhìn qua hướng phát ra giọng nói, vẻ mặt không thay đổi: “Lời an ủi chẳng ra sao cả!”

“Tôi không biết làm chuyện này đâu.” Phương Đăng thừa nhận câu trách móc của anh.

“Lão Thôi nói với cô sao?”

Phương Đăng ừ đại một tiếng, cố tình đánh trống lãng. Cô không muốn nói thật ra mình nhận tin dữ từ cái miệng xấu xa của Phó Chí Thời.

“Tôi sợ anh trốn ở đây khóc, nhưng tốt rồi, anh không có”.

Phó Kính Thù ngắt cọng cỏ đuôi chồn ném về hướng Phương Đăng, nhưng cọng cỏ lại bị gió thổi trở về dưới chân anh: “Xuống đây đi, con gái gì leo lên leo xuống như khỉ chẳng ra làm sao cả.”

Phương Đăng nhảy ùm xuống đất, đến gần Phó Kính Thù ngồi xuống, dựa vào con hồ ly đá đâu lưng với anh.

“Thật ra nếu anh khóc cũng không sao, tôi sẽ coi như không nhìn thấy”. – Cô nhắm mắt lại, cảm giác được gió đang thổi qua hai má.

Phó Kính Thù im lặng một lúc rồi nói: “Cô có tin không, tôi không khóc nổi, từ khi nhận được tin tức đó, trong đầu tôi trống rỗng, quả thật là vẫn chưa tỉnh hồn, nhưng tôi không biết cảm giác này có phải là đau khổ hay không, cô nói đi, tôi có phải là kẻ bất hiếu?”

Phương Đăng nói: “Lúc cô cô Chu Nhan chết, tôi cũng không rơi nước mắt, tôi nghĩ vừa khóc vừa hét ầm chạy đến níu kéo cô cô như cha tôi, cô cô sẽ khó lòng an nghỉ. Chỉ là tôi cảm thấy chỗ này như có ai đó đâm vào”. Cô lấy tay chỉ vào chỗ tim mình. “Có thể đó chính là cảm giác đau khổ”.

“Không phải vì tôi đã sớm quen với chuyện làm một đứa trẻ mồ côi sao?” Phó Kính Thù lại tự nói đùa. “Mỗi năm tôi đều ở đây chờ thư của ông ấy, luôn nghĩ lúc nào ông ấy có thể gọi điện thoại về. Thật ra dù có gửi thư quanh đi quẩn lại cũng chỉ là mấy câu, để cho tôi nhớ mình là người họ Phó. Đồ trong bưu phẩm có hơn một nửa tôi cũng chẳng dùng đến. Tôi tự nói với mình, tôi còn có cha, một ngày nào đó tôi sẽ gặp lại ông, được ông thừa nhận, thật sự trở thành người của Phó gia. Nhưng trên thực tế tôi hiểu rất rõ cái gọi là Phó gia chẳng qua cũng chỉ là mấy bức họa trên bàn thờ, về phần cha tôi, ngay cả hình dáng ông thế nào tôi cũng đã từ lâu không nhớ”.

“Nhưng ông ấy chết rồi, thân nhân của anh ở nước ngoài có còn quan tâm anh nữa không?” Phương Đăng thay anh lo lắng.

Phó Kính Thù lắc đầu nói: “Tôi không biết. Phương Đăng, cô cũng cảm thấy tôi lúc nào cũng mong chờ những kẻ không quen thừa nhận, giống như đứa ngốc nằm mơ giữa ban ngày phải không?

“Có mơ cũng không phải là không tốt, đến giờ tôi cũng chưa bao giờ dám mơ đến tương lai sau này của mình nữa”.

“Khái niệm “người của Phó gia” thật ra là do tôi chịu ảnh hưởng từ cha, ông là một người vừa nhạy cảm vừa kiêu hãnh, ngay từ khi còn nhỏ tôi đã biết, ông chưa bao giờ thôi khát khao sẽ thoát khỏi thân phận con riêng, nhận tổ quy tông. Sau khi ông làm được điều đó thì ông nội tôi không còn nữa, bà chủ Trịnh dù sao cũng là phụ nữ, một người khôn khéo mạnh mẽ như vậy làm sao chấp nhận chuyện ông nội tôi cùng với người hầu sinh ra đứa con trai? Cha tôi ở Mã Đại cũng không phải vui vẻ gì, trong thư ông gửi về tôi cảm nhận được, dù không cần lo cơm ăn áo mặc, bà chủ Trịnh đối đãi với ông khách khí, nhưng dù sao với họ ông cũng chỉ là người ngoài”.

“Nói tới thì đều trách ông nội anh, ở phương diện kinh doanh không ai qua mặt ông ấy được, nhưng nếu đã sợ vợ như vậy, ông ấy cũng không nên cùng với người hầu làm chuyện lén lút, liên lụy con cháu hai đời sau phải chịu tội”.

“Mỗi con người đều có nỗi khổ khác nhau. Lão Thôi nói, mẹ của ông và Tiểu Xuân cô nương là bà vú của ông nội tôi, Tiểu Xuân lớn hơn ông nội tôi năm tuổi, nói bà một tay ẵm bồng ông lớn lên cũng không phải là quá đáng. Không biết lão Thôi nói thật hay không, mười hai tuổi ông nội tôi đi học ở ngoài về, nếu không phải Tiểu Xuân cô nương đút cơm thì nhất quyết không ăn”.

Phương Đăng có chút bất bình, không dằn được nên móc khóe: “Đúng là công tử nhà giàu đầy tật xấu”.

“Lúc đó đối với gia đình giàu sang, cha mẹ và con cái đều có khoảng cách nhất định, không giống như những gia đình thường dân, ở chung nhà, quan hệ mật thiết. Tôi nghĩ trong lòng ông nội tôi, Tiểu Xuân cô nương vừa là mẹ, vừa là chị, vừa là bạn.. Và còn là người yêu thanh mai trúc mã”.

“Tôi xem qua bức tranh, Tiểu Xuân cô nương cũng có thể gọi là người đẹp. Dáng dấp của anh có phần giống như bà”

Phó Kính Thù ho nhẹ vài tiếng, anh đối với những lời khen tặng nghiêm túc của Phương Đăng vẫn không thể nào thích ứng nổi.

“Đáng tiếc mỹ nhân thì thường bạc phận”. Phương Đăng kết luận, sau đó cô liền quay lại hỏi người ngồi sau lưng mình: “Phải rồi, Tiểu Xuân cô nương vì sao mà chết? Anh đã gặp bà chưa?

“Tôi làm sao gặp bà, lúc cha tôi còn rất nhỏ bà đã qua đời. Bà nhảy xuống giếng tự vẫn”. Phó Kính Thù vừa nói vừa hướng Phương Đăng theo chỉ tay anh về bên trái.

Cách Phương Đăng chừng năm sáu thước trước mặt cô là miệng giếng khô.

“Mẹ ơi, sao anh không nói sớm”. Phương Đăng rút chân co rụt vào, nhất thời cảm thấy gió tứ phía thổi về đều mang theo hơi lạnh đầy ma quái, một con quạ đen từ miệng giếng bay lên. Miệng giếng khô đó cô không chỉ một lần thò đầu xuống xem qua, đường kính chưa đầy nửa thước mà sâu không thấy đáy, một người hẳn muốn chết đến mức nào mới có thể nhảy vào trong miệng giếng nhỏ hẹp không có đường lui này để tự vẫn.

Phó Kính Thù chậm rãi “Cô cũng biết sợ sao?”

“Tôi sợ gì chứ. Cũng đâu phải là tôi hại chết bà”. – Phương Đăng cố trấn tĩnh, cơ thể lại rụt vào trong một tí, con hồ ly đá đặt ở phía sau lưng cô vững chắc, dường như tạo niềm tin có thể chống đỡ cho cô.

“Con hồ ly đá cô đang dựa vào là do bà ấy để lại, vốn là một đôi, còn một con lúc đó bà đã cột vào người để cùng mình nhảy xuống…”

“Phó Thất anh đủ rồi nha, muốn hù chết tôi sao?” – Phương Đăng quay đầu lại đánh Phó Kính Thù một cái, cô vẫn chưa quên bức họa đó, Tiểu Xuân cô nương cũng dựa vào con hồ ly đá giống hệt thế này. Bản thân bị lạc vào nơi kỳ lạ, ghê rợn còn hơn chuyện ma quỷ ngày xưa làm cho cả người cô phát rét.

Thật ra Phương Đăng có hơi giận, nhưng cô thấy Phó Kính Thù nhoẻn miệng cười trêu chọc sự tức giận của cô dù chỉ thoáng qua. Ít nhất anh còn tâm trạng mà trêu cợt cô, lần này coi như cũng không uổng phí.

“Không biết có phải anh đang gạt tôi không nữa?” Cô nghi ngờ hỏi.

“Tôi cần lấy chuyện này ra gạt cô sao? Lão Thôi nói, sau đó ông cho người tìm rất lâu, rất lâu mới có thể mò chị mình lên. Tôi không hề nói sai một chữ. Mỗi tiết thanh minh, lão Thôi cũng sẽ ở bên giếng vì Tiểu Xuân cô nương mà đốt giấy tiền. Năm ngoái do ông không khỏe, chính tôi là người đốt tiền vàng bạc, tro bụi đều bay xuống miệng giếng”.

Nếu Phó Kính Thù muốn người ta tin tưởng, người khác thường rất khó hoài nghi sức thuyết phục từ anh, chẳng qua có một vấn đề Phương Đăng nghĩ mãi cũng không ra. “Theo anh nói, Tiểu Xuân cô nương lúc nhảy giếng tự vẫn là khi cha anh đã vài tuổi, lúc đó hình như ông nội anh Phó Truyền Thanh đã đi nước ngoài khá lâu rồi, là điều gì khiến bà lại chọn con đường tự sát?”

“Nghe nói là không có bất kỳ dấu hiệu nào, bên Mã Đại cũng có người đem thư về, như ngày thường cũng chẳng có gì khác biệt”.

“Anh gạt tôi sao, một người đang sống sờ sờ làm gì đương không lại nhảy giếng tự sát. Người bà yêu cũng đã đi hết mấy năm, nỗi khổ biệt ly cũng đã nếm trải rồi, còn điều gì khiến bà phải bỏ lại con thơ, không cho mình đường sống mà đi tìm cái chết?”

Phó Kính Thù thả lỏng người, đặt hai tay lên đầu, dựa vào lưng con hồ ly đá. “Chuyện này cũng không ai biết. Có thể thời gian qua lâu như vậy, bà mới hiểu người mình chờ đợi sẽ không trở lại nữa, có khi vì cuộc sống quá dài…”

“Cuộc sống quá dài..” Phương Đăng nhìn về phía miệng giếng, không khỏi cảm thấy điều này giải thích chính xác nguyên nhân làm cho bà tuyệt vọng mà tung người nhảy xuống. Vết thương đau nhất không phải là lúc bị cắt, vì nó tới quá nhanh, chưa kịp phản ứng thì máu đã chảy đầy trên đất; phản ứng đầu tiên của người ta là băng bó lại. Thật ra điểm chết người ngược lại là thời gian sau lúc tháo băng ra, phát hiện vết thương đó căn bản không thể liền miệng, nó ở đó, bốc mùi, thối rửa, chỉ có mình tự biết.

“Hồ ly đá là do Tiểu Xuân cô nương khắc thành sao?”

“Không ngờ một người hầu lại có tài đến vậy phải không?” Phó Kính Thù nói, “Cha của Tiểu Xuân cô nương và lão Thôi là thợ điêu khắc. Về lĩnh vực này bà rất có năng khiếu, lúc đó ông nội tôi còn mời cả người Tây Dương đến dạy bà. Có một năm đại thọ của bà cố tôi, Tiểu Xuân cô nương tự mình khắc một tượng Quan Âm dâng lên, ai nhìn thấy đều nói y như Quan Âm sống lại”.

“Tay của bà nhất định rất khéo léo, giờ chỉ còn lại cái này thôi sao?” – Phương Đăng xếp chân xoay người lại, tay nhẹ nhàng vuốt ve con hồ ly đá đã trải gió phơi sương bóng loáng, đầu ngón tay lại vô tình quẹt vào mái tóc của Phó Kính Thù. Mái tóc anh mềm mại và ngoan ngoãn, không giống như mái tóc rối tung đen dầy của cô, nếu không cột lên là lúc nào cũng bù xù chẳng khác nào một bà điên. Ngón tay Phương Đăng dừng lại một chút, sau đó lại vuốt nhẹ nhàng hơn, hơi thở trở nên nhẹ nhàng mà gấp gáp.

Phó Kính Thù dường như không hay biết: “Vừa rồi tôi nói bà cột con hồ ly đá vào người rồi nhảy xuống là muốn dọa cô. Bà chỉ nhảy xuống một mình, con hồ ly này cũng chỉ có một, sau khi Tiểu Xuân cô nương khắc xong thì Tam phòng dời đến vườn của Phó gia”.

“Sao lại cũng để con hồ ly ở đây, nhìn qua đúng là y như dọa người”.

“Bà có cách giải thích của mình, cô muốn nghe không?”

Phương Đăng nói lầm bầm: “Ai biết anh có sửa lại chuyện cũ để gạt tôi nữa không chứ?”

“Cô cứ coi như nghe chuyện xưa đi”, giọng nói của Phó Kính Thù nhẹ nhàng rót bên tai cô: “Ngày xưa có một con chồn hoang lạc vào khu vườn không ai ở, nhìn thấy trong vườn có con hồ ly đá, điêu khắc vô cùng sống động. Con chồn hoang cảm thấy cuộc sống quá cô đơn, liền nghĩ con hồ ly giống như đồng loại duy nhất trên đời của mình, cả ngày cùng hồ ly đá làm bạn, qua rất nhiều năm. Hồ ly đá không cử động cũng không nói chuyện, cả người lạnh như băng, mùa đông xuống chồn hoang quỳ bên người nó tự nhiên nảy sinh ra ý muốn nếu con hồ ly đá có thể biến thành thật thì tốt biết bao. Vì vậy nó mới cầu xin Phật”.

“Phật có thể cảm nhận lời cầu nguyện sao?” Phương Đăng rất hoài nghi -  “Huống gì nó chỉ là một con chồn”.

Phó Kính Thù không để ý đến cô, tiếp tục kể: “Phật hỏi chồn hoang, thế gian này cái gì là quý nhất. Chồn hoang nói, thứ không có được và thứ đã mất đi. Phật cho là chồn hoang có linh tính, cảm nhận thành tâm của nó, cho nó một cơ hội. Nếu muốn để hồ ly đá biến thành hồ ly thật, trừ phi nó đem tim của mình móc ra cho con hồ ly đá”.

“Phật Tổ đúng là có chủ ý!”

“Chồn hoang vì quá muốn để cho con hồ ly đá sống lại, có máu có thịt làm bạn với mình. Nên nó nén đau mà móc tim mình ra, theo lời Phật tổ nhét vào lồng ngực con hồ ly đá. Hồ ly đá sống lại thật, có sinh mạng và suy nghĩ, chồn hoang hết sức vui mừng, công sức của nó bỏ ra cũng đáng. Bọn chúng cùng nhau trải qua khoảng thời gian vô cùng vui vẻ”.

“Cũng như Tiểu Xuân cô nương và ông nội anh, họ cũng đã từng rất vui vẻ”.

“Không biết từ lúc nào, khi sống lại thì hồ ly đá dần dần không cam lòng với cảnh sống lặng lẽ, nó chán ghét cảnh kẹt ở góc vườn hoang, trời cao đất rộng bên ngoài quyến rũ nó, nó thậm chí còn muốn được làm người, đi nếm thử phong quang cuộc sống”.

“Tôi nghe nói hồ ly thành tinh sẽ có thể biến hình người”.

“Con hồ ly đá này thông minh đĩnh ngộ, lại có thiên tính, đương nhiên tu thành chánh quả, chẳng những có dáng vẻ con người, sau này còn có thể trở thành tiên. Cứ như vậy, nó rời bỏ khu vườn hoang cũ”.

“Không đem theo chồn hoang sao? – Phương Đăng có hơi thất vọng.

“Hồ ly đá không bỏ được bạn mình, nhưng chồn hoang chỉ là chồn hoang, nó vĩnh viễn không thoát được hình dạng cũ, làm sao để đem nó theo đây? Huống hồ chi, hồ ly đá bây giờ đã là người, nó không muốn nhớ về quá khứ phải chịu mưa hứng gió, nếu đem chồn hoang theo không khác nào sẽ khiến nó nhớ lại dáng vẻ trước kia”.

“Chồn hoang quá tội nghiệp, móc trái tim mình ra, cuối cùng không giữ lại được cái gì”. – Phương Đăng bắt đầu cảm thấy, câu chuyện xưa này là nói về Tiểu Xuân cô nương cùng Phó Truyền Thanh và cũng có khi là Phó Duy Nhẫn cùng Chu Nhan cô cô sau đó, nói không chừng trên đời này trong mỗi đôi nam nữ si tình, đều có một người là con hồ ly đá thay đổi, còn người kia chính là chồn hoang ngu dại đáng thương.

“Biết làm sao chứ, đều là do sự lựa chọn của nó từ đầu. Sau khi hồ ly đá đi, chồn hoang cả ngày lang thang trong vườn, vì nó không có tim nên không già đi, cũng chẳng chết, trọn đời không thoát khỏi lớp da chồn, tuổi thọ với nó mà nói là khoảng thời gian đợi chờ vô cùng cô độc”

“Sao nó lại không đi?”

“Nó sợ một ngày nào đó hồ ly đá sẽ quay về. Hơn nữa cũng vì khi đổi tim với hồ ly đá, nó đã hứa trước mặt Phật tổ sẽ thay hồ ly đá tu luyện thành người kia trải qua ngàn năm chịu phạt”.

“Được rồi, tôi cũng có thể hiểu tại sao Tiểu Xuân cô nương lại không thể sống tiếp. Họ đều quá ngốc, Phật Tổ cũng rất kỳ lạ, sao nhất định phải tàn nhẫn như vậy, sao không thể cho chồn hoang sự lựa chọn khác?”

“Chuyện xưa chỉ là chuyện xưa, chồn hoang trường sinh bất tử, con người bây giờ có khả năng này hay sao? Cho dù có, có bao nhiêu người có thể chờ đến ngày đó?” Phó Kính Thù lấy tay chỉ vào miệng giếng.

Phương Đăng vẫn còn buồn bã với câu chuyện xưa, không có cách nào tiếp nhận giải thích này, lòng cảm thấy rất buồn phiền.

“Tiểu Xuân cô nương nhất định không nên chết, câu chuyện xưa này không nên cứ như vậy mà kết thúc!”

“Ngốc quá!” Phó Kính Thù nhìn vẻ nghiêm túc của cô, mỉm cười, nhắm mắt lại không nói gì nữa.

“Tôi không thích câu chuyện xưa về hồ ly đá này.” Phương Đăng buồn buồn cầm bàn chân đằng sau đuôi của con hồ ly đá kéo xuống, mấy lần muốn mở miệng nói gì đó rồi lại thôi. Qua một lúc lâu, hơi thở của Phó Kính Thù đều đều, cô nghĩ anh đã ngủ thiếp đi, chợt cô hạ giọng: “Tiểu Thất, anh có thể đừng đi không?”

Không có ai trả lời cô, chỉ có tiếng gió. Phương Đăng ngửi được trong hơi gió mùi của cỏ đuôi chồn, chầm chậm nhắm hai mắt lại. Đối với một nơi nhiều mưa như Qua Âm Châu mà nói, khó lòng có được lúc thời tiết đẹp thế này.

“Tôi đi rồi… cô sẽ buồn sao?” giọng nói của anh tựa hồ phảng phất theo hơi gió.

“Anh nói thử xem… Có ai mất đi đồng loại duy nhất lại không thấy đau buồn, dù cho đó là người hay hồ ly đi nữa”.

“Tôi còn có thể đi đâu?” – Lời nói của Phó Kính Thù không vui cũng chẳng buồn – “Cha tôi không có ở đây, cả đời tôi có thể sẽ ở lại chỗ này. Ở lại đây thì có gì không tốt? Trước kia tôi mỗi ngày đều cố gắng để bản thân tốt hơn, để người khác thừa nhận tôi không phải là nghiệt chủng, tốt để có thể cùng cha tôi nhận tổ quy tông, cho đến giờ không nghĩ đến cuộc sống còn con đường nào khác. Lần trước khi tôi bệnh trong lúc mơ màng còn tính đến cả cái chết, sau đó tỉnh lại mới phát hiện nên chịu đựng cho qua, không phải tôi muốn sống để danh chánh ngôn thuận làm người của Phó gia, mà bởi vì còn có người quan tâm tôi, muốn tôi sống”.

“Người nào?” Phương Đăng giả ngốc. Ngoài miệng hỏi vậy, mặt lại hơi ửng đỏ.

Phó Kính Thù không trả lời, chỉ nói: “Lúc đó tôi bắt đầu cảm thấy, họ có nhận tôi hay không thì sao chứ? Nhiều năm như vậy không phải đã đủ rồi sao? Không có Phó gia danh giá giàu sang, tôi vẫn là Phó Kính Thù, điều này không ai thay đổi được”.

“Nhưng những người ở nước ngoài kia dù sao cũng là người thân của anh, anh không nhớ họ sao?”

“Người thân?” Phó Kính Thù giống như đang nghe một câu chuyện cười: “Tôi không có người thân, Phương Đăng, trừ cô ra.”

Gió thổi qua cây bạch ngọc lan, thổi qua tán lá cây si, tiếng kêu sột oạt, chỗ hai người ngồi không nhìn được thấy mắt nhau, bầu trời thẳng tắp, như đang nhìn thẳng vào hai người trần gian nhỏ bé. Phật Tổ ơi, Phương Đăng gọi thầm trong lòng, rốt cuộc tâm nguyện của con cũng đã được thành toàn, Người đã nghe được lời cầu khẩn của con. Phó Thất sẽ cả đời ở bên cô, họ là người thân, sống nương tựa lẫn nhau, máu huyết tương thông… Đây không phải là điều cô mong ước sao? Ít nhất, đó là điều cô không thể nào thay đổi. Phương Đăng dù có chút vui mừng nhưng vẫn buồn rầu, cô muốn cười một cái, quay lưng về phía anh, nhưng hết lần này đến lần khác trong khóe môi đều nếm được một mùi vị đầy chua xót.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 18:00:38 | Xem tất


Chương 11: Xuyên qua tấm gương trong





Lục Ninh Hải lên đảo mới nhớ hôm nay là đêm giáng sinh của người Tây phương. Lúc vợ ông còn sống, mỗi khi đến thời gian này nhất định là vô cùng bận rộn với con trai ở nhà, ông vừa về đến là nhìn thấy khắp phòng treo đèn hoa đủ màu, dùng cây quế thay cho cây giáng sinh. Chẳng qua bây giờ vợ ông đã mất năm năm, con trai cũng ở nội trú không sống cùng ông, nhớ tới chỉ thấy đau lòng.

Gia đình vợ ông là hoa kiều Tây Á, cha vợ lúc còn trẻ đã từng làm chủ một nhà máy gia công lớn ở Penang, cổ đông lớn nhất của nhà máy là một gia đình người Hoa có danh tiếng ở địa phương. Nhờ vào quan hệ này, mười bốn năm trước do sự tiến cử của cha vợ, Lục Ninh Hải vốn là người phụ trách pháp luật tuổi trẻ tài cao trở thành đại diện pháp lý của gia đình này ở trong nước, hết thảy các công việc hành chính luật pháp đều thay mặt họ phụ trách xử lý, đương nhiên, bao gồm tất cả những việc mà thân chủ không đích thân làm được.

Hơn trăm năm trước, vì phong trào ở Nam Dương khiến cho dân bản địa có không ít người giàu có phải ở lại nước ngoài, trong số đó có những người từ Qua Âm Châu ra đi, trong quá trình làm việc ông đã đặc biệt chú ý gia đình này. Ngày nay hậu nhân của Phó Học Trình ở Mã Đại tuy đã không còn cường thịnh kêu mây gọi gió như lúc trước, nhưng trải qua bốn đời gia nghiệp vẫn không tàn lụi là rất đáng nể rồi. Phó gia năm đó di cư kịp lúc, lại liên tục làm ăn ở Nam Dương, có quan hệ thông gia với gia đình danh giá của địa phương, có thể nói tạo được căn cơ thâm hậu ở Tây Á, huống chi trong gia tộc hiện giờ cũng còn có người chủ kiến, không đến nỗi ly tan, nên việc bảo tồn gia nghiệp sự sản cũng kéo dài. Gia đình như vậy, trừ khi gặp phải biến cố trọng đại hay phá gia chi tử, nếu không bình thường trong thời gian ngắn sẽ khó lòng sụp đổ.

Một nửa số thành viên trong gia đình họ Phó chủ yếu sống ở nước ngoài, sản nghiệp trong nước cũng không nhiều, nên ủy thác cho Lục Ninh Hải xử lý, bình thường ngoài những việc như nhận gia sản do chính phủ từ từ trả lại, đôi khi cũng để ông thay mặt để thu xếp công việc ở bản địa với hậu nhân. Qua Âm Châu những năm gần đây có chút thành công khi đi theo đường lối mở rộng thắng cảnh du lịch, khoảng cách vào thành phố cũng chỉ qua một vịnh nhỏ, nên mỗi lần Lục Ninh Hải lên đảo đều trở về vội vàng. Kể từ khi ông và bạn bè hùn hạp mở văn phòng Luật sư đến nay, công việc liên miên, cũng thích thưởng ngoạn phong cảnh, mà những căn nhà cũ, biệt thự xưa trên đảo được người ta gọi là danh lam thắng cảnh đó, ông thấy chẳng qua chỉ là sự nhầm lẫn của quyền sở hữu và các thủ tục rắc rối lung tung. Vậy mà hôm nay không biết là vì nhớ người vợ đã qua đời, hay bởi vì mùa đông khiến Qua Âm Châu lộ rõ sự cũ kỹ mà trầm tĩnh, mưa gió trăm năm làm xói mòn các ngôi nhà cổ nép mình trong bóng cây xanh biếc, tiếng chuông leng keng tình cờ vọng ra từ những chiếc xe đạp trong ngõ hẻm, âm thanh văng vẳng của thánh ca từ giáo đường xa xa vọng tới, người nước ngoài đi bộ trên đường, mang hơi hướm của một bức bích họa cổ xưa. Ông không kềm chế được nên để bước chân chậm lại.

Hôm nay Lục Ninh Hải vì việc hành chính mà đến Phó gia Hoa viên, chủ nhân trẻ tuổi có thân phận khó nói cùng với lão làm vườn trung thành đã chờ ông từ lâu. Ông còn nhớ mùa đông của mười hai năm, ông cũng mang theo sứ mạng giống như bây giờ đến gặp người sống trên nhà tổ của Phó gia, lúc ấy đón tiếp ông cũng là hai người, chỉ khác là bây giờ lưng của lão làm vườn đã còng xuống hơn một chút, mà khuôn mặt người đứng cạnh lão ta cũng đã đổi khác rồi.

Mười hai năm trước, Phó Duy Nhẫn với gương mặt tái nhợt, ánh mắt đầy vẻ bất an và nóng lòng chờ đợi. Lục Ninh Hải mang di chúc của cha ông đến, chỉ vài lời khó có thể diễn tả được sự phức tạp trên gương mặt mãn nguyện đó, Lục Ninh Hải làm xong thủ tục cho ông rất nhanh, còn đích thân đưa ông đi. Sau đó ông ta cũng không có liên lạc với Lục Ninh Hải, vậy mà trí nhớ của Lục Ninh Hải về ông ta vẫn rất sống động. Không ngờ những ngày tháng đó thoáng chốc đã trôi qua, lần này lên đảo, Lục Ninh Hải lại đem tin Phó Duy Nhẫn qua đời cho con trai ông ấy, số kiếp tuần hoàn của con người lại giống nhau một cách đáng sợ đến vậy khiến cho một luật sư lâu năm cũng không khỏi cảm thán thế sự vô thường.

Dựa theo trình tự pháp luật, Lục Ninh Hải cẩn thận đưa cho đời thứ tư của Phó gia giấy chứng tử của Phó Duy Nhẫn, đồng thời báo rằng tro cốt đã an táng tại nghĩa trang ở địa phương. Ông còn đem về một vài món đồ thuộc sở hữu của Phó Duy Nhẫn lúc sinh thời, chẳng qua chỉ là một số vật phẩm tùy thân không có gì quan trọng. Vì đột ngột ra đi, Phó Duy Nhẫn cũng không để lại di chúc, Phó gia Tam phòng lại chưa chia của nên có thể nói tài sản cá nhân của ông tương đối hạn chế, trừ một số ít tiền mặt và tiền gửi ngân hàng, còn một số tiền ký gửi làm ăn của ông lúc còn sống, hôm nay theo an bài của bà chủ Trịnh, giao người chuyển lại cho con trai ông ta. Nói cách khác, đến trước khi con trai ông hai mươi tuổi, mỗi tháng có thể từ quỹ làm ăn đó lấy ra một số tiền lời, dù không đủ để tiêu xài hoang phí, nhưng đủ sống dư dả qua ngày, sau hai mươi tuổi anh sẽ có quyền quản lý toàn bộ số quỹ kinh doanh đó. Sau này Phó gia cũng không gánh chịu phí sinh hoạt cho anh nữa, ngay cả sản nghiệp ở Tây Á anh cũng không có quyền thừa kế.

Trong quá trình tiếp xúc, con trai trẻ tuổi của Phó Duy Nhẫn đều thể hiện sự kềm chế tương đối. Anh đọc kỹ càng từng văn bản pháp lý, gặp thuật ngữ nào không biết rõ sẽ lịch sự hướng về phía Lục Ninh Hải mà đặt câu hỏi, không nói lời phản đối với bất kỳ điều khoản nào viết trong đó, cũng chẳng tỏ ra buồn rầu về phương diện phân chia tài sản, sau đó bình tĩnh ký tên mình vào giấy tờ. Làm những chuyện này cùng lúc, thậm chí anh còn để ý mời Lục Ninh Hải uống trà trong thời gian chờ đợi ngắn ngủi. Khách vừa đến, lão làm vườn liền đi pha trà nóng, nhưng do thời tiết lạnh, nước cũng nguội nhanh hơn, dạ dày Lục Ninh Hải không tốt, nước trà lạnh như băng này khiến ông không thể nuốt, cơ bản chỉ theo phép lịch sự đưa lên môi hớp một ngụm chiếu lệ.

Người thanh niên liền tự tay pha cho Lục Ninh Hải ly trà nóng, khi Lục Ninh Hải vén nắp lên, thấy màu sắc trà vàng đậm, hơi nóng của mùi hương trà Trân Mi thượng hạng tỏa vào mặt, điều này khiến cho ông vừa mừng vừa ngại. Loại trà này là đặc sản của quê ông, chỉ là người ta thường chuộng Thiết Quan Âm hay Bạch Hào trà hơn, không biết tại sao cậu thanh niên tuổi còn trẻ trước mắt lại biết ông thích loại trà này. Mặc dù thay Phó gia làm việc nhiều năm, nhưng thân chủ nói trắng ra chỉ có một người là bà chủ Trịnh, với đứa trẻ mồ côi lại ở lại trong nước này rất ít khi liên hệ, chẳng lẽ đối phương là từ cách nói năng của ông toát ra hương âm mà đoán được manh mối? Nếu thật là vậy, không thể không gọi là người có óc quan sát, trí tuệ sáng như gương.

Việc chính làm xong, trà lại mới uống một nửa. Lục Ninh Hải không giống thường ngày vội vã từ giã, ngược lại còn ngồi xuống thưởng trà, cùng người thanh niên hàn huyên một dịp. Con trai của Phó Duy Nhẫn dáng dấp cũng không quá giống cha, hoặc có khi lại giống mẹ nhiều hơn. Lục Ninh Hải biết Phó gia, tự nhiên cũng đã nghe qua lời đồn đãi về mẹ anh, nên cẩn thận không lên tiếng.

Tuy tiếp xúc trong thời gian ngắn, Lục Ninh Hải cảm thấy cậu bé này mặc dù tướng mạo và tính cách đều không giống Phó Duy Nhẫn, ngược lại trong lòng ông thấy dáng vẻ cậu ta đích thị giống như người của Phó gia: suy nghĩ nhạy bén không nóng nảy, nói năng cẩn trọng không kiêu ngạo, thái độ dè dặt nhưng lời nói thì lưu loát. Người thông minh có thể thấy cậu ta từ nhỏ bị bỏ lại trong ngôi nhà này, lớn lên đơn độc, khó tránh có không ít ấm ức, Lục Ninh Hải coi như người truyền tin với phía Mã Đại, nhưng cậu tuyệt đối không nói một lời than khổ, ngược lại còn cùng Lục Ninh Hải trò chuyện vui vẻ về hội họa và thư pháp, vừa hợp ý nhau, vừa có chừng có mực, cách tiếp đãi khiến cho người khác cảm thấy vô cùng thỏa đáng nhưng lại không có chút cảm giác nịnh hót nào. Hai người trò chuyện với nhau rất vui vẻ. Trước khi Lục Ninh Hải cáo từ, vì trước đó có mạn đàm về nơi sản xuất bút mực nổi tiếng trong nước, người thanh niên còn bảo lão Thôi lên phòng cầm xuống một nghiên mực cổ, cười nói mình không am hiểu thư pháp, vật này tuy không tốt lắm, nhưng cuối cùng cũng đã tìm ra chủ nhân thích hợp.

Lục Ninh Hải biết lúc Phó gia tam phòng dời đi nước ngoài, mọi vật dụng đáng giá đều đã mang đi, căn nhà cũ này sau đó lại gặp không biết bao nhiêu lần lục soát, chẳng thể so bì với bên Mã Đại, những thứ đồ xài được còn lại cũng không nhiều. Đối phương lại rất có lòng, vật đưa ra nhất định nói là “không được tốt lắm” nhưng thái độ rất thành khẩn, nếu ông cự tuyệt thì hóa ra kiểu cách, trong lòng lại thấy rất thích, từ chối thì bất kính, nên vui vẻ mà cầm. Sau khi nói lời từ biệt, Lục Ninh Hải nhìn lại khu nhà tổ Phó gia vắng lạnh không ra hình dáng, cúi đầu lật xem xấp văn thư vừa mới ký, ở phần chữ ký ghi là  hó Kính Thù.

Xem thái độ của bà chủ Trịnh bên kia, đoán chừng không tính tham dự vào cuộc sống của cậu thanh niên này quá nhiều. Lục Ninh Hải cũng không biết sau này mình còn có dịp giao thiệp với đời thứ tư của Phó gia – Phó Kính Thù này nữa không, là người ngoài, ông chỉ cảm thấy có một điều đáng phải suy nghĩ – tuy Phó Kính Thù là hậu nhân của con riêng Phó Truyền Thanh, cùng với bà chủ Trịnh không có liên hệ máu mủ gì, nhưng theo như ông tiếp xúc với tất cả những người của Phó gia, Phó Kính Thù và bà chủ Trịnh ở một phương diện nào đó rất giống nhau.

Rời khỏi Phó gia Hoa viên, công việc của Lục Ninh Hải vẫn chưa kết thúc. Nhiều năm qua Phó gia vẫn là một trong những người quyên góp tư nhân không thuộc chính phủ lớn nhất Cô nhi viện Thánh Ân trên đảo, làm người đại diện Phó gia, đem một khoản tài trợ nhỏ của Phó gia đến cô nhi viện cũng là một trong những mục đích trong chuyến đi này của Lục Ninh Hải.

Cách đón tiếp của cô nhi viện Thánh Ân so với Hoa viên Phó gia nồng nhiệt hơn rất nhiều, viện trưởng cùng người quản lý đã nhận được thông báo trước, từ sớm đã cho bọn trẻ xếp hàng chỉnh tề hoan nghênh người quyên góp đến. Viện trưởng dẫn đường Lục Ninh Hải, đi qua tiếng vỗ tay hoan hô của các cô nhi, sự khó chịu trong lòng lúc đầu dễ dàng bị cảm giác vinh dự thay thế. Mặc dù ông chỉ là người đại diện, cũng không phải là chân chính quyên góp, hưởng thụ sự đãi ngộ này có vẻ như “Cáo mượn oai hùm”, nhưng nhìn cơ thể gầy gò nhỏ bé cùng với gương mặt đỏ lên vì lạnh giá của từng đứa trẻ, liền có một niềm an ủi khó lòng miêu tả, thánh ca khởi xướng, dường như ông được tôn vinh chẳng khác Thượng Đế. Ông nghĩ đây có thể là nguyên nhân để những người có tiền nhiệt tình với công việc từ thiện, ít nhất cũng là một trong các nguyên nhân. Rất nhiều người nói kim tiền không mua được hạnh phúc, ông nghĩ ngoài nó ra không biết còn thứ gì có thể mua được.

Viện trưởng cô nhi viện là một nữ tu lớn tuổi, với sự có mặt của Lục Ninh Hải bà dùng lời nhiệt tình nhất để ca ngợi. Lục Ninh Hải đem chi phiếu của Phó gia đặt vào trong bàn tay già nua như vỏ cây của bà, cũng là lần đầu tiên nói với bà những suy nghĩ riêng của mình.

Sau khi Lục Ninh Hải trưởng thành không lâu thì cha mẹ liên tiếp qua đời, ông không có anh chị em gì, sau khi lập gia đình tình cảm với vợ rất tốt, nhưng năm năm trước vợ ông mất đi do tai nạn giao thông ngoài ý muốn, chỉ để lại cho ông một đứa con trai. Lần tái hôn sau, ngoài Lục Ninh Hải với người vợ hiện tại chẳng còn ai, gia đình rất đơn chiếc, luôn hâm mộ không khí náo nhiệt trong nhà người khác. Ông và vợ cố gắng mấy năm, muốn sinh thêm em bé nhưng trông đợi mấy lần đều vô vọng, bác sĩ nói nguyên nhân lớn nhất là từ cơ thể của ông. Mấy năm nay, Lục Ninh Hải tuổi đã trung niên, công việc lại bận rộn, càng ngày càng lực bất tòng tâm, nguyện vọng muốn có em bé chỉ sợ là tan theo bọt nước. Cách đây không lâu, ông đã ngồi bàn với người vợ hiện tại, nếu như bây giờ không sinh con được, chi bằng thừa dịp này sớm nhận một đứa con nuôi, coi như hoàn thành tâm nguyện. Vợ ông còn trẻ chỉ chưa quá ba mươi tuổi lúc đầu không đồng ý, nhưng sau khi nghe Lục Ninh Hải liên tục khuyên giải, nghĩ đến cảnh mình dưới gối trống không, lại chẳng cần khổ sở mang thai chín mười tháng mà có được đứa con, cũng không ảnh hưởng đến sự nghiệp thành công của chồng, lúc này mới ưng thuận. Vì vậy, hai vợ chồng chính thức đem chuyện này trình lên nghị sự, còn sai người dò hỏi khắp nơi xem có đối tượng nào thích hợp để nhận nuôi không, cô nhi viện cũng là một trong các mục tiêu của Lục Ninh Hải, trẻ con trong đây đa số là bị bỏ rơi rất đáng thương, nếu có thể thành công nhận nuôi một đứa thì cũng là làm được việc thiện.

Viện trưởng nghe ý định này của Lục Ninh Hải, dĩ nhiên là gật đầu không dứt, nguyện ý giúp đỡ. Bà lấy danh sách trẻ con trong viện ra, nói với ông nếu thích đứa trẻ nào, chỉ cần phù hợp điều kiện nhận nuôi, đều có thể để ông dẫn nó về nhà.

Lục Ninh Hải lật mấy cái liền khép danh sách lại, đối với ông mà nói, trẻ con phải hoạt bát lanh lợi, không phải là mấy gương mặt trơ trơ như đá trong quyển danh sách đó. Ông nói có thể nhìn quanh cô nhi viện một lượt, có thể làm người một nhà không dựa vào duyên phận, nhìn bằng mắt cũng là một trong số đó.

Lão viện trưởng vui lòng giúp đỡ, giờ trực buổi trưa, theo truyền thống cũ của cô nhi viện, hằng năm đến đêm giáng sinh trong viện sẽ vì bọn trẻ, các giáo đồ cùng các nhà hảo tâm quyên góp làm một bữa cơm Thánh. Kinh phí của bọn họ có hạn, món ăn năm nào cũng như năm đó, chỉ có cá với khoai tây, nhưng đối với bọn trẻ mà nói chính là đồ ăn ngon nhất. Dường như tất cả cô nhi đều kéo đến hội trường trước giờ ăn bữa cơm Thánh, chờ nhận lấy phần mình, đó chính là cơ hội tốt cho Lục Ninh Hải.

“Nói chung, chúng tôi đều đề nghị người nhận nuôi thu nhận các trẻ em càng nhỏ tuổi càng tốt, bọn trẻ con không hiểu chuyện nhiều, đối với cha mẹ nuôi cũng sẽ thân thiết hơn, như đứa đó… năm nay hơi lớn tuổi…” Viện trưởng chỉ đứa bé trai đứng trước mặt cách đó không xa mà nói.

Lục Ninh Hải lắc đầu.

“Mấy tháng trước có người bồng tới một đứa bé gái, chưa đầy một tuổi, chẳng qua là.. nó có hơi gầy yếu”. Viện trưởng quan sát vẻ mặt của Lục Ninh Hải, thử thăm dò.

Lục Ninh Hải đúng là muốn một đứa con gái, xinh đẹp như thiên thần, đây là mơ ước lâu nay của ông. Nhưng rõ ràng viện trưởng nói bé gái đó có điều thiếu sót, ông còn do dự.

“Đứa trẻ quá nhỏ, tôi bận rộn công việc, bà nhà lại không có kinh nghiệm chăm sóc trẻ con, chỉ sợ là không thích hợp”.

Viện trưởng làm sao không hiểu ông đang từ chối khéo, vừa định kiên nhẫn thay ông tiếp tục quan sát, đột nhiên từ chỗ mọi người đang dùng bữa cơm Thánh truyền tới âm thanh xôn xao không lớn không nhỏ. Chỉ nghe được tiếng một cậu bé cao giọng: “Mày chạy vào đây làm gì?”

Sau đó có hai người bị đám người đó ép ra ngoài, một đứa trước một đứa sau co chân chạy, phía sau là một đứa bé vóc dáng cao lớn mập mạp đuổi theo, nhất định không buông tha, hét lên: “Chính là mày, giả mạo vào đây ăn uống, không cho mày chạy”.

Phía sau cậu bé mập mạp còn có vài đứa bé lớn tuổi hơn, náo loạn đuổi theo hai đứa phía trước.

“Mấy con khỉ này…” Viện trưởng không giấu được sự xấu hổ trên mặt, cười giải thích với Lục Ninh Hải, “Đây là…”

Trong lúc đó, cậu bé đuổi theo đã vượt qua mấy người bạn cùng trang lứa chạy về hướng cửa chính của cô nhi viện, cố gắng bao vây. Người chạy phía trước là một cô gái, thấy cửa lớn bị chặn, nhanh như sóc quay người chạy về một phía khác trong hội trường, không quên kéo theo cậu bé vóc dáng nhỏ thó bên cạnh. Vì chạy quá nhanh, lại phải đối phó với đám người cao to đuổi theo sau, cô gái cứ né hết bên phải rồi bên trái, suýt nữa thì đụng vào Lục Ninh Hải cùng Viện trưởng đang đứng một bên hội trường.

Lục Ninh Hải né người tránh, mới có thể đứng vững mà không ngã.

“Loạn, loạn thật mà!!!” Viện trưởng dậm chân hướng về phía bọn nhóc kia khiển trách.

Cô gái quay đầu nhìn hai người lớn một cái, ánh mắt hiện rõ sự dửng dưng hài hước. Cậu bé nhỏ thó sau lưng cô nghe Viện trưởng la thì hoảng sợ, làm rơi túi đồ trên tay xuống, mấy con cá chiên vàng ươm từ trong túi giấy rơi ra tán loạn. Cô bé thấy vậy lập tức quay trở lại, đi vòng vèo mấy bước, cúi người muốn nhặt lên nhưng cậu bé mập mạp to lớn đã đuổi theo sau sát nút.

Lúc này, Lục Ninh Hải mỉm cười cản cậu bé đuổi theo lại, dù không dùng sức nhiều nhưng vẫn đủ để cô bé kia có cơ hội thoát thân. Cô nhanh chóng vọt tới tường rào bên cạnh hội trường Cô nhi viện, dùng gốc cây hoa quế bên tường làm điểm tựa ba chân bốn cẳng phóng lên trên tường, quay lại nhìn kẻ đang đuổi theo cười lớn.

“Ăn trộm! Nó dựa vào cái gì mà đến đây ăn chứ?” Bị Lục Ninh Hải cản lại, cậu bé mập mạp ấm ức hất tay ông ra, lớn tiếng: “Ông chặn tôi làm gì? Tôi đang giúp mọi người bắt ăn trộm mà!’

Cậu bé vóc dáng nhỏ bé đi cùng cô bé khi nãy thấy bạn mình thoát thân thuận lợi, cũng không chạy theo mà đứng ở chân tường cãi lại cậu bé to con đang đứng cạnh Lục Ninh Hải: “Vậy mày cũng không phải người trong viện này, cũng đều là ăn trộm như nhau thôi, ăn trộm!”. Cậu ta dùng sức hít mũi một cái, làm mặt quỷ hù dọa.

“Tao với nó không giống nhau, nhà chúng tao đều là giáo đồ, có quyên tiền cho Cô nhi viện. Nó là ăn mày ở đâu chứ?” Cậu bé to con hất hàm lên, sau đó nhìn về phía sơ Viện trưởng, như đang tìm sự đồng cảm.

Viện trưởng lắc đầu không nói.

“Đừng nói gì khác, con trai mà đuổi theo con gái thì có ra gì.” Lục Ninh Hải cười nói.

Cậu bé dĩ nhiên không phục, nhưng cũng sợ vì đối phương là người lớn đáng tuổi cha mẹ mình, lại có mặt sơ Viện trưởng ở đây, không dám hỗn hào quá đáng, chỉ biết hậm hực đi ra, bọn nhỏ theo đuôi cậu ta cũng giải tán một cách ồn ào.

Lục Ninh Hải nói với Viện trưởng: “Tôi còn tưởng bữa cơm Thánh hôm nay là mở cửa cho tất cả mọi người, nhất là trẻ em”.

“Thành thật mà nói đồ ăn của chúng tôi là chuẩn bị cho các tín đồ và trẻ em trong viện..”. Sơ Viện trưởng ngập ngừng, dừng lại một chút rồi nói: “Đứa trẻ mới vừa rồi cũng là Phó.. là Phó gia trên đảo…”

“Tôi muốn biết đứa bé bị rượt chạy khi nãy tên gì?” Viện trưởng vừa nói ra, Lục Ninh Hải đã hiểu cậu bé khi chắc chắn là con cháu của Đại phòng Phó gia, nhưng ông không bận tâm lắm đến điều này.

“À, đó cũng là một đứa bé đáng thương, nó tên là Tô Quang Chiếu, năm nay mười hai tuổi”. Thấy Lục Ninh Hải có hứng thú, Viện trưởng vội vàng hướng về hàng rào ngoắc đứa bé trai: “A Chiếu, mau tới đây”.

Mười hai tuổi, Lục Ninh Hải kinh ngạc, ông nghĩ rằng đứa bé gầy gò đang hít mũi đó cao lắm là tám chín tuổi mà thôi. Hơn phân nửa trẻ em trong cô nhi viện Thánh Ân mang họ Tô, nghe nói là vì kỷ niệm vị thánh đã lập nên Cô nhi viện.

Tô Quang Chiếu nghe Viện trưởng gọi, bối rối không biết làm sao.

“Tới đây, đồ ngốc!” Viện trưởng nóng nảy, sợ A Chiếu bỏ qua cơ hội ngàn vàng này, vội vàng giục.

Lục Ninh Hải lịch sự cắt đứt sự nhiệt tình của Lão viện trưởng, nói thẳng: “Thưa sơ, tôi muốn hỏi cô bé trèo tường khi nãy”.

“Con bé đó…” Mặt Viện trưởng không giấu được kinh ngạc. “Nhưng con bé đó không phải là trẻ em trong Viện của chúng tôi”.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 18:01:48 | Xem tất


Chương 12: Lạnh khắp toàn thân





Giáng sinh vừa qua không bao lâu là đến năm mới, những ngày lễ này đối với Phương Đăng mà nói không có ý nghĩa gì, có chăng là ở Cô nhi viện Thánh Ân bên cạnh thỉnh thoảng lại tổ chức mấy bữa tiệc miễn phí.

Hôm đó A Chiếu kêu cô đến ăn cơm Thánh, khó có khi thằng nhóc đó tìm Phương Đăng với lý do tốt như vậy, còn cao hứng y như mình là chủ nhân của buổi tiệc long trọng này, Phương Đăng dĩ nhiên cũng không muốn bỏ qua. Đúng ra tất cả đều thuận lợi, cô và A Chiếu xếp làm hai đội, lãnh được một túi cá chiên lớn cùng khoai tây, tính ra có thể tiết kiệm tiền ăn trong hai ngày, ai ngờ giữa đường Phó Chí Thời lại nhào ra. Tên đó thấy mặt kẻ thù thì giống như mèo ngửi được mùi tanh của cá, la ầm lên là cô không có tư cách tham gia bữa cơm Thánh. Phương Đăng không muốn dây dưa với cậu ta, nhưng cậu ta lại kéo cả một đám lâu la đuổi theo, nếu không phải là lão nữ tu của cô nhi viện đứng cạnh đó cản lại, e là cô đã xơi tái hắn rồi.

Phương Đăng leo tường thoát thân, trở về nhà, nghĩ đến gương mặt đáng ghét của Phó Chí Thời lúc đuổi theo mình, càng nghĩ càng cảm thấy tức. Dĩ nhiên cô không nông cạn nghĩ đến vấn đề trả thù đập cho cậu ta một trận nữa, Phó Thất sẽ trách cô không kềm được nóng giận, tự chuốc phiền phức, nhưng nếu không làm vậy, chẳng lẽ không có cách nào dạy cho tên khốn đó một bài học?

Nhớ đến mấy ngày trước đi mua muối trong tiệm của lão Đỗ, vừa đúng lúc Phó Chí Thời mua quà vặt rồi bỏ đi. Lần đầu tiên cô mới thấy một đứa con trai tham ăn như cậu ta, giống như không ăn được mấy thứ quà vặt đó cậu ta sẽ chết đói.

Lão Đỗ đang đứng ở sau quầy đếm mấy đồng tiền có hình thù kỳ lại, nhìn thấy Phương Đăng không quên ra vẻ, hỏi cô mấy thứ này có đáng giá hay không.

Phương Đăng vốn là không muốn nói nhảm, nhưng suy nghĩ lại thấy có thể mấy đồng tiền kỳ lạ này có liên quan đến tên Phó Chí Thời kia, mới đưa mắt nhìn. Lão Đỗ thần thần bí bí nói cho cô biết, Phó Chí Thời thường đến tiệm mua đồ ăn, thiếu không ít tiền, bị lão truy nợ gấp quá nên lấy hai đồng tiền cổ này ra đổi. Phương Đăng lập tức hiểu ra đôi chút, cô còn tưởng Phó Chí Thời được gia đình cưng chiều như ông trời con, mỗi ngày cho nhiều tiền xài vặt để cậu ta phung phí. Nào ngờ cậu ta mua thiếu đồ của lão Đỗ, lại không dám xin tiền trả nợ, hai đồng tiền cổ này chắc chắn Phó Chí Thời trộm từ người lớn mà đem ra ngoài.

Phương Đăng thầm ghi nhớ chuyện này trong lòng, dù sao cũng đã nắm được điểm yếu của Phó Chí Thời. Người không phạm ta ta cũng chẳng phạm người, một ngày nào đó nếu tay ông trời con đó chạm đến cô, cô cũng có cách đâm một dao sau lưng hắn. Đúng thật là vài ngày sau, Phó Chí Thời lại chọc giận cô.

Bắt trộm phải bắt tận tay, đạo lý này Phương Đăng hiểu rõ. Cô bỏ túi cá chiên và khoai tây qua một bên đi tìm lão Đỗ ngay, hỏi lão ta cho mượn hai đồng tiền kia một chút sau đó sẽ quay lại trả liền. Lão Đỗ vốn là tay keo kiệt, nhưng lại hiếm khi thấy Phương Đăng ngọt ngào nở nụ cười xinh đẹp nhờ vả, đúng là lợi ích hiếm thấy, ngay lập tức nửa người mềm nhũn ra, vui vẻ cầm tiền đưa cho Phương Đăng mượn.

Phương Đăng cầm được chứng cứ trong tay không thôi mừng thầm, Phó Chí Thời gọi cô là “ăn trộm”, cô cũng muốn cho cha mẹ cậu ta biết người nào mới thật sự là kẻ chôm chỉa. Để kế hoạch có kết quả thuận lợi nhất thì phải có cả Phó Kính Thuần trước mặt vợ chồng họ mà nói vài câu, Phương Đăng cố tình đi tìm Phó Thất, muốn cùng anh tương kế tựu kế, tiện tay đem túi cá chiên cầm cho anh ăn thử. Nào ngờ phản ứng của Phó Thất khi nghe chuyện này khiến cô mất hứng, đầu tiên anh nhìn hai đồng tiền kia một lúc, thờ ơ nói đó là tiền xu của thời kỳ chính phủ Bắc Dương, bây giờ lưu thông trên thị trường không nhiều, đúng là Phó Chí Thời không biết nhìn của. Phương Đăng không cần quan tâm đó có phải là tiền của lão Đỗ hay không, cô hỏi Phó Thất có phải tiền đó do nhà anh họ của anh cất giấu, Phó Thất lại cau mày hỏi ngược lại cô, lão Đỗ là người thế nào, sao có thể để người khác gạt mất món đồ tốt trong tay mình dễ dàng như vậy.

Phương Đăng nghĩ đến chuyện gạt người như lúc trước, Phó Thất thấy cô né tránh, sắc mặt càng trở nên khó coi. Anh không thích cô dùng sự nữ tính của mình để có được bất kỳ lợi ích gì, dù là đối phương trên thực tế cũng chẳng lợi dụng được cô. Phương Đăng thấy anh không chịu giúp, lấy đồng tiền trên tay anh lại, nghĩ thầm cùng lắm tự mình nghĩ cách vạch trần Phó Chí Thời.

Phó Thất không những không đồng ý cách làm của cô, còn khuyên cô đừng để tâm chuyện của Phó Chí Thời. Phương Đăng bị tạt một gáo nước lạnh, rất không vui. Rõ ràng là Phó Chí Thời năm lần bảy lượt khiêu khích cô, tại sao khi qua miệng Phó Thất giống như cô đang làm sai mà nghĩ đến chuyện gian ác hại người. Cô là người có thù nhất định phải báo, đây là quy tắc hữu hiệu và đơn giản nhất mà thế giới mạnh được yếu thua này dạy cho cô từ lúc lớn lên, chỉ có như vậy mới khiến kẻ ỷ mạnh hiếp yếu sợ hãi. Cô ghét cái kiểu trước khi làm gì cứ suy đi nghĩ lại của anh, nói trắng ra chẳng khác nào hèn nhát.

Nhìn thấy Phương Đăng giơ chân, giọng căm hận nói sẽ tính cách đối phó Phó Chí Thời. Phó Thất lạnh lùng nói với Phương Đăng, đừng nên lúc nào cũng coi mình là đúng, dù cô có đánh Phó Chí Thòi hay không, hoặc chơi trò gài bẫy để cha mẹ cậu ta cho con mình một trận cũng được, trừ hả được giận trong lòng thì chẳng thay đổi được gì, quả đấm cùng trò đùa ác nghiệt không thể nào thu phục người khác. Biện pháp trả thù tốt nhất là đừng làm gì cả, cứ nhẫn nhịn chờ thời cơ, khi bản thân trở thành người có sức có tài, có thể làm cậu ta cam tâm tình nguyện quỳ xuống liếm gót chân cô.

Phương Đăng không chấp nhận lời giải thích này, đối với cô đó chỉ là cái cớ. Hai người nói tới nói lui một hồi thì giải tán, Phương Đăng cầm tiền quay về, suy nghĩ buồn bực trong lòng, hôm sau liền đem đồ trả lại cho lão Đỗ. Hai ngày liên tiếp cô không để ý đến Phó Thất, Phó Thất cũng chẳng tìm cô.

Do thời điểm Nguyên đán, trường học được nghỉ, chạng vạng tối đêm giao thừa, Phương Đăng cầm viêm đá nhỏ ném vào cửa sổ phòng Phó Thất, gọi anh cùng cô ra giáo đường xem lễ hội. Cô biết rõ hôm nay lão Thôi vào thành phố mua đồ, đoán chừng tối muộn mới có thể về đến nhà, không biết Phó Thất một mình có ăn tối đầy đủ không.

Hòn đá nhỏ trong tay cô bay lên cánh cửa sổ lá sách phát ra một âm thanh rõ rệt, trước đây mỗi lúc thế này, anh chỉ giả vờ giận rồi đẩy cửa sổ để cho cô chờ một lát, sau đó nhanh chóng từ trên lầu đi xuống. Vậy mà hôm nay, Phương Đăng đã ném hết mấy hòn đá nhỏ trong tay mà cánh cửa sổ lá sách vẫn không hề động tĩnh.

Phương Đăng bắt đầu cảm thấy có chút kỳ lạ, Phó Thất rất sợ lạnh, mùa đông chỉ thích ở trong nhà, hôm nay trên đảo lạnh đến mức không chịu nổi, anh không có lý do gì lại đi lang thang ngoài đường. Cô để ý trước cửa sổ anh không biết tại sao không thấy chậu hoa mỹ nhân, chẳng lẽ lần này anh giận cô thật hay sao?

Cô hướng về phía cửa sổ kêu tên anh mấy lần, không ai đáp lại nên buồn bực quay về nhà. Nghĩ đi nghĩ lại vẫn cảm thấy kỳ lạ: Phó Thất không dễ dàng tiếp chuyện với người khác, nhưng cũng tuyệt đối không phải là người hẹp hòi, hơn nữa có nhiều lúc hai người cãi nhau, anh không đồng ý cách xử sự của cô, cũng không đến nỗi như vậy. Bây giờ cô còn chủ động đến tìm anh, anh không có lý do gì không để ý, hơn nữa cũng không đến nỗi giận cô đến mức đem cả chậu hoa mỹ nhân mà ném bỏ.

Đêm xuống, A Chiếu giục Phương Đăng ra ngoài, nếu trễ hơn một chút giáo đường sẽ rất đông người, khó thể chen vào được. Thật ra Phương Đăng không có tâm trí đi chơi, nhưng lại không thể ngồi lì ở nhà suy nghĩ nát óc rồi chờ đợi. Đúng lúc xuống lầu thì cô gặp lão Thôi xách theo bao lớn bao nhỏ trở về, liền đến gần lão Thôi hỏi thử xem đã có chuyện gì xảy ra với Phó Thất.

Đầu óc lão Thôi cũng mơ hồ, còn nói sáng nay trước khi đi, Tiểu Thất đã dặn tối nay không cần phải nấu cơm, cậu ấy sẽ cùng với Phương Đăng đến giáo đường xem trình diễn ca nhạc, tiện thể sẽ ăn hoành thánh ở ngoài. Phương Đăng càng nghĩ càng cảm thấy bất thường, nếu nói như vậy, Phó Thất căn bản là không có giận cô, còn mời cô ăn hoành thánh có nghĩa là anh đã cố ý làm lành. Cô giục lão Thôi vội vàng mở cửa, rồi chạy theo sau, lo là anh lại bị bệnh. Đến gần phía dưới cửa sổ phòng anh một tí, đập vào mắt Phương Đăng là chậu hoa vỡ tan tành.

Đó chính là chậu hoa mỹ nhân ở bệ cửa sổ của Phó Kính Thù, lúc này chậu hoa bể tan nát, bùn đất bên trong đều đổ ra ngoài, nhìn có vẻ như là từ lầu hai rớt xuống mới thành ra thế này. Đang không biết chuyện gì xảy ra, lão Thôi cũng vội vã chạy xuống lầu, nói Tiểu Thất không có trong phòng, kỳ lạ nhất là không hề đem theo chìa khóa, ngay cả áo khoác cũng không có mang đi.

“Chẳng lẽ anh Thất lại ra ngoài chơi một mình sao?” A Chiếu và Phương Đăng đối mặt nhìn  nhau.

Phương Đăng lắc đầu, đừng nói Phó Thất vốn là người không ham chơi, dù anh có chuyện đi ra ngoài, cũng sẽ không vội vàng đến vậy, hơn nữa việc chậu hoa mỹ nhân rơi vỡ cũng là điều kỳ lạ.

Lão Thôi có hơi tức giận, xoa xoa hai bàn tay lại với nhau: “Thằng bé đó rốt cuộc là đi đâu chứ? Cũng không nói tiếng nào.. Phương Đăng, cậu ấy không tìm cô thật sao?”

“Nếu anh ấy tìm tôi, tôi còn đứng đây sao?”

“Không được, tôi phải đi tìm cậu ấy.” Lão Thôi nói xong liền bước ra ngoài.

“Cháu cũng đi”. – A Chiếu cũng chạy theo.

Qua Âm Châu chỉ bé như hạt đậu, hai người chia nhau mỗi người tìm một hướng cũng đủ rồi. Phương Đăng sợ Phó Thất chỉ đi lòng vòng đâu đó, một lát sau sẽ quay về, nên mới trở lại gác trọ của mình, tựa vào cửa sổ chờ đợi, chỉ cần anh xuất hiện ở đầu hẻm là cô có thể nhìn thấy rõ ràng.

Phương Học Nông lại không ở nhà. Gần đây ông ta lăn lộn bên ngoài, trời chưa khuya hẳn thì rất khi về gác trọ, Phương Đăng có khi thuận miệng hỏi ông ta đi đâu, ông ta cũng không muốn cô phải xen vào. Đêm giáng sinh, Phương Đăng cố ý để lại cá chiên cùng khoai tây cho ông ta, ông ta đều không ăn một miếng, khác với lúc xưa, ngồm ngoàm nhắm rượu như là ma đói đầu thai. Phương Đăng tức mình, không cần biết kẻ nát rượu kia đi đâu về đâu, tiện tay đem nồi cá chiên và khoai tây gần thiu ném vào thùng rác.

Phó Kính Thù không xuất hiện trong tầm mắt như mong đợi của Phương Đăng, ngược lại lão Thôi cùng A Chiếu kẻ trước người sau quay về Phó gia Hoa viên. Phương Đăng chạy xuống, quả thật chỗ nào Phó Thất có thể đi họ cũng đã ghé qua, đều không có chút tung tích nào của anh cả.

“Chẳng lẽ xảy ra chuyện gì sao?” – Trong lòng Phương Đăng như lửa đốt.

“Không thể, ban ngày ban mặt, tôi mới vừa đi khỏi đảo một ngày, buổi sáng cậu ấy vẫn ổn mà”. Lão Thôi ngoài miệng nói vậy nhưng sắc mặt có phần trắng bệnh, do dự hỏi: “Hay là chúng ta đến đồn công an một chuyến ?”

“Nếu không tìm thấy người, bốn mươi tám giờ sau mới có thể báo cảnh sát”. A Chiếu tuy nhỏ nhưng biết rất nhiều. “Cháu cảm thấy, anh Thất thông minh như vậy, làm sao xảy ra chuyện gì được? Nhất định là anh ấy buồn bực, một mình ra ngoài dạo chút thôi. Chị Đăng, chị nghĩ sao?”

A Chiếu đưa mắt nhìn Phương Đăng đang đứng bên ngoài.

Phương Đăng cũng không biết tại sao mình không tài nào chờ nổi nữa, cô chỉ muốn tìm một chỗ yên tĩnh ngồi xuống, một cảm giác bất an bao phủ lấy cô. Chuyện này đồn công an trong lúc nhất thời cũng sẽ không quản, A Chiếu với lão Thôi cũng nói chỉ là anh tạm thời rời khỏi nhà, một lát sau sẽ quay lại ngay. Nhưng cô mơ hồ cảm thấy không phải như vậy, anh là một người rất cẩn thận, lần trước mắc mưa ngã bệnh trốn trong phòng không chịu gặp ai đã là chuyện khác biệt lắm rồi. Phương Đăng thậm chí còn có cảm giác chậu hoa mỹ nhân bên bệ cửa sổ của Phó Thất bị vỡ là lời ám nhủ nào đó của anh dành cho cô, anh đột nhiên biến mất, nhất định là không hề đơn giản.

Phó Kính Thù cả đêm không trở về, Phương Đăng cũng thức trắng đêm không ngủ. Sau nửa đêm, Phương Học Nông trở lại, miệng ngân nga một bài hát đồng dao. Gần đây mỗi lần quay về, bộ dạng ông ta đều như đã ăn uống no say thỏa đáng.

Phương Đăng vén màn vải lên, ngồi dậy hỏi: ‘Đi đâu lăn lộn đến giờ này?”

“Có người mời tao ăn cơm!” Phương Học Nông tỉnh bơ đáp.

Ai sẽ mời ông ta ăn cơm? Hơn nữa còn liên tiếp chiêu đãi mấy ngày, Phương Đăng không tin trên đời có người như vậy. Lúc này cô mới để ý, chai rượu cha cô tiện tay để trên bàn ăn khác trước đây, không còn là loại rượu rẻ tiền bán trong tiệm tạp hóa lão Đỗ dưới nhà. Cô không biết chai rượu này đắt đến bao nhiêu tiền, nhưng ít ra cũng không phải là loại tửu quỷ này có thể mua được.

“Ai hào phóng vậy?”

Phương Học Nông có chút tức tối: “Mấy anh em trên công trường quý tao nên mời tao uống rượu thôi”.

Vì trên đảo đang phát triển du lịch, gần đây lại mới xây thêm một quán rượu, trên công trường rất nhiều người ngoài đến thi công, làm sao ông ta có thể một sớm một chiều mà hòa nhập vào đám người này được? Phương Đăng chợt nhớ, hai ngày trước, Thôi Mẫn mà đã lâu cô không thấy xuất hiện trên đảo giờ vẫn qua lại cùng với Phương Học Nông. Lúc ấy mặc dù trong lòng Phương Đăng chán ghét, nhưng cũng cảm thấy hai người bọn họ đúng là cùng một loại, cùng ở những nơi không sạch sẽ như nhau, đó cũng là chuyện bình thường. Có lẽ do cô nghi ngờ, hôm nay sự mất tích của Phó Thất lại khiến tâm thần cô bất an, Phương Đăng cảm thấy giống như có điểm nào đó không được đúng lắm, nhưng nhất thời lại không biết đó là gì.

Phương Học Nông thấy con gái nhìn mình chằm chằm, còn tưởng là cô đang ngó bình rượu của mình, đắc ý khoe: “Mày biết chai rượu này bao nhiêu tiền không, nói ra sợ mày sợ chết!’

Tim Phương Đăng quả thật đập không ngừng, nhưng cũng không phải vì chai rượu đó. Cô cũng biết tại sao mình lại bất an, Thôi Mẫn đột nhiên xuất hiện trên đảo, lại cùng một loại căm thù Phó gia như người cha hầm hố của cô, lại còn có người mời ông ta rượu ngon thịt béo… Có khi nào chuyện này liên quan đến Phó Thất không, thật chẳng lẽ lại trùng hợp đến vậy? Phương Đăng càng nghĩ càng cảm thấy kỳ lạ, chuyện này khắp nơi đều có mùi quái đản, nhưng cô không dám nghĩ sâu hơn vào những điều trùng hợp mờ ám đó.

“Rượu là Thôi Mẫn cho cha sao?” Cô thử thăm dò.

Động tác cởi áo khoác của Phương Học Nông chợt chậm lại, ông ta tắt đèn, nhưng vẫn có thể cảm giác được ánh mắt lạnh lùng của con gái đang ngồi ở đó nhìn mình, loại cảm giác này khiến ông ta cảnh giác, hơn nữa không thấy thoải mái.

“Con nít như mày để ý nhiều đến chuyện của tao làm chi hả?” – Một lát sau, ông ta nói: ‘”Sao tự nhiên mày nhắc tới hắn ta?”

Tuy Phương Học Nông không thừa nhận, nhưng phản ứng của ông ta càng khiến Phương Đăng hồ nghi hơn, cô sợ cha mình nghi ngờ, càng cố tâm che giấu, liền đổi giọng.

“Thuận miệng hỏi thôi, tại tôi thấy hắn ta mời cha uống rượu”. Cô lại giả giọng châm chọc như ngày thường, “Nhưng nghĩ kỹ cũng thấy không thể nào, cha nói tiền cũng không có, nói bản lãnh lại càng không, người ta dựa vào cái gì mà có thể vui vẻ chiêu đãi cha, rượu này không biết cha gạt ai mà có”.

Quả nhiên Phương Học Nông không kềm chế được, ông ta ghét nhất con gái dùng kiểu này nói chuyện với mình, ở bên ngoài ông ta có thể bị người khác xem thường, nhưng ở nhà thì không được.

“Mày biết cái gì, nha đầu chết tiệt, đừng coi thường tao, sớm muộn tao cũng sẽ cho tụi bây thấy, so với tụi bây tao còn giỏi hơn nhiều”.

“Cha có khả năng gì chứ, nói thử nghe xem?” Phương Đăng bật cười.

Phương Học Nông không trả lời cô, kín đáo móc đại cho cô vài tờ ngân phiếu: “Chuyện của tao mày bớt xen vào đi, tiền xài trong tuần đó”.

Phương Đăng nhìn kỹ lại, so với ngày thường khá hơn một chút. Lúc này dường như nhớ ra điều gì, cha cô rút trong túi ra mười đồng tiền: “Cái này cho mày mua sách”.

Ông ta cho tiền cô xài vặt, đây là chuyện hiếm có. Phương Đăng cố nặn ra nụ cười, kinh ngạc cầm tiền: “Lúc này cha nhặt được tiền hay là đánh cược mà thắng vậy?”

Phương Học Nông đi về phía giường tre, bộ dạng nửa tỉnh nửa thức, trong miệng hừ hừ tức tối đáp: “Mày chờ đi, đừng tưởng tao đây sẽ chịu uất ức cả đời”.

Phương Đăng lặng lẽ đem tiền đặt dưới gối, rất nhanh tiếng ngáy như sấm của Phương Học ông đã vang lên, trong lòng cô lại càng thấy không yên, trằn trọc khó ngủ, có cảm giác trên mặt mình có một lò than hừng hực cháy.

Phương Học Nông ngủ một giấc đến chiều hôm sau, trong lúc đó Phương Đăng ra ngoài một chuyến, biết được Phó Kính Thù vẫn chưa có tin tức, lão Thôi vẫn đi mấy chỗ cũ trên đảo tìm kiếm. Lúc cô quay lại gác trọ, Phương Học Nông đang ngáp dài ngáp vắn mặc quần áo, đứng bên cửa sổ nhìn lấm lét về phía đối diện, thấy con gái đi vào mới xoay người lại: “Hôm nay tao phải ra ngoài, nhà lão Đổng trên đảo không có ai, muốn tao giúp làm tang sự, tối nay không có về đâu”.

Phương Đăng hờ hững gật đầu.

Phương Đăng nghe tiếng bước chân của Phương Học Nông đi xuống lầu, đợi đến khi thanh âm kia xa khuất, cô lập tức nhào đến giường ông ta, dùng sức vạch đống chăn lên, thò tay xuống đầu giường ông ta lục lọi. Cuối cùng, ở trong cái hốc phía sau đầu giường của Phương Học Nông, cô tìm thấy được một túi giấy dầu. Cái hốc trên tường kia cỡ chừng nửa cục gạch, cùng vách tường bị dán đầy báo lên trên, lại tựa vào phía sau đầu giường, nếu như không phải Phương Đăng cố tình sờ qua từng chút một, lại phát hiện chỗ đó có tờ báo còn thơm mùi hồ dán mới, sợ rằng rất khó phát hiện ra.

Lúc cô lục tìm thì vội vã như điên, khi cầm được túi giấy trên tay lại do dự, thở mạnh một hơi, sau đó mới mở ra trong sợ hãi, chẳng khác nào mở một chiếc hộp thần bí ra vậy.

Đồ trong túi giấy cũng bình thường, trừ mấy trăm đồng tiền, còn có nửa cây lược gỗ, giống như của cô cô Chu Nha trước kia hay dùng đến, phía trên còn quấn vài lọn tóc. Dưới cái lược là một tấm gương nhỏ khắc tinh xảo, Phương Đăng run rẩy lật nó lên, vật này nhìn vô cùng quen mắt, có người từng nghe lời cô đem theo nó ở bên người, không cần phí công phân biệt, cô cũng nhớ như in hai hàng chữ nhỏ khắc phía sau: “Bất ly bất khí, thị vị chân như”.

Phương Đăng chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm, ngồi phịch xuống giường tre, tiếng kêu kẽo kẹt ma quái từ trên giường phát ra như tiếng rên rỉ gấp gáp. Cô lấy tay ôm chặt hai bên má, bóng tối bao quanh cô khiến toàn thân lạnh buốt.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-4-2013 20:03:03 | Xem tất


Chương 13: Bóng tối và Ánh sáng





Phương Học Nông đi vòng vo trên đảo một hồi, uống xong nửa bình rượu ngon vẫn còn tiếc rẻ ngửa lên lắc mạnh, vừa đi vào quán cơm nhỏ trên đảo, ăn một bữa no nê rồi đi ra, ngẩng đầu lên trời thả một vòng khói. Ông ta không đi mai táng cho Đổng gia, mà là dọc theo bờ biển ngoài đảo nhắm hướng Đông đi tới.

Phía Tây Qua Âm Châu địa thế rất bằng phẵng, dân số đông đúc, dân cư cùng cửa hàng buôn bán đa số đều tụ tập ở đây; phía Đông chỉ có bãi biển và núi đá chiếm cứ, trước đây từng có một thương cảng nhỏ, khi xây xong bến phà, hơn mười năm qua đã trở nên hoang phế. Phương Đăng không quen thuộc địa hình xa xôi ở đây bằng cha cô Phương Học Nông, thêm nữa do đường mòn chỉ có đồi núi xanh mướt trùng điệp che phủ, cô cũng ít dám đến gần.

Mùa đông bắt đầu đến, trời tối rất nhanh, gặp cơn mưa nhỏ làm cho khí trời càng thêm lạnh lẽo, còn sớm nhưng hòn đảo nhỏ đã bị hoàng hôn bao phủ. Phương Đăng còn nghi mình đi lạc, nhìn phía trước không thấy bóng cha đâu. Ngang qua công trường quán rượu mới xây, gặp mấy người đang đi từ từ trên đường, đừng nói là cư dân trên đảo, ngay cả khách du lịch hiếu kỳ cũng ít khi nào sang bên này đi dạo.

Trên sườn núi có vài tòa nhà đổ nát nằm lẻ tẻ, đa số là nhà cũ do người nước ngoài xây dựng, cách đây khá lâu vì trên đảo lại một lần nữa quy hoạch nên họ bỏ ra ngoài, nhưng nhà thì không phá bỏ, ở giữa những bụi rậm tối om trên sườn núi còn lộ ra mấy nóc nhà. A Chiếu từng nói ở phía Đông hòn hảo là nhà xác cũ của bệnh viện, còn có cả trường bắn, mỗi khi gặp chiến tranh hay phong trào vận động, trên đảo đều có người chết yểu, đều là đem chôn cạnh bên trường bắn. Không biết A Chiếu nghe mấy chuyện này ở đâu, Phương Đăng nửa tin nửa ngờ, nhưng gió biển và mưa lạnh liên tục bay vào cổ áo cổ, mỗi một góc ấm áp trên người cô đều bị hơi lạnh chiếm hữu. Mỗi khi bước tới trước một bước, trời như tối lại thêm một chút, mấy bụi rậm trên sườn núi phát ra âm thanh thê thiết đáng sợ, cô bắt đầu tin A Chiếu nói không sai. Nhưng cô không thể quay lại, nơi này càng không phải nơi người bình thường nên đến, càng cất giấu sự thật mà cô đang tìm kiếm.

Phương Đăng lần theo đường mòn đi sâu vào sườn núi bị cỏ che lại, không bao lâu sau đã nhìn thấy một căn nhà ba tầng, cửa sổ mục nát, lúc trời tranh sáng tranh tối nhìn giống như miệng con quái thú khổng lồ. Cửa chính treo một bảng hiệu, trong ánh sáng lờ mờ, nhìn kỹ hơn thì dường như là mấy chữ màu đen “Sở Y Tế Qua Âm Châu”, thì ra nơi đây là bệnh viện cũ mà A Chiếu nói đến. Trong bụi cỏ ven đường có một tàn thuốc chưa tắt, cô nhặt lên, chính là điếu thuốc khi nãy cha cô vừa thả khói, điều này chứng tỏ cô không đi lạc đường. Phương Đăng định thở phào, nhưng thật ra trong lòng lại càng lo sợ hơn, đúng lúc này, cô mơ hồ nghe được tiếng người nói chuyện.

Thanh âm kia theo gió bay tới lúc xa lúc gần, cô dừng lại lóng tai nghe ngóng hồi lâu, tiếng người tựa như ở đằng sau dãy nhà của sở y tế cũ vọng tới, cẩn thận nghe thêm một chút, loáng thoáng hình như là mấy gã đàn ông đang trò chuyện với nhau, trong đó có cả âm thanh dường như rất quen thuộc, tưởng chừng như có thể nghe đối phương nói gì, nhưng cơ hồ lại không thể nghe rõ.

Phương Đăng không dám tùy tiện đến gần, lại cũng không chịu lùi đi, đành phải giấu mình trong bụi cỏ ven đường như chú mèo hoang. Tiếng nói chuyện kéo dài một lúc rồi ngưng lại, một lát sau lại vẳng tới, có giọng nói lộ ra sự kích động không ít, từ nói chuyện với nhau dần dần trở thành tiếng cãi cọ. Bụi cỏ vừa ướt vừa lạnh, cô nấp co ro trong đó gần nửa giờ, trời đã hoàn toàn tối đen, xa xa phía Tây hòn đảo có ánh đèn như là đèn nhà ai đó. Đỉnh núi cùng với bầu trời dường như liền thành một mảnh, cô có cảm giác mình và đống cỏ hoang bùn nát ven đường hòa nhập nhau thành một khối.

Tiếng cãi vả đằng kia càng lúc càng nghiêm trọng, dường như có ai đang đập bể vật gì đó cho hả giận, Phương Đăng còn chưa kịp quyết định mình có nên đến gần một tí hay không thì đối phương đã lớn tiếng rõ ràng nội dung cuộc nói chuyện, thanh âm kia chợt gần lại, còn kèm theo bước chân nặng nề, chính là hướng về phía cô mà đi tới.

Phương Đăng hoảng quá, vội vàng nép vào sát tường tòa nhà sở y tế bỏ hoang, cuộn tròn vào góc tường ở dưới cửa sổ. Cô không biết họ có nghe được âm thanh phát ra khi cô di chuyển hay không, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, không dám thở mạnh, lại không đi vững vì hai chân tê dại do phải ngồi một tư thế quá lâu.

Tiếng bước chân càng lúc càng gần, bọn họ đã đi đến bên ngoài sở y tế cũ.

“… Tao đã nói trước, lời của thằng chết tiệt kia không tin được, còn tưởng đâu mó được một mớ, nào ngờ làm ăn lỗ vốn, mẹ kiếp, thật xui xẻo!” – Tiếng người phun mạnh nước bọt lên mặt đất.

Một giọng nói khác hơi khàn khàn tiếp lời: “Ai mà biết, lúc đầu hắn ba hoa chích chòe, nói tiểu tử kia có nhiều tiền, tao còn cho là hắn ta nói thật, mày nghĩ coi, nó sống ở đó…”

May mắn là mấy người vừa đi tới chỉ lo trách cứ lẫn nhau, không phát hiện ra có người núp trong tòa nhà hoang cách đó mấy bước. Thanh âm của họ cùng tiếng bước chân từ từ đi xa, hình như đi dọc về con đường của Phương Đăng lúc đến.

Thính giác của Phương Đăng cho cô biết giọng nói vừa rồi là của hai người đàn ông với khẩu âm ngoại tỉnh rất xa lạ, người cô muốn tìm cũng không có ở đây. Cô cuộn mình trong góc co người chờ đợi hơn mười phút, xác định rõ hai người đó đã đi xa không thấy quay lại, mới cử động tay chân tê cứng như sắp rời khỏi cơ thể mình để từ từ đứng dậy.

Lúc này cô mới cảm giác được hơi lạnh âm u trong căn lầu bỏ hoang còn đáng sợ hơn cả trong bụi cỏ, không khí tựa như chứa đựng một mùi vị chán chường của năm tháng cũ. Chung quanh lại cực kỳ yên tĩnh, ngay cả tiếng côn trùng kêu hay tiếng chim hót đều không có, cảm giác hoảng sợ bắt đầu ập đến, cô không thể chờ đợi lâu hơn nữa, vì ẩn trong bóng tối xa xôi có những thứ làm cô đau đớn hơn là nỗi sợ hãi của bản thân mình.

Phía trên sở y tế cũ khoảng mười mấy thước là một căn nhà gạch nhỏ, nhìn sơ qua chiều rộng chỉ hơn nhà vệ sinh công cộng không bao nhiêu, hơn nữa còn có hai tầng. Ngôi nhà này cách xa đường đồi, cỏ cây bụi rậm che lấp âm u, đừng nói là buổi tối, ban ngày còn chẳng có ai qua lại, nhìn không kỹ cũng khó mà phát hiện có một nơi như vậy.

Trên chiếc ghế rách nát cuối hành lang là một người đàn ông với dáng vẻ sầu não khổ sở ngồi bất động, dựa lưng vào cánh cửa đóng chặt, hắn cạn đến giọt rượu sau cùng trong chai, rượu thật ngon, đáng tiếc không đủ để hắn say khướt. Hắn cảm thấy đau đầu, giống như ai đó cầm quả chùy to ghim vào đầu hắn, mỗi cái giáng xuống kèm theo tiếng thét chói tai: ‘Họ đều xem thường mày!” Hắn muốn hét to, nhưng gần hai mươi năm sống cuộc đời chán nản, đến bản năng này cũng không thể giữ lại, ngay cả oán hận cũng im hơi lặn tiếng, cúi thật thấp như con rắn trong bụi cỏ.

Từ chỗ đang ngồi hắn có thể đem hết mọi động tĩnh trước mặt mà thu vào tầm mắt, đúng là nơi canh gác tốt. Hắn vốn là nên phấn chấn tinh thần, dù sao trên cõi đời này hắn cũng làm không ít chuyện lớn. Nhưng ai sẽ ở bên hắn đây? Chủ thì coi hắn như trò hề, bạn bè thì coi hắn như phân chó. Hắn đã đào cái hố to để tự chôn mình, hay là từ trước đến giờ hắn vẫn luôn ở trong đáy hố, cho đến giờ cũng chưa thể bò lên.

Chợt hắn ta nghe được tiếng chân người đi trên cỏ. Bọn họ đổi ý sao? Không có ánh sáng, hắn quơ cây đèn pin trong tay lên quét hai vòng, rồi ánh sáng của đèn chiếu vào một gương mặt mà có nằm mơ ông ta cũng nghĩ sẽ xuất hiện ở chỗ này.

Gương mặt trắng trẻo đó trong ánh đèn sáng càng giống như không có chút máu, cô lấy tay che trước mặt, thần sắc hoảng hốt nhưng lại không né tránh.

“Mày..! Mày làm sao mà chạy đến đây được?” Hắn ta đột nhiên muốn đứng dậy, nhưng do quá say nên dưới đất quay cuồng, cơ thể rung động, ánh sáng của chiếc đèn pin cầm trong tay cũng trở nên lảo đảo.

Dường như cô thấy rõ ông ta như vậy, bước từng bước lại gần, cuối cùng dừng lại phía dưới hành lang ngắn.

“Anh ấy còn sống chứ?” giọng nói của cô khô khốc, giống như là đang ở ranh giới tuyệt vọng. Thật kỳ lạ, những lời này có cảm giác như rất nhiều năm trước hắn cũng nghe được từ một cô gái khác, hai âm điệu giống nhau, giống ở sự tuyệt vọng, cùng hỏi ông ta một vấn đề, vì vậy hắn trở nên hoảng loạn.

“Mày nói ai? Tao hỏi mày tới đây làm gì?” Hắn giận dữ hỏi, lại phát giác giọng nói của mình cùng cây đèn pin cầm trong tay đang run rẩy. “Mày theo dõi tao sao?”

Cô chưa nghe được câu trả lời mình muốn, bắt đầu đi từ từ lên lầu.

“Nói cho tôi biết, anh ấy còn sống chứ?” Cô hỏi lại lần nữa, dường như tất cả xung quanh đều không quan trọng, đây là quan tâm duy nhất của cô.

Phương Học Nông bị chọc giận, “Nó là ai hả, thứ nghiệt chủng yểu mạng đó lại quan trọng đến vậy sao? Sớm biết vậy tao đã giết nó rồi, nó chết rồi thì tất cả đều chấm dứt”.

Thần sắc Phương Đăng rõ ràng nhẹ nhõm hơn một chút, ít nhất anh còn sống, chỉ cần còn đường sống là còn cứu vãn được.

Cô hỏi cha mình: “Sao lại làm vậy? Ông có biết mình đang làm gì không?”

“Mày đừng đến đây”. Phương Học Nông đứng cản ngay lối đi dưới hai bậc thang. “Lẽ ra tao nên sớm làm vậy, cái lũ họ Phó đó đều là thứ gây họa, không đáng được đối xử tốt. Muốn sống thì phải hao tài, tao muốn lấy những thứ tao phải có”.

“Trước kia tôi còn nghĩ ông chẳng qua là uất ức, nào ngờ ông đã nổi điên”.

“Mày đứng lại, dám đi lên nữa tao sẽ đâm nó chết ngay.”

Phương Đăng đứng ở hai nấc thang cuối cùng của cầu thang hẹp, bước đến chỗ người đàn ông đang gần như phát điên lên, cô nhìn mặt ông ta, dùng giọng nói van nài.

“Cha, cha thả anh ta ra đi. Tìm không thấy người, lão Thôi nhất định sẽ báo cảnh sát, đến lúc đó cha không thoát được đâu.”

“Hắn dám! Lão già đó nếu dám báo cảnh sát, tao cũng không cần sống nữa, hắn chờ nhận xác đi. Tao bảo mày đừng có cử động mà!” Phương Học Nông miệng hùm gan sứa cảnh cáo, có lẽ do Phương Đăng kêu một tiếng “cha” khiến ông ta có phần dao động, ông ta chỉ về phía trước nói: “Mày về đi, chuyện này không liên quan đến mày”.

“Sao lại không liên quan? Cha thả anh ta ra đi, con sẽ xin anh ấy, anh ấy sẽ nghe lời con, lúc đó cha còn đường sống”.

“Tao cần nó cho tao đường sống sao? Bây giờ nó phải quỳ lạy cầu xin tao! Nha đầu, mày nghe đây, tránh xa nó ra đi, tao không muốn mày giống cô cô, bọn chúng không phải là người tốt…”

“Vậy cha là người tốt sao? Cha xem cha đang làm chuyện gì, nếu cô cô Chu Nhan biết được cũng sẽ hận cha đến chết” – Phương Đăng ứa nước mắt.

Bàn tay cầm đèn pin của Phương Học Nông càng rung mạnh hơn, “Bọn mày biết gì? Tao cũng vì muốn tốt cho chúng mày thôi. Đời này tao còn trông cậy vào cái gì chứ? Là tao uất ức, bọn mày xem thường tao, tao còn có thể sống vì ai? Ít nhất còn vớ được một mớ tiền sắm quan tài. Lúc đó tao đã không thể để cô cô mày sống những ngày tốt đẹp, xong việc này, mày sẽ có được chút tiền, sống vậy không tốt sao, đừng có nói là tao không làm được gì cho bọn mày nhé?”

Phương Đăng bị mấy lời nói hoang đường này chọc phát điên, khóc lớn: “Tôi cần loại tiền này sao? Chu Nhan cô cô chết rồi, xương cốt đều đã thành tro bụi, cha còn nói muốn tốt cho cô cô, khi cô cô còn sống cha đã làm gì, người bị nhốt trong này là ai cha không biết sao? Là con trai của cô cô, là cháu họ của cha đó”.

“Láo, nó không phải!” Hai mắt Phương Học Nông trợn tròn lên, hơi thở hổn hển gấp gáp. “Tao đã nói nó là tạp chủng, là tạp chủng!”

Phương Đăng thừa dịp ông di chuyển chỗ khác, nhanh chóng lao về phía cửa thì phát hiện cửa đã bị khóa chặt.

“Dù cha có hận, anh ta cũng do cô cô sinh ra. Mở cửa, thả anh ta ra!”

Miệng Phương Học Nông mở ra rồi khép lại, sau cùng cắn chặt môi nói: “Đứa bé do cô cô mày sinh ra đã sớm chết rồi, trong kia là tiểu tạp chủng, bị ném bên ngoài cô nhi viện. Nếu không phải vì sợ cô cô mày lúc đó không thể sống nổi, tao liệu có bế nó về không? Đây là chuyện làm tao ân hận nhất, nếu biết trước dù có đứa bé thì thằng súc sinh Phó Duy Nhẫn kia vẫn bỏ cô cô mày lại một mình, tao đã để cho tiểu tạp chủng này chết rét tối hôm đó rồi, ai mà ngờ nó lại trở thành oan gia”.

Phương Đăng bị câu nói này của ông ta làm sợ đến ngây người, đứng như trời trồng, nhất thời quên mất mình đang tìm cách mở cánh cửa nặng nề.

“Cha điên thật rồi.” Cô khó lòng tin những gì cha mình nói.

“So với bọn mày tao còn rất tỉnh. Cô cô mày ngốc, mày còn ngốc hơn. Cứ tưởng đó là hạng công tử nhà giàu dát vàng ở trên người. Phó Duy Nhẫn coi như là kẻ thất bại đi, ngay cả trong cái nhà đổ nát đó cũng chẳng có gì. Đều là thứ lai lịch bất minh! Tao vì chìu ý cô cô mày cả đời này im lặng, để nó giả vờ mà sống trong căn nhà lớn, tự cho là bản thân có tổ tông danh tiếng, làm cho mày hồn xiêu phách lạc. Nhưng bây giờ một chút quan hệ cũng không, mấy kẻ có tiền kia đều biết nó chỉ là thứ tạp chủng, biết rõ nó bị trói ở đây mà một phân tiền cũng không chịu đưa ra, để nó ở chỗ này chết cũng được sống cũng không màng!”

“Im đi, cha im đi…” Toàn thân Phương Đăng mềm nhũn, ngay cả giọng nói cũng trở nên rất mong manh. Chẳng lẽ đây chính là lý do hai người đàn ông lạ mặt khi nãy bỏ đi sao?

“Mày không tin hả, ông nói cho mày biết, năm đó con trai của cô cô mày do chính tay tao đem chôn ở ngay phía sau trường bắn. Chu Nhan trước khi chết còn xin tao đem tro cốt của nó chôn cùng ở đó. Tao không làm, nó quá ngu ngốc, chính là họ Phó đó đã làm hỏng đời của nó, sau khi chết tao cũng muốn cho nó tránh xa bọn họ ra… Mày cũng tránh ra bọn chúng ra cho tao, bằng không mày và cô cô mày sẽ đều có chung kết quả”.

“Tôi bất kể, cha thả anh ta trước đi!” Phương Đăng hồi phục lại tinh thần, cố gắng lục trên người cha mình tìm chìa khóa, bị Phương Học Nông hất ra, một lần nữa văng đụng lên cánh cửa.

“Chìa khóa đâu? Cha tha cho anh ấy đi. Coi như anh ấy không phải là con trai của cô cô, dù gì cũng là một mạng người. Anh ấy chưa bao giờ làm hại cha mà.”. Cô vẫn chưa bỏ cuộc, kéo cánh tay của Phương Học Nông xuống.

“Sao hả? Ông còn tưởng có thể kiếm được một mớ, dù gì cũng chính tao bồng nó giao cho cô cô mày, để mười mấy năm nay nó ăn sung mặc sướng. Nào ngờ cái thứ nghiệt chủng đó không có bao nhiêu tiền, còn đem lại rắc rối cho ông. Cái Phó gia Hoa viên chết tiệt đó không ai tốt, dù nó không phải là người của Phó gia, cũng cùng tâm địa xấu xa như đó, thả nó đi, tao cũng không còn đường sống, thà là mất cả chì lẫn chài, mày còn có thể rời xa nó.” Phương Học Nông cắn răng nghiến lợi, nhất định thoát khỏi sự lôi kéo của con gái.

“Không đâu… Tôi sẽ xin anh ấy…”

“Xin nó? Không phải mày nói là tao uất ức sao, cả đời này tao chịu không ít sỉ nhục rồi. Ai tao cũng không xin, một chút tiền cũng không có, cùng lắm thì tất cả đều chết ở đây! Buông tay! Nếu không ông đánh chết mày!” Sức Phương Đăng không tệ, chất men trong người Phương Học Nông phát tác, trong lúc giẫy giụa làm rơi đèn pin trong tay xuống, ông ta hét ầm lên như một người điên: “Mày không đi, tao sẽ giết nó ngay!”

“Được, muốn chết thì tất cả chúng ta cùng chết!” Phương Đăng tuyệt vọng cầm vỏ chai rượu Phương Học Nông ném ở cạnh cửa lên, “Tôi nói một lần nữa, thả anh ấy ra!”

“Nó là gì của mày hả?” Mặt ông ta bị ánh sáng đèn pin đang lăn tròn dưới sàn nhà hắt vào như bóng ma, Phương Học Nông giơ tay lao đến tát Phương Đăng một cái, chỉa tay vào mặt cô mắng: “Tao là gì của mày, hả! Đồ khốn, dám đánh tao sao! Ông đây sớm đã không muốn sống nữa rồi!”

“Mở ra!” Phương Đăng không chịu lùi lại, hét lên một tiếng sắc nhọn đến chính mình cũng nhận không ra.

Mắt Phương Học Nông đỏ sòng sọc, bước tới một bước, miệng đầy hơi rượu nóng hổi phà vào mặt Phương Đăng: “Mày dám ra tay? Giết đi, mày không giết tao thì tao sẽ giết nó, đồ không biết xấu hổ…”

Tay Phương Đăng vung lên, vỏ chai rượu vỡ vụn ra trên đầu con sâu rượu, để lại một âm thanh nặng trĩu. Phương Học Nông ngẩn ra một lúc mới đưa tay sờ lên đỉnh đầu, như không dám tin vào mắt mình. Ngón tay chạm phải một chất lỏng sềnh sệch khiến ông ta điên tiết, gầm lên rồi lao đến chỗ Phương Đăng, Phương Đăng dùng hết sức đẩy hắn một cái, hắn loạng choạng té ngã xuống từng nấc thang một, lăn dài không có điểm dừng, từ trên đầu cầu thang bay thẳng xuống dưới, lưng đập vào vách tường thở hổn hển từng cơn một, trong nhất thời không thể nào cử động.

Phương Đăng buông tay, nửa mảnh vỏ chai rơi xuống đất, cô nhặt cây đèn pin vẫn còn sáng cầm lên tay, kinh hoàng chạy đến xem vết thương trên đầu của Phương Học Nông, bị Phương Học Nông hất mạnh tay ra. Hắn ta nguyền rủa cô thậm tệ, nhưng lại không cách nào ngồi dậy. Phương Đăng thấy phía trong nịt da của hắn treo chùm chìa khóa, thừa dịp hắn còn đang nửa tỉnh nửa mê, giật chùm chìa khóa xuống, run rẩy cắm vào ổ khóa.

Cảm tạ trời đất, chùm chìa khóa của Phương Học Nông chỉ có le que mấy chìa, sau hai chìa tra vào không mở được, Phương Đăng tưởng chừng như tim mình nhảy cẫng ra ngoài nghe tiếng kêu giòn của ổ khóa mở ra, cô vội vàng rút chìa ra đẩy cửa vào trong, dùng đèn pin đảo một lượt quanh phòng.

Đó là căn phòng hẹp không tới mười lăm mét vuông, không biết trước đây sử dụng làm gì, nhưng bây giờ bốn phía trống trơn, trừ một đống rơm rơi vãi trên mặt đất, mấy cái hộp cơm trống rỗng, còn có một người bị trói trên ghế ở góc phòng.

Vừa nhìn thấy Phó Kính Thù, nước mắt Phương Đăng lập tức trào ra, nhưng cô không bận tâm lau nữa, mặt mũi đầy nước, cô xông tới bên anh với tốc độ kinh hoàng, xé miếng vải bố đang buộc miệng anh ra, cúi người cởi sợi dây thừng đang trói chặt tay anh.

Đầu ngón tay của Phó Kính Thù bị buộc chặt lại sau lưng ghế, cổ tay bị ma sát hằn lên những đường máu nhạt, Phương Đăng cố hết sức mở, nhưng sợi dây thừng quá chặt, cô lại không có bất kỳ dụng cụ nào trong tay. Vừa ráng mở trói, Phương Đăng vừa cầm đèn pin trên tay kiểm tra động tĩnh ngoài cửa. Rốt cuộc một phút sau,dây thừng cũng bị cô kéo dãn ra, lúc đó ánh sáng của đèn pin rọi về sàn nhà phía cửa cũng bị che lại, Phương Học Nông ôm đầu lảo đảo đi vào.

Miệng ông ta lẩm bẩm không ngừng: “Tiểu tạp chủng, tiểu tiện nhân…”. Phương Đăng dùng hết khả năng cởi dây thừng ra, tay của Phó Kính Thù lúc này cũng đẩy sang hai phía, cuối cùng thoát khỏi sự trói buộc. Phương Học Nông thấy vậy, vội vàng lao tới, cầm trong tay nửa chai rượu vỡ mà khi nãy Phương Đăng ném xuống.

Chân của Phó Kính Thù còn vướng sợi dây giữa hai chân ghế, anh né người tránh, mang theo cả ghế lật xuống đất. Phương Đăng nhanh chóng nhảy đến ôm lấy eo cha mình.

“Cha, đừng vậy mà, đánh cha bị thương là tôi, bỏ qua cho anh ấy đi!”

Lúc này Phương Học Nông bỗng dưng mạnh đến bất ngờ, máu chảy xuống gần nửa mặt hắn. Cổ họng hắn phát ra một thứ âm thanh quái đản, giọng khàn khàn định nói gì đó, trong lúc hỗn loạn, Phương Đăng chỉ nghe được: “Nó một lòng một dạ yêu mày, cho là đứa bé có thể giữ được mày… mày lại nói nó là kẻ trộm…Đến trước lúc chết nó vẫn hỏi tao, tại sao cuộc đời này lại như vậy… Ai nói cho tao biết… Mày phải xuống dưới thay nó làm trâu ngựa…”

Nhìn bộ dạng ông ta dường như không còn phân biệt được trước mắt mình là ai nữa, Phương Đăng không thể cản một người như vậy, bị ông ta kéo xềnh xệch theo về hướng Phó Kính Thù.

“Tỉnh lại đi, anh ta không phải Phó Duy Nhẫn. Tôi đưa cha đi bệnh viện, để anh ấy đi có được không?”

Phó Kính Thù té ngã trên đất, oằn người cố sức tháo sợi dây thừng dưới chân. Phương Đăng sợ Phương Học Nông tổn thương Phó Kính Thù nên lắc mình lên phía trên chắn giữa hai người họ, thử dùng cách giả ma nhát quỷ để đẩy Phương Học Nông ra xa.

Phương Học Nông nhìn chằm chằm vào cô.

“Chuyện gì tôi cũng vì cô mà làm, tôi không có gạt cô. Đứa bé chết, vì không muốn cô thương tâm, liền tìm cho cô đứa khác, tôi biết cô muốn hắn ta ở lại bên cô và đứa bé… Cô nói muốn tôi đưa cô rời khỏi Qua Âm Châu, muốn tôi vĩnh viễn không tiết lộ chuyện đứa bé trong Phó gia Hoa viên là nghiệt chủng… tôi đều vì cô mà làm, tôi là thứ phế nhân vô dụng, chỉ có thể làm được những thứ này…Cô nghĩ cho họ, họ có nghĩ cho cô không?”

“Tôi biết… tôi biết…” Phương Đăng không dám nói trái lời, hy vọng có thể kéo dài thời gian cho người ở phía sau.

“Chu Nhan, đến giờ cô vẫn xem thường tôi sao?” Phương Học Nông thở hổn hển, sự chú ý vẫn còn dồn vào Phương Đăng đang chắn trước mặt mình.

Phó Kính Thù cuối cùng cũng thoát khỏi sợi dây dưới chân, cố sức đứng lên. Nhưng anh đã bị cột vào chiếc ghế này gần một ngày một đêm, không một giọt nước, toàn thân khó lòng động đậy, tay chân rời rã như không phải nằm trên cơ thể chính mình. Phương Học Nông nghe được tiếng động, đẩy Phương Đăng qua một bên.

“Phó Thất, anh đi nhanh đi”.

Phương Đăng muốn cản Phương Học Nông lại, nhưng Phương Học Nông ép sát cô vào tường, chỉa mảnh chai bén nhọn vào cổ cô.

“Mày không phải Chu Nhan! Đồ khốn kiếp chỉ nghĩ đến người ngoài, biết vậy tao đã không nuôi lớn mày.” Mặt mày Phương Học Nông dữ tợn, nhưng mảnh chai cầm trong tay đã không còn sức mạnh.

Phó Kính Thù không đời nào chịu bỏ lại cô, anh cầm chiếc ghế dưới đất lên đập mạnh vào phía sau của Phương Học Nông, cố gắng để hắn buông tay.

“Ông nói láo!” Anh lớn tiếng đáp lại Phương Học Nông, “Ông là kẻ gạt người, hồ ngôn loạn ngữ!”

Dù mới vừa được thoát ra, ngay cả đứng còn chưa vững nhưng lực đánh xuống vẫn không nhẹ, Phương Học Nông rên lên một tiếng, nhưng tay vẫn không chịu rời ra. Phương Đăng thấy Phó Kính Thù giơ ghế lên lần nữa, liền lớn tiếng van xin: “Ông ta chỉ điên thôi! Anh đi nhanh đi, còn có đồng bọn đó!”

Phó Kính Thù do dự một chút, ném băng ghế xuống, dùng tay không cố kéo Phương Học Nông ra khỏi Phương Đăng. Phương Học Nông có chết cũng không buông tay, Phương Đăng cảm thấy đau buốt ở cổ, cô biết mảnh chai đó như lưỡi dao có thể dễ dàng đâm xuyên qua cổ mình. Mũi cô tràn đầy mùi máu tanh, không biết là máu của Phương Học Nông hay máu của cô. Trong phút chốc một ý niệm trống rỗng chạy qua đầu cô, có lẽ ông ta thật sự là cha ruột của cô, nếu không tại sao mùi máu này lại giống nhau đến vậy.

Không hiểu tại sao, khi nhìn thấy máu Phương Đăng chảy ra, mảnh chai kề vào cổ cô cũng trở nên dịu lại, cô dùng cơ hội này đẩy mạnh một cái, Phó Kính Thù cũng nắm cánh tay Phương Học Nông kéo ra giúp cô thoát thân, trong lúc giằng co Phương Học Nông ngã mạnh xuống đất, thân thể nặng nề đập xuống sàn nhà xi măng một cái, phát ra âm thanh thật lớn, sau đó thì trở nên im ắng.

“Cô sao rồi?” Phó Kính Thù cầm đèn pin lên xem vết thương trên cổ của Phương Đăng.

Phương Đăng lấy tay che vết thương, máu cũng không ra nhiều như cô nghĩ, chắc là chưa tổn thương động mạch.

“Còn chưa chết”. Cô thất thần đáp lại, nắm tay Phó Kính Thù, sợ hãi nhìn Phương Học Nông nằm dài trên mặt đất.

Phó Kính Thù đẩy cô ra sau lưng mình, vừa đề phòng vừa cúi xuống cầm bả vai Phương Học Nông mà lật nhẹ lại. Phương Đăng nhất thời che miệng kêu lên một tiếng bi thương, Phó Kính Thù cũng há hốc miệng cứng đơ, mảnh vỡ thủy tinh cắm thẳng vào yết hầu của Phương Học Nông, máu chảy như suối trên sàn nhà, Phương Học Nông co quắp giật giật vài cái, dần dần bất động.

Hai người trẻ tuổi bị cảnh tượng trước mắt làm cho sợ điếng hồn, kinh ngạc đứng yên tại chỗ, quên cả trốn chạy, cũng không hề kêu cứu. Nước mắt trên mặt Phương Đăng đã khô đi trong không khí lạnh lẽo như băng giá, dường như tất cả xung quanh đều biến mất, chỉ cảm giác duy nhất bàn tay của anh, nắm tay cô thật chặt, giống như đang dựa vào nhau, như là sẽ ở bên nhau mãi mãi.

“Đi”. Phó Kính Thù nhanh chóng phản ứng, nơi này không phải là chỗ có thể ở lâu,  nói không chừng đồng bọn của Phương Học Nông đang quay lại.

Phương Đăng mặc cho anh dắt tay cô rời khỏi căn nhà ác mộng, theo con đường mòn vắng vẻ bên bên sườn núi chạy như điên về hướng biển. Màn đêm bình lặng yên tĩnh của Qua Âm Châu đang ở phía trước chờ đợi họ.

Khi Phương Đăng cùng Phó Kính Thù dừng lại ở con đường sáng rực ánh đèn đầu tiên, mới phát hiện đêm nay khắp nơi nơi ở Qua Âm Châu đều treo đèn kết hoa, người đi đường đông đúc nhộn nhịp kéo về trung tâm hòn đảo nhỏ, ánh điện sáng như ban ngày, mọi người ai cũng giữ nụ cười trên mặt, nhà nào cũng treo lồng đèn đỏ ngoài hiên rất náo nhiệt. Cả hai đều quên, hôm nay là Nguyên đán, một năm mới lại bắt đầu.

Người bán hàng rong nữa đêm nhìn họ bằng ánh mắt kỳ lạ, cả hai không hẹn mà cùng quay đầu nhìn lại rồi dốc hết toàn lực chạy khỏi nơi đó, mới phát hiện bóng tối địa ngục ở đằng kia và hơi thở ấm áp náo nhiệt tràn đầy mùi vị cuộc sống trước mắt cách nhau cũng không quá xa như tưởng tượng, như bên kia là đèn hoa rực rỡ, còn ngoài biển xa là màu đen trải dài vô biên vô tận.

Họ đang trốn chạy sao? Hay vừa lạc vào con đường dài xa lạ?

Họ đã đi qua, bỏ hoàn toàn mọi thứ lại đằng sau?

Họ từ đâu tới, lại có nơi nào để đi không chứ?

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 06:14:47 | Xem tất


Chương 14: Em chính là tôi





Buổi chiều, Phương Đăng ngồi trong căn phòng nhỏ trên lầu hai của Phó gia Hoa viên, ánh mặt trời rọi qua ô cửa sổ, chiếu vào những mảnh gỗ ghép hình hoa trên sàn nhà. Ánh nắng đó nhất định rất ấm áp. Mặt trời giữa mùa đông thường dễ đem lại cho người ta cảm giác uể oải, dù cô đang ngồi ở một nơi khuất bóng.

Ở bộ salon, trừ cô còn có Phó Kính Thù cùng với vị cảnh sát làm việc trên đảo, còn một người lạ ngồi đối diện trên ghế nệm. Thật ra cũng chẳng phải là người lạ, nếu như nhớ không lầm, người đàn ông này Phương Đăng từng gặp qua ở hội trường cô nhi viện. Chẳng qua không ngờ ông ấy chính là luật sư của Phó gia.

Lão Thôi chắp tay đứng sau lưng Phó Kính Thù cách đó không xa, nét mặt vẫn bình thản như thường lệ. Người dân cảnh mập mạp vừa hỏi chuyện Phó Kính Thù, vừa cúi đầu viết không ngừng vào quyển sổ. Luật sư họ Lục thỉnh thoảng chen vào vài câu nói, lão Thôi đứng bên cạnh liền gật đầu tán thành.

Phương Đăng không nhớ đây là lần thứ bao nhiêu cô bị cảnh sát hỏi thăm, chuyện đã xảy ra đúng một tuần. Vết thương trên cổ cô giờ đã đóng mài, tấm vải mỏng băng ở cánh tay Phó Thất cũng đã tháo ra, để lại vết sẹo có phần xấu xí.

“… Cậu tháo dây, sau đó nhặt lấy mảnh chai đập vào đầu ông ta, ông ta giằng lấy mảnh chai…”

Câu nói này của vị dân cảnh mập mạp bay vào tai Phương Đăng, cô nhìn Phó Thất một cái, anh gật đầu với người cảnh sát, thần sắc vẫn bình thường.

Hôm đó khi bọn họ chạy trốn an toàn, lão Thôi rất nhanh cùng cảnh sát chạy đến hiện trường. Sau đó cả hai phải đến đồn công an, bệnh viện, vào nhà xác… lúc nào cũng xuất hiện hết người này đến người khác, hỏi đủ thứ vấn đề. Cô không tài nào nhớ được toàn bộ quá trình sự việc, cả người cô như bay lơ lửng trên không trung, bản thân như một con rối bị người ta giật dây trong mấy bộ phim hoạt hình xưa cũ.

Trước khi họ đến, Phó Thất đã nhanh chóng bàn bạc cùng cô mọi chuyện. Anh muốn cô dù là trước mặt cảnh sát hay bất luận người nào khác, đều phải khai người đả thương Phương Học Nông chính là anh, cô chỉ vì cứu anh mà xuất hiện ở đó, hơn nữa còn bị Phương Học Nông gây thương tích. Sau đó Phương Học Nông muốn giết họ nên hai bên giằng co rồi Phương Học Nông ngã xuống, hung khí trên tay tự đâm vào cổ mình, chính vì vậy mà bỏ mạng.

“Dù bọn họ không chịu vì tôi mà trả số tiền chuộc khổng lồ, nhưng đã có Luật sư ở đây, họ cũng không muốn nhìn thấy người Phó gia dính líu đến mấy chuyện kiện cáo không rõ ràng, vì vậy mọi thứ sẽ đơn giản hơn rất nhiều”. Khi nói mấy lời này giọng nói Phó Thất vẫn bình thường, nhưng nét mặt lại chán chường một cách kỳ lạ. Lúc họ vừa mới thoát thân, Phương Đăng không hề thấy ở anh vẻ mừng vui may mắn vì thoát nạn, ngược lại là sự tuyệt vọng của một đống tro tàn. “Dĩ nhiên, bởi vì bọn họ nghĩ tôi chính là người của Phó gia”

Sau này theo lời cảnh sát, nơi Phó Kính Thù bị trói chính là nhà xác của sở y tế cũ. Phương Học Nông bị kiện chính là chủ mưu của vụ án này, ông ta còn hai đồng bọn, đều là dân ngoại tỉnh lên đảo làm nhân công ở công trường. Sau khi Phương Đăng cùng Phó Kính Thù chạy thoát, hai người đó hôm sau cũng bị bắt về quy án, hơn nữa lại mau chóng khai ra. Bọn họ cùng Phương Học Nông vừa uống rượu vừa chơi cá cược, nghe nói Phó gia là dân có tiền, hơn nữa còn có người thân là đại gia ở nước ngoài, nên họ mới nảy sinh ý nghĩ kiếm một mớ tiền cung phụng bản thân, cùng với Phương Học Nông bàn bạc thừa lúc không có lão Thôi ở nhà nhảy vào trói Phó Kính Thù lại, sau đó bỏ vào bao bố, dùng xe vận chuyển vật liệu xây dựng ở công trường chở đến nhà xác của sở y tế cũ, sau đó lại bảo với lão Thôi nói cùng Phó gia đưa ra số tiền chuộc lớn. Sau khi bị từ chối, ba người mỗi người có một ý kiến khác nhau, chủ mưu Phương Học Nông đề nghị giết người diệt khẩu, hai người kia vì sợ hãi nên bỏ ra ngoài, chuyện về sau họ đều không biết.

Phương Học Nông hôm đó chết ngay tại chỗ, dù hai người kia nói thế nào cũng không thể nhảy ra cùng họ đối chất được. Phương Đăng không nói ra nghi ngờ trong lòng mình, nhưng cô biết rõ hai người họ khai gian. Sống bên cạnh cha mình suốt mười sáu năm, ông ta là kẻ cặn bã vô dụng, làm gì có dũng khí và quyết tâm đến vậy, lại càng không có khả năng tạo ra một âm mưu bắt cóc tống tiền. Phương Học Nông hận Phó gia không phải là chuyện ngày một ngày hai, nếu có gan thì ông ta đã sớm ra tay, cần gì chờ đến bây giờ. Lúc trước khi Phương Đăng và cha lớn tiếng cãi vả còn chọc giận ông ta, nhưng tại sao lúc ấy ông ta cũng không làm khó dễ? Nếu nói không có người ở đằng sau xúi biểu, bày mưu tính kế cho ông ta, đánh chết Phương Đăng cũng không tin. Tống tiền thất bại, kết quả phải diệt khẩu bịt đầu mối, người nào ngăn cản thì kẻ khác sẽ ra tay, người chết rồi không thể nói được nên chỉ còn cách mặc cho người sống muốn nói gì thì nói. Hai tên đồng bọn thừa nhận nhất thời hồ đồ nghe lời Phương Học Nông xúi bảo mà tham dự vụ bắt cóc này, đẩy hết tội cho ông ta, cũng nhất định không khai ra kẻ đó. Phương Đăng trong lòng suy đoán nếu thật sự có kẻ chủ mưu, hắn ta phải thông minh hơn Phương Học Nông rất nhiều lần, mới có thể sau khi chuyện bại lộ mà hắn lại không có bất kỳ dính líu nào.

Thật ra Phương Đăng từng làm như vô tình hỏi lão Thôi mấy ngày đó có gặp Thôi Mẫn trên đảo hay không, lão Thôi nói Thôi Mẫn không có đến tìm ông. Ngược lại A Chiếu đứng cạnh lên tiếng, buổi sáng trước ngày Nguyên Đán còn gặp chú Thôi ở cạnh bên Phó gia Hoa viên, lúc ấy chú Thôi còn cho cậu ta vài viên kẹo.

A Chiếu có ấn tượng tốt với Thôi Mẫn, còn móc ra một viên kẹo để dành lại cho Phương Đăng xem. Phương Đăng tin lời cậu nói, cũng tin lão Thôi không gạt cô, vì cô cũng tận mắt thấy Thôi Mẫn xuất hiện trên đảo. Hắn ta rời khỏi Phó gia Hoa viên chẳng vẻ vang gì, nếu như lên đảo không phải để thăm người chú lớn tuổi thì còn nguyên nhân nào khác? Là ai đã mua thuốc lá tốt, rượu đắt tiền cho Phương Học Nông? Người nào đối với Phó gia và Phó Kính Thù mà nói còn rành hơn cả lòng bàn tay? Cảnh sát cho biết cửa chính Đông lâu cũng không có dấu vết đục khoét gì, Phương Học Nông cả đời căm hận Phó gia, chưa bao giờ bước vào Phó gia Hoa viên thì lấy đâu ra chìa khóa?

Phương Đăng chỉ nói với Phó Thất những nghi ngờ của mình, sau khi nghe xong anh trầm mặc một hồi, rồi cho Phương Đăng biết lúc bị bắt cóc anh đang tưới hoa ở bệ cửa sổ lầu hai, mọi chuyện xảy ra rất bất ngờ, khi anh nghe được tiếng động thì khách không mời mà đến đã lên lầu. Đối phương có ít nhất ba người, anh không cách nào thoát thân được, chỉ kịp đẩy ngã chậu hoa mỹ nhân, nhưng anh không chính mắt nhìn thấy Thôi Mẫn, cũng không nghe được giọng nói của hắn ta. Suy nghĩ của Phương Đăng không phải là không có lý lẽ, chẳng qua là vô bằng vô cớ, không thể buộc tội. Thôi Mẫn không quá ngốc, nếu như hắn ta thật sự dính vào, sau chuyện xảy ra lần này cũng không dám hành động khinh suất nữa.

Luật sư của Phó gia quả nhiên đúng như Phó Kính Thù đoán mau chóng xuất hiện trên đảo. Nghe lão Thôi nói, buổi chiều ngày hôm sau khi Phó Kính Thù mất tích, ông nhặt được lá thư nặc danh ném vào Phó gia Hoa viên. Trong thư nói Phó Kính Thù đang ở trong tay bọn họ, yêu cầu lão Thôi và người nhà của Phó Kính Thù trong một ngày gom đủ năm trăm ngàn tệ, đó là điều kiện để họ thả Phó Kính Thù, nếu không có tiền thì hãy chờ mà nhận xác.

Lão Thôi lúc đó lòng nóng như lửa đốt, không dám tự tiện làm chủ, vội vàng gọi điện thoại đến Tây Á. Bà chủ Trịnh không có nhà, người quản gia tiếp điện thoại. Phải chờ hai giờ sau, bên Tây Á mới báo cho ông biết ý của bà chủ Trịnh, đó chính là lập tức báo cảnh sát, không được dung túng tội phạm.

Lão Thôi cũng không ngờ hồi âm của phía bên kia lại đoạn tuyệt đến vậy, ngay cả một chút thương lượng cũng không. Phó Thất dù sao cũng là do ông nuôi lớn, ông không muốn đứa trẻ này xảy ra chuyện, cũng không dám tùy tiện báo cảnh sát, nhưng năm trăm ngàn tệ đối với ông mà nói là con số trong thời gian ngắn khó lòng kiếm đủ, trong lúc tuyệt vọng ông nhớ lại cách đây không lâu đã gặp luật sư Lục Ninh Hải, hy vọng trong lúc một mình chẳng biết cậy ai có người giúp đỡ cho mình.

Sau khi nhận được điện thoại Lục Ninh Hải liền quay lên đảo, ông nói ấn tượng của mình với Phó Kính Thù rất tốt, tình nguyện được giúp một tay, nhưng khi lão Thôi ngỏ ý muốn đem số tiền ủy thác kinh doanh rút ra làm tiền chuộc thì ông không cách nào đáp ứng, chỉ có thể bày tỏ sự tiếc nuối. Đối với thái độ của Phó gia trong việc này, ông không tiện có ý kiến, chỉ đề nghị lão Thôi chuyện đến nước này có lẽ biện pháp duy nhất là báo cảnh sát.

Sau khi lão Thôi cùng với Lục Ninh Hải đến đồn cảnh sát, trở lại Phó gia Hoa viên không bao lâu thì nhận được điện thoại của bọn bắt cóc. Đối phương hỏi ông ta khi nào tiến hành giao dịch, lão Thôi khổ sở nói quả thật mình không kiếm ra năm trăm ngàn tệ. Tiếng người bên đầu dây kia hét ầm lên, căn bản không chịu tin, còn nói họ không đòi hỏi nhiều, sự nghiệp Phó gia lớn như vậy, làm sao có thể ngay cả một ít tiền này cũng không có được, nếu vậy họ chỉ còn cách phải xử Phó Kính Thù. Lão Thôi trào nước mắt cầu xin tha mạng, đối phương bất đắc dĩ liền cúp điện thoại thật mau.

Lúc ấy Lục Ninh Hải khuyên lão Thôi không nên hốt hoảng, nếu đối phương gọi điện tới, không chừng với cảnh sát mà nói còn là đầu mối truy lùng, họ mới đem tin này báo lại cho cảnh sát phụ trách vụ án, lúc đó liền nhận được tin Phó Kính Thù và Phương Đăng bị thương trốn thoát trở về.

Những tin tức này đều là do Phó Kính Thù nghe được từ lão Thôi. Với thái độ của phía Đại Mã trong vụ bắt cóc lần này, lão Thôi đã cố tình diễn tả tự nhiên khéo léo đi nhiều, nhưng bất luận ông có nói vòng vo thế nào cũng không thể tránh khỏi sự thật, đó chính là đối với an nguy của Phó Kính Thù, những người thân thích của anh bên kia chẳng hề quan tâm. Thật ra việc này, trong lòng Phó Kính Thù biết rất rõ. Trước đây đã nghe nói bà chủ Trịnh lúc còn trẻ làm việc mạnh mẽ, quả quyết khôn khéo không thua gì nam tử, đại khái đây cũng là một trong những cách làm việc của bà, nói một là một hai là hai không dây dưa kéo dài. Nếu đã nói đem số tiền ủy thác làm ăn mà giao lại cho Phó Kình Thù, hai bên không có liên hệ gì về kinh tế, sao bà phải đưa ra năm trăm ngàn tệ để chuộc anh về?

Lúc ở bệnh viện Lục Ninh Hải cũng an ủi Phó Kính Thù, nói gặp tình huống như vậy dù thỏa hiệp với bọn cướp cũng chưa chắc có thể đổi lấy bình an, báo cảnh sát là biện pháp tốt nhất, nên bà chủ Trịnh cũng cho là vậy. Phó Kính Thù yên lặng gật đầu, lúc nhìn qua Phương Đăng mới nở nụ cười chua xót nói một câu: “Đừng nói tôi có phải là người của Phó gia không, dù là đúng hay sai thì cái mạng này cũng không đáng năm trăm ngàn tệ”.

Phương Đăng không biết nói gì cho phải, anh đã hiểu rõ như vậy, mọi biện pháp an ủi anh đều vô ích. Nhưng biết là một chuyện, có thể chấp nhận hay không lại là chuyện khác, dù anh đã học được cách tự hạ bản thân mình xuống, nhưng khi nói ra câu nói đó, trong mắt đều hiện rõ sự cô đơn.

Điều may mắn duy nhất là Phương Học Nông ngoài Phương Đăng ra cũng không nói “bí mật đó” của Phó Kính Thù cho người ngoài biết, ít nhất là với hai can phạm trong quá trình điều tra chỉ nói Phó gia keo kiệt, tuyệt đối không đề cập bất cứ điều gì liên quan đến thân thế của Phó Kính Thù. Ngày Phó Kính Thù ra viện, con gái của bà chủ Trịnh, hay cũng chính là “cô cô” của anh đại diện gia đình gọi điện thoại về, nói anh không cần suy nghĩ nhiều cứ an tâm tịnh dưỡng, những vấn đề liên quan đến Luật pháp sau này đều có thể giao cho Luật sư thay mặt xử lý.

Lục Ninh Hải là người thẳng thắn, sự chuyên nghiệp của ông trong lĩnh vực pháp luật quả thật rất đáng tin tưởng. Sau khi ông ra mặt, việc dây dưa với Phương Học Nông khi Phó Kính Thù cùng Phương Đăng chạy trốn diễn giải vô cùng thuận lợi, kết cuộc cho là tự vệ hợp pháp, trong quá trình tự vệ xảy ra cái chết của Phương Học Nông là chuyện không ngờ, chẳng liên quan đến hai người. Lời khai của hai người họ cũng ăn khớp, cảnh sát trừ việc Phương Đăng không báo cáo mà tự mình hành động tỏ ra thiếu hài lòng thì cũng không phát hiện vấn đề gì khác, hôm nay là ngày sau cùng cho khẩu cung theo thủ tục, sau đó vụ án sẽ kết thúc. Kẻ xấu thì một mạng tử vong, còn lại đã sa lưới, người tốt an toàn quay về, tất cả cũng cho là chuyện đáng mừng.

Chiều hôm vụ án khép lại, Phương Học Nông bị đưa ra ngoài đảo hỏa táng, Phương Đăng đi nhận tro cốt của ông về. Phó Kính Thù cùng cô đem tro cốt vùi xuống bãi tha ma trên đảo. Thay người nhặt xác trì tang là chuyện cả đời Phương Học Nông đã làm, ai có thể ngờ sau khi chết việc ma chay của ông ta lại chỉ qua loa đến mức này.

Suốt mười sáu năm qua lúc nào Phương Đăng cũng tự hỏi tại sao mình có một người cha như vậy. Lúc ông ta còn sống, cô thường nguyền rủa ông sớm chết đi, còn nghĩ nếu có một ngày ông ta qua đời bản thân mình sẽ chẳng có chút thương tâm, còn thấy may mắn vì được giải thoát. Nhưng lúc ôm hộp tro cốt mộc mạc trên tay, lại không kềm nén được mà khóc lớn. Ông ta dù sao cũng là người nuôi cô khôn lớn, có khi còn là thân sinh của cô, dù có vô sỉ đến cỡ nào cũng đã nương tựa vào nhau nhiều năm như vậy. Có những thứ lúc không còn nhìn thấy nữa người ta mới biết, dù có ghét đến cỡ nào, nhưng rốt cuộc cũng chẳng cách nào dứt bỏ. Chính là vì như vậy, cô không thể trơ mắt nhìn ông ta vì lòng tham nhất thời mà vạn kiếp không quay đầu lại được, chỉ mong cuối cùng có thể khuyên ông rút tay lại. Dù Phương Học Nông tham lam ngu ngốc, cũng không quên ý định kiếm một khoản tiền dành sau này để lại cho cô. Phút sau cùng ông lại không nỡ ra tay, là vì nhớ Chu Nhan, hay vì không quên được Phương Đăng chính là máu thịt của mình? Họ oán nghét nhau, đối nghịch nhau, nhưng lại xả thân hỗ trợ nhau, cuối cùng vẫn không thể cắt đứt được lòng thương tưởng. Chỉ tiếc là đi qua đoạn đường khó khăn này, cuối cùng họ đều không còn đường quay về nữa.

Mai táng Phương Học Nông xong, Phương Đăng cùng Phó Kính Thù thừa lúc trời tối đã tìm ra gốc đa ở trường bắn. Họ dùng công cụ bén nhọ để đào sâu dọc theo rể cây. Nếu như nói trước đó là Phó Kính Thù may mắn, thì đúng là bây giờ xẻng của anh đã đào được một thứ thật, lấy tay phủi hết lớp bùn bám bên trên, giữa đất vàng bao phủ đích thị là hài cốt một đứa bé, anh dường như không còn chút sức lực, ngồi bệt dưới táng cây đa. Phương Đăng trong lòng rối bời cũng chậm chạm quỳ xuống, ôm chặt lấy đầu anh.

“Phương Đăng, cô nói có thể không chứ, cha cô nửa đời hồ ngôn loạn ngữ, duy chỉ cần lần này ông ta không gạt người”. Âm thanh của Phó Kính Thù từ cổ của Phương Đăng truyền ra, không thể phân biệt là đang khóc hay cười. “Lúc người khác gọi tôi là nghiệt chủng, tôi tự nhủ mình họ Phó. Cha tôi chết, họ không chịu nhìn nhận tôi, cũng chẳng sao, tôi còn có bản thân mình. Nhưng bây giờ tôi ngay cả bản thân cũng không có, đứa trẻ chôn dưới lòng đất này mới là Phó Kính Thù, vậy tôi là ai chứ?

Một chú chim đậu trên cây đa bị tiếng động làm giật mình, kêu quang quác rồi bay thật xa. Liệu nó có thể tìm được nơi dừng lại, dưới một táng cây nào khác không? Một khi bí mật này lộ ra, anh biết phải nương náu ở đâu đây? Phương Đăng cúi xuống, lấy từng vốc từng vốc đất trùm lên bộ hài cốt trẻ con lần nữa, như muốn đem bí mật này vĩnh viễn chôn xuống thật sâu.

Phó Kính Thù cũng đứng dậy, ngơ ngác nhìn cô hành động.

Anh hỏi anh là ai. Thật ra thì căn bản cô không quan tâm. Ở trong lòng Phương Đăng, anh chỉ là Tiểu Thất của cô, không liên quan đến họ, không liên quan đến huyết thống, chẳng liên quan đến bất cứ điều gì cả.

“Cha tôi đã hóa thành tro, không ai biết dưới táng cây này chôn cái gì. Tin tôi đi, anh vĩnh viễn là Phó Kính Thù” – Cô nói với người bên cạnh mình.

“Là tôi thật sao?” Anh nhẹ nhàng nói một câu.

Ánh trăng nhợt nhạt, giống như một màng sương muối thật mỏng trùm lên mặt anh. Phương Đăng muốn đưa tay để lau sạch màng sương này hai bên má anh.

Cô không thể kềm chế được suy nghĩ, nếu như anh không phải Phó Kính Thù, bọn họ sẽ làm thế nào? Không, không, không, chỉ cần anh vui vẻ, cô nguyện vì anh làm bất cứ chuyện gì.

“Anh tin tôi không, Tiểu Thất? Có thể tôi là người cuối cùng trên đời biết bí mật này. Anh có tin tôi sẽ đem bí mật của anh giữ kín cho đến ngày nhắm mắt không?”

Phó Kính Thù cúi đầu, làm theo bộ dạng của cô từ từ lấp đất lại.

“Phương Đăng, nếu phải nói một lời từ đáy lòng, tôi sẽ cho em biết, đừng tin bất cứ ai, trừ bản thân mình”. Anh đưa tay nén đất lại cho bằng phẵng, quay đầu lại nhìn cô mỉm cười, “Nhưng em chính là tôi”.

Sau khi Phương Học Nông chết, nhân viên khu phố cũng một lần đến thăm hỏi Phương Đăng, cô chưa đầy mười tám tuổi, theo quy định không còn cha mẹ, không có người thân có thể tạm thời dọn vào ở tại cô nhi viện Thánh Ân cho đến lúc trưởng thành.

Phó Kính Thù từng lên tiếng kêu cô dọn vào Hoa viên Phó gia, lão Thôi cũng ngầm đồng ý. Nhưng Phương Đăng không làm vậy.

Sự việc xảy ra không lâu, cô liền bị Phó Chí Thời gọi là “Con gái tên bắt cóc”, mọi người vui vẻ bàn tán vụ án lớn xảy ra trên đảo, cũng không tránh được ở sau lưng cô chỉ trỏ gần xa.

Phương Đăng tự trêu mình, từ “Con gái ma men” đến “con gái kẻ bắt cóc”, có thể coi là được thăng chức hay không? Nhưng bất kể là tên gọi trước hay sao thế nào, trước mặt người khác, cô cũng phải tránh xa Phó Thất một chút. Ai mà không bàn tán nếu thấy nạn nhân lại ở chung một nhà với con gái tên tội phạm bắt cóc mình, hơn nữa lại còn gắn bó thân mật.

Điều kỳ lạ hơn là, vị Luật sư họ Lục của Phó gia sau khi xử lý xong vụ án bắt cóc liền đến tìm Phương Đăng, ông ta nói muốn có một đứa con gái, nếu Phương Đăng đồng ý, ông ta có thể làm cha nuôi của cô, cho cô một mái nhà.

Phương Đăng lúc đó không khác nào nghe chuyện cổ tích. Trước khi Phó Thất xảy ra chuyện, cô và người họ Lục này chưa từng quen biết, sao ông ta lại muốn nhận nuôi cô? Cho dù ông ta có thèm con gái đến phát điên, cô cũng đã mười sáu tuổi, sẽ mau chóng trưởng thành, nhất định không phải độ tuổi thích hợp để làm dưỡng nữ.

Phương Đăng đứng tựa vào lan can bến phà, nghe âm thanh tiếng phà rời bến, nói thẳng với Luật sư những nghi ngại của mình.

Theo như cô thấy, Lục Ninh Hải cũng không phải hạng người tùy tiện, quyết định này với ông mà nói cũng hết sức gian nan. Ông trả lời: “Có thể vì cháu rất giống vợ tôi, là người vợ đã qua đời của tôi. Lúc ôm cô ấy vào lòng khi xảy ra tai nạn xe cộ thương tâm, tôi nghĩ, nếu như có một đứa con gái, sau này lớn nên phải nhất định giống hệt hình dáng này”.

Phương Đăng quay đầu nhìn ông mỉm cười: “Vậy chú muốn nhận tôi làm con gái hay làm vợ?”

Hiển nhiên vị Luật sư rất khó trả lời câu hỏi này. Cách đây không lâu khi xảy ra chuyện ồn ào trên đảo, ông vẫn nhớ dáng vẻ của cô bé phóng ào lên tường, nụ cười đó dường như đã để lại trong lòng ông một cảm giác sâu sắc, sau này biết cô dính vào vụ án bắt cóc Phó Kính Thù, ông cũng tận tâm tận lực thay họ xử lý tốt chuyện kia. Khi biết cha cô bé trong vụ án này cũng qua đời, hiện giờ là cô nhi không nơi nương tựa, việc nhận nuôi cô mà nói đối với ông không chỉ là tình cảm nhất thời mà cũng là một ý niệm kiên định.

Ông có cảm giác, Phương Đăng cũng như Phó Kính Thù, tuy còn nhỏ tuổi lại dường như đã trải qua mấy đời người.

“Cháu không muốn theo tôi sao? Tôi có một đứa con trai cách cháu không bao nhiêu tuổi, hai đứa có thể sống tốt bên nhau”.

Phương Đăng vén mái tóc bị gió biển thổi phồng lên sau màn tai, lắc đầu: “Tôi không muốn rời khỏi hòn đảo này”.

Luật sư có hơi thất vọng, bất đắc dĩ gật đầu một cái.

Khi phà cập bến, Phương Đăng tưởng ông đã rời đi, không ngờ ông nán lại hỏi một câu.

“Là vì trên đảo này có một người cháu không thể rời xa? Đứa trẻ ở Phó gia…hai người có quan hệ rất tốt”.

Phương Đăng sửng người, định phủ nhận nhưng nghe Luật sư nói: “Tôi có thể hiểu cháu, cậu ta là anh họ cháu. Hai người đều là cô nhi, có người thân ở bên cạnh sẽ cảm thấy có chút an ủi”.

Phương Đăng chỉ cười cười không trả lời. Luật sư lên phà, cô vẫy tay, đưa người từng muốn cho cô một mái nhà rời bến.

Nửa năm sau, một gần nữa vị luật sư họ Lục này lại xuất hiện trước mặt của Phương Đăng.

Lúc này Phương Đăng đã dọn vào cô nhi viện. Tiền thuê căn phòng trọ trên lầu của lão Đỗ đã đến kỳ, cô không có tiền để trả tiếp. Dù Phó Thất đã từng nói, anh còn cơm ăn thì cô không lo bị đói, nhưng sau khi dọn vào cô nhi viện, cô có thể được nhận sự viện trợ của chính phủ. Trong chuyện này A Chiếu là người thấy vui vẻ nhất, cậu ta đã cao hơn không ít, tính tình cũng không còn hèn nhát như trước đây, có Phương Đăng, cô nhi viện có thêm mùi vị của một mái nhà.

Từ gác trọ đến cô nhi viện, thật ra cũng chỉ cách có mấy chục thước, chỉ tiếc căn phòng giường tầng cô ở không có cửa sổ hướng ra đường, nếu không cô có thể nhìn thấy Phó Thất vừa mới trồng lại chậu hoa mỹ nhân bên cửa sổ.

“Bây giờ cháu vẫn có thể cân nhắc đi theo tôi. Tôi sẽ làm thủ tục nhận nuôi rất nhanh” Lục Ninh Hải nhìn Phương Đăng nói.

Đây quả là một người cố chấp, Phương Đăng thầm nghĩ.

Nhìn thấy cô lại lắc đầu thêm lần nữa, Lục Ninh Hải nói: “Nếu như cháu không muốn rời bỏ hòn đảo này là vì Phó Kính Thù, tôi sẽ cho cháu biết, cậu ấy có thể sẽ phải đi khỏi nơi đây”.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 18-4-2013 06:16:26 | Xem tất


Chương 15: Anh nên đi





Lần này Lục Ninh Hải lên đảo, đem theo tin Phó Duy Tín qua đời, dường như mỗi lần ông đến đều liên quan đến chuyện tử vong.

Thật ra, lúc Phó Kính Thù mới nghe cái tên “Phó Duy Tín” thậm chí trong nhất thời không nhớ nổi đó là ai. Cũng may anh sớm nhận ra sự nặng nề trong sắc mặt của Lục Ninh Hải mà kịp thời phản ứng, người cũng mang họ Phó này chính là con trai ruột của bà chủ Trịnh, anh em cùng cha khác mẹ với Phó Duy Nhẫn, anh đối với người này phải gọi một tiếng “chú”.

Nhưng anh với người chú này chưa từng gặp mặt đến khi nghe tin ông qua đời.

Năm xưa bà chủ Trịnh không có con, đó là nỗi đau to lớn nhất trong lòng bà, cho đến tuổi trung niên lại có thể sinh ra một đôi song thai long phượng, bà coi đó là ân huệ to lớn mà trời cao ban bố cho mình. Đôi song sinh của bà nhỏ hơn Phó Duy Nhẫn mười tuổi, là con ruột của Phó Truyền Thanh nhưng sinh trưởng trong hoàn cảnh không giống nhau, hơn nữa bé trai của cặp song sinh này chính là máu thịt của bà chủ Trịnh, từ nhỏ đã cưng chìu ôm ấp trong tay, chỉ e không đem được mọi tinh hoa của cuộc đời mà ban cho nó.

Nghe nói Phó Duy Tín này cũng không làm bà chủ Trịnh thất vọng, sinh ra trong gia đình giàu có từ nhỏ đã phong độ oai nghi, cao lớn khôi ngô, tính tình thông minh hướng ngoại, so với Phó Duy Nhẫn mặt mày nhợt nhạt thiếu sức sống mà nói, càng lộ ra sự khỏe mạnh rạng ngời. Khi còn sống Phó Truyền Thanh luôn cảm thấy áy náy với con riêng của mình là Phó Duy Nhẫn, nhưng nói đến thật tâm yêu quý, ông lại để lòng nghĩ đến đứa con ở cạnh hơn, vả lại tính cách của Phó Duy Tín so với ông lại có nhiều điểm tương đồng.  Điều này làm cho bà chủ Trịnh rất an ủi, cũng xua tan nỗi buồn chồng có con riêng không ít trong lòng.

Trước khi Phó Truyền Thanh lâm chung, hy vọng vợ mình có thể nhận Phó Duy Nhẫn đưa về Tây Á, cùng lúc đó đem hết cơ nghiệp trăm năm của mình và bà chủ Trịnh giao lại cho Phó Duy Tín, đây cũng là nguyện vọng chung của hai vợ chồng ông.

Phó Duy Tín sinh ở Mã Đại, mười mấy tuổi đã được đưa sang Châu Âu học, tính cách đều tương đối bị Tây hóa. Ông đối với việc thừa kế tổ nghiệp gia tộc cũng không hề để ý. Cha mất đi, gia đình đều do mẹ ông kiên cường lèo lái, bản thân chỉ thích tự do tự tại làm chuyện mình muốn. Trọng tâm sinh hoạt của ông là hưởng thụ cuộc đời, hưởng thụ mỹ nhân, hưởng thụ tất cả những thứ xa hoa phù phiếm.

Bà chủ Trịnh đối với thái độ coi cuộc sống như trò tiêu khiển này cũng phê bình kín đáo, bà hy vọng con trai có thể hồi tâm, quan tâm nhiều hơn đến sự nghiệp gia tộc, để tránh sau này khi tiếp nhận sẽ túng ta lúng túng. Nhưng Phó Duy Tín lại cảm thấy anh trai cùng cha Phó Duy Nhẫn và chị ruột Phó Duy Mẫn đều thích hợp với việc này hơn so với bản thân mình.

Tuy nhiên, Phó Duy Tín mặc dù bản thân không thể bỏ tật ham chơi, nhưng là người coi trọng tình nghĩa, tình cảm với chị ruột từ nhỏ đã rất tốt, cả khi vui lẫn khi buồn, đối với anh trai khác mẹ là Phó Duy Nhẫn cũng đối xử không quá tệ. Lúc Phó Duy Nhẫn bệnh, ông ta từng chạy về thăm, còn nhiều lần khuyên mẹ mình nên đối xử tử tế với đứa con cô độc mà anh trai để lại trong nước. Điều này lại chạm đến một nỗi đau khác của bà chủ Trịnh, Phó Duy Nhẫn dù làm thế nào cũng không vừa lòng bà còn có hậu nhân, vậy mà Phó Duy Tín tuổi không còn nhỏ, lại chẳng chịu tìm phụ nữ mà tính chuyện sinh con đẻ cái, vì quan niệm truyền thống này khiến bà chủ Trịnh luôn nóng nảy bất an. Cho dù con gái mình đã lập gia đình sinh con, nhưng chỉ có con do Phó Duy Tín sinh ra mới là cháu của bà, danh chánh ngôn thuận trở thành hậu nhân của Tam phòng Phó gia.

Bất hạnh là chuyện bà chủ Trịnh sợ nhất cũng đã thành sự thật. Hai tháng trước, Phó Duy Tín cùng với người bạn du thuyền ở Nam Mỹ thì gặp tai nạn ngoài ý muốn, lúc vớt lên đã không còn cách cứu chữa, lúc này ông chỉ tròn ba mươi sáu tuổi, tuy có một người bạn gái mật thiết nhưng không để lại đứa con nào.

Cái chết của Phó Duy Nhẫn khiến cho bà chủ Trịnh đang bước vào tuổi xế chiều bị đả kích nặng nề, vì quá thương tâm nên lâm bệnh không thể ngồi dậy, chứng suy tim cũ lại tái phát ác liệt hơn, con gái con rể mà mọi người trong gia đình đều cho rằng bà không qua nổi cửa ải này, đại diện của Nhị phòng cũng bay đến Cát Long (Kuala Lumpua – thủ đô Malaysia) thăm hỏi, luật sư cùng gia tộc và những quan chức cao cấp trong công ty đều vây quanh đầu giường, ai cũng rối trí chuẩn bị đến thời khắc xấu nhất. Nhưng không ngờ, bà chủ Trịnh cuối cùng lại qua khỏi, trước đây không lâu đã có thể xuống giường đi lại. Cùng lúc đó, luật sư đại diện cho Phó gia ở trong nước là Lục Ninh Hải lại theo ý bà xuất hiện tại Phó gia Hoa viên.

Phó Kính Thù nghe xong mục đích viếng thăm của Lục Ninh Hải, yên lặng một hồi, chỉ nghe được tiếng lắc rắc của âm thanh cắt nhành hoa từ cây kéo làm vườn anh đang cầm trong tay. Lục Ninh Hải đang đợi câu trả lời, ông thấy đây có lẽ là đáp án rõ ràng nhất.

“Chỉ một cái họ thì quan trọng đến vậy sao?’ Phó Kính Thù ngẩng đầu hỏi Luật sư.

Lục Ninh Hải đưa mắt nhìn người thanh niên đối diện, ông phát hiện mình cũng không thể hoàn toàn nhìn thấu tâm tư cậu ấy. Đối thoại với người thông minh vừa là điều thoải mái lại vừa là chuyện phiền hà. Thoải mái vì không gặp những câu nói vô vị đáng bực mình, phiền hà là vì những câu nói quá thẳng thừng có đôi lúc làm người khác không khỏi lúng túng.

Lục Ninh Hải nói: “Điều này còn phải xem là đối với ai”.

Ít nhất cả hai đều biết, một chữ “Phó” có quan hệ huyết mạch cùng Phó gia đối với bà chủ Trịnh mà nói là tất cả. Lúc Phó Duy Tín còn sống, bà cơ bản không để mắt đến Phó Duy Nhẫn, cũng có thể làm bộ quên lãng trong nhà còn có một đứa trẻ họ Phó tồn tại. Vì con trai ruột của bà còn trẻ, tương lai bà sẽ có đầy con cháu, đến ngày bà xuôi tay nhắm mắt có thể đem cơ nghiệp mà Phó gia khổ sở gầy dựng cả đời giao lại cho con cháu ruột cùa mình, đời đời truyền lại sự nghiệp tổ tông cho huyết mạch của bà và chồng.

Nhưng Phó Duy Tín trẻ trung phong độ bỗng dưng như lá rụng lìa cành. Sau khi bà vượt qua cửa ải sinh tử, đón nhận sự thật tàn khốc con trai đã vĩnh viễn bỏ mình ra đi, đồng thời phải đối mặt trước tình cảnh Tam phòng Phó gia không còn ai hương khói. Phó Duy Tín không để lại con trai con gái gì, nhưng con gái và con rể của bà chủ Trịnh thì chẳng cần lo. Tuy nhiên con gái là con của người ta, cháu ngoại rốt cuộc cũng là con nhà người khác, đến khi bà chết thì Tam phòng Phó gia cũng coi như tuyệt tự tuyệt tôn, tất cả đều giao về cho họ nhà con rể, sự nghiệp mà hai vợ chồng bà cả đời gầy dựng bằng máu và nước mắt đều phó mặc cho dòng nước.

Dĩ nhiên, bà chủ Trịnh cũng không phải không còn lựa chọn, nhà mẹ đẻ ở bản xứ nổi danh một thời tuy có chút suy tàn nhưng cũng không ít người, xa thì Nhị Phòng tại Đài Loan cũng có người để mắt, nói chung có thể từ trong số con cháu đông đúc của Nhị Phòng chọn ra một người kế thừa Phó Duy Tín đã mất, dù xấu tốt gì cũng là người của Phó gia.

Bà chủ Trịnh đã già, hơn nữa trận ốm nặng lần này càng làm cho bà lĩnh ngộ được, người dù cho mạnh mẽ đến đâu cũng có một ngày lực bất tòng tâm, bà nhất định phải vì chuyện sau này mà lo nghĩ. Bà nhớ đến lúc hôn mê, tựa hồ giữa khoảng mông lung của hai bờ sinh tử thấy được người chồng đã qua đời Phó Truyền Thanh, bộ dạng vẫn còn ngời ngời như lúc trẻ. Chính vì như vậy, bà chủ Trịnh mới đem cả cuộc đời con gái mà phó thác cho ông, từ đó nương dựa vào nhau, trút hết tâm huyết giữ cho được căn cơ Phó gia Tam phòng.

Sau khi tỉnh lại, thật ra trong lòng bà đã có câu trả lời. Con gái con rể bà sẽ để lại một phần của cải, bảo đảm một đời không phải lo ăn lo mặc. Phía nhà mẹ ruột thì mấy thập niên qua cũng đã nhận được quá nhiều từ bà. “Hảo ý” của Nhị phòng bà thấy không thể nào tiếp nhận, vì dù sao người anh thứ hai này cũng chỉ là được nhận nuôi, chỉ mang cái họ “Phó” thôi. Duy nhất còn lại cậu bé ở Hoa viên Phó gia, vốn bà không định gặp lại cha con bọn họ, hơn nữa còn hận cha con họ chỉ sinh ra từ cuộc ái ân nhơ nhuốc của chồng mình, nhưng bây giờ cũng phải thừa nhận, cậu ta mới thật sự là huyết mạch của Phó gia Tam phòng, cũng là giọt máu cuối cùng còn lại trên đời của người chồng mà bà yêu quý nhất.

Bà chủ Trịnh quyết định không chần chừ nữa. Thừa lúc bây giờ còn kịp, đứa bé kia đang tuổi vị thành niên, cha mẹ đều qua đời, nếu đón cậu ta về chắc rằng cậu ta sẽ cảm động rơi nước mắt. Chỉ cần chọn thời điểm tốt vun bồi, chưa chắc không phải là một hạt giống tốt. Huống chi bà nghe Lục Ninh Hải nói qua, đứa bé đó vốn tính tình không giống cha nó, thông minh, trầm ổn, tới lui đều quyết đoán, đây chính là người hiện giờ bà và Phó gia cần, nói không chừng trong bóng tối đã le lói ánh quang minh.

“Bà chủ Trịnh muốn tôi chuyển lời với cậu, những tháng ngày qua bà cũng rất quan tâm đến sự trưởng thành của cậu. Cuộc sống của cậu ở đây cũng có thể nói là trải qua tôi luyện”. Lục Ninh Hải nói với Phó Kính Thù.

“À!” Phó Kính Thù ngừng tay cắt tỉa hoa một chút. Lục Ninh Hải cười gượng, ở trước mặt cậu thanh niên này nói ra những lời trái lòng như vậy, bản thân ông cũng thấy là hành động buồn cười, nhưng vì là trách nhiệm nên không thể không làm.

“Cám ơn ông, Luật sư Lục”.

“Đừng khách sáo”. Lục Ninh Hải trầm ngâm chốc lát, mới tỏ thái độ quan tâm đến việc bận của người thanh niên: “Tôi hiểu… Nhưng chuyện quan trọng, tôi chờ quyết định của cậu”.

Phó Kính Thù im lặng không lên tiếng. cánh hoa to bằng ngón út bị anh cắt đứt rơi xuống đất, đáng tiếc đó lại là một cành hoa tươi tốt sum xuê.

“Đừng làm hỏng hoa của anh chứ”.

Phó Kính Thù quay đầu lại, Phương Đăng ngồi trên đầu tường rào nhìn anh cười. Trước đó Lục Ninh Hải đã lẳng lặng rời đi.

“Xem ra em vẫn không bỏ được sở thích trèo tường”. Phó Kính Thù nói.

Phương Đăng duỗi chân, giọng nói nhẹ nhàng: “Làm sao biết được, nói không chừng sau này lại chẳng thể trèo lên nữa”.

Cô nhảy xuống đi vài bước đến bồn hoa, lấy đi chiếc kéo trồng vườn trong tay Phó Kính Thù, tự mình cắt vài nhát, rồi thờ ơ nói: “Anh nên đi”

“Em muốn anh đi sao?” Phó Kính Thù dĩ nhiên không tin đây là lời nói thật tâm của Phương Đăng. Họ đều không quên, chính trong tiểu viện này, anh đã hứa sẽ không đi, có hồ ly đá và ngọn gió kia làm chứng.

“Bây giờ không còn như trước đây!” Phương Đăng cười hì hì nói: “Trước kia là anh không đi được, bây giờ  bà chủ đó đang gấp rút chờ anh… Với lại, anh đi không, em cũng phải đi”.

“Sao chứ?”

“Đại luật sư họ Lục nói ông ấy muốn nhận em làm con nuôi, cùng ông ta dọn ra thành phố sống. Phó Thất, anh nói có phải chúng ta cùng nhau khởi sắc không?”

“Lục Ninh Hải?” Phó Kính Thù khẽ cau mày, chuyện Phương Đăng nói với anh là điều vô cùng bất ngờ.

Phương Đăng lấy cùi chỏ híc Phó Kính Thù một cái: “Sao, không tin hả? Em không thể may mắn vậy sao? Con gái của Luật sư, so với “con gái của sâu rượu” hay “con gái nhà tội phạm bắt cóc” có phải hay hơn nhiều lắm không?”

Phó Kính Thù hoài nghi hỏi: “Em đồng ý với ông ta?”

“Tại sao không?” Phương Đăng nói: “Không phải ai cũng muốn bản thân mình sống tốt hơn sao?”

Cô dùng bộ dạng quen thuộc nghiêng đầu nhìn anh mỉm cười. Phó Kính Thù lại thấy vô cùng khó chịu.

“Em đâu phải không biết…”

“Em biết” Phương Đăng mau chóng cắt ngang lời anh nói: “Cũng vì biết, em mới nói anh nên đi”

Sự đắn đo của anh chỉ có Phương Đăng hiểu rõ nhất. Nỗi hận nhiều năm bị bỏ rơi ở nơi này, vết xe đổ của cha mình, thân thế không minh bạch… Còn có cô, đều là những nguyên nhân khiến anh do dự.

“Anh cam tâm cả đời sống thế này sao? Bị nhét vào chỗ này phó thác cho số mệnh, bị người một nhà như Phó Chí Thời coi thường như vậy, nó còn nói chúng ta là chuột cùng ổ. Anh cũng biết loài chuột sống thế nào mà, không thấy được ánh sáng, ai ai cũng chán ghét, ăn thứ rác rưởi của người khác để lại, nghe chút tiếng động là sợ đến run người. Phó Thất, chúng ta có thể không sống thế này đúng không? Lần này anh đi, chính là cơ hội tốt nhất để thay đổi vận mạng… thay đổi số mệnh của hai chúng ta”.

“Vậy sao?” Phó Kính Thù nhắm mắt lại, những gì Phương Đăng nói sao anh lại không hiểu rõ, chỉ là những gì ở phía trước đều không thể dự đoán, tại sao đến lúc anh chấp nhận sự an bài của số mạng thì lại có một cơ hội bất ngờ đến vậy.

“Anh sống tốt, em mới vui vẻ được”. Phương Đăng nhấp kéo vào cành hoa rũ xuống nhìn giống loại hải đường, cắt xuống một phiến lá khô héo. “Anh đã nói, một chậu hoa không tươi tốt, chẳng qua chỉ là triệu chứng, có cắt tỉa chăm bón thế nào cũng vô dụng, ổ bệnh đã nằm trong gốc rễ của nó rồi”.

Lúc ăn cơm tối, A Chiếu vội vã kéo Phương Đăng qua một bên.

“Chị, nghe nói anh Thất muốn đi nơi khác… Hình như là ra nước ngoài”.

“Cậu bắt tin cũng nhạy ghê”. Phương Đăng tiếp tục ăn  phần cơm của mình.

“Sao lại như vậy được”. Nhìn A Chiếu như là sắp khóc đến nơi. “Chị có thể khuyên anh ấy đừng đi không”.

Phương Đăng nhìn A Chiếu, cậu ta đã cao hơn, hai hàng nước mũi nhỏ dài cũng không còn nữa, chỉ là nét ngây thơ trên mặt chưa mất đi. Cậu ta mới mười ba tuổi, nhưng cứ cho là mình đã lớn, bây giờ đánh nhau còn ác hơn cả Phương Đăng, tuy là gầy, nhưng bề trong lại lộ ra sự dũng mãnh, mỗi khi gây nhau với người khác, không đánh người ta ngã thì nhất định không bỏ qua, hiện tại bọn trẻ cùng lứa ở cô nhi viện đều có chút kiên nể cậu ta. Phương Đăng thật sự không biết những gì lần đầu mình dạy cậu ta rốt cuộc là đúng hay sai. Bây giờ cậu ta không bị người khác bắt nạt, còn cả ngày muốn bảo vệ Phương Đăng, đứa bé này rất liều mạng, trong thế giới của cậu ta, chỉ có bản thân mình, có chị Đăng, anh Thất, đây chính là tam giác sắt bất di bất dịch, họ ở đây, cậu ta mới có gia đình.

Phương Đăng sợ A Chiếu buộc mình đi giữ Phó Kính Thù lại, làm cho anh vô duyên vô cớ không vui, liền nói thẳng: “Đi thì đi, tôi để anh ấy đi”

“Tại sao?” A Chiếu không thể nào hiểu được.

“Tại sao gì chứ?” Phương Đăng giả vờ hồ đồ.

“Chị, chị ngốc quá. Chị và anh Thất ở đây không phải rất tốt sao, anh ấy đi rồi, nói không chừng sẽ không trở lại”.

A Chiếu nói xong, thấy Phương Đăng vẫn yên lặng ăn cơm, cậu ta kéo tay áo cô, cô dứt khoát hất tay cậu ta, quay đầu đi ra ngoài.

Phương Đăng đến một chỗ không người, đem từng miếng cơm nhét vào miệng mình, dường như không có thời gian dừng lại thì sẽ ít đau khổ hơn. Ngay cả A Chiếu cũng biết, anh đi rồi không biết khi nào sẽ trở về. Ở trên đảo này, anh là Tiểu Thất của cô, cô còn có thể nắm giữ cái bí mật đó, thỉnh thoảng lại tự cho mình quyền mơ ước xa vời. Song khi ngay lúc anh ra đi, anh sẽ là Phó Kính Thù, quang minh chính đại trở thành người của Phó gia, cô coi như là người có liên hệ huyết thống với anh, là em họ nhà người mẹ xấu xa của anh, và giữa họ là không bao giờ có thể.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách