Kites

Tiêu đề: Lịch sử Việt Nam [In trang]

Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 1-1-2012 04:25 PM
Tiêu đề: Lịch sử Việt Nam
Việt Nam thời nguyên thuỷ


Thời đại Đá cũ và dấu vết Người Vượn ở Việt Nam

Thời kỳ lịch sử - Thời cổ đại

Thời đại Đá cũ và dấu vết Người Vượn ở Việt Nam


Trong buổi bình minh của lịch sử, Việt Nam là một trong những quê hương của loài người. Người ta đã phát hiện thấy người vượn ở Bình Gia (Lạng Sơn), nhiều công cụ thuộc buổi đầu thời kỳ đồ đá cũ ở núi Đọ, núi Quan Yên (Thanh Hoá). Đó là dấu vết xưa nhất hiện nay ta biết về giai đoạn bầy người nguyên thủy trên đất nước ta.Thời ấy cách ngày nay hàng mấy chục vạn năm.

Bấy giờ, mực nước biển Đông thấp gần trăm mét so với ngày nay. Vì vậy, đất nước ta khi ấy qua bán đảo Ma-lai-xi-a còn nối liền với các đảo Gia-va, Xu-ma-tơ-ra, Ca-li-man-tan của In-đô-nê-xi-a. Các kết quả nghiên cứu địa chất và khí hậu học còn cho biết trong thời kỳ này xen kẽ những kỳ khô hạn là những kỳ mưa nhiều khiến khí hậu Việt Nam ẩm và mát hơn bây giờ một chút. Trong rừng rậm, trên thảo nguyên, có nhiều đàn voi răng kiếm, gấu mèo, tê ngưu, lợn lòi, hổ, báo, hươu, nai, đười ươi, vượn, khỉ, cầy, chồn... sinh sống. Những bầy người nguyên thuỷ sống dựa vào hang đá, lùm cây, đi dọc bờ suối, bờ sông tìm kiếm thức ăn bằng hái lượm và săn bắt.

Người ta đã phát hiện được ở núi Đọ hàng vạn công cụ đồ đá cũ; người Việt cổ khai thác đá gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ, tạo nên những công cụ chặt, rìu tay, nạo... bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá vỡ, thuật ngữ khảo cổ gọi là mảnh tước. Với những đồ đá đó, người nguyên thủy có thể chặt cây, vót gậy tre, lao gỗ, xẻ thịt, đập vỡ xương thú săn bắt được... Loại hình công cụ nghèo nàn, kỹ thuật ghè đẽo thô sơ là đặc điểm của thời kỳ đồ đá cũ. Di tích núi Đọ là bằng chứng về sự có mặt của những chủ nhân sớm nhất trên lãnh thổ Việt Nam vào thời kỳ tổ chức xã hội loài người đang hình thành.

Cách ngày nay khoảng ba, bốn vạn năm, vào thời kỳ bộ tộc nguyên thuỷ, cư dân bản địa đã đông đúc hơn. Người ta đã phát hiện được dấu tích con người cùng với những hóa thạch động vật cổ ở hang Hùm (Yên Bái), hàng Thung Lân (Ninh Bình). Đó là những thị tộc, bộ lạc sống trong hang động miền núi đá vôi. Tuy nhiên, cũng đã có những thị tộc, bộ lạc tiến ra sinh sống ở miền đồi trung du vốn là miền phù sa cổ của sông Hồng với rừng rậm phủ dày. Những hiện vật đá cuội ghè đẽo thô sơ thuộc cuối thời đại đồ đá cũ hoặc đầu thời đại đồ đá giữa tìm thấy ở di chỉ Sơn Vi (Phú Thọ) là những minh chứng chắc chắn cho giả thuyết này.

Văn hóa đá cuội ghè được tiếp nối với hai nền văn hóa Hòa Bình (thuộc thời đại đồ đá giữa) và văn hóa Bắc Sơn (thuộc buổi đầu thời đại đồ đá mới) cách ngày nay khoảng một vạn năm. Ở các nền văn hoá này, bên cạnh kỹ thuật chẻ đẽo, người nguyên thủy đã phát minh kỹ thuật mài, tạo nên những chiếc rìu Bắc Sơn (rìu tứ giác mài lưỡi) nổi tiếng. Văn hóa Bắc Sơn là một trong những di chỉ văn hóa có rìu mài sớm trên thế giới. Cũng trong thời kỳ này người ta còn phát hiện được những đồ gốm đầu tiên được nặn bằng tay.

Việt Nam là đất nước của hàng trăm loại tre, nứa. Tre, nứa đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn hóa nguyên thủy cũng như trong đời sống người Việt Nam sau này. Chúng được dùng làm gậy, lao, cung tên, đồ đan lát, thừng bện... Do bị thời gian huỷ hoại nên đến nay không còn chứng tích công cụ tre, nứa của người Việt cổ; tuy nhiên ta vẫn có thể tìm thấy dấu vết của tre, nứa trên các hoa văn đồ gốm sơ kỳ.

Cùng những thị tộc, bộ lạc ở miền núi, trung du trên đất nước Việt Nam khi ấy, còn có những tập đoàn người nguyên thủy sinh sống ở miền ven biển Đông. Họ là chủ nhân của các nền văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ An), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi). Trải qua mấy nghìn năm, đống vỏ sò điệp do họ vứt ra sau những bữa ăn đã chất cao thành gò, rộng hàng trăm mét vuông. Người nguyên thủy sinh sống ở ven bờ biển còn khai thác đá gốc (thạch anh) làm công cụ. Họ chôn người chết trong những mộ huyệt tròn đào giữa đống sò điệp và chôn theo người chết một vài công cụ đá, đồ trang sức bằng vỏ ốc xuyên lỗ...

Với đồ đá, đồ tre gỗ, đồ đựng bằng đất nung, các thị tộc nguyên thủy đi săn và hái lượm có hiệu quả hơn. Ngoài việc mò cua, bắt ốc, chủ nhân các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn còn săn được nhiều thú như lợn rừng, hươu nai, trâu bò rừng, tê ngưu, voi... Chủ nhân các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn đã biết nuôi chó, trồng một số cây ăn quả, cây cỏ củ, rau đậu, dưa... Từ cuộc sống hái lượm những sản vật sẵn có của tự nhiên, người nguyên thủy Việt Nam sớm bước vào cuộc sống sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh nghề săn, nghề đánh cá phát đạt, nghề nông đã ra đời cùng với việc chăn nuôi gia súc nhất là trên các vùng châu thổ của các con sông lớn.

Nhiều nhà nông học khẳng định bán đảo Đông Dương là quê hương của cây lúa. Ở đây có nhiều loại lúa hoang hiện còn tồn tại ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, bà con trong vùng thường gọi là lúa ma hoặc lúa trời. Dấu vết con người thời kỳ nguyên thủy có thể tìm thấy ở mọi miền trên đất nước Việt Nam từ vùng cực Bắc đến cực Nam. Họ để lại những di tích hang động và di tích ngoài trời ở miền núi, đồng bằng kể cả ở những vùng đất thấp sình lầy Nam Bộ trước khi hình thành nhà nước Việt Nam đầu tiên. Như vậy là vào thời đại đồ đá, trên nhiều vùng ở nước ta đã xuất hiện những nền văn hóa nguyên thủy đặc sắc, trong đó bên cạnh nền kinh tế hái lượm đã bắt đầu phát triển nền kinh tế sản xuất nông nghiệp lúa nước.

Con người đã xuất hiện khá sớm trên đất Việt Nam. Cho đến nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của người vượn Homo erectus trong một số hang động ở Lạng Sơn và Nghệ An. Ðặc biệt là ở hậu kỳ thời đá cũ (văn hoá Sơn Vi cách ngày nay 10.000 - 23.000 năm), con người đã phân bố khá rộng và khá đông trên đất Việt Nam.

Văn hoá Sơn Vi

Văn hoá Sơn Vi mang tên xã Sơn Vi, huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ, do các nhà khảo cổ Việt Nam phát hiện và xác lập danh pháp vào năm 1968. Đến nay, hơn 140 địa điểm văn hoá Sơn Vi được phát hiện, phân bố chủ yếu trên các đồi gò trung du, một số di tích hang động Bắc Việt Nam. Công cụ đều làm từ đá cuội sông suối, ghè đẽo một mặt là chính, vết ghè trên một rìa cạnh tạo ra công cụ mũi nhọn, rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang, phần tư viên cuội, hai hoặc ba rìa; cùng với một số công cụ mảnh tước kém định hình. Cư dân văn hoá Sơn Vi chưa biết đến kĩ thuật mài công cụ đá và làm gốm, hoạt động kinh tế chủ yếu là săn bắn và hái lượm, chưa biết trồng trọt và chăn nuôi. Văn hoá Sơn Vi có niên đại cuối Cánh Tân (Late Pleistocene), tồn tại trong khoảng từ 23.000 đến 11.000 năm cách ngày nay. Văn hoá Sơn Vi khác văn hoá Hoà Bình, có trước văn hoá Hoà Bình và phát triển sang văn hoá Hoà Bình, thuộc hậu kì thời đại đá cũ.


Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 1-1-2012 05:54 PM
Thời đại Đá mới

Ðến văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (khoảng 6.000 - 10.000 năm), con người đã biết dùng công cụ cuội được ghè đẽo một mặt, bắt đầu biết mài rìu đá, làm đồ gốm và có khả năng đã biết đến trồng trọt sơ khai.

Trong giai đoạn này trên đất Việt Nam, đã xuất hiện những nhóm cư dân tiền sử có đặc trưng văn hoá là thuộc thời đại Đá mới... Con người trong giai đoạn này đã biết dùng những chiếc rìu đá được mài nhẵn hoàn toàn, những chiếc vòng tay đá được khoan rất khéo, và những đồ gốm có hoa văn rất đẹp.

Văn hoá Hoà Bình:

Văn hóa khảo cổ mang tên tỉnh Hoà Bình, nơi nhà khảo cổ người Pháp Côlani (M.Colani) phát hiện và khai quật di tích đầu tiên vào năm 1927. Thuật ngữ văn hoá Hoà Bình được các nhà tiền sử học Viễn Đông họp tại Hà Nội thông qua năm 1932. Các di tích văn hoá Hoà Bình phân bố ở hầu khắp các nước Đông Nam Á lục địa, nhưng tập trung nhất là Việt Nam với trên 120 di chỉ. Cư dân văn hoá Hoà Bình chủ yếu sống trong các hang động đá vôi, săn bắt hái lượm là hoạt động kinh tế chính, có thể đã biết đến nông nghiệp sơ khai. Người Hoà Bình chế tác công cụ lao động từ đá cuội sông suối, loại hình tiêu biểu nhất là rìu hình hạnh nhân, nạo hình đĩa, rìu ngắn, rìu mài lưỡi; ít chế tác và sử dụng công cụ từ xương và vỏ trai, có thể đã sử dụng đồ gốm trong sinh hoạt. Người Hoà Bình chôn người chết tại nơi cư trú, chủ yếu theo tư thế nằm co, có rải đá, vỏ ốc hoặc than tro dưới thi hài, di cốt được bôi thổ hoàng. Người Hoà Bình có nghệ thuật dung dị, mang tính ước lệ, phản ánh quan hệ của con người với môi trường và tín ngưỡng tâm linh. Văn hoá Hoà Bình có niên đại tuyệt đối sớm nhất là 18.000 năm và muộn nhất 7.500 năm cách ngày nay, thuộc thời đại đá mới; phát triển qua 3 giai đoạn: Hoà Bình sớm (18.000 - 12.000 năm), Hoà Bình điển hình (12.000 - 9.000 năm) và Hoà Bình phát triển (9.000 - 7.500 năm). Văn hoá Hoà Bình có nguồn gốc từ văn hoá Sơn Vi và đóng góp vào sự hình thành một số văn hoá đá mới ở Việt Nam như: Đa Bút, Cái Bèo, Quỳnh Văn; đồng thời đóng góp vào việc tạo dựng sắc thái văn hoá Đông Nam Á thống nhất trong đa dạng.


Văn hoá Bắc Sơn

Văn hoá Bắc Sơn là văn hoá sơ kì đá mới. Cư dân văn hoá Bắc Sơn sống trong hang động hoặc mái đá trong vùng núi đá vôi Bắc Sơn. Kinh tế: săn bắt, hái lượm và làm gốm. Công cụ tiêu biểu: rìu cuội ghè đẽo mài lưỡi, thường được gọi là "rìu Bắc Sơn" và thỏi đá phiến có dấu hai rãnh song song, gọi là "dấu Bắc Sơn". Văn hoá Bắc Sơn phát triển tiếp sau văn hoá Hoà Bình, tồn tại cách ngày nay khoảng từ 7 - 10 nghìn năm.

Văn hoá Đa Bút

Văn hoá khảo cổ được gọi theo tên địa điểm Đa Bút ở Thanh Hoá, Việt Nam, do Patơ (E. Patte) khai quật năm 1932 và các nhà khảo cổ định danh. Đến nay, đã phát hiện được 8 địa điểm văn hoá Đa Bút, phân bố ở đồng bằng Thanh Hoá và Ninh Bình, niên đại từ trên 4.000 đến 6.000 năm cách ngày nay. Phát triển qua các giai đoạn: Đa Bút, Cồn Cổ Ngựa (lớp trên) và Gò Trũng. Đặc trưng nổi bật là đồ gốm pha nhiều sạn sỏi to, đáy tròn, không chân đế, miệng đứng thẳng hơi loe, thành miệng cao, bụng hình cầu, văn đập hình nan đan.

Đồ đá có sự biến đổi nhanh từ kĩ thuật mài lan thân sang rìu mài toàn thân, kích thước nhỏ, cùng với đục, cưa, cối, chày, dùi, vòng đá hình bánh xe và đặc biệt là chì lưới đánh cá làm từ đá phiến và đất nung hình quả nhót có khía rãnh để buộc dây. Cư dân văn hoá Đa Bút từng khai phá đồng bằng châu thổ sông Mã, trồng trọt một số loại cây rau, củ; phát triển nghề đánh cá trên sông biển, là một trong những trung tâm sản xuất gốm thời đại đá mới ở Việt Nam. Văn hoá Đa Bút có nguồn gốc từ văn hoá Hoà Bình và đóng góp vào sự hình thành các văn sơ kì kim khí ở khu vực.


Văn hoá Hạ Long

Văn hoá khảo cổ mang tên vịnh biển nổi tiếng ở Quảng Ninh, do các nhà khảo cổ học Việt Nam định danh. Đến nay đã phát hiện được 27 địa điểm. Văn hoá Hạ Long, phân bố trên cồn cát, eo đất hoặc hang động hải đảo... ven biển Quảng Ninh và Hải Phòng. Công cụ đá gồm rìu bôn kích thước nhỏ, mài toàn thân; chày, hòn kê, bàn mài có các rãnh cắt ngang hình chữ U.

Đồ gốm có gốm cứng, mỏng, gốm xốp, trang trí hoa văn đắp thêm, khắc vạch kết hợp trổ lỗ. Bôn có vai có nấc, gốm xốp và bàn mài rãnh là di vật tiêu biểu đặc trưng cho văn hoá Hạ Long. Văn hoá Hạ Long phát triển từ văn hoá Cái Bèo, giao lưu, trao đổi với các nền văn hoá đồng đại khác như Phùng Nguyên, Hà Giang, Mai Pha, Hoa Lộc (Bắc Việt Nam) và các đảo ven biển Nam Trung Quốc; đóng góp vào sự hình thành văn hoá Đông Sơn vùng ven biển Việt Nam. Cư dân văn hoá Hạ Long có niên đại 4.000 năm cách ngày nay, thạo nghề biển, đạt tới đỉnh cao kĩ thuật nghề gốm, biết trồng trọt, xe sợi đan lưới, làm dây câu, đóng bè và đi biển.


Văn hoá Bàu Tró:

Văn hoá khảo cổ mang tên địa điểm Bàu Tró ở Đồng Hới (Quảng Bình; Việt Nam), do Patơ (E. Patte) khai quật năm1923. Đến nay đã phát hiện hơn 20 địa điểm của văn hoá này với các loại hình: cồn sò điệp, cồn cát và cồn đất, phân bố dọc đồng bằng ven biển từ Nghệ An tới Quảng Bình. Công cụ đá có rìu, bôn, cuốc, đục, dao, cưa, mũi khoan, bàn mài, chày, bàn nghiền và hòn ghè; tiêu biểu nhất là rìu, bôn có vai được ghè lại lưỡi. Đồ gốm có số lượng lớn, ổn định về chất liệu, loại hình và hoa văn trang trí, trong đó đặc trưng nhất là loại gốm gắn tai, trang trí văn in mai rùa, văn khắc vạch hình khuông nhạc trên nền văn thừng, kết hợp với tô màu đỏ hoặc đen ánh chì. Văn hoá Bàu Tró có niên đại khoảng 4.000 năm cách ngày nay. Là văn hoá của cư dân định cư, săn bắt, hái lượm và có thể đã biết làm nông nghiệp; có nguồn gốc từ văn hoá Quỳnh Văn và có quan hệ giao lưu trao đổi với cư dân văn hoá Hoa Lộc, Hạ Long ở phía bắc, với cư dân văn hoá Xóm Cồn ở phía nam, với các bộ lạc miền núi Trung Bộ và Tây Nguyên. Văn hoá Bàu Tró là một thành tố đóng góp vào sự ra đời của văn hoá Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam.


Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 1-1-2012 07:43 PM
Sơ kỳ thời đại đồ đồng

Con người đã biết đúc các công cụ, vũ khí và đồ trang sức bằng đồng thau. Họ đã biết trồng lúa và chăn nuôi một số gia súc như trâu, bò, lợn, gà. Có ba nhóm văn hoá phân bố ở ba khu vực. Nhóm thứ nhất (văn hoá tiền Ðông Sơn) phân bố trong các lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả. Nhóm thứ hai (văn hoá tiền Sa Huỳnh) phân bố ở vùng Nam Trung Bộ. Và nhóm thứ ba, phân bố trong lưu vực sông Ðồng Nai ở miền Ðông Nam Bộ.

Ở miền Bắc Việt Nam, các văn hoá tiền Ðông Sơn tương ứng với giai đoạn đầu của thời kỳ Hùng Vương.

Các nhóm văn hoá tiền Ðông Sơn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã hội tụ lại thành một văn hoá thống nhất, đó là văn hoá Ðông Sơn, thuộc thời đại sắt sớm vì một số công cụ bằng sắt đã xuất hiện. Nhưng các chế phẩm bằng đồng thau tinh mỹ là đặc trưng của văn hoá này. Hiện vật tiêu biểu là những chiếc trống đồng lớn có hoa văn trang trí đẹp.

Văn hoá Phùng Nguyên

Văn hoá mở đầu cho các văn hoá tiền Đông Sơn trên lưu vực sông Hồng, Việt Nam; phân bố chủ yếu trên vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ thuộc sơ kì thời đại đồ đồng, niên đại trong khoảng 3.500 - 4.000 năm cách ngày nay. Cho đến nay đã phát hiện được hàng mấy chục di tích cư trú, công xưởng chế tác đồ đá và mộ táng, trong đó có những di tích tiêu biểu như Phùng Nguyên, Xóm Rền, Gò Bông, An Đạo, Nghĩa Lập, Đồng Đậu (lớp văn hoá dưới), Lũng Hoà, Chùa Gio, Văn Điển, Bãi Tự, v.v...

Đồ đá Văn hoá Phùng Nguyên đạt đến đỉnh cao của đồ đá nguyên thuỷ, được chế tác bằng các phương pháp cưa, khoan, mài, tiện rất tinh xảo, có kích thước tương đối nhỏ, được làm từ đá bazan và các loại đá nephrit, spilit có màu sắc đẹp; gồm có các loại rìu, bôn, đục, bàn mài, mũi tên, mũi giáo, qua, nha chương và các loại vòng tay, khuyên tai, nhẫn, ống chuỗi, hạt chuỗi với đủ loại kích cỡ và kiểu dáng khác nhau. Hầu hết rìu, bôn ở đây đều có hình tứ giác, rất hiếm rìu, bôn có vai và có nấc. Đồ gốm văn hoá Phùng Nguyên phần lớn được làm bằng bàn xoay, thành gốm mỏng đều, độ nung tương đối cao, chất liệu gốm thô pha cát hạt nhỏ, ngoài có lớp áo gốm mỏng màu hồng nhạt, còn một ít gốm mịn, mặt ngoài được miết láng rất đẹp. Hoa văn trang trí cực kì phong phú gồm văn thừng mịn, văn chải, văn in kiểu cuống rạ, văn đắp nổi, tiêu biểu hơn cả là văn khắc vạch chấm giải với những mô típ hình chữ S, chữ V, hình tam giác, tạo thành những đồ án đối xứng phong phú đẹp mắt. Về loại hình có các loại nồi, vò, bình, bát, chạc gốm, dọi xe sợi, bi gốm, v.v... Tiêu biểu hơn cả có loại nồi vò thành miệng dày, bình bát có chân đế tương đối cao, bát kiểu mâm bồng, bình miệng vuông đáy tròn. Đã phát hiện ra một số tượng động vật bằng đất nung như tượng bò, tượng gà vừa hiện thực vừa sinh động, có thể xem là những tác phẩm nghệ thuật tạo hình sớm nhất được phát hiện ở Việt Nam. Đồ đồng rất hiếm, chỉ mới phát hiện được ở một vài di tích và cũng chỉ ở dạng xỉ đồng. Người Phùng Nguyên chôn người chết trong mộ địa, các mộ có phương hướng gần giống nhau, tử thi được chôn theo tư thế nằm ngửa chân tay duỗi thẳng. Huyệt mộ hình chữ nhật, trong đó một số mộ được đào thành bậc cấp. Đồ tuỳ táng thường là nồi, bình, bát, chạc gốm, rìu, đục cùng một số đồ trang sức bằng đá, đôi khi chôn theo hàm lợn. Người Phùng Nguyên sống chủ yếu bằng nông nghiệp.



Văn hoá Hoa Lộc

Văn hoá khảo cổ sơ kì thời đại đồng, được gọi theo tên xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá, Việt Nam, nơi phát hiện di chỉ đầu tiên và điển hình cho nền văn hoá này (vào cuối 1973). Các di chỉ văn hoá Hoa Lộc phân bố trên các đồi cát cao chạy dài ven biển bắc Thanh Hoá, thuộc địa phận huyện Hậu Lộc và Nga Sơn. Đồ đá phong phú, đa dạng, gồm chủ yếu là công cụ lao động: cuốc có vai (nhiều), cuốc tứ giác (ít); rìu bôn tứ giác (nhiều), rìu bôn có vai (ít), đặc biệt có loại rìu xéo giống hình rìu xéo bằng đồng trong văn hoá Đông Sơn; bàn mài các loại số lượng rất nhiều; công cụ ghè đập; công cụ đá lưỡi rất tù, thân có những đường rãnh chưa rõ chức năng. Đồ trang sức ít, vòng tay gồm mặt cắt hình tam giác, bầu dục. Kĩ thuật mài chiếm vị trí chủ đạo trong chế tác đồ đá nhưng không thật tinh tế, trau chuốt. Đồ gốm nhiều về số lượng, đa dạng về loại hình. Ngoài các đồ gia dụng như nồi, bình, bát, chậu, vật hình hộp, đồ gốm có chân nhọn... còn có các đồ trang sức như vòng, hạt chuỗi, khuyên tai bằng đất nung, những con dấu in hoa văn đặc trưng cho văn hoá này. Đồ gốm được trang trí văn thừng, khắc vạch, in dấu lưng và miệng sò, ấn vũm, trổ lỗ. Các cách tạo hoa văn này được phối hợp với nhau, tạo nên phong cách rất riêng cho đồ gốm văn hoá Hoa Lộc. Đồ đồng hiếm, mới tìm thấy mảnh vòng, rìu, mảnh đồng. Chủ nhân văn hoá Hoa Lộc sống bằng nghề nông (đã tìm thấy dấu tích hạt lúa), chăn nuôi (tìm thấy xương thú thuần dưỡng), săn bắn (tìm thấy nhiều xương thú rừng), đánh cá (tìm thấy nhiều xương cá). Văn hoá Hoa Lộc nằm cùng bình tuyến và có mối quan hệ giao lưu văn hoá rõ ràng với các văn hoá sơ kì đồ đồng khác ở vùng Trung Bộ và Bắc Bộ Việt Nam là văn hoá Phùng Nguyên, văn hoá Hạ Long, nhóm di tích văn hoá Cồn Chân Tiên, Mả Đống. Thời gian tồn tại của văn hoá Hoa Lộc vào khoảng trên dưới 4.000 năm cách ngày nay.


Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 1-1-2012 08:12 PM
Những chuyển biến về kinh tế - xã hội

Sự phát minh ra kỹ thuật luyện kim đánh dấu bước ngoặc lớn trong xã hội nguyên thủy. Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là một khi con người tìm ra đồ đồng là xã hội ngay lập tức có những biến chuyển cơ bản. Thật ra suốt cả thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên, con người nguyên thủy Việt Nam mới chỉ đủ thời gian để kịp chuẩn bị những tiền đề cho những nhảy vọt. Hình thái kinh tế xã hội nguyên thủy ở thời Phùng Nguyên mới bước đầu có dấu hiệu tan rã và nó tiếp tục tan ra cùng với các bước phát triển của văn hóa đồng thau trong các giai đoạn tiếp theo.

Văn hoá Đồng Đậu

Văn hoá tiếp nối văn hoá Phùng Nguyên trong hệ thống văn hoá tiền Đông Sơn của Việt Nam. Phân bố chủ yếu ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ, song có phần rộng hơn văn hoá Phùng Nguyên chút ít. Ngoài di tích Đồng Đậu, văn hoá này còn có một số di tích tiêu biểu như Gò Diễn, Mã Lao, Nội Gan, Thành Dền, Đồng Dền, Bãi Mèn, Đình Tràng (lớp dưới), Tiên Hội, Đông Lâm (lớp dưới), v.v... Đồ đá có rìu bôn hình tứ giác, phổ biến loại dài mỏng. Đồ trang sức phổ biến loại vòng lớn, mặt cắt ngang hình tam giác và hình chữ D, được xem là loại vòng đặc trưng của văn hoá Đồng Đậu, hoa tai gần tròn 4 mấu, ống chuỗi hình gối quạ, v.v...

Đồ gốm Đồng Đậu thường có thành dày được nung ở độ nung khá cao nên gốm cứng, phần lớn có màu xám. Hoa văn trang trí trên gốm tiêu biểu là loại chải kiểu khuông nhạc thành các đồ án làn sóng, hình chữ S nối đuôi nhau, hình sâu đo, hình số 8, văn thừng bện, v.v... Về loại hình chủ yếu vẫn là nồi, vò, bình, bát, chạc gốm, dọi xe sợi, bi gốm, v.v... Chân đế bình, bát cũng như chân chạc gốm thường thấp. Đồ đồng đã khá phát triển và có đặc trưng riêng, xuất hiện loại rìu xoè cân lưỡi tròn, mũi lao thường, mũi lao có ngạnh, mũi tên hình cánh én, lưỡi câu có ngạnh, dũa 4 góc nhọn cạnh thẳng hoặc lõm vào, dũa 2 góc vuông 2 góc tròn, v.v... Bên cạnh đồ đồng còn phát hiện được khá nhiều khuôn đúc đồng bằng đá và bằng gốm có đủ đậu rót, đậu ngót cẩn thận, cho thấy kĩ thuật luyện đúc đồng của cư dân Đồng Đậu đã đạt đến trình độ khá cao. Sự phong phú đa dạng của đồ xương là một đặc trưng nổi bật của văn hoá Đồng Đậu. Đồ xương ở đây gồm có các loại mũi nhọn, mũi tên, mũi lao thường, mũi lao có ngạnh, vòng tay và vật hình tù và, vật hình chân ngựa, v.v... Hầu hết đều được mài nhẵn bóng rất đẹp.

Đã có hàng chục niên đại 14C cho văn hoá Đồng Đậu, xác định tuổi vào khoảng 3500 đến 3000 năm trước đây, thuộc giai đoạn phát triển của thời đại đồ đồng. Người Đồng Đậu sống bằng nghề nông trồng lúa nước là chủ yếu, ngoài ra còn chăn nuôi gia súc, săn bắn, đánh cá, các nghề thủ công khá phát đạt, đặc biệt là nghề đúc đồng.



Văn hoá Đông Sơn

Văn hoá khảo cổ học thời đại kim khí Việt Nam, gọi theo tên di tích Đông Sơn trên bờ Sông Mã tỉnh Thanh Hoá. Các địa điểm văn hoá Đông Sơn bao gồm những khu cư trú, những khu mộ, trong đó có mộ huyệt đất, mộ vò hay mộ có quan tài thân cây khoét rỗng (còn gọi là mộ thuyền); phân bố rất rộng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, từ biên giới Việt - Trung đến bờ sông Gianh. Văn hoá Đông Sơn được đặc trưng bằng bộ đồ đồng đa dạng và độc đáo, gồm rìu nhiều kiểu (như rìu lưỡi xéo, rìu hình hia), giáo, dao găm (đẹp nhất là loại có cán hình người hay động vật), các đồ đựng như thố, bình, thạp, và các nhạc cụ như chuông, trống. Trống đồng loại sớm (loại I Hêgơ) với hoa văn đẹp là tiêu biểu cho văn hoá Đông Sơn. Hợp kim chủ yếu mà cư dân Đông Sơn đã dùng phổ biến là đồng - thiếc - chì. Trước đây, người ta thường coi văn hoá Đông Sơn thuộc thời đại đồ đồng, nhưng nay, do đã tìm thấy nhiều di vật sắt cũng như lò nấu sắt, các nhà nghiên cứu cho văn hoá Đông Sơn thuộc thời đại sắt sớm. Cư dân Đông Sơn là cư dân nông nghiệp, chủ yếu trồng lúa, đã chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà, biết nhiều nghề làm thủ công như làm mộc sơn, làm gốm, đặc biệt là luyện kim và chế tác kim loại phát triển. Nhiều học giả ngoài nước trước đây cho rằng văn hoá Đông Sơn có nguồn gốc từ Trung Quốc, Trung Á và thậm chí từ Đông Âu hay Biển Đen. Nhưng hiện nay, với việc phát hiện các văn hoá tiền Đông Sơn, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh được nguồn gốc bản địa của văn hoá Đông Sơn. Văn hoá Đông Sơn tồn tại trong khoảng từ thế kỉ 7 TCN, cho đến vài thế kỉ SCN, khi Việt Nam đã ở trong thời kì thuộc Hán. Văn hoá Đông Sơn là cơ sở cho sự ra đời của nhà nước sơ khai ở miền Bắc Việt Nam, mà theo truyền thuyết là nước Văn Lang thời đại các vua Hùng.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 1-1-2012 09:06 PM
Nước Văn Lang - họ Hồng Bàng. Kinh Dương Vương. Lạc Long Quân - Âu Cơ. Hùng Vương

Sự hình thành Nhà nước đầu tiên - Nhà nước Văn Lang

1. Những biến chuyển về kinh tế xã hội

Từ thời kỳ Phùng Nguyên trải qua giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn, do kỹ thuật luyện kim ngày càng phát triển đến hoàn hảo, nên công cụ bằng đồng thau dần dần thay thế hẳn công cụ bằng đá.

Ở giai đoạn đầu, giai đoạn Phùng Nguyên, công cụ bằng đá còn chiếm ưu thế, nền kinh tế còn mang tính chất nguyên thuỷ. Đến giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun và nhất là Đông Sơn, nhiều loại hình công cụ bằng đồng ra đời và ngày càng phong phú, đa dạng như lưỡi cuốc, lưỡi cày, lưỡi thuổng, xẻng, rìu, v.v.. Mỗi loại công cụ sản xuất cũng có các kiểu dáng khác nhau. Trong khoảng 200 chiếc lưỡi cày bằng đồng có tới 4 kiểu dáng, đó là lưỡi cày hình tam giác có họng tra cán to khoẻ được phân bố ở dọc sông Thao, lưỡi cày hình thoi, hình bầu dục được phân bố ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng sông Mã, lưỡi cày hình xẻng vai ngang được phân bố ở vùng làng Vạc. Cuốc cũng bao gồm nhiều kiểu như lưỡi cuốc có lỗ tra cán, cuốc hình tam giác, cuốc có vai, cuốc hình chữ U, cuốc hình quạt, lưỡi rìu gồm có rìu hình chữ nhật, hình tứ diện lưỡi xoè, hình lưỡi xéo, hình bàn chân, hình lưỡi lệch, ngoài ra còn có lưỡi liềm đồng, công cụ lao động bằng sắt.

Sự tiến bộ của công cụ sản xuất bằng đồng đã có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế ngày càng phát triển, đạt đến một trình độ khá cao. Nền kinh tế bao gồm nhiều ngành, nghề, trong đó nông nghiệp trồng lúa nước chiếm địa vị chủ đạo, phổ biến rộng rãi khắp lãnh thổ từ trung du, đồng bằng đến ven biển.

Với việc chế tạo ra lưỡi cày, nông nghiệp dùng cày đã thay thế nông nghiệp dùng cuốc, đánh dấu bước phát triển mới, mạnh mẽ trong nền kinh tế thời Hùng Vương. Việc nhiều loại hình công cụ sản xuất bằng đồng ra đời còn chứng tỏ bước tiến về kỹ thuật canh tác của cư dân bấy giờ. Nông nghiệp dùng cày là nguồn cung cấp lương thực chính nuôi sống xã hội, trở thành cơ sở chủ yếu của mọi hoạt động khác.

Những di cốt trâu bò nuôi tìm thấy trong cùng một di tích văn hoá Đông Sơn, hình bò khắc hoạ trên mặt trống đồng là bằng chứng cư dân Hùng Vương đã sử dụng trâu bò làm sức kéo trong nông nghiệp dùng cày. Những dấu tích thóc gạo, những công cụ gặt hái tìm thấy ở các di chỉ thuộc văn hoá Đông Sơn chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của nghề trồng lúa nước thời Hùng Vương.

Sự phát triển của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đòi hỏi công tác trị thuỷ, thuỷ lợi, khai khẩn đất đai, mở rộng diện tích canh tác. Đã có một số tài liệu cho thấy cư dân bấy giờ đã biết sử dụng biện pháp tưới, tiêu, "tưới ruộng theo nước triều lên xuống".

Với những công cụ bằng kim khí, cư dân Đông Sơn đã mở rộng địa bàn cư trú, đẩy mạnh công cuộc khai khẩn đất đai, chinh phục vùng đồng bằng, ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Cư dân đương thời đã trồng lúa trên các loại ruộng nước, bãi và nương rẫy với những hình thức canh tác phù hợp với địa hình và đất đai từng vùng. Lúa gồm có lúa tẻ và lúa nếp. Ngoài trồng lúa nước là chủ yếu, người đương thời còn phát triển nghề làm vườn, trồng rau củ, cây ăn quả để làm phong phú nguồn lương thực. Khảo cổ học đã tìm thấy dấu vết của các loại bầu bí, đậu, khoai, sắn. Thu hoạch trong nông nghiệp ngày càng cao. Sự tích "bánh dày bánh chưng" đã nói lên bước phát triển của nền nông nghiệp trồng lúa thời đó. Sử cũ của Trung Quốc cho biết vào năm 111 trước CN, sứ giả nhà Triệu đã cống cho tướng Hán là Lộ Bác Đức 1000 hũ rượu, 100 con bò. Sự kiện đó cũng chứng tỏ sự phát triển nói trên.

Cùng với nông nghiệp, chăn nuôi, đánh cá và thủ công nghiệp cũng rất phát triển. Để phục vụ nông nghiệp, cư dân bấy giờ đã đẩy mạnh việc chăn nuôi trâu, bò. Nhiều di tích văn hoá Đông Sơn có nhiều xương trâu, bò. Các loài gia súc, gia cầm cũng được nhân dân chăn nuôi rộng rãi, như lợn, gà, chó, v.v... Nghề thủ công đạt được bước tiến rất quan trọng từ khi cư dân Phùng Nguyên phát minh ra nghề luyện kim, nghề đúc đồng, tiến đến nghề luyện sắt ở giai đoạn Đông Sơn. Việc phát hiện được những khuôn đúc đồng và xỉ đồng đã khẳng định nghề luyện kim do cư dân Hùng Vương sáng tạo ra. Kỹ thuật luyện đồng của người Việt cổ thời Đông Sơn đã đạt đến trình độ điêu luyện khiến cho các học giả nước ngoài kinh ngạc và đi đến phủ nhận tính chất bản địa của nó. Trống đồng, thạp đồng là những hiện vật tiêu biểu nhất cho trí tuệ và tài năng, thẩm mỹ của người thợ thủ công đúc đồng bấy giờ. Thực tế cho thấy từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn không những số lượng các công cụ bằng đồng ngày càng tăng nhanh chóng mà còn phong phú, đa dạng của các loại hình và sự tiến triển về trình độ kỹ thuật, nghệ thuật.

Việc nghiên cứu và nấu luyện hợp kim đồng phù hợp với các loại hình công cụ khác nhau là một thành tựu lớn của người thợ thủ công đúc đồng bấy giờ. Việc cấu tạo hợp kim để chế tạo công cụ bằng đồng thời Hùng Vương đã trải qua 2 giai đoạn. Ở giai đoạn đầu, hợp kim gồm có đồng - thiếc, giai đoạn sau, hợp kim gồm có đồng - chì - thiếc với tỷ lệ đồng 80 - 90%, còn thiếc, chì chiếm từ 10 - 20%. Để làm nóng chảy hợp kim nói trên, các thợ đúc đồng đã tạo nên một nhiệt độ trong lò luyện là từ 1200 độ C - 1250 độ C. Và bản thân lò phải chịu được nhiệt độ 1400 độ C. Để làm được điều đó không phải dễ đối với người Việt Cổ cách đây mấy ngàn năm lịch sử.

Từ kỹ thuật luyện đồng, cư dân bấy giờ đã tiến lên một bước cao hơn có ý nghĩa rất quan trọng, tạo nên bước ngoặt, loại trừ hẳn đồ đá. Trong một số di tích thời Hùng Vương như Tiên Hội, Gò Chiền, Đường Mây, Gò Chiền Vậy, Đồng Mõm, Vinh Quang tìm thấy các di vật bằng sắt. Tại khu Cổ Loa tìm thấy dấu tích chế tạo đồ sắt. Người Đông Sơn chế tạo đồ sắt bằng nhiều phương pháp, từ cách luyện ra sắt xốp, rèn sạt đến phương pháp đúc.

Sự phát triển của trình độ kỹ thuật luyện kim nói riêng và nghề luyện kim nói chung thời Hùng Vương không những đã làm thay đổi về chất và nâng cao hiệu quả của công cụ sản xuất, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế mà còn tạo nên bước chuyển biến quan trọng trong quan hệ sản xuất - xã hội, đưa đến sự phân công lao động trong xã hội. Một số thợ thủ công tách khỏi nông nghiệp.

Nghề làm gốm cũng phát triển lên một bước. Nghệ thuật nặn gốm bằng bàn xoay được cải tiến. Người thợ gốm bấy giờ còn biết dùng phương pháp tạo hình bằng cách đổ khuôn vào nung trong lò kín chuyên dụng. Gốm ngày càng cứng và ít thấm nước hơn, độ mịn ngày càng tăng. Trình độ tạo hình cũng ngày càng cao hơn (các bình gốm ở phần miệng, rìa miệng, đoạn eo thắt ở cổ đều đặn, các đường song song chạy quanh thân gốm, loại hình sản phẩm gốm phong phú, đa dạng). Tuy nhiên, nghề làm gốm bấy giờ vẫn chưa vượt qua được giới hạn của gốm thô. Vào cuối thời Hùng Vương, đồ gốm trở nên đơn điệu và ít được chú ý gia công trang trí.

Các nghề thủ công khác như mộc, đan lát, kéo tơ, dệt vải, dệt lụa, đóng thuyền vẫn tiếp tục phát triển. Nghề sơn đã xuất hiện và đạt trình độ kỹ thuật khá cao vào thời Đông Sơn (sơn có nhiều màu và trang trí đẹp).

Sự phát triển của nền kinh tế là cơ sở cho sự mở rộng trao đổi hàng hoá với nước ngoài. Hiện tượng một số trống đồng loại I Hê gơ của nước Văn Lang ở Thái Lan, Malaixia... cũng như sự có mặt của những lưỡi qua đồng Chiến quốc ở nhiều di tích văn hoá Đông Sơn đã chứng tỏ việc buôn bán giữa người Việt Cổ đương thời với các quốc gia quanh vùng. Một số đồ trang sức, trâu, bò cũng đã trở thành hàng hoá trong việc buôn bán giữa Văn Lang - Âu Lạc với các nước lân bang. Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, sự phân công lao động xã hội giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp, sự trao đổi sản phẩm và các nguyên liệu giữa các địa phương ngày càng mở rộng dưới thời Hùng Vương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng thêm nguồn của cải xã hội. Sản phẩm dư ngày càng nhiều dẫn đến sự phân hoá xã hội. Những của cải chung của xã hội (do lao động công ích, do thu nhập từ ruộng đất công của chiềng, chạ) dần dần bị một số người tìm cách chiếm đoạt, biến thành của riêng. Chế độ tư hữu tài sản ra đời và ngày càng phát triển theo sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng dẫn đến một chuyển biến xã hội quan trọng, đó là sự phân hoá thành kẻ giàu người nghèo.

2. Sự phân hóa xã hội

Từ thời Phùng Nguyên, hiện tượng phân hoá xã hội đã xuất hiện nhưng chưa đáng kể. Trong số 12 ngôi mộ khai quật ở Lũng Hoà (Phú Thọ) có 2 mộ chỉ có 2 hiện vật chôn theo người chết, 2 mộ có tới 20 hiện vật và 24 hiện vật, phổ biến là số mộ có từ 3 đến 13 hiện vật. Đồ tuỳ táng giống nhau gồm công cụ, đồ dùng bằng đá, gốm. Như vậy là ở giai đoạn đầu thời Hùng Vương, quan hệ cộng đồng nguyên thuỷ mới bước vào quá trình tan rã.

Từ giai đoạn Đồng Đậu, Gò Mun đến Đông Sơn, mức độ phân hoá xã hội ngày càng rõ nét hơn. Ở khu mộ táng Làng Cải (Việt Trì, Phú Thọ) thuộc giai đoạn Đông Sơn có 307 mộ táng thì số mộ nghèo không có hiện vật tuỳ táng chiếm tới 84,1%. Số mộ có từ 1 đến 2 hiện vật chiếm 10,1%. Số mộ có từ 11 đến 15 hiện vật chiếm 11,8%. Số mộ có từ 16 hiện vật trở lên chiếm 1%. Ngôi mộ có số hiện vật nhiều nhất là 23 trong đó có 15 giáo, 1 dao găm, 2 rìu, 1 thuổng, 1 thạp, 1 vò gốm, 1 bộ khoá thắt lưng có tượng rùa. Di tích mộ táng Làng Cả cho thấy sự phân hóa xã hội ở đây khá rõ rệt. Người nghèo chiếm đa số trong xã hội. Tại khu mộ Thiệu Dương (Thanh Hoá) có 115 mộ thuộc giai đoạn Đông Sơn thì 2 mộ không có hiện vật chôn theo, 53 mộ chỉ có đồ gốm, 20 mộ có từ 5 đến 20 hiện vật, 4 mộ có trên 20 hiện vật, đặc biệt ở một mộ, số hiện vật lên tới 36. Trong số 5 mộ hình thuyền ở Việt Khê (Hải Phòng) có 4 mộ không có hiện vật, 1 mộ có 107 hiện vật trong đó có 93 hiện vật bằng đồng (bao gồm công cụ sản xuất, nhạc khí, đồ đùng quý giá, vũ khí). Cũng có một số khu mộ lại không thấy có hiện tượng khác nhau về hiện vật. Theo một số tài liệu thống kê 714 mộ thuộc niên đại Đông Sơn của 5 khu mộ táng nổi tiếng là Đông Sơn (102 mộ), Vinh Quang (51 mộ), Làng Vạc (226 mộ), Làng Cả (219 mộ), Thiệu Dương (116 mộ) thì số ngôi mộ nghèo (không có hay chỉ có một ít đồ gốm và đồ trang sức bằng đá đơn giản) chiếm phần lớn (51,9%). Những ngôi mộ ở mức trung bình, có một số đồ gốm, có thêm một ít công cụ và vũ khí bằng đồng, hoặc có thêm công cụ sắt chiếm 41,4%. Những ngôi mộ giàu có, chôn theo nhiều đồ đồng, đồ sắt, những đồ sang trọng chỉ phiếm một tỷ lệ nhỏ (6,5%).

Từ sự phân tích các hiện vật trong các khu mộ táng thời Hùng Vương cho thấy xã hội bấy giờ đã có hiện tượng phân hoá thành các tầng lớp giàu, nghèo khác nhau. Sự phân hoá đó diễn ra từ từ, ngày càng rõ nét hơn qua một quá trình lâu dài từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Tuy nhiên, sự phân hoá xã hội bấy giờ chưa sâu sắc.

Sự phân hoá tài sản là biểu hiện của sự phân hoá xã hội. Gắn liền với hiện tượng này là sự ra đời của nô lệ, gia trưởng, dẫn tới sự hình thành các tầng lớp xã hội khác nhau:

- Quý tộc: gồm có các tộc trưởng, tù trưởng bộ lạc, thủ lĩnh liên minh bộ lạc và những người giàu có khác.Tầng lớp bình dân tự do: là tầng lớp đông đảo nhất trong xã hội, giữ vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu.

- Nô tỳ: tầng lớp thấp nhất, phải phục vụ quý tộc.

Như vậy, đã hình thành tầng lớp trên của xã hội ngày càng giàu có và nắm giữ các cương vị quản lý công việc công cộng của chiềng, chạ (làng xã về sau). Những tiền đề đầu tiên, cần thiết cho sự hình thành nhà nước thời Hùng Vương vào giai đoạn Đông Sơn đã xuất hiện. Sự ra đời của công xã nông thôn do yêu cầu tự vệ chống các mối đe doạ từ bên ngoài, yêu cầu thuỷ lợi của nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã thúc đẩy nhanh và mạnh quá trình hình thành nhà nước, đưa đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương vào giai đoạn Đông Sơn (thế kỷ VII - VI trước CN).

Các công xã thị tộc tan rã, làng xóm định cư (công xã nông thôn) xuất hiện. Dựa vào các di tích khảo cổ từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, ta thấy địa bàn cư trú của cư dân bấy giờ đã mở rộng dần từ vùng rừng núi xuống đồng bằng,ven biển, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng, ven các con sông lớn ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. Các khu vực cư trú thường khá rộng, từ hàng ngàn mét vuông đến một vài vạn mét vuông. Tầng văn hoá cũng khá dày, nhất là giai đoạn Đông Sơn. Những khu vực cư trú đó là những xóm làng định cư, trong đó có nhiều dòng họ khác nhau chung sống và có một dòng họ chính, thường gọi là kẻ, chiềng, chạ. Mỗi xóm làng có một số gia đình theo chế độ gia đình phụ hệ, nhưng người phụ nữ vẫn có vị trí quan trọng trong gia đình và ngoài xã hội, được mọi người coi trọng. Trong xóm làng, quan hệ huyết thống vẫn được bảo tồn bên cạnh quan hệ láng giềng (địa lý).

3. Nhà nước Văn Lang ra đời

Vào thời kỳ Đông Sơn, do những yêu cầu về thuỷ lợi và tự vệ chống ngoại xâm, các bộ lạc sống rải rác ở vùng Bắc Bộ và Trung Bộ đã tự nguyện liên minh với nhau. Bộ lạc Lạc Việt là hạt nhân của liên minh đó. Phạm vi phân bố của văn hoá Đông Sơn cũng phù hợp với cương vực của nước Văn Lang thời Hùng Vương. Trong phạm vi cương vực đó có 15 bộ lạc có mối quan hệ chặt chẽ do quá trình cùng chung sống, có chung một số phận lịch sử, một nhu cầu để tồn tại và phát triển, đã dần dần tạo nên cho cả cộng đồng cư dân một lối sống, phong hoá chung. Và như vậy, từ các đơn vị cộng cư của một xã hội nguyên thuỷ bộ lạc đã hình thành các đơn vị (bộ) của một quốc gia sơ khai cùng với sự hình thành lãnh thổ chung và một tổ chức chung để quản lý và điều hành xã hội.

* Nhà nước Văn Lang

Thư tịch cổ chép lại các truyền thuyết về nước Văn Lang là nhà nước sơ khai ở nước ta, đứng đầu là vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương là người chỉ huy quân sự đồng thời chủ trì các nghi lễ tôn giáo. Dưới Hùng Vương có các lạc hầu, lạc tướng. Lạc tướng còn trực tiếp cai quản công việc của các "bộ". Nước Văn Lang có 15 bộ (trước là 15 bộ lạc). Lạc tướng (trước đó là tù trưởng) còn gọi là phụ đạo, bộ tướng. Dưới bộ là các công xã nông thôn (bấy giờ có tên gọi là kẻ, chiềng, chạ). Đứng đầu kẻ, chạ, chiềng là các bồ chính. Bên cạnh bồ chính có lẽ còn có một nhóm người hình thành một tổ chức có chức năng như một hội đồng công xã để tham gia điều hành công việc của công xã nông thôn, mỗi công xã có nơi trung tâm hội họp, sinh hoạt cộng đồng, thường là một ngôi nhà công cộng.

Căn cứ vào lời tâu của Mã Viện lên vua nhà Hán về tình hình Âu Lạc trước khi nhà Hán xâm lược và đô hộ nước ta, có thể nói, bấy giờ nhà nước Văn Lang đã có pháp luật để điều chỉnh xã hội. Sách "Hậu Hán thư" viết: luật của người Việt so sánh với luật Hán hơn mười điều. Cũng có thể "luật Việt" mà sách Hậu Hán thư ghi theo lời tâu của Mã Viện là một thứ luật tục (tập quán pháp chứ chưa phải là luật pháp thành văn). Sách thường ghi cư dân nước ta bấy giờ là người Lạc Việt và quốc hiệu là Văn Lang do vua Hùng đặt.

Sách Đại Việt Sử lược ghi rằng: "Đời Trang Vương nhà Chu (696 - 682 trước CN) ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang. Việt Vương Câu Tiễn (505 - 462 trước CN) cho người đến dụ hàng nhưng Hùng Vương không theo. Dựa vào các tài liệu và những thành tựu nghiên cứu về thời đại Hùng Vương hiện nay, có thể nói thời điểm ra đời của nước Văn Lang với tính chất là một nhà nước sơ khai là vào khoảng thế kỷ VII - VI trước CN (vào giai đoạn đầu Đông Sơn, là kết quả của một quá trình hình thành, chuẩn bị các điều kiện ra đời của nhà nước về các mặt).

Sự ra đời của nước Văn Lang dù còn ở hình thức sơ khai và có phần sớm với sự phân hoá xã hội chưa sâu sắc nhưng đã đánh dấu một bước phát triển có ý nghĩa thời đại của lịch sử Việt Nam - mở đầu thời đại dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 1-1-2012 09:59 PM
Nước Văn Lang - Họ Hồng Bàng

Đây là giai đoạn mang tính chất nửa lịch sử nửa thần thoại khi con người Việt cổ còn chưa có chữ viết. Lịch sử chỉ được ghi nhớ lại qua truyền khẩu mà thôi.

Dựa vào truyền thuyết, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên viết rằng Lộc Tục lên làm vua vùng đất phía Nam núi Ngũ Linh (Quảng Đông) vào năm 2879 trước công nguyên. Lộc Tục lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Cương vực Xích Quỷ khá rộng lớn, phía Bắc là núi Ngũ Linh, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (sau này là vương quốc Champa), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) và phía Đông là biển Nam Hải.

Kinh Dương Vương lấy nàng Thần Long, con gái của chúa hồ Động Đình sinh được một người con là Sùng Lãm. Sùng Lãm lên làm vua thay Kinh Dương Vương lấy hiệu là Lạc Long Quân. Tương truyền rằng Lạc Long Quân có gốc rồng từ dòng họ của mẹ nên thường ở dưới động nước. Khi người dân có việc cần giải quyết, thường đến trước động nước kêu to lên: "Bố ơi, ở đâu? Hãy đến với ta". Thế là Lạc Long Quân liền lên cạn giải quyết mọi việc khó khăn cho dân chúng.

Lạc Long Quân gặp được Âu Cơ và lấy nàng làm vợ. Họ sinh ra một trăm người con trai (hoặc 100 trứng).

Một hôm, khi các người con trai đã trưởng thành, Lạc Long Quân nói với nàng Âu Cơ: "Ta là giống rồng, sống dưới nước, nàng là tiên, sống trên cạn. Thủy hỏa khắc nhau, không sống lâu bền với nhau được".

Thế là hai người chia tay. Năm mươi người con ở lại với cha dưới động nước. Năm mươi người con kia theo mẹ lên cạn. Họ đến sống ở đất Phong Châu (Vĩnh Phú), tôn người con cả lên làm vua và cùng nhau xây dựng cơ đồ. Cũng từ truyền thuyết này mà người Việt vẫn cho rằng tổ tiên của mình là tiên rồng.

Người con cả lên làm thủ lĩnh vùng đất mới. Đó là Hùng Vương thứ nhất. Bắt đầu một thời đại mà sử sách gọi là thời đại Hùng Vương. Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc (Việt Trì, Vĩnh Phú). Vua chia nước ra làm 15 bộ. Đa số các em của vua cai trị các bộ này. Họ được gọi là Lạc tướng và có quyền cha truyền con nối.

1. Văn Lang (Bạch Hạc, Phú Thọ)

2. Châu Diên (Sơn Tây)

3. Phúc Lộc (Sơn Tây)

4. Tân Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)

5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)

6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)

7. Lục Hải (Lạng Sơn)

8. Ninh Hải (Quảng Yên)

9. Dương Tuyền (Hải Dương)

10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình)

11. Cửu Chân (Thanh Hóa)

12. Hoài Hoan (Nghệ An)

13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)

14. Việt Thường (Quảng Bình - Quảng Trị)

15. Bình Văn (?)

Các đời Vua sau đều gọi là Hùng Vương, có 18 đời vua Hùng Vương (*)

(*) Ngôi Hùng Vương cha truyền con nối 18 đời, kéo dài hơn 2000 năm làm cho nhiều người hoài nghi và có nhiều cách giải thích khác nhau. Trong truyền thuyết con số 9 và bội số của 9 (18, 36... 99...) thường mang tính chất biểu tượng (số thiêng) chứ không có ý nghĩa toán học. Phải chăng 18 đời vua cũng có ý nghĩa là nhiều đời, truyền nối lâu dài). Đặt các tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính.

Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng là nhà nước phôi thai đầu tiên của Việt Nam, còn rất đơn giản, mặc dù mới hình thành nhưng đã cố kết được lòng người. Từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng đồng, thể hiện rõ tình đồng bào ruột thịt. Họ bước đầu hiểu được mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người, thấy được sức mạnh của cộng đồng trong việc làm thủy lợi, trao đổi sản phẩm và đấu tranh giữ gìn bản làng, đất nước.

Thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Đó là truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương và truyền thuyết về Sơn Tinh - Thuỷ Tinh.

Phù Đổng Thiên Vương

Vào đời vua Hùng Vương thứ 6 có giặc Ân rất mạnh, đã thôn tính nhiều nước xung quanh. Chúng kéo sang xâm lược nước ta. Thế giặc rất mạnh, quan quân không sao chống cự nổi. Nhà vua cho sứ giả đi rao tìm người tài giỏi ra giúp nước.

Lúc bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có một nhà giàu đã 62 tuổi mới sinh được một con trai, lên ba mà vẫn chưa biết nói. Cậu bé suốt ba năm chỉ nằm ngửa không tự ngồi hay đứng được.

Khi sứ giả đến làng rao cầu hiền, cậu bé thốt nhiên nói được và xin với cha cho mời sứ giả nhà vua vào hỏi chuyện. Khi sứ giả đến, cậu bé xin sứ giả về tâu vua đúc cho cậu một con ngựa sắt, một thanh kiếm, một cái nón sắt rồi cậu sẽ ra quân diệt giặc.

Từ khi sứ nhà vua về làng, cậu bé mỗi ngày một lớn, ăn khoẻ lạ thường. Ngày tháng trôi qua, cậu lớn phổng lên thành người khổng lồ.

Khi giặc Ân kéo đến chân núi Châu Sơn (thuộc Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) thì sứ giả đem ngựa, kiếm và nón sắt dâng cho cậu. Cậu vươn vai đứng dậy rồi nhảy lên ngựa. Ngựa chạy đến đâu, miệng phun ra lửa đến đó. Cậu xông vào đội ngũ giặc, sải kiếm chém giặc như chém chuối. Kiếm gẫy, cậu nhổ cả các cụm tre mà đánh giặc. Không đương nổi sức mạnh thần diệu của chàng trai Phù Đổng, tàn quân giặc quỳ gối xin hàng.

Phá xong giặc Ân, người anh hùng làng Phù Đổng đi lên đỉnh núi Sóc Sơn, cả người lẫn ngựa bay lên trời. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng và sắc phong là Phù Đổng Thiên Vương.

Sơn Tinh - Thủy Tinh

Vua Hùng Vương thứ 18 kén chồng cho con gái là Mỵ Nương. Sơn Tinh (Thần Núi) và Thủy Tinh (Thần Nước) cùng đến cầu hôn. Hùng Vương hứa gả con gái cho người nào ngày mai mang lễ vật đến trước. Sơn Tinh đem lễ vật đến sớm hơn và được đưa Mỵ Nương về núi. Thủy Tinh đến sau nổi giận dâng nước sông lên đánh Sơn Tinh. Nước dâng lên đến đâu Sơn Tinh làm cho núi đồi cao lên đến đó. Cuối cùng Thủy Tinh thua trận phải rút nước. Hằng năm, cuộc chiến thường diễn lại.

Truyền thuyết này phản ánh các trận lụt ở lưu vực sông Hồng và việc đắp đê trị thủy của tổ tiên ta có từ xa xưa.

Ngoài ra còn có các truyền thuyết tiêu biểu sau:

Thời đại Hùng Vương có nhiều truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Ngoài các truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương - Thánh Gióng và Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, còn có các truyền thuyết về Bọc trăm trứng, về Bánh Giày - Bánh Chưng, về Dưa hấu, về Chứ Đồng Tử, về Cột đá thề...

Bọc trăm trứng

Vua đầu nước ta - Kinh Dương Vương là cháu bốn đời Viêm Đế Thần Nông - vị thần trông coi nghề nông ở trên trời. Kinh Dương Vương lấy Thần Long nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đi tuần thú gặp Âu Cơ ở động Lăng Xương kết làm vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở thành trăm con trai. Khi các con khôn lớn, Lạc Long Quân nói: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, không thể ở lâu với nhau được". Bèn chia 50 con cho Âu Cơ đem lên núi, còn Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển, để lại người con cả nối ngôi hiệu là Hùng Vương đặt tên nước Văn Lang đóng đô ở thành Phong Châu, truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương.

Bánh giày - Bánh Chưng

Vua Hùng thứ 6 muốn chọn con hiền cho nối ngôi, mới ban lệnh thi cỗ. Các hoàng tử ra sức tìm kiếm sơn hào hải vị bày biện. Riêng Lang Liêu chỉ dùng gạo nếp thơm chế ra bánh giày, bánh chưng. Vua thấy Lang Liêu hiếu thảo siêng năng, sáng chế ra hai bánh quý bèn truyền ngôi cho làm Hùng Vương thứ 7.

Nguồn gốc Dưa hấu

An Tiêm là con nuôi vua Hùng, nói năng kiêu ngạo, bị đày ra đảo hoang. Vợ chồng An Tiêm chỉ được mang theo một ít lương thực và con dao phát. Chàng thấy đàn quạ đến đảo ăn thứ quả da xanh lòng đỏ, dây bò trên mặt đất. An Tiêm lấy một quả ăn thử thấy ngon ngọt khỏe người, bèn trỉa đất rắc hạt trồng khắp đảo. Đến vụ thu hoạch chàng gọi thuyền buôn vào bán. Vua biết tin liền cho đón về.

Chử Đồng Tử

Công chúa Tiên Dung con Vua Hùng 18 thích du chơi phóng khoáng. Nàng cưỡi thuyền xuôi sông Cái, đến bãi Tự Nhiên sai căng màn tắm. Không ngờ dội lớp cát trôi lộ ra chàng đánh cá ở trần vùi mình trong hố, tên là Chử Đồng Tử. Tiên Dung cho rằng duyên trời xe, bèn lấy chàng làm chồng. Vua cha biết tin giận sai quân đến bắt, thì cả vùng đất cùng Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên trời.

Cột đá thề

Vua Hùng Vương thứ 18 không có con trai, nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn tức là Tản Viên. Thục Phán là cháu vua Hùng làm lạc tướng bộ lạc Tây Vu đem quân đến tranh ngôi, xảy ra chiến tranh Hùng - Thục. Tản Viên khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán cảm kích dựng hai cột đá trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thề rằng sẽ kế tục giữ nước và thờ tự các vua Hùng. Phán sai thợ đẽo đá dựng miếu trên núi và cho mời dòng tộc nhà vua đến ở chân núi lập ra làng Trung Nghĩa giao cho trông nom đền miếu, cấp cho đất ngụ lộc từ Việt Trì trở ngược đến hết địa giới nước nhà. Lại sai dựng miếu ở động Lăng Xương thờ bà mẹ Tản Viên, cấp đất ngụ lộc cho Tản Viên từ cửa sông Đà trở lên phía Tây Bắc. Sau đó Thục Phán xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa đặt tên nước là Âu Lạc.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 1-1-2012 10:11 PM
Kinh Dương Vương


Tổ thứ nhất của dân tộc Việt Nam, họ Hồng Bàng dựng nước. Tất cả truyền được 18 đời xưng họ Hùng Vương (theo Hùng triều ngọc phả và Thiên Nam bảo lục diễn ca).

Ngài là đời thứ nhất gọi là Kinh Dương Vương Lộc Tục, tôn dâng miếu là Hùng Vương, thứ hai là Lạc Long Quân Sùng Lãm, thứ ba là Hùng Lân…

Quốc hiệu ta lúc ấy là Văn Lang đóng đô ở Phong Châu (thuộc huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay). Ông làm vua nước Xích Quỉ vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 tr. Tây lịch) lấy con gái Động Đinh quan là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua. Toàn lãnh thổ chia ra 15 bộ: Văn Lang, Phúc Lộc, Tân Hưng, Võ Định, Võ Ninh, Lục Khái, Ninh Hải, Dương Tuyền, Giao Chỉ, Cửu Chân, Hoài Nam, Cửu Đức, Việt Thường và Binh Văn. Và truyền nhau đến đời thứ 18 là Hùng Duệ.

Đến nay di tích hãy còn trên đỉnh Hùng Sơn (Núi Hùng) cách Hà Nội 97km, cũng gọi là Núi Đền, Nghĩa Lĩnh, hay Nghĩa Cương. Bia 4 chữ lớn Cao Sơn cảnh Hùng.

Lạc Long Quân


Nhân vật giã sử cổ Việt Nam. Vua Lạc Long Quân húy là Sùng Lãm, con vua Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng.

Vua lấy bà Âu Cơ, sinh ra một trăm người con trai. Một hôm nói với hoàng hậu: "Ta thuộc giống rồng, nàng thuộc giống tiên, nếp sinh hoạt khác nhau, không sống chung được lâu" rồi chia 50 con theo mẹ lên miền núi, 50 con theo cha xuống miền biển. Người con trưởng nối ngôi lấy hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu.

Trong ca dao Việt Nam có bài ca về sự tích Trăm trứng trăm con giàu tính sử học:

Gần đàng xa ngõ thiếp nghiêng tai chàng tỏ thiếp tường,

Long Quân Nam Việt gặp nàng Âu Cơ.

Dạo chơi sơn thủy dật dờ,

Đạp nhằm dấu thỏ một giờ thọ thai.

Nở ra nửa gái nửa trai sẵn sàng

Nửa thì quy phụng rồng loan

Nửa theo quê mẹ cho nhàn tấm thân

Thiếp hỏi chàng chàng nói từng câu

Hỏi thăm thiếp lại Tí Mẹo Dần ai sanh?

Hùng Vương


Theo truyền thuyết, là con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết được ghi lại trong "Lĩnh Nam chích quái" thời Trần kể rằng Âu Cơ kết hôn với Lạc Long Quân, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con trai. Về sau, Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ; 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi. Người con cả được tôn làm vua, gọi là Hùng Vương. Hùng Vương đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Phú Thọ), truyền ngôi được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương. Về sau, một số biên niên sử Việt Nam đã chép thời đại huyền thoại này vào chính sử như "Đại Việt sử lược" (thời Trần), "Đại Việt sử kí toàn thư" (thời Lê). "Đại Việt sử lược" xếp Hùng Vương ngang với Trang Vương của triều Chu của Trung Quốc, tức khoảng 696 - 682 TCN. "Đại Việt sử kí toàn thư" thì chép từ Kinh Dương Vương đến hết đời Hùng Vương cuối cùng vào Kỉ Hồng Bàng thị, tổng số là 2.622 năm, từ năm Nhâm Tuất đến năm Quý Mão. Năm Quý Mão được ghi rõ là tương ứng với năm thứ 27 đời Chu Noãn Vương của Trung Quốc, tức năm 258 TCN. Từ đó, có thể tính ra năm Nhâm Tuất là năm 2879 TCN. Cũng từ cách ghi chép của "Đại Việt sử kí toàn thư" mà người ta nói là thời đại Hùng Vương cách chúng ta 4.000 năm. Chúng ta chưa có cứ liệu để biết các sách biên niên sử nói trên đã dựa vào căn cứ nào để ghi chép như vậy.

Ngày nay, nhiều người cho rằng thời đại Hùng Vương với quan niệm thời gian tồn tại như trên, là tương ứng với thời kì Tiền Đông Sơn và Đông Sơn mà các nhà khảo cổ học đã đưa ra. Thời kì Tiền Đông Sơn, thuộc thời đại đồng thanh (ngành khảo cổ quen gọi là đồng thau), bắt đầu bằng văn hoá Phùng Nguyên, cũng có niên đại cách ngày nay khoảng 4.000 năm. Có thể coi đó là thời kì hình thành cái lõi đầu tiên của người Việt cổ. Nhưng các nhà sử học và khảo cổ học cho rằng chỉ đến thời kì văn hoá Đông Sơn mới có thể nói đến sự hình thành nhà nước. Văn hoá Đông Sơn hiện nay được coi là thuộc thời đại sắt và tồn tại trong khoảng thế kỉ 7 TCN. đến thế kỉ 2 SCN. Vì vậy, nếu coi nước Văn Lang của Hùng Vương như một nhà nước thực sự thì có thể bắt đầu vào khoảng thế kỉ 7 TCN, và điều đó phù hợp với sự ghi chép của sách "Đại Việt sử lược".
Tác giả: likemelove    Thời gian: 2-1-2012 09:21 AM
Ầy,mình cũng thích lịch sử lắm
Bon chen với bạn nhá
Mình thì mình thích lịch sử thời Lý-Trần nhất

Nhà Lý hoặc Lý triều (Hán-Nôm: 家李·李朝—nhà Lí·Lí triều), còn được gọi là nhà Hậu Lý (để phân biệt với nhà Tiền Lý của Lý Nam Đế) là một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Thái Tổ lên ngôi tháng 10 âm lịch năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê trải qua 11 triều vua và chấm dứt khi vua Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 8 tuổi bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm. Quốc hiệu Đại Việt của Việt Nam có từ tháng 10 âm lịch năm 1054 khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Ở thời này có sự kiện đáng nhớ là việc dời đô từ Hoa Lư, một nơi xa đồng bằng Bắc Bộ, thưa dân, hiểm trở ra Đại La, rồi đặt tên mới là Thăng Long theo hình tượng con rồng, một hình tượng đặc thù của thời này. Quốc hiệu Đại Việt cũng được đặt ở thời kỳ này.
Tác giả: likemelove    Thời gian: 2-1-2012 09:24 AM
Khái quát
Người khởi đầu cho nhà Hậu Lý là Lý Công Uẩn. Trong thời đại của vương triều này, lần đầu tiên nhà Hậu Lý đã giữ vững được chính quyền một cách lâu dài đến hơn hai trăm năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục năm, ngoài ra nhà Hậu Lý còn bảo toàn và mở rộng lãnh thổ của mình. Trong nước, mặc dù các vua đều sùng bái đạo Phật, nhưng ảnh hưởng của Nho giáo đã bắt đầu lớn dần, với việc mở các trường đại học đầu tiên là Văn miếu (1070) và Quốc tử giám (
1076), và các khoa thi để chọn người hiền tài không có nguồn gốc xuất thân là quý tộc ra giúp nước. Khoa thi đầu tiên được mở vào năm 1075. Về thể chế chính trị, đã có sự phân cấp quản lý rõ ràng hơn và sự cai trị đã dựa nhiều vào pháp luật hơn là sự chuyên quyền độc đoán của cá nhân. Sự kiện nhà Hậu Lý chọn thành Đại La làm thủ đô (sau là Thăng Long tức Hà Nội ngày nay) đánh dấu sự cai trị dựa vào sức mạnh kinh tế và lòng dân hơn là sức mạnh quân sự để phòng thủ như các triều đại trước.
Tác giả: likemelove    Thời gian: 2-1-2012 09:27 AM
Nông nghiệp
Kinh tế thời nhà Hậu Lý chủ yếu dựa vào nông nghiệp, vì thế trong suốt thời gian của triều đại này, người ta thấy có nhiều việc làm của các vua hay các chiếu chỉ liên quan đến vấn đề bảo vệ và phát triển nông nghiệp.
Ruộng đất trong cả nước trên danh nghĩa đều thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà vua. Nhưng thực tế,phần lớn ruộng đất lại do nông dân canh tác. Hằng năm, dân làng chia nhau ruộng đất công để cày cấy và nộp thuế cho nhà vua. Các vua nhà Hậu Lý thường về các địa phương cày tịch điền. Năm 1038 tháng 2, vua Lý Thái Tông ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Vua sai Hữu ty dọn cỏ đắp đàn và thân hành tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng đó là công việc của nông phu, nhà vua không cần làm thế, nhưng Thái Tông nói:
Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo?
Nói xong, vua đẩy cày ba lần. Năm 1042 tháng 3, vua ngự ra cửa biển Kha Lãm cày ruộng tịch điền. Theo sử biên niên ghi lại, nhiều năm mùa màng bội thu như năm 1016 (triều Lý Thái Tông), năm 1131 (triều Lý Thần Tông),năm 1139, 1140 (triều Lý Anh Tông)…
Nhà Hậu Lý chú trọng việc trị thủy, đắp đê, nhất là vùng châu thổ sông Hồng. Năm 1077, Lý Nhân Tông ra lệnh đắp đê sông Như Nguyệt dài 67.380 bộ. Năm 1103, ông lại xuống chiếu đắp đê. Năm 1108, triều đình tổ chức đắp đê Cư Xá (sông Hồng) từ Yên Phụ đến Lương Yên. Ngoài Thăng Long, đê điều cũng được tu tạo. Sử sách ghi nhận những năm được mùa lớn như: 1016, 1030, 1044, 1079, 1092, 1111, 1120, 1123, 1131, 1139, 1140[5].
Năm 1117 tháng 2, vua Lý Nhân Tông định rõ lệnh cấm giết, mổ trộm trâu. Hình phạt 80 trượng, đồ làm khao giáp (phục dịch trong quân), vợ xử 80 trượng, đồ làm tang thất phụ (chăn tằm) và bồi thường trâu; láng giềng biết mà không tố cáo, phạt 80 trượng. Năm 1123 tháng 4 cấm giết trâu, xuống chiếu rằng: "Trâu là vật quan trọng cho việc cày cấy, làm lợi cho người không ít. Từ nay về sau ba nhà làm một bảo, không được giết trâu ăn thịt, ai làm trái thì trị tội theo hình luật"[6].
Thủ công nghiệp
Trong dân gian, nghề chăn tằm ươm tơ, dệt lụa, làm đồ gốm, xây dựng đền đài, cung điện, nhà cửa rất phát triển.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, tháng 2 năm 1040, "vua [Lý Thái Tông] đã dạy cung nữ dệt được gấm vóc. Tháng ấy xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra để may áo ban cho các quan,từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào bằng gấm ,từ cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc, để tỏ là vua không dùng gấm vóc của nhà Tống nữa"[7].
Ngoài ra, nghề làm đồ trang sức bằng vàng, bạc, nghề làm giấy, nghề in bảng gỗ, đúc đồng, rèn sắt, nhuộm vải, đều được mở rộng. Có những công trình do bàn tay người thợ thủ công Đại Việt tạo dựng nên rất nội tiếng như chuông Quy Điền, tháp Bảo Thiên (Hà Nội), vạc Phổ Minh (Nam Định) v.v…
Thương mại
Tuy nhiên, đã có mầm mống của việc trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ, như tháng 10 năm 1042, vua Lý Thái Tông cho đúc tiền Minh Đạo. Từ giữa thế kỷ 12 đã có mầm mống của ngoại thương ngoài việc trao đổi hàng hóa với các nước có chung biên giới. Theo sách Lĩnh ngoại đại đáp của Nam Tống, người Việt thời Hậu Lý thường sang Trung Quốc buôn bán qua hai ngả là trại Vĩnh Bình trên bộ, nằm ở biên giới với Ung Châu, và đường biển là cảng châu Khâm và Liêm. Buôn bán tại đây rất sôi động, "thuyền chèo qua lại không dứt". Hàng hóa người Việt mang sang chủ yếu là dầu thơm, sừng ngà, muối, tiền, đổi lấy vóc gấm của người Trung Quốc. Nhà buôn tư nhân, gọi là "tiểu cương", muốn qua phải gửi tờ trình trước tới châu Khâm. Nhà Lý cũng thường cử sứ giả sang buôn bán, gọi là "đại cương". Nhà Lý cử sứ giả sang Trung Quốc ba lần để thống nhất cân đo, tạo điều kiện cho buôn bán.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) chép: Năm 1149 tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa (Java), Lộ Lạc (có thể là Lộ Hạc - La Hộc - Lavo ở Lopburi, Thái Lan, Lộ Hạc có khả năng là nước Locac được nhắc đến trong du ký của Marco Polo), Xiêm La[8] vào Hải Đông (tỉnh Quảng Ninh ngày nay, xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn hay năm 1184 tháng 3, người buôn các nước Xiêm La và Tam Phật Tề (Srivijaya ở đảo Sumatra, được nhắc đến với tên Thất Lợi Phật Thệ từ thế kỷ 7 và với tên Tâm Phật Tề từ thế kỷ 5 trong thư tịch Trung Quốc) vào trấn Vân Đồn dâng vật báu để xin buôn bán.
Ngoại giao
Nhà Hậu Lý trong suốt thời đại của mình liên tục phải đối phó với những mưu đồ bành trướng, thôn tính hoặc cướp phá của các nước láng giềng như nhà Tống ở phía Bắc, Chiêm Thành, Chân Lạp ở phía Nam, Đại Lý ở Tây bắc hoặc những cuộc nổi loạn lẻ tẻ của các dân tộc thiểu số. Quan hệ với nhà Tống mang tính chất nước nhỏ thần phục nước lớn, tuy rằng trong giai đoạn khoảng những năm 1075-1076, Lý Thường Kiệt và Tông Đản đã từng đem quân tấn công nhà Tống ở các châu Ung, châu Khâm. Đại Lý không còn là một quốc gia hùng mạnh như trong giai đoạn thế kỷ 8, thế kỷ 9 nên các cuộc giao tranh mang tính chất lẻ tẻ và phần thua thông thường thuộc về người Đại Lý. Quan hệ với Chiêm Thành thì nhà Hậu Lý dường như lại đóng vai trò của một nước lớn. Quan hệ với Chân Lạp khá bình thường, với chính sách ngoại giao khá mềm dẻo, nhà Lý đã giữ vững và mở rộng được lãnh thổ của mình. Năm 1097, ban hành Hội Điển qui định các phép tắc chính trị.
Với Trung Quốc
Sứ giả Đại Việt sang Trung Hoa. Hiện vật bảo tàng Guimet, Paris.
Năm 1164, Nam Tống công nhận Đại Việt là một nước độc lập với quốc hiệu ban cho vua Lý Anh Tông là An Nam Quốc vương. Đây là lần đầu tiên sau 225 năm kể từ khi Ngô Quyền giành được độc lập và xưng vương (939), vua Trung Quốc mới công nhận nền độc lập của Đại Việt. Trước đó các vua nhà Tống chỉ gọi các vua Việt là Giao Chỉ Quận Vương, xem đất Đại Việt chỉ là một quận của nhà Tống.
Với Chân Lạp
Quan hệ ngoại giao với Chân Lạp không có nhiều điểm nổi bật thời Hậu Lý. Đại Việt sử ký toàn thư có chép sự kiện tháng Giêng, ngày Giáp Dần, năm Mậu Thân (tức 2 tháng 3 năm 1128), 2 vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu ở châu Nghệ An. Lý Thần Tông sai Nhập nội thái phó Lý Công Bình đem quân đánh dẹp. Chưa đến 10 ngày sau (ngày Quý Hợi), quân Chân Lạp bị đánh tan. Tháng 8 năm đó, người Chân Lạp lại vào cướp hương Đỗ Gia ở châu Nghệ An, có đến hơn 700 chiếc thuyền. Vua sai Nguyễn Hà Viêm và Dương Ổ đem quân dẹp được.
Cuối năm đó, châu Nghệ An đệ tâu một phong quốc thư của nước Chân Lạp, xin sai người sang sứ. Tuy nhiên Lý Thần Tông đã không trả lời.
Tháng 8 năm 1132, quân Chân Lạp và Chiêm Thành vào cướp phá Nghệ An. Thần Tông sai quan Thái úy Dương Anh Nhị đánh thắng được quân hai nước. Sang năm 1134, hai nước phải đến tiến cống. Tháng 9 năm 1136, tướng Chân Lạp là Tô Phá Lăng lại mang quân vào cướp phá Nghệ An. Thần Tông sai quan Thái phó là Lý Công Bình đi đánh bại quân Chân Lạp.
Một sự kiện khác có liên quan đến Chân Lạp vào thời vua Lý Anh Tông. Chân Lạp dưới triều vua Suryavarman II đã trở thành đế chế hùng mạnh và rộng lớn nhất ở Đông Nam Á. Suryavarman II đã đánh chiếm, sát nhập và cai trị miền Bắc Champa (từ Quy Nhơn ra Quảng Bình) vào năm 1145 và nhân cơ hội đó tiến đánh xâm lược Đại Việt[cần dẫn nguồn] nhưng ông đã bị nhà Hậu Lý đánh bại và chết trận.[cần dẫn nguồn] Nhờ uy tín đó, nhà Tống đang lúc suy yếu vì đã mất miền Bắc cho nước Kim đã lấy lòng Đại Việt bằng cách phong cho Lý Anh Tông là An Nam Quốc Vương.
Với nước Kim
Có điều rất thú vị là nước Kim (nhà Kim) khi đó đang rất hùng mạnh ở miền bắc Trung Hoa uy hiếp nước Nam Tống thường xuyên cũng rất tôn trọng Đại Việt. Kim Quốc từng cho sứ đến Đại Việt đề nghị với nhà Hậu Lý đừng có giúp gì cho Nam Tống khi Kim đánh Nam Tống. Nhà Lý rất khéo léo trong vấn đề ngoại giao với hai nước này, sử cũ có chép vào năm 1168 cả sứ nước Tống và Kim đến Đại Việt cùng lúc, triều đình phải bố trí cho hai vị sứ này ở hai nơi khác nhau và không cho họ biết người kia cũng đến Đại Việt.
Với Chiêm Thành
Trong triều đại nhà Hậu Lý, tổng cộng có khoảng 10 lần (1020, 1043, 1044, 1069, 1075, 1104, 1132, 1167, 1216, 1218) các vua hay các quan lại cao cấp như Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành v.v. đã đem quân đi đánh Chiêm Thành. Sau mỗi lần đánh, vua Chiêm Thành lại cầu hòa, cử người sang cống nhưng sau đó lại chống đối. Sự kiện lớn nhất là vào năm 1069, Chiêm Thành đem quân ra cướp phá vùng Nghệ Tĩnh. Vua Lý Thánh Tông thân chinh dẫn 10 vạn quân nam chinh vào tận kinh đô Chiêm Thành đánh bại và bắt được vua Chiêm đưa về Thăng Long, để được tha vua Chiêm và triều đình Chiêm Thành đã cắt phần đất phía Bắc dâng cho Đại Việt là vùng đất Quảng Bình và bắc Quảng Trị ngày nay, sau sự kiện này biên giới phía nam của Đại Việt lần đầu tiên tiến đến sông Thạch Hãn (Quảng Trị)
Nhưng một vài sử gia cho rằng tới giai đoạn lịch sử này cuộc bình Chiêm chẳng phải riêng vì việc đoạn tuyệt giao hiếu, mà do Đại Việt bắt đầu thi hành chính sách đế quốc, dựa vào chỗ Chiêm có tinh thần bất khuất đối với Đại Việt và lại lén lút thần phục nhà Tống.[9]
Với các bộ tộc thiểu số
Với các bộ lạc thiểu số, nhằm mục đích tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa triều đình và các châu huyện có các bộ lạc thiểu số, vốn có tính tự trị cao, nhà Lý có chính sách gả công chúa cho các châu mục (chức quan đứng đầu các châu). Ví dụ năm 1029, tháng 3 gả công chúa Bình Dương cho châu mục châu Lạng (Lạng Sơn ngày nay) là Thân Thiệu Thái, nhưng khi cần thiết thì vua, con trai vua hay các quan cũng có thể đánh dẹp để đảm bảo khối thống nhất của đất nước. Trong sách Đại Việt Sử ký Toàn thư có rất nhiều đoạn nói về việc đánh dẹp của các vua đối với các châu (Vị Long, Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên, Định Nguyên, Trệ Nguyên, Thất Nguyên, Văn Châu, châu Hoan v.v). Đỉnh cao là đánh dẹp cha con Nùng Tồn Phúc và Nùng Trí Cao ở châu Quảng Nguyên (1039-1053).
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 2-1-2012 11:29 AM
Nhà Thục (208 - 179 TCN)

Nước Âu Lạc đời An Dương Vương


Vừa mới bắt đầu dựng nước, nhân dân ta đã phải liên tiếp đương đầu với nhiều mối đe dọa từ bên ngoài. Truyền thuyết nhân gian kể lại cuộc chiến đấu chống lại nhiều kẻ giặc như giặc Man, giặc Mủi Đỏ, giặc Ân... xác nhận từ thời các vua Hùng, nhân dân ta đã phải nhiều lần đứng dậy chống ngọai xâm.

Vào thời cuối các vua Hùng, nạn ngoại xâm càng trở thành mối đe dọa to lớn. Ở Trung Quốc, Việt Vương Câu Tiễn sau khi diệt nước Ngô năm 473 TCN làm bá chủ miền Duyên Hải từ Sơn Đông đến Quảng Đông và đã từng sai sứ xuống dụ nước Văn Lang nhưng đã bị vua Hùng cự tuyệt. Sự kiện này được các nhà sử học Việt Nam coi là cuộc đụng độ đầu tiên giữa nước ta với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Truyền thuyết "Họ Hồng Bàng" trong sách Lĩnh Nam chích quái cũng phản ánh phần nào cuộc tiếp xúc và đụng độ của người Việt với người Hoa Hạ ở phương Bắc. Sách có chép "Dân phương Nam khổ vì bị người phương Bắc quấy nhiễu, không được yên sống như xưa...". Nước Tần thành lập năm 221 TCN đã mở rộng những cuộc chiến tranh xâm lược đại quy mô ra cả hai phía bắc, nam thành lập một đế chế rộng lớn đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Về phía Nam tiếp tục kế thừa và phát triển chủ trương " bình Bách Việt" của nước Sở trước đây, Tần Thủy Hoàng đã sai 50 vạn quân xâm lược đất đai của Bách Việt ở phía Nam Trường Giang. Hàng vạn quân Tần vượt biên giới tràn vào lãnh thổ phía Bắc và Đông Bắc nước ta lúc đó. Lúc này hai tộc người Lạc Việt và Âu Việt (Tây Âu) vốn gần gũi về dòng máu, về địa vực cư trú, về kinh tế và văn hóa lại có điều kiện liên kết chặt chẽ lại với nhau hơn trong cuộc chiến đấu chống kẻ thù chung. Theo sách Hoài Nam Tử, "lúc đó người Việt đều vào rừng ở với cầm thú, không ai chịu để quân Tần bắt", và "họ cùng nhau đặt người kiệt tuấn lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần" . Đó là hình thức phôi thai của lối đánh du kích và thông qua lối đánh này mà lực lượng kháng chiến của người Việt ngày càng lớn mạnh; còn quân Tần dần dần bị dồn vào thế nguy khốn và tuyệt vọng. Trên đà chiến thắng, người Việt tập hợp lực lượng tổ chức đánh lớn nhằm tiêu diệt sinh lực địch, đại phá quân Tần, giết chết chủ tướng Đồ Thư, buộc nhà Tần phải bãi binh. Đây là thắng lợi oanh liệt đầu tiên của cả dân tộc ta chống lại họa xâm lược của phong kiến phương Bắc.

Trong cuộc chiến đấu này, vai trò và uy tín của Thục Phán, người thủ lĩnh kiệt xuất của liên minh bộ lạc Tây Âu ngày càng được nâng cao, không chỉ ở trong bộ lạc Tây Âu mà còn có ảnh hưởng sâu rộng trong bộ lạc Lạc Việt. Sau khi cuộc kháng chiến kết thúc thắng lợi, trong điều kiện cộng đồng cư dân Lạc Việt - Tây Âu đã hình thành và uy tín ngày càng cao của Thục Phán, Thục Phán đã thay thế Hùng Vương, tự xưng là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc. Sách Việt sử lược chép rằng "Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi mà lên thay" , còn một số thần tích và truyền thuyết dân gian lại cho rằng sau nhiều cuộc xung đột, cuối cùng Hùng Vương theo lời khuyên của con rể là Thánh Tản Viên đã nhường ngôi cho Thục Phán.

Tên nước Âu Lạc bao gồm hai thành tố là Tây Âu (hay Âu Việt) và Lạc Việt, phản ánh sự liên kết của hai nhóm người Lạc Việt và Tây Âu. Trong triều vua Thục vẫn có Lạc hầu và các địa phương vẫn do Lạc tướng cai quản. Lãnh thổ nước Âu Lạc cũng được mở rộng trên cơ sở sáp nhập hai vùng lãnh thổ Văn Lang và Tây Âu. Sự thành lập nước Âu Lạc không phải là kết quả của một cuộc chiến tranh thôn tính, tiêu diệt lẫn nhau mà là một sự hợp nhất cư dân và đất đai của Lạc Việt và Tây Âu, của vua Hùng và vua Thục. Vì vậy, nước Âu Lạc là một bước phát triển mới, kế tục và cao hơn nước Văn Lang. Nước Âu Lạc của An Dương Vương chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn (khoảng gần 30 năm, từ năm 208 đến năm 179 tr.CN) (1), nhưng nó cũng đã có những đóng góp to lớn vào trong tiến trình phát triển của lịch sử đất nước.

Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thời Âu Lạc đều tiếp tục phát triển trên cơ sở những thành tựu đã đạt được của nước Văn Lang trước đây. Văn hóa Đông Sơn vẫn là cơ sở văn hóa chung của nước Văn Lang và Âu Lạc. Do yêu cầu bức thiết của cuộc chiến đấu chống ngoại xâm, trong thời Âu Lạc, kỹ thuật quân sự có những tiến bộ vượt bậc. Đó là việc sáng chế ra nỏ Liên Châu bắn một lần nhiều phát tên, được coi là loại vũ khí mới, lợi hại (mà dân gian gọi là nỏ thần) và việc xây dựng kinh đô Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội), hình ảnh tập trung sự phát triển nhiều mặt của nước Âu Lạc.

Cổ Loa nằm trên bờ bắc sông Hoàng. Ngày xưa Hoàng Giang là một dòng sông lớn nối liền với sông Hồng và sông Cầu, tức là từ Cổ Loa có thể thông ra cả hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình để đi đến mọi miền đất nước lúc đó. Cổ Loa ở giữa vùng đồng bằng đông dân, kinh tế phát đạt, lại được xây dựng trên một vùng đất đã được khai phá có xóm làng cư trú từ lâu đời, liên tục từ Sơ kỳ đồng thau cho đến Sơ kỳ đồ sắt. Việc dời đô về Cổ Loa với vị trí địa lý, giao thông, kinh tế như vậy chứng tỏ một yêu cầu phát triển mới của nước Âu Lạc.

Theo di tích còn lại, thành Cổ Loa gồm 3 vòng thành khép kín là thành Nội, thành Trung và thành Ngoại. Thành Nội hình chữ nhật có chu vi 1650 mét, cao khoảng 5 mét, rộng khoảng từ 6 đến 12 mét và chỉ mở 1 cửa ở phía nam. Tương truyền đấy chính là nơi thiết triều của vua Thục. Thành Trung là một vòng thành khép kín bao phía ngoài thành Nội với chu vi 6500 mét, có 5 cửa là Bắc, Đông, Nam, Tây Bắc và Tây Nam, trong đó cửa Đông là một cửa đường thủy mở lối cho một nhánh sông Hoàng chảy vào sát thành Nội. Thành Ngoại dài khoảng 8000 mét có 3 cửa Bắc, Đông và Tây Nam, trong đó cửa Đông là cửa thông ra sông Hoàng. Cả ba vòng thành đều có ngoại hào nối với nhau và nối liền với sông Hoàng tạo thành một mạng lưới giao thông đường thủy rất tiện lợi. Ngoài 3 vòng thành và hào khép kín, khoảng giữa các vòng thành và phía ngoài thành Ngoại còn có nhiều đoạn lũy và ụ đất được bố trí và sử dụng như những "công sự" phòng vệ nằm trong cấu trúc chung của thành.

Thành Cổ Loa với những di tích hiện còn là công trình lao động đồ sộ một kỳ công của người Việt cổ trong buổi đầu dựng nước, khi dân số Âu Lạc thuở đó mới khoảng 1 triệu người. Cấu trúc và kỹ thuật xây dựng thành Cổ Loa biểu thị tài năng sáng tạo của nhân dân Âu Lạc. Đây là một kiến trúc quân sự kiên cố được phòng vệ chắc chắn, kết hợp chặt chẽ giữa quân bộ và quân thủy. Thành Cổ Loa còn biểu thị một bước phát triển mới của Nhà nước Âu Lạc, của quyền lực xã hội và sự phân hóa xã hội. Tất nhiên di tích thành Cổ Loa hiện nay có phải hoàn toàn chỉ là tòa hình thời An Dương Vương hay nó còn được tu bổ, bồi đắp, xây dựng thêm trong các đời sau. Phân biệt một cách thật rạch ròi đâu là di tích thời An Dương Vương và đâu là di tích các thời đại sau cũng đang còn là dấu hỏi của sử học.

Trong cuộc chiến tranh chinh phục Bách Việt, quân Tần tuy bị tổn thất nặng nề và thất bại ở Âu Lạc, nhưng đã chiếm được miền đất rộng lớn của người Việt và lập ra 4 quận là Mân Trung (Chiết Giang, Phúc Kiến, Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (bắc và đông Quảng Tây) và Quận Tượng (tây Quảng Tây và nam Quý Châu). Năm 210 TCN, Tần Thủy Hoàng chết, đế chế Tần suy yếu, 4 quận ở phía nam trên thực tế đã thoát khỏi sự quản lý và kiểm soát của triều đình trung ương. Triệu Đà (vốn là người Hán) tranh thủ cơ hội chiếm lấy quận Nam Hải; giữ các cửa ải và chặn các đường giao thông từ bắc xuống, diệt trừ những quan lại nhà Tần có ý chống đối và thay bằng những người thân cận, cùng phe cánh lập ra chính quyền cát cứ của họ Triệu ở Phiên Ngung. Năm 205 TCN, nhà Tần bị nhà Hán tiêu diệt, Triệu Đà lập tức đánh chiếm cả Quế tâm và Quận Tượng lập ra nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung. Triệu Đà đã lợi dụng sự sụp đổ của đế chế Tần để thực hiện mưu đồ cát cứ và lợi dụng tình trạng lộn xộn của nhà Hán khi mới thành lập để củng cố và phát triển chính quyền của mình. Buổi đầu nhà Hán chấp nhận chính quyền cát cứ của Triệu Đà, phong cho Triệu Đà làm Nam Việt Vương. Triệu Đà trên danh nghĩa thần phục nhà Hán, nhưng trong thực tế vẫn hoàn toàn nắm thực quyền và ra sức củng cố lực lượng cát cứ ở Nam Việt. Năm 183 tr CN, Triệu Đà lập thành một nước riêng, không chịu thần phục nhà Hán và đẩy mạnh các hoạt động bành trướng lãnh thổ, trong đó hướng chủ yếu là nước Âu Lạc ở phương Nam (2). Quân xâm lược nhà Triệu đã nhiều lần tiến vào Tiên Du, Vũ Ninh, sông Bình Giang (vùng Bắc Ninh ngày nay). Lực lượng quốc phòng của An Dương Vương lúc bấy giờ khá hùng mạnh với số quân đông, được huấn luyện chu đáo, có vũ khí tết với loại nỏ Liên Châu, có tòa thành Cổ Loa kiên cố. Dưới sự lãnh đạo của An Dương Vương và những tướng soái tài ba như Cao Lỗ, quân dân Âu Lạc đã nhiều lần đánh bại và đánh lui quân xâm lược Triệu Đà ở vùng núi đồi Tiên Du và Vũ Ninh.

Sau nhiều lần tấn công thất bại, biết không thể chinh phục nước Âu Lạc bằng vũ lực, Triệu Đà quyết định thay đổi thủ đoạn xâm lược. Triệu Đà xin giảng hòa với An Dương Vương và xin cầu hôn công chúa Mỵ Châu cho con trai mình là Trọng Thủy. Lợi dụng tục ở rể của người Việt, Triệu Đà cho Trọng Thủy sang ở rể tại kinh thành Cổ Loa. Các tướng lĩnh của An Dương Vương lúc đó như Cao Lỗ, Nồi Hầu đã thấy rõ âm mưu của Triệu Đà, ra sức khuyên can nhưng ông không nghe và từng bước bị quân giặc dẫn dắt vào cạm bẫy. An Dương Vương bị lung lạc ý chí chiến đấu, tê liệt tinh thần cảnh giác, nội bộ trong triều bất hòa, chia rẽ. Nhiều tướng giỏi như Cao Lỗ, Nồi Hầu, Đinh Toán... đã bị bạc đãi, bị giết hại hay phải bỏ đi. Trong khi đó, Trọng Thủy lại lợi dụng cương vị con rể và tình yêu chân thành của Mỵ Châu để "xem trộm nỏ thần, ngầm làm mấy nỏ khác, đổi móng rùa vàng giấu đi"..., như các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc chép. Điều này có thể được hiểu là Trọng Thủy đã đánh cắp các bí mật quân sự, làm mất uy thế, làm suy yếu lực lượng quốc phòng của nước Âu Lạc. Do những sai lầm chủ quan của mình mà An Dương Vương bị đẩy vào tình thế cô lập, xa rời nhân dân, xa rời những người cương trực và tài giỏi, khiến cho vận nước đang đứng trước bờ vực thẳm.

Được tin báo của Trọng Thủy, Triệu Đà lập tức tiến quân xâm lược nước Âu Lạc, bất ngờ đánh thẳng vào thành Cổ Loa. Cuộc chiến đấu của An Dương Vương bị thất bại. Cơ đồ của Âu Lạc đã bị chìm đắm. Đất nước rơi vào thảm họa hơn 1000 năm bị Bắc thuộc.

Việt Nam trong bối cảnh chung của Đông Nam Á, nằm ở khu vực quê hương của loài người. Sống ở nơi gió mùa, thuộc vùng nhiệt đới ẩm, thế giới thực, động vật phong phú, đa dạng, cư dân nguyên thủy vùng này từ hái lượm và săn bắt đã sớm biết thuần hóa một số loài thực vật, phát minh ra nghề trồng trọt cách đây khoảng 1 vạn năm. Vì thế, Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam lại được ghi nhận là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm của loài người. Vào hậu kỳ đá mới, cách ngày nay khoảng 5 - 6 nghìn năm, cư dân Việt Nam và Đông Nam Á đã từ một nền nông nghiệp sơ khai tiến lên nền nông nghiệp trồng lúa nước... Tất cả những thành tựu văn hóa tiền sử đó là những bước chuẩn bị, là tiền đề đưa lịch sử Việt Nam vào thời đại dựng nước và giữ nước đời Hùng Vương - An Dương Vương, đánh dấu một bước phát triển vượt bậc về mọi mặt của tiến trình lịch sử dân tộc.

Trong thời đại dựng nước, ta có nhiều thành tựu lớn, trong đó hai thành tựu cơ bản nhất là đã tạo dựng được một nền văn minh rực rỡ - nền văn minh sông Hồng và hình thái Nhà nước sơ khai - Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Những thành tựu này không chỉ là những bằng chứng hùng hồn xác nhận thời đại Hùng Vương - An Dương Vương là những thời đại có thật mà còn chứng minh rằng chúng ta có một lịch sử dựng nước sớm, một nền văn hiến lâu đời; tạo ra nền tảng bền vững cho toàn bộ sự sinh tồn và phát triển của quốc gia dân tộc Việt Nam. Từ đấy, người Việt trên cơ sở một lãnh thồ chung, một tiếng nói chung, một cơ sở kinh tế - xã hội gắn bó trong một thể chế Nhà nước sơ khai, một lối sống mang sắc thái riêng, biểu thị trong một nền văn minh, văn hóa chung, đã tự khẳng định sự tồn tại của mình như một quốc gia văn minh có đủ điều kiện và khả năng vững vàng tiến lên vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo của thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử thời kỳ hơn 1000 năm thống trị của phong kiến phương Bắc.

Chú thích:

(1): Về thời gian tồn tại của nước Âu Lạc cho đến nay vẫn còn các ý kiến khác nhau, Theo sách Đại Việt sử kí toàn thư thì Thục Phán lập ra nước Âu Lạc vào năm 257 TCN và ở ngôi 50 năm (đến năm 208 TCN). Sách Việt sử thông giám cương mục thế kỷ XIX đã chỉ ra sự bất hợp lý trong những ghi chép trên của Đại Việt sử kí toàn thư. Thục Phán không phải người Tứ Xuyên (Trung Quốc) mà là tù trưởng bộ lạc Tây Âu ở vùng Việt Bắc - Tây Bắc nước ta và cuộc kháng chiến chống Tần của người Tây Âu - Lạc Việt chỉ diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 214 TCN  đến 208 TCN. Nước Âu Lạc ra đời trên cơ sở thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tần, nên có thể lấy mốc mở đầu là năm 208 TCN. Sách Sử kí chép rằng, sau khi Cao Hậu chết (180 TCN), Triệu Đà mới chiếm được nước Âu Lạc, nên chúng tôi cho rằng thời điểm kết thúc nước Âu Lạc vào khoảng năm 179 TCN.

(2): Có ý kiến cho rằng nhà Triệu là triều đại mở đầu nghiệp đế vương của nước ta. Thực tế, Triệu Đà là người huyện Châu Định (Trung Quốc), lập ra một triều đình cát cứ trên đất Trung  Quốc và thôn tính nước Âu Lạc, nên không thể coi là triều đình đại diện của nước Âu Lạc, càng không phải là đại diện chung của khối cộng đồng cư dân sống trên đất Văn Lang - Âu Lạc...
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 2-1-2012 12:52 PM
Thời kỳ Bắc thuộc (179TCN - 938)

A. Bắc thuộc lần I: (179TCN - 43)

Chặng đường từ An Dương Vương đến Trưng Vương (179TCN - 43)

Sau khi chiếm được nước Âu Lạc, Triệu Đà sáp nhập đất Âu Lạc vào Nam Việt và chia Âu Lạc ra làm 2 quận là Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (Bắc Trung Bộ), cử quan lại và quân lính sang cai trị và đóng đồn. Cách cai trị của họ Triệu tương đối lỏng lẻo. Triệu Đà chưa xoá bỏ vương hiệu của thủ lĩnh đất Tây Vu là đất bản bộ của họ Thục và vẫn cho các Lạc tướng được trị dân như cũ. Những luật lệ, phong tục tập quán cũ của Âu Lạc dưới thời Triệu tạm thời được duy trì. Cơ cấu xã hội Âu Lạc cũ hầu như chưa bi đụng chạm đến. Trong hơn 60 năm thống trị của nhà Triệu, trên đất Giao Chỉ, Cửu Chân không có những biến động quân sự, chính trị lớn.

Ở Trung Quốc, năm 202 TCN, Lưu Bang thay thế nhà Tần lập ra nhà Hán. Nhà Hán đã kế tục và phát triển trên một trình độ cao đường lối bành trướng nước lớn "bình thiên hạ" trước đây.

Năm 111 TCN, nhà Hán điều hơn 10 vạn quân xuống chinh phục Nam Việt. Sau một thời gian chống cự, vua tôi nhà Triệu kẻ bị giết, kẻ bị bắt. Nhân thời cơ đó, thủ lĩnh đất Tây Vu (Tây Vu Vương) đã nổi dậy khởi nghĩa chống lại bọn sứ giả nhà Triệu, định khôi phục lại nền độc lập của nước Âu Lạc xưa. Đây là cuộc nổi dậy chống Bắc thuộc đầu tiên của nhân dân ta mà sử cũ còn ghi lại được. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Bọn quan lại nhà Triệu đã quỳ gối đầu hàng Lộ Bác Đức. Đất Âu Lạc lại chuyển sang tay nhà Hán.

Nhà Hán chia vùng đất mới chiếm ra làm 9 quận là Đạm Nhĩ, Chu Nhai (thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (đều thuộc Quảng Đông, Quảng Tây Trung Quốc ngày nay), Giao Chỉ (Bắc Bộ Việt Nam), Cửu Chân (vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh), Nhật Nam (vùng từ Quảng Bình đến Quảng Nam). Năm 106 TCN, nhà Hán đặt châu Giao Chỉ thống suất 7 quận ở lục địa và đặt trị sở ở quận Giao Chỉ là quận lớn nhất và quan trọng nhất. Đứng đầu châu Giao Chỉ là chức thứ sử, đóng trị sở tại Mê Linh (nay là làng Hạ Lôi, huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc). Mỗi quận có một viên thái thú và một viên đô uý (cai quản việc dân sự và quân sự). Bên dưới quận là huyện. Nhìn chung ở huyện, các Lạc tướng vẫn được cai trị dân chúng theo truyền thống cũ. Phương thức bóc lột cơ bản lúc này vẫn là phương thức cống nạp. Tuy nhà Hán đã áp đặt được một bộ máy đô hộ ở các cấp châu, quận, song chính giới thống trị Hán tộc cũng phải thú nhận là chúng chỉ có thể "dùng tục cũ mà cai trị", không nắm được các huyện vì ở huyện vẫn theo chế độ lạc tướng cha truyền con nối của người Việt.

Thời kỳ từ thế kỷ thứ II TCN cho đến đầu Công nguyên vẫn là thời kỳ tồn tại của cơ cấu văn minh Đông Sơn với mô hình kinh tế - văn hóa nông nghiệp lúa nước cổ truyền ở Sơ kỳ thời đại đồ sắt Việt Nam. Nền văn minh Việt cổ vẫn thể hiện đầy đủ sức sống mãnh liệt của nó trong mấy trăm năm đầu của thời kỳ Bắc thuộc. Tuy vậy, người Việt nói chung không bài ngoại một cách mù quáng mà vẫn hấp thụ có chọn lọc những yếu tố văn hóa ngoại sinh để làm phong phú thêm bản sắc riêng cho chính mình. Thời kỳ này đã bắt đầu có sự truyền bá vừa ôn hòa vừa cưỡng bức lối sống văn minh - văn hóa Hán vào đất Việt. Truyền bá ôn hòa qua giao lưu kinh tế - văn hoá, qua di dân Trung Quốc sang, còn truyền bá cưỡng bức, qua bọn đô hộ với các biện pháp hành chính - quân sự. Như thế, trên cơ tầng văn hóa Việt đã vận hành một cơ chế Hán, trong đó lối sống và văn hóa Việt tiếp xúc lâu dài và trực tiếp với văn hóa Hán, đã diễn tiến dưới ảnh hưởng của văn hóa Hán, và đang dần dần biến đổi từ mô hình Đông Sơn cổ truyền sang một mô thức mới: Việt - Hán.

Đến đầu công nguyên, triều đình phương Bắc có biến luận. Vương Mãng cướp ngôi nhà Tây Hán, lập ra triều Tân (8 - 23). Sau đó, Đông Hán thay thế triều Tân (23 - 220), trong đó giai đoạn từ năm 25 đến năm 88 là thời kỳ Trung Quốc ổn định ở bên trong và có điều kiện mở rộng bành trướng ra bên ngoài.

Trước tình hình đó, một số khá đông quý tộc, địa chủ, sĩ đại phu Trung Quốc đem theo cả gia đình và tộc thuộc di cư xuống Giao Châu, dựa vào chính quyền đô hộ mà sinh cơ lập nghiệp, xâm lấn ruộng đất và tài sản của người Việt. Lúc này, đại diện cho chính quyền Đông Hán ở Giao Chỉ là Tích Quang và ở Cửu Chân là Nhâm Diên. Cả Tích Quang và Nhâm Diên trước sau đều dùng lối sống Hoa cải biến phong hóa Việt. Họ mở trường dạy lễ nghĩa và buộc người Việt phải tuân theo lễ nghĩa Trung Quốc. Từ những việc như lấy vợ gả chồng cho đến việc ăn mặc, thậm chí cả việc tổ chức khai thác nông nghiệp cũng đều phải theo truyền thống, tập quán và kỹ thuật Hán... Mức độ bóc lột và đồng hóa của chúng ngày càng trở nên khốc liệt. Ngoài việc bắt nhân dân ta phải cống nạp nhiều của quý, vật lạ của phương Nam, nhà Hán còn bóc lột tô thuế nặng nề, chiếm đất lập trang trại, nắm độc quyền sản xuất và mua bán muối. Nhà Hán ra sức củng cố và hoàn thiện chính quyền đô hộ ở Giao Chỉ, tìm mọi cách xoá bỏ lối "dùng tục cũ mà cai trị", áp dụng pháp luật Hán, bắt nhân dân ta phải tuân theo lễ giáo phong kiến Hán. Việc chúng mở ra một vài trường học cũng chỉ là để đào tạo một số thuốc viên đắc lực cho chính quyền đô hộ và tuyên truyền những tư tưởng đạo đức phong kiến Hán.

Năm 34, Tô Định thay Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ lại càng tỏ ra gian tham hơn. Đông Quan Hán ký mô tả y "thấy tiền thì giương mắt lên". Y ra sức vơ vét thuế khoá, khống chế, đè nén các lạc tướng và con cháu họ, khiến cho cả quý tộc cũ và nhân dân đều oán hận chính quyền đô hộ. Trong tình hình đó cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta đã đạt tới mức cao hơn, mang một nội dung mới và có những hình thức khác. Đó là phong trào nổi dậy của nhân dân toàn đất nước mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40 - 43).

Hai Bà Trưng (Trưng Trắc, Trung Nhị) là con gái của lạc tướng huyện Mê Linh. Đất Mê Linh là đất bản bộ cũ của các vua Hùng, kéo dài trên hai bờ sông Hồng, trải rộng từ vùng núi Ba Vì (Hà Tây) sang vùng núi Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Nhà Hán ban đầu đặt cả châu trị, quận trị và đô uý trị Giao Chỉ ở đất Mê Linh, vừa cai quản toàn vùng Nam Việt và Âu Lạc cũ, vừa trực tiếp khống chế "đất Tổ" của người Việt. Sang thời Đông Hán quận trị mới dời xuống Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh).

Theo truyền thuyết dân gian, thần tích miếu Mèn và đình Nam Nguyễn (Ba Vì, Hà Tây) thì mẹ Hai Bà Trưng là cháu ngoại vua Hùng, người làng Nam Nguyễn. Bà hoá chồng sớm nên phải một mình nuôi dạy hai con gái.Truyền thuyết còn kể rằng quê cha của Hai Bà Trưng là làng Hạ Lôi (Mê Linh, Vĩnh Phúc) và gia đình bố mẹ của Hai Bà Trưng chuyên nghề dâu tằm, cho nên mới đặt tên con theo tên các loại kén (kén dầy là trứng chắc, tức Trưng Trắc, còn kén mỏng là trứng nhì tức Trưng Nhị). Quê của Hai Bà Trưng có thể ở khu vực bên bờ sông Hồng, đoạn từ Hạ Lôi lên đến khu vực chùa Mía.

Hai Bà Trưng là những người phụ nữ "rất hùng dũng", có can đảm, dũng lược. Chồng Trưng Trắc là Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu Diễn (vùng Đan Phượng, Từ Liêm). Việc hai gia đình có thế lực lớn của hai vùng quan trọng nhất nước ta lúc đó thông gia với nhau khiến cho thanh thế của họ càng thêm mạnh.

Chính sách cai trị tàn bạo của nhà Đông Hán đã thôi thúc Thi Sách, Trưng Trắc hiệp mưu tính kế nổi dậy chống lại, nhưng chẳng may việc bị bại lộ. Tô Định đã giết chết Thi Sách trước khi cuộc khởi nghĩa nổ ra. Hành vi bạo ngược của Tô Định không những không dập tắt ý chí đấu tranh của Trưng Trắc, mà trái lại càng làm cho ngọn lửa căm thù bốc cao. Tháng 3 năm 40, Trưng Trắc đã cùng em là Trưng Nhị phát động cuộc khai nghĩa ở khu vực cửa sông Hát (làng Hát Môn, huyện Phúc Thọ, Hà Tây) với mục đích đền nợ nước, trả thù nhà. Thiên Nam ngữ lục, thiên sử ca đượm tính dân gian thế kỷ XVII chép về lời thề của Trưng Trắc trước quân sĩ, khẳng định lý do khởi nghĩa:

"Một xin rửa sạch nước thù,
Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng.
Ba kẻo oan ức lòng chồng,
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này"

Những người yêu nước khắp nơi rầm rập kéo về tụ nghĩa ở cửa sông Hát. Cửa sông Hát là chỗ gặp nhau của hai dòng sông lớn: Sông Hồng và sông Đáy thời kỳ đầu công nguyên còn nằm ở phía trước cửa đền Hát Môn hiện nay. Đây là đầu mối của các luồng đường giao thông nối liền Mê Linh với Chu Diễn, nằm trong vùng quê của cả Trưng Trắc và Thi Sách. Nơi đây tuy ở vị trí trung tâm nhưng lại có đủ điều kiện để xây dựng một căn cứ khởi nghĩa. Thiên Nam ngữ lục mô tả: "Hát Môn có thể dụng binh. Sông sâu làm cứ, rừng xanh làm nhà". Hai Bà Trưng đã chuẩn bị lực lượng, phát động khởi nghĩa và mở hội thề ở đây. Rồi từ cửa sông Hát, đại quân kéo xuống đánh chiếm Đô uý trị (Hạ Lôi, Mê Linh, Vĩnh Phúc), tiến công thành Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội) và từ đó mở cuộc tiến công có ý nghĩa quyết định giải phóng thành Luy Lâu, dinh Thái thú Tô Định (Thuận Thành, Bắc Ninh).

Khởi nghĩa Hát Môn lập tức được sự hưởng ứng của các lạc tướng, lạc dân, không chỉ ở Mê Linh, Chu Diên mà còn ở các địa phương khác. Hậu Hán thư cho biết: Những người Man, người Lý (tiếng chỉ chung các dân tộc phương Nam) ở 4 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều nhất tề nổi dậy hưởng ứng. Phong trào đã nhanh chóng trở thành cuộc nổi dậy của toàn dân, vừa mang tính chất quy tụ, vừa mang tính chát tỏa rộng. Đây rõ ràng là sự thức tỉnh của tinh thần dân tộc Việt. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng phản ánh ý thức dân tộc đã khá rõ rệt của các lạc tướng, lạc dân trong các bộ lạc hợp thành nước Âu Lạc cũ.

Chính quyền đô hộ tan rã và sụp đổ nhanh chóng trước sức tấn công của quần chúng. Bọn quan lại Đông Hán hoảng sợ phải bỏ hết của cải, giấy tờ ấn tín tháo chạy về nước. Bản thân Thái thú Tô Định đã phải bỏ thành Luy Lâu, bỏ cả ấn tín, cắt tóc, cạo râu lẻn trốn về Nam Hải.

Chỉ trong một thời gian ngắn, ngọn cờ chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã tập hợp được 65 huyện thành (nghĩa là toàn bộ lãnh thổ nước ta hồi đó). Nền độc lập dân tộc lại được phục hồi sau hơn 200 năm chìm đắm dưới ách đô hộ của Trung Quốc. Trưng Trắc được suy tôn làm vua (sử cũ gọi là Trưng Vương), đóng đô ở Mê Linh (Hạ Lôi, Vĩnh Phúc). Đại Nam quốc sử diễn ca chép về sự kiện nay như sau:

        "Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta".

Lên ngôi, Trưng Vương đã xá thuế cho dân 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân trong 2 năm liền. Trưng Vương đã dựa vào dân khôi phục sự nghiệp xưa của vua Hùng, vua Thục sau hơn 200 năm mất nước, sau khi các triều đại phương Bắc ráo riết và thâm độc thi hành chính sách đồng hoá nhằm biến Âu Lạc vĩnh viễn trở thành quận, huyện của chúng, sau khi nhà Hán ra sức "bình thiên hạ", truyền bá tư tưởng "tôn quân đại thống nhất", coi các dân tộc phương Nam là "Man di", "Tây Nam di", là "thuộc quốc" và buộc tất cả phải phục tùng "Thiên tử", "Thiên triều". Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng với những nội dung và mục tiêu trên, với sự thành công nhanh chóng và sự suy tôn Trưng Trắc lên nắm quyền quản lý, điều hành đất nước là sự trỗi dậy của ý thức dân tộc, của ý thức tự chủ của nhân dân ta, phủ định hiên ngang cái cường quyền sai trái Đại Hán. Đây thực chất là một cuộc đồng khởi của toàn dân trên phạm vi cả nước, dưới sự lãnh đạo của người phụ nữ tuổi chưa tròn đôi mươi, cách ngày nay gần 2000 năm. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vì thế, là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử dân tộc và hiếm có trong lịch sử thế giới. Đây là một cái mốc bản lề khẳng định những giá trị vĩnh viễn của thời kỳ Hùng Vương - An Dương Vương và định hướng cho tương lai phát triển của đất nước.

Nghe tin Trưng Trắc khởi nghĩa và xưng vương, vua Quang Vũ nhà Hán hạ chiếu sai các quận Trường Sa, Hợp Phố, Giao Chỉ (?) sắm sửa thuyền xe, sửa sang đường cầu, thông miền khe núi, trữ sẵn thóc gạo chuẩn bị xâm chiếm lại đất nước ta. Tháng 4 năm 42, nhà Hán phong Mã Viện làm "Phục Ba tướng quân" đem 2 vạn quân cùng 2000 thuyền xe chia làm hai cánh, theo hai đường thủy bộ sang xâm lược nước ta. Mã Viện lúc này đã 58 tuổi, là một viên lão tướng có tài quân sự, đã từng đàn áp nhiều cuộc khởi nghĩa của người Khương và phong trào đấu tranh của nông dân ở Hoãn Thành (An Huy, Trung Quốc).

Trưng Vương đã chủ động tổ chức lực lượng đánh địch ngay tại vùng địa đầu Tổ quốc (khu vực cửa sông Bạch Đằng), rồi sau đó lui về chặn địch ở Lãng Bạc. Lãng Bạc là vùng đất cao nổi lên giữa vùng đồng trũng ngập lụt. Kết hợp các nguồn tài liệu thư tịch và khảo sát thực địa, có thể dự đoán Lãng Bạc nằm trong khu vực huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Trưng Vương đã kìm chân quân Hán tại Lãng Bạc khiến cho Mã Viện phải nao núng, chán chường. Nhưng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch. Trưng Vương buộc phải bỏ Lãng Bạc, rút quân về cố thủ tại Cổ Loa. Không giữ được Cổ Loa, Hai Bà Trưng đành phải đem quân về Hạ Lôi và từ Hạ Lôi lui về giữ Cấm Khê (khu vực kéo dài từ chân núi Ba Vì thuộc huyện Thạch Thất cho đến vùng chùa Hương, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây).

Hai Bà Trưng và các tướng sĩ mặc dù chiến đấu rất anh dũng, bảo vệ đến cùng căn cứ Cấm Khê, nhưng cuối cùng đã bị Mã Viện dồn sức đánh bại. Hai Bà Trưng đã hy sinh tại chiến trường. Đại quân của Hai Bà Trưng tan vỡ, người bị giết, người bị bắt đem về Trung Quốc: Lực lượng còn lại rút lui vào Cửu Chân và chiến đấu với quân xâm lược Mã Viện cho đến những người lính cuối cùng. Đất nước ta một lần nữa lại bị mất quyền độc lập.

Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 2-1-2012 06:26 PM
B. Bắc thuộc lần II (43 - 542)

Từ sau Trưng Vương đến khởi nghĩa Lý Bí và sự thành lập Nhà nước Vạn Xuân (43-542)


Sau khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, nhà Đông Hán lập lại ách thống trị đối với nước ta. Chính sách nô dịch, bóc lột và đồng hóa được đẩy mạnh, có hệ thống và quy mô lớn hơn trước.

Nhà Đông Hán ra sức tăng cường chế độ quận huyện, cử quan lại sang châu Giao cai trị tới cấp huyện. Mã Viện tâu với vua Hán là luật Việt và luật Hán khác nhau tới hơn 10 điểm và xin áp dụng luật Hán trên đất Việt. Như thế việc thủ tiêu chế độ lạc tướng và việc bãi bỏ luật pháp cố hữu của người Việt rõ ràng là âm mưu của bọn phong kiến Hán muốn biến nước ta hoàn toàn trở thành những châu, quận, huyện do chúng trực tiếp cai trị.

Cuối thế kỷ II, đầu thế kỷ III, chính quyền Đông Hán tan rã, diễn ra cục diện "Tam Quốc": Nguỵ - Thục - Ngô (220 - 280). Quyền uy thực tế ở Giao Châu tập trung trong tay anh em Sỹ Nhiếp. Sau khi Sỹ Nhiếp chết, miền đất nước ta lệ thuộc vào phong kiến nhà Ngô. Năm 280, Tấn diệt Ngô tạm thời thống nhất Trung Quốc, nhưng ít lâu sau chính quyền nhà Tấn lại tan rã tạo nên cục diện "Nam Bắc triều", trong đó Giao Châu phụ thuộc một cách lỏng lẻo vào các thế lực phong kiến Tống, Tề, Lương, Trần thuộc Nam triều (420 - 589).

Nhìn chung suốt mấy trăm năm từ cuối đời Hán đến đầu đời Đường triều đình phong kiến phương Bắc chỉ có thể coi miền đất nước ta là miền đất ngoài (ngoại địa), chỉ áp đụng được chính sách thống trị "ràng buộc" lỏng lẻo ở các châu, quận, huyện. Nhưng ở những nơi phong kiến phương Bắc đóng quân và cai trị, bên cạnh chính sách thống trị tàn bạo, chúng vẫn đẩy mạnh chính sách bóc lột ráo riết và đồng hóa nặng nề.

Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, trung tâm khởi nghĩa chuyển về quận Nhật Nam ở phía nam và qua nhiều lần nổi dậy liên tiếp của người Chăm và các dân tộc anh em khác đã dẫn tới việc thành lập nước Lâm Ấp vào cuối thế kỷ II.

Khu vực phía bắc, sau một thời gian tạm lắng các cuộc đấu tranh, từ nửa cuối thế kỷ II trở đi, phong trào khởi nghĩa lại hồi phục mà tiêu biểu là khởi nghĩa của Chu Đạt năm 157 ở Cửu Chân, khởi nghĩa Lương Long ở cả bốn quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố. Nghĩa quân đánh chiếm các quận huyện và đã làm chủ đất nước trong 4 năm (178- 181).

Sang thế kỷ III, trên đất nước ta bùng nổ cuộc khởi nghĩa lớn của Bà Triệu (năm 248) ở miền núi Nưa (Triệu Sơn, Thanh Hoá). Nghĩa quân đã đánh thắng quân Ngô nhiều trận, triệt hạ nhiều thành ấp. Quan lại của nhà Ngô từ thái thú đến huyện lệnh, huyện trưởng, kẻ bị giết, kẻ phải chạy trốn. Từ Chủ Chân, cuộc khởi nghĩa lan ra Giao Chỉ ở ngoài Bắc, giết chết thứ sử châu Giao. Khí thế cuộc khởi nghĩa đúng như sự thú nhận của sử nhà Ngô, đã khiến cho "toàn thể châu Giao đều chấn động".

Đứng trước nguy cơ tan rã của chính quyền đô hộ ở châu Giao, triều Ngô phải cử viên danh tướng Lục Dận làm Thứ sử Giao Châu An Nam hiệu úy đem khoảng 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Bà Triệu đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu đến cùng và hy sinh anh dũng trên núi Tùng (Phú Điền, Hậu Lộc, Thanh Hóa). Câu nói nổi tiếng của Bà Triệu phản ánh tinh thần và ý chí độc lập, tự do của người Việt lúc đó: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người".

Tiếp nối Bà Triệu có hàng loạt các cuộc nổi dậy và khởi nghĩa khác liên tục nổ ra, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Lý Trường Nhân (468 - 485).

Lý Trường Nhân, như sử Trung Quốc chép là một "thổ nhân", một "Giao Châu nhân", có lẽ ông thuộc tầng lớp hào trưởng địa phương và không làm quan chức gì cho Trung Quốc. Nhân cơ hội thứ sử Giao Châu bị chết, Lý Trường Nhân đã lãnh đạo nhân dân giết hết bọn quan quân đô hộ, giết cả những người lưu ngụ từ phương Bắc sang, rồi tự xưng là thứ sử. Những thứ sử do nhà Tống cử sang hòng chiếm lại nước ta đều bị Lý Trường Nhân chống đánh. Được vài năm, Lý Trường Nhân chết, người em họ là Lý Thúc Hiến lên thay. Lý Thúc Hiến không nhận Thứ sử từ phương Bắc sang. Năm 479, nhà Tề buộc phải công nhận Lý Thúc Hiến làm Thứ sử. Như vậy, cuộc khởi nghĩa của Lý Trường Nhân đã có màu sắc tự trị. Sáu năm sau, năm 485, nhà Tề tổ chức cuộc chinh phục lớn Giao Châu. Lý Thúc Hiến buộc phải đầu hàng. Nếu như khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Bà Triệu do tầng lớp quý tộc bộ lạc cũ lãnh đạo thì khởi nghĩa của Lý Trường Nhân là do tầng lớp hào trưởng địa phương làm đại biểu. Điều này phản ánh những biến chuyển về kinh tế, xã hội và văn hoá... giai đoạn từ thế kỷ I đến thế kỷ V.

Từ đầu công nguyên trở về sau, nước ta bước vào thời đại đồ sắt phát đạt. Những công cụ và vũ khí chủ yếu đều được chế tạo bằng sắt. Trên cơ sở đó nền kinh tế cũng có những chuyển biến quan trọng.

Nông nghiệp thời kỳ này đã là một nền nông nghiệp thâm canh có cánh đồng trồng lúa, đất bãi trồng dâu, có vườn cây, ao hồ thả cá, thả rau có chuồng trại chăn nuôi gia cầm, gia súc... Thủ công nghiệp cũng có những bước tiến đáng kể, bên cạnh các nghề cổ truyền đã có thêm một số nghề học được từ nước ngoài. Có thể kể ra một số nghề tiêu biểu như rèn sắt, gốm, làm gạch ngói, dệt, đan lát, làm đường, làm giấy, chế tạo thủy tinh, sản xuất đồ mỹ nghệ. Trên cơ sở phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, việc buôn bán trong và ngoài nước cũng có bước phát triển mới. Mạng lưới giao thông thủy bộ vẫn dựa vào những con đường và những phương tiện giao thông truyền thống mà mở mang thêm lên. Việc trao đổi kinh tế giữa châu Giao với nước ngoài cũng có tác dụng kích thích nhất định đối với nền kinh tế trong nước. Một số mặt hàng thủ công của ta đã được xuất khẩu, một số kỹ thuật nước ngoài cũng được nhân dân ta tiếp thu. Qua đó, việc giao lưu văn hóa giữa các nước cũng được đẩy mạnh.

Nho giáo là những tư tưởng triết lý, luân lý, đạo đức, thể chế cai trị của Trung Quốc cổ đại được Không Tử và các học trò của ông tổng hợp, hệ thống hóa xây dựng thành hệ thống lý luận ổn định trong những bộ Ngũ kinh, Tứ thư. Từ thời Hán trở đi, dần dần Nho giáo đã trở thành ý thức tư tưởng chính thống của giai cấp thống trị và cùng với quá trình đô hộ của phong kiến Trung Quốc, Nho giáo cũng sớm được du nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên đạo Nho và chữ Hán chỉ được truyền bá và phát triển trong bộ phận quan lại đô hộ và tầng lớp trên của xã hội ở những trung tâm chính trị lớn, chưa có ảnh hưởng rộng rãi trong dân chúng ở các xóm làng.

Phật giáo phát sinh ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI TCN và được du nhập vào nước ta cũng từ rất sớm. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) được hình thành đầu công nguyên do sự truyền bá trực tiếp của các tăng sĩ Ấn Độ và sau đó lại được tiếp tục truyền bá từ các nhà sư Trung Quốc. Khác với Nho giáo, Phật giáo gần gũi với tín ngưỡng dân gian của người Việt nên được dân chúng tin theo. Tại trung tâm Phật giáo Luy Lâu ngay từ cuối thế kỷ II đã xuất hiện các chùa Pháp Vân (Dâu), Pháp Vũ (Đậu), Pháp Lôi (Dàn) và Pháp Điện (Tướng), thờ các hiện tượng tự nhiên của tín ngưỡng nông nghiệp sơ khai (mây, mưa, sấm, chớp).

Đạo giáo cũng từ Trung Quốc (chủ yếu là Đạo giáo dân gian - Đạo phù thủy) được truyền sang nước ta từ cuối thế kỷ II. Tuy được truyền vào Việt Nam muộn hơn, nhưng ảnh hưởng của nó lại có phần sâu rộng hơn Nho giáo. Đạo giáo là đạo "xuất thế", chủ trương "vô vi", thoát tục, sống thuận theo tự nhiên. Khi truyền vào Việt Nam, Đạo phù thủy đã hòa quyện với những đền miếu, tín ngưỡng dân gian cổ truyền và sớm có vị trí trong cuộc sống tâm linh của người Việt.

Nhìn chung, dù là Nho, Đạo hay Phật truyền vào Việt Nam bằng con đường nào, trong hoàn cảnh nào, thì khuynh hướng thích nghi và hòa nhập với tín ngưỡng dân gian cổ truyền của người Việt vẫn là khuynh hướng chủ đạo. Khuynh hướng xâm nhập lẫn nhau, hòa quyện vào nhau giữa các tôn giáo, tín ngưỡng bản địa và ngoại lai đã tạo nên sắc thái đa nguyên và hỗn hợp trong cuộc sống tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam.

Trong xã hội, về cơ bản, tầng lớp hào trưởng địa phương người Việt vẫn dựa trên cơ sở ruộng đất công hữu của các vùng, các công xã mà bóc lột nông dân. Người Việt không ngừng bảo tồn và củng cố cộng đồng xóm làng. Tuy nhiên, trên cơ sở sức sản xuất phát triển mà sự phân hóa xã hội ngày một sâu sắc thêm. Những mối quan hệ xã hội mới ra đời và phát triển, trong khi đó một số truyền thống cũ của chế độ tù trưởng bộ lạc và công xã đã bị phá vỡ hay không còn phát huy tác dụng trong hoàn cảnh lịch sử mới. Việc xoá bỏ cơ cấu bộ lạc, giữ lại và củng cố cơ cấu xóm làng, tăng cường sự cố kết dân tộc, thích ứng với cơ cấu quận huyện - một tổ chức có tính chất hành chính, địa vực là những chuyển biến quan trọng của xã hội Việt Nam thời kỳ này.

Do không nắm được cơ sở bên dưới của xã hội, nhà Hán chủ trương muốn giữ được đất đai mới chiếm thì phải thực hiện chính sách đồn điền. Chúng tiến hành dời tội nhân, dân nghèo người Hán xuống ở lẫn với người Việt, xâm chiếm và khai phá ruộng đất để lập đồn điền. Đồn điền là một loại ruộng quốc khố do chính quyền đô hộ trực tiếp quản lý. Một bộ phận nhân dân lao động bị trói buộc vào đồn điền trở thành nông nô của chính quyền đô hộ.

Do hậu quả của chế độ công phú, tô thuế nặng nề, chiến tranh tàn phá, ruộng đất công bị cường hào chiếm đoạt mà nhiều thành viên công xã người Việt bị phá sản, phải rơi xuống thân phận làm nô tì cho các nhà quyền quý hay trở thành nông dân lệ thuộc, thuộc hạ của địa chủ quan lại địa phương.

Như thế, bên cạnh sự tồn tại phổ biến của làng xã, người Việt vẫn giữ được tính tự trị, thời kỳ này đã xuất hiện một số đồn điền của chính quyền đô hộ, một số trại ấp của quan lại địa chủ gốc Hán, cũng như một số thị trấn và xóm làng của người Hoa. Sự gia nhập của người Hoa không chỉ làm tăng thêm dân số mà còn đưa thêm văn hóa Hán vào xã hội Việt. Trái lại, do sinh sống lâu đời giữa một cộng đồng cư dân có sức sinh tồn mạnh mẽ mà số người Hoa di cư sang Việt Nam cũng dần dần Việt hoá, hòa nhập vào cộng đồng cư dân Việt.

Tầng lớp hào trưởng địa phương người Việt có ảnh hưởng lớn về kinh tế, chính trị, xã hội trong dân chúng, song lại bị chính quyền đô hộ, chèn ép nên có nhiều mâu thuẫn với quan lại. Chính quyền đô hộ của ngoại bang. Họ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ phong trào đấu tranh của dân chúng, trở thành thủ lĩnh các phong trào đấu tranh đó và qua đấu tranh mà ý thức dân tộc của họ càng được bồi bổ, trưởng thành. Họ dần dần trở thành người đại diện cho phong trào dân tộc, đứng ra tổ chức tập hợp lực lượng vùng lên lật đổ chính quyền đô hộ, giành lại nền độc lập.

Trong suốt mấy thế kỷ, hầu như không có thế kỷ nào là không có khởi nghĩa của nhân dân, không một lúc nào bọn đô hộ phương Bắc được ăn ngon, ngủ yên. Phong trào đấu tranh của nhân dân đang chuyển dần vai trò lãnh đạo từ các quý tộc bộ lạc cũ sang các hào trưởng. Vào giữa thế kỷ VI, phong trào khởi nghĩa nhân dân đã tiến lên cao trào làm nổ ra cuộc khởi nghĩa Lý Bí dẫn tới việc thành lập Nhà nước Vạn Xuân. Đây là mốt cột mốc lớn, một đột phá hết sức quan trọng trong lịch sử hơn nghìn năm chống Bắc thuộc của nhân dân ta.

Lý Bí xuất thân từ một hào trưởng địa phương ở huyện Thái Bình (khu vực hai bờ sông Hồng phía trên thị xã Sơn Tây ngày nay). Ông có thời đã ra làm một chức quan nhỏ ở Cửu Đức. Nhưng do bất bình với bè lũ đô hộ, ông sớm bỏ quan trở về quê phối hợp với Tinh Thiều mưu tính việc khởi nghĩa.

Tinh Thiều là người giỏi văn chương, đã từng lặn lội sang Nam Kinh xin được bổ một chức quan ở kinh đô nhà Lương, nhưng chỉ được nhà Lương cho làm Quảng Dương môn lang, tức là chân canh cổng thành phía tây kinh đô Kiến Khang. Tinh Thiều xấu hổ không nhận chức, bỏ về quê cùng Lý Bí tổ chức khởi nghĩa.

Lý Bí nhân lòng oán giận của dân, đã liên kết với hào kiệt các châu thuộc miền đất nước ta cùng nổi dậy chống Lương. Triệu Túc là thủ lĩnh đất Chu Diên, Phạm Tu là một tướng tài người làng Thanh Liệt (Thanh Trì, Hà Nội) đã sớm đến với cuộc khởi nghĩa. Tháng giêng năm 542, cuộc khởi nghĩa toàn dân do Lý Bí lãnh đạo đã bùng nổ. Không đầy 3 tháng sau, bè lũ đô hộ nhà Lương đã bị quét sạch. Nghĩa quân chiếm được châu thành Long Biên (nay thuộc Bắc Ninh). Sau những giờ phút kinh hoàng buổi đầu, chính quyền nhà Lương lập tức tổ chức đối phó. Tháng 4 năm 542, quân Lương tổ chức cuộc tấn công Giao Châu từ cả hai phía bắc và nam nhưng đã bị Lý Bí đánh bại và nắm quyền làm chủ đất nước cho đến tận Đèo Ngang (Quảng Bình). Năm 543, nhà Lương tổ chức cuộc phản công chinh phục lần thứ hai, nhưng bị Lý Bí chủ động đánh chặn ở Hợp Phố. Quân giặc mười phần chết đến bảy, tám. Tháng 5 năm 543, vua Champa đem quân đánh phá Châu Cửu Đức đã bị tướng Phạm Tu đánh bại, phải chạy trốn về nước. Cả hai tuyến biên giới ở phía nam và phía bắc đều được tạm yên.

Trên đà chiến thắng, vào mùa xuân, tháng giêng năm sau, năm 544, Lý Bí tuyên bố dựng nước, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Nam Đế. Lý Nam Đế quyết định phế bỏ niên hiệu của nhà Lương, đặt niên hiệu mới là Thiên Đức, mở chùa Khai Quốc (chùa Mở Nước), đúc tiền riêng (tiền Thiên Đức). Triều đình do Hoàng đế đứng đầu, bên dưới có hai ban văn, võ. Tinh Thiều làm Tướng văn. Phạm Tu làm Tướng võ, Triệu Túc làm Thái phó và Lý Phục Man được cử làm tướng quân coi giữ miền biên giới. Lý Nam Đế còn cho dựng điện Vạn Thọ để làm nơi văn võ bá quan triều hội. Cơ cấu triều đình Vạn Xuân tuy còn sơ sài nhưng rõ ràng đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, người Việt tự xây dựng cho mình một cơ cấu nhà nước mới theo chế độ tập quyền trung ương.

Việc dựng nước Vạn Xuân độc lập nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, của lòng tự tin vững chắc ở khả năng vươn lên làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ đất nước.

Nhưng đất nước Vạn Xuân của Lý Bí chỉ được tương đối yên hàn có hơn một năm. Mùa hè năm 545, Nam Kinh lại phát động cuộc phản công chinh phục lần thứ ba do Trần Bá Tiên cầm đầu.

Trần Bá Tiên là viên tướng tuy xuất thân "hàn môn"(nghèo khổ) nhưng có công đánh dẹp châu Quảng. Trong quá trình đàn áp châu Quảng, Trần Bá Tiên đã thu nạp, tổ chức được một đội quân riêng gần 3000 người, vũ dũng, thiện chiến, khí giới tốt. Quân xâm lược lần này bao gồm nhiều bộ phận hợp thành như quân triều đình, quân riêng của Trần Bá Tiên, quân của thứ sử mấy châu ở phương Nam... tập trung lại ở Phiên Ngung rồi thủy bộ phối hợp theo con đường ven biển Đông Bắc tiến vào nước ta. Cuộc chiến diễn ra gay go ác liệt hơn trước rất nhiều. Quân của Lý Bí có khoảng vài vạn người dồn sức giữ thành ở cửa sông Tô Lịch nhưng không chống cự nổi cuộc tấn công ráo riết của Trần Bá Tiên. Lý Bí đành phải rút quân lên khu vực thành Gia Ninh (Trung Hà, Việt Trì). Trần Bá Tiên kéo đại quân lên đánh phá Gia Ninh. Lý Bí lại phải bỏ thành Gia Ninh chạy về phía núi rừng "Di Lão" (hổ Điển Triệt ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc) và bị Trần Bá Tiên bao vây đánh bại tại đây. Lý Bí chạy sang động Khuất Lão (Tam Nông, Phú Thọ) và giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục.

Đến đây, lực lượng kháng chiến còn lại bị chia làm hai cánh: Một cánh do Lý Thiên Bảo, anh ruột của Lý Bí rút vào miền Trung và một cánh khác khoảng hơn 1 vạn người do viên tướng trẻ Triệu Quang Phục cầm đầu lui về xây dựng căn cứ mới ở Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên). Từ Dạ Trạch, đêm đêm, quân ta kéo ra liên tục tập kích các doanh trại và các cuộc hành binh của quân Lương. Vì thế, người trong nước gọi Triệu Quang Phục là Dạ Trạch Vương (tức Vua Đầm Đêm). Năm 548 Lý Bí mất tại động Khuất Lão, Triệu Quang Phục được tin liền xưng là Triệu Việt Vương. Qua 4 năm chiến đấu (547 - 550), quân ta càng đánh càng mạnh, quân địch càng đánh càng yếu, cục diện chiến tranh dần dần có lợi cho ta, bất lợi cho địch.

Tình hình nhà Lương vào cuối những năm 548 - 552 bị rối loạn bởi "loạn Hầu Cảnh". Trần Bá Tiên đã trở về Trung Quốc làm Thái thú Cao Yên (năm 547), Thứ sử Giang Châu (năm 551) và được thăng đến chức Thừa tướng. Năm 557, Trần Bá Tiên cướp ngôi nhà Lương lập ra nhà Trần. Nhân cơ hội đó, Triệu Quang Phục từ căn cứ Dạ Trạch đã tung quân, mở một loạt cuộc tấn công lớn vào quân giặc, chiếm lại châu thành Long Biên, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi, giành lại quyền tự chủ cho đất nước.

Năm 557, Lý Phật Tử từ động Dã Năng (miền thượng du Thanh Hóa) kéo quân về gây chiến với Triệu Quang Phục. Sau nhiều lần đánh nhau không phân thắng bại, hai phe Triệu Lý đã tạm thời giảng hoà, chia nhau địa giới bãi Quần Thần (vùng Thượng Cát, Hạ Cát, thuộc Từ Liêm, Hà Nội) và kết mối thông gia. Năm 571, Lý Phật Tử nhân sơ hở của Triều Quang Phục đã tổ chức đánh úp, đoạt toàn bộ quyền hành và đất đai của Triệu Quang Phục, cũng tự xưng là Nam Đế (nên gọi là Hậu Lý Nam Đế). Hậu Lý Nam Đế (571 - 602) bề ngoài tỏ vẻ thần phục ít nhiều đối với nhà Trần (Trung Quốc).

Ở Trung Quốc, năm 581, nhà Tuỳ thành lập. Năm 589 nhà Tuỳ diệt nhà Trần Ở Giang Nam, kết thúc cục diện chia cắt Hoa Bắc - Giang Nam. Đến năm 602, vua Tuỳ cho gọi Lý Phật Tử vào chầu (với ý nghĩa là thần phục, đầu hàng), nhưng Lý Phật Tử chống lại. Nhà Tuỳ quyết định cất quân sang xâm lược nước ta dưới danh nghĩa đánh dẹp việc làm phản của Lý Phật Tử. Lý Phật Tử tổ chức kháng chiến nhưng thất bại và đã đầu hàng Lưu Phương. Đất nước lại bị rơi vào ách thống trị của nhà Tuỳ.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 2-1-2012 07:02 PM
C. Bắc thuộc lần III (603 - 938)

TỪ PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI ÁCH ĐÔ HỘ CỦA TUỲ - ĐƯỜNG ĐẾN CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẰNG NĂM 938

1. Chống lại ách đô hộ của Tuỳ - Đường

Chiếm được nước ta, nhà Tuỳ bỏ đơn vị hành chính cứ cấp châu và lập lại cấp quận. Trị sở quận Giao Chỉ được dời từ Long Biên về Tông Bình. Về danh nghĩa, các quận trực tiếp phụ thuộc chính quyền phong kiến trung ương, nhưng trên thực tế các quận thuộc châu Giao cũ chỉ là đất ràng buộc lỏng lẻo. Vào những năm rối loạn cuối đời Tuỳ, đất nước ta lại cách biệt với phương Bắc. Bọn thái thú cát cứ ở miền đất nước ta tuỳ tiện áp bức bóc lột nhân dân.

Năm 618, cha con Lý Uyên, được sự ủng hộ của tập đoàn địa chủ Hoa Bắc, đã kết thúc cục diện cát cứ, lập ra nhà Đường.

Nhà Đường là một đế chế rất thịnh đạt cả về vật chất và văn hoá, lại luôn luôn coi Việt Nam là một căn cứ quan trọng để thực hiện mưu đồ bành trướng xuống phương Nam và xây dựng vị trí cầu nối với phương Tây.

Nhà Đường bãi bỏ các quận, khôi phục lại các châu nhỏ thời Nam Triều. Năm 622, nhà Đường lập Giao Châu đô hộ phủ, năm 679 đổi thành An Nam đô hộ phủ với các hình thức và thủ đoạn cai trị xảo quyệt, hà khắc và ngu dân. Chúng khống chế đất nước ta một cách chặt chẽ, nhưng về hình thức lại tỏ ra "ràng buộc", mua chuộc phần nào tầng lớp trên của xã hội để đối phó với phong trào của nhân dân hòng khuất phục dân tộc ta.

Về mặt kinh tế, nhà Đường coi An Nam đô hộ phủ là một trọng hơn để bóc lột với thủ đoạn truyền thống là bắt nhân dân ta phải cống nạp các loại lâm, thổ sản quý và sản phẩm thủ công địa phương. Chúng đặt ra nhiều thứ thuế mới và lệ thuế rất nặng. Hình thức bóc lột chính là tô, dung, điệu (tô là thuế ruộng đất, dung là thuế lao dịch và điệu là căn cứ vào hộ khẩu mà thu thuế - thuế thân). Bên cạnh đó còn có thuế hộ (với 3 loại là thượng hộ, thứ hộ và hạ hộ chia ra theo tài sản gia đình). Đó là chưa kể đến bọn quan lại ở An Nam phần lớn đều tham nhũng, ra sức lợi dụng vơ vét, bóc lột nhân dân.

Hậu quả của chính sách vơ vét tàn nhẫn này của nhà Đường là hiện tượng bần cùng hóa nhanh chóng, với quy mô ngày càng lớn của các tầng lớp nhân dân và sự phân hóa giai cấp trong xã hội càng trở nên sâu sắc.

Tuy nhiên, hơn 300 năm dưới thời thuộc Đường, nhân dân ta đã khéo biết lợi dụng những mặt tích cực (về kỹ thuật sản xuất, về điều kiện vật chất, về thành tựu văn hoá...), tiếp thu và dân tộc hóa vốn liếng vay mượn từ bên ngoài nên đã làm cho nền kinh tế, văn hóa có những bước phát triển đáng kể.

Sự thịnh đạt của đế chế Đường, sự huy hoàng của văn hóa Đường, chính sách bành trướng, âm mưu đồng hoá, thủ đoạn cai trị xảo quyệt của bọn đô hộ nhà Đường vẫn không làm cho dân tộc ta bị khuất phục. Trái lại, trong suốt 3 thế kỷ bị nhà Đường thống trị, nhân dân ta đã không ngừng nổi dậy đấu tranh chống lại ách đô hộ của chúng, giành lại quyền độc lập.

Nhìn chung, phong trào đấu tranh của nhân dân ta chống ách đô hộ của nhà Đường nổ ra ở khắp mọi nơi, miền xuôi cũng như miền núi, từ miền Bắc đến Hoành Sơn, có tính chất phổ biến và tương đối liên tục suốt 3 thế kỷ. Phong trào mang tính chất quần chúng bao gồm mọi tầng lớp nhân dân, quân sĩ, hào trưởng và quan lại yêu nước. Những cuộc khởi nghĩa lớn ở địa phương đưa đến việc xây dựng căn cứ chống giặc, đánh đổ chính quyền của bọn đô hộ ở địa phương, giành chính quyền ở từng nơi, từng bộ phận. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã phát triển thành chiến tranh giải phóng dân tộc, đánh vào tận sào huyệt kẻ thù ở Tống Bình. Lực lượng nhà Đường tan rã nhanh chóng trước khí thế tiến công của quần chúng khởi nghĩa. Thế nhưng một khi đã giành được thắng lợi tạm thời thì phong trào thường hay bị chia rẽ, lực lượng phân tán và không đủ sức đương đầu với các đạo quân viễn chinh lớn sang chinh phục và xâm lược lại nước ta.

2. Họ Khúc xây dựng quyền tự chủ (907-923)



Vào cuối thế kỷ IX, triều đình nhà Đường đổ nát. Nạn cát cứ của tập đoàn phong kiến phương Bắc phát triển. Phong trào nông dân khởi nghĩa mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Hoàng Sào (874 - 884) đã làm lung lay đến tận gốc rễ nền thống trị của nhà Đường. Nội tình Trung Quốc bị phân liệt thành cục diện "Ngũ đại Thập quốc'' (907 - 960). Đây chính là những điều kiện khách quan thuận lợi cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.

Năm 905, nhân cơ hội chính quyền trung ương nhà Đường đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, Khúc Thừa Dụ được sự ủng hộ của dân chúng đã nổi dậy lật đổ chính quyền đô hộ của nhà Đường, tự xưng là Tiết độ sứ.

Khúc Thừa Dụ là người đứng đầu một dòng họ lớn, lâu đời ở Hồng Châu (Cúc Bồ, Ninh Giang, Hải Dương), một hào trưởng có nhiều uy tín và thế lực mạnh tại một vùng trọng yếu của đất nước. Phất cao ngọn cờ tự chủ trong điều kiện đặc biệt này, Khúc Thừa Dụ nhanh chóng trở thành một trung tâm tập hợp mọi lực lượng dân tộc.

Mặc dù chỉ xưng là Tiết độ sứ, nghĩa là về danh nghĩa vẫn coi mình như là một đại diện của chính quyền nhà Đường, nhưng thực chất Khúc Thừa Dụ đã xây dựng một chính quyền tự chủ. Triều đình nhà Đường buộc phải công nhận Khúc Thừa Dụ là Tĩnh hải quân Tiết độ sứ và gia phong cho ông tước Đồng bình chương sự.

Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta đến đây đã giành được thắng lợi căn bản. Khúc Thừa Dụ vừa là người có công thúc đẩy sự trưởng thành nhanh chóng của lực lượng dân tộc, vừa là người đặt nền móng vững vàng cho cuộc đấu tranh tới độc lập hoàn toàn.

Năm 907, Khúc Thừa Dụ qua đời, con trai ông là Khúc Hạo nối nghiệp, cũng tự xưng là Tiết độ Sứ.

Khúc Hạo thi hành nhiều cải cách quan trọng để cải thiện đời sống nhân dân và chăm lo xây dựng nền độc lập dân tộc. Ông tiến hành chia lại các đơn vị hành chính, tổ chức lại chính quyền, sửa đổi lại chế độ tô thuế, giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân. Việt sử thông giám cương mục nhận xét: Dưới thời Khúc Hạo ''chính sự cốt chuộng khoan dung giản dị. Nhân dân đều được yên vui. Khúc Hạo được tôn xưng là bậc ''chúa hiền của nước Việt''.

Lúc đó, ở Trung Quốc tình hình chính trị hết sức phức tạp. Năm 907, Chu Ôn cướp ngôi nhà Đường lập ra nhà Hậu Lương thống trị vùng Trung nguyên. Cùng lúc đó, họ Mã lập ra nước Sở, họ Cao lập ra nước Kinh Nam, họ Tiền lập ra nước Ngô Việt.... Họ Lưu cát cứ ở Quảng Châu thế lực cũng rất mạnh.

Năm 908 nhà Hậu Lương phong cho Lưu Ẩn, người đứng đầu lực lượng cát cứ ở Quảng Châu làm Tiết độ sứ Quảng Châu, kiêm Tĩnh hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ phủ với ý định buộc nước ta phụ thuộc vào chính quyền họ Lưu. Năm 911, Lưu Ẩn chết, em là Lưu Cung lên thay. Năm 917, Lưu Cung tự xưng là Hoàng đế và đổi niên hiệu Nam Hán. Đây là 1 trong 10 nước cát cứ thời "Ngũ đại Thập quốc".

Năm 928, Nam Hán đánh bại được cuộc tấn công của nước Sở, bảo vệ an toàn vùng biên giới phía bắc. Khi đã có thế lực mạnh, lại tạm yên mặt bắc, Lưu Cung bắt đầu thực hiện âm mưu bành trướng xuống phía nam, mà mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất chính là vùng đất nước ta.

Năm 930, Nam Hán nhân cớ Khúc Thừa Mỹ (là con nối ngôi Khúc Hạo) thần phục nhà Hậu Lương và có ý chống lại Nam Hán, đã sai Lý Thủ Dung và Lương Khắc Trinh đem quân sang đánh Giao Châu. Khúc Thừa Mỹ do chưa lực tin vào sức mạnh của dân tộc, không đoàn kết được toàn dân để đánh giặc giữ nước, lại muốn dựa vào nhà Hậu Lương để chống quân Nam Hán nên cuộc kháng chiến thất bại nhanh chóng. Nước ta lại bị rơi vào tay nhà Nam Hán.

Năm 931, Dương Đình Nghệ là tướng cũ của Khúc Hạo, người đứng đầu dòng họ Dương có thế lực mạnh ở vùng châu Ái (Thanh Hoá) tổ chức lực lượng tiến quân ra Châu Giao. Thứ sử Lý Tiến chống cự không nổi phải bỏ chạy về nước. Dương Đình Nghệ nhanh chóng củng cố thành Đại La, huy động lực lượng và nhanh chóng đánh tan cuộc hành quân tiếp viện của Nam Hán do Thừa chỉ Trần Bảo chỉ huy.

Dẹp xong quân giặc, Dương Đình Nghệ vẫn tự xưng là Tiết độ sứ để giữ quan hệ hòa hiếu với phong kiến phương Bắc, ông tiếp tục công cuộc tự chủ của họ Khúc, lo củng cố chính quyền vừa mới giành lại được, phát triển lực lượng dân tộc.

3. Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938


Mô hình chiến thắng Bạch Đằng 938

Ngô Quyền sinh năm Mậu Ngọ (898) ở xứ Đường Lâm, nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội, cùng quê với người anh hùng Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Cha ông là Ngô Mân đã từng làm chức Châu mục Đường Lâm. Từ nhỏ, Ngô Quyền đã sống trong truyền thống yêu nước của quê hương.

Đại Việt sử ký toàn thư (ngoại kỷ, quyển 5) mô tả: "Ngô Quyền có dung mạo khác thường, lưng có ba nốt ruồi. Các thầy tướng cho là lạ, rằng có thể làm chủ được một phương, nhân đó (Ngô Mân) mới đặt cho vua tên là Quyền. Khi vua lớn lên, tướng mạo khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, trí dũng hơn người, sức có thể nâng được vạc".

Lúc trưởng thành, Ngô Quyền có võ nghệ tinh thông và có chí lớn. Ông đã từng tham gia xây dựng chính quyền họ Khúc ở Đại La, đã từng theo Dương Đình Nghệ đánh đuổi quân Nam Hán, giải phóng thành Đại La năm 931.

Dương Đình Nghệ lên cầm quyền, vẫn tự xưng là Tiết độ sứ, đóng tại thành Đại La. Ông phong cho Đinh Công Trứ (cha Đinh Bộ Lĩnh) chức thứ sử Hoan Châu, gả con gái là Dương Thị Như Ngọc cho Ngô Quyền và giao coi giữ Ái châu. Chính quyền họ Dương tồn tại bảy năm (từ năm 931 đến tháng 3 năm Đinh Dậu 937) thì Dương Đình Ngệ bị kẻ phản bội là Kiều Công Tiễn (một viên tướng dưới quyền) sát hại để cướp đoạt chức Tiết độ sứ.

Là người có tài đức và ý chí, ngay sau khi chủ tướng Dương Đình Nghệ bị sát hại, Ngô Quyền sớm trở thành linh hồn của ngọn cờ yêu nước.

Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử

Vào những ngày mùa đông năm Mậu Tuất (938), Ngô Quyền từ Ái châu đem quân ra hỏi tội Kiều Công Tiễn.

Theo thần tích, truyền thuyết dân gian và gia đình họ Dương ở làng Ràng (xã Dương Xá, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa) thì dưới sự chỉ đạo của Ngô Quyền, Dương Tam Kha (con Dương Đình Nghệ) và Đỗ Cảnh Thạc đã cầm quân tiến công thành Đại La, giết Kiều Công Tiễn.

Dẹp xong nội loạn, Ngô Quyền vào thành họp bàn với các tướng lĩnh về kế hoạch chống ngoại xâm. Thành Đại La trở thành trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến chống quân Nam Hán lần thứ hai. Hào kiệt bốn phương đem quân hội tụ về Đại La dưới cờ đại nghĩa của người anh hùng dân tộc Ngô Quyền.

Tại đây, một kế hoạch chiến đấu mưu trí và chắc thắng đã được Ngô Quyền và các tướng lĩnh bàn định và thông qua. Trong một cuộc họp bàn, với lòng tự tin và làm chủ tình thế, Ngô Quyền đề ra ý kiến như sau:

"Hoằng Thao là một đứa trẻ, lại đem quân từ xa đến, quân lính mệt mỏi, lại nghe Kiều Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt tất phá được. Song giặc có lợi về thuyền chiến, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nhưng ta sẽ cho người đem theo cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt đầu nhọn bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước thuỷ triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bây giờ ta sẽ dễ bề chế ngự, không kế gì hay hơn kế ấy cả".

Kế hoạch và việc lựa chọn chiến trường cho trận "quyết chiến chiến lược" đã được quyết định. Tướng sĩ ai cũng vui mừng, tin rằng chắc thắng. Sau đó, Ngô Quyền và bộ chỉ huy tạm rời thành Đại La, kéo quân về vùng biển đông bắc chuẩn bị chiến trường đón đánh thủy quân Nam Hán.

Theo thần tích và truyền thuyết dân gian các làng và hơn 30 đền thờ Ngô Quyền và các tướng có công phá giặc Nam Hán đã được phát hiện, thì vùng đóng quân của Ngô Quyền lúc bấy giờ được trải dài từ các làng Bình Kiều, Hạ Đoan tới Lương Khê, còn đại bản doanh thì đặt tại các thôn Lương Sâm, Gia Viện (đều thuộc huyện An Hải, Hải Phòng).

Trước đây, đại bộ phận quân đội của Ngô Quyền là người Ái châu, nơi ông trấn trị. Trước nạn Nam Hán xâm lược, đạo quân này được bổ sung tăng cường và nhanh chóng. Nhân dân khắp nơi nô nức mang vũ khí, thuyền chiến tham gia và ủng hộ quân đội. Chỉ riêng một thôn Gia Viện nơi Ngô Quyền đặt đại bản doanh cũng đã có hàng mấy chục trai tráng dưới quyền chỉ huy của Đào Nhuận và Nguyễn Tất Tố tình nguyện nhập ngũ.

Vùng cửa sông và hạ lưu sông Bạch Đằng được Ngô Quyền chọn làm điểm quyết chiến.

Sông Bạch Đằng là cửa ngõ phía đông bắc và là giao thông quan trọng từ biển Đông vào đất Việt. Theo cửa Nam Triệu vào Bạch Đằng, địch có thể ngược lên và tiến đến thành Cổ Loa hoặc thành Đại La hoàn toàn bằng đường sông.

Sông Bạch Đằng chảy qua một vùng núi non hiểm trở, có nhiều nhánh sông phụ đổ vào. Hạ lưu sông thấp, chịu ảnh hưởng của nước triều khá mạnh. Triều lên từ nửa đêm về sáng, cửa biển rộng mênh mông, nước trải rộng ra hai bên bờ đến hơn 2km. Đến gần trưa thì triều rút mạnh, chảy rất nhanh.

Bấy giờ vào cuối năm 938. Trời rét, gió đông bắc tràn về, mưa dầm lê thê kéo dài hàng nửa tháng. Chính trong những ngày ấy, theo kế hoạch của Ngô Quyền, quân và dân ta lặn lội mưa rét, ngày đêm vận chuyển gỗ, dựng cọc.

Hàng nghìn cây gỗ lim, sến, đầu được vạt nhọn và bịt sắt được đem về đây cắm xuống hai bên bờ sông (quãng cửa Nam Triệu hiện nay) thành những hàng dài chắc chắn, đầu cọc hướng chếch về phía nguồn.

Khi triều rút các hàng cọc mới phơi ra, còn lúc sáng sớm nước mênh mông thì thuyền lớn qua lại hai bên bờ vẫn dễ dàng. Trận địa cọc được tiến hành rất gấp rút và chỉ trong khoảng thời gian hơn một tháng là mọi việc đã hoàn thành.

Theo dự kiến của Ngô Quyền, trận đánh sẽ diễn ra ở phía trong bãi cọc. Tướng Dương Tam Kha (con của Dương Đình Nghệ) chỉ huy đội quân bên tả ngạn, Ngô Xương Ngập (con trai cả của Ngô Quyền) và Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy đội quân bộ bên hữu ngạn, mai phục sẵn, phối hợp với thủy quân đánh tạt sườn đội hình quân địch và sẵn sàng diệt số quân địch chạy lên bờ.

Từ cửa biên ngược lên phía trên không xa là một đạo thủy quân mạnh phục sẵn do chính Ngô Quyền chỉ huy chặn ngay đường tiến lên của địch, chờ khi nước xuống sẽ xuôi dòng đánh lại đội binh thuyền địch.

Trận địa bố trí vừa xong thì binh thuyền Nam Hán từ Quảng Đông kéo sang. Cuộc chiến đấu đã diễn ra như sự trù liệu và dự tính của Ngô Quyền đã vạch ra.

Cả đoàn binh thuyền lớn của Hoằng Thao vừa vượt biển vào cửa sông Bạch Đằng đã bị dồn dắt vào thế trận bố trí sẵn của ta, và bị tiêu diệt trong thời gian ngắn. Toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm xuống biển, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, chủ soái Lưu Hoằng Thao bị giết tại trận.

Chiến thắng Bạch Đằng diễn ra nhanh chóng khiến vua Nam Hán là Lưu Cung đang đóng quân ở sát biên giới mà không kịp tiếp ứng cho con. Sử chép: "Vua Hán thương khóc, thu nhặt quân còn sót mà rút lui".

Chiến thắng Bạch Đằng thời Ngô Quyền là một bước phát triển rực rỡ của nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Trong điều kiện lực lượng ta địch chênh lệch không nhiều, Ngô Quyền đã lợi dụng được cả thời tiết, địa hình có lợi cho ta, tạo len thế mạnh giáng cho quân xâm lược vừa mới thò mặt tới một đòn trời giáng, giành thắng lợi quyết định bằng một trận mai phục thủy chiến trên sông.

Ca ngợi người anh hùng dân tộc Ngô Quyền, sử gia Lê Văn Hưu viết: "Tiền Ngô Vương có thể lấy quân mới hợp của đất Việt ta mà phá được trăm vạn quân của Lưu Hoằng Thao, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có thể nói một cơn giận mà yên dân được, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy".

Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là trận trung kết toàn thắng của dân tộc ta trên con đường đấu tranh Bắc thuộc, giành lại độc lập hoàn toàn.

Chiến công hiển hách đó đập tan mưu đồ xâm lược của Nam Hán, tạo cơ sở để Ngô Quyền phát triển chính quyền tự chủ của họ Khúc, họ Dương thành chính quyền độc lập, chấm dứt hoàn toàn thời Bắc thuộc kéo dài trên nghìn năm.

Ngô Vương Quyền và kinh đô Cổ Loa

Bằng chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng, dân tộc ta không những chấm dứt ách đô hộ hơn nghìn năm của phương Bắc, mà còn tạo điều kiện tiến lên xây dựng một quốc gia độc lập hoàn toàn.

Mùa xuân năm Kỷ Hợi (939), Ngô Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng vương, thành lập một vương quốc độc lập đàng hoàng. Chọn kinh đô cũ của Âu Lạc là Cổ Loa làm kinh đô nước Việt, Ngô Vương Quyền tỏ ý nối tiếp truyền thống của các vua Hùng, vua Thục.

Sử gia Lê Văn Hưu đời Trần nêu cao ý tưởng này của Ngô Vương Quyền khi viết với Ngô Vương "chính thống của nước Việt ta đã nối lại được".

Tại kinh đô Cổ Loa, Ngô Vương bước đầu tổ chức một triều chính độc lập: "đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục, có thể thấy được quy mô của đế vương".

Bà vợ họ Dương, con gái Dương Đình Nghệ, được lập làm hoàng hậu. Triều đình của Ngô Vương tuy còn đơn sơ, nhưng được xây dựng theo thể chế của một vương triều hoàn toàn độc lập.

Các tướng sĩ có công trong cuộc chiến tranh chống Nam Hán đều được phong tước, cấp thái ấp như Phạm Lệnh Công được phong đất ở miền Nam Sách Giang (Nam Sách, Hải Dương).

Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa được 6 năm (939 - 944). Trong sáu năm ngắn ngủi đó chắc chắn triều Ngô vẫn chưa xây dựng được thêm gì nhiều ở Loa thành xưa. Khảo cổ học chỉ phát hiện được những đoạn thành sửa đắp vào thời Ngô Quyền trên nền tảng hoang phế thành cũ của Thục An Dương Vương.

Truyền thuyết dân gian vùng đất Cổ Loa kể lại rằng, Ngô Vương Quyền khi đóng đô ở đây đã cho trồng cây đa ở trước am thờ Mỵ Châu và cho đào cái giếng nước ở trên của đền. Người dân vùng này còn truyền tụng những câu cửa miệng: "Cây đa nghìn tuổi", "giếng nước nhà Ngô".

Với việc Ngô Vương đóng đô ở Cổ Loa, vùng đất Hà Nội lại khôi phục vị trí trung tâm chính trị của đất nước trong buổi đầu phục hưng độc lập sau hơn nghìn năm Bắc thuộc.

Ngô Quyền mất năm 944, thọ 47 tuổi. Tại quê hương xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, Hà Tây) có đình thờ và lăng Ngô Quyền. Trong nhà truyền thống xã Đường Lâm còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như rìu đá, di chỉ đồ đá mới, cọc gỗ Bạch Đằng; gần đó có những rộc sâu, tương truyền xưa kia là hồ sen, nơi Ngô Quyền thường cùng bạn bè thuở nhỏ chơi trò thủy chiến.

Tại thành phố Hải Phòng, bên cạnh dòng sông Bạch Đằng lịch sử, cũng có những ngôi đền và đình thờ Ngô Quyền. Ở đình Hàng Kênh - ngôi đình tráng lệ ở Hải Phòng xây dựng năm 1718 - có câu đối lớn với dòng chữ nho:

"Vương nghiệp khởi nghiệp Loa Thành, trường biên thanh sử.
Chiến công lưu Đằng thủy, cộng mộc hồng ân"

nghĩa là: "Vương nghiệp bắt đầu từ Loa thành lưu mãi trong sử sách. Chiến công lưu lại trên sông Đằng, trong đó có ân phúc của loài cây".

Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 2-1-2012 08:59 PM
Các vương triều Ngô - Đinh - Tiền Lê

1. Các Vương triều Ngô - Đinh - Tiền Lê



Sau chiến thắng Bạch Đằng, Ngô Quyền xưng vương hiệu (939), thực sự đã khôi phục nền độc lập và chủ quyền quốc gia, chấm dứt 10 thế kỷ Bắc thuộc. Nói như sử cũ, "Ngô Vương Quyền nối lại quốc thống" . Tài năng và uy tín cá nhân đã giúp Ngô Quyền duy trì được một chính quyền tập trung chuyên chế, mặc dù lúc đó vẫn tồn tại ở trong nước nhiều thế lực của các hào trưởng địa phương, có xu hướng cát cứ.

Năm năm sau, Ngô Quyền mất (944). Các con của Ngô Quyền (Xương Ngập, Xương Văn) không đủ uy tín và sức mạnh để duy trì chính quyền quân chủ tập trung. Dương Tam Kha (em vợ Ngô Quyền) âm mưu cướp ngôi. Các thổ hào, lãnh chúa nổi lên khắp nơi, cát cứ chống lại chính quyền trung ương. Sau khi Xương Ngập (954) và Xương Văn chết (965), triều Ngô thực tế không còn tồn tại, đất nước rơi vào thế hỗn loạn của nhiều tướng lĩnh chiếm cứ các vùng địa phương, đánh lẫn nhau. Sử cũ gọi là "Loạn 12 sứ quân".

Lãnh thổ Việt Nam giữa thế kỷ X bao gồm phần đất Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trên địa bàn đó, tồn tại 12 sứ quân cát cứ:

- Phú Thọ, Vĩnh Phúc có các sứ quân: Kiều Công Hãn, Nguyễn Khoan

- Hà Nội: Nguyễn Siêu

- Hà Tây: Ngô Nhật Khánh, Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Thuận

- Bắc Ninh: Lý Khuê, Nguyễn Thủ Tiệp

- Hưng Yên: Phạm Bạch Hổ, Lữ Đường

- Thái Bình: Trần Lãm (sau liên kết với Đinh Bộ Lĩnh)

- Thanh Hóa: Ngô Xương Xí (con Ngô Xương Ngập)

Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư (Ninh Bình), từ nhỏ có chí khí, có tài tập hợp và lãnh đạo quần chúng. Sau khi Trần Lãm chết, Đinh Bộ Lĩnh trở thành lực lượng mạnh mẽ, nổi bật, lần lượt dẹp yên các thế lực cát cứ thu về một mối. Năm 968, ông lên ngôi, tự xưng là Hoàng đế (thường gọi là Đinh Tiên Hoàng) lấy niên hiệu Thái Bình, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, xây dựng triều chính, bước đầu thống nhất đất nước.

Năm 979, nội bộ triều Đinh lục đục. Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị giết hại. Đinh Toàn (mới 6 tuổi) lên nối ngôi. Các tướng lĩnh trong triều chia thành phe phái, đánh lẫn nhau. Ở Trung Quốc, nhà Tống đang lăm le xâm phạm bờ cõi. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn sau khi tiêu diệt Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, đã nắm trọn quyền bính. Năm 980, trước sự đe dọa xâm lược của nhà Tống, được sự ủng hộ và suy tôn của Dương Thái hậu (mẹ Đinh Toàn), theo đề nghị của Phạm Cự Lạng, Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế (thường gọi là Lê Đại Hành), chuẩn bị kháng chiến, lập ra nhà Tiền Lê.

Được sự phò tá của Phạm Cự Lạng và các cố vấn như các nhà sư Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Lê Hoàn đã tổ chức phòng ngự ở kinh đô Hoa Lư, thành Đại La và phòng tuyến cửa ngõ Bạch Đằng - Hoa Lư. Ở đây, theo kế Ngô Quyền, Lê Hoàn đã cho bố trí trận địa cọc ở lòng sông. Mặt khác, nhà vua sai gửi thư sang nhà Tống, tìm kế hoãn binh.

Cuối năm 980, theo kế hoạch tốc chiến, bất ngờ, quân Tống đã đem quân ồ ạt xâm lược Đại Cồ Việt do Hầu Nhân Bảo làm Tổng chỉ huy cả 2 đạo quân bộ (Tôn Toàn Hưng, sau là Trần Khâm Tộ) và thủy (Lưu Trừng). Sau một vài trận giao chiến, Lê Hoàn đã dùng kế trá hàng, dụ quân Tống vào trận địa phục kích Bạch Đằng, đánh tan giặc, giết Hầu Nhân Bảo tại trận tháng 4-981. Cánh quân bộ của Trần Khâm Tộ cũng bị truy kích ở Tây Kết. Đại bại, quân Tống phải tháo chạy về nước. Nền độc lập và thống nhất của Đại Cồ Việt qua thử thách càng được củng cố.

Năm sau (982), Lê Hoàn đã đem quân tấn công Champa, giữ yên và củng cố vùng biên giới phía nam.

Năm 1005, Lê Hoàn mất. Các con tranh chấp ngôi vua. Lê Long Đĩnh nối ngôi, là người tàn ác, trụy lạc, mắc bệnh phải nằm họp triều đình (nên thường gọi là Lê Ngọa triều) không đủ năng lực và uy tín trị nước. Sau khi Lê Long Đĩnh chết (1009), triều thần do Đào Cam Mộc khởi xướng, đã suy tôn Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt nhà Tiền Lê.

2. Nhà nước và chính quyền Đại Cồ Việt

Kế tục triều Ngô, nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh - Tiền Lê về cơ bản là một nhà nước võ trị. Các vua (Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành) đều xuất thân là những tướng lĩnh quen trận mạc, là tổng chỉ huy tối cao quân đội, nắm giữ mọi quyền hành. Hệ thống quan lại phần lớn là các quan võ. Thời Lê Hoàn có các chức Đại tổng quản, Thái uý, Điện tiền chỉ huy sứ...

Quân đội Đại Cồ Việt là một quân đội đông và mạnh. Theo sử cũ, quân đội thời Đinh có tới 1 triệu người (?), chia thành 10 đạo, bên dưới có các loại quân lữ, tốt, ngũ. Quân sĩ đều đội mũ da, gọi là mũ "tứ phương bình đính". Coi giữ kinh thành là lực lượng Cấm quân và quân tứ sương. Thời Lê Hoàn có tới 3000 cấm quân, trán khắc chữ "Thiên tử quân", đội mũ đâu mâu. Vũ khí có cung nỏ, mộc bài, giáo mác. Lực lượng thuyền chiến mạnh đã đánh thắng quân Tống và Champa. Các vua Đinh - Tiền Lê đều dùng quân đội trấn áp các vụ phản loạn trong nước.

Dưới chế độ võ trị, luật pháp thời Đinh - Tiền Lê còn nghiêm khắc và tuỳ tiện, dựa theo ý muốn của nhà vua. Đinh Bộ Lĩnh đặt vạc dầu và cũi hổ ở sân triều để trừng phạt phạm nhân. Lê Hoàn hay xử phạt đánh roi những ai làm phật ý mình. Lê Long Đĩnh lấy việc giết người làm trò vui.

Trên lý thuyết, để khẳng định uy thế, các vua Đinh - Tiền Lê đã xây dựng bộ máy triều nghi của mình theo mô hình nhà Tống. Đinh Tiên Hoàng và Lê Hoàn đều lập cho mình 5 hoàng hậu, đặt ngôi Thái tử, cử các hoàng tử đi trấn trị các địa phương. Đất nước thời Đinh chia làm 10 đạo, Lê Hoàn đổi thành lộ.

Trên thực tế, bộ máy triều đình và quan lại còn rất sơ sài. Khi gặp sứ Tống, Lê Hoàn còn đang đi chân đất, cầm xiên lội nước xiên cá, vào triều lại chơi trò đọ tay với quần thần. Đó chưa phải là một nhà nước quy củ theo chế độ phong kiến.

3. Tình hình kinh tế - văn hóa

Các vua Đinh - Tiền Lê khi lên ngôi hoàng đế đều đã cố gắng thực thi quyền sở hữu ruộng đất nhà nước, vừa để khẳng định quyền lực vừa để nắm lấy thần dân, thu tô thuế, bắt lính. Nhà nước đã có những khu đất tịch điền ở Đọi Sơn (Hà Nam) và Bàn Hải do triều đình trực tiếp quản lý để phục vụ tế lễ. Hằng năm mùa xuân nhà vua đích thân làm lễ tịch điền, đi vài đường cày để nêu gương. Các vua Đinh, Tiền Lê cũng phong cấp đất đai cho các hoàng tử, quý tộc và quan lại. Đinh Tiên Hoàng đã phong cho Trần Lãm thực ấp ở Sơn Nam (Nam Định), sau lại cấp trang Lạc Đạo (Ninh Bình), phong đất cho hào trưởng Lê Lương làm thái ấp thuộc các huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa và Quảng Xương (Thanh Hóa). Lê Hoàn đã cử các hoàng tử đi trấn trị tại các địa phương, phong đất cho họ để được hưởng quyền thu thuế. Lê Long Đĩnh đã phong cho Điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn thực ấp ở Đằng Châu (Hưng Yên). Nhà nước cũng bước đầu thi hành chính sách trọng nông, khuyến khích sản xuất như đào vét các sông kênh (Đá Cai, Bà Hòa) ở vùng Thanh - Nghệ.

Triều đình cũng chú ý phát triển một số ngành nghề thủ công nghiệp để phục vụ vua quan và quân đội, nhất là ở kinh đô Hoa Lư. Các vua Đinh - Tiền Lê khi lên ngôi, đều cho thợ đúc tiền đồng như Thái bình thông bảo (Đinh) và Thiên phúc thông bảo (Lê). Nhiều thợ thủ công đã được tập trung ở Hoa Lư như thợ nề, thợ đá, mộc, ngọc, chạm khắc, dát vàng bạc để xây dựng kinh đô trong đó có nhiều cung điện lớn lợp ngói bạc, các cột dát vàng bạc.

Trong dân gian, các nghề truyền thống như dệt vải lụa, làm giấy tiếp tục phát triển. Tiền tệ cũng thúc đẩy việc trao đổi buôn bán hàng hóa trong các chợ làng quê và một số trị sở Hoa Lư, Tống Bình, Long Biên. Việc trao đổi buôn bán vật phẩm cũng được thực hiện với Trung Quốc và với các thuyền buôn nước ngoài.

Cùng với việc xây dựng một chính quyền nhà nước có chủ quyền, ở Đại Cồ Việt nửa sau thế kỷ X cũng đã manh nha những mầm mống của một nền văn hóa mang tính dân lộc.

Đạo Nho tuy đã xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc, nhưng đến lúc này, vẫn không tạo được những ảnh hưởng đáng kể, nổi trội trong đời sống tâm linh vẫn là những tín ngưỡng dân gian hòa trộn với những tôn giáo có nguồn gốc từ nền văn minh Nam Á như Phật và Đạo. Triều đình Đinh - Tiền Lê đã suy tôn Phật giáo làm Quốc giáo. Ở kinh đô Hoa Lư đã xây dựng nhiều chùa chiền (chùa Bà Ngô, chùa Tháp, chùa Nhất Trụ) và các cột kinh Phật. Các nhà sư thời kỳ này như Sùng Phạm, Đỗ Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu (Khuông Việt), Vạn Hạnh đã là các trí thức được sử dụng như những cố vấn cung đình và những nhà ngoại giao đắc lực của nhà vua, đặc biệt trong các dịp tiếp sứ thần nhà Tống. Phật giáo thường kết hợp với Đạo giáo, như Trương Ma Ni đã được phong chức Tăng lục đạo sĩ.

Nhiều loại hình văn hóa dân gian đã tồn tại trong thời Đinh - Tiền Lê: ca múa nhạc (qua truyền thuyết về bà Phạm Thị Trân dạy quân sĩ đánh trống), tạp kỹ như đi trên dây, đánh đu, trồng cây chuối (qua truyền thuyết về Văn Du Tường dùng mưu diệt quỷ Xương Cuồng ở Bạch Hạc).

Các vương triều Ngô - Đinh - Tiền Lê có thể coi như một thời kỳ lịch sử quá độ từ ngoại thuộc qua tự chủ đến độc lập. Những thập kỷ bản lề đó đã bước đầu thực hiện được sự nghiệp khôi phục độc lập, thống nhất quốc gia, xây dựng chính quyền quân chủ và đặt nền móng cho một nền văn hóa dân tộc sự nghiệp đó sẽ được củng cố và phát triển lên một tầm cao mới trong những thế kỷ tiếp sau.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 2-1-2012 09:39 PM
A. Nhà Ngô (939 - 967)

Tình hình đất nước dưới thời Ngô (939 - 967)

Sau khi đánh bại cuộc xâm lược lần thứ hai của quân Nam Hán, với uy danh của chiến thắng Bạch Đằng, năm 939, Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chế độ tiết độ sứ, xây dựng triều đình mới, lấy Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) làm kinh đô, dựng cung điện.



Lăng Ngô Quyền ở Đường Lâm, Ba Vì (Hà Tây)

Sử cũ không cho biết gì thêm về tổ chức nhà nước trung ương đương thời. Ở địa phương, các châu huyện được giữ nguyên. Các thứ sử như Đinh Công Trứ tiếp tục cai quản châu của mình. Giáp, làng vẫn là những đơn vị hành chính cơ sở. Bên cạnh các xóm làng cổ truyền có một số làng mới hình thành và một vài trang trại. Những chủ trang trại có thể là quan chức cũ của chính quyền đô hộ, ở lại lập nghiệp lâu dài trên đất nước ta như họ Hồ ở trang Bàu Đột (Quỳnh Lưu - Nghệ An), họ Lã ở Tiên Du (Bắc Ninh)... hoặc các thổ hào địa phương như họ Dương Ở Dương Xá (Đông Sơn - Thanh Hóa), họ Lê ở Đông Sơn (Thanh Hóa) v...v...

Tuy đã trải qua hơn 30 năm độc lập với hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhưng những tàn dư của chế độ đô hộ cũ vẫn còn nhiều, tình hình xã hội còn phức tạp. Sự thành lập của nhà Ngô với người đứng đầu là Ngô Quyển chưa đủ điều kiện để giữ vừng sự ổn định lâu dài.

Năm 944, Ngô Quyền chết. Người em vợ là Dương Tam Kha cướp ngôi và xưng là Bình Vương. Con trưởng của Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập sợ liên lụy đã phải bỏ trốn khỏi kinh thành lên đất Trà Hương (Kim Thành - Hải Dương) nương nhờ hào trưởng Phạm Lệnh Công. Mâu thuẫn trong dòng họ thống trị nảy sinh. Năm 950, Ngô Xương Văn (em của Xương Ngập) được sự ủng hộ của các chỉ huy sứ Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát Lợi đã nhân việc cầm quân đi đàn áp cuộc nổi dậy của các thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình (Quốc Oai - Hà Tây), quay về kinh đô bắt Dương Tam Kha, giành lại chính quyền. Xương Văn tự xưng là Nam tấn vương và cho người lên Trà Hương mời anh mình về cùng coi việc nước. Xương Ngập về, tự xưng là Thiên sách vương, nắm hết quyền hành. Mâu thuẫn nội bộ nhà Ngô đã tạo điều kiện cho các thổ hào, thứ sử địa phương nổi dậy, mộ quân, làm chủ vùng mình trấn trị, tách khỏi chính quyền trung ương.

* Thế phả nhà Ngô:

1. Ngô Vương (939 - 944)

Triều Ngô (939 - 967). Ngô Quyền Phá Quân Nam Hán (897 - 944)

Ngô Quyền là bộ tướng của Dương Đình Nghệ sinh ngày 12 tháng 3 nǎm Đinh Tỵ (897) ở Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây). Cha Ngô Quyền là Ngô Mân, một hào trưởng có tài. Lớn lên trên quê hương có truyền thống bất khuất, nơi sản sinh và nuôi dưỡng người anh hùng dân tộc Phùng Hưng, Ngô Quyền sớm tỏ rõ chí khí phi thường hiếm thấy. Vì có tài nên Dương Đình Nghệ giao cho Ngô Quyền cai quản đất Ái Châu và gả con gái cho. Trong 5 nǎm (934 - 938), Ngô Quyền đã đem lại yên vui cho đất Áii Châu, tỏ rõ là người có tài đức.

Khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại, và vua Nam Hán là Lưu Cung cho con là Vạn vương Hoằng Tháo đem quân sang xâm lược nước ta, Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng để trừ nội phản, diệt ngoại xâm.

Tháng 12 nǎm Mậu Tuất (938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng. Chúng nghênh ngang tràn vào trận địa mai phục của Ngô Quyền. Bị đánh bất ngờ nên chỉ trong một thời gian rất ngắn thuyền giặc bị đắm gần hết, quân giặc bị chết quá nửa, máu chảy loang đỏ khúc sông, Hoằng Tháo cũng bị đâm chết tại trận.

Sau chiến thắng, Ngô Quyền xưng vương, bãi bỏ chức Tiết độ sứ, đóng đo ở Cổ Loa (Hà Nội). Để củng cố trật tự triều chính, Ngô Quyền đặt ra các chức quan vǎn võ, quy định nghi lễ trong triều. Đáng tiếc, thời tại ngôi của Ngô Quyền quá ngắn ngủi, chỉ được 6 nǎm (939 - 944) thì mất, thọ 47 tuổi.

2. Dương Tam Kha:

Khi trẻ Ngô Quyền đã lấy con gái của Dương Đình Nghệ, nên khi ông lên ngôi bà Dương Thị được lập làm hoàng hậu. Khi sắp qua đời, Ngô Vương ủy thác con là Ngô Xương Ngập cho Dương Tam Kha là em Dương Hậu. Lợi dụng cháu còn nhỏ, Dương Tam Kha cướp ngôi của cháu, tự xưng là Bình Vương. Ngô Xương Ngập thấy biến chạy trốn sang Nam Sách (nay là Hải Dương) vào ẩn ở nhà Phạm Lệnh Công. Dương Tam Kha sai quân đi đuổi bắt, Phạm Lệnh Công đem Xương Ngập trốn trong núi. Nhưng Dương Tam Kha bắt em của Xương Ngập là Ngô Xương Văn làm con nuôi.

Năm Canh Tuất (905) nhân có loạn ở Sơn Tây, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn cùng tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh. Đến Từ Liên, Ngô Xương Văn mưu với hai tướng đem quân trở về bắt Dương Tam Kha. Ngô Xương Văn vì nghĩ tình cậu cháu nên không nỡ xử trảm, giáng Tam Kha xuống làm Trương Dương công. Năm Canh Tuất (905) nhân có loạn ở Sơn Tây, Dương Tam Kha sai Ngô Xương Văn cùng tướng Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh. Đến Từ Liên, Ngô Xương Văn mưu với hai tướng đem quân trở về bắt Dương Tam Kha. Ngô Xương Văn vì nghĩ tình cậu cháu nên không nỡ xử trảm, giáng Tam Kha xuống làm Trương Dương công.

3. Hậu Ngô Vương: (950 - 965)

Ngô Xương Văn gạt bỏ Dương Tam Kha xưng là Nam Tấn Vương và sai người tâm phúc đi đón anh là Ngô Xương Ngập về cùng trông coi việc nước. Ngô Xương Ngập xưng là Thiên Sách vương. Cả hai anh em đều là vua, sử gọi là Hậu Ngô vương.
Làm vua được ít lâu, Thiên Sách vương nghĩ cách trừ Nam Tấn vương để một mình làm vua. Âm mưu đó chưa kịp thi hành thì năm Giáp Dần (954) Thiên Sách vương mất.

Đến lúc này, thì lực nhà Ngô ngày một suy yếu, thổ hào các nơi xưng là sứ quân ra sức chống đối buộc Nam Tấn vương phải thân chinh đi đánh dẹp. Năm Ất Sửu (965), trong một trận giao chiến ở Thái Bình, Nam Tấn Vương không may bị bắn chết, làm vua được 15 năm. Con Thiên Sách vương là Ngô Xương Xí nối nghiệp lên làm vua về giữ đất Bình Kiều.

Như vậy, triều Ngô bắt đầu từ Ngô Quyền, qua Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn đến Ngô Xương Xí, truyền được 3 đời, kéo dài 26 năm. Đến Ngô Xương Xí trong nước có cả thảy 12 sứ quân, gây ra loạn lạc nồi da nấu thịt kéo dài hơn 20 năm. 12 sứ quân đó là:

1. Ngô Xương Xí, giữ Bình Kiều (Khoái Châu, Hưng Yên)
2. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (Thanh Oai, Hà Đông)
3. Trần Lãm giữ Bô Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình)
4. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phú)
5. Nguyễn Khoan giữ Tam Đái (Vĩnh Tường, Vĩnh Phú)
6. Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn Tây)
7. Lý Khê giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Hà Bắc)
8. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du (Hà Bắc)
9. Lữ Đường giữ Tế Giang (Văn Giang, Hải Dương)
10. Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông)
11. Kiều Thuận giữ Hởi Hồ (Cẩm Khê, Sơn Tây)
12. Phạm Bạch Hổ giữ đằng Châu (Hưng Yên)

Những sứ quân ấy cứ đánh lẫn nhau, nhằm bành trướng thế lực khiến cho nhân dân vô cùng khổ sở. Về sau, Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư dẹp loạn 12 sứ quân, quy giang sơn về một mối, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 3-1-2012 11:45 AM
B. Thập nhị sứ quân (966 - 968)

Loạn 12 sứ quân (966 - 968):


Loạn 12 sứ quân - Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước:

Từ những năm 960, đất nước càng rối loạn. Ngô Xương Văn (Xương Ngập chết vào năm 954) nhiều lần đem quân đi đàn áp các cuộc nổi loạn nhưng không có kết quả. Năm 965, Xương Văn chết. Đất nước rơi vào tình trạng chia cắt, hỗn loạn. Nổi lên 12 vùng đất biệt lập do 12 thủ lĩnh đứng đầu mà sử cũ gọi là 12 sứ quân:

1. Kiều Công Hãn tự xưng là Kiều Tam Chế chiếm giữ Phong Châu (Phú Thọ)

2. Nguyễn Khoan tự xưng là Nguyễn Thái Bình chiếm giữ Tam Đái (Phú Thọ), Yên Lạc (Vĩnh Phúc)

3. Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công chiếm giữ Đường Lâm (Hà Tây)

4. Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ vùng Bảo Đà (Thanh Oai - Hà Tây)

5. Ngô Xương Xí - con của Ngô Xương Ngập - chiếm giữ Bình Kiều (Thanh Hóa)

6. Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng Công giữ đất Siêu Loại (Bắc Ninh)

7. Nguyên Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công chiếm giữ Tiên Du (Bắc Ninh)

8. Lữ Đường tự xưng là Lữ Tá Công chiếm giữ Tế Giang (Văn Giang - Hưng Yên)

9. Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công chiếm giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì - Hà Nội)

10. Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công chiếm giữ vùng Cẩm Khê (Hà Tây)

11. Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át chiếm giữ Đằng Châu (Hưng Yên)

12. Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công chiếm giữ Bố Hải Khẩu (Thái Bình)

Ngoài ra còn một số thế lực khác như Ngô Xử Bình, Dương Huy và đặc biệt là Đinh Bộ Lĩnh mà sử cũ không xếp vào hàng ngũ các sứ quân. Có thể thấy, trong số sứ quân này có một số vốn là tướng lĩnh của họ Ngô, một số là con cháu của các quan chức nhà Đường cũ.

Cùng thời gian này, từ năm 960, ở Trung Quốc nhà Tống thành lập, chấm dứt thời kì "Ngũ đại thập quốc" và bắt đầu mở rộng thế lực xuống phía nam. Nguy cơ ngoại xâm lại xuất hiện và đe dọa.

Đất nước đứng trước một thử thách lớn. Từ đất Hoa Lư (Ninh Bình) nổi lên người anh hùng Đinh Bộ Lĩnh.

Đinh Bộ Lĩnh người làng Đại Hữu (huyện Gia Viễn - tỉnh Ninh Bình) là con trai của thứ sử Đinh Công Trứ. Thủa nhỏ sống với mẹ ở Đàm Gia, thường cùng lũ trẻ chăn trâu trong vùng chơi trò đánh nhau, lấy bông lau làm cờ. Nhờ có tài chỉ huy, lại có chí lớn nên được bạn bè kính phục. Lớn lên vào lúc nhà Ngô suy, ông đã cùng các bạn thân thiết như Đinh Điền, Nguyễn Bặc tổ chức lực lượng, rèn vũ khí và chiếm giữ vùng đất Hoa Lư. Nhân dân địa phương cũng suy tôn và ủng hộ ông nhiệt liệt.

Từ đầu những năm 50, thanh thế của quân ông đã nổi, khiến Nam Tấn vương lo sợ, đem quân đến đánh. Nhờ sức chiến đấu quyết liệt và sự ủng hộ của nhân dân, Đinh Bộ Lĩnh đã buộc Nam Tấn vương phải rút quân.

Nhà Ngô đổ. Tình hình đất nước rối loạn. Đinh Bộ Lĩnh quyết định tiến quân đánh các sứ quân. Để tăng thêm lực lượng, ông đã liên kết với sứ quân Trần Lãm, sau đó chiêu dụ được sứ quân Phạm Phòng Át, rồi tiến ra Giao Châu. Các sứ quân lần lượt bị đánh bại hoặc xin hàng. Đến cuối năm 967, đất nước trở lại yên bình trong thống nhất.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 3-1-2012 12:56 PM
C. Nhà Đinh (968 - 980)

Nhà Đinh 12 năm (968 - 980), quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư (huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình)



Đất nước trở lại thống nhất, yên bình. Năm 968, Vạn Thăng vương Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế (tức Đinh Tiên Hoàng) đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư. Mùa xuân năm 970, tiến thêm một bước, Đinh Bộ Lĩnh bỏ không dùng niên hiệu của nhà Tống, tự đặt niên hiệu là Thái Bình và sai sứ sang giao hảo với nhà Tống. Một quốc gia độc lập có quốc hiệu, có nhà nước riêng do hoàng đế đứng đầu đã được xác lập.

Năm 978, Đinh Tiên Hoàng lập con nhỏ là Hạng Lang làm thái tử, phong con thứ là Toàn làm Vệ vương. Đinh Liễn là con trai đầu, đã từng có nhiều công lao trong sự nghiệp đánh dẹp 12 sứ quân, dựng nên triều đại mới, chỉ được phong Nam Việt vương. Không chấp nhận điều đó, Đinh Liễn cho người ngầm giết Hạng Lang. Sự việc chưa có gì đổi mới thì cuối năm 979, nhân một bữa tiệc rượu trong cung của hai cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn, một viên quan hầu tên là Đỗ Thích đã ám hại cả hai.

Đỗ Thích bị bắt giết. Triều thần đưa Vệ vương Toàn mới 5 tuổi lên nối ngôi. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn được cử làm phụ chính. Vì nghi ngờ Lê Hoàn có ý định cướp ngôi, các tướng cũ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bạc, Phạm Hạp đã đưa quân về kinh định giết ông. Cuộc chiến xảy ra. Đinh Điền, Phạm Hạp, Nguyễn Bạc đều bị giết.

Giữa lúc đó thì nhà Tống, nhân sự kiện Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị ám hại, quyết định đem quân sang xâm lược Đại Cồ Việt. Trước nguy cơ ngoại xâm đang đến gần, bà thái hậu họ Dương - mẹ đẻ của Đinh Toàn - đã cử Lê Hoàn làm tổng chỉ huy quân đội, chuẩn bị cuộc kháng chiến. Trong buổi hội triều bàn kế hoạch chống giặc, dựa vào đề nghị của các tướng lĩnh, bà thái hậu họ Dương đã khoác áo long cổn lên mình Lê Hoàn và mời ông lên ngôi vua.

Lê Hoàn là người Xuân Lập (Thọ Xuân - Thanh Hóa), quê gốc ở Thanh Liêm (Hà Nam), cha, mẹ chết sớm, được một viên quan sát họ Lê nuôi. Lớn lên, ông theo giúp Đinh Liễn, lập nhiều công trạng, khi nhà Đinh thành lập, ông được phong chức Thập đạo tướng quân.

Nhà Lê thành lập (sau gọi là Tiền Lê). Lê Hoàn (tức Lê Đại Hành) giữ nguyên tổ chức bộ máy nhà nước của thời Đinh với kinh đô Hoa Lư.

* Thế phả nhà Đinh:

Triều Đinh và sự nghiệp thống nhất nước nhà:

Đinh Tiên Hoàng (968 - 979)

Niên hiệu: Thái Bình

Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hương (Hoa Lư, Ninh Bình), con Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giữ chức Thứ sử Châu Hoan. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với trẻ chǎn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách lại có tài thao lược nên khi Bộ Lĩnh dựng cờ dấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông.

Nǎm Tân Hợi (951) đời hậu Ngô vương, Nam Tấn vương cùng Thiên Sách vương đem quân đến đánh nhưng cả hai đều đại bại phải rút quân về. Đến khi nhà Ngô mất, Đinh Bộ Lĩnh dụ hàng được các sứ quân Ngô Xương Xí, phá được Đỗ Động của Nguyễn Cảnh Thạc. Từ đó, Đinh Bộ Lĩnh đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn Thắng vương. Chỉ trong một nǎm, Đinh Bộ Lĩnh đã bình được các sứ quân, lập thành nghiệp đế.

Nǎm Mậu Thìn (968) Vạn Thắng vương lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện chế triều nghi, định phẩm hàm quan vǎn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc Công, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân (tổng chỉ huy quân đội) và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương. Nǎm Kỷ Mão (979) Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Đỗ Thích trước làm hại, đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm vua bèn định bụng sát hại minh chủ. Một hôm Đỗ Thích thấy vua Đinh say rượu nằm trong cung bèn lẻn vào sát hại rồi tìm giết nốt con cả là Đinh Liễn. Triều thần tìm bắt được Đỗ Thích đem xử tội và tôn Vệ vương Đinh Toàn lên làm vua. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 nǎm, thọ 56 tuổi.

Phế Đế (979 - 980)

Đinh Tiên Hoàng có 3 người con trai: Đinh Liễn, Đinh Toàn (có sách gọi là Đinh Tuệ) và Đinh Hạng Lang. Đinh Liễn và Đinh Hạng Lang đã chết, mặc nhiên Đinh Toàn kế nghiệp ngôi vua.

Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc thấy vua còn nhỏ quyền bính nằm cả trong tay Thập đạo tướng quân lê Hoàn, lại nghi Lê Hoàn tư thông với Dương Thái Hậu (Dương Vân Nga), nên cử binh mã đến đánh, nhưng bị Lê Hoàn giết sạch.

Dương Vân Nga thay con cầm quyền trị nước cũng thấy rõ chỉ có Thập đạo tướng quân lê Hoàn là người có khả nǎng gỡ rối được tình hình nghiêm trọng cần kíp lúc này. Huống chi ý chí quân đội cũng muốn tôn người chỉ huy của họ lên ngôi tối thượng, thay cho vị vua 6 tuổi là con Dương Vân Nga. Bởi vậy, Dương Vân Nga đã lấy chiếc long bào choàng lên vai Lê Hoàn trong tiếng hò reo dậy trời của quân sỹ.

Đinh Toàn chỉ làm vua được 8 tháng, sử gọi là Phế Đế rồi tồn tại với tước vương (Vệ Vương) có mặt trong triều đình Tiền Lê 20 nǎm. Nǎm Tân Sửu (1001) trong dịp cùng vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) đi dẹp loạn Cử Long thuộc vùng Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá, Đinh Toàn bị trúng tên hy sinh trên chiến thuyền vào tuổi 27.

Như vậy triều Đinh làm vua được 2 đời, cả thảy 14 nǎm. Lê Hoàn lên làm vua, Dương Vân Nga trở thành hoàng hậu.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 3-1-2012 07:59 PM
D. Nhà Tiền Lê (980 - 1009)

Nhà Tiền Lê, kinh đô Hoa Lư (29 năm, 980 - 1009)


Tình hình nội trị và ngoại giao thời Tiền Lê:

Sau khi đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tống, Lê Hoàn bắt tay vào việc ổn định tình hình trong nước. Ngoài việc tổ chức lại chính quyền, mở mang đường sá, khuyến khích nhân dân sản xuất, nhà Lê phải lo chống lại các cuộc nổi dậy của nhân dân các vùng xa, đặc biệt là ở các châu phía nam.

Năm 989, quản giáp Dương Tiến Lộc được cử đi thu thuế ở hai châu Ái, Hoan, đã nhân đó liên kết với một số thủ lĩnh địa phương giữ châu, chống lại triều đình. Lê Hoàn phải cầm quân đi đánh dẹp.

Các năm 999, 1001, Lê Hoàn lại phải đem quân đánh dẹp các cuộc nổi dậy của người Hà Động, Cử Long (đều thuộc miền tây Thanh Hóa). Tình hình tạm yên trong một thời gian.

Năm 1008, dân hai châu Đô Lương, Vị Long (thuộc Tuyên Quang) nổi dậy. Lê Long Đĩnh đã cầm quân đi đánh. Tiếp đó, năm 1009, Lê Long Đĩnh lại phải đem quân đi đánh người châu Thạch Hà... (thuộc Hà Tĩnh).

Tình hình này vẫn còn diễn ra trong nhiều năm dưới thời Lý.

Trong công cuộc ổn định tình hình ở phía nam, nhà Tiền Lê còn phải đối phó với những hoạt động xâm lấn của Chăm-pa.

Năm 979, Khi Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị ám hại, vua Chăm-pa nghe lời xúi giục của Ngô Nhật Khánh (phò mã của nhà Đinh) đã cho thủy quân tiến ra, định xâm lấn vùng nam Đại Cồ Việt. Chẳng may, hạm thuyền Chăm-pa bị bão tố đánh đắm, vua Chăm-pa buộc phải chạy về nước.

Năm 980, sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đã cử Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chăm-pa đặt quan hệ hòa hiếu, nhằm yên mặt nam để chống giặc Tống. Vua Chăm-pa cậy thế hùng mạnh, đã bắt giữ các sứ thần.

Năm 982 sau khi đã đánh bại quân Tống, Lê Hoàn quyết định đem quân đánh Chăm-pa, tiến thẳng đến kinh đô, phá hủy thành trì rồi rút quân về. Quan hệ Việt - Chăm tạm yên.

Quan hệ với nhà Tống sau chiến tranh bắt đầu hòa hoãn, tốt đẹp. Năm 982, 983 Lê Hoàn sai sứ sang Tống cầu phong, đặt lại quan hệ hòa hiếu. Năm 986, nhà Tống cử sứ bộ sang phong Lê Hoàn làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ, Kinh triệu quận hầu. Lê Hoàn đã nhân đó trao trả nhà Tống hai tên tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân.

Năm 987, nhà Tống cử Quốc tử giám bác sĩ là Lý Giác sang sứ nước ta. Với ý thức dân tộc, không chịu thua kém nước người, Lê Hoàn đã cử một nhà sư giỏi là Đỗ Thuận đóng giả làm Giang lệnh, chèo đò sang đón sứ. Ra giữa sông, Lý Giác nhìn thấy đôi ngỗng đang bơi, bèn ứng khẩu ngâm hai câu thơ:

Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha

Nghĩa là:

Ngỗng kia, ngỗng một đôi
Ngửa mặt nhìn chân trời

Đỗ Thuận bình tĩnh vừa chèo đò vừa đọc tiếp:

Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba

Nghĩa là:

Lông trắng phô nước biếc
Rẽ sóng, chèo hồng bơi

Lý Giác vừa ngạc nhiên vừa khâm phục và từ đó luôn luôn tỏ ra kính nể triều đình nhà Tiền Lê.

Năm 990, sứ nhà Tống là Tống Cảo sang nước ta phong thêm cho Lê Hoàn hai chữ "đặc tiến". Lê Hoàn đã dàn chiến thuyền trên sông để đón sứ, sau đó lên bộ cùng sứ thần đi ngựa về cung. Đến điện Minh Đức, Lê Hoàn nhận sắc phong nhưng không lạy, lấy cớ là vừa qua đi đánh giặc bị ngã ngựa, chân đau. Trong tiệc thết đãi, Lê Hoàn lại nói với Tống Cảo về tâu với vua Tống là từ sau, khi có quốc thư thì cho giao nhận ngay ở đầu địa giới, không phiền phải đến tận kinh đô nữa. Đề nghị này đã được vua Tống chấp nhận.

Năm 991, Lê Hoàn sai sứ sang Tống đáp lễ.

Năm 993, nhà Tống sai sứ sang phong Lê Hoàn làm Giao Chỉ quận vương, tiếp đó năm 997, vua Tống lại phong Lê Hoàn làm Nam bình vương.

Quan hệ Việt - Tống tốt đẹp. Nhà Tiền Lê tuy chịu thần phục nhà Tống, hàng năm nộp cống đầy đủ, nhưng luôn luôn giữ vững tinh thần tự chủ, độc lập.

Năm 1005, Lê Hoàn chết. Các con của Lê Hoàn tranh chấp ngôi vua, đem quân đánh lẫn nhau. Năm 1006, viên tri Quảng Châu của nhà Tống dâng sớ xin đem quân xâm lược Đại Cồ Việt. Vua Tống đã khước từ, nói: "Họ Lê thường vẫn sai con vào chầu, không thiếu trung thuận, nay nghe tin mới chết, chưa có lễ thăm viếng đã vội đem quân sang đánh trong lúc có tang, có phải là việc làm của đấng vương giả đâu?"

Ít lâu sau, an phủ sứ Thiệu Việp lại xin vua Tống đánh chiếm nước ta một lần nữa nhưng vua Tống vẫn bảo: "Giao Châu độc địa, nếu đem quân sang đánh, chết hại rất nhiều, nên giữ cẩn thận cõi đất của tổ tông mà thôi".

Năm sau đó, vua Tống phong Lê Long Đĩnh là Giao Chỉ quận vương và đúc ấn ban cho. Long Đĩnh đã nhân đó, xin được thông thương với vùng Hoa Nam.

Nhà Tiền Lê suy vong. Nhà Lý được thành lập:

Lê Hoàn chết, con là Long Việt lên nối ngôi mới được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh giết và cướp ngôi. Xảy ra cuộc chiến giữa các hoàng tử và Long Đĩnh, tranh chấp ngôi vua, kéo dài trong 8 tháng. Các hoàng tử lần lượt bị giết hoặc chịu hàng phục Long Đĩnh (tức Lê Ngọa Triều). Lê Long Đĩnh chấn chỉnh lại triều đình, đặt quan hệ với nhà Tống và đem quân đi trấn áp các cuộc nổi dậy của những vùng xa. Tình hình trở lại ổn định. Lê Long Đĩnh xoay sang ăn chơi trụy lạc nên mắc bệnh trĩ phải nằm để hội chầu với các quan, Long Đĩnh lại thích những trò hành hình dã man như đốt người, xéo thịt, thả người trôi sông, bắt trèo cây cao rồi chặt đổ cho người rơi xuống chết. Trong cung lại nuôi một số người chuyên pha trò những lúc vua nói với các quan. Chính sự đổ nát, lòng người chán nản.

Trước tình hình đó, một số nhà sư ở châu Cổ Pháp (Bắc Ninh) đã truyền nhau những câu "sấm" nói về sự sụp đổ tất yếu của nhà Tiền Lê. Tháng 11 năm 1009, Lê Ngọa Triều chết. Được sự ủng hộ của các nhà sư và theo lời "sấm kí", chi hậu Đào Cam Mộc cầm đầu một số triều thần đưa Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, Lý Công Uẩn lên làm vua.

Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, thủa nhỏ làm con nuôi của nhà sư Lý Khánh Văn, sau đó đến học ở chùa Lục Tổ của sư Vạn Hạnh. Lớn lên, ông được cử chỉ huy quân Điện tiền, thăng dần lên chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, Lý Công Uẩn là người vừa có học, có đức lại biết xử sự đúng nên rất được triều thần nhà Tiền Lê quý trọng.

Lý Công Uẩn lên ngôi, xuống lệnh đại xá cho thiên hạ, quyết định lấy năm 1010 làm năm Thuận Thiên thứ nhất. Nhà Lý thành lập, một giai đoạn mới trong lịch sử bắt đầu.

* Thế phả nhà Tiền Lê:

1. Lê Đại Hành (980 - 1005)

Niên hiệu:

- Thiên Phúc (980 - 988)
- Hưng Thống (989 - 993)
- Ứng Thiên (994 - 1005)

Lê Hoàn sinh nǎm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá trong một gia đình nghèo khổ  "bố dỡ đó, mẹ xó chùa". Cha họ Lê, mẹ là Đặng Thị Sen đều lần lượt qua đời khi Lê Hoàn còn nhỏ tuổi. Bởi vậy, cũng ngay từ bé, Lê Hoàn phải làm con nuôi cho một vị quan nhỏ, người cùng họ. Lớn lên, Lê Hoàn đi theo Nam Việt vương Đinh Liễn. Trong công cuộc đánh dẹp các sứ quân, Lê Hoàn tỏ rõ là người có tài nên được Đinh Bộ Lĩnh giao cho trông coi 2000 binh sĩ. Đến khi dẹp yên các sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh, Lê Hoàn được phong chức Thập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ của triều đình Hoa Lư. Lúc này Lê Hoàn vừa tròn 30 tuổi.

Tháng 10 nǎm Kỷ Mão (979), cha con Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết hại, Đinh Toàn 6 tuổi lên ngôi vua, Lê Hoàn làm nhiếp chính, trong một tình thế đầy khó khǎn. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp nổi loạn nhưng đã bị Lê Hoàn dẹp tan.

Tháng 7 nǎm Canh Thìn (980) đại quân Tống theo đường thủy bộ xâm lược Đại Cồ Việt. Lê Hoàn lúc này đã lên ngôi hoàng đế tức Lê Đại Hành, vừa triển khai lực lượng sẵn sàng chiến đấu vừa sai sứ đưa thư cầu hoà. Vua Tống đòi Dương Vân Nga và con là Đinh Toàn sang chầu. Tình thế bức bách, Lê Hoàn buộc phải cho quân đánh giặc quyết bảo vệ đất nước. Ông đã tái tạo một Bạch Đằng, sáng tạo một Chi Lǎng, thắng lớn trên cả hai mặt trận thuỷ bộ, giết tướng giặc Hầu Nhân Bảo, diệt quá nửa quân Tống, buộc vua Tống phải xuống chiếu lui quân.

Đại thắng nǎm Tân Tỵ (981) đã mở đầu kỷ nguyên Đại Việt bách thắng bọn phong kiến phương Bắc.

Không chậm trễ, Lê Hoàn dốc sức chǎm lo xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên trong, Lê Hoàn chống cát cứ, xây dựng cơ sở của nền kinh tế. Đối với bên ngoài ông thi hành chính sách ngoại giao mềm dẻo khôn khéo nhưng kiên quyết bảo vệ nền độc lập của đất nước. Ông là một vị vua nội trị, ngoại giao đều xuất sắc.

Nǎm Ất Tỵ (1005) vua Lê Hoàn mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 nǎm. Theo thông lệ, khi vua mất chưa đặt tên thuỵ thì gọi là Đại Hành. Trường hợp vua Lê Hoàn lấy Đại Hành làm thuỵ hiệu là vì Lê Ngoạ Triều và triều thần không đặt tên thuỵ cho ông.

2. Lê Trung Tông (1005)

Vua Lê Đại Hành có 4 hoàng tử là Long Du, Ngân Tích, Trung Tông Long Việt và Lê Long Đĩnh (Ngoạ Triệu). Vua Đại Hành đã định cho người con thứ ba là Long Việt làm Thái tử. Nhưng đến lúc vua mất, các hoàng tử tranh nhau ngôi, đánh nhau trong 7 tháng. Đến khi Long Việt vừa lên ngôi được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người vào cung giết chết, thọ 23 tuổi. Sử gọi là Lê Trung Tông.

3. Lê Long Đĩnh (1005 - 1009)

Niên hiệu: Ứng Thiên (1006 - 1007); Cảnh Thuỵ (1008 - 1009)

Long Đĩnh là người bạo ngược, tàn ác như Kiệt, Trụ ở bên Tàu. Khi đã giết anh, chiếm được ngôi vua, Long Đĩnh càng tàn bạo. Vua hay lấy việc giết làm trò chơi. Có những tội nhân phải tội hình, vua cho lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt cho chế. Có trường hợp vua cho tù trèo lên cây cao rồi sai người chặt gốc cây đổ. Vua còn bỏ ngưòi vào sọt rồi đem thả xuống sông. Vua thích chí ngồi xem đao phủ thực hiện mệnh lệnh ác độc của mình. Có lần vua lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ, thỉnh thoảng vờ nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu, trông thấy thế vua thích thú vui cười. Vào các buổi chầu, vua cho tên hề nói khôi hài, hay nhại lại lời tâu bầy của các đại thần để gây cười. Vì sống dâm dục quá độ, vua mắc bệnh không ngồi được. Bởi vậy đến buổi chầu, vua cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngoạ Triều.

Long Đĩnh làm vua được 2 nǎm đổi niên hiệu là Cảnh Thuỵ. Nǎm sau (1009) thì mất, làm vua được 4 nǎm, thọ 24 tuổi.

Long Đĩnh mất, con tên là Sạ còn bé, đình thần nhân dịp tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, khởi dựng sự nghiệp triều Lý hiển hách. Triều Lý và các triều đại tiếp theo sẽ được giới thiệu ở phần - Các triều đại Việt nam từ thế kỷ 11 đến thời kỳ thuộc Pháp.

4. Dương Vân Nga


Thái hậu Dương Vân Nga

Thái hậu Dương Vân Nga (? - 1000)

Dương Vân Nga, sử cũ chép là Dương Hậu (Hoàng hậu họ Dương) Theo truyền ngôn, thân phụ bà là Dương Thế Hiển, quê ở thôn Nga My, xã Gia Thuỷ (huyện Nho Quan) quê mẹ ở thôn Vân Lung, xã Gia Vân (huyện Gia Viễn) tỉnh Ninh Bình, sinh thời, cha mẹ chỉ gọi bà là Dương Nương (cô gái họ Dương), sau khi vào cung Hoa Lư, được gọi ghép tên làng cha với tên làng mẹ thành Vân - Nga. Nhân dân địa phương gọi là Dương Vân Nga.

Năm Giáp Tuất (974), Dương Vân Nga sinh hoàng tử thứ Đinh Toàn. Lên 5 tuổi, Đinh Toàn được vua cha phong là Vệ Vương. Đêm rằm Trung Thu năm 979, Đại Thắng Minh hoàng đế và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị nội nhân Đỗ Thích giết hại. Triều thần tôn Vệ Vương Đinh Toàn lên ngôi Hoàng đế, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái Hậu. Đinh Toàn lúc này mới lên 6 tuổi. Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn được Dương Thái Hậu chọn làm nhiếp chính, sau lại tự xưng là Phó Vương. Định Quốc Công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền và Tướng quân Phạm Hạp ngờ Lê Hoàn chiếm ngôi nhà Đinh. Mới cùng nhau hội binh, chia hai đường thuỷ bộ từ Ái Châu (Thanh Hoá) kéo về Hoa Lư hỏi tội Lê Hoàn, Dương Thái Hậu thấy vậy, lo ngại bảo Lê Hoàn rằng: "Bọn Bặc dấy quân khởi loạn, làm kinh động nước nhà, vua còn nhỏ yếu, không đương nổi hoạn nạn, bọn ông mưu tính thế nào, chớ để sinh tai hoạ về sau". Lê Hoàn mới chỉnh đốn binh mã, đánh bại Nguyễn Bặc, Đinh Điền. Biết kinh thành Hoa Lư có biến, phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn hơn một nghìn chiến thuyền quân Chiêm Thành tiến đánh nước ta. Ở biên giới phía Bắc, giặc Tống lợi dụng tình hình Đại Cồ Việt rối ren, đang chuẩn bị cất binh xâm lược nước ta.

Thái hậu Dương Vân Nga sai Lê Hoàn chọn tướng sĩ để chống cự, lại cử Phạm Cự Lượng làm Đại tướng tiên Phong. Khi đang chuẩn bị cất binh, Phạm Cự Lượng cùng các tướng mặc đồ nhung phục, đi thẳng vào triều đường, bảo mọi người rằng: "Thưởng người có công, giết kẻ không theo mệnh lệnh, là kỷ luật hành quân. Nay Chúa Thượng trẻ thơ, chúng ta dù hết sức liều chết chống kẻ địch bên ngoài, may lập được chút công thì ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn Thập đạo Tướng quân làm Thiên tử, rồi sau sẽ đem quân đi đánh thì hơn!" Quân sĩ nghe nói thế đều hô "vạn tuế" Thái hậu nghe nói vậy sai hữu Ty đem đủ nghi trượng rước Hoàn vào cung, lấy áo rồng khoác lên mình Hoàn, khuyên Hoàn lên ngôi Hoàng đế.

Hành động này của Dương Thái Hậu bị các đại thần trung thành với nhà Đinh chống lại quyết liệt. Các nhà nho phong kiến và dư luận, kể cả sau này hết sức chỉ trích. Song, trong tình thế đất nước lúc đó hết sức cấp bách bởi nguy cơ xâm lược của nhà Tống đã hiện ra trước mắt, Dương Thái Hậu đã có cái nhìn vô cùng sáng suốt, đặt lợi ích dân tộc và quốc gia lên trên lợi ích dòng tộc, chọn Lê Hoàn là một thống soái quân đội, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, có khả năng tập hợp và tài năng chỉ huy quân dân ta lúc đó đương đầu với quân xâm lược, loại bỏ được nguy cơ mất nước.

Năm 981, cuộc kháng chiến chống quân Tống thắng lợi, Dương Vân Nga đón Lê Hoàn chiến thắng trở về ở Bến Ngự (sông Van Sàng, nay thuộc thành phố Ninh Bình).

Năm Nhâm Ngọ (982), Lê Đại Hành lập Dương Vân Nga là Đại Thắng Minh hoàng hậu, là một trong năm hoàng hậu của vua Lê. Năm Canh Tý (1000), Hoàng hậu Dương Vân Nga qua đời.

Hiện nay, đền thờ Lê Hoàn ở Trường Yên (Hoa Lư), đền vua Đinh, vua Lê ở Trung Trữ (Ninh Giang, Hoa Lư) và đền làng Bách Cốc (xã Thành Lợi, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) đều có tượng Dương Vân Nga. Tượng bà ở đền Lê Đại Hành (Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình) gọi là Bảo Quang Hoàng Thái Hậu.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 3-1-2012 09:59 PM
Nhà Lý (1009 - 1225)

Triều Lý (1009 - 1225)

* Định đô Thăng Long

Lý Công Uẩn người châu Cổ Pháp (huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh), mẹ họ Phạm, thuở nhỏ theo học ở chùa Lục Tổ, làm con nuôi cho nhà sư Lý Khánh Văn; lớn lên chuyển qua nghề võ, sau giữ đến chức Điện tiền chỉ huy sứ. Chỉ huy cấm quân ở kinh đô Hoa Lư, có uy tín trong triều đình.

Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra nhà Lý. Năm 1010, ông đặt niên hiệu Thuận Thiên. Quyết định quan trọng đầu tiên của ông là dời kinh đô từ vùng núi Hoa Lư chật hẹp về Thăng Long (tên gọi mới của thành Tống Bình - Đại La thời Bắc thuộc) ở vùng đồng bằng thoáng rộng, địa thế thuận lợi, giữ vị trí trung tâm chính trị - kinh tế. Nhân dịp này, nhà vua soạn Chiếu dời đô trong đó có đoạn viết :"Thăng Long được cái thế rồng cuộn hổ ngồi... tiện hướng nhìn sông tựa núi. Địa thê rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng... Xem khắp đất Việt ta chỉ thấy nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời."

Việc dời đô về Thăng Long của Lý Công Uẩn đã chứng tỏ mọt tầm nhìn chiến lược sâu rộng của ông trong việc xây dựng một sự nghiệp lâu dài, phản ánh thế đi lên của vương triều và đất nước (với biểu tượng Rồng bay).

Dưới thời Lý, kinh thành Thăng Long đã được xây dựng và phát triển trở thành một đô thị phồn thịnh và tiêu biểu của Đại Việt, gồm 2 khu vực chính trị quan liêu (đô) và kinh tế dân gian (thị).

Thành Thăng Long đời Lý có vòng lũy đất La Thành bao bọc, nương vào thế tự nhiên (hệ thống sông Tô Lịch). Thành mở ra 4 cửa: Tường Phù (Đông), Quảng Phúc (Tây), Đại Hưng (Nam) và Diệu Đức (Bắc), có hào bao quanh. Bên trong có hệ thống cung điện như các điện Càn Nguyên, Tập Hiền, Giảng Võ, Long Trì (có đặt lầu chuông ở thềm điện này, để xét xử các nỗi oan ức của dân), cùng các cung Thuý Hoa, Long Thuỵ... Một số hoàng tử có cung điện ở ngoài hoàng thành. Sát với hoàng thành về phía đông, là khu chợ phố dân gian, gồm 61 phường, quang cảnh nhộn nhịp ngày đêm, với hệ thống sông kênh (Nhị Hà - Tô Lịch) giao thương thuận tiện.

* Xây dụng bộ máy chính quyền quân chủ tập trung

Để khẳng định vương quyền và đề cao lòng tự tôn dân tộc (tinh thần Vô tốn Hoa hạ), các vua Lý đã tiến hành xây dựng một bộ máy chính quyền tập trung theo đúng như mô hình nhà Tống bên Trung Quốc. Tuy nhiên, đó mới chỉ là trên danh nghĩa, còn trên thực tế, chức năng của nó đơn giản hơn nhiều.

Trong triều, các vua Lý tự xưng là Thiên tử, lập các ngôi Hoàng hậu và Thái tử, phong tước cho các quý tộc, định hội thề Đồng Cổ hàng năm ở kinh đô để bảo đảm lòng trung thành. Triều đình đặt hệ thống quan chức theo 9 phẩm, lúc đầu lựa chọn chủ yếu bằng hình thức nhiệm tử (con cháu được tập ấm) và tuyển cử (giới thiệu, bảo lãnh). Đứng đầu có các chức kinh hàm Tam thái và Tam thiếu (sư, phó, bảo). Chức Thái uý có vai trò như Tể tướng (Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành đã giữ chức này), Thiếu uý coi Cấm binh. Giúp việc Tể tướng có các chức Hành khiển.

Ở cấp địa phương, nhà Lý chia nước thành 24 lộ - phủ, đặt các chức tri phủ, tri châu. Dưới phủ là huyện và hương. Khi đi xa, vua Lý thường chọn một hoàng tử, thân vương ở lại trấn giữ, trông nom kinh thành, gọi là Lưu thủ kinh sư.

Chính quyền nhà nước thời Lý là một chính quyền sùng Phật và thân dân. Nhiều nhà vua và quý tộc đã theo đạo Phật, đề cao tư tưởng từ bi, bác ái. Trong triều, có hệ thống tăng quan, một số được phong là Quốc sư. Vua quan có những mối quan hệ gần gũi với dân chúng, thường tiếp cận dân thường trong các dịp lễ hội. Khi khẩn thiết, người dân có mối oan ức có thể trực tiếp đến thềm điện Long Trì đánh chuông, xin được trực tiếp gặp vua. Lý Thánh Tông tuyên bố "yêu dân như yêu con", thường thi hành chính sách khoan dung khi xử kiện.

* Quân đội và luật pháp

Nhà Lý có nhiều loại quân. Ở kinh thành có Cấm quân (Thiên tử quân) bảo vệ triều đình. Ở địa phương có lộ quân hay sương quân, lấy từ các hoàng nam (đinh nam ở làng xã từ 18 tuổi trở lên) ở các lộ phủ. Trong làng xã còn có dân binh, hương binh.

Quân đội nhà Lý có quân bộ và quân thủy, kỷ luật nghiêm minh, huấn luyện chu đáo. Khu Giảng Võ phía tây kinh thành Thăng Long là nơi giảng dạy luyện tập cho các tướng sĩ và binh lính. Từ thời Lý, đã thi hành chính sách "ngụ binh ư nông", cho quân sỹ luân phiên về cày ruộng theo tinh thần "tĩnh vi nông, động vi binh". Chính sách đó vừa đảm bảo sản xuất, vừa đảm bảo động viên quân đội khi cần thiết.

Nhà Lý là vương triều Việt Nam đầu tiên ban hành luật thành văn. Năm 1042, Lý Thái Tông sai quan san định luật lệ, biên thành điều khoản, soạn ra Hình thư gồm 3 quyển (sau đó đã thất truyền), xuống chiếu ban hành trong dân gian. Qua các pháp lệnh, ta được biết pháp luật nhà Lý đã mang tính chất đẳng cấp phong kiến, bảo vệ hoàng cung, trừng trị nặng tội mưu phản, cho tầng lớp quý tộc được chuộc tội bằng tiền. Mặt khác, pháp luật đời Lý cũng bảo vệ trật tự xã hội, chống hà lạm thuế má, giải quyết các vấn đề tranh chấp, cầm chuộc, múa bán ruộng đất, đảm bảo sức kéo bằng cách trừng phạt nặng tội trộm trâu, giết trâu.

Ở các làng xã, hình thức luật tục (tập quán pháp) vẫn duy trì và được mọi người tuân theo.

* Xác lập chủ quyền quốc gia dân tộc

Có thể nói rằng đến thời Lý, Việt Nam đã là một quốc gia dân tộc, dựa trên một ý thức cộng đồng chung về nguồn gốc, dòng giống, lịch sử và văn hóa. Năm 1054, vua Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt - quốc hiệu này sẽ tồn tại mãi cho đến đầu thế kỷ XIX. Năm 1175, Nhà Tống chính thức công nhận chủ quyền quốc gia của Đại Việt khi đổi danh hiệu sắc phong từ Giao Chỉ quận vương thành An Nam quốc vương.

Quốc gia Đại Việt đã được bảo vệ củng cố qua cuộc kháng chiến chống Tống (1075 - 1077) và mở rộng lãnh thổ về phía nam qua cuộc chiến tranh với Champa (1069), sát nhập các châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (vùng Quảng Bình và Bắc Quảng Trị ngày nay). Các vua Lý đã thực hiện chính sách kimi, đưa nhiều công chúa gả cho các thổ tù miền núi để vừa ràng buộc họ vừa tạo sự ủng hộ hậu thuẫn (sự ủng hộ của các tù trưởng dân tộc ít người đối với triều đình Lý đã thể hiện rõ rệt trong việc phối hợp chiến đấu chống lại quân Tống).

Ý thức quốc gia dân tộc ở mặt lãnh thổ - vương triều đã bộc lộ ra trong bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt. Ý thức tìm về cội nguồn dân tộc cũng bước đầu biểu hiện qua các truyền thuyết lịch sử - văn hóa trong tác phẩm Việt Điện y linh của Lý Tế Xuyên.

* Ruộng đất và nông nghiệp

Dưới vương triều quân chủ tập trung nhà Lý, trên danh nghĩa, toàn bộ đất đai thuộc về nhà vua. Trên thực tế, triều đình trực tiếp quản lý một bộ phận ruộng đất, nhà vua ban cấp đất cho một số quý tộc quan lại, đại bộ phận còn lại là ruộng đất các làng xã.

Trong bộ phận ruộng đất do Nhà nước trực tiếp quản lý, tịch điền (có từ thời Tiền Lê) là ruộng do các quan lại triều đình trực tiếp canh tác, bản thân vua Lý hàng năm cũng xuống ruộng cày 3 đường, để "lấy xôi cúng và cho thiên hạ noi theo". Tịch điền thời Lý có ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình), Ứng Phong (Nam Định) và Lý Nhân (Hà Nam). Ngoài tịch điền, các vua Lý còn có ruộng sơn lăng ở quê hương thuộc châu Cổ Pháp (Đình Bảng, Bắc Ninh) để dùng vào việc thờ cúng tổ tiên.

Ruộng quốc khố và đồn điền là những ruộng do Nhà nước huy động các tù khổ sai, nô tì (gọi là cao điền nhi, cảo điền hoành) và các tù binh (chủ yếu là tù binh Chăm) cày cấy, hoa lợi sung vào kho Nhà nước. Đồn điền nhà Lý có ở Cảo Xã, phía bắc kinh thành Thăng Long (nay là vùng Xuân Đỉnh, Nhật Tân).

Các vua Lý đã phong cấp, ban thưởng nhiều loại ruộng đất cho tầng lớp quý tộc quan liêu. Ruộng thác đao lần đầu tiên ban cho Lê Phụng Hiểu ở Băng Sơn (Thanh Hoá), để thưởng công cho ông trong việc theo vua đi đánh Champa. Các quan lại cao cấp đời Lý còn được các loại thực ấp (trên danh nghĩa có kèm theo các hộ nông dân) và thật phong (được quyền hưởng tô thuế của nông dân trên diện tích đó). Lý Bất Nhiễm tước Hầu được ban thực ấp 7500 hộ và thật phong 1500 hộ, Lý Thường Kiệt tước Công, được ban thực ấp 10000 hộ và thật phong 4000 hộ. Tô Hiến Thành, Lưu Khánh Đàm cũng được ban cấp các loại ruộng đó.

Các loại ruộng vua Lý ban cấp cho quý tộc quan liêu không phải là ruộng tư, họ chỉ có quyền sử dụng, hưởng hoa lợi mà không có quyền sở hữu. Khi họ chết hoặc bị tội, triều đình có thể lấy lại số ruộng đó, hoàn toàn không giống như các thái ấp lãnh địa của các lãnh chúa phong kiến ở Tây Âu thời trung đại.

Một loại ruộng khá quan trọng thời Lý là ruộng nhà chùa. Nhà sư Từ Đạo Hạnh ở chùa Phật Tích cũng như vị sư trụ trì chùa Báo Ân (Vĩnh Phúc) đã có đến trên dưới trăm mẫu ruộng chùa.

Trong các làng xã, có ruộng công và ruộng tư. Người cày ruộng công phải nộp tô cho Nhà nước. Sử cũ ghi lại trong những năm 1135, 1143 và 1145, nhà vua đã xuống chiếu nói về việc giải quyết các tranh chấp trong mua bán ruộng đất.

Triều đình Lý đã thi hành nhiều chính sách trọng nông, khuyến nông. Vua cày ruộng "tịch điền", thăm gặt hái, thi hành chính sách ngụ binh ư nông, cấm trộm trâu giết trâu để bảo vệ sức kéo: Nhà nước cũng cho đắp đê Cơ Xá ở đoạn sông Nhị Hà chảy qua kinh thành Thăng Long (1108), khơi vét sông Tô Lịch. Sản xuất nông nghiệp được ổn định và phát triển, nhiều năm mùa màng bội thu.

* Thủ công nghiệp và thương nghiệp

Thời Lý, có hai bộ phận thủ công nghiệp Nhà nước và thủ công nghiệp dân gian. Năm 1040, vua Lý "đã dạy cung nữ dệt được gấm vóc" dùng thay cho gấm Tống. Triều đình đã trưng tập các thợ khéo về làm trong các quan xưởng, gọi là thợ bách tác, sản xuất phục vụ riêng nhu cầu Nhà nước như đúc tiền, chế tạo vũ khí, làm các phẩm phục triều nghi, họ không được tự tiện bán hàng hóa trong dân gian. Triều đình còn đứng ra phát tiền nguyên vật liệu, thuê thợ trong các việc tô tượng, đúc chuông, xây dựng nhiều chùa chiền.

Thợ thủ công dân gian sản xuất và buôn bán trong các phường phố ở kinh thành và các làng xã thôn quê. Họ thường là những người nông dân kiêm thợ thủ công, thợ thủ công kiêm thương nhân.

Dệt là nghề thủ công truyền thống phổ biến. Ở kinh thành, nghề dệt có ở các phường Nhược Công (Thành Công, với sự tích nàng La), thôn Nghi Tàm (sự tích công chúa Từ Hoa), thôn Trích Sài (sự tích nàng Phan Thị Ngọc Đô). Nghề đúc đồng nổi tiếng với những tác phẩm lớn mang tính chất Phật giáo (An Nam tứ khí), tương truyền có vị tổ nghề được tôn vinh là nhà sư Nguyễn Minh Không. Gốm là ngành nghề thủ công rất phổ biến, với nhiều loại hạng như đất nung, đàn, sành, sứ, có loại men ngọc nổi tiếng màu xanh nhạt mát và bóng. Ngày nay, khảo cổ học đã phát hiện rất nhiều hiện vật gốm của kinh thành Thăng Long thời Lý. Do xây dựng nhiều chùa chiền, các nghề mộc, nề, khắc chạm, sơn thếp cũng được đẩy mạnh.

Nội thương và ngoại thương thời Lý khá phát triển. Nhà nước chưa có những chính sách "ức thương", "bế quan toả cảng" ngặt nghèo, thái độ khá thoáng mở với nền kinh tế hàng hoá. Các vua Lý đều cho đúc tiền đồng để lưu thông rộng rãi, có dùng thêm cả tiền đồng Trung Quốc thời Đường - Tống.

Mạng lưới chợ có mặt ở cả làng xã và phố phường. Ở kinh thành Thăng Long, có các chợ nổi tiếng như chợ Hoàng Hoa (phố Ngọc Hà), chợ Bạch Mã (phố Hàng Buồm ngày nay) bên bờ sông Tô Lịch. Các địa phương trong nước, kể cả các vùng biên giới, cũng có trao đổi hàng hóa với nhau.

Ngoại thương thời Lý khá phồn thịnh và tự do. Đại Việt buôn bán với Champa, mua đặc sản trầm hương. Các chợ biên giới Việt - Trung nhộn nhịp qua các "bạc dịch trường" Hoành Sơn và Vĩnh Bình. Đặc biệt, buôn bán đường biển với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á (ngay nay là Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia) rất tấp nập ở đảo Vân Đồn (vùng đảo Vân Hải ngoài vịnh Bắc Bộ, lúc đó gọi là trang Vân Đồn) và vùng bờ biển Diễn Châu (Nghệ An).

* Nhà Lý suy vong

Khoảng từ giữa thế kỷ XII, triều chính nhà Lý bắt đầu suy đồi. Các nhà vua khi lên ngôi còn quá non trẻ, lớn lên lại hay ham chơi. Cao Tông mải mê xây cung điện, nghe đàn hát, cả ngày cùng cung nữ dạo chơi. Huệ Tông nhu nhược, không có con trai, lại mắc bệnh cuồng.

Trong triều, các gian thần, nịnh thần như Đỗ Anh Vũ, Đỗ An Di, lộng hành nhiễu loạn.

Ngoài xã hội, nhiều năm mất mùa đói kém, loạn lạc nổi dậy khắp nơi. Thân Lợi nổi lên ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng (1140 - 1141), có lần kéo về tiến đánh kinh thành. Nhân dân Đại Hoàng (Ninh Bình 1198 - 1225) bị bắt đi phu xây thành, do Phí Lãng cầm đầu, đánh chiếm nhiều làng mạc, hành cung. Những cuộc nổi dậy này biểu hiện sự trỗi dậy của những yếu tố cát cứ, làm suy yếu chính quyền trung ương.

Đầu thế kỷ XIII, lại xảy ra nạn hỗn chiến giữa các phe phái phong kiến. Các hào trưởng địa phương, các tướng lĩnh triều đình đem quân đánh lẫn nhau, uy hiếp triều đình Lý trong một tình hình hết sức rối ren, phức tạp. Thái tử Sảm con vua Cao Tông phải rời bỏ kinh thành, chạy về vùng biển Thái Bình nương náu và lấy con gái của một hào trưởng họ Trần.

Năm 1210, Thái tử Sảm trở về kinh đô, lên nối ngôi sau khi vua cha chết, tức Huệ Tông. Chính quyền trung ương ngày càng suy yếu, cả nước hình thành 3 thế lực cát cứ lớn: Đoàn Thượng (Hải Dương, Hải Phòng), Nguyễn Nộn (Sơn Tây) và Trần Tự Khánh (anh vợ Huệ Tông, vùng Thái Bình, Nam Định là thế lực mạnh hơn cả).

Trần Tự Khánh đem quân về chiếm được Thăng Long, vừa phò tá vừa hiếp đáp vua Lý. Anh em con cháu họ Trần lần lượt nắm giữ các chức vụ quan trọng trong triều. Trần Tự Khánh chết, quyền hành tập trung trong tay Trần Thủ Độ là người nhiều mưu lược, giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ. Năm 1225, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới lên 7 tuổi. Trần Thủ Độ bố trí cho cháu mình là Trần Cảnh (8 tuổi) vào cung vui chơi cùng Lý Chiêu Hoàng. Đầu năm 1226, Trần Thủ Độ đạo diễn một cuộc đảo chính cung đình, tuyên bố Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh và nhường ngôi cho chồng. Nhà Lý đổ, nhà Trần lập.

* Thế phả nhà Lý:

1. Lý Thái Tổ (974 - 1028). Niên hiệu: Thuận Thiên (1010 - 1028)
2. Lý Thái Tông (1000 - 1054). Niên hiệu: Thiên Thành (1028 - 1033); Thống Thuỵ (1034 - 1038); Càn Phù Hữu Đạo (1039 - 1041); Minh Đạo (1042 - 1043); Thiên Cảm Thánh Võ (1044 - 1048); Sừng Hưng Đại Bảo (1049 - 1054).
3. Lý Thánh Tông (1023 - 1072). Niên hiệu: Long Thuỵ Thái Bình (1054 - 1058); Chương Thánh Gia (1059 - 1065); Long Chương Thiên Tự (1066 - 1067); Thiên Huống Bảo Tượng (1068); Thần Võ (1069 - 1072).
4. Lý Nhân Tông (1066 - 1127). Niên hiệu: Thái Ninh (1072 - 1075); Anh Võ Chiêu Thắng (1076 - 1084); Quãng Hữu (1085 - 1091); Hội Phong (1092 - 1100); Long Phù Nguyên Hoá (1101 - 1109); Hội Tường Đại Khánh (1110 - 1119); Thiên Phù Duệ Võ (1120 - 1126); Thiên Phù Khánh Thọ (1126 - 1127).
5. Lý Thần Tông (1116 - 1138). Niên hiệu: Thiên Thuận (1128 - 1132); Thiên Chương Bảo Tự (1133 - 1138).
6. Lý Anh Tông (1136 - 1175). Niên hiệu: Thiệu Minh (1138 - 1139); Đại Định (1140 - 1162); Chính Long Bảo Ứng (1163 - 1173); Thiên Cảm Chí Bảo (1174 - 1175).
7. Lý Cao Tông (1173 - 1210). Niên hiệu: Trinh Phù (1176 - 1185); Thiên Tư Gia Thuỵ (1186 - 1201); Thiên Gia Bảo Hựu (1202 - 1204); Trị Bình Long Ứng (1205 - 1210).
8. Lý Huệ Tông (thái tử Sâm) (1194 - 1226). Niên hiệu: Kiến Gia (1210 - 1224).
9. Lý Chiêu Hoàng (1218 - 1278). Niên hiệu: Thiên Chương Hữu Đạo (1124 - 1125).
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 4-1-2012 06:27 PM
Nhà Trần (1226 - 1400)



Bài vị của 14 vị Tiên Đế nhà Trần

Vương triều Trần tồn tại được 174 năm, gồm 12 đời vua (không kể Dương Nhật Lễ ở ngôi năm 1369).

Họ Trần quê gốc ở hương Tức Mặc (ngoại thành Nam Định), từ nhiều đời sang làm nghề chài lưới ở huyện Long Hưng (Thái Bình), trở thành những hào trưởng có thế lực về kinh tế, quân sự và chính trị. Xuất thân từ tầng lớp bình dân quen nghề sông nước, họ Trần có truyền thống ưa thực dụng phóng khoáng, ít bị những lễ nghĩa Nho giáo khắt khe ràng buộc. Dưới thời Trần, văn hóa Đại Việt đã tạo được thế cân bằng Nam Á - Đông Á, trong đó vẫn nghiêng về gam màu Nam Á bản địa, đậm tố chất dân tộc.

* Nền quân chủ quý tộc dòng họ:

Trong việc gây dựng vương triều Trần, người kiến trúc sự nổi bật của dòng họ này là Trần Thủ Độ. Ông là con người của hành động, thực dụng, có tính quyết đoán, ưa chuộng võ nghệ, ít bị ảnh hưởng của Nho giáo. Một mặt, Trần Thủ Độ là người có nhiều khả năng, thủ đoạn, thậm chí không ngần ngại thực hiện những âm mưu tàn bạo (trong việc bức tử Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo, dùng mưu tiêu diệt dòng họ Lý, buộc những người họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn...). Mặt khác, ông là người công minh tận tuỵ, phò vua giúp nước, không vì tình riêng (đối với những người thân như vợ, anh ruột) mà quên mất phép công. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên, Trần Thủ Độ cũng là vị tướng có tinh thần quyết chiến cao với câu nói khảng khái và dũng cảm: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ hạ đừng lo".

Để củng cố vương quyền, nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Trần đã thực hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ. Tầng lớp quý tộc tông thất nắm độc quyền lãnh đạo quốc gia. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình (nhất là về võ quan, như các tướng lĩnh trong cuộc kháng chiến chống Nguyên) đều do các người họ hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Để đề phòng nạn ngoại thích, nhà Trần đã thực hiện chế độ hôn nhân đồng tộc. Nhiều nhà vua và vương hầu tôn thất nhà Trần đã lấy người trong họ hàng, đôi khi khá gần gũi (như Trần Thái Tông lấy chị dâu, Trần Thủ Độ lấy chị họ, Trần Quốc Tuấn lấy em họ). Mặt khác, các vua Trần cũng hết lòng thương yêu đùm bọc các vương hầu tôn thất, "xong buổi chầu cùng nhau ăn uống, có khi trời tối không về thì đặt gối dài chăn rộng cùng ngủ liền giường với nhau". Trần Thánh Tông thường căn dặn: "Thiên hạ này là thiên hạ của tổ tông, người nối giữ cơ nghiệp tổ tông nên cùng anh em trong tông thất chung hưởng phú quý... Anh em là xương thịt rất thân, gặp lúc lo thì cùng lo, gặp lúc vui thì cũng vui...".

Để bảo đảm tính thận trọng và sự an toàn trong việc kế thừa ngôi vua, cũng như để cho các nhà vua trẻ có thời gian tập dượt điều hành việc nước, nhà Trần đã thực hiện chế độ Thái Thượng hoàng. Thường là khi trên dưới 40 tuổi, các vua Trần đã nhường ngôi cho con, lên làm Thái Thượng hoàng, tiếp tục nắm quyền chính trị cùng với vua con trong một thời gian nữa, trước khi lui về nghỉ ngơi.

* Tổ chức chính quyền và quan chế:

Về các đơn vị hành chính, năm 1242, nhà Trần đã đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ. Đó là các lộ Thiên Trường (Nam Định), Long Hưng (Thái Bình), Quốc Oai (Hà Tây), Bắc Giang (Bắc Ninh, Bắc Giang), Hải Đông (Quảng Ninh), Trường Yên (Ninh Bình), Kiến Xương (Thái Bình), Hồng (Hải Dương), Khoái (Hưng Yên), Thanh Hóa (Thanh Hoá), Hoàng Giang (Hà Nam), Lạng Giang (Lạng Sơn). Sau đó, còn có các phủ như phủ Thiên Trường (do hương Tức Mặc chuyển thành năm 1262), Tân Bình, Nghệ An. Dưới lộ, phủ có châu, huyện, xã, miền núi còn có sách, động. Năm 1307, nhà Trần đổi 2 châu Ô, Lý thu nạp của Champa thành châu Thuận và châu Hoá.

Về quan chế, ở triều đình trung ương có các chức Tam thái, Tam thiếu (sư, phó, bảo), Tam tư (đồ, mã, không), Tướng quốc phần nhiều là hư hàm, mô phỏng nhà Tống. Các chức quan có trách nhiệm cụ thể trong triều là hành khiển, giúp việc sau có các thượng thư, thị lang. Về ngạch võ, có các chức Phiêu kỵ thượng tướng quân (dành riêng cho hoàng tử), Tiết chế tướng quân. Các chức vụ quan trọng trong triều lúc đầu phần lớn là do các quý tộc tông thất nắm giữ, sau do nhu cầu chuyển dần sang giới quan liêu.

Bên cạnh các chức quan quản lý, đời Trần ngày càng phát triển các chức quan chuyên môn như Bí thư sảnh (phụ trách văn thư, thực lực), Quốc Tử Giám (giáo dục), các chức quan kinh tế như Chuyển vận sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ, các chức quan văn hóa như Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Thái y viện, Thái chúc ty (phụ trách việc cầu đảo, lễ nhạc).

Ở cấp địa phương, có các chức an phủ chánh phó sứ, tri huyện, chuyển vận sứ, tuần sát, lệnh úy, chủ bạ, trông coi các việc hộ và hình ở địa phương. Chức quan cai trị kinh thành Thăng Long được tuyển chọn kỹ lưỡng với tiêu chuẩn cao, chức danh lần lượt được gọi là Bình bạc ty, Đại an phủ sứ rồi Kinh sư đại doãn. Nguyễn Trung Ngạn là Kinh sư đại doãn nổi tiếng thời Trần Anh Tông.

Ở cấp cơ sở, nhà Trần đặt các chức đại, tiểu tư xã... hoặc có người kiêm 2, 3, 4 xã cùng xã chính. Xã sử, xã giám, tất cả gọi là xã quan. Có khả năng đây là một hệ thống chính quyền cơ sở do nhân dân tự đề cử lên, được chính quyền nhà nước duyệt. Tầng lớp bô lão trong các làng xã giữ một vai trò quan trọng, thể hiện trong tinh thần hội nghị Diên Hồng.

Quan lại đời Trần được tuyển dụng qua các phương thức: nhiệm tử (tập ấm), tuyển cử (giới thiệu và bảo lãnh), khoa cử (qua các kỳ thi). Nhà Trần cũng đã định ra lệ khảo duyệt (khảo khóa) các quan theo định kỳ. Vai trò của tầng lớp nho sĩ quan liêu trong bộ máy chính trị thời Trần lúc đầu là khiêm tốn, càng ngày càng gia tăng trong những thời kỳ sau. Tuy nhiên, nhà Trần chưa câu nệ về tiêu chuẩn khoa bảng, mà căn cứ chủ yếu vào thực tài, tinh thần đó đã được người đời sau khen ngợi.

* Tổ chức quân đội:

Quân đội nhà Trần là một quân đội mạnh, thiện chiến, được huấn luyện tốt và được thử thách qua các cuộc kháng chiến.

Có các loại quân: cấm quân bảo vệ kinh thành, quân địa phương các lộ và quân của các quý tộc gọi là vương hầu gia đồng, gia binh. Quân Tứ Sương coi giữ 4 cửa thành, quân Thiên tử bảo vệ nhà vua được coi là tin cậy nhất, tuyển từ các lộ Thiên Trường và Long Hưng là nơi quê hương của nhà Trần. Trong kháng chiến chống Nguyên, Trần Quốc Toản đã đứng ra chỉ huy một đạo gia binh đông hàng nghìn người.

Quân nhà Trần được phiên chế thành quân và đô (mỗi quân 2400 người), đông tới hàng chục vạn. Trong cuộc hội quân của Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (1284), số quân lên tới 20 vạn người. Nhưng trong thời bình, số quân thường trực giảm nhiều qua chính sách "ngụ binh ư nông", cho quân sĩ luân phiên về cày ruộng.

Nhà Trần tuyển quân từ các làng xã, kén chọn các người có sức khỏe. Quân lính được trang bị các loại chiến bào, áo da, sử dụng các loại pháo (tức máy bắn đá) và súng phun lửa gọi là "hỏa khí". Có nhiều loại thuyền chiến các cỡ, loại thuyền phổ biến có 30 mái chèo, có thuyền tới 100 tay chèo (gọi là các trao nhi). Quân nhà Trần rất thiện chiến trên sông nước, nhiều người giỏi tài bơi lặn (điển hình là Yết Kiêu).

Nhà Trần đã cho lập Giảng Võ đường ở phía tây thành Thăng Long để huấn luyện quân sĩ. Bến Đông Bộ Đầu bên sông Hồng là nơi hội quân trong những buổi diễn tập lớn. Các binh thư dùng làm tài liệu huấn luyện tướng sĩ có các cuốn Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư của Trần Quốc Tuấn. Ông đã từng chủ trương: "Quân lính cần tinh nhuệ, không cần nhiều". Tinh thần quyết tâm diệt giặc đã được thể hiện trong dòng chữ "Sát Thát" xăm lên cánh tay của các tướng sĩ trong cuộc kháng chiến chống Nguyên.

* Luật pháp:

Cũng giống như nhà Lý, dưới thời Trần, đã tồn tại song song hai hình thức pháp luật: luật thành văn do Nhà nước ban hành và luật tục trong các làng xã. Theo tinh thần "vương độ khoan mãnh" (đức độ nhà vua vừa khoan dung vừa nghiêm khắc), luật pháp nhà Trần vừa hàm chứa những quan điểm thân dân vừa tỏ ra hà khắc đối với một số trọng tội.

Năm 1230, Thái Tông đã cho xét các luật lệ đời nước, sửa đổi san định thể lệ cho làm ra sách Quốc triều Thông chế gồm 20 quyển. Năm 1341, triều đình đã cử Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và khảo đính bộ Hình thư để ban hành.

Cơ quan chuyên trách việc kiện tụng lúc đầu là Đô Vệ phủ, sau đổi thành Tam Ty viện. Thẩm hình viện phối hợp tham gia các vụ xét xử, nắm giữ chức năng kiểm sát. Các ngạch quan xử án gọi là kiểm pháp quan, được lựa chọn trong số những quan chức có uy tín về đức độ, công minh và thanh liêm. Trên danh nghĩa, nhà vua là người có quyền quyết định tối hậu trong việc xét duyệt các vụ trọng án.

Pháp luật đời Trần bảo vệ nghiêm ngặt chính thể quân chủ và chế độ đẳng cấp. Tội mưu phản triều đình bị xếp vào hàng đại nghịch và bị trừng trị rất nặng "phải giết hết thân tộc". Đẳng cấp quý tộc quan liêu được pháp luật ưu đãi, có quyền dùng tiền chuộc tội. Gia nô và nô tì không được quyền tố cáo chủ. Luật pháp cũng quy định tỉ mỉ sự phân biệt về quy chế mũ áo và đồ dùng giữa quan liêu quý tộc và bình dân, cũng như giữa các phẩm vật trong đẳng cáp quan liêu. Trong gia đình, cấm cha con, vợ chồng và gia nô không được kiện cáo nhau.

Pháp luật đời Trần cũng đã bảo vệ quyền tư hữu tài sản của người dân. Có những điều lệnh quy định về cách thức cầm cố, mua bán ruộng đất, làm văn tự, viết chúc thư, người làm chứng. Tội trộm cắp bị trừng trị rất nặng, thích chữ vào mặt, chặt ngón chân, lần thứ ba sẽ bị giết. Những đồ vật lấy trộm một phần sẽ phải đền 9 phần, nếu không đền được bắt vợ con sung làm nô tì.

Trong các làng xã, dân chúng vẫn tuân theo các phong tục cổ truyền, các bô lão giữ vai trò đàn xếp và xét xử. Sứ giả Trung Quốc Trần Phu (Trần Cương Trung) đến Đại Việt thời Trần, có nhận xét là lúc này "tục dân vẫn còn nông nổi, chưa biết đến lễ nhạc Trung Hoa".

* Chính sách kinh tế của Nhà nước phong kiến thời Trần:

Nhà nước thời Trần đã thi hành chính sách trọng nông, khuyến khích nông nghiệp. Cùng với chính sách "ngụ binh ư nông" kết hợp kinh tế với quốc phòng, triều đình đã lập ra Ty Khuyến nông, đặt các chức quan Hà đê chánh phó sứ. Năm 1248, cho đắp đê dọc theo Nhị Hà từ đầu nguồn đến bờ biển, đoạn chảy qua kinh thành Thăng Long gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai Vạc). Hàng năm, mọi người đều có nghĩa vụ lao động tu sửa đê, học sinh Quốc Tử Giám cũng không được miễn trừ. Các vua Trần cũng thường xuyên đi thăm việc đắp đê, sửa đê. Hành khiển Trần Khắc Chung thì cho rằng: "Khi dân bị nạn lụt, người làm vua phải cứu giúp tai họa khẩn cấp đó, sửa đức chính không gì lớn hơn việc ấy".

Để bảo đảm nguồn thu hoạch của Nhà nước, các nông dân làng xã đã phải chịu những nghĩa vụ tô thuế và lao dịch. Tô chủ yếu đánh vào ruộng công tính bằng thóc, theo diện tích ruộng đất, hàm ý cày ruộng của nhà vua. Thuế chủ yếu đánh vào ruộng tư, tính bằng tiền theo đầu người, hàm ý đó là nghĩa vụ của người có ruộng. Năm 1378, nhà nước bắt đầu đánh thuế thân, đồng loạt thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền.

Nhà Trần đã có những biện pháp khuyến khích thủ công nghiệp và thương nghiệp, chưa áp dụng chính sách ức thương ngặt nghèo như các triều Lê, Nguyễn sau này. Chợ có ở khắp nơi, họp đều kỳ. Kinh thành Thăng Long 61 phường buôn bán tấp nập, nhộn nhịp cả về ban đêm. Vân Đồn vẫn là địa điểm giao thương quốc tế, trao đổi hàng hóa giữa Đại Việt và các nước khác ở Đông Nam Á và Đông Á.

Là vương triều quân chủ quý tộc, nhà Trần đã phát triển bộ phận kinh tế quý tộc quan liêu, với chế độ thái ấp điền trang, sử dụng lao động của tầng lớp nông nô, nô tỳ.

Nhìn chung, dưới triều Trần, một thế cân bằng ổn định về kinh tế đã được duy trì giữa các yếu tố công hữu và tư hữu, giữa nông nghiệp và nền kinh tế hàng hóa, giữa quyền lực, lợi ích của nhà nước, (quyền sở hữu ruộng đất nhà nước, nguồn tô thuế) với các đẳng cấp quý tộc quan liêu (thái ấp điền trang) cũng như của khối bình dân làng xã (ruộng công).

* Thái ấp và điền trang:

Thái ấp, điền trang đều là những ruộng đất của tầng lớp quý tộc quan liêu đời Trần, nhưng tính chất đặc điểm khác nhau.

Thái ấp (ấp thang mộc, đất tắm gội) là ruộng đất do Nhà vua ban cấp cho các quý tộc và triều thần có công. Quy mô một thái ấp tương đối nhỏ, khoảng 1, 2 xã (trừ trường hợp thái ấp rất rộng lớn của Nguyễn Khoái ở lộ Khoái). Trên danh nghĩa, ruộng đất thái ấp thuộc quyền sở hữu của nhà nước, triều đình có quyền lấy của người này ban cấp cho người khác. Quý tộc có quyền sử dụng và hưởng hoa lợi về đất đai và một phần về cư dân trên đó; như thu tô thuế, xây dựng phủ đệ, lập các đội quân vương hầu gia đồng (còn gọi là thang mộc binh).

Thời Trần, ta thấy có những thái ấp của Trần Liễu (Đông Triều, Quảng Ninh), Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam), Nguyễn Khoái (Hưng Yên), Trần Quang Khải (Bình Lục, Hà Nam), Trần Khát Chân ở Kẻ Mơ (Hai Bà Trưng, Hà Nội).

Trong chế độ quân chủ tập trung thời Trần, quyền chiếm dụng ruộng đất có điều kiện và hạn chế, mang tính thụ động của các quý tộc đối với các thái ấp không có khả năng làm phát triển các yếu tố cát cứ chống lại chính quyền trung ương như các thái ấp lãnh địa ở Tây Âu thời trung đại. Có người nói đó là những "thái ấp giả".

Điền trang là những trang trại lớn của các quý tộc đời Trần, do quý tộc trực tiếp quản lý, sử dụng sức lao động của gia nô, nô tì; có quyền thừa kế. Đó là bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu lớn phong kiến, tư nhân.

Năm 1266, triều đình xuống chiếu cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tì để khai khẩn ruộng hoang lập thành điền trang, sau đó lại cho phép các gia nô trong điền trang kết hôn với nhau, lập thành gia đình. Trong khoảng 1 thế kỷ, kinh tế điền trang quý tộc đã phát triển mạnh, chủ yếu ở các bãi bồi ven sông. Chế độ điền trang hàm chứa những yếu tố và xu thế cát cứ.

Các điền trang được nhắc nhiều đến là của Trần Khánh Dư (Chí Linh, Hải Dương), Trần Khắc Hãn (Từ Liêm, Hà Nội), Trần Quốc Khang (Diễn Châu, Nghệ An). Trước thế lực đó, triều đình cũng đã tìm cách can thiệp, hạn chế như thi hành phép xắn chân bãi bồi, kiểm kê tài sản nhưng sau phải hủy bỏ. Chỉ đến cuối đời Trần, kinh tế điền trang mới lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Các nông nô, nô tì trong các điền trang đã nổi lên đấu tranh để trở thành các nông dân tự do. Điền trang có xu thế công xã hóa. Trước tình hình đó, năm 1397, Hồ Quý Ly đã thi hành phép hạn điền, hạn nô, đánh mạnh vào thế lực kinh tế của tầng lớp quý tộc Trần. Điền trang bị suy sụp từ đó.

* Kinh tế làng xã:

Thời Trần, bên cạnh bộ phân kinh tế quý tộc - quan liêu, bộ phận kinh tế làng xã đã giữ một vai trò quan trọng. Đó là nền kinh tế của những người sản xuất nhỏ, kết hợp với buôn bán nhỏ trong làng xã. Ở đây, người nông dân kiêm thợ thủ công và thương nhân. Nhà nước ít can thiệp vào đời sống kinh tế tự trị của làng xã, trừ các nghĩa vụ tô thuế và lao dịch. Ruộng công chiếm ưu thế, cùng tồn tại với ruộng tư, loại ruộng lúc này còn chiếm một tỷ lệ thấp nhưng có xu thế phát triển.

Những người cày ruộng công trong làng xã hằng năm phải nộp thóc tô, với ý nghĩa cày ruộng của nhà vua. Hằng năm, tô ruộng mỗi mẫu phải nộp 100 thăng thóc, mức tô mà các sách sử sau này đánh giá là "quá nặng" (Việt sử thông giám cương mục).

Trong làng xã, một bộ phận là chủ sở hữu ruộng tư, có lẽ đây là những đối tượng chủ yếu phải nộp thuế ruộng bằng tiền. Năm 1242, Nhà nước quy định "có 1 - 2 mẫu ruộng thì nộp liền 1 quan, có 3 - 4 mẫu thì nộp 2 quan, từ 5 mẫu trở lên thì nộp 3 quan".

Đã có hiện tượng cầm cố, mua bán các loại ruộng của làng xã. Năm 1237, có quy định về việc viết chúc thư văn khế. Năm 1248, nhà nước quy định việc đền bù ruộng tư của dân nếu bị đê lấn chiếm. Đặc biệt năm 1254, triều đình cho phép bán ruộng công làng xã làm ruộng tư, mỗi diện (mẫu) 5 quan. Có các hình thức bán đợ (có thể chuộc lại trong một thời gian nhất định) và bán đứt (không thể chuộc lại vì đã quá thời hạn, hình thức này thường xảy ra trong những năm đói kém). Bên cạnh các nông dân tư hữu, tầng lớp địa chủ và tá điền bắt đầu xuất hiện trong làng xã.

Nền kinh tế hàng hoá làng xã cũng phát triển dưới thời Trần. Các ngành nghề thủ công nghiệp truyền thống như dệt, gốm, giấy, đúc đồng đã hoạt động trong làng xã cũng như ở ven kinh thành Thăng Long. Mạng lưới chợ họp đều kỳ ở các làng xã cũng như ở đô thị. Việc buôn bán mở rộng ra thị trường vùng, xuất hiện một số thương nhân giàu có. Những nhà giàu có ở Đình Bảng được mời vào đánh bạc với vua. Ngô Dẫn là một lái buôn ở Vân Đồn, vì có ngọc rết do cha để lại đã trở thành giàu có, được vua Minh Tông gả công chúa Nguyệt Sơn cho.

* Kết cấu xã hội thời Trần:

Xã hội Đại Việt thời Trần là một xã hội đã phân tầng đẳng cấp trên quy mô quốc gia với 2 đẳng cấp chính: vua quan và thứ dân (bách tính), dưới thứ dân là tầng lớp nô tỳ. Tuy nhiên, sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc, giữa hai đẳng cấp này vẫn có những mối quan hệ gần gũi. Các cộng đồng làng xã còn tương đối thuần nhất, lúc này sự phân loại các hạng dân ở đây chủ yếu theo lứa tuổi (tiểu hoàng nam, đại hoàng nam, lão, long lão). Tục trọng lão, trọng xỉ (thiên tước) còn rất đậm trong làng xã.

Nhà vua đứng đầu Nhà nước và là biểu tượng của quốc gia, trên danh nghĩa, có uy quyền tối thượng và toàn năng. Khi vua còn trẻ, quyền hành thực tế nằm trong tay Thái Thượng Hoàng. Tuy nhiên, khoáng cách giữa danh và thực ở đây còn khá lớn. Các vua Trần tự coi là cha mẹ của dân, thi hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng, kết hợp với tư tưởng nhân từ bác ái của đạo Phật. Các vua Trần thường xuyên thăm hỏi việc đắp đê, gặt hái, trong các dịp hội hè đã xuống dự cùng dân chúng, xem đấu vật, đua thuyền hoặc đi chơi phố.

Quý tộc quan liêu là chỗ dựa của nhà vua và triều đình trong các cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên cũng như trong công cuộc trị nước. Thời đầu Trần, chủ yếu tầng lớp quý tộc tông thất nắm đặc quyền trong những chức vụ cao cấp. Một số ít quan liêu không phải là tông thất đã gia nhập tầng lớp quý tộc bằng cách được ban quốc tính (lấy họ vua) hoặc được nhận làm nghĩa tử (con nuôi vua).

Dần dần, tầng lớp Nho sĩ quan liêu phi quý tộc càng có nhiều cơ hội tham chính trong bộ máy nhà nước triều Trần. Trường hợp điển hình thường được nhắc tới là Đoàn Như Hài, từ một thư sinh có công giúp vua Trần Anh Tông đã được thăng đến chức quan Hành khiển đầu triều. Nho sĩ đời Trần có nhiều người tài cao đức trọng, danh thực xứng hợp như các tấm gương sáng Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An.

Tăng ni, tăng quan, thời Trần đã giữ một vị trí quan trọng trong xã hội (như các sư Pháp Loa Huyền Quang). Nhà chùa có ruộng đất riêng và nô tì riêng. Thời cuối Trần, uy thế chính tả của các thiền tăng, đạo sĩ ngày càng giảm sút. Nho sĩ Trương Hán Siêu đã phê phán gay gắt giới tăng ni. Năm 1396, Nhà nước đã có lệnh thải bớt tăng đạo. Sư sãi đã lui về ẩn náu trong các chùa chiền làng xã.

Đẳng cấp thứ dân bao gồm chủ yếu bộ phận nông dân tự do - tự canh trong các làng xã, đa số cày ruộng công và một số ít có ruộng tư, có nghĩa vụ nộp tô thuế, lao dịch và binh dịch cho Nhà nước. Họ không giống như nông nô trong các lãnh địa Tây Âu trung đại, mà là thần dân của nhà vua, triều đình, đó là những con người nửa tự do. Trong làng xã, có thể đã có một số ít tá điền.

Nô tì (nô: nam, tì: nữ) tuy không hẳn là một đẳng cấp riêng biệt, nhưng là một tầng lớp xã hội ở thời Trần khá đông đảo. Nô tì có nhiều nguồn gốc có thể là nông dân bị bần cùng hóa (năm 1290 đói kém, một người bán làm nô giá 1 quan tiền, tương đương 1 thăng (2 lít gạo), hoặc bị gán nợ (như Hà Ô Lôi, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc các phạm nhân mắc tội đồ, tù binh (Champa và Nguyên), người nước ngoài bị bắt cóc.

Có nhiều loại nô: quan nô (của Nhà nước) làm việc trong các đồn điền, trại lính; gia nô (của các nhà quyền quý) làm việc trong gia đình và điền trang; tam bảo nô phục vụ trong các chùa chiền. Nô tì có địa vị thấp kém nhất trong xã hội, nhưng một số sau đó đã trở thành những người tự do có địa vị trong xã hội. Tam bảo nô Nguyễn Chế sau trở nên giàu có, lấy con gái Trương Hán Siêu. Các tì tướng Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão cũng đều xuất thân từ gia nô, gia thần.

* Khủng hoảng cuối Trần:

Nửa sau thế kỷ XIV xã hội Đại Việt đã lâm vào một cuộc khủng hoàng trầm trọng. Các điền trang ngày một phát triển, nhưng sản xuất lại trở nên trì trệ, đời sống các nông nô, nô tì trong đó bị bần cùng hoá. Mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra, nông dân nổi dậy bạo động, điển hình là cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở núi Yên Phụ (Hải Dương) năm 1344 - 1360.

Triều đình nhà Trần ngày một sa đọa. Nhiều đại thần mắc tệ nạn tham nhũng, rượu chè cờ bạc, tham ăn, hiếu sắc, nhà vua (Trần Dụ Tông) cũng ăn chơi xa xỉ trụy lạc. Chu Văn An đã từng dâng sớ Thất trảm, xin chém 7 gian thần, nhưng bị từ chối. Dương Nhật Lễ (con người phường chèo, cháu Dụ Tông) nối ngôi Dụ Tông, gây sự biến, muốn đổi họ, bị các triều thần lật đổ, gây nên khủng hoảng cung đình.

Bên ngoài, Champa nhiều lần gây xung đột, chiến tranh với Đại Việt, đem quân vào đánh phá Thăng Long. Duệ Tông đi đánh Champa, lâm nạn tại thành Đồ Bàn. Chỉ đến khi Chế Bồng Nga tử trận (1390), chiến tranh mới tạm yên. Tiếp đó, nhà Minh ở phương Bắc lại gây sức ép, hạch sách, đòi cống nạp, mượn đường, đe doạ xâm lược, càng làm cuộc khủng hoảng thêm sâu sắc, đe doạ sự tồn tại của vương triều.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 4-1-2012 07:53 PM
Triều Trần (1226 - 1400)

Thế phả nhà Trần

1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1225 - 1258)

Sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần - 1218, con thứ của ông Trần Thừa và bà họ Lê. Tổ tiên Nhà Trần là Trần Kính vốn gốc ở Đông Triều (Quảng Ninh) chuyên nghề đánh cá, đến ở hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường (nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý.

Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là cháu họ, được Trần Lý nuôi nấng từ nhỏ coi như con. Trần Thừa sinh ra Trần Liễu và Trần Cảnh là con trai, sau có mối tình với cô thôn nữ ở thôn Bà Liệt tên là Tần, sinh ra Trần Bá Liệt. Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện Tiền chỉ huy sứ, ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu - 1225, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.

Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu - 1225, Trần Cảnh chính thức lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự.

Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Thìn - 1232, vua Trần Thái Tông ban bố các chữ quốc huý và miếu huý.

Vì Tổ nhà Trần là Trần Lý mới đổi họ Lý sang họ Nguyễn. Năm Đinh Dậu - 1237, Trần Thái Tông lấy Chiêu Thánh hoàng hậu đã 12 năm mà chưa có con. Trần Thủ Độ và vợ là công chúa Thiên Cực ép vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu) là công chúa Thuận Thiên đã có mang 3 tháng làm hoàng hậu. Trần Liễu tức giận đem quân ra sông Cái làm loạn. Còn vua Trần Thái Tông đang đêm bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử, Quảng Ninh để phản đối.

Trần Thủ Độ dẫn các triều thần lên núi mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm non trẻ chưa cáng đáng nổi sứ mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã tắc".

Trần Thủ Độ cố nài xin nhiều lần, vua vẫn không nghe, mới bảo mọi người rằng: "Xa giá ở đâu là triều đình ở đó". Rồi sai người xây dựng cung điện. Bấy giờ nhà vua mới chịu về kinh đô.

Trần Liễu làm loạn ở sông Cái được vài tuần, lượng thấy thế cô, bèn ngầm đi thuyền đến chỗ vua xin hàng, anh em nhìn nhau mà khóc.

Trần Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền vua, rút gươm định giết Trần Liễu. Nhà vua phải lấy thân mình che đỡ cho anh. Trần Thủ Độ tức lắm ném gươm xuống sông nói: "Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các người thuận nghịch thế nào?"

Vua nói giải hoà, rồi bảo Trần Thủ Độ rút quân về.

Nhà vua lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay là Đông Triều, Yên Hưng, Quảng Ninh) là đất thang mộc và phong cho anh là Yên Sinh Vương.

Hoàng hậu Thuận Thiên sau sinh ra Quốc Khang, thái tử Hoảng, Quang Khải, Nhật Vĩnh, Ích Tắc, Nhật Duật đều được phong vương, và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo.

Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho thái tử Trần Hoảng, đây là một cách tập sự cho con quen với việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng hoàng để cùng coi việc nước.

Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu - 1277, Thái Thượng hoàng mất, thọ 60 tuổi, trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm.

2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1258 - 1278)

Là con trưởng dòng đích của Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu Lý Thị, sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý - 1240. Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258 lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Long năm thứ 1.

Thánh Tông là một vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Về đối nội, nhà vua khuyến khích khai khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc, giúp họ an cư lạc nghiệp. Nhà vua khuyến khích việc học hành bằng cách mở các khoa thi để lựa chọn người tài mà trọng dụng, thời Trần đã xuất hiện "Lưỡng quốc Trạng nguyên" Mạc Đĩnh Chi, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ quốc sử đầu tiên của nước ta là "Đại Việt sử ký".

Về đối ngoại, lúc đó nhà Nguyên đã chiếm toàn bộ Trung Quốc của nhà Tống, đang chuẩn bị điều kiện để thôn tính Đại Việt, chúng sai sứ sang phong Vương cho vua Trần Thánh Tông và bắt nước ta cứ 3 năm một lần cống nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại 3 người cùng với những sản vật: sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi, châu báu và những vật lạ khác, chúng còn đòi đặt quan Chưởng ấp giám sát các châu quận Đại Việt để chuẩn bị xâm lược nước ta.

Vua Trần Thánh Tông đã thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo những rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự và nền độc lập của Tổ quốc. Mặt khác, quan tâm đến việc luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thực, vũ khí chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai. Vua Trần Thánh Tông ở ngôi được 20 năm, làm Thái Thượng hoàng 12 năm. Ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần - 1290 Thái Thượng hoàng mất ở cung Nhâm Thọ, hưởng thọ 51 tuổi.

3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1279 - 1293)

Con trưởng Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu, sinh ngày 11 tháng 11 Mậu Ngọ - 1258, ngày mồng 1 tháng Giêng năm Kỷ Mão - 1279 lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Bảo.

Vua Trần Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hoà nhã, cố kết lòng dân, quyết đoán, hết lòng vì dân vì nước trong thời gian 14 năm ở ngôi khi đất nước Đại Việt ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.

Sau 14 năm ở ngôi vua, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông, làm Thái Thượng hoàng rồi sau đi tu, trở thành Thuỷ tổ của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử.

Năm 1308, Trần Nhân Tông qua đời tại am Ngoạ Vân núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay) thọ 51 tuổi.

4. Trần Anh Tông (1293 - 1314)

Tên huý là Thuyên, con trưởng của Trần Nhân Tông và mẹ là Khâm Từ Bảo Khánh Hoàng thái hậu, có hai em là Huệ Võ Vương Quốc Chuẩn và em gái là Huyền Trân công chúa.

Trần Anh Tông khéo biết kế thừa sự nghiệp của tổ tiên, cho nên thời cuộc đi đến thái bình, chính trị trở nên tốt đẹp, văn vật chế độ ngày càng thịnh vượng, cũng là một vua tốt của triều Trần.

Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần - 1314 nhường ngôi cho thái tử Mạnh. Mất năm Canh Thân - 1320, trị vì được 21 năm, thọ 54 tuổi.

5. Trần Minh Tông (1314 - 1329)

Tên huý là Mạnh, con thứ tư của Trần Anh Tông. Mẹ là Chiêu Hiền Hoàng thái hậu Trần Thị, con gái của Bảo Nghĩa đại vương Trần Bình Trọng, sinh năm Canh Tý - 1300.

Trần Minh Tông có lòng nhân hậu, biết tôn trọng nhân tài nên có nhiều hiền thần dưới trướng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, nhưng đã quá tin bọn nịnh thần giết oan chú ruột, đồng thời là bố vợ là Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn, một lỗi lầm lớn của Trần Minh Tông.

Năm ất Tỵ - 1329 nhường ngôi cho thái tử Vượng.

Ngày 19 tháng 2 năm Đinh Dậu - 1357, Minh Tông mất, thọ 58 tuổi.

6. Trần Hiến Tông (1329 - 1341)

Tên huý là Vượng, con bà Minh Từ Hoàng thái phi Lê Thị, sinh ngày 17 tháng 5 năm Kỷ Mùi - 1319. Năm 1329 lên ngôi vua mới 10 tuổi, ở ngôi 12 năm, nhưng việc điều khiển triều chính đều do Thượng hoàng Minh Tông đảm nhận.

Năm Tân Tỵ - 1341 Trần Hiến Tông mất, thọ 23 tuổi.

7. Trần Dụ Tông (1341 - 1369)

Tên huý là Trần Hạo, con thứ 10 của Minh Tông, do Hiến Từ hoàng hậu sinh ra. Vua rất thông tuệ, học vấn cao minh, chăm lo việc võ, sửa sang việc văn, cho nên đời Thiệu Phong chính sự tốt đẹp.

Năm 1358 đổi niên hiệu là Đại Trị. Thượng hoàng Minh Tông mất, các trung thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng đã mất, bọn gian thần kéo bè kéo đảng, Dụ Tông thì rượu chè chơi bời quá độ khiến cho triều đình đổ nát, giặc giã nổi lên như ong, nhân dân cực khổ trăm bề. Chu Văn An dâng "Thất trảm sớ" xin chém đầu 7 tên gian thần, nhưng vua không nghe, ông liền treo ấn từ quan về dạy học.

Năm Kỷ Dậu - 1369 vua Dụ Tông mất, ở ngôi được 28 năm, thọ 34 tuổi.

Dụ Tông mất thì bão táp ở cung đình nhà Trần nổi lên vì bà Hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con nuôi của Cung Túc Vương là Dương Nhật Lễ lên ngôi. Mẹ Nhật Lễ là một đào hát đã lấy kép hát là Dương Khương có thai rồi mới bỏ chồng mà lấy Cung Túc Vương sinh ra Nhật Lễ.

Nhật Lễ lên làm vua muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần. Hắn giết bà Hoàng thái hậu và Cung Định Vương. Cung Tĩnh Vương hoảng sợ bỏ trốn lên Đà Giang.

Các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh giết chết Nhật Lễ rồi lên Đà Giang rước Cung Tĩnh Vương về làm vua, tức là Trần Nghệ Tông.

8. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372)

Tên huý là Trần Phủ, con thứ ba của Minh Tông, mẹ đẻ là thứ phi họ Lê, ở ngôi được 2 năm, nhường ngôi 27 năm, thọ 74 tuổi.

Vua dẹp yên được nạn bên trong, khôi phục cơ đồ nhà Trần, song cung kính kiệm ước thì có thừa mà cương nghị, quyết đoán lại không đủ. Bên ngoài, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga đem quân vượt biển vào cửa Đại An tiến đánh kinh đô Thăng Long, quân Trần chống không nổi. Vua Nghệ Tông phải bỏ kinh thành chạy sang Đình Bảng lánh nạn. Quân Chiêm Thành vào đốt sạch cung đình, bắt đàn bà con gái, lấy hết tiền bạc châu báu rồi rút quân về. Ngày 9 tháng 11 năm Nhâm Tý - 1372, Nghệ Tông nhường ngôi cho em là Trần Kính, lui về Thiên Trường làm Thái Thượng hoàng.

9. Trần Duệ Tông (1372 - 1377)

Tên huý là Kính, con thứ 11 của Minh Tông, em Nghệ Tông, mẹ là Đôn Từ hoàng thái phi. Sinh ngày 2 tháng 6 năm Đinh Sửu - 1337. Khi Nghệ Tông lánh nạn Trấn Kính chiêu mộ quân lính, vũ khí, lương thực để đánh Nhật Lễ, đón Nghệ Tông về, nên được nhường ngôi, làm vua được 5 năm, thọ 41 tuổi. Duệ Tông ương gàn, cố chấp, không nghe lời can, khinh thường quân giặc nên mang hoạ vào thân.

Tháng 12 năm 1376, nghe lời tấu man của Đỗ Tử Bình (trấn thủ Hoá Châu), nhà vua thân chinh đem 12 vạn quân đi đánh Chiêm Thành, tháng Giêng năm 1377 đại quân tiến đến cửa Thị Nại (Quy Nhơn). Chế Bồng Nga dựng trại bên ngoài thành Đồ Bàn (Bình Định) rồi cho Mục Bà Na đến trá hàng nói là Chế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn. Ngày 24 tháng Giêng, vua thúc quân tiến vào thành. Đại tướng Đỗ Lễ can mãi vua không nghe cứ tiến quân đến chân thành Đồ Bàn thì quân Chiêm Thành ở bốn phía đổ ra đánh, quân ta thua to. Vua chết trong đám loạn quân.

10. Trần Phế Đế (1377 - 1388)

Tên huý là Trần Hiệu, con trưởng của Duệ Tông, mẹ là bà Gia Từ hoàng hậu Lê Thị, sinh ngày 6 tháng 3 năm Tân Sửu - 1361. Khi Duệ Tông chết ở mặt trận phương Nam, Nghệ Tông lập Hiệu lên ngôi vua.

Vua u mê, nhu nhược không làm được việc gì, uy quyền ngày càng về tay Hồ Quý Ly.

Năm Mậu Ngọ - 1378, quân Chiêm Thành lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng vào cướp phá kinh đô Thăng Long một lần nữa.

Ngày 6 tháng 12 năm 1388, thượng hoàng Nghệ Tông giáng Phế Đế xuống làm Linh đức Đại vương, sau đó bắt thắt cổ chết, và lập con út của mình lên làm vua là Trần Thuận Tông.

11. Trần Thuận Tông (1388 - 1398)

Tên huý là Trần Ngung, là con út của Nghệ Tông, ở ngôi được 10 năm, xuất gia hơn 1 năm, thì bị Hồ Quý Ly giết, thọ 22 tuổi. Vua chỉ ngồi giữ ngôi không, còn việc nước thì ở trong tay bố vợ là Hồ Quý Ly.

Năm Kỷ Tỵ - 1389, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh Đại Việt, Hồ Quý Ly đưa quân cự chiến nhưng thua trận phải rút chạy. Thượng hoàng sai đô tướng là Trần Khát Chân đem quân đi chặn giặc.

Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa của Trần Khát Chân ở Hải Triều (Hưng Nhân, Thái Bình và Tiên Lữ, Hưng Yên) nhân có tên tiểu thần của Chế Bồng Nga là Ba Lậu Kê bị Chế Bồng Nga trách phạt, chạy sang hàng quân ta cho Trần Khát Chân hay dấu hiệu đặc biệt của thuyền chở Chế Bồng Nga. Trần Khát Chân đã ra lệnh các cây súng (hoả súng) nhất tề nhả đạn, bắn trúng thuyền Chế Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền. Chế Bồng Nga trúng đạn chết tại trận. Trần Khát Chân chém đầu Chế Bồng Nga đem về triều dâng vua và Thượng hoàng.

Tướng Chiêm Thành là La Ngai đem tàn quân chạy về nước chiếm ngôi vua. Hai con của Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và Chế Sơn Nô sợ bị giết đã chạy sang hàng Đại Việt, được vua Trần trọng dụng.

Ngày 15 tháng 12 năm Giáp Tuất - 1394, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly lên làm phụ chính Thái sư, thâu tóm toàn bộ quyền bính để dễ đường cướp ngôi vua. Hồ Quý Ly quyết định dời đô vào Thanh Hoá, xây thành Tây Đô ( ở động An Tôn, Vĩnh Lộc).

Tháng 11 năm 1397 Hồ Quý Ly bức vua Thuận Tông phải dời kinh về Tây Đô.

Tháng 3 năm 1398 ép Thuận Tông nhường ngôi cho con trai là Trần Án để đi tu ở cung Bảo Thanh tại núi Đại Lại (Thanh Hoá).

12. Trần Thiếu Đế (1398 - 1400)

Tên huý là Trần Án, mười ba tuổi lên kế nghiệp tức là Thiếu Đế.

Hồ Quý Ly xưng là Khâm Đức Hưng liệt Đại Vương, rồi sai người giết con rể là Thuận Tông.

Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn - 1400, Hồ Quý Ly bức Thiếu Đế nhường ngôi.

Triều Trần kể từ Trần Thái Tông Đến Trần Thiếu Đế là 12 đời vua, trị vì được 175 năm.

Dân tộc ta rất đáng tự hào dưới triều Trần, có những vị vua anh hùng như Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông đã lãnh đạo quân dân Đại Việt ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên - Mông, một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới bấy giờ, một đế quốc rộng mông mênh từ bờ Thái Bình Dương đến Hắc Hải.

Song cơ nghiệp nhà Trần suy vi từ Dụ Tông, Nghệ Tông.

Dụ Tông thì hoang chơi vô độ, bỏ bê chính sự, làm loạn kỷ cương phép nước, làm cho dân nghèo, nước yếu.

Nghệ Tông thì nhu nhược không biết dùng hiền thần mà chỉ nghe bọn nịnh thần, làm cho cơ nghiệp nhà Trần về tay kẻ khác.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 4-1-2012 09:43 PM
Nhà Hồ (1400 - 1407)

Hồ Quý Ly và vương triều Hồ (1400 - 1407)

* Khủng hoảng cuối Trần:


Nửa sau thế kỷ XIV xã hội Đại Việt đã lâm vào một cuộc khủng hoàng trầm trọng. Các điền trang ngày một phát triển, nhưng sản xuất lại trở nên trì trệ, đời sống các nông nô, nô tì trong đó bị bần cùng hoá. Mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra, nông dân nổi dậy bạo động, điển hình là cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở núi Yên Phụ (Hải Dương) năm 1344 - 1360.

Triều đình nhà Trần ngày một sa đọa. Nhiều đại thần mắc tệ nạn tham nhũng, rượu chè cờ bạc, tham ăn, hiếu sắc, nhà vua (Trần Dụ Tông) cũng ăn chơi xa xỉ trụy lạc. Chu Văn An đã từng dâng sớ Thất trảm, xin chém 7 gian thần, nhưng bị từ chối. Dương Nhật Lễ (con người phường chèo, cháu Dụ Tông) nối ngôi Dụ Tông, gây sự biến, muốn đổi họ, bị các triều thần lật đổ, gây nên khủng hoảng cung đình.

Bên ngoài, Cham-pa nhiều lần gây xung đột, chiến tranh với Đại Việt, đem quân vào đánh phá Thăng Long. Duệ Tông đi đánh Champa, lâm nạn tại thành Đồ Bàn. Chỉ đến khi Chế Bồng Nga tử trận (l390), chiến tranh mới tạm yên. Tiếp đó, nhà Minh ở phương Bắc lại gây sức ép, hạch sách, đòi cống nạp, mượn đường, đe doạ xâm lược, càng làm cuộc khủng hoảng thêm sâu sắc, đe doạ sự tồn tại của vương triều.

* Hồ Quý Ly chuyên quyền, lật đổ nhà Trần. Vương triều Hồ hình thành:

Hồ Quý Ly quê gốc Nghệ An, tổ 4 đời dời ra Thanh Hóa, đổi theo họ người cha nuôi họ Lê (khi lên ngôi, lấy lại họ Hồ). Hồ Quý Ly có quan hệ họ ngoại khăng khít với các vua Trần, bản thân ông là con rể vua Trần Minh Tông.

Từng bước, Hồ Quý Ly đã tiến lên nắm giữ những chức vụ quan trọng về chính trị và quân sự như Khu mật sứ, Thống chế, Đồng bình chương sự. Mặt khác, ông còn tìm cách đưa họ hàng và tay chân thân tín vào nắm giữ các trọng trách khác.

Củng cố được thế lực, Hồ Quý Ly tiến hành các âm mưu phế lập và đàn áp ông tìm cách mưu hại các vua Trần (Đế Nghiễn, Thuận Tông), sát hại các quý tộc tông thất và quan liêu triều Trần. Trong hội thề Đôn Sơn (1399), 370 quý tộc quan liêu, đứng đầu là Trần Khát Chân, đã mưu giết Quý Ly. Việc không thành, tất cả đều bị giết hại.

Năm 1400, Quý Ly ép Thiếu Đế phải nhường ngôi cho mình, lập nên triều Hồ, lấy niên hiệu Thánh Nguyên, quốc hiệu Đại Ngu. Sau 10 tháng, nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương, lên làm Thái Thượng hoàng. Năm 1402, ông đem quân đi đánh Cham-pa, chiếm đất Chiêm Động và Cổ Lũy.

Năm 1407, lấy cớ phù Trần diệt Hồ, quân Minh do Trương Phụ chỉ huy, đã tiến hành xâm lược nước ta. Nhà Hồ cự địch ở thành Đa Bang (Hà Tây) nhưng thất bại. Cha con Hồ Quý Ly chạy đến vùng Hà Tĩnh, thì bị bắt, đưa về Trung Quốc. Triều Hồ (1400 - 1407) sụp đổ.

* Những biên pháp cải cách của Hồ Quý Ly:

Trước và sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly đã tiến hành một loạt các biện pháp cải cách về nhiều mặt, thay đổi chính sách cũ, đề ra chính sách mới. Những biến pháp đó nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội Đại Việt, thủ tiêu những yếu tố cát cứ của quý tộc nhà Trần, xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế tập trung vững mạnh.

Về quân sự - chính trị Hồ Quý Ly tìm cách chấn chỉnh và tăng cường quân đội, thải bớt người yếu, bổ sung những người khỏe mạnh, kể cả các sư tăng, tăng cường quân số và các lực lượng quân sự địa phương, cho xây dựng một kinh thành mới bằng đá kiên cố ở An Tôn (Vinh Lộc, Thanh Hóa) gọi là Tây Đô (phân biệt với Thăng Long, được đổi thành Đông Đô) thường gọi là Thành nhà Hồ. Cuối năm 1397, ép vua Trần dời về kinh đô mới. Nhà Hồ cũng chú ý cải tiến kỹ thuật quân sự. Hồ Nguyên Trừng (con cả Hồ Quý Ly) đã chế tạo ra những khí tài mới: súng lớn thần cơ, thuyền chiến Cổ Lâu đi biển. Tuy nhiên, tinh thần quân sĩ vẫn không được nâng cao. Chính Hồ Nguyên Trừng đã lo lắng về một đội quân "trăm vạn quân, trăm hạn lòng".

Về tài chính - kinh tế, biện pháp nổi bật là việc ban hành tiền giấy, gọi là "Thông bảo hội sao" năm 1396. Tiền giấy có nhiều loại, vẽ hình khác nhau: loại 10 đồng (vẽ hình rau tảo), 30 đồng, 1 tiền, 2 tiền, 3 tiền, 5 tiền và 1 quan (vẽ hình rồng). Nhà nước ra lệnh cho dân chúng không được tiêu tiền đồng, phải đổi ra tiền giấy (tỷ giá 1 quan tiền đồng: 1 quan 2 tiền giấy), cấm làm tiền giả.

Năm 1397, Hồ Quý Ly đặt ra phép hạn điền. Theo đó, trừ đại vương và trưởng công chúa (số này rất ít) còn tất cả mọi người, từ quý tộc cho đến thứ dân, đều bị hạn chế số ruộng tư (tối đa: 10 mẫu), cho phép lấy ruộng tư chuộc tội. Nhà nước tiến hành đo đạc lại ruộng đất, diện tích thừa sung công. Năm 1402, Hồ Hán Thương cải cách thuế đinh nam, không đánh đồng loạt mà theo lũy tiến, người ít ruộng mức thuế nhẹ đi, không có ruộng và hạng cô quả không thu thuế.

Phép hạn điền đã đánh mạnh vào thế lực của tầng lớp quý tộc điền trang và địa chủ tư hữu, tăng nguồn thu nhập sưu thuế cho nhà nước. Cùng với chính sách thuế, phép hạn điền phần nào có lợi cho những người nghèo không ruộng, mặt khác, chặn đứng xu thế phát triển tự nhiên của ruộng đất tư hữu.

Năm 1401, nhà Hồ ban hành phép hạn nô, các quý tộc bị hạn chế số nô tì, số thừa ra (những nô tì không có chúc thư 3 đời) bị sung công, bồi thường cho chủ 5 quan một người. Các loại gia nô phải thích dấu hiệu vào trán. Phép hạn nô đã chuyển một số lớn gia nô thành quan nô (nô tì nhà nước, họ có thay đổi về thân phận, nhưng vẫn không được giải phóng). Cùng với phép hạn điền, phép hạn nô về cơ bản đã làm suy sụp tầng lớp quý tộc cũ nhà Trần và nền kinh tế điền trang, tăng cường thế lực kinh tế của Nhà nước trung ương.

Về văn hóa giáo dục, Hồ Quý Ly đã chấn chỉnh lại Phật giáo và Nho giáo. Nhìn chung, Hồ Quý Ly hạn chế Phật giáo, Đạo giáo, đề cao Nho giáo, nhưng là thứ Nho giáo thực dụng, chống giáo điều, kết hợp với tinh thần Pháp gia. Hồ Quý Ly đã cho sa thải các tăng đạo dưới 50 tuổi, bắt phải hoàn tục, tổ chức sát hạch kinh giáo. Quý Ly soạn sách Minh đạo bàn về Nho giáo, nghi ngờ một số chỗ của sách Luận ngữ của Khổng Tử, phê phán thói giáo điều của các nhà Nho Hàn Dũ, Chu Đôn Di, Trình Hiệu là "trộm Nho", "cóp nhặt văn chương". Hồ Quý Ly đã đề cao chữ Nôm mang tính dân tộc, dịch thiên Vô dật trong Kinh thư ra chữ Nôm, soạn sách Thi nghĩa (giải thích Kinh thi) bằng chữ Nôm, làm thơ Nôm.

Hồ Quý Ly rất quan tâm đến việc cải cách, nâng cao tính hiệu quả và thực tiễn của giáo dục, thi cử. Mở rộng hệ thống giáo dục ở địa phương, đặt các học quan, cấp học điền. Ông cũng là người đầu tiên trong lịch sử đặt ra cấp thi Hương (từ 1396). Ngay sau khi lên ngôi, ông mở khoa thi Hội (Thái học sinh) lấy đỗ 20 người, trong đó có Nguyễn Trãi. Quy chế và nội dung khoa cử cũng được cải tổ. Ấn định phép thi 4 trường, bỏ ám tả cổ văn thay vào kinh nghĩa. Năm 1404, Hồ Quý Ly lại đặt thêm kỳ thi viết chữ và thi toán.

Hồ Quý Ly là một con người hành động, có tầm nhìn, năng lực và sự quyết đoán. Đề ra những biến pháp cải cách và lật đổ triều Trần, ông muốn giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội Đại Việt cuối Trần, tìm ra lối thoát, xây dựng một Nhà nước chuyên chế tập quyền vững mạnh có xu hướng Pháp gia. Những cải cách đó có nhiều điểm tích cực, tiến bộ, mang tính dân tộc, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục.

Tuy nhiên, Hồ Quý Ly cũng là một con người có nhiều thủ đoạn độc đoán, mất lòng dân, chủ quan duy ý chí. Mặt khác, nhiều cải cách bộc lộ những hạn chế, không triệt để. Ông đã bị chống đối từ nhiều phía, dân chúng không ủng hộ. Thừa cơ nhà Minh đe doạ và tiến hành xâm lược, nhà Hồ mau chóng sụp đổ.

* Thế phả nhà Hồ:

1. Hồ Quý Ly (Thánh Nguyên, 1400 - 1401)

Hồ Quý Ly tự là Thánh Nguyên, cháu 16 đời của Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, vốn gốc thuộc tộc Việt ở Chiết Giang, phương nam Trung Quốc, đời Hậu Hán (thời Ngũ Quý) sang làm Thái thú Diễn Châu, sau định cư ở hương Bào Đột (Nghĩa Đàn, Nghệ An).

Hồ Quý Ly là nhân vật thông minh lỗi lạc, ông đã đề ra nhiều cải cách táo bạo. Ông ra sách Minh Đạo để phê phán hệ tư tưởng Tống Nho, phục vụ cho những cải cách mới như hạn điền, hạn nô, sa thải tăng lữ để hạn chế phong kiến quý tộc, đồng thời tăng thêm lực lượng lao động xã hội góp phần giải phóng sức sản xuất, sức lao động.

Nhà Hồ cho đo đạc lại ruộng đất, điều tra dân số để nắm chắc tài sản và sức lao động toàn xã hội, phát hành tiền giấy, giải quyết khó khăn về tài chính quốc gia và thuận tiện cho việc lưu thông hàng hoá.

Cải cách chế độ thi cử, mở mang việc giáo dục, để đào tạo nhân tài, lập Quảng tế thự để chữa bệnh cho nhân dân đều là những cải cách tiến bộ.

Nhà Hồ định ra hình luật để củng cố, tăng cường bộ máy và quyền lực của triều đình trung ương, quan tâm đến giao thông thuỷ lợi, đào sông, đắp đường thiên lý, đặt phố xá, đặt trạm công văn.

Về quân sự thì tăng cường quân đội thường trực, xây dựng các tuyến phòng thủ, lập xưởng đúc binh khí kỹ thuật để chống giặc phương Bắc.

Các cải cách của Hồ Quý Ly có tính chất toàn diện, có những cải cách đi trước thời đại, giá trị thực tiễn của nó đến nay vẫn còn hấp dẫn, nhiều nhà kinh tế nước ngoài đã ca ngợi Hồ Quý Ly là một nhà cải cách kinh tế lớn. Nhưng Hồ Quý Ly mắc tội giết vua Thiếu Đế cùng tôn tộc và quan lại nhà Trần, kể cả tướng Trần Khát Chân, gồm hơn 370 người để cướp ngôi nhà Trần. Do vậy bị nhân dân oán hận. Khi quân Minh sang xâm lược nước ta, Hồ Quý Ly đã không tập hợp được lực lượng toàn dân đánh giặc, bố con Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt đem về Trung Quốc.

2. Hồ Hán Thương (1401 - 1407)

Cũng như nhà Trần, ngày 12/1/1401, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con thứ hai là Hồ Hán Thương, còn mình thì tự xưng là Thái Thượng hoàng cùng coi chính sự.

Hồ Hán Thương là con công chúa Huy Ninh, cháu ngoại của vua Trần Minh Tông.

Hồ Quý Ly nhường ngôi cho Hồ Hán Thương, nhưng vẫn tự mình quyết đoán mọi việc.

Nhà Minh lấy cớ Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, đem quân sang đánh chiếm nước ta.

Tháng 9/1406, Nhà Minh sai Tân Thành hầu Trương Phụ đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Pha Luỹ (tức là Hữu Nghị quan ngày nay).

Nhà Minh còn sai Tây Bình hầu Mộc Thạnh cũng đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Phú Lệnh (gần thị xã Hà Giang ngày nay).

Tháng 12, quân Minh đã chiếm được Việt Trì. Nhà Hồ chống giữ không nổi 80 vạn quân Minh, bỏ chạy vào Thanh Hoá.

Ngày 20 tháng 1 năm 1407, quân Minh hạ thành Đa Bang (Ba Vì), bố con Hồ Quý Ly bỏ chạy vào Thanh Hoá, đến ngày 17/6/1407, quân Minh bắt được cha con Hồ Quý Ly. Thế là đất nước ta lại bị nhà Minh đô hộ với một chính sự vô cùng hà khắc. Chúng vơ vét của cải, hãm hiếp đàn bà, con gái, giết đàn ông và còn thiến hoạn nhiều con trai nhỏ tuổi, để mong đồng hoá dân ta.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 5-1-2012 11:30 AM
Nhà Minh đô hộ (1407 - 1427)

Cuộc xâm lược và đô hộ của nhà Minh (1407 - 1427)

1. Cuộc xâm lược của nhà Minh:


Năm 1406, lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi của nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng lớn gồm 20 vạn bộ binh và thuỷ binh cùng với hàng chục vạn dân phu vận chuyển, dưới quyền chỉ huy của Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân, Trần Húc kéo vào xâm lược Đại Việt. Quân Minh chia làm hai cánh: một cánh do Trương Phụ chỉ huy theo đường Bằng Tường, Quảng Tây tiến vào Lạng Sơn, một cánh do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam theo đường sông Hồng kéo xuống. Nhà Minh còn sai người mang sắc vào dụ vua Chămpa phối hợp tấn công ở biên giới phía nam.

Ngày 19/11/1406, quân Minh vượt biên giới tiến vào xâm lược nước ta. Quân Trương Phụ lần lượt đánh bại quân nhà Hồ ở các ải Lưu Quan, Kê Lăng (Chi Lăng - Lạng Sơn). Cánh quân do Mộc Thạnh chỉ huy vượt qua nhiều cửa ải, rồi theo dòng sông Lô và sông Thao tiến vào vùng đồng bằng Bắc Bộ. Quân nhà Hồ phải lui dần về đóng ở nam sông Hồng, lấy thành Đa Bang làm trung tâm phòng ngự.

Ngày 20/1/1407, hai cánh quân Minh đều tập trung tấn công vào thành Đa Bang.

Ngày 22/1/1407, sau khi đánh bại quân Hồ ở Đa Bang, quân Minh tiến vào đánh chiếm Đông Đô (Thăng Long). Quân nhà Hồ rút về vùng Hoàng Giang (thuộc địa phận Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Quân Minh do Mộc Thạnh chỉ huy kéo đến uy hiếp. Quân nhà Hồ do Hồ Nguyên Trừng chỉ huy đem 300 chiến thuyền đánh quân Minh, bị thất bại, phải rút về Muộn Hải (cửa sông Hồng ở Giao Thuỷ - Hà Nam). Quân đội nhà Hồ ở Lạng Giang do Hồ Đỗ, Hồ Xá chỉ huy cũng bị thua trận phải bỏ Bình Than rút về hội quân với cánh quân Hồ Nguyên Trừng ở Muộn Hải. Quân Minh tấn công Muộn Hải, quân nhà Hồ thua, bỏ Muộn Hải chạy về cửa Đại An (Hà Nam). Quân Minh bị bệnh tật, ốm đau nhiều, buộc phải bỏ Muộn Hải rút về Hàm Tử (Hưng Yên).

Cuối tháng 3/1407, Hồ Nguyên Trừng chỉ huy một lực lượng lớn gồm bộ binh và thuỷ binh tấn công quân Minh ở Hàm Tử nhưng bị đại bại. Hồ Quý Ly, Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương và tướng sĩ nhà Hồ chạy về cố thủ ở Tây Đô (Vinh Lộc, Thanh Hoá).

Tháng 4/1407, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Lý Bân đem một lực lượng mạnh gồm có kỵ binh, bộ binh, thuỷ binh tiến vào đánh bại quân nhà Hồ ở Tây Đô. Triều đình nhà Hồ chạy vào ẩn náu ở vùng Ngàn Sâu (rừng núi Nghệ An).

Tháng 6/1407, cha con Hồ Quý Ly cùng nhiều tướng lĩnh, quan lại triều Hồ bị quân Minh bắt giải về Kim Lăng (Trung Quốc). Vùng Thuận Hoá (Quảng Trị, Thừa Thiên) lần lượt rơi vào tay quân xâm lược Minh.

Chỉ sau sáu tháng, do đường lối chiến lược và chiến thuật sai lầm, cuộc kháng chiến của nhà Hồ đã bị thất bại thảm hại. Sự thất bại đó còn do triều đại nhà Hồ thiếu một cơ sở chính trị vững chắc, mâu thuẫn nội bộ cũng như mâu thuẫn xã hội đang gay gắt, không xây dựng được khối đoàn kết, thống nhất lực lượng toàn dân tộc để cả nước cùng đánh giặc. Từ đó, nước ta rơi vào ách đô hộ tàn bạo của phong kiến nhà Minh trong 20 năm (1407 - 1427).

2. Chính sách đô hộ của phong kiến nhà Minh:

Quan lại nhà Minh thi hành chính sách triệt để cướp bóc, vơ vét chỉ trong 6 tháng xâm lược, quân Minh đã cướp của nước ta 235.900 con voi, ngựa, trâu bò; 13.600.000 thạch thóc; 8.670 chiếc thuyền và nhiều vàng bạc, châu báu đem về Trung Quốc. Chính quyền đô hộ tăng thuế ruộng đất lên gấp ba lần (bằng cách bắt ghi một mẫu thành ba mẫu) so với thời nhà Hồ. Tất cả nghề thủ công, buôn bán, v...v... đều bị đánh thuế. Chính quyền đô hộ kiểm soát việc sản xuất muối, nắm độc quyền buôn bán muối. Người đi đường chỉ được phép mang nhiều nhất là ba bát muối. Nhân dân còn phải cưỡng bức đi khai thác vàng, bạc, mò ngọc trai dưới biển, khai thác lâm thổ sản, các hương liệu quý, đi lao dịch. Nhiều người còn bị bắt làm nô tỳ, hoặc bị bắt đưa về Trung Quốc, phục dịch bọn quan lại nhà Minh. Năm 1407, Trương Phụ bắt đem về nước 7.700 thợ thủ công. Nhiều thầy thuốc, thợ thủ công, dân phu, phụ nữ, trẻ con, đào hát, phường nhạc cũng bị bắt đem về Trung Quốc.

Quân Minh còn cướp ruộng đất của nhân dân chung quanh trại của chúng, biến thành đồn điền giao cho quân lính cày cấy.

Đồng thời, các quan lại nhà Minh còn ráo riết thi hành chính sách ngu dân, đồng hoá dân tộc.

Trong suốt hai mươi năm đô hộ nước ta (1407 - 1427), chính quyền đô hộ nhà Minh đã thực hiện nhiều chính sách và biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xoá bỏ quá khứ đấu tranh, dựng nước và giữ nước bất khuất của dân tộc ta, thủ tiêu những di sản văn hoá truyền thống tốt đẹp của nhân dân Đại Việt để chiếm đóng vĩnh viễn đất nước ta. Nhà Minh nhiều lần đốt sách vở, kể cả sách học của trẻ em, phá huỷ các bia đá. Tháng 8/1418, chính quyền đô hộ tịch thu những sách còn sót lại đem về nước. Nhiều tác phẩm có giá trị về văn hoá, nghệ thuật, lịch sử, quân sự về thời kỳ lịch sử từ thế kỷ XIV trở về trước đều bị cướp hoặc bị thiêu huỷ, trong số đó có bộ Đại Việt sử ký gồm 30 quyển của Lê Văn Hưu, Vạn Kiếp bí truyền, Binh thư yêu lược của Trần Quốc Tuấn, Tử thư thuyết của Chu An, các bộ luật Hình thư, Hình luật của nhà Lý, nhà Trần, Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc, v...v... Năm 1414, chính quyền đô hộ mở trường học ở phủ, châu, huyện để tuyên truyền, nhồi nhét tư tưởng mê tín với đội ngũ giáo viên là những thầy cúng, thầy chùa, thầy phù thuỷ, đạo sĩ. Chúng bắt nhân dân Đại Việt ăn mặc theo phong tục tập quán người Hán. Năm 1414, cấm con trai, con gái không được cắt tóc ngắn, phụ nữ phải mặc áo ngắn, quần dài.

Chúng còn thực hiện chính sách chia rẽ dân tộc và đàn áp tàn bạo. Sau khi đặt được nền đô hộ ở Đại Việt, nhà Minh đã xoá bỏ tên Đại Việt của nước ta, đặt làm quận Giao Chỉ và tổ chức chính quyền đô hộ trên đất nước ta. Đứng đầu chính quyền đô hộ là ba ty: thừa tuyên bố chính sứ ty (ty Bố Chính), đô chỉ huy sử ty (Đô ty), đề hình án sát ty (ty Tư Sát). Ba ty đóng ở thành Đông Quan, chịu sự điều khiển, giám sát trực tiếp của triều đình nhà Minh. Dưới quận là phủ, châu, huyện (năm 1407 cả quận Giao Chỉ có 15 phủ, 36 châu, 181 huyện và 5 châu trực thuộc vào quận). Năm 1419, để nắm chắc các địa phương, nhà Minh lập ra đơn vị lý gồm 110 hộ do lý trưởng đứng đầu, giáp có 10 hộ do giám thủ cai quản. Ở Đông Quan được tổ chức thành phường, ngoại thành thành các sương. Bên cạnh các cơ quan hành chính và tư pháp, có một hệ thống tổ chức quân sự đồ sộ nhằm sẵn sàng đàn áp các cuộc nổi dậy chống chính quyền đô hộ. Một hệ thống đồn luỹ mọc lên khắp nơi. Mỗi vệ có 5.600 quân, mỗi thiên hộ sở có 1.120 quân, mỗi bách hộ sở (100 hộ) có 120 quân. Ngoài hệ thống đồn lũy, vệ sở còn có cả một hệ thống trạm dịch, cứ 10 dặm có một trạm dịch, tất cả có 374 trạm dịch. Chính quyền đô hộ còn tuyển lựa một số người làm tay sai cho chúng và xây dựng một đội nguỵ quân. Đối với nhân dân, chúng thi hành biện pháp kiểm soát chặt chẽ, dùng hình phạt tàn bạo để khủng bố, tiêu diệt tinh thần chống chính quyền đô hộ. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã tố cáo tội ác tàn bạo của giặc Minh như sau:

"Thui dân đen trên lò bạo ngược,
Vùi con đỏ dưới hố tai ương,
Tát khô nước Đông Hải, khôn rửa sạch tanh hôi
Chẻ hết trúc Nam Sơn khó ghi đầy tội ác".

Hai mươi năm đô hộ của nhà Minh đã gây nhiều hậu quả tai hại cho đất nước ta, làm đình trệ nền kinh tế, đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, những di sản văn hoá bị phá huỷ, cuộc khủng hoảng cuối thế kỷ XIV không được giải quyết mà còn thêm sâu sắc hơn, con đường phát triển của đất nước ta bị chững lại. Thế nhưng, nền đô hộ tàn bạo của nhà Minh không tiêu diệt được ý thức dân tộc và tinh thần yêu nước, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã sớm bùng lên liên tục cho tới khi đất nước được độc lập, tự chủ hoàn toàn.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 5-1-2012 06:38 PM
Khởi nghĩa Lam Sơn

1. Những phong trào đấu tranh trước khởi nghĩa Lam Sơn

Mặc dù nhà Minh sau khi diệt nhà Hồ, tuyên bố là "con cháu họ Trần không còn ai nữa" nhưng trên thực tế, các tôn thất nhà Trần vẫn tìm cách tập hợp lại, nổi lên chống ách đô hộ của quân Minh. Tiêu biểu là hai cuộc khởi nghĩa của Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng, sử cũ gọi là "nhà Hậu Trần".

Trần Ngỗi (còn gọi là Trần Quỹ) là con thứ vua Trần Nghệ Tông, năm 1407, nổi lên khởi nghĩa ở Yên Mô (Ninh Bình) được suy tôn là Giản Định Đế. Đông đảo dân chúng và các quý tộc Đại Việt cũ đã hưởng ứng đi theo, trong đó có những tướng giỏi như Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Sau khi giải phóng vùng đất Thanh - Nghệ rộng lơn, nghĩa quân tiến ra Bắc, đại thắng quân Minh trong trận Bô Cô (Ý Yên, Nam Định tháng 12 - 1408) diệt 10 vạn địch. Tướng giặc Mộc Thạnh phải chạy trốn về thành Cổ Lộng. Uy thế khởi nghĩa tăng lên nhanh chóng.

Tuy nhiên, khởi nghĩa không duy trì được lâu. Ngay sau đó, nội bộ các tướng lĩnh bị chia rẽ nghiêm trọng. Các tướng Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân đã bị sát hại (1409), lực lượng nghĩa quân suy yếu. Trương Phụ và Mộc Thành tập trung tấn công, nghĩa quân phải lui về Nghệ An, sau đó Trần Ngỗi bị bắt. Lực lượng còn lại sáp nhập vào khởi nghĩa của Trần Quý Khoáng.

Trần Quý Khoáng là cháu Trần Nghệ Tông tiếp tục khởi nghĩa (1409), xưng là Trùng Quang Đế, được đông đảo nhân dân ủng hộ. Các con của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị cũng theo về. Nghĩa quân kiểm soát được vùng Thanh - Nghệ và Thuận - Quảng, có lần tiến ra tới Bình Than (Hải Dương). Viện binh địch của Trương Phụ tăng cường đàn áp, Nguyễn Biểu nêu gương bất khuất, anh dũng hy sinh (1413). Sau đó, nghĩa quân đã thất bại ở Ái Tử (Quảng Trị). Khởi nghĩa tan rã. Các lãnh tụ đều bị bắt và bị giết. Những cuộc khởi nghĩa chống Minh của nhà Hậu Trần thất bại, vì nó đã diễn ra lẻ tẻ, rời rạc, thiếu phối hợp và thiếu đoàn kết. Nó đánh dấu sự suy tàn và bất lực của tầng lớp quý tộc họ Trần trước những đòi hỏi mới của lịch sử.

Cũng trong thời thuộc Minh, đã có nhiều hình thức đấu tranh khác chống lại ách đô hộ. Đông đảo giới sĩ phu đã có thái độ phản kháng, bất hợp tác với địch. Lúc đó, đã có câu truyền miệng: "Muốn sống ẩn vào rừng núi, muốn chết làm quan triều Minh". Nguyễn Phi Khanh khẳng khái dặn Nguyễn Trãi báo đền nợ nước. Lê Cảnh Tuân viết "Vạn ngôn thư" gửi Thổ quan Bùi Bá Kỳ, khuyên nên tỉnh ngộ, rời bỏ hàng ngũ giặc. Quân Minh đã nhận xét về tầng lớp ngụy quan: "Đầu mục ở Giao Chỉ có kẻ hàng rồi lại phản, ăn ở hai lòng...".

Ở miền núi thuộc Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Nghệ An có phong trào "nghĩa quân áo đỏ" của các tộc người thiểu số chống lại giặc Minh, kéo dài trong nhiều năm. Ngoài ra, có phong trào nổi dậy ở các miền biển như Hải Phòng, Đồ Sơn, Quảng Ninh với Lê Ngã (nguồn gốc gia nô) hay Phạm Ngọc (xuất thân nhà sư). Giặc Minh thú nhận "Người Giao Chỉ - giặc cướp nổi lên như ong, mỗi khi nghe giặc nổi lên là cùng nhau hưởng ứng… tan rồi lại hợp".

Phong trào đấu tranh chống Minh với nhiều hình thức là một phong trào quần chúng , đông đảo rộng kháp, đã phối hợp và dọn đường cho khởi nghĩa Lam Sơn.

2. Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xây dựng và bảo vệ căn cư địa vùng rừng núi Thanh Hóa (1418 - 1423)

Lam Sơn - nơi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa có tên Nôm là làng Cham, nằm bên tả ngạn sông Chu (thuộc Thọ Xuân, Thanh Hoá). Về địa thế, đó là nơi giao tiếp giữa đồng bằng và miền núi, thuận lợi cho khi lực lượng còn non yếu, có thể thủ hiểm chống vây quét. Nhưng một khi lực lượng đã lớn mạnh, có thể từ đó tiến xuống làm chủ những vùng đất rộng, người đông. Về cư dân, ở đây đã tập hợp và đoàn kết nhiều tộc người. Nhiều tướng lĩnh Lam Sơn có nguồn gốc từ những tộc người thiểu số khác nhau như Mường (Lê Lai, Lê Hiến, Lê Hưu), Thái (Lê Cố, Xa Khả Sâm, Cầm Quý) hoặc Tày (Lý Huề).

Linh hồn của cuộc khởi nghĩa là hai lãnh tụ xuất sắc: Lê Lợi và Nguyễn Trãi. Lê Lợi là một hào trưởng thuộc giai tầng xã hội mới (địa chủ bình dân) có uy tín và thế lực lên, tính hào phóng và quyết đoán, đã tập hợp được những gia nhân và nông dân trong vùng. Nguyễn Trãi là người tài đức song toàn, có nguồn gốc vừa quý tộc vừa bình dân, lại có tri thức cao (đỗ Thái học sinh thời Hồ) vừa có thực tiễn cuộc sống (đã trải qua các triều Trần, Hồ và thời thuộc Minh). Ông là người nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, thân dân và chiến thuật "tâm công" (đánh vào lòng người). Các lãnh tụ Lam Sơn đã biết sử dụng những yếu tố thuận lợi mang tính tổng hợp (thiên thời, địa lợi, nhân hòa) để tiến hành khởi nghĩa.

Năm 1416, Lê Lợi và 18 người dã tổ chức Hội thề Lũng Nhai (làng Mé, cách Lam Sơn 10 km), nêu cao quyết tâm đoàn kết diệt giặc, đặt cơ sở cho sự hình thành lực lượng nòng cốt lãnh đạo khởi nghĩa. Đầu năm 1418, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, tự xưng là Bình Định Vương, truyền hịch kêu gọi nhân dân đứng lên cứu nước. Lúc này, lực lượng quân sĩ còn rất ít, lại thiếu thốn lương thảo:

"Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Lúc Khôi Huyện quân không một đội
"

(Bình Ngô đại cáo)

Ngay sau khi nổ ra khởi nghĩa, nghĩa quân phải liên tiếp chống lại 3 lần quân địch vây quét ở núi Chí Linh. Trong gian khổ, có nhiều gương chiến đấu hy sinh dũng cảm, điển hình là việc "Lê Lai liều mình cứu Chúa".

Lợi dụng khó khăn của nhà Minh và để bảo toàn lực lượng về quân sự và chính trị, Lê Lợi đã tìm cách tạm hòa hoãn với địch trong hơn 1 năm (1423 - 1424). Kết quả của kế sách này đã giữ vững được căn cứ địa, chặn đứng âm mưu tiêu diệt khởi nghĩa của quân địch, chuẩn bị đón chờ thời cơ mới.

3. Tiến quân vào Nghệ An, mở rộng vùng giải phóng Tân Bình - Thuận Hóa (1424 - 1425)

Vượt qua thời kỳ củng cố căn cứ địa, năm 1424 nghĩa quân chuyển sang giai đoạn phát triển. Đó là kế hoạch tiến xuống vùng đồng bằng Nghệ An của Nguyễn Chích. Ông nói :"Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông, tôi đã từng qua lại nên rất thông thuộc đường đất. Nay ta trước hãy đánh lấy Trà Long (huyện lỵ: Trà Lân), chiếm giữ cho được Nghệ An làm chỗ dừng chân, rồi dựa vào nhân lực, tài lực đất ấy mà quay ra đánh Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ".

Theo đúng kế hoạch, tháng 10 - 1424, nghĩa quân đã tiến công thành Trà Lân (Tương Dương, Con Cuông, Nghệ An), do nguỵ quan Cầm Bành với hơn 1000 quân đóng giữ. Sau 2 tháng bị bao vây, Cầm Bành phải đầu hàng. Chiếm thành Trà Lân, nghĩa quân đã khai thông và kiểm soát được con đường từ miền núi xuống vùng đồng bằng.

Sau khi diệt địch trong trận phục kích ở ải Khả Lưu - Bồ Ái, nghĩa quân tiến xuống giải phóng toàn bộ các châu huyện thuộc Nghệ An, đồng thời vây hãm chặt thành Nghệ An trong nhiều tháng. Thành này do tướng giặc Trần Tư và sau là Phương Chính trấn giữ. Nghĩa quân đập tan nhiều cuộc phản kích của quân Minh. Nguyễn Trãi đã nhiều lần gởi thư khiêu chiến Phương Chính, nhưng giặc vẫn đóng chặt cửa thành cố thủ. Đồng thời, Lê Lợi cũng cho xây dựng một hệ thống thành lũy trên núi Thiên Nhẫn làm căn cứ chính của nghĩa quân, đặt tên là Lục Niên thành (để kỷ niệm 6 năm khởi nghĩa).

Thừa lúc ghìm chặt quân địch ở đất Nghệ An, năm 1425, Lê Lợi cử Đinh Lễ tấn công ra phía bắc, vây hãm thành Diễn Châu, Tây Đô, tạo được vùng giải phóng rộng lớn, dồi dào sức người sức của, cắt đôi vùng chiếm đóng của địch thành hai nơi cách xa nhau, tạo điều kiện cho ta tiêu diệt.

Tiếp theo, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân cũng được cử vào giải phóng miền đất Tân Bình - Thuận Hóa (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế) là nơi lực lượng địch tương đối yếu và sơ hở. Trong chiến dịch này, nghĩa quân đã kết hợp cả lực lượng thủy quân (theo đường biển) và bộ binh (theo đường núi). Mặt khác, nghĩa quân vẫn tiếp tục vây hãm chặt, giam chân địch trong nhiều thành lũy mà không mất sức tấn công. Về điều này, Lê Lợi đã nói: "Các bậc khanh tướng giỏi đời xưa, bỏ chỗ vững đánh chỗ hở, lánh chỗ thực đánh chỗ trống, như thế thì dùng sức chỉ một nửa mà thành công gấp đôi".

4. Tổng tấn công ra Bắc, giải phóng hoàn toàn đất nước (1426 - 1427)

Cho tới năm 1426, sau 8 năm chiến đấu, lực lượng nghĩa quân Lam Sơn đã tăng lên hàng vạn, có cả quân bộ lẫn quân thủy, tạo nên bước nhảy vọt về chất. Trong điều kiện đó, Lê Lợi quyết định tổng tấn công ra Bắc, tiến tới giải phóng hoàn toàn đất nước.

Tháng 9/1426, khoảng gần 10.000 nghĩa quân từ Thanh Hóa đã tiến ra Bắc theo 3 đạo:

- Đạo phía tây, do Phạm Văn Xảo và Lý Triện chỉ huy, tiến đánh miền Tây Bắc, chặn viện binh từ Vân Nam sang.

- Đạo phía đông, do Bùi Bị, Lưu Nhân Chú chỉ huy, tiến ra miền đồng bằng Bắc Bộ và vùng Đông Bắc, chặn viện binh từ Quảng Tây sang.

- Đạo chính giữa, do Đinh Lễ và Nguyễn Xí chỉ huy, tiến thẳng ra phía nam thành Đông Quan, uy hiếp vây hãm thành.

Nhiệm vụ của các cánh quân này chưa phải là tiêu diệt ngay toàn bộ sinh lực địch, mà là giải phóng đất đai, giành thêm dân, bao vây uy hiếp thành, chặn viện binh địch.

Cùng với nghĩa quân, một phong trào nổi dậy hưởng ứng của quần chúng nhân dân đã lan rộng khắp mọi nơi, với nhiều hình thức: gia nhập nghĩa quân, ủng hộ tiếp tế lương thực thực phẩm, phối hợp đánh giặc, trong đó đã nổi lên những tấm gương dũng cảm như bà hàng nước Lương Thị Minh Nguyệt thành Cổ Lọng (Ý Yên, Nam Định), cô gái họ Đào ở Hưng Yên...

Cùng thời gian đó, nghĩa quân đã tăng cường uy hiếp, vây hãm thành Đông Quan, trong đó có chủ lực và cơ quan đầu não của địch. Bị thất bại trong những cố gắng phản kích ở Ninh Kiều (Chương Mỹ, Hà Tây) và Nhân Mục (Thanh Trì, Hà Nội), quân Minh chủ trương cố thủ trong thành, chờ quân cứu viện.

Tháng 10/1426, địch đã cho rút đại bộ phận quân sĩ từ thành Nghệ An về tăng cường cho Đông Quan. Tiếp đó, tháng 11, 5 vạn viện binh từ Trung Quốc, do Vương Thông làm Tổng chỉ huy, cùng kẻo đến Đông Quan, đưa tổng số quân địch lên hơn 10 vạn.

Với lực lượng khá hùng hậu đó, Vương Thông quyết định mở đợt phản kích, đánh nống ra phía tây thành Đông Quan để giải vây, giành lại quyền chủ động. âm mưu của địch là qua Cầu Giấy, tiến lên Yên Sở, rồi theo sông Đáy xuống Ninh Kiều, nhằm tấn công căn cứ nghĩa quân ở Cao Bộ,thừa thế tiến đánh thăng vào Thanh Hoá.

Trước tình hình đó, hai cánh quân của Lý Triện và Đinh Lễ đã phối hợp hành quân mai phục tiêu diệt địch. Các đơn vị phục binh được bố trí ở Tốt Động (nơi cánh đồng chiêm, sâu, lầy lội) và Chúc Động (vùng ven chân núi, hiểm trở). Lợi dụng trời mưa, người ngựa địch bị sa lầy, quân ta đã đổ ra tiên đánh, tiêu diệt hơn 5 vạn quân địch, bắt sống hơn 1 vạn, chủ tướng Vương Thông bị thương. Sử cũ ghi "dòng sông Ninh Kiều đã tắc nghẽn vì xác địch". Chiến thắng Tốt Động - Chúc Động đã đập tan âm mưu phản kích của địch, đẩy địch lún sâu vào thế bị động, xiết chặt hơn nữa vòng vây thành Đông Quan. Lúc này, Lê Lợi từ Thanh Hóa đã tiến ra vùng Đông Quan, đóng đại bản doanh ở Bồ Đề (Gia Lâm), bên kia sông Nhị. Ông cho dựng một lầu cao, ngang tầm tháp Báo Thiên, để thường xuyên theo dõi tình hình địch trong nội thành Đông Quan.

Song song với việc tiếp tục vây hãm thành, Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã thực hiện chiến thuật "tâm công". Kết hợp đấu tranh ngoại giao, chính trị, binh vận với đấu tranh quân sự. Để tạo điều kiện hòa đàm thương lượng, Lê Lợi đã lập Trần Cảo - một người tự xưng là con cháu vua Trần - lên làm vua trên danh nghĩa. Nguyễn Trãi cũng viết nhiều thư dụ hàng gửi Vương Thông, nói rõ sáu điều tất thua, khuyên nên giảng hòa rút quân, làm suy sụp ý chí, tinh thần của địch, trước khi quyết chiến.

Trận quyết đấu cuối cùng đi đến giải phóng hoàn toàn đất nước đã diễn ra với chiến tháng Chi Lăng - Xương Giang diệt viện binh địch.

Tháng 10/1427, Liễu Thăng (viên tướng đã chỉ huy thủy binh triệt Hồ Quý Ly) đem 10 vạn viện binh theo đường Lạng Sơn tiến vào Đại Việt. Cùng lúc, đạo quân Mộc Thạnh tiến theo đường Vân Nam. Khi qua ải Chi Lăng (Lạng Sơn) - nơi đã được mệnh danh là yết hầu của Giao Chỉ với địa điểm hiểm yếu nổi tiếng Quỷ Môn quan - Liễu Thăng đã bị nghĩa quân do Lưu Nhân Chú, Trần Lựu chỉ huy dùng mưu trá hàng nhử địch sa vào trận địa phục kích, giết chết bên sườn núi Mã Yên. Hàng vạn quân địch bị tiêu diệt. Tiếp theo, ta còn tấn công trên tiếp ở các trận Cần Trạm, Phố Cát. Binh bộ thượng thư Lý Khánh phải tự tử.

Sau khi đại bại, quân Minh tháo chạy về co cụm tại Xương Giang (Bắc Giang). Thôi Tụ phải đắp thành lũy giữa đồng để phòng ngự. Lê Lợi và Trần Nguyên Hãn điều binh xiết chặt vòng vây, tổng tấn công Xương Giang, diệt 5 vạn, bắt sống 3 vạn địch, trong số đó có các tướng Thôi Tụ, Hoàng Phúc. Sử Trung Quốc ghi nhận "chỉ có một viên chủ sự là trốn thoát được về nước". Được tin Liễu Thăng chết, đạo viện binh của Mộc Thạnh cũng hết hoảng rút lui. Chiến thắng Chi Lăng - Xương Giang đã chôn vùi những hy vọng cuối cùng của quân Minh.

Không có viện binh, quân Minh càng khốn đốn ở Đông Quan, tinh thần nao núng, suy sụp nhanh chóng. Lê Lợi nhận định: "Viện binh bị phá, thì thành tất phải hàng". Cuối năm 1427, Vương Thông buộc phải xin hòa, thỏa thuận rút quân không chờ viện binh, cam kết trong Bài văn hội thề đọc tại một địa điểm phía nam thành Đông Quan. Lê Lợi hứa cung cấp lương thực, thuyền bè, sửa chữa cầu đường, tạo điều kiện cho quân Minh nhanh chóng rút về nước.

Chiến tranh kết thúc, Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi nhân danh Lê lợi soạn thảo được công bố. Đó là bài ca khải hoàn, bản tổng kết chiến tranh, bản tuyên ngôn độc lập, trong đó, đã khẳng định chủ quyền dân tộc Việt như một quốc gia lịch sử - văn hoá.

"Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã phân
Phong tục Bắc, Nam cũng khác".

Sau khi tố cáo tội ác của giặc và tổng kết quá trình cuộc khởi nghĩa - kháng chiến, bài cáo nêu lên những đường lối chiến tranh cơ bản, cũng là những nguyên nhân thắng lợi. Đó là tư tưởng nhân nghĩa được quán triệt trong toàn bộ cuộc chiến.

"Lấy đại nghĩa thắng hung tàn
Đem chí nhân thay cường bạo".

Tư tưởng toàn dân đoàn kết:

"Tụ tập khắp bốn phương dân chúng
Dư trên đều một bụng cha con".

cũng như chiến thuật của một cuộc chiến tranh có tính chất nhân dân:

"Lấy ít địch nhiều, thường dùng mai phục
Lấy yếu chống mạnh, hay đánh bất ngờ".

Ngày 29 tháng 4 năm 1428 (năm Mậu Thân), Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng đế (tức Lê Thái Tổ), lập ra triều Lê (Hậu Lê), đặt Quốc hiệu là Đại Việt.


Khởi nghĩa Lam Sơn

Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 5-1-2012 09:02 PM
Nhà Hậu Lê (1428 - 1789)

Đại Việt thế kỉ XV - Thời Lê Sơ

Triều Hậu Lê kéo dài 361 năm (1428 - 1789), được chia làm 2 thời kì: Lê sơ được tình từ khi Lê Lợi lên ngôi (1428) đến khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi (1527), gồm 11 đời vua, trong đó Lê Thái Tổ là người sáng lập, Lê Thánh Tông là người đưa vương triều Lê đến giai đoạn thịnh trị nhất.

1. Tình hình chính trị:

* Bộ máy chính quyền:

Một công việc thiết yếu mà các vua thời Lê sơ đều quan tâm và cố gắng thực hiện là kiện toàn bộ máy nhà nước quân chủ tập trung, mang tính quan liêu chuyên chế. Đến thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497), nó đạt tới đỉnh cao, trở thành một nhà nước toàn trị, cực quyền. Đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự chuyển đổi mô hình, từ nền quân chủ quý tộc thời Lý - Trần mang đậm tính Phật giáo màu sắc Đông Nam Á sang một nền quân chủ quan liêu Nho giáo Đông Á.

Trong thiết chế quân chủ tuyệt đối thời Lê sơ, vai trò của nhà vua đã được đẩy lên rất cao với chủ nghĩa "tôn quân". Theo đó, nhà vua là "con Trời". Người giữ mệnh Trời, thay Trời trị dân; các ấn tín của vua đều khắc chữ "Thuận thiên thừa vận", "Đại thiên hành hóa". Điện Kính Thiên được xây trong Hoàng thành Thăng Long. Hoàng đế là người chủ tế duy nhất trong các buổi tế lễ (tế Trời, tế Tôn miếu, tế Khổng Tử), là Tổng chỉ huy quân đội (Lê Thánh Tông đích thân cầm quân đi đánh Champa). Thời Lê Thánh Tông, chức Tướng quốc (Tể tướng) đầu triều và một số chức danh đại thần khác đã bị bãi bỏ. Hoàng đế trực tiếp điều khiển triều đình. Quyền lực của các quý tộc tôn thất cũng bị hạn chế, không được lập quân vương hầu, phủ đệ, Lê Thánh Tông bỏ lệ ban Quốc tính. Thời Lê sơ, một số công thần có uy tín và quyền lực cao đã bị nghi kỵ và lần lượt bị giết hại, như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, Lê Khả, Lê Sát, Lưu Nhân Chú và Nguyễn Trãi.

Bộ máy quan liêu hành chính và chuyên môn cũng được kiện toàn từng bước. Năm 1471, Lê Thánh Tông đã tiến hành một đợt cải cách hành chính lớn (dụ Hiệu định quan chế) nhằm tăng cường sự kiểm soát chỉ đạo của Hoàng đế đối với các triều thần, tăng cường sự ràng buộc, kiểm soát lẫn nhau trong giới quan liêu, tăng cường tính hiệu lực và hiệu quả của bộ máy quan lại.

Trong triều đình, dưới quyền điều khiển trực tiếp của nhà vua là 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công, đứng đầu là Thượng thư, giúp việc có 2 Thí lang. Bên cạnh đó, còn có Lục khoa với chức năng theo dõi, giám sát và Lục tự với chức năng điều hành. Những cơ quan chuyên môn trong triều gồm có các đài, các viện, giám, sảnh như Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Quốc tử giám, Nội thị sảnh...

Về mặt hành chính, trước đó, Lê Thái Tổ chia nước thành 5 đạo. Lê Thánh Tông đã cải tổ lại, chia thành 13 đạo (sau đổi là 13 thừa tuyên), đó là: Lạng Sơn, An Bang, Thái Nguyên, H­ưng Hoá, Tuyên Quang, Bắc Giang, Nam Sách, Quốc Oai, Thiên Trường, Thanh Hoá, Nghệ An, Thuận Hóa và Quảng Nam. Kinh thành Thăng Long thuộc một đơn vị hành chính đặc biệt, gọi là phủ Trung Đô, sau đổi thành phủ Phụng Thiên, bao gồm 2 huyện Vĩnh Xương (sau đổi thành Thọ Xương) và Quảng Đức, từ năm 1430 gọi là Đông Kinh (để phân biệt với Tây Kinh, tức Lam Kinh, Lam Sơn - Thanh Hoá). Dưới đạo thừa tuyên có 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, cùng các đơn vị cơ sở như hương, xã, thôn, trang, sách, động, nguồn, trường. Riêng kinh thành Thăng Long được chia thành 36 phường.

Đứng đầu các đạo thừa tuyên là các tuyên phủ sứ. Ở mỗi thừa tuyên có 3 ty: Đô ty (phụ trách quân đội) Thừa ty (phụ trách dân sự hành chính) và Hiến ty (phụ trách thanh tra giám sát). Các xã được chia thành 3 loại: xã lớn (500 hộ), xã vừa (trên 300 hộ) và xã nhỏ (trên 100 hộ). Chức xã quan do dân bầu, Nhà nước chỉ đạo và xét duyệt, tiêu chuẩn là các giám sinh, sinh đồ, từ 30 tuổi trở lên và có hạnh kiểm.

Tổng số quan lại (từ cấp huyện trở lên) thời Lê Thánh Tông là 5370 người, gồm 2755 quan trong triều và 2615 quan ở các địa phương, đại bộ phận xuất thân từ khoa cử.

* Quân đội:

Quân đội thời Lê sơ là một quân đội mạnh, được huấn luyện kỹ, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Sau cuộc kháng chiến chống Minh thắng lợi, Lê Lợi có 35 vạn quân, sau khi cho giải ngũ, còn 10 vạn.

Quân đội được chia thành cấm binh và ngoại binh. Lê Thái Tổ chia quân thành 5 phiên, Lê Thánh Tông đổi thành 5 phủ (quân khu). Cũng như thời Lý - Trần, nhà Lê đã áp dụng chính sách "ngụ binh ư nông", cho quân lính thay phiên về làm ruộng.

Theo chế độ tuyển quân, cứ 3 đinh lấy một lính thường trực (tráng hạng) và một lính trù bị (quân hạng). Có các loại quân thủy, bộ, tượng, kỵ. Vũ khí ngoài giáo mác, cung tên, có hỏa pháo và hỏa đồng. Chế độ tập luyện quy củ. Hàng năm, quân sĩ từ Thanh Hóa trở ra tập duyệt ở kinh đô, từ Thanh Hóa trở vào tập duyệt tại địa phương. Ở phía tây thành Thăng Long, có khu Giảng Võ điện, Giảng Võ đường chuyên huấn luyện tướng sĩ.

* Luật pháp:

Trong việc trị nước, bên cạnh lễ giáo, các vua thời Lê sơ rất chú trọng đến việc chế định pháp luật. Lê Thánh Tông nói: "Pháp luật là phép công của nhà nước, vua cùng quan đều phải theo". Đến thời Hồng Đức, Lê Thánh Tông đã cho ban hành bộ luật thành văn hoàn chỉnh, gồm 722 điều, được gọi là Quốc triều hình luật hay Bộ luật Hồng Đức, sẽ được duy trì và bổ sung ở các thế kỷ sau. Về hình thức, đó là bộ luật hình sự (với khung ngũ hình: suy, trưởng, đồ, lưu, tử), nhưng thực chất là bộ luật tổng hợp, có các điều khoản về điền sản, dân sự, hôn nhân gia đình...

Nội dung cơ bản của Bộ luật là bảo vệ vương quyền, chế độ quan liêu, trật tự đẳng cấp, gia đình phụ hệ gia trưởng và ý thức hệ Nho giáo. Luật quy định 10 trọng tội không thể nhân nhượng được (thập ác) và 8 hạng người có thể miễn giảm tội (bát nghị).  

Bộ luật mang tính đẳng cấp, có mô phỏng luật Trung Quốc, nhưng nhiều điều khoản đã lưu ý đến những tập quán cổ truyền mang tính đặc hữu dân tộc.

Quyền lợi của phụ nữ đã được chú trọng trong việc thừa kế gia tài và xét xử ly hôn, được coi là tiến bộ hơn so với luật Trung Quốc đương thời.

* Củng cố chính quyền dân tộc:

Với lòng tự hào dân tộc, các vua thời Lê sơ đã không ngừng củng cố, phát triển quốc gia dân tộc thống nhất. Lê Thánh Tông nói: "Quyết không để một tấc đất, một thước sông của Thái Tổ lọt vào tay kẻ khác". Các vua Lê đã thi hành một chính sách hòa hoãn nhưng kiên quyết với nhà Minh trong vấn đề biên giới, phát triển lãnh thổ về phía tây và phía nam. Năm 1471, Lê Thánh Tông cất quân đánh Cham pa, chiếm thành Đồ Bàn (Bình Định), lấy vùng đất mới lập thành thừa tuyên Quảng Nam. Các nước trong khu vực (như Xiêm La, Miến Điện) đều đến triều cống.

Để nắm chắc và khống chế các tù trưởng thiểu số, triều đình nhà Lê đã áp dụng những biện pháp kết hợp trấn áp với phủ dụ (như trường hợp đối với Đèo Cát Hãn, tù trưởng Thái ở Lai Châu). Nhà vua cũng cho điều tra và lập sổ hộ tịch, khảo sát địa hình, lập bản đồ hành chính quốc gia (bản đồ Hồng Đức năm 1469), đề cao, tôn vinh truyền thống dân tộc và các danh nhân lịch sử - văn hoá. Ở thế kỷ XV, Đại Việt đã trở thành một quốc gia có uy thế trong khu vực Đông Nam Á.

2. Tình hình kinh tế,­ xã hội:

Nhà nước quân chủ tập trung thời Lê sơ là một nhà nước mạnh và ổn định. Trong sự phục hồi và phát triển kinh tế, nhà nước đó đã đề cao vai trò chỉ đạo và sự can thiệp của mình vào đời sống kinh tế - xã hội, duy trì sự cân bằng giữa những yếu tố nhà nước và dân gian, công hữu và tư hữu. Thời Lê sơ, nền kinh tế tiểu nông - sản xuất nhỏ làng xã đã được duy trì và khuyến khích, với sự can thiệp và bảo hộ của một nhà nước thu tô, trọng nông. Nhà nước đó cũng có thái độ dè dặt, không khuyến khích nền kinh tế công thương nghiệp hàng hóa phát triển, nắm độc quyền gian thương với nước ngoài.

* Nông nghiệp:

Ruộng đất thời Lê sơ bao gồm ruộng đất nhà nước, ruộng công làng xã và ruộng tư.

Ruộng nhà nước thường được gọi là quan điền. Có ruộng quốc khố là những ruộng do nhà nước trực tiếp quản lý và sản xuất, thu hoạch đưa vào kho công. Lộc điền là loại ruộng của nhà nước ban cấp cho những quan liêu cao cấp (từ tứ phẩm trở lên), gồm có ruộng ban cấp được phép thừa kế (ruộng thế nghiệp) và ruộng ban cấp tạm thời, có thể thu hồi lại sau khi chết (ruộng ân tứ). Diện tích lộc điền có thể thay đổi từ 40 mẫu (quan tứ phẩm) đến trên 2000 mẫu (các thân vương). Người được cấp chỉ được hưởng hoa lợi, tô thuế, có một số hộ người hầu nhưng không có nông nô và nô tì.

Lộc điền thời Lê thay thế thái ấp điền trang thời Lý - Trần, nó không tạo điều kiện cho yếu tố cát cứ phát triển. Một số ruộng thế nghiệp của lộc điền có xu hướng trở thành những ruộng tư, người được cấp trở thành quan liêu - địa chủ.

Đồn điền là loại ruộng do nhà nước trực tiếp quản lý đứng đầu là các quan chánh, phó đồn điền sứ. Các quân sĩ, tù binh, phạm nhân tội đồ, dân lưu tán được chiêu mộ. Ruộng đất đồn điền phần lớn có nguồn gốc khai hoang hoặc ở các miền biên ải. Năm 1481, Lê Thánh Tông cho lập 43 sở đồn điền. Vùng Bắc Bộ có 30 sở, chung quanh Hà Nội có các sở đồn điền ở Dịch Vọng, Quán La, Thịnh Quang...

Ruộng làng xã gồm có các loại công điền và tư điền. Thời Lê sơ, tuy ruộng tư đã phát triển, nhưng ruộng công vẫn chiếm ưu thế, qua việc thực hiện phép quân điền.

Chính sách "quân điền" bắt đầu từ thời Lê Thái Tổ. Sau khi kháng chiến thắng lợi, tình hình ruộng đất xáo trộn, nhà vua đã có ý định chia ruộng công cho nhân dân, qua lời phủ dụ: "chiến sĩ thì nghèo, du sĩ thì giàu, người chiến sĩ phải chiến đấu thì không có tấc đất để ở, kẻ du thực vô ích cho nước thì lại có ruộng đất  quá nhiều... Do đó, không có người tận tâm với nước mà chỉ lo việc phú quý". Phép quân điền được thực hiện hoàn chỉnh dưới thời Lê Thánh Tông.

Theo đó, ruộng đất công làng xã cứ 6 năm một lần được phân phối lại, dưới sự chỉ đạo của nhà nước. Quỹ đất theo đơn vị làng xã, có thể điều chỉnh chút ít giữa các xã lân cận. Đối tượng được chia ruộng kể từ các quan tam phẩm (nếu chưa có hoặc có ít lộc điền) được chia 11 phần tới các loại cô nhi, quả phụ được 3 phần. Người cày ruộng phải nộp tô cho nhà nước (các quan tam, tứ phẩm thì được miễn). Loại công điền quân phân này trên danh nghĩa thuộc quyền sở hữu nhà nước, do làng xã quản lý và các hộ gia đình sử dụng.

Chính sách quân điền thời Lê sơ là một b­ước trong quá trình phong kiến hóa làng xã, chuyển từ nền kinh tế điền trang quý tộc sang nền kinh tế tiểu nông. Qua đó, nhà nước đã nắm được làng xã và dân chúng tăng nguồn thu nhập (qua nghĩa vụ tô thuế, lao dịch, binh dịch). Mặt khác, phát triển được sản xuất và ổn định được đời sống nhân dân. Đó là một biện pháp tích cực trong chính sách ruộng đất thời Lê sơ, nhưng sau đã dần dần mất tác đụng do nạn chấp chiếm ruộng đất.

Bên cạnh ruộng công, ruộng tư thời Lê sơ cũng đã phát triển, một số là của địa chủ quan liêu và đại bộ phận là của địa chủ bình dân. Ruộng tư không phải nộp tô cho nhà nước. Nhà nước thừa nhận nhưng không khuyến khích loại ruộng này. Bộ luật nhà Lê, nhất là chương Điền sản đã nói đến các thủ tục làm văn tự khế ước trong vấn đề bán nhượng, tranh chấp kiện tụng hoặc thừa kế về ruộng đất.

Sự phát triển của ruộng tư thời Lê sơ phản ánh xu thế phát triển khách quan về ruộng đất trong lịch sử Việt Nam, xác lập quan hệ sản xuất phong kiến phổ biến địa chủ - tá điền trong xã hội. Tuy nhiên, đây là một quá trình tư hữu hóa không tự nhiên, không được nhà nước khuyến khích, nên đã dẫn đến những tệ nạn như chiếm công vi tư, chấp chiếm ruộng đất... dần dần đi tới tình trạng khủng hoảng ruộng đất.

Nhà nước Lê sơ là một nhà nước trọng nông, đã đề ra nhiều biện pháp để khuyến khích và phát triển nông nghiệp. Việc chăm sóc, đào đắp kênh đê rất được chú trọng, đặt ra các chức quan Khuyến nông và Hà đê. Khi khẩn cấp đã huy động cả học sinh Quốc Tử Giám trong việc hộ đê. Ở Nam Định, có nhiều đoạn đê ngăn nước mặn còn mang lên là đê Hồng Đức, cũng như ở Thanh Hoá, nhiều sông đào, được gọi là sông nhà Lê. Để bảo đảm sản xuất, các vua Lê đã cho thi hành chính sách "ngụ binh ư nông", cho quân đội thay phiên về làm ruộng, theo tinh thần "tĩnh vi nông. động vi binh". Luật pháp nghiêm cấm việc giết trâu, bò sống để bảo vệ sức kéo. Khi huy động công việc lao dịch, các quan sở tại phải tránh thời vụ, để không làm kinh động sức dân.

Quan điểm trọng nông là một chính sách truyền thống của các vương triều phong kiến Việt Nam. Nó cũng xuất phát từ nguyên lý trọng bản, ức mạt của Nho giáo. Vì vậy, thời Lê sơ, quan điểm trọng nông bắt đầu đi kèm với quan điểm ức thương.

* Thủ công nghiệp:

Nhà nước Lê sơ một mặt dung dưỡng nền sản xuất nhỏ thủ công nghiệp trong các làng xã, mặt khác đẩy mạnh hoạt động của các quan xưởng thuộc thủ công nghiệp nhà nước. Ở nông thôn, đã xuất hiện nhiều làng chuyên nghề như Bát Tràng (gốm sứ), Huê Cầu (nhuộm thâm). Ớ kinh thành Thăng Long, Dư địa chí ghi lại một số phường chuyên nghề nổi tiếng như Tàng Kiếm làm kiệu, áo giáp, Yên Thái làm giấy, Nghi Tàm và Thuỵ Chương dệt vải lụa, Hà Tân nung vôi, Hàng Đào nhuộm điều, Tả Nhất làm quạt, Đường Nhân bán áo diệp y.

Các quan xưởng hay Cục bách tác là những xưởng thủ công do nhà nước trực tiếp quản lý và điều hành sản xuất, phục vụ cho nhu cầu của quan liêu, quân sĩ và dân chúng như các xưởng đúc tiền, chế tạo vũ khí, đóng thuyền, sản xuất các đồ dùng nghi lễ, phẩm phục.

Trong các quan xưởng, nhà nước áp dụng chính sách "công tượng". Các thợ khéo bị trưng lập theo nghĩa vụ lao dịch, được phiên chế thành đội ngũ như binh lính, phải cưỡng bức lao động dưới sự đôn đốc của các giám đương và chủ ty. Đó là một nền sản xuất bao cấp, không tiếp cận với thị trường trao đổi buôn bán.

* Thương nghiệp:

Hoạt động thương nghiệp chủ yếu ở thời Lê sơ là nền buôn bán nhỏ thông qua mạng lưới chợ ở nông thôn và thành thị. Nhà Lê đã ban hành lệ lập chợ, khẳng định "trong dân gian hễ có dân là có chợ, để lưu thông hàng hoá", quy định nguyên tắc họp chợ luân phiên. Ở Thăng Long - Đông Kinh, các thương nhân từ các nơi về, đua nhau mở hàng quán phố xá buôn bán. Lúc đầu, chính quyền địa phương định đuổi họ về nguyên quán, sau theo đề nghị của Quách Đình Bảo đã đồng ý cho họ ở lại sinh nhai, để cho hàng hóa lưu thông và nhà nước cũng có được khoản thu từ thuế (1481).

Thời Lê sơ, nhà nước bỏ lệ tiêu tiền giấy của nhà Hồ, cho lưu thông tiền đồng. Lê Lợi nói :"Tiền là huyết mạch của dân, không thể không có". Nhà nước quy định 1 quan là 10 tiền, 1 tiền là 60 đồng, tức 1 quan = 600 đồng.

Riêng việc buôn bán với nước ngoài, nhà nước đã kiểm soát nghiêm ngặt các cáng khẩu, như Vân Đồn, Vạn Ninh, (Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An), cấm dân chúng tự tiện buôn bán trao đổi hàng hóa với các tàu buôn ngoại quốc, thi hành chính sách "bế quan toả cảng".

* Kết cấu xã hội:

Xã hội Đại Việt thời Lê sơ là một xã hội tương đối ổn định và phát triển, đồng thời là một xã hội mang tính đẳng cấp đã chín muồi. Có hai đẳng cấp chính: quan liêu và thứ dân (chia thành 4 tầng lớp: sĩ. nông, công, thương). Thời Lê sơ các quan hệ giai cấp (địa chủ phong kiến và nông dân) đã đan chen vào các quan hệ đẳng cấp.

Quan liêu là đẳng cấp cầm quyền, cai trị, đồng thời cũng được coi là tầng lớp ưu tú của xã hội, yêu nuôi và giáo hóa dân chúng. Đội ngũ quan chức thời Lê sơ là những tri thức nho sĩ được tuyển lựa kỹ lưỡng (chủ yếu qua khoa cử), được rèn luyện và kiểm soát chặt chẽ (bởi nhà vua, các quy chế, bộ Lại và chế độ khảo khóa). Đó cũng là đẳng cấp có nhiều đặc quyền, ưu đãi trong các tiêu chuẩn sinh hoạt (nhà cửa, quần áo, võng lọng), được ban cấp đất ở, ruộng lộc điền, lương bổng.

Đầu thời Lê sơ, các công thần chủ yếu là quan võ (tham gia từ đầu cuộc khởi nghĩa), sau dần dần chuyển sang các quan văn (những người đỗ đại khoa). Với việc mở rộng khoa cử, các nho sĩ trí thức bình dân đã có điều kiện tham gia chính quyền, tạo nên sự bình đẳng tiến thân, thoáng rộng hơn so với thời Lý - Trần. Tuy nhiên, quan lại lúc này cũng bị kiểm soát ràng buộc nghiêm ngặt bởi các lễ thức, quy phạm nho giáo, do vậy, đã mang nhiều tính chuyên chế và quan liêu hơn.

Đẳng cấp thứ dân (bách tính) là giai tầng xã hội bị cai trị, bao gồm 4 tầng lớp chính: sĩ, nông, công, thương. Nho sĩ thời Lê sơ là cầu nối giữa bình dân và quan liêu. Nông dân là tầng lớp xã hội đông đảo nhất, đã phân hóa thành nhiều bộ phận: địa chủ bình dân, nông dân tự canh, tá điền. Một số cường hào có thể đã xuất hiện trong làng xã. Địa chủ bình dân cùng với địa chủ quan liêu đã hợp thành giai cấp phong kiến. Thợ thủ công gồm một số công tượng và chủ yếu là thợ thủ công trong làng xã. Do quan điểm "ức thương", thương nhân là tầng lớp xã hội bị coi rẻ hơn cả, bị gán cho những tính cách "phi nghĩa", "bất nhân".

3. Tình hình tư tưởng, văn hóa:

Nhìn chung, thời Lê sơ, văn hóa Đại Việt đã chuyển sang sự ưu thắng của văn hóa Đông Á, nho học - nho giáo.

Đây là thời kỳ diễn ra một sự phân dòng văn hóa. Dòng văn hóa dân gian làng xã không được nhà nước khuyến khích, đã tách khỏi dòng văn hóa cung đình. Sự phân dòng văn hóa này đã phản ánh sự phân tầng đẳng cấp ngoài xã hội.

Tuy nhiên, trên thực tế, các yếu tố văn hóa khác biệt nhau vẫn cùng tồn tại, chung sống hòa bình, như giữa Nho và Phật, Đạo, giữa văn hóa chính thống và văn hóa dân gian. Mô hình ý thức hệ đã phải nhân nhượng với thực trạng văn hóa.

* Tôn giáo, tư tưởng:

Các nhà vua thời Lê sơ đã từ bỏ chính sách khoan dung Tam giáo đồng nguyên của nhà nước thời Lý - Trần để chuyển sang một chính sách văn hóa đơn nguyên quan phương, độc tôn Nho giáo và Nho học. Ở đây, Tống Nho đã được đề cao như một hệ tư tưởng chính thống nhà nước, làm bệ đỡ tư tưởng cho chế độ quân chủ quan liêu. Khẩu hiệu chiến lược "Sùng Nho trọng Đạo" là việc hàng đầu (Bia Văn Miếu - 1442) đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Văn Miếu - Quốc Tử Giám được mở rộng, giáo dục khoa cử Nho học được kiện toàn. Lê Thánh Tông còn cho ban bố trong nhân dân "24 điều giáo huấn" để củng cố những nguyên tắc cơ bản về đạo đức và lễ giáo Nho giáo. Chính ông đã nói: "Tất cả đều do cái mũ của nhà Nho mà ra". Ngô Sĩ Liên khẳng định "vua tôi, cha con, vợ chồng là 3 cương lớn trong đạo luân lý của người, ngoài ra không có gì lớn hơn".

Nho giáo thời Lê sơ cũng dần dần chuyển hóa. Thời kỳ đầu, khái niệm "nhân" đã được nhấn mạnh. Nguyễn Trãi nói: "Người làm vua phải để lòng nơi nhân nghĩa, coi nhân nghĩa là chỗ đứng của mình". Giai đoạn sau, trọng tâm của nho giáo là được chuyển qua khái niệm "lễ", mang tính giáo điều bảo thủ. Lê Thánh Tông nhấn mạnh: "Người khác cầm thú là vì có Lễ để làm khuôn phép giữ gìn".

Đề cao nho giáo, các vua Lê sơ đã hạn chế, kiểm soát những tôn giáo phi chính thống như Phật và Đạo, lấy cớ là "sợ lòng người lay động, phân tán". Lê Thái Tổ quy định sư tăng phải trên 50 tuổi, phải qua kỳ thi khảo hạnh, nếu trượt phải hoàn tục. Triều đình Lê sơ đã cấm quý tộc quan lại xây chùa mới, hạn chế việc đi lại của sư tăng, đạo sĩ (Điều 301 Luật Hồng Đức), cấm quan liêu trong triều kết giao với tăng, đạo. Trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Lê Thánh Tông đã phê phán giới thiền tăng.

Nói những thiên đường cùng địa ngục
Pháp sao chẳng độ được mình ta?


Ngô Sĩ Liên mạnh mẽ đả kích: "Người nào đã học Nho giáo mà lại học thêm Phật giáo và Đạo giáo... thì có ích gì cho thế đạo, cho nước nhà. Lấy những người ấy đỗ mà làm gì?

Không được nhà nước khuyến khích nhưng Phật, Đạo thời Lê sơ vẫn tồn tại trong xã hội, được mọi giới thừa nhận nhất là quần chúng nhân dân. Lê Sát cho xây chùa Thanh Đàm, Chiêu Độ rộng 90 gian. Chùa Báo Thiên ở kinh thành vẫn được mở rộng, rước tượng Phật từ chùa Pháp Vân về để cầu đảo. Nho sĩ Lương Thế Vinh đã soạn sách Phật (Thiền môn khoa giáo), soạn bia chùa Diên Hựu. Bản thân nhà vua sùng Nho Lê Thánh Tông vẫn đi thăm viếng nhiều chùa chiền, cho dựng lầu "Vọng Tiên" và thừa nhận: "Giáo lý Phật Lão hết thảy đều mê đời lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không kể xiết mà lòng người vẫn rất ham rất tin. Đạo của Thánh hiền [Nho giáo]... đều thiên dụng trong cuộc sống thường ngày, mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng Phật, Lão". Các đền thờ thần linh, các danh nhân lịch sử văn hóa và các hội lễ vẫn được xây dựng, tổ chức ở khắp nơi. Chính sách "độc tôn Nho học" của nhà nước Lê sơ, trên thực tế, đã không được thi hành một cách có hiệu quả.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 5-1-2012 09:37 PM
* Giáo dục, khoa cử:

Giáo dục, khoa cử thời Lê sơ phát triển, trước hết do đường lối "sùng Nho" của các nhà vua thời kỳ này, đồng thời cũng là để đáp ứng nhu cầu ngày một tăng về đào tạo nhân tài, quan liêu cho chế độ. Lê Thái Tông khẳng định: "Muốn có được nhân tài, trước hết phải chọn lựa kẻ sĩ, mà kén chọn kẻ sĩ, phải lấy thi cử làm đầu...".

Các vua thời Lê sơ đều đã cho sửa sang tu bổ Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Đợt trùng tu mở rộng lớn nhất là vào năm 1483, đời Lê Thánh Tông. Nhà vua đã cho dựng ở Văn Miếu các công trình Đại Thành môn, nhà Giải vũ Đông Tây, điện Canh Phục, kho Tế khí, nhà bia Tiến sĩ (năm 1484, cho dựng 10 bia, kể từ khoa 1442). Đối với Quốc Tử Giám, cho dựng nhà Minh Luân, giảng đường Đông Tây, kho Bí thư, nhà nghỉ cho giám sinh. Về tổ chức, nhà nước đặt các chức Tế tửu và Tư nghiệp Quốc Tử Giám (như Tế tửu Lý Tử Tấn và Tư nghiệp Ngô Sĩ Liên). Hệ thống giảng dạy có giáo thụ, trực giảng, trợ giáo và bác sĩ.

Quốc Tử Giám đời Lê sơ đã mở rộng đối tượng tuyển sinh và học tập, nhiều con em học giỏi xuất thân từ các gia đình bình dân cũng được tham gia học tập. Giám sinh (xá sinh) thời Lê được chia làm 3 loại (thượng, trung, hạ) được cấp học bổng và học phẩm.

Ở các địa phương, hệ thống trường học có đến cấp phủ huyện, các lớp học có đến cấp xã.

Khoa cử cũng rất phát triển dưới thời Lê sơ. Ngay từ năm 1426, khi cuộc kháng chiến chưa thành công, Lê Lợi đã cho tổ chức khoa thi ở trạm Bồ Đề, bên kia sông Hồng. Sau khi lên ngôi, ông cũng đã cho tổ chức các kỳ thi Minh Kinh và Hoành Từ. Năm 1438, định phép thi hương ở các đạo. Năm1442 (Nhâm Tuất, Đại Bảo năm thứ 3 đời Lê Thái Tông), tổ chức thi Hội, lấy 33 tiến sĩ (trong đó 3 người đỗ đầu là Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Lương Như Hộc). Ngô Sĩ Liên cũng đỗ khoa này. Đến thời Lê Thánh Tông, khoa cử đạt tới đỉnh cao. Trong 39 năm, đã tổ chức 12 khoa thi Hội lấy 501 tiến sĩ (toàn thời Lê sơ, có 29 khoa thi quốc gia, lấy 988 tiến sĩ).

Thời Lê sơ, quy chế thi cử cũng được kiện toàn. Có 2 cấp thi: thi địa phương (thi Hương) và thi quốc gia (thi Hội, thi Đình). Học vị thi Hương là Hương cống, học vị thi Hội và thi Đình là Tiến sĩ với 3 cấp: Tiến sĩ cập đệ (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), Tiến sĩ xuất thân và đồng Tiến sĩ xuất thân. Các bài thi cũng được ấn định. Mỗi khoa thi gồm có 4 trường, lần lượt là: Kinh nghĩa, chiếu chế biểu, thơ phú, văn sách.

Nhà nước Lê sơ đã thi hành chính sách trọng sĩ, trong các lễ xướng danh, ban mũ áo, thiết yến tiệc, vinh quy. Mọi tiến sĩ đều được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu.

Nền giáo dục, khoa cử thời Lê sơ mang tính thế tục, phổ cập và bình đẳng, nó đã trí thức hóa tầng lớp quan liêu. Phan Huy Chú nhận xét: "Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau càng không thể theo kịp". Tuy nhiên dần đần, nền giáo dục đó đã trở nên chật hẹp, bị hệ tư tưởng hóa quá mức, quan liêu hóa tầng lớp trí thức, như bia Văn Miếu nhận xét: "cái thực chưa xứng với cái danh".

* Văn học và sử học:

Có 2 khuynh hướng văn thơ nổi trội dưới thời Lê sơ: văn thơ yêu nước dân tộc và văn thơ cung đình.

Theo đà dòng văn học yêu nước thời Lý - Trần, được tiếp sức thêm bởi cảm hứng qua những chiến công của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, nhiều tác phẩm văn thơ đã nói lên ý chí bất khuất và lòng tự hào về một quốc gia - dân tộc có bề dày lịch sử - văn hóa. Nguyễn Trãi với Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lý Tử Tấn với Chí Linh sơn phú, Xương Giang phú, Nguyễn Mộng Tuân với Lam Sơn phú, Hậu Bạch Đằng giang phú, Lê Thánh Tông với các bài thơ ca tụng các nhân vật lịch sử - văn hóa và các danh lam thắng cảnh đất nước. Theo phương hướng tìm về cội nguồn dân tộc Vũ Quỳnh và Kiều Phú đã hiệu đính Lĩnh Nam thích quái, một tác phẩm dã sử truyền thuyết từ thời Trần. Tinh thần dân tộc còn biểu hiện ở việc phổ biến dùng chữ Nôm, với các tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và tác phẩm Hồng Đức Quốc âm thi tập.

Bên cạnh đó, dòng văn học cung đình với nội dung hình thức thù phụng, thanh lệ cũng phát triển. Bùi Huy Bích nhận định: "Thời Hồng Đức gọi là cực thịnh nhưng lúc đó văn chương ưa chuộng thanh lệ (khuôn sáo hình thức)". Điển hình là hội Tao Đàn (nhị thập bát tú) do Lê Thánh Tông làm chủ soái, cùng các văn thần như Đỗ Nhuận, Thân Nhân Trung, Lương Thế Vinh. Tác phẩm chính của hội này là tập Quỳnh uyển cửu ca, với những bài thơ xướng họa tán tụng, với chủ đề khuôn sáo là "Minh quân, lương thần" (vua sáng, tôi hiền). Dòng văn học cung đình đã thể hiện rõ quan điểm giáo huấn "Văn dĩ tải đạo", yếu tố trữ tình, cá nhân đã vắng mặt trong đó.

Để phục vụ cho việc xây dựng chế độ phong kiến nhà nước quan liêu và thể hiện tinh thần dân tộc, "sánh ngang Nam - Bắc", các tác phẩm lịch sử, địa lý thời Lê sơ khá phong phú. Đó là các tác phẩm Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, bộ điển chế đồ sộ Thiên Nam dư hạ tập 100 quyển (đã thất truyền, chỉ còn lại 4 - 5 quyển).

Đặc biệt, bộ chính sử Đại Việt sử ký toàn thư của các sử thần nhà Lê (Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh), phát triển từ bộ sử gốc Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu trước đó, là một tác phẩm quý giá. Ở đây, lần đầu tiên, Ngô Sĩ Liên đã đưa truyền thuyết Hùng Vương - An Dương Vương vào chính sử dân tộc.

Về địa lý, đáng kể là cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi và tập bản đồ hành chính quốc gia soạn dưới thời Lê Thánh Tông, th­ường gọi là Hồng Đức - bản đồ vẽ chi tiết 13 thừa tuyên và các phủ huyện. Các tác phẩm địa lý này cũng đã được bổ sung ở những thời kỳ sau.

* Nghệ thuật:

Nhìn chung, khuynh hướng cung đình, quan phương trong nghệ thuật thời Lê sơ đã thắng thế, do ảnh hưởng của văn hóa Đông Á Nho giáo, mang tính giáo điều, công thức. Qua cuộc tranh luận giữa Lương Đăng và Nguyễn Trãi, nhà nước đã chấp nhận nhã nhạc (mô phỏng nhạc Trung Quốc) như thứ nhạc chính thống được diễn tấu trong cung đình. Hình tượng con rồng thời Lê trong điêu khắc cũng dữ tợn, oai nghiêm hơn, không thanh thoát như hình tượng con rồng giun uốn lượn thời Lý - Trần.

Thời kỳ này, văn hóa dân gian bị hạ thấp, thậm chí bị miệt thị. Năm 1448, điệu múa dân gian lý liên (rí ren) bị coi là dâm tục, nhảm nhí và bị cấm. Năm 1462, cấm các con nhà phường chèo không được đi thi, mà nạn nhân gần 2 thế kỷ sau đó là nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ.

* Về kiến trúc, điêu khắc:

Hoàng thành Thăng Long được tu sửa, mở rộng vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI, với nhiều cung điện nguy nga. Điện Kính Thiên ở trung tâm Hoàng thành đã được xây dựng (ngày nay chỉ còn lại đôi lan can rồng đá). Ở quê hương Lê Lợi, Lam Kinh cũng đã được xây dựng quy mô đồ sộ với hệ thống lăng mộ và tấm bia Vĩnh Lăng nổi tiếng.

* Về nghệ thuật biểu diễn:

Điệu múa rất phổ biến là Bình Ngô phá trận, ca ngợi các chiến tích của nghĩa quân Lam Sơn. Lương Thế Vinh soạn Hý phường phả lục nói về nghệ thuật ca múa.

* Về khoa học kỹ thuật:

Phan Phu Tiên có cuốn Bản thảo thực vật toản yếu, Lương Thế Vinh soạn Đại thành toán pháp; Vũ Hữu (cha Vũ Quỳnh) soạn Lập thành toán pháp, tính toán rất chính xác trong việc thiết kế xây dựng, tu sửa hai cửa Hoàng thành Thăng Long: Đại Hưng (cửa Nam) và Đông Hoa (cửa Đông).

Hình thành từ những thế kỷ trước, muộn nhất là vào thời nhà Lý, chế độ phong kiến Đại Việt - thuộc loại hình phong kiến nhà nước quan liêu đã được xác lập vững chắc vào thế kỷ XV, dưới triều Lê sơ.

Thời Lý, Trần trên danh nghĩa, nhà nước Đại Việt đã chấp nhận một mô hình phong kiến thời Đường - Tống, và ở một mức độ hạn chế, hệ tư tưởng phong kiến Khổng giáo. Tuy nhiên, ngay cả ở mặt thiết chế hệ tư tưởng này, ảnh hưởng Phật giáo vẫn còn rất đậm, các yếu tố phong kiến còn khá mờ nhạt. Mặt khác, thực thể kinh tế - xã hội còn mang nhiều yếu tố cổ truyền trước phong kiến. Nhà nước chưa nắm chắc một cách trực tiếp người nông dân tự canh, tầng lớp địa chủ phong kiến tư hữu chưa phát triển, sự phân hóa đẳng cấp trong xã hội và nhất là trong làng xã chưa thực sự gay gắt. Một xã hội phong kiến đích thực chưa tồn tại, hoặc nói khác đi, chế độ phong kiến nhà nước quan liêu Đại Việt còn ở giai đoạn tiền mô hình, duy trì một khoảng cách khá lớn giữa danh và thực.

Triều Lê sơ thành lập, có thể được coi như một bước ngoặt lịch sử, trong những điều kiện thuận lợi cho những yếu tố phong kiến phát triển. Thiết chế - ý thức hệ phong kiến mà nhà Minh áp đặt trong hai thập kỷ thuộc Minh đã để lại những hệ quả sâu sắc. Các nhà vua thời Lê sơ do tinh thần tự hào dân tộc, quan điểm "vô tốn Hoa Hạ", "sánh ngang Nam - Bắc" cùng đã tự nguyện chấp nhận một mô hình phong kiến nho giáo Đông Á, như một bệ đỡ tư tưởng cho thiết chế quân chủ tập quyền. Ở đây, một nhà nước chuyên chế toàn năng, can thiệp vào mọi mặt đời sống xã hội, đã được xác lập. Đẳng cấp quan liêu được tuyển lựa qua khoa cử, đã trở thành lực lượng thống trị, ngày càng xa cách khối quần chúng bình dân làng xã. Trên danh nghĩa, nho giáo được coi như một hệ tư tưởng phong kiến chính thống độc tôn. Thiết chế - hệ tư tưởng phong kiến đến giai đoạn này đã được hoàn chỉnh.

Những chuyển biến về kinh tế - xã hội thời Lê sơ cũng ngày càng ngả sang màu sắc phong kiến. Những quan hệ sản xuất phong kiến trong kinh tế nông nghiệp được thể hiện ở hai mặt. Người nông dân tự canh trong làng xã ngày càng bị lệ thuộc và ràng buộc vào một nhà nước phong kiến thu tô, qua phép quân điền, những nghĩa vụ tô thuế, lao dịch và binh dịch, làng xã ngày càng bị phong kiến hoá. Mặt khác, do sự phát triển của yếu tố tư­ hữu ruộng đất và tầng lớp địa chủ bình dân, quan hệ sản xuất phong kiến địa chủ - tá điền dần dần phổ biến trong xã hội. Sự phân hóa đẳng cấp trở nên sâu sắc, trên quy mô xã hội ở tầng vĩ mô, cũng như trong quy mô làng xã ở tầng vi mô.

Nói tóm lại, thời Lê sơ, cả ở mặt mô hình thiết chế, hệ tư tưởng lẫn mặt thực thể kinh tế - xã hội, những yếu tố phong kiến đã chiếm ưu thế. Chế độ phong kiến nhà nước quan liêu Đại Việt đã được xác lập vững chắc, khoảng cách giữa danh và thực (giữa mô hình và thực thể) ở mức độ nhỏ nhất. Thế kỷ XV được coi là một thế kỷ cổ điển của chế độ phong kiến Việt Nam. Đây là một loại hình chế độ phong kiến nhà nước quan liêu, có nhiều điểm khác biệt nếu đối sánh với một chế độ phong kiến lãnh chúa ở Tây Âu trung đại, hay với chế độ phong kiến võ sĩ hoặc chế độ phong kiến tăng lữ ở một số nước khác.

Tuy nhiên, trong thực tế, xã hội Đại Việt thời Lê sơ vẫn không phải và chưa bao giờ hoàn toàn là một xã hội phong kiến Đông Á Nho giáo thuần nhất. Nó là một sự hỗn dung, lai ghép mang tính đối trọng giữa một mô hình ngoại nhập và một mô hình thực thể bản địa. Triều Lê sơ, vì thế, đã có một vị thế quan trọng và được đánh giá cao trong lịch sử dân tộc, quan sự nghiệp giữ nước và dựng nước.

Về mặt tiến trình xã hội, so với thời Lý - Trần, sự xác lập chế độ phong kiến nhà nước quan liêu thời Lê sơ là một buớc tiến. Tuy nhiên, ở một số mặt nào đó, nhất là về quan hệ xã hội và cân bằng văn hóa, nó đồng thời cũng bị chững lại, thậm chí có chỗ thụt lùi. Trong thế kỷ XV, những mâu thuẫn xã hội chứa chất, nhưng trong điều kiện một thể chế nhà nước mạnh và ổn định, nên vẫn ở dạng tiềm năng. Những mâu thuẫn đó sẽ bộc phát nhanh chóng trong 3 thập kỷ đầu thế kỷ XVI, dẫn triều Lê sơ đến chỗ sụp đổ.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 5-1-2012 09:57 PM
Thế phả triều Lê sơ

1. Lê Thái Tổ (Lê Lợi, 1428 - 1433)

Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu - 10/9/1385, là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương, người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá. Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường.

Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn.

Mùa xuân năm Mậu Tuất - 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.

Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.

Sau hội thề Đông Quan, ngày 29/12/1427, bại binh của giặc bắt đầu được phép rút quân về nước an toàn, đến ngày 3/1/1428, bóng dáng quân Minh cuối cùng đã bị quét sạch khỏi bờ cõi.

Ngày 15 tháng 4 năm Mậu Thân - 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi vua tại điện Kính Thiên xưng là "Thuận Thiên thừa vận, Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương" đặt tên nước là Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô (Hà Nội) đại xá thiên hạ, ban bố "Bình Ngô đại cáo" - đây chính là "Tuyên ngôn độc lập" lần thứ 2 của tổ quốc ta. Bình Ngô đại cáo mở đầu ghi:

"... Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Xét như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn hiến
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác...
"

"Bình Ngô đại cáo" do Nguyễn Trãi thảo là một thiên anh hùng ca tuyệt vời, bất hủ, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, truyền thống quật cường, bất khuất của dân tộc ta.

Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lời bàn: "Lê Thái Tổ từ khi lên ngôi đến khi mất, thi hành chính sự, thực rất khả quan, như ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học... cũng có thể gọi là có mưu kế xa rộng, mở mang cơ nghiệp..."

Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu - 1433, hưởng thọ 49 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn, Thanh Hoá, trị vì được 5 năm.

2. Lê Thái Tông (Nguyên Long, 1433 - 1442)

Lê Thái Tông tên huý là Nguyên Long, sinh ngày 20 tháng 11 năm Quý Mão - 1423, là con thứ hai của Lê Lợi và bà Phạm Thị Ngọc Trần, lên ngôi vua ngày 8 tháng 9 năm Qúy Sửu - 1433, lấy niên hiệu là Thiệu Bình.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Vua thiên tư sáng suốt nối vận thái bình: bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp di địch. Trọng đạo sùng nho, mở khoa thi chọn hiền sĩ, xử tù, xét án phần nhiều tha thứ khoan hồng. Cũng là bậc vua tài giỏi nối giữ cơ đồ. Song đam mê tửu sắc, đến nỗi thình lình băng ở bên ngoài cũng là tự mình chuốc lấy hoạ...".

Lê Thái Tông lên ngôi vua mới 11 tuổi, còn quá trẻ lại phải đối phó với tình hình triều đình khá phức tạp. Mâu thuẫn và chia rẽ giữa hai lực lượng: một bên là các công thần khai quốc, đứng đầu là Đại tư đồ Lê Sát, Lê Ngân; một bên là những quan lại khoa bảng. Mặc dù vậy Thái Tông vẫn đủ bản lĩnh để không cho các đại thần hoàn toàn thao túng.

Ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất - 1442, Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi mời vua ngự chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8, vua về đến Lệ Chi Viên - vườn vải huyện Gia Định - nay thuộc Gia Lương, Bắc Ninh. Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi, được vua yêu quý và luôn phải theo hầu bên cạnh vua. Đêm đó Thái Tông bị bạo bệnh chết đột ngột khi mới 20 tuổi. Bọn gian thần trong triều vu cho Nguyễn Thị Lộ tội ám hại vua, rồi khép Nguyễn Trãi vào án "tru di tam tộc". Ngày 16 tháng 8, Nguyễn Trãi và ba họ bị hành hình. Chỉ có một người thoát chết là bà Phạm Thị Mẫn, một người thiếp khác của Nguyễn Trãi đang mang thai, được học trò của ông đưa trốn sang Lào. Bà Mẫn đẻ ra Nguyễn Anh Vũ. Sau này, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi. Nguyễn Anh Vũ được vua trọng dụng. Ông Nguyễn Văn Cừ, nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương là "hậu duệ" thuộc dòng họ ở Tiên Du, Bắc Ninh của Nguyễn Trãi.

Vua Lê Thánh Tông mất mới 20 tuổi, nhưng đã có bốn con trai do bốn bà vợ sinh ra. Bà Chiêu Nghi Dương Thị Bí sinh ra Nghi Dân; bà Thần Phi Nguyễn Thị Anh sinh ra hoàng tử Bang Cơ; bà Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Giao sinh ra hoàng tử Tư Thành - sau này lên ngôi vua, hiệu là Lê Thánh Tông; và một bà vợ khác sinh ra Cung Vương Khắc Xương.

3. Lê Nhân Tông (Bang Cơ, 1442 - 1459)

Lê Nhân Tông tên huý là Bang Cơ, con thứ của Lê Thái Tông, sinh ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu - 1441. Ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu - 1441 được lập là Hoàng thái tử, ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất - 1442 lên ngôi vua đổi niên hiệu là Thái Hoà. Lúc đó Lê Nhân Tông mới 2 tuổi, Thái hậu Tuyên Từ phải buông rèm nhiếp chính.

Tháng 11 năm Quý Dậu - 1453, vua 12 tuổi, Thái hậu trả quyền chính cho vua rồi lui về ở cung riêng. Vua đổi niên hiệu là Diên Ninh, đại xá cho thiên hạ. Người đời bấy giờ ca ngợi tài năng và đức độ của vua.

Đại Việt sử ký toàn thư ghi: "Vua tuổi còn thơ ấu đã có thiên tư sáng suốt, vẻ người tuấn tú, đàng hoàng, dáng điệu nghiêm trang, sùng đạo Nho, nghe can gián, thương người làm ruộng, yêu nuôi muôn dân, thực là bậc vua giỏi, biết giữ cơ đồ, không may bị cướp ngôi, giết hại. Thương thay!".

Trước kia, Dương Thị Bí là mẹ Nghi Dân có tội với Lê Thái Tông, nên Nghi Dân không được lập làm thái tử, mới ngầm chứa mưu gian nhòm ngó ngôi báu, cùng bọn đồng đảng là Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng cầm đầu bọn vô lại côn đồ, đêm ngày 3 tháng 10 năm Kỷ Mão - 1459 bắc thang chia làm ba đường, trèo thành cửa Đông, lẻn vào cung cấm giết chết vua Lê Nhân Tông và Tuyên Từ Hoàng thái hậu.

Lê Nhân Tông bị giết chết lúc mới 19 tuổi, làm vua được 17 năm.

Nghi Dân tự lập làm vua, nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa giết bọn phản nghịch, giáng Nghi Dân xuống tước hầu, rồi lập hoàng tử Tư Thành lên làm vua, đó là Lê Thánh Tông.

4. Lê Thánh Tông (Tư Thành, 1460 - 1497)

Lê Thánh Tông tự là Tư Thành có tên huý là Hạo, con trai út của Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Giao - con gái Thái Bảo Ngô Từ. Lê Tư Thành sinh ra tại chùa Huy Văn - nay ở phía trong ngõ Văn Chương, phố Tôn Đức Thắng (Hàng Bột cũ), Hà Nội. Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ đến năm lên 4 tuổi. Mẹ Nhân Tông khi đó đang buông rèm nghe chính sự, cho đón Tư Thành về ở trong cung rồi phong làm Bình Nguyên vương hằng ngày cùng vua Nhân Tông và các vương hầu khác học tập tại toà Kính Diên. Tư Thành chăm chỉ học tập, dáng dấp đoan chính, thông tuệ hơn người, được vua Nhân Tông rất yêu quý.

Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất - 1442. Ngày 6 tháng 6 năm Canh Thìn - 1460, các quan đại thần phế truất Nghi Dân, rước Tư Thành - lúc đó 18 tuổi - lên ngôi vua.

Lê Thánh Tông hết lòng chăm lo việc nước: mở khoa thi, kén chọn hiền tài, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, mở mang ngành nghề, mở rộng giao lưu buôn bán, ban hành chế độ quân điền, coi trọng việc bảo vệ biên giới quốc gia. Bản đồ biên giới quốc gia Đại Việt được hoàn thành dưới triều Lê Thánh Tông.

Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên hiệu vua Lê Thánh Tông còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất dưới thời phong kiến nước ta.

Bộ Đại việt sử ký toàn thư do sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn năm Kỷ Hợi - 1479 dưới sự chỉ đạo của vua Lê Thánh Tông.

Lê Thánh Tông còn lập ra Hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi văn thơ nhất nước thời đó gọi là "Tao Đàn nhị thập bát tú" do nhà vua làm nguyên suý.

Năm 1497, Lê Thánh Tông mất, ở ngôi 37 năm, thọ 56 tuổi, táng ở Chiêu Lăng.

5. Lê Hiến Tông (Lê Tăng, 1498 - 1504)

Lê Hiến Tông có tên huý là Huy, con trưởng của Lê Thánh Tông, mẹ là Trường Lạc Thánh Từ hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng, con gái thứ hai của Trình quốc công Đức Trung.

Hiến Tông sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ - 1461. Ông mất ngày 23 tháng 5 năm Giáp Tý - 1504, ở ngôi được 6 năm, thọ 44 tuổi.

6. Lê Túc Tông (Lê Thuần, 6/6/1504-7/12/1504)

Lê Túc Tông tên huý là Thuần, là con trai thứ 3 của Lê Hiến Tông, mẹ là Trang Thuận hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hoàn, quê ở Bình Lăng, Thiên Thi, Hưng Yên.

Lê Túc Tông ham học hỏi, thân người hiền, vui điều thiện, đúng là một vị vua giỏi giữ nghiệp thái bình.

Lê Túc Tông lên ngôi vua ngày 6 tháng 6 năm 1504. Tháng 11 năm 1504 mắc bệnh nặng, biết không qua khỏi mới mời các quan triều thần đến để chỉ định người anh thứ 2 là Lê Tuấn lên ngôi vua. Ngày 7 tháng 12 năm 1504 vua Túc Tông mất, ở ngôi được 6 tháng, thọ 17 tuổi.

7. Lê Uy Mục (Lê Tuấn, 1505 - 1509)

Lê Uy Mục tên huý là Tuấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1488, mẹ là Chiêu Nhân hoàng thái hậu Nguyễn Thị Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, Bắc Giang, lên ngôi vua ngày 22 tháng 1 năm 1505.

Lê Uy Mục từ khi lên ngôi vua ham rượu chè, gái đẹp, thích giết người, tin dùng người họ mẹ. Sự tàn bạo quá đáng của Lê Uy Mục đã gây bất bình trong dân chúng và triều thần.

Tháng 11 năm 1509, Giản Tu Công Oanh tự xưng là Cẩm Giang Vương ở Tây Đô (Thanh Hoá) đưa quân về chiếm Đông Kinh (Hà Nội) bắt được và bức Lê Uy Mục tự tử tháng 12/1509.

Lê Uy Mục ở ngôi được 4 năm, thọ 22 tuổi.

8. Lê Tương Dực (Lê Oanh, 1509 - 1516)

Lê Tương Dực tên huý là Oanh, là cháu nội của vua Lê Thánh Tông, con thứ hai của Kiến Vương Lê Tân và bà Huy từ hoàng thái hậu Trịnh Thị Tuyên, người làng Thuỷ Chú, huyện Lôi Dương (tức Thọ Xuân, Thanh Hoá), sinh ngày 25 tháng 6 năm 1495.

Sau khi giết Lê Uy Mục, Oanh tự lập làm vua.

Bản thân Lê Tương Dực cũng lao vào con đường ăn chơi truỵ lạc. Tháng 5/1514 nghe sàm tấu của Hiệu uý Hữu Vĩnh giết chết 15 vương công, cho gọi các cung nhân của triều trước vào cung để gian dâm.

Trịnh Duy Sản nhiều lần can ngăn, vua không nghe, còn đem Sản ra đánh bằng trượng.

Tháng 4/1516, Trịnh Duy Sản sai đâm chết Tương Dực. Tương Dực ở ngôi được 7 năm, thọ 22 tuổi.

9. Lê Chiêu Tông (Lê Ý, 1516 - 1522)

Lê Chiêu Tông tên huý là Lê Ý, có tên nữa là Huệ, cháu bốn đời của Lê Thánh Tông, con trưởng của Cẩm Giang Vương Lê Sùng và bà hoàng thái hậu Trịnh Thị Loan, người xã Phi Bạo, huyện Thanh Chương (Nghệ An).

Lê Chiêu Tông sinh ngày 4 tháng 10 năm Bính Dần - 1506.

Sau khi giết Tương Dực, Trịnh Duy Sản và Lê Nghĩa Chiêu đón Lê Ý về tôn làm vua Lê Chiêu Tông lúc đó mới 11 tuổi.

Dưới triều Lê Chiêu Tông, giặc giã nổi lên như ong, dân chúng khổ sở về cảnh loạn lạc, đầu rơi máu chảy.

Mạc Đăng Dung là một trong những người phò lập vua, bằng tài năng quân sự nổi bật đã khôn khéo thâu tóm quyền hành. Quyền uy của Mạc Đăng Dung ngày một lớn. Mạc Đăng Dung cho con gái nuôi vào hầu vua thực ra là để dò xét coi giữ, Mạc Đăng Doanh là con lớn của Mạc Đăng Dung làm chức Dục Mỹ hầu trông coi điện Kim Quang. Bố con Mạc Đăng Dung ngày càng có mưu đồ thoán đoạt.

Trước tình hình đó, Lê Chiêu Tông mưu ngầm với Trịnh Tuy tìm cách triệt hạ thế lực của họ Mạc. Mưu bị bại lộ, vua phải bỏ chạy khỏi kinh thành.

Mạc Đăng Dung đã cùng triều thần lập Lê Xuân, em của Lê Chiêu Tông lên làm vua vào ngày 1 tháng 8 năm Nhâm Ngọ - 1522. Lê Chiêu Tông bị giáng xuống làm Đà Dương Vương rồi bị bắt giết lúc đó mới 21 tuổi, được làm vua 6 năm.

10. Lê Cung Hoàng (Lê Xuân, 1522 - 1527)

Lê Cung Hoàng tên húy là Xuân được Mạc Đăng Dung lập lên làm vua khi 15 tuổi.

Lê Cung Hoàng sinh ngày 26 tháng 7 năm Đinh Mão - 1507. Năm 1524, Mạc Đăng Dung tự mình thăng tước Bình Chương quân quốc trọng sự Thái phó Nhân quốc công. Tháng 10 năm 1525, Mạc Đăng Dung tự làm Đô tướng dẫn tất cả thuỷ, lục quân vào đánh Thanh Hoá, bắt được vua Lê Chiêu Tông đem về kinh sư giam cầm và đến tháng 12/1526 thì đem giết chết.

Sau khi giết chết Lê Chiêu Tông, Mạc Đăng Dung rút quân về đóng ở Cổ Trai, nhưng vẫn chế ngự triều đình. Tháng 4/1527, Cung Hoàng sai Trung sứ Đỗ Hiếu Đế đến làng Cổ Trai tấn phong cho Đăng Dung làm An Hưng Vương.

Mặc dù được vua ân sủng hậu đãi và giao phó trọng trách, nhưng Mạc Đăng Dung vẫn kiên quyết chớp thời cơ giành ngôi hoàng đế về cho họ Mạc.

Ngày 15 tháng 6 năm Đinh Hợi - 1527, Mạc Đăng Dung đem quân từ Cổ Trai vào kinh đô Thăng Long ép vua phải nhường ngôi, bắt vua và thái hậu tự tử. Như vậy Lê Cung Hoàng ở ngôi được 5 năm, thọ 21 tuổi.

Kể từ Lê Thái Tổ lên ngôi năm 1428 đến Lê Cung Hoàng bị giết vào năm 1527, trải qua 10 đời Vua, cả thảy đúng 99 năm. Các nhà sử học gọi là triều Lê Sơ.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 6-1-2012 01:11 PM
Thế phả triều Hậu Lê

Triều Hậu Lê (Lê Trung Hưng)

1. Lê Trang Tông (1533 - 1548)

Lê Trang Tông tên huý là Duy Ninh, là con của vua Lê Chiêu Tông, mẹ là Phạm Thị Ngọc Quỳnh, cháu năm đời của Lê Thánh Tông.

Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Duy Ninh mới 11 tuổi được Lê Quán cõng chạy sang Ai Lao đổi tên là Huyến. Đến tháng giêng năm Quý Tỵ - 1533 được Chiêu huân công Nguyễn Kim đón về lập lên làm vua, lúc đó Duy Ninh 19 tuổi.

Duy Ninh lên làm vua đặt niên hiệu là Nguyên Hoà, tôn Nguyễn Kim làm Thượng phụ thái sư Hưng quốc công, lấy Sầm Hà làm nơi hành tại, giao kết với vua Ai Lao là Xạ Đẩu để nhờ quân lương, mưu việc lấy lại nước.

Tháng 12 năm 1540, Nguyễn Kim kéo quân từ Ai Lao về đánh Nghệ An, hào kiệt các nơi theo về giúp Lê Trung Hưng rất đông. Cuối năm 1543, Lê Trung Hưng chiếm được Tây Đô (Thanh Hoá). Nước ta từ đó hình thành "Nam - Bắc triều". Từ Thanh Hoá, Nghệ An trở vào do Lê Trung Hưng cai quản (Nam Triều). Cả vùng Bắc Bộ trong đó có kinh đô Đông Đô thuộc nhà Mạc cai quản (Bắc Triều). Hai bên Lê - Mạc nội chiến tàn khốc kéo dài gần 50 năm (1543 - 1592).

Năm 1545, Nguyễn Kim tiến đánh Sơn Nam, đến Yên Mô (Ninh Bình), thì bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết.

Trịnh Kiểm là con rể Nguyễn Kim, nắm giữ binh quyền, mở đầu thời kỳ "vua Lê, chúa Trịnh".

Năm 1546, Trịnh Kiểm lập hành tại vua Lê ở Vạn Lại (Thanh Hoá). Lấy danh nghĩa "phù Lê, diệt Mạc", nhiều hào kiệt, danh sĩ đương thời tìm vào Thanh Hoá phò Lê Trung Hưng như Lương Đắc Bằng, Phùng Khắc Khoan...

Năm 1548, Lê Trang Tông mất, thọ 34 tuổi, ở ngôi được 15 năm. Trịnh Kiểm lập thái tử Duy Huyên lên nối ngôi là Lê Trung Tông.

2. Lê Trung Tông (1548 - 1556)

Lê Trung Tông tên huý là Huyên, là con của Lê Trang Tông, tính tình khoan dung, thông tuệ, có tài lược đế vương.

Năm 1548 được lập làm vua khi mới 15 tuổi, lấy hiệu là Trung Tông, phong cho Trịnh Kiểm là Lương quốc công quyết định mọi việc triều chính.

Năm 1554, nhà Lê mở khoa thi để chọn nhân tài, lấy đỗ tiến sĩ đệ nhất giáp 5 người, đệ nhị giáp 8 người như Đinh Bạt Tuỵ, Chu Quang Trứ,... một số tướng tài giỏi như Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiếu, Lê Khắc Thận... bỏ nhà Mạc vào Tây Đô phò giúp nhà Lê Trung Hưng.

Tháng giêng năm 1556, Lê Trung Tông mất mới 22 tuổi, không có con, ở ngôi được 8 năm.

Trịnh Kiểm bàn với các đại thần rằng: "Nước không thể một ngày không vua", liền sai người đi tìm con cháu nhà Lê, tìm được Lê Duy Bang là cháu sáu đời của Lam quốc công Lê Trừ (anh thứ hai của Lê Lợi) đang ở hương Bố Vệ, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá, đón về lập làm vua.

3. Lê Anh Tông (1556 - 1573)

Lê Anh Tông tên huý là Duy Bang, dòng dõi nhà Lê. Anh thứ hai của Lê Lợi là Lê Trừ được phong là Lam quốc công, Trừ sinh ra Khang, Khang sinh ra Thọ, Thọ sinh ra Duy Thiệu, Thiệu sinh ra Duy Khoáng, Duy Khoáng lấy vợ ở hướng Bố Vệ sinh ra Duy Bang. Khi Lê Trung Tông mất không có con nối, thái sư Trịnh Kiểm và các đại thần tìm được Duy Bang đón về làm vua khi đó đã 25 tuổi.

Mọi việc trong triều đều do Trịnh Kiểm quyết định, vua chỉ việc nghe theo.

Cũng trong thời gian đó, Nguyễn Hoàng, con thứ 2 của Nguyễn Kim, nhờ chị gái là Ngọc Bảo - vợ Trịnh Kiểm, xin anh rể cho vào trấn thủ xứ Thuận - Quảng, được Trịnh Kiểm đồng ý cho đi.

Mọi việc trong triều đều do Trịnh Kiểm quyết định, vua chỉ việc nghe theo.

Tháng 2/1570, Trịnh Kiểm ốm nặng rồi mất. Anh em Trịnh Cối, Trịnh Tùng tranh giành nhau quyền bính, đánh lẫn nhau. Vua Lê Anh Tông đã trực tiếp điều hành triều chính và đứng ra dàn xếp các mâu thuẫn này, sau Trịnh Cối đem cả vợ con ra hàng nhà Mạc.

Lê Anh Tông phong cho Trịnh Tùng tước Trưởng quận công nắm giữ binh quyền để đánh nhà Mạc.

Tháng 3/1572, Lê Cập Đệ, cận thần nhà Lê, mưu giết tả tướng Trịnh Tùng. Việc không thành, Lê Cập Đệ bị Trịnh Tùng giết. Một số cận thần khác như Cảnh Hấp và Đình Ngạn nói với vua rằng: "Tả tướng cầm quân quyền thế rất lớn, bệ hạ khó lòng tồn tại với ông ta được", vua nghi hoặc, đang đêm đem theo bốn hoàng tử cùng chạy đến thành Nghệ An và ở lại đó. Tả tướng Trịnh Tùng cùng với triều thần lập con thứ 5 của Lê Anh Tông là Duy Đàm lên ngôi vua, và sai Nguyễn Hữu Liên đi đón vua Lê Anh Tông, khi về đến Lôi Dương - Thanh Hoá, ngầm bức hại vua rồi phao tin là vua tự thắt cổ.

Như vậy Lê Anh Tông ở ngôi được16 năm, thọ 42 tuổi.

4. Lê Thế Tông (1573 - 1599)

Lê Thế Tông tên huý là Duy Đàm, sinh tháng 11/1567. Tháng 1/1573 được lập làm vua khi mới 7 tuổi, quyền hành tất cả ở trong tay tả tướng Trịnh Tùng.

Sau gần 50 năm nội chiến Nam - Bắc Triều với gần 40 trận đánh lớn nhỏ, hàng vạn dân lành bị bắt vào lính, phục vụ cho các cuộc tàn sát khủng khiếp. Có trận mỗi bên huy động hàng chục vạn quân, hai bên giằng co khá quyết liệt, mãi đến năm 1591, Trịnh Tùng huy động tổng lực đánh trận quyết định ở Đông Kinh, tháng 11/1592 bắt được Mạc Mậu Hợp, chiếm được kinh thành. Tháng 2/1593, Trịnh Tùng đón Lê Thế Tông về kinh đô Đông Đô.

Công cuộc Lê Trung Hưng đã hoàn thành. Trịnh Tùng tự xưng là Đô Nguyên suý Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An vương toàn quyền quyết định. Vua chỉ ngồi chắp tay làm, vì bắt đầu thời kỳ "vua Lê chúa Trịnh".

Ngày 24 tháng Tám năm Kỷ Hợi - 1599, Lê Thế Tông mất, ở ngôi được 26 năm, thọ 33 tuổi.

5. Lê Kính Tông (1600 - 1619)

Lê Kính Tông tên huý là Duy Tân, con thứ của Lê Thế Tông, ngày 27 tháng Tám năm Kỷ Hợi - 1599 được Trịnh Tùng lập làm vua, khi đó mới 11 tuổi.

Từ đầu thế kỷ 17, sau khi đánh tan nhà Mạc, giành lại được kinh đô Đông Đô (dư đảng nhà Mạc phải rút lên Cao Bằng) quyền lực của Trịnh Tùng ngày càng lớn, triều đình chỉ biết phục vụ nhà chúa.

Trước tình hình đó, vua Lê Kính Tông cùng với Trịnh Xuân - con thứ của Trịnh Tùng - mưu giết Trịnh Tùng. Việc bại lộ, Trịnh Xuân bị bắt giam, còn Kính Tông bị bức thắt cổ chết vào ngày 12 tháng Năm năm Kỷ Mùi - 1619.

Lê Kính Tông ở ngôi được 19 năm, thọ 32 tuổi.

6. Lê Thần Tông (1619 - 1643 và 1649 - 1662)

Lê Thần Tông tên huý là Duy Kỳ, con trưởng của Lê Kính Tông và bà Trịnh Thị Ngọc Trinh (con thứ của Trịnh Tùng).

Duy Kỳ sinh ngày 19 tháng 11 năm Đinh Mùi - 1607, là cháu ngoại của Bình An Vương Trịnh Tùng, tháng 6 năm 1619 được lập làm vua khi đó mới 12 tuổi.

Vua có sống mũi cao, thông minh, học rộng, mưu lược sâu, văn chương giỏi. Song lấy Trịnh Thị Ngọc Trúc (là vợ của chú họ) để tiếng xấu về sau.

Tháng 10/1643, Lê Thần Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Hựu (tức Lê Chân Tông) để làm Thái thượng hoàng.

Tháng 8 năm 1649, Lê Chân Tông bị bạo bệnh mất, vì không có con nối ngôi, Lê Thần Tông lại trở lại ngôi vua lần thứ 2.

Ngày 22 tháng 9 năm 1662, Lê Thần Tông mất thọ 56 tuổi, ở ngôi 24 năm, làm Thái thượng hoàng 6 năm, lại lên ngôi 13 năm, tổng cộng làm vua 2 lần 37 năm.

7. Lê Chân Tông (1643 - 1649)

Lê Chân Tông tên huý là Duy Hựu, con trưởng của Lê Thần Tông, được truyền ngôi vào năm 13 tuổi, ở ngôi được 6 năm, năm 1649 bị bệnh mất, mới 20 tuổi, chưa có con nối ngôi. Lê Thần tông trở lại ngôi vua lần thứ 2.

8. Lê Huyền Tông (1663 - 1671)

Lê Huyền Tông tên huý là Duy Vũ, con thứ của Lê Thần Tông, em của Lê Chân Tông, được lập làm vua mới 9 tuổi, ở ngôi vua được 8 năm, ngày 15 tháng 10 năm Tân Hợi - 1671, Lê Huyền Tông mất mới 18 tuổi, chưa có con nối.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 6-1-2012 06:23 PM
9. Lê Gia Tông (1672 - 1675)

Lê Gia Tông tên huý là Duy Hợi, con thứ của Lê Thần Tông, em của Lê Chân Tông và Lê Huyền Tông, được lập làm vua lúc mới 11 tuổi.

Vua tướng mạo anh tú, tính tình khoan hoà, có đức độ làm vua, tiếc rằng ở ngôi được 3 năm, chết mới 15 tuổi, chưa có con nối.

10. Lê Hy Tông (1675 - 1705)

Lê Hy Tông tên huý là Duy Hợp, con thứ của Lê Thần Tông, em của Lê Gia Tông, được Tây vương Trịnh Tạc lập làm vua lúc mới 13 tuổi.

Nhà vua dựa vào chúa Trịnh để giữ cơ nghiệp có sẵn, kỷ cương được chấn hưng, được người đời ca ngợi là vua bậc nhất thời Lê Trung Hưng.

Tháng 4 năm Ất Dậu - 1705, nhường ngôi cho con trưởng là Lê Duy Đường. Vua Lê Hy Tông còn vui sống trong cảnh nhàn 12 năm sau mới mất, ở ngôi được 30 năm, thọ 54 tuổi.

11. Lê Dụ Tông (1705 - 1729)

Lê Dụ Tông tên huý là Duy Đường, con trưởng của Lê Hy Tông, được lên ngôi vua năm 1705.

Nhà vua rũ áo, ngồi ở trên, dựa vào chúa Trịnh Cương và quần thần giúp việc đắc lực như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn v.v... Họ đưa ra chủ trương cải cách trên nhiều lĩnh vực về kinh tế - tài chính, thi cử, tổ chức hành chính... nhưng các cải cách đó chưa thu được kết quả thì chúa Trịnh Cương qua đời.

Ngày 20 tháng 4 năm 1729, Lê Dụ Tông nhường ngôi cho con là Duy Phường.

Tháng giêng năm 1731, Thượng hoàng Lê Dụ Tông mất, thọ 52 tuổi, ở ngôi 24 năm.

12. Lê Duy Phường (1729 - 1732)

Thái tử Lê Duy Phường là con thứ của Lê Dụ Tông, cháu ngoại của chúa Trịnh Cương, được vua cha nhường ngôi năm 1729, nhưng khi Trịnh Cương mất thì ngôi vua của Duy Phường không đứng vững.

Khi Trịnh Giang lên nối ngôi chúa, tháng 8/1732 đã giáng Duy Phường xuống làm Hôn Đức Công và buộc thắt cổ chết vào tháng 9/1735.

Trịnh Giang lập con trưởng của Lê Dụ Tông là Duy Tường lên làm vua.

13. Lê Thuần Tông (1732 - 1735)

Lê Thuần Tông tên huý là Duy Tường, con trưởng của Lê Dụ Tông được chúa Trịnh Giang lập làm vua năm 1732, đổi niên hiệu là Long Đức.

Năm 1735, Thuần Tông mất, thọ 37 tuổi, làm vua được 3 năm.

Lê Thuần Tông mất, chúa Trịnh Giang lập Duy Thìn là con thứ 11 của Lê Dụ Tông lên làm vua.

14. Lê Ý Tông (1735 - 1740)

Lê Ý Tông tên huý là Duy Thìn lên làm vua mới 17 tuổi.

Chúa Trịnh Giang là kẻ vô cùng bạo ngược, sát hại công thần, giết vua nọ lập vua kia. Vì thế, tháng 12 năm 1738, các tôn thất nhà Lê như Duy Mật, Duy Quý (con Dụ Tông), Duy Chúc (con Hy Tông) nổi lên chiếm cứ miền thượng du tây nam Thanh Hoá chống nhau với nhà Trịnh ròng rã 30 năm.

Từ ngày giết vua, Trịnh Giang ngày càng lấn át quyền vua. Trịnh Giang tha hồ ăn chơi trác táng, vì thế mắc bệnh kinh quý, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ cho đào đất làm cung thưởng trì dưới hầm cho Trịnh Giang ở. Bọn hoạn quan tha hồ lũng đoạn triều đình. Các quan đại thần kế tiếp nhau bị giết hại, thuế khoá nặng nề, lòng dân ly tán. Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi.

Trước tình hình nguy ngập đó, Trịnh Thái Phi (mẹ Trịnh Giang và Trịnh Đường) cho triệu quần thần đến đưa Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang để trừ hoạn nạn.

Năm 1740, Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, tháng 5 năm 1740, Trịnh Doanh ép Lê Ý Tông nhường ngôi cho con trưởng của Thuần Tông là Duy Diêu. 19 năm sau Lê Ý Tông mất, thọ 40 tuổi, trị vì được 5 năm.

15. Lê Hiển Tông (1740 - 1786)

Lê Hiển Tông tên huý là Duy Diêu, là ông vua trị vì lâu thứ 2 trong lịch sử phong kiến nước ta - 46 năm, và thọ 70 tuổi.

Nhờ có tài giúp đỡ của Minh Vương Trịnh Doanh nên mười năm sau đất nước trở lại bình yên, dân được an cư lạc nghiệp, được ca ngợi là thời thái bình.

Tháng giêng năm 1764, Hiển Tông lập Duy Vĩ làm thái tử. Năm 1767 Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên thay làm nguyên soái Tĩnh Đô Vương, tháng 3 năm 1769, Trịnh Sâm truất ngôi thái tử của Duy Vĩ rồi bắt giam vào ngục. Tháng 8 năm 1769, Trịnh Sâm giả mệnh vua truất thái tử làm thứ dân rồi vẫn giam ở ngục, lập Duy Cận con thứ của Lê Hiển Tông làm thái tử.

Tháng 12/1771, Trịnh Sâm sai giết thái tử Duy Vĩ, đến tháng Giêng năm 1783 lập Duy Kỳ làm Hoàng Thái Tôn, truất Duy Cận làm Sùng nhượng công.

16. Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống, 1787 - 1788)

Lê Chiêu Thống tên huý là Duy Kỳ, cháu đích tôn của Lê Hiển Tông.

Duy Kỳ được quân tam phủ đưa từ trại giam về ép vua và chúa Trịnh Khải lập làm Hoàng Thái Tôn. Tháng 7/1786, trước khi vua Lê Hiển Tông mất đã cho gọi Thái Tôn, Duy Kỳ vào trối lời truyền ngôi. Duy Kỳ vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh. Lúc đó Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã cưới công chúa Ngọc Hân.

Để khôi phục lại triều Lê, tháng 7/1788 Hoàng thái hậu nhà Lê sang cầu viện nhà Mãn Thanh.

Dựa vào thế quân Mãn Thanh, Lê Chiêu Thống trở lại kinh đô Thăng Long đã trả thù tàn bạo những người theo Tây Sơn.

Mồng 5 tết năm Kỷ Dậu (1789), quân đội Tây Sơn do hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đã đánh tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh ở gò Đống Đa giành độc lập cho tổ quốc ta. Lê Chiêu Thống, vua bán nước, đã cùng 25 bầy tôi chạy theo tàn quân nhà Thanh sang Trung Quốc.

Sau năm năm sống lưu vong nhục nhã trên đất Mãn Thanh, tháng 10 năm Quý Sửu (1793), Lê Chiêu Thống chết ở Yên Kinh (Trung Quốc) thọ 28 tuổi, ở ngôi vua chưa được 3 năm.

Như vậy nhà Lê Trung Hưng từ Lê Trang Tông đến vua Lê Chiêu Thống trải qua 16 đời vua với 255 năm trị vì.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 6-1-2012 08:49 PM
A. Nhà Mạc (1527 - 1592)

Nhà Mạc - Nam Bắc Triều (1527 -1592)


* Nhà Lê suy sụp và sự ra đời của triều Mạc:

Ngay từ những năm cuối thế kỷ XV, mô hình tổ chức nhà nước cũng như các chính sách của triều Lê sơ đã bộc lộ những hạn chế và mâu thuẫn. Hệ thống quan lại hoàn bị, vốn là công cụ quản lý nhà nước sắc bén, dần biến thành một bộ máy quan liêu cồng kềnh. Nạn tham nhũng ngày càng trở nên phổ biến. Trước tình hình đó, người kế nghiệp Lê Thánh Tông là Lê Hiến Tông (1497 - 1505) đã có những cố gắng nhằm củng cố bộ máy chính quyền, nhưng kết quả chẳng được là bao. Năm 1499, ông đã ra sắc lệnh sa thải bớt lại viên trong bộ máy chính quyền từ trung ương đặt các địa phương. Trong tờ sắc cho Thượng thư Bộ Lại có đoạn viết: "Ỷ vào phép nước là thói tệ của bọn lại... Trước đây, lựa chọn không công bằng, bọn lại quá nhiều, rất nhũng tạp. Có kẻ ăn may, chỉ một nghề là được bổ dụng, có kẻ nhờ cậy nhiều ngón mong được chỗ hơn, hối lộ công khai, thăng quan vượt cấp". Đó chỉ là một phần biểu hiện của thực trạng nghiêm trọng hơn. Mô hình tập quyền quan liêu không còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế và xã hội, đã bất lực trong việc điều hành đất nước.

Sang đến đầu thế kỷ XVI, nhất là từ sau khi Lê Uy Mục lên ngôi 1505, triều đình hoàn toàn mất hết vai trò tích cực, lao vào con đường ăn chơi sa đọa. Bị người đương thời mệnh danh là "vua quỷ", Uy Mục là người u tối lại có tật nghiện rượu, hoang dâm, hiếu sắc. "Từ khi lên ngôi, vua đêm nào cũng cùng cung nhân uống rượu vô độ. Khi rượu say thì giết cả dung nhân". Bất chấp cả luật pháp, nhà vua dung túng cho bọn quý tộc ngoại thích và hoạn quan lộng hành. Chúng ngang nhiên hãm hại những người không cùng vây cánh, trắng trợn cướp bóc của dân. Chính sự trong triều rối loạn. Các thế lực chống đối nổi lên khắp nơi. Một nhóm tôn thất và công thần bị Uy Mục ngược đãi, đuổi về Thanh Hóa đã tập hợp lại dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Lang. Ở Tây Đô, nhóm này đã xây dựng lực lượng, tôn Lê Dinh lên làm minh chủ, công khai chống lại triều đình. Thay mặt cho nhóm nổi dậy, Lương Đắc Bằng đã soạn hịch kể tội Uy Mục, trong đó có đoạn viết: " Bạo chúa Lê Tuấn phận con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn, lần lữa mới gần 5 năm mà tội ác đã đủ muôn khoé... Quan tước đã hết rồi mà vẫn thưởng tràn không ngớt, dân chúng đã cùng khốn còn vơ vét chẳng thôi. Vét thuế khoá từng cân lạng, tiêu tiền của như đất bùn, bạo ngược ngang với Tần Chính".

Năm 1509, Lê Dinh từ Thanh Hóa đem quân ra Thăng Long, lật đổ Uy Mục, giành lấy ngôi vua. Sau này Lê Dinh được truy tôn làm Tương Dực đế nên sử sách thường gọi ông vua này là Lê Tương Dực (1509 - 1516).

Lê Tương Dực cũng không đưa ra được biện pháp gì mới để củng cố chính quyền. Mặc dù đội ngũ quan lại cao cấp có những người hăng hái muốn thay đổi tình hình như Nguyễn Văn Lang và Lương Đắc Bằng. Họ đã dâng lên 14 kế sách trị bình, vua cho là phải. Lại cho soạn sách Trị bình bảo phạm gồm 50 điều để răn dạy quan lại và dân chúng, nhưng cuối cùng cũng không được thực hiện. Trong khi đó, mâu thuẫn giữa các phe phái trong triều ngày càng trở nên trầm trọng. Nhà vua là người thích ăn chơi xa hoa, cho xây dựng thành quách, cung điện vô cùng tốn kém, sai Vũ Như Tô vẽ mẫu làm đại điện hơn 100 nóc, xây cửu trùng đài cao ngất. Các công trình xây dựng phải phá đi, chữa lại nhiều lần khiến binh lính và dân chúng khổ cực vì lao dịch, bệnh tật, chết rất nhiều... Khi nói về Lê Tương Dực, các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư đã có lời bình: "Xa hoa dâm dục quá độ, hình phạt nặng, thuế khóa nhiều, giết hết các thân vương, can qua xảy ra khắp nơi, người thời ấy gọi là vua lợn".

Lợi dụng sự tha hóa của vua quan triều đình, những cuộc nổi dậy ở địa phương nổ ra ngày một nhiều. Năm1511, Thân Duy Nhạc và Ngô Văn Tổng nổi dậy ở Kinh Bắc. Cuối năm đó, Trần Tuân dấy binh đánh phá ở Sơn Tây. Năm 1512, dư đảng của Trần Tuân do Nguyễn Nghiêm cầm đầu hoạt động mạnh ở vùng Sơn Tây, Hưng Hoá. Ở Nghệ An, dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh Lê Hy, Trịnh Hưng và Lê Minh Triệt, dân chúng cũng nổi dậy chống lại triều đình. Khó khăn lắm quan quân triều đình mới đàn áp được. Tình hình ổn định chưa được bao lâu thì năm 1515 tại vùng núi Tam Đảo lại nổ ra cuộc nổi dậy do Phùng Chương lãnh đạo. Cùng năm, Ở Thanh Hoá, Đặng Hân và Lê Hất dấy binh.

Những cuộc nổi dậy nổ ra dồn dập và có quy mô ngày càng lớn. Vào năm 1516, vừa đàn áp xong Trần Công Ninh ở Yên Lãng (Vĩnh Phúc), triều đình đã phải tập hợp lực lượng đối phó với phong trào ở huyện Thủy Đường (Hải Phòng) do Trần Cao lãnh đạo. Phong trào này đã liên kết với lực lượng nổi dậy ở Đông Triều do Phan Ất (một gia nô người Chăm), Đình Ngạn, Đình Nghệ, Đình Bảo, Công Uẩn và Đoàn Bố cầm đầu. Phong trào đã nhanh chóng làm chủ được hai huyện Thủy Đường, Đông Triều và nhiều vùng rộng lớn khác của trấn Hải Dương. Quan quân triều đình đã nhiều phen khốn đốn vì những cuộc tấn công của nghĩa quân.

Do có công lao trong việc đánh dẹp và đàn áp các cuộc nổi dậy, thế lực các võ quan ngày càng mạnh. Bọn này kiêu mạn, lũng đoạn triều đình và luôn tìm cách khuynh loát quyền lực. Giữa năm 1516, lợi dụng tình thế rối ren, tướng Trịnh Duy Sản đã liên kết với Lê Quảng Độ lập mưu giết chết Lê Tương Dực.

Tình hình chính trị nhà Lê càng trở nên rối loạn khi nghĩa quân Trần Cao tiến đến sát kinh thành. Hành động giết vua của nhóm Trịnh Duy Sản đã tạo nên sự phân liệt và mâu thuẫn sâu sắc trong nội bộ triều đình. Kẻ muốn lập Quang Trị lên làm vua, người lại đòi phải đưa Lê Y lên ngôi. Sự chia rẽ nội bộ đã dẫn tới một kết cục bi thảm. Quang Trị (lúc ấy mới 8 tuổi) vừa được đặt lên ngôi ít ngày thì bị giết chết. Triều thần lại tôn Lê Y, 14 tuổi lên ngôi Hoàng đế (trong sử gọi là Lê Chiêu Tông). Không chống đỡ nổi các cuộc tấn công của nghĩa quân Trần Cao, triều Lê đã phải bỏ thành Thăng Long chạy vào Tây Đô.

Cuối năm 1516, Trần Cao chiếm được kinh thành Thăng Long, tự xưng là vua, đặt niên hiệu Ứng Thiên. Nhưng chẳng bao lâu sau quân nhà Lê từ Thanh Hóa tiến ra, Trần Cao không chống cự nổi, phải rút về Lạng Nguyên (Lạng Sơn), giao quyền cho con là Trần Cung, rồi cắt tóc đi tu. Nghĩa quân cầm cự được đến năm 1521 thì bị dập tắt hoàn toàn. Tình hình tạm yên ổn, nhưng thế lực của Mạc Đăng Dung, khi ấy là Thái phó kiêm Tiết chế các doanh quân thủy bộ, đã lớn đến mức nhà vua không chế ngự nổi. Để thâu tóm hoàn toàn quyền lực, năm 1522 Mạc Đăng Dung cùng với những người cùng phe cánh đã phế truất Lê Chiêu Tông, lấy người em của nhà vua là Lê Xuân lên ngôi Hoàng đế (Cung hoàng đế). Trong vòng 5 năm, các phe phái chống đối lần lượt bị đánh bại.

Năm 1527, khi thực tế mọi quyền lực đã nằm trọn trong tay, Đăng Dung bắt ép Cung hoàng đế nhường ngôi, lập ra nhà Mạc.

Mạc Đăng Dung quê gốc ở xã Cao Đôi, huyện Bình Hà (nay thuộc xã Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Tiên tổ bảy đời là Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên triều Trần. Đến đời thứ tư chuyển về xã Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay thuộc xã Ngũ Đoan, huyện Kiến Thuỵ, thành phố Hải Phòng). Thửa nhỏ, gia đình Mạc Đăng Dụng làm nghề đánh cá. Nhờ có sức khoẻ và giỏi võ mà thi đỗ lực sỹ. Năm 1508, thời Lê Uy Mục, được sung làm Đô chỉ huy sứ vệ Thần vũ. Trong vòng hơn 10 năm, trải qua ba triều vua, do có công đàn áp các cuộc nổi dậy và dẹp loạn trong triều, Mạc Đăng Dung nhanh chóng được phong đến rước hiệu cao nhất của nhà Lê (Vũ Xuyên bá: năm 1511; Vũ xuyên hầu: năm 1518; Minh quận công: năm 1519; Nhân quốc công: năm 1521; An Hưng vương: năm 1527).

Mở đầu một vương triều mới trong bối cảnh chính trị không thuận lợi, nhà Mạc tập trung củng cố chính quyền và kỷ cương đất nước vốn đã trở nên vô cùng rệu rã bằng cách tổ chức lại bộ máy quan lại. Hệ thống luật pháp hoàn bị của nhà Lê về cơ bản vẫn được duy trì, nhưng vào cuối năm 1528 Mạc Đăng Dung đã giao cho Nguyễn Quốc Hiến xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp với tình hình mới, đặc biệt là các chính sách liên quan đến điền chế, lộc chế. Để có quân đội mạnh và chỉ huy thống nhất, nhà Mạc đã chấn chỉnh binh chế, phiên chế, tổ chức lại lực lượng các vệ, phủ, sở, ty. Nhà Mạc đặt ra 4 vệ Hưng Quốc, Chiêu Vũ, Cẩm Y, Kim Ngô. Bốn vệ này thống lĩnh toàn bộ quân đội thường trực ở kinh thành và 4 trấn quan trọng (Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây và Kinh Bắc). Ngoài ra, quân ở các đạo được phiên chế thành các đơn vị trực thuộc vào 5 phủ.

Làm vua được 3 năm, Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh, lên làm Thái Thượng hoàng. Trong vòng 5 năm đầu, nhà Mạc đã cố gắng đưa tình hình dần đi vào thế ổn định. Mặc dù có thái độ không thiện cảm với triều Mạc nhưng các tác giả Đại Việt sử ký toàn thư, khi chép các sự kiện trong giai đoạn này đã có nhận xét: "Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về... Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên".

Nếu như chính sách đối nội có một số mặt tích cực, cởi mở, tạo tiền đề cho sự phát triển của đất nước về mặt kinh tế và văn hoá, thì chính sách đối ngoại, nhất là trong quan hệ với nhà Minh, nhà Mạc lại tỏ ra hết sức lúng túng. Lợi dụng tình hình rối loạn ở Đại Việt, nhà Minh thường cho người sang dọa dẫm, sách nhiễu. Lo sợ lực lượng cựu thần nhà Lê và muốn tranh thủ sự ủng hộ của nhà Minh, trước những hành động như thế, nhà Mạc chọn giải pháp thoả hiệp, đem vàng bạc, châu báu đút lót để được yên ổn. Được thể nhà Minh càng lấn tới. Sau khi biết tin các lực lượng ủng hộ triều Lê đã tìm được con trai Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh để tôn lên làm vua, năm 1537, vua Minh sai Cừu Loan và Thượng thư bộ binh Mao Bá Ôn đem một đạo quân xuống vùng biên giới phía nam và phao tin sẽ đánh Đại Việt. Trong tình thế bức bách và mong được nhà Minh công nhận để yên tâm đối phó với lực lượng cựu thần nhà Lê, nhà Mạc đã phải đáp ứng những yêu sách của nhà Minh. Năm 1540, Mạc Đăng Dung cùng với 40 viên quan đem sổ sách lên tận cửa Nam Quan để nộp và trả lại nhà Minh đất 5 động vùng Đông Bắc, vốn được sáp nhập vào Đại Việt từ thế kỷ XV. Việc làm này của Mạc Đăng Dung đã gây nên sự bất bình trong nhiều quan lại và dân chúng, khiến nhà Mạc dần dần lâm vào tình thế cô lập. Những người ủng hộ triều Lê ngày càng có điều kiện thuận lợi để tập hợp lực lượng chống lại.

* Triều Lê Trung hưng và cục diện Nam - Bắc triều:

Mạc Đăng Dung giành được ngôi vua nhưng lực lượng ủng hộ nhà Lê còn rất mạnh. Ngay từ năm 1530, một hoàng tộc nhà Lê là Lê Ý cùng với một số bộ tướng đã dấy binh ở Thanh Hoá. Lực lượng này phát triển nhanh chóng, có lúc lên tới vài vạn người. Cuộc chiến kéo dài gần một năm. Mặc dù cuộc nổi dậy bị thất bại nhưng lực lượng của nhà Mạc cũng bị tổn thất nặng nề.

Năm 1531, nhóm cựu thần nhà Lê do Lê Công Uyên cầm đầu, sau khi tổ chức tấn công vào Thăng Long không thành (năm 1528) phải chạy vào đất Thanh Hoá, đã chiêu tập một đội quân ô hợp tự xưng là quân nhà Lê, kéo nhau đi chiếm cứ các quận, huyện. Quân Lê Uyên đi đến đâu thường bắt người, cướp của, đốt phá nhà cửa, khiến cho dân chúng vô cùng khổ cực. Khi bị quân nhà Mạc tấn công, đội quân này bị tan rã và thất bại nhanh chóng.

Trong khi nhà Mạc đang phải đối phó với các cuộc nổi dậy chống đối trong nước, An Thành hầu Nguyễn Kim, vốn là Thanh Hoa hữu vệ Điện tiền tướng quân dưới triều Lê, được sự giúp đỡ của vua Ai Lao, đã bí mật xây dựng lực lượng ở Sầm Châu (nay là tỉnh Sầm Nứa của Lào). Năm 1533, Nguyễn Kim cho đón Lê Duy Ninh sang Ai Lao, tôn lên làm vua, lập lại triều Lê.

Từ khi có danh nghĩa chính thống, Nguyễn Kim đã quy tụ được hầu hết các lực lượng cựu thần nhà Lê. Thế lực Nguyễn Kim ngày càng mạnh lên. Trong khi đó sự kiểm soát của nhà Mạc từ Thanh Hóa trở vào nam rất yếu. Năm 1537, một viên tướng được giao quản lĩnh 7 huyện của Thanh Hóa là Lê Phi Thừa đem quân chạy sang Ai Lao đầu hàng nhà Lê. Nhân cơ hội đó, từ năm 1539 đến năm 1543, quân nhà Lê từ Ai Lao đã mở các cuộc tấn công về Nghệ An và Thanh Hoá. Quân nhà Mạc thất bại liên tiếp.

Cuối năm 1543, nhà Lê chiếm được Tây Đô. Thanh Hoá, Nghệ An trở thành vùng đất đứng chân của vua Lê. Từ thời điểm đó, trên đất nước cùng tồn tại hai vương triều: Mạc và Lê. Hai thế lực tranh chấp nhau khiến cho đất nước lâm vào cảnh huynh đệ tương tàn. Về danh nghĩa triều Lê đã được phục hồi, nhưng ngay từ những ngày đầu người nắm thực quyền điều hành mọi công việc là Thái sư Nguyễn Kim. Năm 1545, Nguyễn Kim bị một hàng tướng nhà Mạc đầu độc. Người thay thế vị trí Nguyễn Kim tiếp tục cuộc chiến tranh với nhà Mạc là Trịnh Kiểm. Từ đây họ Trịnh kế tục nhau nắm quyền chi phối triều Lê. Năm 1546, sau khi đã làm chủ được cả một vùng rộng lớn từ Thanh - Nghệ trở vào Nam, Trịnh Kiểm cho xây dựng thành quách, lập cung điện, tổ chức quan lại như một triều đình thực sự. Để phân biệt, sử sách thường gọi triều Mạc đóng đô ở Thăng Long là Bắc triều và triều Lê Trung Hưng ở Thanh Hóa là Nam triều.

Cuộc nội chiến Nam - Bắc triều kéo dài gần 50 năm với gần 40 trận chiến lớn nhỏ có thể chia thành 3 giai đoạn chính:

+ Từ năm 1545 - 1569 là giai đoạn Nam triều giành thế chủ động, liên tục tấn công ra Bắc. Lợi dụng tình trạng lục đục trong nội bộ triều Mạc, quân Trịnh đã tổ chức 11 lần xuất quân đánh phá các trận vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong đó nơi thường xuyên phải chịu cảnh binh lửa là trấn Sơn Nam. Trong giai đoạn này quân nhà Mạc cũng mở được 4 lần tấn công vào Thanh Hoá, nhưng kết cục không bên nào giành được thắng lợi quyết định.

+ Từ 1570 - 1583 là giai đoạn quân Mạc phản công. Sau khi Trịnh Kiểm qua đời, nội bộ Nam triều phát sinh mâu thuẫn. Trong lúc hai anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh giết nhau, Mạc Kính Điển đã huy động 10 vạn quân với 700 chiến thuyền vượt biển đánh vào Thanh Hoá. Trịnh Cối cùng với 2 vạn quân buộc phải đầu hàng. Bộ phận còn lại của Nam triều do Trịnh Tùng chỉ huy rút chạy lên vùng thượng lưu sông Chu, sông Mã để cố thủ. Sau 8 tháng tiến công nhưng không tiêu diệt được quân Trịnh, cuối năm ấy quân Mạc phải rút về Thăng Long. Liên tục trong các năm sau, Bắc triều đã tiến hành 12 cuộc tấn công lớn nhỏ vào Thanh Hóa, Nghệ An và Thuận Hóa nhưng cuối cùng đều phải rút lui. Với những nỗ lực cao nhất nhằm đè bẹp lực lượng của Nam triều, trong vòng hơn 10 năm, nhà Mạc đã điều động gần như cạn kiệt tiềm lực của mình cho chiến tranh.

+ Từ 1583 - 1592 là giai đoạn suy sụp của nhà Mạc. Quân Trịnh giành lại thế chủ động tấn công chiếm lại được Thăng Long. Vốn đã để mất lòng dân và đội ngũ quan lại vì chính sách đối ngoại thỏa hiệp, lại tiêu phí quá lớn sức người sức của vào các cuộc chiến tranh phe phái, từ những năm 80 nhà Mạc bắt đầu suy yếu. Quan quân chán nản, lòng người ly tán. Nhiều người bỏ việc về quê. Có người chạy sang đầu hàng Nam triều. Không đủ sức mở các cuộc tấn công lớn như giai đoạn trước, năm 1585, Mạc Mậu Hợp tập trung xây dựng thành lũy để phòng thủ.

Trong bối cảnh đó, lực lượng Nam triều được củng cố lại đã liên tục giành được những thắng lợi quan trọng. Cuối năm 1591, Trịnh Tùng điều động 6 vạn quân chia làm 5 đạo theo đường phía tây tiến ra Bắc. Để đối phó lại, nhà Mạc cũng đã huy động một lực lượng tới 10 vạn quân. Một trận quyết chiến giữa hai bên đã diễn ra ở Sơn Tây. Trong trận này quân Mạc đại bại, thương vong tới 1 vạn người. Thừa thắng, Trịnh Tùng cho quân áp sát thành Thăng Long, "đốt phá nhà cửa, khói lửa ngợp trời" để uy hiếp.

Năm 1592, quân Nam triều mở cuộc tấn công quyết định vào Thăng Long. Trịnh Tùng giành toàn thắng. Cục diện chiến tranh Nam - Bắc triều về cơ bản đã kết thúc, nhưng con cháu nhà Mạc cùng một số tướng tá và tàn quân bỏ chạy lên Cao Bằng hoạt động cho đến tận năm 1677 mới chấm dứt hoàn toàn.

Năm 1592, Trịnh Tùng xưng vương và xây dựng Vương phủ (phủ Chúa) bên cạnh triều đình nhà Lê. Từ đó, hình thành cục diện một chế độ với hai chính quyền. Vua Lê chỉ tồn tại trên danh nghĩa còn mọi quyền hành trong nước đều do chúa Trịnh quyết định.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 6-1-2012 09:12 PM
Thế phả nhà Mạc

Triều Mạc (1527 - 1592)

1. Mạc Đăng Dung (1527 - 1529)

Mạc Đăng Dung quê ở làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (Hải Dương) là cháu bảy đời của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi làm quan đến chức Nhập nội hành khiển (Tể tướng) thời Trần, bố là Mạc Hịch, mẹ là Đặng Thị Hiến. Ông bà Mạc Hịch - Đặng Thị Hiến sinh được 3 người con trai là: Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Đốc và Mạc Đăng Quyết.

Mạc Đăng Dung sinh ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão - 1483. Thời trẻ, Mạc Đăng Dung có sức khoẻ phi thường, tướng mạo khôi ngô. Ông xuất thân từ một thanh niên nghèo, làm nghề đánh cá, trong một dịp đi thi võ ở kinh đô đã trúng Đô lực sĩ và được sung vào Châu túc vệ chuyên cầm dù đi theo vua.

Mạc Đăng Dung tiến rất nhanh trên con đường hoan lộ, năm 1511 mới 29 tuổi đã được phong tước Vũ xuyên bá. Năm 1516, Mạc Đăng Dung được cử làm Trấn thủ Sơn Nam với chức Phó tướng tả đô đốc.

Trải qua 3 đời vua Lê, Mạc Đăng Dung được phong thái sư Nhân quốc công rồi đến An hưng vương.

Lợi dụng lúc vua Lê Cung Hoàng ươn hèn, tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai đem quân về kinh đô ép vua nhường ngôi, lập lên triều Mạc.

Cũng như nhà Trần, tháng 12 năm 1529, Mạc Đăng Dung nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh làm vua, còn mình làm Thái thượng hoàng. Lúc đó Mạc Đăng Dung mới 46 tuổi. Mạc Đăng Dung mất tháng 8 năm Tân Sửu - 1541, thọ 59 tuổi.

2- Mạc Đăng Doanh (1530 - 1540)

Mạc Đăng Doanh là con trưởng của Mạc Đăng Dung. Tháng giêng năm 1530 Mạc Đăng Doanh lên ngôi vua, đổi niên hiệu là Đại Chính, tôn cha làm Thái thượng hoàng.

Mạc Đăng Doanh làm cung điện nguy nga ở Cổ Trai để Thái thượng hoàng sống ở đó vui thú điền viên, nhưng ngụ ý là trấn giữ một vùng quan trọng làm ngoại viện cho Mạc Đăng Doanh và vẫn định đoạt những việc trọng đại của quốc gia.

Từ khi Mạc Đăng Doanh lên ngôi vua thì ở Thanh Hoá, cựu thần nhà Lê là Nguyễn Kim dựa vào rừng núi ở biên giới Việt - Lào lãnh đạo lực lượng trung hưng nhà Lê ngày càng lớn mạnh. Năm Quý Tỵ - 1533, các cựu thần nhà Lê lập Lê Duy Ninh lên làm vua gọi là Lê Trang Tông.

Dưới triều nhà Mạc, cứ 3 năm mở một kỳ thi Hội, thi Đình để tuyển chọn nhân tài. Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ trạng Nguyên dưới triều Mạc Đăng Doanh.

Ngày 15 tháng Giêng năm Canh Tý - 1540, Mạc Đăng Doanh chết, ở ngôi được 10 năm.

3 - Mạc Phúc Hải (1541 - 1546)

Mạc Phúc Hải là con trưởng của Mạc Đăng Doanh, được ông nội là Thái thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập làm vua vào năm Tân Sửu - 1541.

Thời Mạc Phúc Hải đã tiến hành chia cấp lộc điền, đặc biệt ưu tiên binh sĩ, vì lực lượng quân sĩ to lớn được nuôi dưỡng để chống lại nhà Lê Trung Hưng (Nam Triều).

Ngày 8 tháng 5 năm Bính Ngọ - 1546, Mạc Phúc Hải chết, ở ngôi vua được 5 năm. Con trưởng là Mạc Phúc Nguyên kế vị.

4 - Mạc Phúc Nguyên (1546 - 1561)

Mạc Phúc Nguyên lên ngôi vua vào tháng 5 năm 1546, lúc đó còn nhỏ tuổi, mọi công việc triều chính đều do chú ruột là Khiêm vương Mạc Kính Điển quyết đoán cả.

Tháng 7/1557, Mạc Phúc Nguyên sai Mạc Kính Điển đem quân vào đánh Thanh Hoá. Quân Mạc thua to, Mạc Kính Điển phải nhảy xuống sông ẩn nấp suốt 3 ngày mới thoát chết.

Đến năm Kỷ Mùi - 1559, quân Lê - Trịnh mở cuộc tấn công vào hậu phương của nhà Mạc ở Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Kinh Bắc, Hải Dương... Mạc Phúc Nguyên phải rút vào phòng thủ ở ngoài thành Đông Đô.

Tháng 12/1561, giữa lúc cuộc chiến Lê - Mạc đang gay go quyết liệt nhất thì Mạc Phúc Nguyên chết vì bệnh đậu mùa. Mạc Phúc Nguyên làm vua được 15 năm.

5 - Mạc Mậu Hợp (1562 - 1592)

Mạc Mậu Hợp là con cả của Mạc Phúc Nguyên, năm 1562 lên ngôi vua hãy còn bé, ứng vương Mạc Đăng Nhượng (con út Mạc Đăng Dung) làm Nhập nội phụ chính ẵm Mạc Mậu Hợp ra coi chầu, tôn ông chú là Khiêm vương Mạc Kính Điển làm Khiêm đại vương cùng trông coi việc triều chính.

Ngày 21 tháng 2 năm Mậu Dần - 1578, Mạc Mậu Hợp bị sét đánh ở trong cung, liệt nửa người, sau chữa thuốc lại khỏi, bèn đổi niên hiệu là Diên Khánh.

Tháng 10 năm Canh Thìn - 1580, Phụ chính Mạc Kính Điển, trụ cột của triều Mạc chết, ứng vương Mạc Đăng Nhượng giữ quyền phụ chính quyết định mọi việc nhưng lại thường về sống ở Dương Kinh vì vậy việc triều chính bê bối không ai quyết đoán.

Năm 1581, Mạc Mậu Hợp bị chứng thong manh, chữa mãi mới khỏi. Khỏi bệnh, Mạc Mậu Hợp lao vào ăn chơi truỵ lạc. Chính sự nhà Mạc ngày càng đổ nát, binh lực suy yếu, lòng người ly tán.

Ngày 25 tháng 11 năm 1592, thủy quân Lê - Trịnh gồm 300 chiến thuyền đánh vào các huyện Kim Thành, Thanh Hà, Nam Sách, Kinh Môn (tỉnh Hải Dương ngày nay). Quân Mạc tan vỡ, dư Đảng nhà Mạc xin hàng Trịnh Tùng rất đông. Mạc Mậu Hợp chạy trốn, bị bắt giải về kinh đô Đông Đô, bị treo sống 3 ngày rồi bị chém đầu ở bãi cát Bồ Đề. Mạc Mậu Hợp ở ngôi vua được 30 năm, khi chết 31 tuổi.

Con trai Mạc Mậu Hợp là Mạc Toàn chạy trốn, sau bị quân Trịnh bắt được đem chém đầu tại bến Thảo Tân.

Họ Mạc từ Mạc Đăng Dung đến Mạc Mậu Hợp truyền ngôi được 5 đời thì mất, tổng cộng được 65 năm.

Con cháu nhà Mạc theo lời dạy của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm rút lên Cao Bằng, còn kéo dài được đến năm 1677 mới bị diệt hẳn:

Mạc Toàn (1592)

Mạc Kính Chỉ (1592 - 1593)

Mạc Kính Cung (1593 - 1625)

Mạc Kính Khoan (1623 - 1625)

Mạc Kính Vũ (1638 - 1677)

Như vậy nhà Mạc tồn tại đúng 150 năm.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 7-1-2012 07:51 AM
B. Trịnh - Nguyễn phân tranh (1600 - 1777)

Đại Việt - thời kỳ phân liệt Trịnh - Nguyễn phân tranh (1600 - 1777)

Ngay từ khi cuộc chiến Nam - Bắc triều còn đang tiếp diễn, trong nội bộ Nam triều đã nảy sinh mầm mống chia rẽ. Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị sát hại, vua Lê trao mọi quyền bính cho Trịnh Kiểm. Hai họ Trịnh - Nguyễn vốn đã từng được gắn kết bởi mục đích chung giúp vua Lê dựng lại cơ nghiệp, lại được thắt chặt thêm bằng quan hệ hôn nhân (Trịnh Kiểm là con rể Nguyễn Kim), đến đây bị rạn nứt. Để thâu tóm mọi quyền lực, Trịnh Kiểm tìm mọi cách loại bỏ ảnh hưởng của họ Nguyễn. Mâu thuẫn giữa hai thế lực đạt đến độ gay gắt khi người con trai trưởng của Nguyễn Kim là tả tướng Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm lập mưu giết hại. Em trai của Uông là Nguyễn Hoàng, theo lời gợi ý của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đã nhờ chị gái là Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin cho được vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Việc ra đi của Nguyễn Hoàng, như lịch sử đã cho thấy, không phải chỉ để bảo toàn tính mạng, mà là thực hiện bước mở đầu cho một chiến lược lâu dài: xây dựng lực lượng chống lại họ Trịnh. Đất Thuận Hóa trở thành nơi dấy nghiệp của họ Nguyễn.

Thuận Hóa vốn là đất cũ của Champa, được sáp nhập dần dần vào lãnh thổ Đại Việt bắt đầu từ thời Lý. Sau khi bị thất bại trong cuộc chiến tranh năm 1069, vua Champa Rudravarman III đã cắt cho Đại Việt 3 châu Bố Chính, Địa Lý và Ma Lanh (tương đương với vùng đất từ huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đến huyện Do Linh, tỉnh Quảng Trị). Năm 1306, để cưới công chúa Huyền Trân, quốc vương Simhavarman III (Chê Mân) lại cắt 2 châu Ô và Lý (tương đương với vùng đất từ huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị đến huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) cho nhà Trần làm sính lễ. Năm sau nhà Trần đổi tên hai châu này thành Thuận châu và Hóa châu. Đến thời Lê Thánh Tông chia cả nước thành 13 xứ, trong đó có xứ Thuận Hóa bao gồm một vùng đất từ phía nam đèo Ngang đến đèo Hải Vân.

Cuối năm 1558, Nguyễn Hoàng đưa gia quyến, tùy tùng và họ hàng thân thuộc ở huyện Tống Sơn vào Thuận Hóa. Năm sau, vùng Thanh Hoá, Nghệ An bị lụt to, hàng trăm ngàn gia đình bị mất nhà cửa, mùa màng thất bát, nhân dân đói khổ, nhiều người đã kéo nhau vào đất Thuận Hóa để tìm kế sinh nhai. Khi Nguyễn Hoàng mới vào trấn thủ, đây còn là một vùng dân cư thưa thớt, kinh tế kém phát triển. Theo mô tả của sử cũ, trên con đường giao thông chính chạy dọc Thuận Hóa đến tận đèo Hải Vân chỉ có 4 cái quán nhỏ; cả xứ chỉ có 3 cái chợ.

Để lôi kéo nhiều người đến Thuận Hóa làm ăn sinh sống, Nguyễn Hoàng và những cộng sự của ông đã thực thi một chế độ cai trị khoan hòa, khuyến khích sản xuất. Sách Đại Nam thực lục có nhận xét: "Chúa vỗ về thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, thường gọi là chúa Tiên".

Đối với triều Lê, Nguyễn Hoàng tỏ ra hết sức mềm dẻo, khiến cho họ Trịnh không chút nghi ngờ. Sau hơn 10 năm làm Trấn thủ Thuận Hóa, năm 1570, Nguyễn Hoàng được tin cậy giao cho kiêm lãnh trấn thủ cả xứ Quảng Nam.

Xứ Quảng Nam thời kỳ này bao gồm dải đất miền Trung từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông, vốn là đất Champa, sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt sau hai cuộc chiến tranh lớn. Lần thứ nhất xảy ra vào năm 1402, sau khi thất bại trước đại quân do Hồ Hán Thương chỉ huy, Champa phải cắt đặt Chiêm Động và Cổ Lũy (tương đương với vùng đất phía nam tỉnh Quảng Nam và bắc Quảng Ngãi ngày nay). Cuộc chiến lần thứ hai xảy ra vào năm 1471 dưới thời Lê Thánh Tông. Sau sự kiện này, đèo Cù Mông trở thành biên giới phía nam của Đại Việt.

Có trong tay quyền cai quản toàn bộ hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, Nguyễn Hoàng vẫn tiếp tục giữ vẻ bề ngoài hòa hiếu với chính quyền Lê - Trịnh, góp sức với Nam triều trong cuộc chiến tranh chống lại nhà Mạc, nhưng đồng thời hết sức chú trọng phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực về mọi mặt. Lê Quý Đôn, một quan lại cao cấp của họ Trịnh, đứng trên lập trường đối địch, khi đánh giá về Nguyễn Hoàng cũng phải thừa nhận: "Đoan quận công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối... chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, phép tắc công bằng, nghiêm giữ quân sỹ có kỷ luật, cấm chấp kẻ hung bạo. Quân dân hai xứ đều mến yêu kính phục; thay đổi phong tục xấu, ai ai cũng cám ơn mến đức. Chợ không có hai giá, trong dân gian không có trộm cướp, đêm không phải đóng cổng; thuyền ngoại quốc đến buôn bán, việc giao dịch phân minh, ai cũng cố gắng, toàn cõi nhân dân an cư lạc nghiệp".

Khi cục diện Nam - Bắc triều kết thúc cũng là lúc mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Trịnh - Nguyễn đến ngày không thể dung hòa. Sau hơn 40 năm gây dựng lực lượng, trước khi qua đời vào năm 1613, Nguyễn Hoàng đã nói rõ ý định của mình với con cháu và thuộc hạ trong lời trăng trối: "Đất Thuận Quảng phía bắc có Hoành Sơn và Linh Giang, phía nam có núi Hải Vân và Thạch Bi, địa thế hiểm cố, thật là một nơi để cho người anh hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sỹ, kháng cự lại họ Trịnh thì gây dựng được cơ nghiệp muôn đời". Người trực tiếp thực hiện lời di huấn ấy là Nguyễn Phúc Nguyên.

Phúc Nguyên là con trai thứ 6 của Nguyễn Hoàng. Ngay từ lúc còn trẻ đã tỏ ra là một anh kiệt. Năm 1585, khi mới 22 tuổi đã chỉ huy một thủy đội đánh thắng 5 chiếc tàu lớn của nước ngoài đến xâm phạm vùng biển Cửa Việt. Năm 1602 được Nguyễn Hoàng giao cho làm trấn thủ xứ Quảng Nam, Phúc Nguyên đã có nhiều công lao trong việc mở mang thương cảng Hội An và phát triển thương mại quốc tế.

Ngay sau khi thay cha làm trấn thủ Thuận - Quảng, Phúc Nguyên cho sửa thành lũy, sắp đặt lại hệ thống quan ải, cải tổ bộ máy cai trị. Năm 1614 ba ty Đô, Thừa, Hiến theo hệ thống của nhà Lê bị bãi bỏ, thay bằng ty Xá sai, ty Tướng thần và ty Lệnh sử. Năm sau, quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện được ban hành. Năm 1618, chính quyền họ Nguyễn tiến hành đo đạc lại ruộng đất hai xứ, làm cơ sở cho việc quản lý. Đối với nhà Lê, khác với cha, Nguyễn Phúc Nguyên tìm mọi cách thoái thác việc cống nạp. Tình hình trở nên căng thẳng vào năm 1620 khi Trịnh Tráng sai Đô đốc Nguyễn Khải đem 5000 quân đến cửa biển Nhật Lệ để uy hiếp. Có lúc, nhân họ Trịnh rối ren (Trịnh Tùng chết năm 1623), Phúc Nguyên đã toan cất quân đánh ra Bắc, nhưng rồi lại thôi. Trịnh Tráng lên thay Trịnh Tùng thi hành chính sách cứng rắn với họ Nguyễn. Năm 1627, chiến tranh đã nổ ra. Trên thực tế đất nước bị chia cắt làm hai miền. Vùng đất từ đèo Ngang trở ra Bắc nằm dưới quyền cai trị của chính quyền Lê - Trịnh gọi là Đàng Ngoài. Đất Thuận - Quảng được gọi là Đàng Trong.

Trong vòng 45 năm, quân Trịnh đã 6 lần tấn công với quy mô lớn vào Đàng Trong các năm 1627, 1633, 1643, 1648, 1661 và 1672. Nhìn toàn cục, lực lượng quân Trịnh mạnh hơn. Có thời kỳ, quân Trịnh đã huy động tới 20 vạn quân thủy bộ với 600 chiến thuyền, 500 thuyền vận tải và 500 voi cho một trận đánh. Trong khi đó, quân đội thường trực của Đàng Trong chỉ có khoảng 4 vạn bộ binh với 200 chiến thuyền. Nhưng do phải điều động quân đi xa và gặp rất nhiều khó khăn trước hệ thống lũy phòng ngự kiên cố của quân Nguyễn nên quân Trịnh không lần nào giành được thắng lợi quyết định.

Ngay từ giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh, Nguyễn Phúc Nguyên đã có được một nhà quân sự tài giỏi thời bấy giờ là Đào Duy Từ trợ giúp. Họ Nguyễn đã cho xây dựng hàng loạt chiến lũy phòng thủ, trong đó lũy Trường Dục dài đến 10km, lũy Đồng Hội (còn gọi là luỹ Thầy) cao 6m dài tới 18km. Phía bên ngoài có rào bằng sắt. Phía bên trong làm bậc để binh sỹ, ngựa, voi có thể đi lại được. Trên mặt lũy cứ 20m lại có một công sự đặt một khẩu đại pháo, 4m lại có một khẩu súng quá sơn (pháo nhỏ).

Năm 1655, quân Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài. Cuộc chiến kéo dài 5 năm, quân Nguyễn mới bị đẩy lui khỏi đất Nghệ An. Sau 7 lần đánh nhau, có lúc đã lôi kẻo cả người nước ngoài vào cuộc, mà kết cục không bên nào thôn tính được bên nào, năm 1672 cuộc chiến tranh chấm dứt (*). Sông Gianh trở thành ranh giới tự nhiên giữa hai miền. Nhìn bề ngoài thì đây là cuộc chiến tranh không phân thắng bại, nhưng nếu xét theo mục đích thì bên thất bại là chính quyền Lê - Trịnh. Họ Nguyễn đã bước đầu thực hiện được ý đồ của mình trong việc tách Đàng Trong ra thành một giang sơn riêng.

(*) Trong gần nửa thế kỷ đã diễn ra 7 lần đánh nhau giữa quân đội của họ Trịnh và quân đội của họ Nguyễn.

+ Lần thứ nhất (1627): Năm 1623, Trịnh Tráng thay Trịnh Tùng nắm giữ binh quyền, chuẩn bị đánh họ Nguyễn. Liên tục trong các năm 1624, 1626, 1627 đều phái một quan đại thần vào Thuận Quảng đòi chúa Nguyễn nộp thuế hoặc đòi chúa Phúc Nguyên ra Thăng Long chầu vua Lê, nhưng họ Nguyễn đều khước từ. Bởi vậy, vào tháng 3 - 1627, Trịnh Tráng chỉ huy quân Trịnh tiến vào đánh họ Nguyễn. Quân Trịnh đánh thắng quân Nguyễn ở bờ bắc sông Nhật Lệ, nhưng nghe tin đồn do quân Nguyễn tung ra rằng anh em Trịnh Gia, Trịnh Nhạc đang chuẩn bị nổi loạn cướp ngôi chúa Trịnh, Tráng nghi hoặc liền rút quân về bắc, kết thúc cuộc chiến tranh lần thứ nhất giữa Trịnh và Nguyễn.

+ Lần thứ hai (1633): Năm 1633, nhân có người con thứ 3 của Phúc Nguyên trấn thủ Quảng Nam tranh giành quyền bính trong nội bộ chính quyền Thuận Quảng nên đã bí mật cho người ra Thăng Long xin chúa Trịnh đem quân vào đánh, và thoả thuận khi bắn súng làm hiệu, sẽ nổi lên làm nội ứng cho quân Trịnh. Trịnh Tráng liền tự mình dẫn đại quân thuỷ bộ tiến vào Nhật Lệ và bắn súng làm hiệu nhưng không có nội ứng từ phía quân Nguyễn. Sau một tuần chờ nội ứng không được, quân Nguyễn tung quân xông ra đánh, quân Trịnh thua to phải rút quân về, kết thúc cuộc chiến lần thứ hai.

+ Lần thứ ba (1643): Trịnh Tráng thấy chúa Nguyễn ráo riết luyện tập quân lính, chuẩn bị lực lượng, có ý đánh họ Trịnh, nên đã tiến quân vào đánh họ Nguyễn ở cửa Nhật Lệ. Quân Trịnh đánh luỹ Trung Hoà (Quảng Bình) không được lại bị bệnh tật, quân lính chết nhiều, buộc Trịnh Tráng phải rút quân về.

+ Lần thứ tư (1648): Đầu năm 1648, nhân có Tống thị là chị dâu của Phúc Lan gửi thư cho cha là Tống Phúc Thông (mới bỏ theo Trịnh) yêu cầu chúa Trịnh đem quân vào đánh chúa Nguyễn, sẽ tình nguyện giúp lương thực, Trịnh Tráng bèn cử đại quân do Đô đốc quận công Lê Văn Hiểu tiến vào đánh họ Nguyễn. Quân Trịnh đánh vào lũy Trường Dục nhiều lần không đưược, lại bị đại quân của chúa Nguyễn do Nguyễn Hữu Tiến chỉ huy đánh bại, buộc phải rút chạy về Thăng Long. Quân Nguyễn đuổi đánh đến tận Nghệ An mới chịu quay lại.

+ Lần thứ năm (1655 - 1660): Đây là lần đánh nhau lâu nhất giữa quân Trịnh và quân Nguyễn và là lần duy nhất trong 7 lần đánh nhau, quân Nguyễn chủ động tấn công trước. Năm 1648, Phúc Lan chết, Phúc Tần lên thay thế, tích cực chuẩn bị lực lượng tấn công ra Bắc sau khi đã đánh bại quân Trịnh lần thứ 4. Năm 1655, có tin báo tướng Trịnh ở bắc Bố Chính thường đem quân qua sông lấn cướp nam Bố Chính, Phúc Tần quyết định cử đại quân do Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật chỉ huy tấn công ra bắc. Quân Nguyễn đánh bại quân Trịnh ở bắc Bố Chính, ở Hoành Sơn, đánh đuổi quân Trịnh đến Nghệ An.

Quân Nguyễn làm chủ cả vùng bắc Bố Chính và 7 huyện phía nam sông Lam (Kỳ Hoa, Thạnh Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn, Thanh Chương). Mãi tới tháng 10 năm 1661, Trịnh Căn vào Nghệ An đốc thúc quân Trịnh đánh quân Nguyễn mới lấy lại được bảy huyện ở vùng nam sông Lam và bắc Bố Chính.

+ Lần thứ sáu (1661 - 1662): Cuối năm 1661, Trịnh Tạc thân chinh đem đại binh tiến vào đánh họ Nguyễn. Sau nhiều lần đánh vào nam Bố Chính nhưng không phá được lũy, quân sĩ mệt mỏi, lương hết, nên đến tháng 3 - 1662, Trịnh Tạc phải rút quân về Bắc.

+ Lần thứ bảy (1672): Sau trận thua ở nam Bố Chính năm 1662, họ Trịnh bị cuốn hút vào cuộc đánh dẹp họ Mạc ở Cao Bằng, không có thì giờ dòm ngó đến phía nam. Mãi đến giữa năm 1672, Trịnh Tạc mới tự làm tướng chỉ huy đại quân vào đánh họ Nguyễn. Trịnh Căn được cử làm nguyên soái chỉ huy thuỷ quân, Lê Thì Hiếu chỉ huy quân bộ, Trịnh Tạc làm tổng chỉ huy. Quân Trịnh vượt qua sông Gianh. Nguyễn Phúc Hiền cử con trai thứ làm nguyên soái cùng các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Mỹ Đức chia giữ các nơi hiểm yếu. Phúc Hiền thân chinh chỉ huy quân tiếp ứng.

Quân Trịnh tiến đánh luỹ Trấn Ninh nhiều lần, phá được một phần lũy, nhưng quân Nguyễn do Nguyễn Hữu Tiến chỉ huy hết sức chống đỡ, nên quân Trịnh không sao vượt qua được, phải lui về đóng quân ở bắc Bố Chính. Cuối năm 1672, trời mưa rét, quân lính bị ốm đau nhiều, Trịnh Căn buộc phải ra lệnh lui quân, để Lê Thì Hiếu ở lại trấn thủ Nghệ An. Từ đó, sông Gianh được coi là biên giới tự nhiên giữa hai miền.

Trong bảy lần đánh nhau, sáu lần quân Trịnh chủ động tấn công đánh quân Nguyễn. Kết cục sau bảy lần giao chiến, không bên nào tiêu diệt được bên đối phương, phải ngừng đánh nhau, lấy sông Gianh làm giới tuyến chia đôi đất nước. Từ đó sử cũ thường gọi là Đường ngoài và Đường trong.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 7-1-2012 12:59 PM
Các chúa Nguyễn ở Đàng Trong

Chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong

Với ý đồ tách Đàng Trong ra khỏi sự thống trị của nhà Lê - Trịnh, Nguyễn Hoàng và những người nối nghiệp như Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Tần v.v.. một mặt củng cố việc phòng thủ đất Thuận Quảng, chống lại các cuộc tấn công của quân Trịnh, mặt khác tìm cách mở rộng lãnh thổ xuống phía nam.

Từ năm 1611, Nguyễn Hoàng đã cử chủ sự Văn Phong, nhân sự cướp phá biên giới của quân Chămpa, đánh vào, chiếm đất, đặt thành phủ Phú Yên. Năm 1653, Nguyễn Phúc Tần lại cử tướng đem quân chiếm vùng đất từ nam Phú Yên đến bờ sông Phan Lang, đặt ra hai phủ Thái Khang và Diễn Khánh. Năm 1693, tướng Nguyễn Hữu Kính được cử đem quân chiếm nốt vùng đất còn lại của Chămpa, vua Bà Tranh bị bắt. Vốn suy nhược từ cuối thế kỉ XV, Chămpa không còn cơ sở và điều kiện để hồi phục và đến đây, hoàn toàn hòa nhập vào Đại Việt.

Ở các thế kỉ XVI - XVIII, Chân Lạp ngày càng suy yếu, cư dân thưa thớt. Vùng Thủy Chân Lạp (nay là Nam Bộ) tuy xưa kia là trung tâm của nước Phù Nam, vẫn chưa được khai phá bao nhiêu. Trong tình thế chiến tranh với Đàng Ngoài, nhiều dân nghèo ở bắc Thuận Hóa tìm cách chạy vào Chân Lạp khai hoang lập làng sinh sống. Nhân cơ hội đó, chúa Nguyễn Phúc Nguyên, năm 1620 đã đặt quan hệ thân thiện với vua Chân Lạp là Châychitta và yêu cầu cho phép cư dân Việt được vào Thủy Chân Lạp buôn bán và khai hoang lập làng. Vua Chân Lạp đã chấp thuận. Nhiều làng Việt đã ra đời ở Mô Xoài, Đồng Nai. Làn sóng di dân Việt tiếp tục tràn vào trong các thập kỉ sau.

Giữa thế kỉ XVII, nhà Minh đổ. Trên 5000 quan lại và binh sĩ, cư dân Trung Quốc không chịu theo nhà Thanh, đã dong thuyền vào Nam, cập bến Đà Nẵng, xin chúa Nguyễn cho nhập cư ở vùng đất Đông Phố (sau là Gia Định). Cùng với di dân Việt, dân "Minh hương” mở rộng dần vùng đất khai hoang ra các nơi phụ cận Sài Gòn lập nên nhiều làng mạc, phố xá. Năm 1688, phó tướng nhà Minh là Hoàng Tiến nổi loạn ở Mỹ Tho, giết chủ là Dương Ngạn Địch, đắp luỹ, đóng thuyền chiến uy hiếp vua Chân Lạp, chống lại chúa Nguyễn. Nhận lời yêu cầu của vua Chân Lạp, chúa Nguyễn sai tướng đem quân đánh bại bọn Hoàng Tiến và làm chủ đất Đông Phố. Năm 1698, hai dinh Trấn Biên (Biên Hoà), Phiên Trấn (Gia Định) được thành lập, số hộ nông dân đã lên đến hơn 4 vạn.

Vào khoảng năm 1680, một người nhà Minh là Mạc Cửu cùng họ hàng, gia đình chạy sang Phnôm Pênh xin trú ngu. Vua Chân Lạp phong Mạc Cửu làm ốc nha đất Sài Mạt (tây Thủy Chân Lạp). Mạc Cửu mộ thêm di dân Việt đến đây khai phá đất hoang, lập thành làng mạc rồi xin thần phục chúa Nguyễn. Trấn Hà Tiên được thành lập. Tình hình tiếp diễn cho đến năm 1757, cả vùng đất Thủy Chân Lạp hoàn toàn thuộc quyền hành của chúa Nguyễn.

* Tổ chức chính quyền:

Cho đến giữa thế kỷ XVIII, họ Nguyễn đã làm chủ một vùng đất rộng lớn từ nam dải Hoành Sơn cho đến mũi Cà Mau. Hình thành 12 đơn vị hành chính gọi là dinh: Thuận - Quảng cũ gồm 6 dinh: Bố Chính, Quảng Bình, Lưu Đồn, Cựu (hay Chính dinh cũ), Chính Dinh, Quảng Nam. Vùng đất mới chia thành 6 dinh: Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ (Vĩnh Long). Ngoài ra có một trấn phụ thuộc: Hà Tiên. Mỗi dinh quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng, xã (hay phường, thuộc). Riêng dinh Quảng Nam quản 3 phủ: Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn.

Thủ phủ ban đầu đóng ở xã Ái Tử thuộc Cựu Dinh, năm 1570 dời vào xã Trà Bát (Triệu Phong - Quảng Trị), năm 1626 dời vào xã Phước Yên, sau đó dời sang Kim Long (đều thuộc Thừa Thiên), cuối cùng vào khoảng năm 1687 dời về Phú Xuân (Huế). Thời Nguyễn Phúc Khoát (1739 - 1765) Phú Xuân được gọi là đô thành.

Năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên lên nối nghiệp Nguyễn Hoàng, quyết định thải hồi các quan lại do nhà Lê cử, cải tổ lại bộ máy chính quyền. Các dinh đều có những ti như nhau:

- Ti Xá Sai giữ việc giấy tờ, kiện tụng do đô tri và kí lục đứng đầu.

- Ti Tướng thần lại coi việc thu thuế và phát lương cho quân lính các dinh ngoài Chính dinh, do cai bạ đứng đầu.

- Ti Lệnh sử giữ việc tế tự và phát lương cho quân lính ở chính dinh, do Nha úy đứng đầu.

Tuy nhiên, trừ Chính dinh có đủ 3 ti, các dinh khác chỉ có 1 hay 2 ti. Ngoài ra, ở Chính dinh có thêm: Ti Nội lệnh sử coi các loại thuế. Hai Ti Tả, Hữu lệnh sử chia nhau thu nộp tiền sai dư (thuế thân). Không những thế, họ Nguyễn còn đặt một hệ thống "Bản đường quan" phụ trách thu thuế trong cả miền.

Buổi đầu, mặc dầu nhân dân quen gọi những người đứng đầu dòng họ thống trị là chúa, các chúa Nguyễn vẫn chỉ xưng quốc công. Năm 1692 chúa Phúc Chu dự định tách Đàng Trong thành một nước riêng, tự xưng Đại Việt quốc vương, nhưng việc không thành. Nối tiếp ý đồ đó, năm 1744 chúa Phúc Khoát xưng vương, thành lập triều đình, đổi các chức kí lục, nha úy, đô tri, cai bạ làm Lại bộ, Lễ bộ, Hình bộ, Hộ bộ và đặt thêm 2 bộ Binh và Công, đặt Hàn lâm viện.

Các dinh, trấn đều có trấn thủ, cai bạ, kí lục cai quản.

Ở các huyện có tri huyện, đề lại, thông lại, huấn đạo, lễ sinh.

Xã vẫn là đơn vị quan trọng nhất gồm 2 loại chức dịch: tướng thần và xã trưởng. Tùy theo mức lớn, nhỏ của xã mà có sổ chức dịch tương ứng, chẳng hạn các xã lớn có từ 400 - 1000 người thì đặt 18 tướng thần và xã trưởng. Số người này phụ trách chủ yếu việc thu thuế.

Do đặc trưng của Đàng Trong, ở nửa đầu thế kỉ XVII, quan lại được bổ nhiệm theo tiến cử, thân tộc. Năm 1646, chúa Phúc Lan bắt đầu mở khoa thi, 2 cấp Chính đồ (cấp cao) và Hoa văn (cấp thấp). Về sau nhiều kì thi được mở tiếp, song sang thế kỉ XVIII, chế độ mua quan bán tước bắt đầu phát triển. Như nhận xét của Lê Quý Đôn "Mọi người tranh nhau nộp tiền để lĩnh bằng. Đến nay (cuối thế kỉ XVIII) một xã mà có đến 16 - 17 tướng thần, hơn 20 xã trưởng cùng làm việc".

Quan lại không được cấp bổng lộc nhất định mà chỉ được ban một số dân phu hoặc được phép thu thêm một số tiền gạo ngoài thuế của dân. Như nhận xét của tuần phủ Quảng Ngại là Nguyễn Cư Trinh năm 1751: "Từ trước đến nay, phủ huyện chỉ trông vào sự bắt bớ tra hỏi mà kiếm lộc khiến của dân càng hao, tục dân càng bạc". Cùng một ý đó, Lê Quý Đôn viết: "Quan liêu ở Đàng Trong nhũng lạm quá lắm, hết thảy bổng lộc đều lấy vào của dân, dân không chịu nổi".

Quân đội của chúa Nguyễn gồm 3 loại: quân Túc vệ hay Thân quân, quân chính quy ở các dinh và thổ binh hay tạm binh. Các loại quân đều chia thành cơ, đội, thuyền.

Tất cả dân đinh từ 18 đến 50 đều phải ghi tên vào sổ đinh và trình lên để phủ, huyện xét duyệt, lấy lính. Theo nhà sư Thích Đại Sán vào Đàng Trong cuối thế kỉ XVII: "Vào quân đội rồi, mỗi người bắt buộc phải chuyên học một nghề, kế đó phân phái theo các thuyền để luyện tập, có chiến tranh thì ra đánh giặc. Lúc vô sự thì ở vương phủ làm xâu, tuổi chưa đến 60 thì không được về làng cùng cha mẹ, vợ con đoàn tụ, hàng năm thân thích đem áo quần vật dụng đến thăm mà thôi".

Cũng như ở Đàng Ngoài, quân đội Đàng Trong gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh và pháo binh. Thủy binh rất mạnh, đã từng đánh bạt một hạm thuyền Hà Lan trong một trận. Đầu thế kỉ XVII, người Đàng Trong học được cách đúc súng, các thuyền lớn đều có 5 khẩu đại bác. Một đặc điểm của Đàng Trong là vùng nam sông Gianh có rất nhiều luỹ, trên luỹ có đặt đại bác. Chúa Nguyễn cũng thường tổ chức các cuộc thi bắn súng, huấn luyện thủy quân.

Như vậy, từ sau khi Nguyễn Hoàng từ bỏ đất Bắc, trở lại Thuận Quảng, họ Nguyễn dần dần xây dựng vùng đất Đàng Trong thành một lãnh địa riêng, có chính quyền độc lập, mặc dầu, cho đến trước năm 1744 vẫn giữ tước vị Quốc công, dùng niên hiệu của vua Lê. Trong lúc đó, nhân dân vẫn luôn luôn xem vùng đất Thuận Quảng là Đàng Trong của nước Đại Việt xưa.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 7-1-2012 05:35 PM
Thế phả các chúa Nguyễn

Dòng dõi các chúa Nguyễn


1. Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên, 1558 - 1613)

Nguyễn Kim quê ở Gia Miêu, Tống Sơn, Hà Trung, Thanh Hóa, là con của Trừng quốc công Nguyễn Hoàng Dụ đã từng giúp vua Lê Tương Dực khởi binh ở Thanh Hóa lật đổ Lê Uy Mục, nhân đó được phong là Thái phó Trừng quốc công.

Mạc Đǎng Dung cướp ngôi nhà Lê, Nguyễn Kim lánh sang Ai Lao, thu nạp hào kiệt, phò giúp nhà Lê trung hưng, được vua Lê Trang Tông phong là Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công. Nǎm Canh Tý - 1540 Nguyễn Kim đem quân về chiếm Nghệ An, nǎm 1542 chiếm được Tây Đô - Thanh Hóa. Nǎm Ất Tị - 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết, thọ 75 tuổi, quyền hành rơi vào tay con rể là Trịnh Kiểm.

Khi Nguyễn Kim chạy sang Ai Lao thì Nguyễn Hoàng mới 2 tuổi, được Thái phó Nguyễn Ư Dĩ là cậu ruột nuôi dạy nên người.

Trịnh Kiểm là anh rể, muốn thâu tóm quyền hành nên đã ngấm ngầm ám hại các em vợ. Nguyễn Uông, con trưởng của Nguyễn Kim đã bị hãm hại. Nguyễn Hoàng rất lo sợ, sai người đến yết kiến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin mách cho kế an toàn, Trạng Trình đã ứng khẩu câu thơ: ''Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân!'' (một dãy núi Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời).

Nguyễn Hoàng nghĩ ra, đến nói với chị gái là Ngọc Bảo xin với anh rể là Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ Thuận Hoá là nơi hoang vu nhiều giặc dã. Trịnh Kiểm đồng ý cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá với ý đồ mượn tay giặc giết em vợ.

Nǎm Mậu Ngọ - 1558, Trịnh Kiểm tâu với vua Lê Anh Tông cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá.

Được lệnh vào Nam, bất chấp mùa đông giá rét, Nguyễn Hoàng giong buồm đi ngay, những người họ hàng ở huyện Tống Sơn cùng quân lính ở đất Thanh - Nghệ nhiều người đem cả vợ con đi theo có đến nghìn người. Các danh thần cùng đi có Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống...

Vào Nam, đoàn người của Nguyễn Hoàng đổ bộ lên cảng Cửa Việt, dựng dinh thự ở Ái Tử thuộc huyện Đǎng Xương, Quảng Trị.

Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, nhân hậu, lưu tâm đến dân tình, hết lòng thu dung hào kiệt. Ông giảm sưu, hạ thuế khiến lòng người ai cũng mến phục. Nhân dân xưng tụng ông là chúa Tiên.

Để tránh sự nghi kỵ của chúa Trịnh, nǎm 1569, ông ra chầu vua Lê ở An Trường, được vua Lê, chúa Trịnh khen ngợi. Nǎm 1570, Nguyễn Hoàng được giao trấn thủ luôn đất Quảng Nam với ấn Tổng trấn. Ông dời đô vào làng Trà Bát (tức Cát Dinh) cũng thuộc huyện Đǎng Xương.

Nǎm 1572, tướng Lập Bạo của nhà Mạc theo đường biển đem quân vào đóng ở hai làng Hồ Xá và Lang Uyển (Quảng Trị) định phá sự nghiệp ở Thuận - Quảng của Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng đã dùng kế mỹ nhân phá được âm mưu của Lập Bạo và đánh tan được quân nhà Mạc.

Nǎm 1593, Nguyễn Hoàng đem quân ra Đông Đô giúp Trịnh Tùng đánh dẹp dư đảng họ Mạc. Vì lập được nhiều chiến công, ông được vua Lê tấn phong làm Trung quân Đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự thái uý Đoan quốc công. Để tránh Trịnh Tùng hãm hại, nǎm Canh Tý - 1600 Nguyễn Hoàng lấy cớ đem quân đi dẹp cuộc nổi loạn ở Nam Định, sau đó cùng các tướng tâm phúc ra biển giong thẳng vào đất Thuận - Quảng để con trai thứ 5 là Hải và cháu là Hắc ở lại làm con tin. Vua Lê sai sứ giả vào phủ dụ và vẫn để Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận - Quảng. Tháng 10 nǎm Canh Tý - 1600, Nguyễn Hoàng gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng (con cả Trịnh Tùng).

Có thể nói từ nǎm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu xây dựng giang sơn riêng cho họ Nguyễn ở Đàng Trong.

Thuận - Quảng vốn là đất cũ của người Chǎm chịu ảnh hưởng vǎn hóa Chǎmpa, chúa Tiên dã dùng Phật giáo để thuần hoá nhân dân, ông sửa sang và xây dựng nhiều ngôi chùa.

Đặc biệt, nǎm 1601 ông cho xây dựng chùa Thiên Mụ là công việc to lớn có giá trị nhất. Ngôi chùa lịch sử này đã có quan hệ mật thiết với quá trình phát triển đất Thuận Hoá và triều Nguyễn ở Việt Nam.

Nguyễn Hoàng sinh ngày 28/8/1525, mất ngày 21/5/1613 thọ 89 tuổi, trấn thủ Thuận - Quảng 55 nǎm (1558 - 1613). Ông sinh 10 con trai và 2 con gái. Sau này, triều Nguyễn truy tôn ông là Thái tổ Gia dụ Hoàng đế.

2. Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi, 1613 - 1635)

Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn dò: Đất Thuận - Quảng này phía bắc thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, phía nam thì có núi Hải Vân và núi Bi Sơn thật là nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy con phải thương yêu nhân dân, luyện tập binh sĩ mới gây dựng cơ nghiệp muôn đời.

Nguyễn Phúc Nguyên khóc và bái tạ lãnh mạng. Vua Lê sai sứ giả vào viếng và truy tặng Nguyễn Hoàng là Cẩn nghi công, vẫn cho Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ Thuận - Quảng với hàm Thái Bảo, tước Thuỵ quận công. Nguyễn Phúc Nguyên xưng là Sãi vương và cho rời cung phủ về xã Phúc Yên, huyện Quảng Điền, ngày đêm lo việc chính sự, thu dụng nhân tài. Quan khám lý Trần Đức Hoà tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Nguyễn, chúa mừng lắm phong cho Đào Duy Từ tước Lộc kê hầu, chức Nha uý nội tán. Đào Duy Từ giúp chúa Nguyễn đắp luỹ Trường Dục, luỹ Thầy để phòng ngự, chống nhau với quân Trịnh, Đào Duy Từ còn bày kế sách cho chúa Nguyễn trả lại sắc phong của vua Lê, không chịu nộp thuế cống cho chúa Trịnh.

Chuyện kể rằng nǎm Đinh Mão - 1627, Trịnh Tráng sai sứ mang sắc vua Lê dụ chúa Sãi cho con vào chầu và nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa cống nhà Minh. Nhận được sắc vua, chúa Sãi họp triều thần hỏi mưu kế. Đào Duy Từ dâng kế, cho người làm một cái mâm hai đáy, trên sắp đầy sản vật, giữa để sắc thư, rồi cử Lại Vǎn Khuông làm chánh sứ đem phẩm vật ra tạ ơn chúa Trịnh. Nhờ đã được chuẩn bị trước, khi ra kinh đô yết kiến chúa Trịnh, Lại Vǎn Khuông ứng đối khá trôi chảy. Chúa hậu đãi, cho phép Khuông cùng phái đoàn đi thǎm kinh thành để chờ chúa dạy bảo. Trên đường đi, Khuông lén mở cẩm nang của Đào Duy Từ trao cho từ trước. Sau khi đọc cẩm nang, Khuông cùng cả phái đoàn lẻn trốn về Nam. Thấy phái đoàn đột ngột trốn về, chúa Trịnh nghi hoặc, bèn cho người đập vỡ mâm mới thấy tờ sắc trước, và một bài thơ, mỗi câu bốn chữ như sau.

Mâu nhi địch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch

Cả triều thần không ai hiểu ý nghĩa. Trịnh Tráng phải mời Trạng Bùng Phùng Khắc KHoan giải mã... Đọc xong Phùng Khắc Khoan giải thích: Đấy là lối chơi chữ của Đào Duy Từ, chữ mâu không có dấu phẩy là chữ dư, chữ mịch không thấy chữ kiến thì còn chữ bất, chữ ái rơi chữ tâm thành chữ thụ, chữ lực cùng đối địch với chữ lai thành chữ sắc. Vậy ý nghĩa của bài thơ 4 câu trên là Dư bất thụ sắc tức là Ta không nhận sắc.

Nghe xong, Trịnh Tráng vội cho người tìm bắt Lại Vǎn Khuông, nhưng Khuông đã cao chạy xa bay rồi. Tráng muốn phát binh vào đánh chúa Nguyễn, nhưng gặp lúc Cao Bằng và Hải Dương đều có giặc, đành phải hoãn lại chưa đi hỏi tội chúa Nguyễn.

Đào Duy Từ còn tiến cử cho chúa Nguyễn một viên tướng tài ba, mưu lược là Nguyễn Hữu Tiến, quân lực của chúa Nguyễn từ đó ngày thêm mạnh. Đào Duy Từ chỉ giúp chúa Nguyễn 8 nǎm mà cơ nghiệp chúa Nguyễn thay đổi hẳn về chất, đất Đàng Trong trở nên có vǎn hiến và quy củ hơn trước nhiều.

Đối với lân bang, chúa Sãi chủ trương thân thiện với Chiêm Thành và Chân Lạp. Nǎm 1620, chúa gả công nữ Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp Chetta II (1618?1686) để tạo thuận lợi cho dân chúng vào khai khẩn đất hoang ở Thuỷ Chân Lạp. Nǎm 1631, chúa Sãi lại gả công nữ Ngọc Khoa cho vua Chiêm Pô Romê để củng cố nền hoà hiếu một thời gian khá dài giữa hai nước Chiêm - Việt.

Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, sinh 16/8/1563, mất ngày 19/12/1635 thọ 73 tuổi, ở ngôi chúa 22 nǎm. Sau triều Nguyễn truy tôn Hy tông Hiếu vǎn Hoàng đế. Chúa Sãi có 15 người con (11 con trai và 4 con gái).

3. Chúa Nguyễn Phúc Lan (chúa Thượng, 1635 - 1648)

Nguyễn Phúc Nguyên có 11 con trai. Nguyễn Phúc Lan là con trai thứ hai được truyền ngôi chúa.

Năm Ất Hợi (1635) chúa Sãi mất, Nguyễn Phúc Lan lên ngôi chúa gọi là chúa Thượng.

Nghe tin Phúc Lan nối nghiệp, hoàng tử thứ 3 là Nguyễn Phúc Anh đang trấn giữ Quảng Nam âm mưu phản nghịch, liên kết với chúa Trịnh đem quân vào đánh miền Nam. Phúc Anh sai đắp luỹ Câu Ðê làm kế cố thủ. Phúc Lan đánh bắt được, không nỡ giết người ruột thịt, nhưng tướng sĩ và ông chú là Trường quận công Nguyễn Phúc Khê đều xin giết để trừ hậu hoạ.

Chúa dù đau xót cũng phải nghe theo.

Năm Kỷ Mão (1639), Tống Thị (vợ goá của Phúc Anh) dâng cho chúa chuỗi hoa vòng ngọc liên châu rất đẹp. Chúa cầm lên ngửi thấy mùi hương thơm ngát xúc động lòng yêu. Tống Thị lại vào sụp lạy dưới thềm, thưa trình về tình cảnh goá bụa thảm thiết, nhan sắc lại cực kỳ diễm lệ. Chúa Thượng nổi tình riêng, sau đó mời nàng vào nội thất chung chăn gối.

Từ đó chúa rất mực sủng ái Tống Thị. Nàng trình bẩm việc gì chúa cũng nghe theo. Tống Thị lựa lời khéo léo để chúa vui lòng, nghĩ cách chiếm đoạt của cải của dân để làm giàu riêng. Các quan đại thần căm ghét Tống Thị, tìm cách can gián nhưng chúa không nghe. Cho hay nhan sắc, gái đẹp có mãnh lực vô biên, làm lung lạc cả đấng quân vương.

Làm chúa được 9 năm, vị chúa đa tình này lập được chiến công vang dội. Lần đầu tiên trong lịch sử, thuỷ quân Việt Nam đã đánh thắng thủy quân Âu Châu.

Ðó là năm 1643, Hà Lan theo yêu cầu của chúa Trịnh đã cho 3 chiếc tàu đồng kiểu tròn, trang bị nhiều trọng pháo tiến vào cửa Eo (Thuận An) mưu đồ xâm lược nước ta.

Chúa Thượng họp quần thần bàn định có nên đưa chiến thuyền của mình ra đánh tàu Hà Lan hay không. Các quần thần không dám hứa là chắc thắng. Chúa hỏi một người Hà Lan đang giúp việc cho chúa. Người ấy tự phụ trả lời: Tàu Hà Lan chỉ sợ mãnh lực và quân đội của trời thôi. Nghe vậy, chúa cảm thấy bị xúc phạm. Ông thân hành đến Eo, ra lệnh cho thuỷ quân chèo thuyền ra đánh thẳng vào 3 chiếc tàu của Hà Lan.

Hàng trăm chiếc thuyền Việt Nam xông thẳng vào các chiếc tàu Hà Lan, mặc đại bác bắn ra như mưa. Bốn mặt tàu Hà Lan đều bị tấn công. Nhờ thuyền nhỏ cơ động, nhanh nhẹn nên mặc dù bị một số đạn, thuyền Việt Nam vẫn bao vây tấn công vào tàu Hà Lan quyết liệt. Chúng vô cùng kinh hoàng, không ngờ thủy quân chúa Nguyễn lại gan dạ đến thế. Chiếc nhỏ nhất vội luồn lách chạy thoát thân. Chiếc thứ hai thảng thốt đâm vào đá, cả đoàn thuỷ thủ và tàu chìm nghỉm xuống biển. Chiếc thứ 3 lớn nhất chống cự lại, các thuỷ quân chúa Nguyễn bám sát tàu bẻ bánh lái. Một số nhảy lên tàu, chặt gãy cột buồm. Bị dồn vào thế tuyệt vọng, thuyền trưởng Hà Lan cho nổ kho thuốc súng. Thế là tất cả thủy thủ bị hoả thiêu chết la liệt trên biển. Có 7 tên trên tàu nhảy xuống biển, cố bơi thoát nhưng đều bị tóm cổ.

Thắng trận trở về, chúa Thượng dẫn 7 tên tù binh đến trước mặt người Hà Lan nói:

- Cần chi mãnh lực và quân đội của trời mới phá được. Chiến thuyền của ta cũng khá đấy chứ.

Năm 1648, Trịnh Tráng cho các đạo quân thuỷ bộ đánh vào miền Nam. Bộ binh đóng ở đất Nam Bố Chính, còn thuỷ quân thì đánh vào cửa Nhật Lệ. Nguyễn Phúc Lan phải tự cầm quân đánh lại. Sau Phúc Lan thấy trong người không được khoẻ, mới trao binh quyền cho con trai là Nguyễn Phúc Tần và tướng Nguyễn Hữu Dật chỉ huy còn mình thì rút về. Ðến phá Tam Giang thì chúa mất, thọ đến 48 tuổi, ở ngôi chúa 13 năm. Sau triều Nguyễn truy tôn là Thần tôn Hiến chiêu Hoàng đế. Chúa Thượng có 4 người con (3 con trai, 1 con gái).

4. Nguyễn Phúc Tần (chúa Hiền, 1648 - 1687)

Nguyễn Phúc Tần sinh năm Canh Thìn (1620). Lúc đầu được phong Phó tướng Dũng lễ hầu, đã từng đánh giặc ở cửa biển, được chúa Phúc Lan rất khen ngợi. Năm Mậu Tý - 1648 được tấn phong là tiết chế chủ quân, thay Phúc Lan phá quân Trịnh ở sông Gianh. Bấy giờ ông 29 tuổi. Chúa Nguyễn Phúc Lan mất đột ngột, bầy tôi tôn Nguyễn Phúc Tần lên ngôi chúa, gọi là chúa Hiền. Chúa Nguyễn Phúc Tần là người chăm chỉ chính sự, không chuộng yến tiệc vui chơi.

Phúc Tần biết tận dụng hai tướng tài giỏi là Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Hữu Tiến. Quân chúa Nguyễn nhiều lần vượt sông Gianh tiến ra đất Đàng Ngoài. Năm 1656, sau hai năm tấn công ra Bắc, quân Nguyễn đã chiếm được 7 huyện của Nghệ An. Tự thân Nguyễn Phúc Tần đã đem quân ra đến Nghệ An đóng tại xã Vân Cát, quân Nguyễn có thể tiến sâu thêm nữa, nhưng nghe tin Trịnh Tráng mất, con là Trịnh Tạc lên ngôi chúa đang chịu tang, chúa Nguyễn cho người sang điếu rồi rút quân về, lưu các tướng đóng đồn từ sông Lam trở về Nam, đắp luỹ từ núi đến cửa biển để phòng ngự. Sau đợt tấn công đó, quân Nguyễn còn chiếm đất Nghệ An thêm 5 lần nữa, năm 1660 chúa Trịnh mới khôi phục lại được. Từ đó Trịnh - Nguyễn cầm cự nhau suốt mấy chục năm không phân thắng bại.

Năm Kỷ Mùi - 1679, chúa Nguyễn cho phép Dương Ngạn Địch, một tướng cũ của triều Minh cùng với Trần Thượng Xuyên đem gia thuộc hơn 3000 người và hơn 50 chiến thuyền đến khai phá vùng đất Gia Định - Mỹ Tho. Từ đó phố xá, chợ búa mọc lên sầm uất, thuyền buôn của các nước Thanh, Nhật Bản và các nước phương Tây ra vào tấp nập, do đó phong hoá ngày càng mở mang.

Dưới thời chúa Hiền, nhiều kênh dẫn nước tưới ruộng được khơi đào, như Trung Đàn, Mai Xá. Bấy giờ bờ cõi được thái bình, thóc lúa được mùa. Chúa càng chăm lo chính sự, không xây đền đài, không gần gái đẹp, bớt lao dịch thuế khoá, nhân dân đều khen ngợi thời thái bình thịnh trị.

Năm Đinh Mão - 1687, chúa Hiền mất, thọ 65 tuổi, ở ngôi chúa 39 năm. Triều Nguyễn truy tôn ông là Thái tông hiền triết hoàng đế. Chúa Hiền có 9 người con (6 con trai, 3 con gái).

5. Nguyễn Phúc Thái (chúa Nghĩa, 1687 - 1691)

Nguyễn Phúc Tần có 6 người con trai, Nguyễn Phúc Thái là con thứ 2 của bà vợ thứ hai người họ Tống, nhưng lớn tuổi và hiền đức. Khi Nguyễn Phúc Tần mất, Thái đã 39  tuổi.

Nguyễn Phúc Thái nổi tiếng là người rộng rãi, hình phạt và phú thuế đã nhẹ, trăm họ ai cũng vui mừng. Quan lại cũ của triều trước đều được trọng đãi.

Người đời sau nhắc đến chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái là nhớ chúa đã dời phủ từ Kim Long về Phú Xuân địa thế bằng phẳng, đẹp đẽ, tiếp nối nhiều đời chọn làm kinh đô.

Chúa không thọ được lâu. Sau 4 năm ở ngôi chúa, năm Tân Mùi - 1691, Nguyễn Phúc Thái mất, thọ 43 tuổi. Triều Nguyễn truy tôn ông là Anh tông hiếu nghĩa hoàng đế. Chúa Nghĩa có 10 người con (5 con trai, 5 con gái).

6. Nguyễn Phúc Chu (chúa Quốc, 1691 - 1725)

Nguyễn Phúc Chu là con cả Nguyễn Phúc Thái, sinh nǎm Ất Mão - 1675, được ǎn học khá cẩn thận vì thế vǎn hay chữ tốt, đủ tài lược vǎn võ. Khi nối ngôi Chúa mới 17 tuổi.

Chúa Nguyễn Phúc Chu mộ đạo Phật. Nǎm 1710 chúa sai đúc chuông lớn nặng tới 3.285 cân, đặt ở chùa Thiên Mụ và xây dựng một loạt chùa miếu khác. Chúa cho mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, chùa núi Mỹ An. Tự chúa cũng ǎn chay ở vườn Côn Gia một tháng trời. Chúa phát tiền gạo cho người nghèo. Đây là thời kỳ mà chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã tạm ngừng hơn 30 nǎm, đất nước bình yên, chúa Nguyễn Phúc Chu có điều kiện mở mang đất đai về phía Nam và đạt được những thành tựu đáng kể: đặt phủ Bình Thuận nǎm Đinh Sửu - 1697 gồm đất Phan Rang, Phan Rí, chia làm hai huyện An Phúc và Hoà Đa; bắt đầu đặt phủ Gia Định, chia đất Đông Phố lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long; dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hoà) lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình; dựng dinh Phiên Trấn; lập xã Minh Hương... Từ đó người Thanh đi lại buôn bán rất sầm uất.

Nǎm 1702, Công ty Ấn Độ của Anh do Allen Catohpole đem 200 quân đến chiếm đảo Côn Lôn, chúa Quốc lập tức sai con là Nguyễn Phúc Phan dùng mưu đánh đuổi ra khỏi đảo.

Nǎm 1708, chúa Quốc dùng Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên.

Nǎm 1709, chúa Quốc cho đúc ấn Quốc Bửu "Đại Việt Quốc, Nguyễn Phúc Vĩnh Trấn chi bửu" ấn ấy về sau trở thành vật báu truyền ngôi. Nǎm 1714, chúa Quốc đại trùng tu chùa Thiên Mụ và đi thǎm phố Hội An. Nhân thấy cầu do người Nhật làm tụ tập nhiều thuyền buôn các nước, chúa bèn đặt là Lai Viễn Kiều và ban biển chữ vàng ngày nay vẫn còn biển đó.

Ngày 1/6/1725, chúa Quốc mất, thọ 51 tuổi, ở ngôi 34 nǎm. Sau triều Nguyễn truy tôn là Hiến Tông Hiếu Minh hoàng đế. Chúa Quốc có 42 người con (38 con trai và 4 con gái).

7. Nguyễn Phúc Thụ (Ninh Vương, 1725 - 1738)

Nguyễn Phúc Thụ (nhiều sách viết là Chú) sinh ngày 14/1/1697, là con trai cả của chúa Quốc, khi chúa Quốc mất được lên ngôi Chúa lúc đó đã 30 tuổi, xưng hiệu là Ninh Vương.

Nǎm Quý Sửu - 1733, chúa cho đặt đồng hồ mua của Tây phương ở các dinh và các đồn tàu dọc biển. Sau có người thợ thủ công là Nguyễn Vǎn Tú chế tạo được chiếc đồng hồ y hệt.

Nǎm Bính Thìn - 1736, Mạc Cửu mất, con trai là Mạc Thiên Tứ được chúa cho làm Đô đốc trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ là một nhà cai trị giỏi, mà lại vǎn thơ hay, Mạc Thiên Tứ mở Chiêu Anh Các để tụ họp các vǎn nhân thi sĩ cùng nhau xướng hoạ. Mạc Thiên Tứ để lại 10 bài thơ ca ngợi phong cảnh đẹp của Hà Tiên (Hà Tiên thập vịnh).

Ngày 7/6/1738, Ninh Vương mất, thọ 42 tuổi, ở ngôi 13 nǎm. Sau triều Nguyễn truy tôn là Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế. Ninh Vương có 9 người con (3 con trai, 6 con gái).

8. Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương, 1738 - 1765)

Nguyễn Phúc Khoát sinh nǎm Giáp Ngọ (1714), là con trưởng của Ninh Vương được lên ngôi chúa ngày 7/6/1738, lấy hiệu là Từ Tế Đạo nhân. Nǎm Giáp Tý (1744), Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vương xưng là Võ Vương cho đúc ấn Quốc Vương. Xuống chiếu bố cáo thiên hạ, lấy Phú Xuân làm kinh đô.

Từ nǎm Giáp Tuất (1754), để xứng đáng với kinh đô của Nguyễn Vương, Phú Xuân được xây dựng thêm hàng loạt cung điện theo quy mô đế vương. Đặc biệt chiếc áo dài Việt Nam tha thướt xinh đẹp như hiện nay, phải trải qua một quá trình phát triển, nó được hình thành từ đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát.

Nǎm 1757, Võ Vương đặt Rạch Giá làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên.

Ngày 7/6/1765, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát mất, thọ 52 tuổi, nối ngôi được 27 nǎm.

Triều Nguyễn truy tôn ông là Thế tông Hiếu vũ Hoàng đế. Võ Vương có 30 người con (18 con trai, 12 con gái).

9. Nguyễn Phúc Thuần (Định Vương, 1765 - 1777)

Nguyễn Phúc Thuần sinh ngày 31/12/1753, là con thứ 16 của Nguyễn Phúc Khoát.

Võ Vương lúc đầu lập con thứ 9 là Phúc Hiệu làm thái tử, nhưng Hiệu mất sớm, con trai Hiệu là Hoàng tôn Phúc Dương còn thơ ấu mà hoàng tử cả là Chương cũng đã mất. Hoàng tử thứ hai là Nguyễn Phúc Luân cũng rất khôi ngô tuấn tú, theo thứ tự sẽ phải lập Hoàng tôn Dương hoặc Phúc Luân lên ngôi nên đã trao Luân cho một thầy học nổi tiếng là Trương Vǎn Hạnh dạy bảo. Nhưng khi Võ Vương mất, tình hình lại đảo ngược. Quyền thần Trương Phúc Loan không muốn lập Phúc Luân vì Luân đã lớn tuổi, khó bề lộng hành. Trương Phúc Loan lại chọn Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi vua. Phúc Luân không được lập mà còn bị bắt giam. Trương Vǎn Hạnh cũng bị giết chết.

Nguyễn Phúc Thuần còn nhỏ tuổi, mọi quyền hành đều do Trương Phúc Loan sắp đặt. Loan tự phong là Quốc phó. Loan thâu tóm toàn bộ từ chính sự đến kinh tế. Các nguồn lợi chủ yếu của vương quốc Đàng Trong đều rơi vào tay Trương Phúc Loan và họ hàng của hắn.

Ngày nắng, Loan cho đem phơi của cải quý báu làm sáng rực cả một góc trời. Có tiền, có quyền, Loan mặc sức hoành hành ngang ngược, người người ai nấy đều oán giận.

Nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc cầm đầu ở Quy Nhơn được nhân dân đồng tình ủng hộ ngày càng lớn mạnh. Thêm vào đó, tháng 5 nǎm Giáp Ngọ (1774) chúa Trịnh lại cho đại quân vào đánh Nguyễn. Cả nghĩa quân Tây Sơn lẫn quân Trịnh đều nêu khẩu hiệu: "Trừ khử quyền thần Trương Phúc Loan và tôn phò Hoàng tôn Dương". Chiến tranh loạn lạc lại nổ ra, đất Thuận Hoá trước trù phú là thế mà nay trǎm bề xơ xác tiêu điều, người chết đói đầy đường. Trước tình cảnh đó, không có cách nào khác, tôn thất nhà Nguyễn cùng nhau lập tức bắt trói Trương Phúc Loan nộp cho quân Trịnh. Tháng 12 nǎm 1974, quân Trịnh chiếm được Phú Xuân và đặt quan cai trị Thuận Hoá. Trong số quan lại nhà Trịnh cử vào trấn thủ Thuận Hoá có Lê Quý Đôn (1776).

Nghĩa quân Tây Sơn tìm cách hoà hoãn với quân Trịnh để yên mặt Bắc và rảnh tay đánh Nguyễn ở phía Nam.

Đại quân Tây Sơn cả thuỷ lẫn bộ đánh vào Gia Định. Chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy về Định Tường rồi lại chạy sang Long Xuyên. Tháng 9 nǎm Đinh Dậu (1777), quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ thống lĩnh đánh chiếm Long Xuyên, chúa Nguyễn bị chết trận. Như vậy Nguyễn Phúc Thuần ở ngôi chúa được 12 nǎm, thọ 24 tuổi không có con nối. Sau triều Nguyễn truy tôn là Duệ Tông Hiếu định Hoàng đế. Định vương Nguyễn Phúc Thuần chết, kết thúc giai đoạn lịch sử của 9 đời chúa Nguyễn Đàng Trong.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 7-1-2012 06:12 PM
Các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài

Chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài

Đầu tháng 5 năm 1593, Trịnh Tùng cho người về Thanh Hóa rước vua Lê ra Thăng Long. Lê Thế Tông ngự chính điện, đại xá cho thiên hạ, ban thưởng cho những người có công. Tuy nhiên, quyền hành của vua Lê ngày càng sa sút.

Ngay từ năm 1556, khi Lê Trang Tông chết, không có con kế vị, thái sư Trịnh Kiểm đã cho người thăm dò các tướng tá, nho sĩ định bỏ nhà Lê. Nhưng cuộc chiến tranh Trịnh - Mạc, sự tồn tại của thế lực họ Nguyễn, đã buộc ông ta phải từ bỏ ý tưởng đó, đưa Lê Duy Bang lên làm vua. Trong thực tế, mọi quyền hành đều nằm trong tay họ Trịnh.

Năm 1599 sau khi dẹp xong về cơ bản sự phản kháng của các tàn dư nhà Mạc, Trịnh Tùng ép vua phải phong mình làm Đô nguyên soái Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An vương. Trịnh Tùng cũng đặt lệ chọn thế tử để nối nghiệp ngang với nhà vua. Từ đó về sau, con cháu Trịnh Tùng lên nắm quyền chính đều theo lệ xưng vương. Năm 1600, Trịnh Tùng đặt thêm các chức Tham tụng và Bồi tụng để cùng mình bàn định việc nước; bên cạnh đó có các chức Chưởng phủ sự và Thủ phủ sự phụ trách việc quân. Hình thành vương phủ (phủ chúa) bên cạnh triều đình (do vua Lê đứng đầu).

Trong bối cảnh của Đại Việt đương thời, họ Trịnh muốn nắm toàn bộ quyền hành, không thể có cách làm nào khác. Nhằm hạn chế hơn nữa uy quyền của vua Lê; một mặt Trịnh Tùng và các chúa tiếp theo, tước hết thực quyền của vua Lê, quy định chặt chẽ chế độ bổng lộc của nhà vua (chỉ được cấp 1000 xã làm lộc thường tiên, 500 lính túc vệ, 7 thớt voi, 20 thuyền rồng), mặt khác thành lập một số cơ quan giúp việc gồm 3 phiên: Binh, Hộ và Thủy sư, vào đầu thế kỉ XVIII, chuyển 3 phiên thành 6 phiên: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công chịu trách nhiệm chính về các hoạt động của nhà nước. Cùng với Vương phủ hay Ngũ phủ - Phủ liêu ở trung ương, tồn tại cho đến cuối thế kỉ XVIII, ở địa phương, các đạo thừa tuyên được đổi gọi là trấn, có trấn thủ huy đốc trấn đứng đầu, phụ trách cả trấn ti (thay cho Đô ti). Giúp việc có Hiến ti và Thừa ti như cũ. Chúa Trịnh lại phân chia 10 trấn thuộc Bản bộ nay thành 4 nội trấn (Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc) và 6 ngoại trấn (Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hóa, An Quảng, Tuyên Quang, Thái Nguyên). Mỗi trấn đặt thêm một chức đốc đồng phụ trách việc kiện tụng, phòng trộm cướp. Hai trấn Thanh Hóa, Nghệ An vẫn giữ như cũ.

Hình thành chế độ gọi là "Vua Lê - Chúa Trịnh' mà thực quyền nằm trong tay phủ chúa.

Quan lại được tuyển chọn chủ yếu bằng khoa cử, nhưng không chặt chẽ như ở thế kỉ XV. Ngoài ra, hình thức bảo cử được chúa Trịnh nhiều lần sử dụng. Thêm vào đó, chúa Trịnh cũng thực hiện việc cho dân nộp thóc hay tiền để được bổ dụng tri phủ hay tri huyện. Sử cũ có lúc đã nhận định: "Bấy giờ quan chức nhũng lạm, phức tạp, một lúc cắt nhấc bổ dụng đến hơn 1000 người, làm quan cầu may, viên chức thừa thãi, không còn phân biệt gì cả".

Quyền lợi của quan lại thay đổi. Chế độ lộc điền bị bãi bỏ. Các chức quan cao cấp được cấp một số suất "dân tùy hành", một số xã huệ lộc để thu tiền, gạo. Quan đi sứ, quan về hưu cũng được cấp xã dân lộc như vậy. Tuy nhiên, đối với các công thần trong chiến tranh diệt Mạc và chiến tranh với Đàng Trong, nhà nước Lê - Trịnh phong thưởng một số ruộng đất không nhỏ. Những quan chức cao cấp về hưu cũng có khi được ban vài chục mẫu ruộng. Năm 1720, chuẩn bị cho việc đánh thuế ruộng tư, chúa Trịnh đặt chế độ cấp ruộng cho các quan từ Lục phẩm trở lên, với số ruộng từ 10 - 30 mẫu. Bộ máy nhà nước thời Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài chứa đựng nhiều mâu thuẫn nội bộ giữa hai dòng họ cũng như giữa quan lại và nhân dân.

* Về luật pháp: một mặt chúa Trịnh giữ nguyên bộ luật Hồng Đức, bổ sung thêm một số điều về kiện tụng, xét xử, mặt khác ban hành nhiều chiếu lệnh nhằm giải quyết những vấn đề mới do thực tế Đàng Ngoài đặt ra.

* Tổ chức quân đội: Những cuộc chiến tranh phong kiến đương thời đã dần dần làm mất tác dụng của chính sách "ngụ binh ư nông". Nhà Mạc trước đây cũng như nhà Lê - Trịnh bây giờ, cần một lực lượng quân sự thường trực, trung thành với chính quyền của mình.

Buổi đầu triều đại mới, quân đội được chia thành hai bộ phận chính: Quân Túc vệ bao gồm những binh sĩ đã theo họ Trịnh chống Mạc từ trước và những người mới mộ, chủ yếu từ 3 phủ Thanh Hóa (Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia) và 12 huyện ở Nghệ An. Đây là lực lượng chủ yếu chuyên bảo vệ kinh thành, phủ chúa, cũng là lực lượng quân sự chính trong cuộc chiến tranh với chúa Nguyễn. Bình thường số quân Túc vệ lên đến 6 vạn, nhưng lúc cần có thể nhiều hơn. Chúa Trịnh đặt chế độ cấp ruộng đất cho họ rất hậu ( 6 - 7 mẫu/người), giảm thuế cho hai trấn Thanh - Nghệ... do đó, nhân dân đã gọi họ là quân Tam phủ hay ưu binh.

Bên cạnh đó là ngoại binh hay nhất binh, tuyển từ đinh tráng của hai phủ Trường Yên, Thiên Quan (thuộc Ninh Bình) và 4 trấn quanh kinh thành theo chế độ tình nguyện. Loại quân này cũng được cấp nhiều ruộng đất nhưng lại theo chế độ "ngu binh ư nông" thay phiên nhau trực.

Năm 1722, theo lời bàn của một số đại thần, Trịnh Cương quyết định tuyển thêm đinh tráng ở 4 trấn theo quy định 5 người lấy một. Lực lượng nhất binh này trở thành quân thường trực.

Vào những năm 40 của thế kỉ XVIII, khi nông dân khởi nghĩa ở nhiều nơi, chúa Trịnh cho đặt thêm hương binh để bảo vệ các chính quyền địa phương. Quân đội Lê - Trịnh vẫn gồm 4 binh chủng chính: Bộ binh, thủy binh, kị binh và pháo binh. Theo giáo sĩ A. đờ Rốt (sang ta ở nửa đầu thế kỉ XVII): "Trong một cuộc tập trận... dàn ra 200 chiến thuyền đóng rất tinh xảo… mỗi thuyền đặt 3 khẩu đại bác, 1 đằng trước, 2 đằng sau".

Vũ khí, ngoài giáo mác, kiếm, cung, mộc, đao, nỏ bắn đá có súng báng gỗ, súng bọc da, tên lửa, đạn lửa, hỏa mù, đại bác.

Để đào tạo những người chỉ huy quân đội có năng lực, nhà nước Lê - Trịnh mở trường dạy võ. Từ 1721, chúa Trịnh đặt chế độ thi võ: cứ 3 năm 1 lần thi Sở cử ở trấn và 1 lần thi Bác cử ở kinh thành. Nội dung thi bao gồm cả cung, kiếm, đấu võ lẫn làm văn sách về phương lược. Người đỗ Bác cử được gọi là Tạo sĩ, học vị ngang với tiến sĩ bên văn.

* Tình hình đối ngoại:

Nhà Lê - Trịnh duy trì chính sách hòa hợp với các dân tộc ít người, mở rộng việc khai thác khoáng sản và giao một bộ phận cho các tù trưởng địa phương. Bấy giờ nhà Minh suy rồi đổ. Nhà Thanh thống trị Trung Quốc, bắt đầu tăng cường ảnh hưởng ra các nước xung quanh. Bọn quan lại Hoa Nam nhân đó lấn dần vùng đất biên giới. Nhiều châu động Tây Bắc bị chúng chiếm, nhà Mạc thua ở đồng bằng, đã chạy lên đất Cao Bằng và nhờ vua Thanh can thiệp để chiếm giữ. Bấy giờ nhà Lê - Trịnh còn yếu lại đang lo việc đánh nhau với chúa Nguyễn, không dám chống cự. Triều đình Lê - Trịnh tiếp tục thần phục nhà Thanh, giữ quan hệ hòa hiếu. Nhà Thanh lại phong vua Lê làm An Nam quốc vương.

Năm 1667, chúa Trịnh sai quân tướng đánh nhà Mạc, chiếm lại Cao Bằng. Hai năm sau, theo lời cầu khẩn của họ Mạc, nhà Thanh buộc chúa Trịnh phải trả Cao Bằng lại cho Mạc. Phải đợi đến năm 1677, nhân cuộc nổi loạn của Ngô Tam Quế ở Trung Quốc, nhà Lê - Trịnh mới diệt được họ Mạc ở Cao Bằng, hoàn toàn làm chủ đất Đàng Ngoài.

Đầu thế kỉ XVIII, tình hình đất nước ổn định, chúa Trịnh tỏ ra tự chủ hơn trong quan hệ với nhà Thanh. Năm 1726, một dải đất thuộc hai châu Vị Xuyên (Tuyên Quang) và Thủy Vĩ (Hưng Hóa) được nhà Thanh trả lại cho Đại Việt. Sau đó, năm 1728, trước thái độ mềm dẻo nhưng kiên quyết của các sứ thần Đại Việt và các tù trưởng địa phương, nhà Thanh buộc phải trả nốt một dải đất rộng thuộc Vị Xuyên, trong đó có mỏ đồng lớn Tụ Long.

Đối với Ai Lao ở Tây Nam, sau khi thiết lập lại chính quyền, nhà Lê - Trịnh đặt lại quan hệ. Vua Lê Thuận Tông đã gả con gái cho vua Lanxang, thắt chặt thêm tình thân giữa hai nước. Năm vua Lanxang Xulinha Vôngxa chết (1691), chính biến nổ ra. Chúa Trịnh Căn đã đem quân yểm hộ Ông Lô về nước, đưa lên làm vua. Quan hệ Đại Việt - Lan Xang trở lại tốt đẹp và giữ mãi tinh thần đó cho đến cuối thế kỉ XVIII.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 7-1-2012 09:15 PM
Thế phả các chúa Trịnh

Dòng dõi các chúa Trịnh

1. Thế tổ Minh Khang thái vương (Trịnh Kiểm, 1545 - 1570)

Trịnh Kiểm người làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá. Truyện kể rằng: Trịnh Kiểm mồ côi cha từ nhỏ, nhà nghèo hai mẹ con rau cháo nuôi nhau, khi mẹ đã già thì Kiểm đi làm thuê, gánh mướn nuôi mẹ. Một hôm đi làm về, không thấy mẹ, Kiểm bổ đi tìm đến sáng thì được tin mẹ anh đã chết đuối ở vực gần nhà, khi ra vực, Kiểm thấy mối đã đùn thành gò rồi, Kiểm buồn lắm bỏ làng ra đi, vào nương nhờ làm gia tướng cho thái phó Nguyễn Kim.

Trịnh Kiểm không được học hành nhiều, nhưng rất thông minh, can đảm và mưu lược hơn người. Nguyễn Kim mến tài đem con gái yêu là Ngọc Bảo gả cho Kiểm. Năm 1533, Nguyễn Kim sai Trịnh Kiểm đem quân sang Ai Lao đón Lê Duy Ninh về lập làm vua là Lê Trang Tông. Vua thấy Trịnh Kiểm tướng mạo khác thường, bèn phong cho là Đại tướng quân, lúc đó Kiểm 37 tuổi.

Năm Ất Tỵ - 1545, Nguyễn Kim bị hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, binh quyền về tay Trịnh Kiểm.

Vua Lê Trang Tông ở ngôi chí tôn nhưng quyền hành đều do Trịnh Kiểm nắm giữ.

Năm 1548 Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập thái tử Huyên (con Trang Tông) lên nối ngôi là Trung Tông. Vua Trung Tông cũng chỉ ở ngôi được 8 năm thì mất khi mới 22 tuổi, không có con nối ngôi. Trịnh Kiểm muốn nhân dịp này tự lập làm vua, nhưng còn phân vân, bèn sai Phùng Khắc Khoan đi hỏi ý kiến Trạng Trình. Cụ Trạng trả lời với thâm ý khuyên Trịnh Kiểm hãy tôn phò nhà Lê cho thuận lòng dân. Hiểu ý, Trịnh Kiểm sai người đến làng Bố Vệ rước Lê Duy Bang về lập làm vua tức là Lê Anh Tông.

Từ khi nắm quyền bính, Trịnh Kiểm ra sức củng cố lực lượng, thu hút nhân tài, nên Nam triều ngày càng mạnh lên. Nhà Mạc (Bắc triều) sai đại tướng Mạc Kính Điển đem quân vào đánh Thanh Hoá tới 10 lần, ngược lại Trịnh Kiểm cũng kéo quân ra đánh Sơn Nam trước sau 6 lần. Nam triều đã lấy lại được các huyện Yên Mô, Yên Khang, Phụng Hoá, Gia Viễn. Năm Kỷ Tỵ - 1569, vua Lê gia phong cho Trịnh Kiểm làm Thượng tướng Thái quốc công và tôn là Thượng phụ.

Tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1570, Trịnh Kiểm mất, truy tôn làm Minh Lhang thái vương, thuỵ là Trung Huân.

Trịnh Kiểm nắm quyền của Nam triều 26 năm trải qua ba đời vua, thọ 68 tuổi.

2. Bình An Vương (Trịnh Tùng, 1570 - 1623)

Khi Trịnh Kiểm chết, vua Lê Anh Tông trao quyền bính cho Trịnh Cối (con vợ cả của Trịnh Kiểm). Nhưng Trịnh Cối ham mê tửu sắc, ngày càng kiêu ngạo, càn rỡ, các tướng lĩnh không phục.

Tháng 4 năm Canh Ngọ - 1570, các tướng như Lê Cập Đệ, Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Bách, Phan Công Tích đem quân theo về với Trịnh Tùng. Trịnh Tùng là con thứ của Trịnh Kiểm với Ngọc Bảo (con gái Nguyễn Kim). Tùng khôi ngô tuấn tú, có tài thao lược, trọng nhân tài nên được tướng sĩ yêu mến.

Trịnh Tùng cùng các tướng sĩ phò giá vua Lê Anh Tông vào thành Vạn Lại, chia quân canh giữ đề phòng Trịnh Cối. Trịnh Cối đích thân đem hơn một vạn quân đến bao vây thành Vạn Lại.

Hai bên đánh nhau giằng co bảy ngày, vua Lê Anh Tông đứng ra hoà giải cũng không được. Cuối cùng Trịnh Cối phải rút quân về Biện Thượng.

Được tin anh em họ Trịnh đánh nhau, tháng 8 năm Canh Ngọ - 1570, vua Mạc sai Mạc Kính Điển đem 10 vạn quân và 700 chiến thuyền vào đánh Thanh Hoá. Trịnh Cối lo sợ, vội đem mẹ, vợ con và các thuộc tướng đến hàng nhà Mạc. Mạc Kính Điển phong cho Cối làm Trung Lương hầu.

Vua Lê Anh Tông phong cho Trịnh Tùng làm Trưởng quân công, Tiết chế thuỷ bộ chủ dinh cầm quân đánh Mạc.

Tháng 12 năm đó, sau 4 tháng tấn công vào Thanh Hoá không thắng được. Mạc Kính Điển phải rút quân về Bắc. Trịnh Cối cùng mẹ và vợ con chạy theo quân Mạc.

Năm Nhâm Thân - 1572, Lê Cập Đệ mưu giết Trịnh Tùng bị lộ, Lê Cập Đệ bị Trịnh Tùng giết chết. Vua Lê Anh Tông sợ hãi đang đêm đem 4 hoàng tử chạy vào thành Nghệ An.

Trịnh Tùng đưa hoàng tử thứ 5 của vua Lê là Duy Đàm lên làm vua, hiệu là Lê Thế Tông.

Sau hơn mười năm liên tục mở các cuộc tấn công ra Bắc, cuối cùng Trịnh Tùng đã đánh bại được nhà Mạc. Khôi phục được cố đô Thăng Long vào năm 1592.

Năm Ất Mùi - 1595, Trịnh Tùng đón vua vào Thăng Long và bắt đầu tổ chức bộ máy cai trị theo quy mô của bậc đế vương. Trịnh Tùng sai sứ sang nhà Minh xin sắc phong cho vua Lê là An Nam thống sứ, và buộc vua Lê phong cho mình làm Đô nguyên suý Tổng quân quốc chính thượng phụ, tước Bình An vương.

Trịnh Tùng cho lập phủ liêu riêng gồm đủ cả lục phiên tương đương với lục bộ của triều vua. Phủ chúa toàn quyền đặt quan chức, thu thuế, bắt lính... Vua chỉ có mặt trong những dịp long trọng đặc biệt như tiếp sứ Tàu mà thôi. Từ đấy bắt đầu thời kỳ "vua Lê - chúa Trịnh". Con chúa Trịnh được quyền thế tập gọi là thế tử.

Trước sự hống hách lộng quyền của chúa Trịnh, vua Lê Kính Tông đã cùng với con Trịnh Tùng là Trịnh Xuân mưu giết Trịnh Tùng. Việc bại lộ, Trịnh Tùng bức vua thắt cổ chết, lúc đó mới 32 tuổi. Tùng đưa thái tử Duy Kỳ lên ngôi vua là Lê Thần Tông.

Ngày 20 tháng 6 năm Quý Hợi - 1623, Trịnh Tùng mất, cầm quyền 53 năm, thọ 74 tuổi.

3. Thanh Đô Vương (Trịnh Tráng, 1623 - 1657)

Mạc Kính Khoan đang chiếm cứ Cao Bằng nghe tin Trịnh Tùng chết, các con (Trịnh Xuân, Trịnh Tráng) đánh nhau để giành ngôi chúa, liền từ Cao Bằng kéo hàng vạn quân xuống Gia Lâm. Trịnh Tráng phải rước vua Lê chạy vào Thanh Hoá.

Tháng 8 năm Quý Hợi - 1523, Trịnh Tráng đem quân ra phá tan quân của Kính Khoan. Kính Khoan một mình chạy thoát thân. Trịnh Tráng lại rước vua Lê trở lại kinh đô, vua Lê phong cho Trịnh Tráng chức Nguyên suý thống quốc chính Thanh Đô Vương.

Tạm yên mặt Bắc, Trịnh Tráng lo đối phó mặt Nam. Lúc này ở Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã ra mặt chống lại chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Trịnh Tráng nhiều lần lấy danh nghĩa vua Lê đem quân đi đánh Phúc Nguyên nhưng quân Nguyễn lợi dụng địa thế hiểm trở, đắp luỹ dài chống cự quyết liệt, quân Trịnh không làm gì được, phải rút về.

Để thắt chặt thêm quan hệ gắn bó giữa nhà chúa và vua Lê, Trịnh Tráng đem con gái của mình (đã lấy chồng có bốn con với chú họ của vua Lê) gả cho vua Lê, ép vua lập làm hoàng hậu. Vua Lê phải chấp nhận.

Năm Ất Dậu - 1645, Trịnh Tráng xin vua Lê phong cho con thứ hai là Tây quận công Trịnh Tạc làm Khâm sai tiết chế các sứ thuỷ bộ chủ dinh chương quốc quyền binh, tả tướng thái uý Tây quốc công và được quyền nối ngôi chúa.

Năm Đinh Dậu - 1657, Trịnh Tráng mất thọ 81 tuổi, ở ngôi chúa 30 năm.

4. Tây Đô Vương (Trịnh Tạc, 1657 - 1682)

Trịnh Tạc là con thứ hai được cha chọn làm Nguyên suý chưởng quốc chính Tây Định Vương từ năm Quý Tỵ - 1653, khi Trịnh Tráng đang còn sống. Sự không chọn Trịnh Toàn là con trưởng nối ngôi chúa đã dẫn đến mâu thuẫn ngấm ngầm giữa Toàn và Tạc.

Năm Định Dậu - 1657, Trịnh Tạc đã sai đình thần tống ngục và tra hỏi Trịnh Toàn cho đến chết.

Năm Đình Mùi - 1667, Trịnh Tạc tự gia phong Đại nguyên soái thượng sư thái phụ Tây Đô Vương.

Năm Nhâm Tí - 1672, Trịnh Tạc ép vua Lê đem quân vào đánh chúa Nguyễn một trận lớn ở châu Bố Chính, quân Trịnh chiếm được luỹ Trấn Ninh, huy động 3 vạn quân vượt sông Gianh đánh vào cửa Nhật Lệ. Quân Nguyễn ra sức chống cự nhờ có hệ thống thành luỹ kiên cố, tháng 12/1672, Trịnh Tạc phải rút đại binh về chỉ để Lê Thời Hiến trấn giữ Nghệ An. Từ đó Đàng Ngoài và Đàng Trong tạm ngừng chiến, lấy sông Gianh làm giới tuyến.

Tháng 7 năm Giáp Dần - 1674, Trịnh Tạc xin vua Lê phong cho con là Trịnh Căn làm nguyên soái. Năm Tân Dậu - 1682, Trịnh Tạc mất, thọ 77 tuổi, ở ngôi chúa 29 năm.

5. Định Vương (Trịnh Căn, 1682 - 1709)

Trịnh Căn là con trưởng của Trịnh Tạc được nối ngôi chúa là Định Vương.

Dưới thời Trịnh Căn, chiến tranh Trịnh - Nguyễn đã tạm dừng. Trịnh Căn có điều kiện để củng cố bộ máy cai trị. Giúp việc cho chúa Trịnh lúc đó có nhiều người đỗ đạt cao như Nguyễn Danh Nho, Nguyễn Tông Quai, Nguyễn Quý Đức, Đặng Đình Tường nên đã ổn định được xã hội, kinh tế phát triển.

Bằng nhiều cố gắng ngoại giao, chúa Trịnh buộc nhà Thanh trả lại một số thôn ấp vùng biên giới mà họ đã lấn chiếm của ta, nhưng chưa được nhiều.

Chúa Trịnh Căn gặp nhiều trắc trở trong việc lập người kế nghiệp. Năm Giáp Tí - 1684, Trịnh Căn phong cho con thứ là Trịnh Bách làm Tiết chế thay cho con cả là Vĩnh đã chết, nhưng đến năm Đinh Mão - 1687, Trịnh Bách lại chết sớm. Trịnh Căn lại phong cho Trịnh Bính là cháu nội đích tôn (con Trịnh Vĩnh) nối ngôi, nhưng đến năm Quý Mùi - 1703, Trịnh Bính cũng chết, Trịnh Căn lại phải phong cho chắt nội (con cả Trịnh Bính) là Trịnh Cương làm Tiết chế An quốc công.

Năm Kỷ Sửu - 1709, Trịnh Căn mất. Chắt là Trịnh Cương lên nối ngôi. Trịnh Căn thọ 77 tuổi ở ngôi chúa 27 năm.

6. An đô vương (Trịnh Cương, 1709 - 1729)

Trịnh Cương lên ngôi chúa, được phong làm nguyên soái tổng quốc chính An đô vương năm 1709.

Tháng 9 năm Giáp Ngọ (1714) Trịnh Cương lại được tiến phong đại nguyên soái tổng quốc chính thượng sư An đô vương.

Trịnh Cương biết giữ mối quan hệ tốt với vua Lê, đồng thời chăm lo việc trị nước. Chúa trọng dụng ba đại thần rất trẻ nhưng có tài là Lê Anh Tuấn, Nguyên Công Cơ và Nguyễn Công Hãng. Họ đã đưa ra chủ trương cải cách trên nhiều lĩnh vực về kinh tế, tài chính, thi cử, tổ chức hành chính.. . nhưng các cải cách tiến bộ đó đang được tiến hành thì Trịnh Cương mất.

Năm Kỷ Dậu (1729), Trịnh Cương đi vãng cảnh chùa Phật Tích rồi Như Kinh, bị bệnh, chết ngay tại đó, quan quân bí mật đưa về phủ Chúa phát tang. Tiếc thay vị chúa có nhiều tâm huyết với công cuộc cải cách kinh tế, chính trị đã mất ở tuổi 44, ở ngôi chúa 20 năm.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 7-1-2012 09:53 PM
7. Uy Nam vương (Trịnh Giang, 1729 - 1740)

Trịnh Giang là con cả Trịnh Cương. Khi Giang còn làm thế tử, bảo phó của Giang là Nguyễn Công Hãng đã dâng một số nhận xét rằng Giang là người ươn hèn không thể gánh vác được ngôi chúa. Trịnh Cương đã có ý thay ngôi thế tử, nhưng chưa dứt khoát thì Trịnh Cương đột ngột mất, Trịnh Giang với tư cách là thế tử lên nối ngôi chúa.

Tháng 4 năm Canh Tuất (1739) Giang tự tiến phong là nguyên soái thống quốc chính Uy Nam vương.

Chúa Trịnh Giang là kẻ vô cùng bạo ngược, sát hại công thần, giết vua Lê Duy Phường, lập vua Lê Ý Tông. Trịnh Giang ngày càng lấn át quyền vua, tha hồ ăn chơi trác táng. Một hôm Trịnh Giang bị sét đánh gần chết nên mắc bệnh kinh hãi, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ cho đào đất làm Cung Thưởng Trì dưới hầm cho Trịnh Giang ở. Bọn hoạn quan tha hồ lũng đoạn triều chính. Các quan đại thần kế tiếp nhau bị giết hại, thuế khóa nặng nề, lòng dân ly tán. Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi. Trước tình hình nguy ngập đó, Trịnh Thái Phi (mẹ Trịnh Giang và Trịnh Doanh) cho triệu quần thần đến đưa Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang để trừ họa nạn.

Trịnh Giang ở ngôi chúa 11 năm, năm 1760 mới mất thọ 51 tuổi.

8. Minh Đô vương (Trịnh Doanh, 1740 - 1767)

Năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh lên ngôi chúa lấy hiệu là Minh Đô vương tiến tôn Trịnh Giang làm Thái thượng vương.

Trịnh Doanh liền ban hành nhiều quyết định hợp lòng người, được quần thần và dân chúng ủng hộ. Chính sách cai trị dưới thời Trịnh Doanh khá chắc chắn và hoàn chỉnh. Nhiều sắc chỉ được ban hành dưới thời Trịnh Cương (đã bị Trịnh Giang bỏ) nay được thực hiện.

Trịnh Doanh chăm lo chính sự. Cho đặt ống đồng ở cửa phủ để nhận thư từ dân chúng tố giác việc làm sai trái của quan lại: Khi cần tuyển chọn và cất nhắc quan lại, Trịnh Doanh coi trọng thực tài nên trước khi bổ nhiệm ai người đó phải vào phủ đường yết kiến để chúa trực tiếp hỏi về việc là làm, ai có khả năng mới trao cho chức quyền. Chúa thưởng phạt rất công minh. Nhiều danh sĩ xuất thân khoa bảng được trọng dụng, tiêu biểu là Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ...

Lịch sử đã ghi nhận những năm Trịnh Doanh cầm quyền ở Bắc Hà là thời kỳ đất nước ổn định và thịnh đạt.

Song khi mới lên ngôi chúa, để dẹp loạn bằng mọi giá Trịnh Doanh đă mắc một sai lầm không thể tha thứ là đốt hết sổ sách thư từ, thu nhặt hết chuông khánh các chùa chiền để đúc binh khí.

Tháng giêng năm Đinh Hợi (1767). Trịnh Doanh mất thọ 48 tuổi, ở ngôi chúa 27 năm.

9. Tĩnh Đô vương (Trịnh Sâm, 1767 - 1782)

Trịnh Sâm là con trưởng của Trịnh Doanh. Năm Ất Sửu (1745) Sâm được lập làm thế tử. Trịnh Doanh cử hai tiến sĩ danh tiếng là Dương Công Chú và Nguyễn Hoàn làm tư giảng cho Trịnh Sâm.

Năm Đinh Hợi (1767). Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên ngôi chúa, tiến phong là nguyên soái Tổng quốc chính Tĩnh đô vương...

Trịnh Sâm là người cứng rắn, thông minh, quyết đoán. Khi lên ngôi chúa, Trịnh Sâm cho sửa đổi kỷ cương, chính sự cả nước vì cho rằng phép tắc của triều trước là nhỏ hẹp, nay Sâm muốn làm to rộng hơn, nên phần nhiều tự quyết đoán, không theo phép cũ.

Năm Kỷ Sửu (1769), sau hai năm lên ngôi vì ghen ghét tài năng, đức độ và địa vị của thái tử Duy Vĩ, Sâm đã vu tội cho thái tử, sai người bắt giữ, truất ngôi và tống giam, chết trong ngục.

Năm Canh Mão (1770), sau khi đánh tan Lê Duy Mật, buộc Duy Mật tự tử, Trịnh Sâm kiêu mãn, cho mình có công lớn nên tự tiến phong là Đại nguyên soái tổng quốc chính, Thượng sư thượng phụ, Duệ đoán văn công võ đức Tĩnh đô vương.

Năm Giáp Ngọ (1774), để khuếch trương thanh thế, Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc làm thống tướng đem quân vào Nam đánh chúa Nguyễn, tháng 10 năm đó, Sâm đích thân cầm quân kéo vào Thuận Hóa, chiếm được Thuận Hóa và đặt quan cai trị đất Thuận Quảng, trong đó có Lê Qúy Đôn, tác giả sách ''Phủ biên tạp lục".

Trịnh Sâm sau khi đã dẹp yên các cuộc khởi nghĩa, bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ, dần dần sinh bụng kiêu căng: xa xỉ, kén nhiều thần phi thị nữ, mặc ý vui chơi thỏa thích.

Đặng Thi Huệ là nữ tỳ của tiệp dư Trần Thị Vinh, ả mắt phượng mày ngài, vẻ người rất xinh đẹp và hấp dẫn. Trịnh Sâm trông thấy đem lòng yêu mến đặc biệt.

Đặng Thị Huệ được sống với chúa như vợ chồng. Xe hiệu quần áo của ả đều được sắm sửa như của chúa.

Để chiều lòng người đẹp, mỗi năm cứ đến tết Trung Thu là cho tổ chức đêm ''Hội Long Trì" treo hàng ngàn chiếc đèn lồng, trông xa tựa hàng vạn ngôi sao sáng để vui chơi thỏa thích.

Chúa Trịnh Sâm còn gả con gái yêu cho em trai Thị Huệ là Đặng Mậu Lân, một tên du côn ỷ quyền thế chuyên cướp bóc, cưỡng hiếp phụ nữ giữa phố phường.

Đặng Thị Huệ còn liên kết với Huy quận công Hoàng Đình Bảo gạt bỏ thế tử Trịnh Khải (con cả của Trịnh Sâm) lập Trịnh Cán (con của Thị Huệ) làm thế tử mới 5 tuổi.

Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất, thọ 44 tuổi, ở ngôi chúa 15 năm.

10. Điện Đô vương (Trịnh Cán, tháng 9/1782 đến tháng 10/1782)

Trịnh Sâm mất, Đặng Thị Huệ và Huy quận công Hoàng Đình Bảo lập Trịnh Cán lên ngôi chúa với tước hiệu Điện Đô vương, lúc đó Cán mới 6 tuổi. Tuyên phi Đặng Thị Huệ nghiễm nhiên trở thành người điều khiển triều chính giúp con. Lòng người lo sợ, từ phủ chúa ra kinh thành, thôn dã, ai cũng biết chắc hoạ loạn sắp xảy ra.

Tháng 10 nǎm Nhâm Dần - 1782, Dự Vũ là tay chân của Trịnh Khải xúi kêu binh (lính Tam phủ) nổi loạn, truất ngôi Cán, giáng xuống làm Cung quốc công, giết chết Hoàng Đình Bảo. Đặng Thị Huệ bị truất xuống thứ dân, sau tự tử. Trịnh Cán bị đưa ra ở phủ Lượng quốc, ốm chết, ở ngôi được gần hai tháng.

11. Đoan Nam vương (Trịnh Khải, 1782 - 1786)

Lính Tam phủ nổi loạn lật đổ Trịnh Cán đưa Trịnh Khải lên ngôi chúa, tiến phong là Đoan Nam vương.

Tháng 6 nǎm Bính Ngọ - 1786, đang lúc phủ chúa rối ren, khốn khổ vì nạn kiêu binh hoành hành khắp kinh kỳ, dân chúng ngày đêm nơm nớp lo sợ thì nghĩa quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh" kéo ra Bắc Hà.

Quân Trịnh chống cự yếu ớt, mau chóng tan rã, bỏ chạy.

Tướng Hoàng Phùng Cơ, Nguyễn Lệ rút chạy lên phía Bắc, Trịnh Khải mặc nhung phục, cưỡi voi, cầm cờ lệnh chỉ huy, nhưng quân sĩ đã bỏ chạy hết. Trịnh Khải phải một mình bỏ chạy lên Sơn Tây.

Trịnh Khải bị Nguyễn Trang bắt giải về nộp cho quân Tây Sơn, trên đường giải về Trịnh Khải dùng dao tự tử.

Trịnh Khải làm chúa chưa được 4 nǎm thì chết, lúc đó mới 24 tuổi.

12. Án Đô vương (Trịnh Bồng, 1786 - 1788)

Trịnh Bồng là con Trịnh Giang, bác ruột của Trịnh Khải. Trịnh Bồng đã được phong là Côn quận công. Khi Trịnh Khải bỏ trốn lên Sơn Tây, Trịnh Bồng lánh nạn ở huyện Văn Giang (Hưng Yên).

Khi Nguyễn Huệ và vua Thái Đức Nguyễn Nhạc rút về Nam Hà, Trịnh Bồng đã về yết kiến vua Lê, được vua Lê phong cho làm nguyên soái, tổng quốc chính Án Đô vương.

Trịnh Bồng nhu nhược, lười biếng, không điều khiển được công việc, do đó chính sự lại vào tay Đinh Tích Nhưỡng, chúng lấn át vua Lê, từ đó vua và Chúa lại càng mâu thuẫn. Vua Lê đã vời Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An đem quân về giúp.

Trịnh Bồng trốn chạy về xã Dương Xá rồi Quế Võ (Bắc Ninh). Trịnh Bồng đi Hải Dương - Quảng Yên và Thái Bình mộ quân lương mưu đánh lại Nguyễn Hữu Chỉnh, nhưng đánh mấy trận đều thất bại.

Năm 1788, Trịnh Bồng sau nhiều lần thất bại, đã bỏ đi tu ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng.

Như vậy, họ Trịnh từ thái vương Trịnh Kiểm nắm quyền đến Án Đô vương Trịnh Bồng (1545 - 1788) trải qua 12 đời chúa với 243 năm trị vì.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 8-1-2012 11:37 AM
Nhà Tây Sơn (1771 - 1802)

Triều đại Tây Sơn và những chính sách cải cách của Quang Trung


Biên niên các sự kiện thời Tây Sơn:

- 1771: Anh em Tây Sơn nổi dậy

- 1776: Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương

- 1777: Nguyễn Huệ tiêu diệt chúa Nguyễn tại Gia Định

- 1778: Nguyễn Nhạc xưng đế, đặt tên hiệu là Thái Đức

- 1780: Nguyễn Ánh xưng vương tại Gia Định

- 1782: Nguyễn Ánh bị quân Tây Sơn đuổi, chạy ra Phú Quốc

- 1783: Nguyễn Ánh lánh nạn tại Côn Sơn

- 1785: Nguyễn Huệ đánh bại quân Xiêm tại Rạch Gầm - Xoài Mút. Nguyễn Ánh chạy sang Xiêm

- 1786: Nguyễn Huệ lật đổ chúa Trịnh

- 1787: Nguyễn Ánh trở về lại Long Xuyên

- 1788: Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế

- 1789: Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh, Nguyễn Ánh lấy thành Gia Định

- 1792: Vua Quang Trung mất - 1793: Nguyễn Nhạc mất

- 1799: Nguyễn Ánh chiếm thành Quy Nhơn

- 1801: Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân

1. Sự thiết lập vương triều Tây Sơn:

Tháng 3 - 1776, Nguyễn Nhạc tự xưng Tây Sơn vương, đúc ấn vàng, xây lại thành Đồ Bàn, phong cho Nguyễn Huệ làm Phụ chính, Nguyễn Lữ làm Thiếu phó. Đầu năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng Hoàng đế, lấy niên hiệu là Thái Đức, đổi thành Đồ Bàn làm thành Hoàng đế, phong cho Nguyễn Huệ làm Long nhượng tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế. Triều đại Tây Sơn chính thức được thành lập, nhưng thực chất vẫn còn là bộ tham mưu tối cao của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Năm 1786, sau khi tiến quân ra Bắc, lật đổ chính quyền họ Trịnh, Nguyễn Huệ rút quân về Nam, Nguyễn Nhạc tự xưng là Trung ương Hoàng đế, quản lý khu đất ở giữa, chạy dài từ Quảng Nam vào đến cực nam Trung Bộ ngày nay, phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra Nghệ An, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định vương, trông coi vùng đất Gia Định. Hoạt động của Nguyễn Lữ ở Gia Định chỉ thu hẹp trong phạm vi là một viên tướng đồn trú ở trong thành và chia quân đóng giữ một số đồn luỹ, không đề ra và thực hiện được những chính sách kinh tế, chính trị, xã hội nào tích cực của một chính quyền phong kiến. Thời gian tồn tại của Đông Định vương chỉ trong vòng hơn một năm (1786 - 1787). Năm 1787, Nguyễn Ánh từ Xiêm đem quân về đánh Long Xuyên. Nguyễn Lữ sợ hãi bỏ Gia Định chạy về Biên Hoà, sau lại chạy về Quy Nhơn và bị bệnh chết. Vùng Gia Định từ tháng 9 - 1788 lại thuộc về Nguyễn Ánh.

Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc từ sau năm 1786 thỏa mãn với thắng lợi, không còn ý chí quật khởi, ngồi hưởng lạc "chỉ mong giữ lấy một phủ Quy Nhơn, tự giáng mình làm Tây chúa", "ham nhàn vui, cầu yên tạm bợ, không lo đến hậu hoạ". Từ năm 1790 đến 1793, Nguyễn Ánh liên tiếp tấn công ra Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh và vây thành Quy Nhơn (1793). Nguyễn Nhạc bất lực phải nhờ quân cứu viện của chính quyền Quang Toàn (Cảnh Thịnh). Các tướng sĩ của Quang Toàn giải vây Quy Nhơn, đánh bại quân Nguyễn Ánh rồi chiếm luôn cả thành trì. Nguyễn Nhạc uất lên mà chết, chính quyền của Nguyễn Nhạc đến đây kết thúc.

2. Triều đại Quang Trung:

Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), trước khi đem quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh xâm lược, Nguyễn Huệ xưng đế đặt niên hiệu là Quang Trung. Phạm vi quản lý của triều đại Quang Trung trong những năm 1789 - 1792 bao gồm toàn bộ Bắc Hà vào đến đèo Hải Vân. Trên phạm vi đó, triều đại này đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp cải cách tiến bộ.

* Về kinh tế:

Quang Trung ban "chiếu khuyến nông", lệnh cho dân phiêu tán trở về quê khôi phục ruộng đồng bỏ hoang. Những xã nào chứa chấp kẻ trốn tránh đều bị trừng phạt. Sau một thời hạn mà ruộng công còn bỏ hoang thì phải nộp thuế gấp đôi, ruộng tư thì bị sung công... Do đó, chỉ trong vòng 3 năm sau, nông nghiệp được phục hồi. Năm 1791 mùa màng trở lại phong đăng, năm phần mười trong nước khôi phục được cảnh thái bình.

Đối với công thương nghiệp, Quang Trung khuyến khích đẩy mạnh sản xuất thủ công nghiệp, mở rộng ngoại thương trên cơ sở phục hồi và phát triển nông nghiệp. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn đó, ngay từ những ngày đầu của chính quyền mới, Quang Trung chủ trương phát triển mọi ngành sản xuất nhằm xây dựng một nền kinh tế phồn vinh, độc lập, tự chủ trong đó có công thương nghiệp.

Chủ trương khuyến khích phát triển công thương nghiệp của Quang Trung được thể hiện ở sắc lệnh "khoan thư" sức dân. Năm 1789, Quang Trung bãi bỏ thuế điền cho nhân dân từ sông Gianh ra bắc, động viên các tầng lớp nhân dân lao động phấn khởi sản xuất.

Để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá thuận lợi, Quang Trung cho đúc tiền đồng mới (Quang Trung thông bảo và Quang Trung đại bảo). Đối với nước ngoài, Quang Trung chủ trương mỏ rộng trao đổi buôn bán, đấu tranh buộc nhà Thanh phải mở cửa biên giới để buôn bán với nước ta như ải Bình Nhi, Thuỷ Khẩu (Cao Bằng), Hoa Sơn (Lạng Sơn), Du Thôn... Đối với thuyền buôn của các nước tư bản phương Tây, Quang Trung tỏ ra rộng rãi, mong muốn họ tăng cường quan hệ ngoại thương với Việt Nam, nhờ vậy, tình hình thương nghiệp (nội thương và ngoại thương) nước ta thời Quang Trung được phục hưng và phát triển. Mô tả Thăng Long bấy giờ, nhà nho Nguyễn Huy Lượng sống dưới thời Tây Sơn viết: "Lò Thạch khối khói tuôn nghi ngút, thoi oanh nọ ghẹo hai phường dệt gấm, lửa đom đóm nhen năm xã gây lò", và "rập rình cuối bãi đuôi nheo, thuyền thương khách hãy nhen buồm bươm bướm" (Phú Tụng Tây Hồ).

Nền ngoại thương nước ta thời Quang Trung khác hẳn với ngoại thương thời Vua Lê chúa Trịnh, chúa Nguyễn trước đó. Nó xuất phát từ yêu cầu nội tại của nền kinh tế và đời sống của nhân dân, từ yêu cầu đẩy mạnh nền kinh tế hàng hoá. Tư tưởng "thông thương" tiến bộ của Quang Trung đã thể hiện nhãn quan kinh tế rộng mở phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại, "mở cửa ải, thông thuơng buôn bán, khiến cho các hàng hoá không ngừng đọng để làm lợi cho dân chúng".

* Về chính trị, quốc phòng:

Sau khi đánh bại 30 vạn quân Thanh xâm lược (1789), vương triều Quang Trung ra sức xây dựng một chính quyền phong kiến mới tiến bộ với ý thức quản lý đất nước trên một phạm vi rộng lớn dưới một chính quyền trung ương tập trung mạnh. Xuất phát từ nhận thức "Trẫm là kẻ áo vải đất Tây Sơn, không có một tấc đất, tự nghĩ mình tài đức không theo kịp cổ nhân mà đất đai rộng lớn như thế, nghĩ đến việc cai quản, lo sợ như cầm dây cương mục mà dong sáu ngựa", nên trong công cuộc xây dựng chính quyền mới, Quang Trung rất chú trọng "cầu hiền tài". Đối với những nho sĩ, trí thức, kể cả quan lại trong chính quyền cũ có tài năng, trí tuệ, có nhiệt tình xây dựng đất nước, Quang Trung đều cố gắng thuyết phục và sử dụng họ vào bộ máy nhà nước mới, đặt họ ở những chức vụ cao tương xứng với tài năng của họ. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp, v.v..., là những học giả tiêu biểu trong số nho sĩ này.

Để đáp ứng nhu cầu xây dựng chính quyền mới và đào tạo quan lại mới, bên cạnh phương thức "tiến cử", "cầu hiền tài", Quang Trung đã ban hành chính sách "khuyến học", mở rộng chế độ học tập, thi cử. Trường học được mở rộng đến các làng xã, cho phép các địa phương sử dụng một số đền chùa không cần thiết làm trường học. Về nội dung, bỏ lối học từ chương khuôn sáo, cải tiến dần theo hướng thiết thực, bắt các nho sinh, sinh đồ ở các triều đại trước phải thi lại. Người nào xếp loại ưu thì mới được công nhận cho đỗ, hạng liệt phải về học lại, còn hạng sinh đồ 8 quan do bỏ tiền ra mua trước đó (thời Lê - Trịnh) đều bị đuổi về chịu lao dịch như dân chúng.

Chủ trương phát triển giáo dục, thi cử để đào tạo nhân tài cho đất nước trong công cuộc phục hưng của chính quyền mới được Quang Trung nói rõ: "Dựng nước lấy học làm đầu, lấy nhân tài làm gốc. Trước đây bốn phương nhiều việc phải phòng bị, việc học không được sửa sang, khoa cử bỏ dần, nhân tài ngày càng thiếu thốn... Trẫm khi vừa mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhà nho, lưu tâm, mến kẻ sĩ, muốn có người thực tài để dùng cho quốc gia". Xuất phát từ nhận thức đó ngay từ năm 1789, Quang Trung đã cho mở khoa thi Hương đầu tiên ở Nghệ An, chọn lấy những người đỗ tú tài hạng ưu cho vào dạy trường quốc học, hạng thứ cho vào dạy ở trường phủ học. Quang Trung chủ trương từng bước đưa khoa cử thành một phương thức đào tạo quan chức cho nhà nước phong kiến mới.

Trên cơ sở tăng cường và củng cố hoạt động của bộ máy nhà nước tập trung mạnh, chính quyền đã thực hiện được chức năng quan trọng và lớn lao bấy giờ đối với xã hội là tập hợp được các lực lượng tích cực trong toàn đất nước, đẩy lùi được cuộc chiến tranh xâm lược của ngoại bang, ổn định tình hình chính trị, xã hội, củng cố được nhà nước quân chủ tập quyền, từng bước phục hưng, phát triển văn hoá, giáo dục và kinh tế.

Quang Trung chủ trương xây dựng một đội quân hùng mạnh, củng cố quốc phòng. Quân đội chia làm 5 doanh: trung, tiền, hậu, tả, hữu. Ngoài ra còn có thêm một số quân hiệu khác như tả bật, hữu bật, kiều thanh, thiên cán. Quân đội được biên chế theo đạo, cơ, đội. Nhà nước quy định cứ 3 suất đinh tuyển một lính. Năm 1790, làm sổ hộ tịch để căn cứ vào đó tuyển binh.

Quân đội có các binh chủng: bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, pháo binh. Vũ khí có nhiều loại, có loại được cải tiến như hỏa hổ (một loại ống phun lửa), có súng trường, đại bác, giáo mác, cung, tên. Chiến thuyền cũng nhiều loại, loại lớn chở được cả voi, trang bị từ 50 đến 60 khẩu đại bác, chở được từ 500 đến 700 lính.

Với một lực lượng quân đội mạnh, Quang Trung đã trấn áp được các thế lực phong kiến phản động, bảo vệ được chính quyền mới và có cơ sở để thực hiện một chính sách đối ngoại tích cực, kiên quyết bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia và nâng cao địa vị của nước ta thời bấy giờ đối với nước ngoài.

* Về văn hoá giáo dục:

Quang Trung lập Sùng Chính Viện chuyên dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm làm tài liệu học tập và giúp vua về mặt văn hoá. Mục đích của Quang Trung là nhằm đưa chữ Nôm lên thành quốc ngữ chính thức thay cho chữ Hán. Bên cạnh nho giáo, Quang Trung vẫn chấp nhận Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Chữ Nôm được đưa vào khoa cử, trong các kỳ thi quan trường phải ra đề thi bằng chữ Nôm, người thi đến kỳ tam trường phải làm thơ, phú bằng văn Nôm. Chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của quốc gia dưới triều Quang Trung, một thành quả quan trọng trong lịch sử đấu tranh và bảo tồn nền văn hoá dân tộc, chống chính sách đồng hoá của các triều đại phương Bắc đô hộ nước ta. Những chính sách văn hoá, giáo dục của Quang Trung chứng tỏ ông có hoài bão xây dựng một nền học thuật, giáo dục đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao ý thức độc lập, tự cường cho nhân dân.

Những cải cách của Quang Trung có nhiều mặt tích cực, thể hiện một tư tưởng tiến bộ nhằm đưa đất nước nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng sau chiến tranh kéo dài để vươn lên sánh vai cùng các quốc gia phát triển đương thời, những chính sách cải cách đó đã và sẽ tạo khả năng mở đường, phát triển của đất nước, của dân tộc.

Tuy nhiên, về mặt thực hiện những chính sách cải cách của Quang Trung đã gặp nhiều trở ngại, thời gian thực hiện lại quá ngắn ngủi. Ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý (1792), Quang Trung - Nguyễn Huệ - người anh hùng của dân tộc, đột ngột qua đời giữa lúc những cải cách mới được bắt đầu thực hiện. Triều đại Quang Toản tiếp sau đó bất lực, không còn tiếp tục thực hiện được những cải cách của Quang Trung và đã bị Nguyễn Ánh lật đổ vào đầu năm 1802.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 8-1-2012 12:51 PM
Thế phả triều đại Tây Sơn

Triều Tây Sơn (1778 - 1802)

1. Thái Đức hoàng đế (1778 - 1793)

Anh em Tây Sơn vốn người họ Hồ, cháu hậu duệ của trạng nguyên Hồ Hưng Dật (thế kỷ thứ 10). Ông tổ của Tây Sơn ở huyện Hưng Nguyên, Nghệ An, khoảng nǎm 1653 - 1657 bị quân của chúa Nguyễn đánh ra Đàng Ngoài bắt đem về cho ở ấp Tây Sơn (nay là An Khê, Hoài Nhơn, Bình Định), từ đó đổi thành họ Nguyễn.

Ông Nguyễn Phi Phúc lấy bà Nguyễn Thị Đồng sinh ba con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ.

Gia đình ông Phúc làm nghề buôn trầu cau, cuộc sống cũng khá giả. Anh em Nguyễn Nhạc theo học giáo Hiến. Giáo Hiến vốn là môn khách của Trương Vǎn Hạnh, ngoại hữu dưới thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777).

Sau Trương Vǎn Hạnh bị Trương Phúc Loan giết, giáo Hiến sợ phải chạy vào ở ẩn tại Quy Nhơn, mở trường dạy học ở ấp Yên Thái.

Lúc đó quyền thần Trương Phúc Loan tác oai tác quái, lấn lướt nhà chúa, lòng người ai cũng cǎm ghét.

Hằng ngày anh em Tây Sơn được giáo Hiến dạy cả vǎn lẫn võ, đồng thời khích lệ bởi câu sấm: "Tây khởi nghĩa, Bắc thu công".

Nǎm Tân Mão - 1771, anh em Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa với khẩu hiệu chiến lược: "Lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương". Quân Tây Sơn thường lấy của những nhà giàu rồi phân phát cho dân nghèo, do đó nhân dân các nơi theo về rất đông.

Trải qua 8 nǎm chiến đấu gian khổ, nǎm Mậu Tuất - 1778, quân Tây Sơn đã diệt được chúa Nguyễn ở Đàng Trong.

Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng đế lập nên triều đại nhà Tây Sơn, đặt niên hiệu là Thái Đức, phong cho Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân.

Nǎm 1777, chúa Nguyễn Phúc Thuần và Hoàng tôn Dương đều bị chết trong trận đánh ở Long Xuyên, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát ra đảo Thổ Chu.

Nǎm 1784, Nguyễn Ánh cầu viện vua Xiêm cho hai vạn quân thuỷ và 300 chiến thuyền sang xâm lược nước ta, bị Nguyễn Huệ đánh tan trên đoạn sông Rạch Gầm - Xoài Mút (Định Tường).

Nǎm 1786, Hoàng đế Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem quân ra đánh thành Thuận Hoá của chúa Trịnh vào tháng 5/1786. Trên đà thắng lợi, với khẩu hiệu "phù Lê diệt Trịnh", ngày 25/6 Nguyễn Huệ tiến quân ra cố đô Thǎng Long. Nghe tin Nguyễn Huệ chiếm được thành Thǎng Long, Nguyễn Nhạc sợ không kiềm chế được Nguyễn Huệ, vội thân hành đem quân bản bộ ra Bắc Hà.

Vua Lê Hiển Tông nghe tin, đem trǎm quân ra ngoài cõi đón vua Tây Sơn. Nguyễn Huệ ra tận ngoại ô đón anh và tạ tội tự chuyên của mình.

Về đến kinh đô, Nguyễn Huệ đưa công chúa Ngọc Hân ra chào vua anh. Nguyễn Nhạc khen:

- Chà, em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam "môn đương hộ đối" mối nhân duyên thật đẹp!

Sau khi từ Bắc Hà trở về, tháng 4 nǎm Đinh Mùi - 1787, Nguyễn Nhạc chia vùng đất phía Nam ra làm ba:

- Từ đèo Hải Vân trở ra Bắc thuộc về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.

- Đất Gia Định thuộc về Đông Định Vương Nguyễn Lữ.

- Nguyễn Nhạc đóng đô ở Quy Nhơn xưng là Trung ương hoàng đế.

Nǎm 1793, Nguyễn Nhạc mất, làm vua được 15 nǎm.

2. Hoàng đế Quang Trung (1788 - 1792)

Hoàng đế Quang Trung tên huý là Nguyễn Huệ (tức Hồ Thơm), sinh nǎm Quý Dậu - 1752. Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm: tóc quǎn, da sần, tiếng nói sang sảng như chuông, cặp mắt sáng và tinh anh.

Nguyễn Huệ là trụ cột của nghĩa quân Tây Sơn, đã góp nhiều công lao to lớn, đập tan chúa Nguyễn ở Đàng Trong, được vua Tây Sơn phong cho làm Long nhương Tướng quân và được trao quyền cầm quân đánh đông dẹp bắc, là vị tướng có tài hành quân chớp nhoáng, đánh đâu được đấy, bách chiến bách thắng.

Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc lật nhào chúa Trịnh chuyên quyền, tôn phò nhà Lê.

Sau khi vua Lê Hiển Tông tiếp kiến Nguyễn Huệ ở điện Vạn Thọ, nhà vua đã phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên suý Dực chính phù vận Uy quốc công. Với sự sắp xếp khéo léo của Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông đã gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ.

Tháng 7/1786, một đêm mưa to gió lớn, kinh đô Thǎng Long ngập hàng thước nước, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi.

Công chúa Ngọc Hân khi được chồng hỏi nên lập ai lên ngôi báu, đã nghiêng về Lê Duy Cận. Nghe lời vợ, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đǎng quang của Lê Duy Kỳ. Cả triều đình xao xuyến ngờ vực. Các tôn thất nhà Lê cho rằng Ngọc Hân cố tình làm lỡ việc lớn của triều đình và bảo sẽ từ mặt công chúa. Ngọc Hân sợ, vội nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua.

Ít lâu sau, Nguyễn Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam.

Tháng 4/1788 Lê Chiêu Thống đã bỏ kinh đô chạy ra ngoài, Bắc bình vương Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần thứ 2 dẹp loạn. Ông đã tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích ra đảm đương công việc.

Sau khi đã lập Sùng nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc, Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân.

Cuối nǎm 1788, Lê Chiêu Thống đưa đường cho đội quân xâm lược Mãn Thanh về chiếm đóng kinh đô Thǎng Long.

Đại tư mã Ngô Vǎn Sở đã bàn với Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và các mưu thần khác, chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - Biện Sơn chờ lệnh.

Nghe tin cấp báo, ngay ngày hôm sau, 25 tháng 11 nǎm Mậu Thân (22/12/1788), Nguyễn Huệ xuất quân tiến ra Bắc Hà. Chiều ý các tướng và để sáng tỏ danh nghĩa với cả nước, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế niên hiệu Quang Trung.

Ngày 29 tháng 11 nǎm Mậu Thân (26/12/1788), đại binh của hoàng đế Quang Trung tới Nghệ An, dừng quân tại đó hơn 10 ngày, tuyển thêm hàng vạn trai tráng Nghệ An vào nghĩa quân Tây Sơn, nâng quân số lên 10 vạn, với đội tượng binh 200 voi chiến. Nguyễn Huệ tổ chức 5 đạo quân: tiền, hậu, tả, hữu và trung quân. Những binh sĩ mới tuyển ở Nghệ An, chưa quen chiến trận, chưa qua thao luyện được đặt vào đạo trung quân do chính hoàng đế trực tiếp chỉ huy.

Hoàng đế Quang Trung còn tổ chức lễ duyệt binh ngay tại Nghệ An để khích lệ ý chí quyết chiến, quyết thắng của tướng sĩ đối với quân xâm lược Mãn Thanh.

Ngay sau lễ duyệt binh, Quang Trung cưỡi voi thúc quân tiến ra Bắc Hà.

Ngày 20 tháng Chạp nǎm Mậu Thân (15/1/1789), đại quân của Quang Trung đã ra đến Tam Điệp, Ninh Bình.

Trước khi bước vào chiến dịch, vua Quang Trung nói với quan quân rằng:

- Nay ta tới đây thân đốc việc binh, chiến thư ra sao đã có phương lược sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào cũng quét sạch giặc Thanh. Song ta nghĩ: nước Thanh lớn hơn nước ta gấp 10 lần, Thanh bị thua tất hổ thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc cho trǎm họ, lòng ta không nỡ! Nên chi, sau khi thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa chiến tranh, việc từ lệnh đó ta giao cho Ngô Thì Nhậm.  

Đúng như dự kiến và lời hứa hẹn của vị tổng chỉ huy, với tài dùng binh táo bạo, thần tốc, ngày 5 tháng Giêng nǎm Kỷ Dậu - 1789, đội quân bách chiến bách thắng của hoàng đế Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Mãn Thanh, tiêu biểu là trận Ngọc Hồi - Đống Đa do Quang Trung trực tiếp chỉ huy, tiến vào giải phóng Thǎng Long.

Sau chiến thắng Đống Đa, Nguyễn Huệ vội trở lại Phú Xuân để lo việc diệt Nguyễn Ánh, trao lại binh quyền cho Ngô Vǎn Sở và Ngô Thì Nhậm.

Theo phương lược ngoại giao đã được Quang Trung vạch sẵn, với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, nước ta đã bình thường được mối bang giao với nhà Thanh, buộc sứ Thanh phải vào tận Phú Xuân để phong vương cho Nguyễn Huệ; rồi hoàng đế Quang Trung giả đã sang triều kiến và dự lễ mừng thọ 80 tuổi của vua Càn Long nhà Thanh.

Nǎm 1792, sau khi gửi thư đến vua nhà Thanh xin được sánh duyên cùng một nàng công chúa bắc quốc và xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây làm đất đóng đô, vua Quang Trung đã sai đô đốc Vũ Vǎn Dũng làm chánh sứ sang triều kiến vua Càn Long. Vua Càn Long đã chuẩn tấu gả công chúa khuê các sang đẹp duyên cùng quốc vương nước Nam và tỉnh Quảng Tây được hứa sẽ nhường cho quốc vương phò mã đóng đô.

Giữa lúc đoàn sứ bộ đang mừng vui vì sắp hoàn thành sứ mệnh được giao, thì nhận tin sét đánh: vua Quang Trung đã từ trần. Mọi việc đều bị gác lại. Vũ Vǎn Dũng đành ôm hận trở về nước.

Một buổi chiều đầu thu nǎm 1792, vua Quang Trung đang ngồi làm việc, bỗng hoa mắt, tối sầm mặt mũi, mê man bất tỉnh. Người xưa gọi là chứng "huyễn vận", còn ngày nay y học gọi là tai biến mạch máu não. Khi tỉnh dậy, nhà vua cho triệu trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về triều bàn việc thiên đô ra Nghệ An. Nhưng việc chưa quyết xong thì bệnh tình nhà vua đã nguy kịch. Trước khi mất, nhà vua đã cǎn dặn Trần Quang Diệu và các quần thần:

- Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm, tất không khỏi được. Thái tử (Nguyễn Quang Toản) tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài thì có quân Gia Định (Nguyễn Ánh) là quốc thù, mà Thái Đức (Nguyễn Nhạc) thì tuổi già, ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm lao thảo thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp thái tử sớm thiên đô về Vĩnh Đô (Vinh ngày nay) để khống chế thiên hạ. Bằng không quân Gia Định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu!

Ngày 29 tháng 7 nǎm Nhâm Tý - 1792 vào khoảng 11 giờ đêm, Quang Trung Nguyễn Huệ từ trần, ở ngôi được 4 nǎm, thọ 41 tuổi. Biết bao dự kiến to lớn của người anh hùng kiệt xuất của dân tộc chưa thực hiện được!

Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi vua cha.

3. Hoàng đế Cảnh Thịnh (1793 - 1802)

Vua Quang Trung mất, Nguyễn Quang Toản là con trưởng mới 10 tuổi lên ngôi vua nǎm Quý Sửu - 1793, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh.

Quang Toản lên ngôi vua, dùng cậu là Bùi Đắc Tuyên làm thái sư giám quốc trông coi mọi việc trong ngoài. Vì Quang Toản còn nhỏ quá, Bùi Đắc Tuyên ngày càng chuyên quyền nên trong ngoài đều oán, đại thần trong triều ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau.

Bọn cận thần gièm pha rằng Trần Quang Diệu oai quyền quá lớn, mưu đồ cướp ngôi, Quang Toản tin là thật, rút hết binh quyền của Trần Quang Diệu. Sau Trần Quang Diệu bị giết.

Nǎm Canh Thân - 1800, Nguyễn Ánh vượt biển ra đánh thành Quy Nhơn, tướng Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng.

Nǎm Tân Dậu - 1801, Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, Quang Toản chống giữ không nổi, Phú Xuân bị chiếm, Quang Toản phải chạy ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng.

Ngày 16 tháng 6 nǎm Nhâm Tuất - 1802, Nguyễn Ánh tập trung lực lượng đánh chiếm Thǎng Long. Không chống đỡ nổi, Cảnh Thịnh cùng em là Quang Thuỳ bỏ thành chạy theo hướng Bắc, bị bọn thổ hào đất Kinh Bắc bắt được, đóng cũi đưa về Thǎng Long.

Mùa đông nǎm 1802, Nguyễn Ánh về Phú Xuân cáo tế miếu, trả thù Tây Sơn cực kỳ tàn bạo, Quang Toản cùng toàn gia cũng như một số tướng lĩnh Tây Sơn bị hành hình.

Quang Toản lên ngôi vua nǎm 1793, đến nǎm 1802 thì bị giết ở tuổi 20, ở ngôi được 9 nǎm. Như vậy triều Tây Sơn kể từ vua Thái Đức đến hết Cảnh Thịnh tồn tại được 24 nǎm (1778 - 1802).
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 8-1-2012 03:25 PM
Nhà Nguyễn (1802 - 1945)


Người khởi đầu cho sự nghiệp của nhà Nguyễn là Nguyễn Kim (1468 - 1545). Khi nhà Hậu Lê bị nhà Mạc cướp ngôi vào năm 1527, Nguyễn Kim chạy vào Thanh Hóa để chống lại nhà Mạc. Sau đó Nguyễn Kim còn kiếm được một người con của vua Lê cũ để nối tiếp nhà Lê, đây là Lê Trang Tông. Nhờ công này, Nguyễn Kim được vua phong chức Quốc công, trông coi tất cả quân đội. Nguyễn Kim sau bị người nhà Mạc dùng thuốc độc giết. Nguyễn Kim có hai người con trai là: Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng, cả hai đều được phong chức Quận công, nhưng binh quyền lọt vào tay người anh rể là Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm nắm quyền chỉ huy quân đội, trông coi tất cả mọi việc trong triều đình. Để giảm bớt quyền lực của họ Nguyễn, Trịnh Kiểm giết Nguyễn Uông. Lo sợ cho chính mình, Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa, tức là miền nam của Việt Nam lúc đó (phần đất thuộc các tỉnh từ Quảng Bình đến Quảng Nam bây giờ), vào năm 1558 để tránh xa Chúa Trịnh. Từ đó Nguyễn Hoàng lập nên căn cứ của mình tại phương nam, mở rộng ranh giới bằng cách xâm chiếm Chiêm Thành, Lào, Chân Lạp, gây sức ép với các vua của Đế quốc Khmer để họ nhường đất của xứ Phù Nam cũ (tức là miền Nam Việt Nam bây giờ). Tuy nhiên, các chúa Nguyễn lúc đó về hình thức vẫn thần phục vua Lê và cũng chỉ xưng "Chúa" (chúa Nguyễn), với Nguyễn Hoàng là người đầu tiên xưng là chúa Tiên, và đặt tên cho vùng đất cai trị của mình là Đàng Trong.

Con của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên, hay chúa Sãi, lên ngôi chúa năm 1613, là người đầu tiên mang họ Nguyễn Phúc. Từ đó con cháu trong dòng họ này đều mang họ này.

Sáu đời sau Nguyễn Phúc Khoát, lên ngôi vào năm 1738, là người đầu tiên xưng "vương" vì chúa Trịnh tại phương bắc cũng đã xưng vương - vua Lê chỉ còn hư vị. Nguyễn Phúc Khoát xưng mình là Vũ Vương.

Sau khi Vũ Vương chết, theo di chúc người nối ngôi phải là Nguyễn Phúc Luân nhưng một vị quan trong triều là Trương Phúc Loan lập Nguyễn Phúc Thuần, mới 12 tuổi, lên ngôi để nắm quyền. Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi năm 1765, xưng là Định Vương.

Trương Phúc Loan là một người độc ác, tàn bạo nên dân chúng nổi lên khởi nghĩa, trong số đó là anh em nhà Tây Sơn. Nhà Tây Sơn được lòng dân nên thế lực rất mạnh. Họ đánh bại quân nhà Nguyễn, bắt giết Định Vương và rất nhiều người trong họ Nguyễn Phúc. (Một người cháu, gọi Định Vương là chú, tên Nguyễn Phúc Dương lên nối ngôi nhưng cũng phải đầu hàng sau một năm). Nhà Tây Sơn cũng đánh bại quân nhà Trịnh và chiếm cả Thăng Long, nhưng họ lại giao trả đất phía bắc (Đàng Ngoài) lại cho vua Lê và rút quân về lo việc cai trị Đàng Trong.

Kể từ khi Nguyễn Hoàng lên ngôi chúa năm 1558 đến khi Nguyễn Phúc Dương đầu hàng vào năm 1777, các chúa Nguyễn đã cai trị Đàng Trong hơn 200 năm và mở mang biên giới về phía nam cho đến tận vịnh Thái Lan.

Phú Xuân rơi vào tay họ Trịnh, chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng với tân chính Vương Nguyễn Phúc Dương và gia quyến chạy vào Quảng Nam, trong số đó có một người con của Nguyễn Phúc Luân là Nguyễn Phúc Ánh, lúc bấy giờ mới 13 tuổi. Sau khi củng cố lực lượng năm Canh Tý (1780) Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vương ở Gia Định. Trong 24 năm Nguyễn Phúc Ánh đã tham chiến nhiều lần với quân của nhà Tây Sơn, thường là bị thất bại và phải chạy trốn. Sau nhờ sự ủng hộ, nhất là về các vũ khí, của các nhà truyền giáo người Pháp (đặc biệt là sự giúp đỡ của ông Pigneau de Béhaine) đồng thời lúc đó vua Quang Trung đã mất, anh em nhà Tây Sơn cũng đang trong cảnh "cốt nhục tương tàn", Nguyễn Phúc Ánh đã đánh bại nhà Tây Sơn, chiếm hẳn đất phía bắc của vua Lê, thống nhất quốc gia và mở đầu cho triều đại nhà Nguyễn.

Các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802 - 1819), Minh Mạng (1820 - 1840) đến Thiệu Trị (1841 - 1847), Tự Đức (1848 - 1883) kế tiếp nhau xây dựng và củng cố nền thống trị, bảo vệ chế độ phong kiến trong bối cảnh khủng hoảng suy vong. Tuy nhiên, trong hơn nửa thế kỷ tồn tại dưới triều Nguyễn, xã hội Việt Nam hầu như không phát triển lên được theo chiều hướng tiến bộ của thời đại, mâu thuẫn xã hội sâu sắc làm bùng lên hàng loạt cuộc khởi nghĩa lớn của nông dân, của các dân tộc ít người và cuối cùng trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Lịch sử triều Nguyễn có thể tạm chia làm hai giai đoạn chính. Giai đoạn thứ nhất (1802 - 1884): triều Nguyễn tồn tại chủ yếu với tư cách là một vương triều độc lập. Giai đoạn này thuộc khung lịch sử trung đại Việt Nam. Giai đoạn thứ hai (1885 - 1945) triều Nguyễn tồn tại chủ yếu với tư cách một vương triều tay sai của thực dân Pháp. Giai đoạn này thuộc khung lịch sử cận đại Việt Nam.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 8-1-2012 05:26 PM
Thế phả triều Nguyễn (1802 - 1945)

143 năm vương triều Nguyễn (1802 - 1945)

Triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã tồn tại trong suốt hơn 143 năm (1802-1845) với 13 đời vua Nguyễn. Thông thường các vua Nguyễn sau khi mất, bài vị được đưa vào thờ tại Thế Miếu, có miếu hiệu ứng với tên của các đỉnh đồng đúc dưới thời Minh Mạng (1835), trừ các vua bị phế truất và các vua bị Pháp đày ra khỏi nước. Riêng vua Dục Đức (Phế Đế) có miếu hiệu Cung Tôn Huệ Hoàng đế là do con trai là vua Thành Thái truy phong, nhưng bài vị không được đưa vào thờ tại Thế Miếu. Các vị vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân vào năm 1959 đã được Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc làm lễ và đưa bài vị vào thờ tại Thế Miếu.

Dưới đây là những ghi chép vắn tắt về 13 vua Nguyễn:

1.Vua Gia Long (1802 - 1819)


Vua Gia Long tên là Nguyễn Phúc Ánh (Anh), ngoài ra còn có tên là Chủng và Noãn, con thứ 3 của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và bà Nguyễn Thị Hoàn. Nguyễn Phúc Ánh sinh ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (8 - 2 - 1762).

Năm 1775, lợi dụng sự suy sụp của triều đình chúa Nguyễn do cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, quân Trịnh vào chiếm Phú Xuân khiến Nguyễn Phúc Ánh phải trốn vào Nam. Từ đó ông bôn tẩu gian nan, tìm đủ mọi cách chiêu tập lực lượng để giành lại vương quyền cho họ Nguyễn.

Năm 1792, vua Quang Trung mất, quân Tây Sơn ngày càng yếu và quân Nguyễn ngày càng lớn mạnh. Năm 1801, quân Nguyễn do Nguyễn Phúc Ánh chỉ huy đã đánh chiếm Quy Nhơn và chiếm Thuận Hóa.

Ngày 1 - 2 - 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu là Gia Long, chính thức lập nên triều đại nhà Nguyễn. Tháng 3 năm 1804, vua Gia Long đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam.

Gia Long làm vua được 18 năm (1802 - 1819), mất vào ngày 19 tháng Chạp năm Kỷ Mão (ngày 3 tháng 2 năm 1820), hưởng thọ 58 tuổi. Sau khi mất, bài vị vua Gia Long được đưa vào thờ ở Thế Miếu và có miếu hiệu là Thế Tổ Cao hoàng đế.  

Vua Gia Long có 31 người con (13 con trai và 18 con gái).

2. Vua Minh Mạng (1820 - 1840)


Vua Minh Mạng tên là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên là Kiểu, con thứ 4 của vua Gia Long và bà Nguyễn Thị Đang (Thuận Thiên Cao hoàng hậu). Ông sinh ngày 23 tháng 4 năm Tân Hợi (25 - 5 - 1791) tại làng Tân Lộc, tỉnh Gia Định.

Vua Minh Mạng lên ngôi vào tháng giêng năm Canh Thìn (1820), làm vua được 21 năm (1820 - 1840). Trong thời gian ở ngôi, nhà vua đã có nhiều cải cách quan trọng: cho bỏ các dinh và trấn mà thành lập các tỉnh (cả nước được chia làm 31 tỉnh); định lại quan chế, đặt mức lương bổng của các quan tùy theo ngạch trật; thống nhất việc đo lường và thống nhất y phục; khuyến khích dân khai hoang lập ấp, sửa sang hệ thống giao thông, lập nhà Dưỡng tế ở các tỉnh để giúp đỡ những người nghèo khổ, tàn tật, già cả không nơi nương tựa...

Đề cao nho học và khuyến khích nhân tài ra giúp nước là một trong những việc rất được vua Minh Mạng chú trọng. Nhà vua cho lập Quốc Tử Giám, mở thêm kỳ thi Hội và thi Đình (thời Gia Long chỉ có thi Hương).

Lãnh thổ Việt Nam dưới thời Minh Mạng được mở rộng nhất trong lịch sử và Việt Nam thực sự trở thành một quốc gia hùng mạnh. Vì vậy vào năm 1838, vua Minh Mạng cho đổi tên nước ta là Đại Nam.

Vua Minh Mạng mất ngày 28 tháng Chạp năm Canh Tý (20 - 1 - 1841), hưởng thọ được 50 tuổi. Sau khi mất, bài vị vua Minh Mạng được đưa vào thờ ở Thế Miếu với miếu hiệu Thánh Tổ Nhân hoàng đế.

Vua Minh Mạng có 142 người con (74 con trai, 68 con gái).

3. Vua Thiệu Trị (1841 - 1847)  

Vua Thiệu Trị có tên là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra còn có tên là Tuyền và Dung. Ông là con trưởng của vua Minh Mạng và bà Hồ Thị Hoa (Tá Thiên Nhân hoàng hậu), sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão (16 - 6 - 1807) tại ấp Xuân Lộc, phía Đông kinh Thành Huế.

Vua Thiệu Trị lên ngôi ngày 20 tháng giêng năm Tân Sửu (11 - 2 - 1841), làm vua được 7 năm (1841 - 1847), mất ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi (4 - 10 - 1847), hưởng thọ 41 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có miếu hiệu Hiến Tổ Chương hoàng đế.

Vua Thiệu Trị có 64 người con (29 trai, 35 gái).

4. Vua Tự Đức (1848 - 1883)


Vua Tự Đức có tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, ngoài ra còn có tên là Thì. Ông là con thứ 2 của vua Thiệu Trị và bà Phạm Thị Hằng (hoàng hậu Từ Dũ), sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (22 - 9 - 1829).

Vua Tự Đức lên ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), làm vua được 36 năm (1847 - 1883), mất ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (19 - 7 - 1883), hưởng thọ 55 tuổi. Sau khi mất, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có miếu hiệu Dực Tông Anh hoàng đế.

Vua Tự Đức không con, ông nhận 3 người cháu gọi bằng chú làm con nuôi là: Nguyễn Phúc Ưng Chân (sau này là vua Dục Đức); Nguyễn Phúc Ưng Đường (sau này là vua Đồng Khánh); Nguyễn Phúc Ưng Đăng (sau này là vua Kiến Phúc).

5. Vua Dục Đức (1883, 3 ngày)

Vua Dục Đức tên là Nguyễn Phúc Ưng Ái, là con thứ 2 của Thụy Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm Quý Sửu (11 - 2 - 1853). Năm 1869, lúc 17 tuổi được vua Tự Đức chọn làm con nuôi và đổi tên là Ưng Chân, cho xây Dục Đức Đường để ở và giao cho Hoàng Quý Phi Vũ Thị Duyên (sau này là Lệ Thiên Anh hoàng hậu) trông coi, dạy bảo.

Vua Tự Đức mất để di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân, nhưng trong di chiếu có đoạn viết: "... Nhưng vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây".

Lúc làm lễ lên ngôi, Ưng Chân đã cho đọc lướt đoạn này nên 3 ngày sau hai Phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã phế bỏ Dục Đức theo lệnh của Từ Dũ thái hoàng thái hậu (mẹ vua Tự Đức) và Lệ Thiên Anh hoàng hậu (vợ vua Tự Đức).  

Làm vua được 3 ngày chưa kịp đặt niên hiệu (Dục Đức chỉ là tên gọi nơi ở) thì Ưng Chân đã bị phế bỏ và giam vào ngục cho đến khi mất. Ông mất ngày 6 tháng 9 năm Giáp Thân (24 - 10 - 1884), thọ 32 tuổi.

Đến thời vua Thành Thái (con vua Dục Đức) vào năm 1892 đã truy tôn cha mình là Cung Tôn Huệ hoàng đế.

Vua Dục Đức có 19 con (11 con trai và 8 con gái).

6. Vua Hiệp Hòa (1883, 4 tháng)

Vua Hiệp Hòa tên là Nguyễn Phúc Hồng Dật, còn có tên là Thăng, con thứ 29 của vua Thiệu Trị và bà Đoan Tần Trương Thị Thuận, sinh ngày 24 tháng 9 năm Đinh Mùi (1 - 1 - 1847).

Vua Dục Đức bị phế bỏ, Hồng Dật được đưa lên ngai vàng vào ngày 30 tháng 7 năm 1883, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.

Do có ý thân Pháp, vua Hiệp Hòa lên ngôi chưa được bao lâu thì bị triều đình Huế phế bỏ và buộc uống thuốc độc tự vẫn vào ngày 30 tháng 10 năm Quý Mùi (29 - 11 - 1883).

Dưới thời Thành Thái vào năm 1891, ông được truy phong là Văn Lãng Quận vương.

Vua Hiệp Hòa có 17 người con (11 trai, 6 gái).

7. Vua Kiến Phúc (1883 - 1884)

Vua Kiến Phúc tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, con thứ 3 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh. Ưng Đăng sinh ngày 2 tháng Giêng năm Kỷ Tỵ (12 - 2 - 1869). Năm 1870 lúc được 2 tuổi, Ưng Đăng được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Học Phi Nguyễn Thị Hương trông coi, dạy bảo.

Sau khi vua Hiệp Hòa bị phế truất, vào ngày 2 - 12 - 1883, Ưng Đăng (15 tuổi) được đưa lên ngôi vua và đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc ở ngôi được 8 tháng thì mất vào ngày 10 tháng 6 năm Giáp Thân (31 - 7 - 1884) lúc mới 16 tuổi.

Sau khi mất, bài vị vua Kiến Phúc được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có miếu hiệu là Giản Tông Nghị hoàng đế.

8. Vua Hàm Nghi (1884 - 1885)


Vua Hàm Nghi tên là Nguyễn Phúc Ưng Lịch, còn có tên là Minh. Ông là con thứ 5 của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, sinh ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi (3 - 8 - 1871).

Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 12 tháng 6 năm Giáp Thân (2 - 8 - 1884) Ưng Lịch được đưa lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi lúc mới 14 tuổi.

Binh biến năm Ất Dậu (5 - 7 - 1885) xảy ra, vua Hàm Nghi cùng quần thần ra Tân Sở, phát hịch Cần Vương, phát động phong trào kháng Pháp trên toàn quốc. Quân Pháp nhiều lần kêu gọi nhà vua quay về nhưng thất bại. Ngày 30 tháng 10 năm 1888, tên Trương Quang Ngọc (người hầu của vua) bị Pháp mua chuộc nên đem người bắt vua Hàm Nghi dâng cho Pháp.

Vua Hàm Nghi bị quân Pháp bắt đi đày ở Algérie vào ngày 13 tháng 1 năm 1889. Nhà vua sống ở đó cho đến lúc mất (4 - 1 - 1943), thọ 72 tuổi.

Vua Hàm Nghi có 3 người con (1 trai, 2 gái).

9. Vua Đồng Khánh (1886 - 1888)


Vua Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Thị, còn có tên là Đường và Biện. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, sinh ngày 12 tháng giêng năm Giáp Tý (19 - 2 - 1864). Năm 1865 lúc được 2 tuổi, Ưng Thị được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo.

Sau binh biến năm 1885, vua Hàm Nghi bỏ ngai vàng ra Tân Sở, triều đình Huế thương lượng với Pháp đưa Ưng Đường lên ngôi, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.

Ở ngôi được 3 năm, vua Đồng Khánh bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tí (28 - 1 - 1889) lúc được 25 tuổi.

Sau khi mất, bài vị vua Đồng Khánh được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần hoàng đế.

Vua Đồng Khánh có 10 người con (6 trai, 4 gái).  

10. Vua Thành Thái (1889 - 1907)


Vua Thành Thái tên là Nguyễn Phúc Bửu Lân, còn có tên là Chiêu, con thứ 7 của vua Dục Đức và bà Từ Minh hoàng hậu (Phan Thị Điểu), sinh ngày 22 tháng 2 năm Kỷ Mão (14 - 3 - 1879).

Vua Đồng Khánh mất, triều đình Huế được sự đồng ý của Pháp đã đưa Bửu Lân lên ngôi vào ngày 1 tháng 2 năm 1889 với niên hiệu là Thành Thái, lúc mới 10 tuổi.

Vua Thành Thái là người có tư tưởng tiến bộ (cắt tóc ngắn, lái ô tô, xuồng máy) và có tư tưởng chống Pháp. Vì vậy, sau 19 năm ở ngôi, dưới áp lực của Pháp, triều đình Huế lấy cớ nhà vua mắc bệnh tâm thần và buộc phải thoái vị. Sau đó, ông bị Pháp đưa đi an trí ở Vũng Tàu. Năm 1916, ông bị Pháp đem đi đày ở đảo Réunion (Châu Phi).

Năm 1947, ông được trở về sống ở Sài Gòn cho đến khi mất. Ông mất ngày 9 tháng 3 năm 1955, thọ 77 tuổi.

Vua Thành Thái có 45 người con (19 trai, 26 gái).

11. Vua Duy Tân (1907 - 1916)  


Vua Duy Tân tên là Nguyễn Phúc Vĩnh San, còn có tên là Hoảng, con thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Định, sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý (19 - 9 - 1900).

Năm 1907, vua Thành Thái thoái vị, triều đình Huế đưa hoàng tử Vĩnh San lên ngôi, lấy niên hiệu là Duy Tân lúc mới được 8 tuổi.

Vua Duy Tân là vị vua lên ngôi nhỏ tuổi nhất trong 13 vua Nguyễn. Tuy nhiên nhà vua lại là người chững chạc, có khí phách của một bậc đế vương. Cũng như cha mình, vua Duy Tân là người có tư tưởng chống Pháp. Nhà vua đã cùng với Thái Phiên, Trần Cao Vân... vạch định cuộc nổi dậy chống Pháp vào ngày 3 tháng 5 năm 1916. Nhưng âm mưu bại lộ, nhà vua cùng Thái Phiên và Trần Cao Vân trốn ra khỏi kinh thành. 3 ngày sau, vua Duy Tân bị Pháp bắt và bị kết tội rồi đày sang đảo Réunion.

Nhà vua mất ngày 21 tháng 11 năm Ất Dậu (25 - 12 - 1945) trong một tai nạn máy bay khi được 46 tuổi. Nhà vua được an táng tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo M’Baiki, thuộc cộng hòa Trung Phi. Ngày 6 tháng 4 năm 1987, nhà vua được cải táng trong khuôn viên của An Lăng (Lăng Dục Đức).

Vua Duy Tân có 5 người con (3 trai, 2 gái).

12. Vua Khải Định (1916 - 1925)


Vua Khải Định tên là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có tên là Tuấn, con trưởng của vua Đồng Khánh và bà Dương Thị Thục (Hựu Thiên Thuần hoàng hậu), sinh ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu (8 - 10 - 1885).

Vua Đồng Khánh mất, hoàng tử Bửu Đảo còn ít tuổi (4 tuổi) nên không được chọn làm vua. Đến năm 1916, sau khi vua Duy Tân bị Pháp đưa đi đày ở Réunion, triều đình Huế và người Pháp mới lập Bửu Đảo lên ngôi vua vào ngày 18 - 5 - 1916, lấy niên hiệu là Khải Định.

Vua Khải Định ở ngôi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu (6 - 11 - 1925), thọ 41 tuổi.

Sau khi chết, bài vị nhà vua được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có miếu hiệu là Hoằng Tông Tuyên hoàng đế.

Vua Khải Định chỉ có một con trai là hoàng tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại).

13. Vua Bảo Đại (1926 - 1945)


Vua Bảo Đại tên là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, ngoài ra còn có tên là Thiển. Ông là con độc nhất của vua Khải Định và bà Hoàng Thị Cúc (bà Từ Cung), sinh ngày 23 tháng 9 năm Quý Sửu (22 - 10 - 1913).

Hoàng tử Vĩnh Thụy được đưa sang Pháp học lúc mới 10 tuổi, đến khi vua Khải Định qua đời, ông về Huế lên ngôi vua vào ngày 8 tháng 1 năm 1926, lấy niên hiệu Bảo Đại, đây là vị vua cuối cùng của triều Nguyễn. Sau đó, ông lại tiếp tục sang Pháp học cho đến 8 - 9 - 1932 mới trở về Huế.

Vua Bảo Đại ở ngôi cho đến 30 tháng 8 năm 1945 thì làm lễ thoái vị tại Ngọ Môn, giao chính quyền lại cho Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Chế độ phong kiến chấm dứt, Bảo Đại sang Pháp và sống hết cuộc đời của vị vua lưu vong ở đó. Ông mất ngày 1 tháng 8 năm 1997 tại Pháp.

Vua Bảo Đại có 5 người con (2 trai, 3 gái).  
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 8-1-2012 07:26 PM
Thời Pháp thuộc (1858 - 1945)

Năm 1858, hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm chiếm Sài Gòn. Năm 1862, Tự Đức ký hiệp ước nhượng Sài Gòn và ba tỉnh lân cận cho Pháp. Năm 1869, Pháp chiếm nốt ba tỉnh kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thực dân Cochinchine (Nam Kỳ). Đến năm 1885, Pháp xâm chiếm xong những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở miền Bắc. Pháp tuyên bố là họ sẽ "bảo hộ" Bắc kỳ và Trung kỳ (nơi họ tiếp tục duy trì các hoàng đế bù nhìn nhà Nguyễn).

Trong suốt thời kỳ từ khi Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào chống Pháp do vua, quan, hoặc nông dân tổ chức, nhưng tất cả đều bị thất bại.

Năm 1927, những người Việt cấp tiến đã thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng. Đến năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc Dân Đảng bị suy yếu nghiêm trọng. Cùng năm, những người Việt theo chủ nghĩa Marx-Lenin thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, nhưng cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt trận bình dân trong chính quyền Pháp.

Năm 1940, Nhật Bản tấn công Đông Dương và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp để Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương. Thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật lật đổ Pháp trên toàn bộ Đông Dương. Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính quyền Bảo Đại bù nhìn.

Việt Minh (viết tắt của Việt Nam độc lập Đồng minh hội) do Hồ Chí Minh thành lập năm 1941 với vai trò một mặt trận thống nhất dân tộc để giành độc lập. Tổ chức này do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, thu hút được sự tham gia và ủng hộ của nhiều người Việt Nam và ngày càng lớn mạnh. Tháng 12 năm 1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, lực lượng vũ trang của Việt Minh và tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập tại Cao Bằng.

Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, người Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này.

Việt Nam tuyên bố độc lập - Pháp quay trở lại Đông Dương

Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, lực lượng Việt Minh đã tổ chức thành công cuộc Cách mạng tháng Tám. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam thống nhất và độc lập với tên gọi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Tuy nhiên, theo hiệp ước Potsdam, lực lượng Đồng Minh gồm quân Anh và quân Trung Quốc vào Việt Nam để giải giáp vũ khí Nhật. Cả Anh và Trung Hoa Dân Quốc đều muốn hạ bệ chính phủ của Việt Nam dân chủ cộng hòa, Anh ủng hộ sự trở lại của Pháp tại Đông Dương, còn Trung Hoa muốn đưa lực lượng thân Trung Quốc lên nắm quyền.

Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch tiến vào với danh nghĩa giải giáp quân Nhật. Đội quân ô hợp này đốt phá cướp bóc hết sức tàn hại.

Ở miền Nam, chỉ 4 ngày sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập, phái bộ quân sự Anh đã có mặt ở Sài Gòn, theo sau là liên quân Anh - Pháp. Quân Anh trên danh nghĩa là theo lệnh Đồng Minh vào giám sát quân Nhật đầu hàng nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho quân Pháp vào Nam Bộ. Chính phủ lâm thời của Cộng hòa Pháp muốn khôi phục lãnh thổ thuộc địa Đông Dương. Ngày 19, Pháp tuyên bố sẽ lập chính quyền tại miền Nam. Ngày 23, với sự giúp đỡ của quân Anh, quân Pháp nổ súng chiếm quyền kiểm soát Sài Gòn (ngày này sau được Việt Nam gọi là ngày Nam Bộ kháng chiến). Nước Việt Nam vừa giành được độc lập, lại đứng trước nạn ngoại xâm.

Ngày 9 tháng 10, tướng Pháp Leclerc đến Sài Gòn, theo ông là lực lượng gồm 40.000 quân Pháp để chiếm giữ miền Nam Việt Nam và Campuchia. Từ cuối tháng 10, quân Pháp bắt đầu đẩy mạnh kế hoạch phá vây, mở rộng đánh chiếm ra vùng xung quanh Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ.

Từ cuối tháng 9 năm 1945, các đoàn quân "Nam tiến" của Vệ quốc đoàn (quân đội của Việt Nam dân chủ cộng hòa) bắt đầu lên đường vào Nam chống Pháp. Các tướng lĩnh quan trọng như Nguyễn Bình, Nguyễn Sơn... được cấp tốc cử vào. Trong hai tháng cuối năm 1945 và tháng 1 năm 1946, lực lượng Việt Minh tại các tỉnh Nam Bộ đã chiến đấu ngăn chặn làm chậm bước tiến của quân Pháp. Tuy nhiên, do lực lượng chênh lệch, sau một thời gian, các lực lượng này đều phải rút ra những căn cứ đầm lầy và rừng núi, xây dựng chiến khu để bảo tồn lực lượng cho kháng chiến lâu dài.

Trong suốt năm 1946, mặc dù hai bên cùng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh, chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa cố gắng hết mức thương lượng với Pháp để cứu vãn hòa bình và đẩy lui thời điểm nổ ra cuộc chiến tranh.

Căng thẳng dẫn đến bùng nổ

Xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại Hải Phòng. Đầu tháng 11 năm 1946, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan tại cảng Hải Phòng. Quốc hội Việt Nam phản đối hành động này và khẳng định chủ quyền của Việt Nam trong việc kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Ngày 20 tháng 11, hải quân Pháp bắt giữ một thuyền buồm Trung Quốc chở xăng được cho là để giao cho Việt Minh. Trong khi tàu được kéo vào bờ, du kích địa phương trên bờ đã bắn vào quân Pháp. Quân Pháp bắn trả và chiến sự nhanh chóng lan ra toàn thành phố. Hai bên nhanh chóng đạt được ngừng bắn, nhưng hai ngày sau, Tướng Jean-Étienne Valluy, tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, lệnh cho quân Pháp chiếm toàn quyền kiểm soát thành phố. Ngày 23 tháng 11, Đại tá Dèbes gửi tối hậu thư yêu cầu người Việt ra khỏi khu phố Tàu của Hải Phòng và hạ vũ khí. Khi không có phản hồi, Dèbes lệnh cho tàu chiến Pháp bắn phá thành phố. Sau đó, khoảng 2000 lính Pháp tràn vào thành phố trong khi pháo tiếp tục bắn phá vùng ngoại ô. Quân Pháp gặp phải hỏa lực mạnh của lực lượng Việt Minh bảo vệ thành phố. Chiến sự kéo dài cho đến khi người lính Việt Minh cuối cùng rút khỏi chiến trường vào ngày 28 tháng 11.

Sau sự kiện Hải Phòng, kế hoạch phòng thủ Hà Nội bắt đầu được chuẩn bị để chính phủ Việt Nam có thời gian sơ tán về các vùng núi lân cận. Một số ít lực lượng chính phủ đóng tại Bắc Bộ phủ và một doanh trại gần đó. Còn phần lớn lực lượng quân sự của Việt Nam trong vùng đóng tại ngoại ô của thủ đô. Bù lại, trong nội thành có gần 10000 du kích và tự vệ. Bao gồm những thanh niên đầy nhiệt tình ủng hộ cách mạng, các lực lượng này được trang bị chủ yếu bằng vũ khí tự tạo. Đối địch với họ là vài nghìn binh sĩ Lê dương Pháp, chủ yếu đóng trong thành Hà Nội, phần còn lại đóng xen kẽ tại 45 điểm trong thành phố như phủ Toàn quyền, ga Hà Nội, nhà băng Đông Dương, nhà thương Đồn Thủy, cầu Long Biên, và sân bay Gia Lâm.

Các cơ quan của chính phủ Việt Nam bí mật chuyển dần ra các địa điểm đã được chuẩn bị trước ở bên ngoài thành phố. Trong thành phố, quân và dân Hà Nội bắt đầu xây dựng các chiến lũy phòng thủ trên đường phố, quân Pháp cũng củng cố các vị trí phòng thủ của mình. Ngày 6 tháng 12, Hồ Chí Minh kêu gọi quân Pháp rút về các vị trí họ đã giữ từ trước ngày 20 tháng 11, nhưng ông không nhận được phản hồi. Trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp vào hôm sau, Hồ Chủ tịch khẳng định rằng chính phủ Việt Nam hy vọng tránh được chiến tranh - cái sẽ gây đau khổ lớn cho cả hai nước. "Nhưng nếu chúng tôi phải đối mặt với chiến tranh", ông nói, "chúng tôi sẽ chiến đấu chứ không từ bỏ quyền tự do của mình".

Ngày 12 tháng 12, León Brum, thủ tướng mới của Pháp tuyên bố ý định giải quyết xung đột ở Đông Dương theo cách sẽ trao lại độc lập cho Việt Nam. Ba ngày sau, Hồ Chí Minh đưa Sainteny một bức thông điệp gửi Brum với các gợi ý cụ thể về cách giải quyết xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Sài Gòn, yêu cầu chuyển tiếp tới Paris.

Trong khi chính phủ Pháp đang do dự về yêu cầu của Cao uỷ Pháp d'Argenlieu về việc tăng quân và lập tức hành động quân sự chống lại người Việt, Valluy, người có chung quyết tâm với d'Argenlieu về việc giữ sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương, đã quyết định rằng cần phải khiêu khích Hà Nội nhằm tạo xung đột và đưa Paris vào sự đã rồi. Ngày 16 tháng 12, ông lệnh cho tướng Morlière phá các chướng ngại vật mà Việt Minh dựng trong thành phố. Khi bức điện của Hồ Chí Minh gửi Brum vào đến Sài Gòn, Vallue viết thêm bình luận của mình, cảnh báo rằng sẽ nguy hiểm nếu trì hoãn các hành động quân sự cho đến năm sau. Đến ngày 19, bức điện mới đến được Paris, khi đó đã quá muộn.

Ngày 17 tháng 12, quân Pháp với xe tăng yểm trợ vào các đường phố Hà Nội để phá các công sự mà Việt Minh dựng trong những ngày trước đó, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng Bún (Hà Nội), rồi dàn quân ra chốt giữ từ cổng thành Hà Nội đến tận cầu Long Biên và bao vây gây sức ép đồn Công an quận 2 của Hà Nội. Người Việt không phản ứng. Hôm sau, Pháp ra một tối hậu thư đòi chấm dứt dựng chướng ngại vật trên phố. Chiều hôm đó, Pháp ra tối hậu thư thứ hai tuyên bố rằng từ ngày 20, quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội. Đáp lại, tối hôm đó, các lực lượng Việt Minh bắt đầu chặn mọi ngả đường từ ngoại ô vào thành phố. Sáng hôm sau (ngày 19 tháng 12), Pháp ra tối hậu thư thứ ba, đòi chính phủ Việt Nam đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố.

Đối với người Việt, tình hình không khác với sự kiện Hải Phòng hồi tháng trước, khi Đại tá Dèbes cũng đã ra các lệnh tương tự trước khi bắn phá thành phố. Sáng ngày 18 tháng 12, Hồ Chủ tịch ra lệnh chuẩn bị cho các cuộc tấn công quân Pháp vào hôm sau. Đồng thời, sợ rằng bức điện gửi thủ tướng Brum có thể chưa đến nơi, ông gửi một bức điện thẳng tới Paris. Sáng 19, để thể hiện thiện chí và cố gắng kéo dài hòa bình, Hồ Chủ tịch viết một bức thư ngắn và cử cố vấn ngoại giao Hoàng Minh Giám tới gặp Sainteny để đàm phán "tìm giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại". Sau khi được tin Sainteny từ chối gặp Hoàng Minh Giám, Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Ðảng mở rộng tại làng Vạn Phúc, Hà Tây, và tuyên bố rằng trong tình hình hiện tại, không thể nhân nhượng thêm được nữa. Hội nghị duyệt lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến mà Hồ Chủ tịch đã viết, thông qua văn kiện "Toàn dân kháng chiến" do Tổng Bí thư Trường Chinh dự thảo. Thời điểm bắt đầu nổ súng được quyết định là 8 giờ tối cùng ngày. Chiến tranh Đông Dương bắt đầu.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 8-1-2012 08:22 PM
1858: Thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam tại bán đảo Sơn Trà - Đà Nẵng


Kế hoạch xâm lược Việt Nam đã được thông qua từ tháng 4 - 1857 và đến khi cuộc can thiệp của Pháp ở vùng biển Trung Hoa tạm ngưng bởi hiệp ước Thiên Tân lần thứ nhất ngày 27 - 6 - 1858, hạm đội Pháp lập tức quay mũi về phía Đà Nẵng.

Kế hoạch xâm lược Việt Nam đã được thông qua từ tháng 4 - 1857 và đến khi cuộc can thiệp của Pháp ở vùng biển Trung Hoa tạm ngưng bởi hiệp ước Thiên Tân lần thứ nhất ngày 27 - 6 - 1858, hạm đội Pháp lập tức quay mũi về phía Đà Nẵng.

Người chỉ huy hạm đội Pháp là phó đô đốc Giơnuiy (R.de Genouily), đã từng chinh chiến nhiều năm trên chiến trường Nga và Trung Quốc. R.de Genouily có trong tay 14 tàu chiến và 3000 quân. Ngoài ra trên mặt trận Đà Nẵng còn có 500 quân Tây Ban Nha do đại tá Landarôt (Lanzarotte) chỉ huy, mà một số sách lịch sử đã gọi là "liên quân Pháp - Tây Ban Nha". Quân Tây Ban Nha có mặt trong cuộc chiến tranh xâm lược vì họ cũng bị kích động "trả thù" cho các giáo sĩ dòng Đa Minh của họ bị Tự Đức sát hại.

Rạng sáng 1 - 9 - 1858, không chờ quân triều đình trả lời tối hậu thư, quân Pháp đã nổ súng vào bán đảo Sơn Trà. Quân triều đình bắn trả, nhưng do vũ khí lạc hậu và không được luyện tập thường xuyên nên kém hiệu quả, không thể ngăn chặn được Pháp đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà. Vũ khí hiện đại đã tạo cho liên quân Pháp - Tây Ban Nha lợi thế ngay từ đầu, các đồn An Hải và Điện Hải (Trà Sơn) bị vỡ, quân triều đình phải lui về Hòa Vang.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 8-1-2012 09:09 PM
Khởi nghĩa và phong trào

Phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh bình định của thực dân Pháp:

Phong trào Cần Vương chống Pháp (1885 - 1896):

1. Sự bùng nổ của phong trào. Đối với thực dân Pháp, việc ký Hiệp ước Patơnôt ngày 6 - 6 - 1884 đã chấm dứt giai đoạn xâm lược ngót 30 năm. Nhưng cuộc kháng chiến của nhân dân ta vẫn còn âm ỉ trong hoàn cảnh mới:

* Sự bùng nổ của phong trào:

Đối với thực dân Pháp, việc ký hiệp ước Patơnôt ngày 6 - 6 - 1884 đã chấm dứt giai đoạn xâm lược ngót 30 năm. Nhưng cuộc kháng chiến của nhân dân ta vẫn còn âm ỉ trong hoàn cảnh mới. Vả lại, thực dân Pháp mới chỉ xác lập được quyền lực ở trung ương, còn phần lớn các địa phương ở xứ Bắc và Trung Kỳ chúng chưa thể nắm được. Vì thế, thực dân Pháp còn phải trải qua giai đoạn 12 năm mà chúng gọi là giai đoạn bình định, đàn áp các phong trào vũ trang cuối cùng.

Trong triều, phe chủ chiến dù khó khăn, vẫn không nản chí. Vấn đề trước mắt họ là phải tìm ra một nhân vật mà phái chủ chiến có thể khống chế được để đưa lên ngôi.

Vua Hàm Nghi (húy là Ưng Lịch), được đưa lên ngôi tháng 8 - 1884, sớm tỏ ra có khí phách ngay trước mặt tên Trú sứ Rây na (Rheinart) và các sĩ quan Pháp có mặt trong buổi lễ đăng quang của mình tại kinh thành Huế.

Đại biểu cho phe chủ chiến trong triều là Phan Đình Phùng, Ông Ích Khiêm, Trần Xuân Soạn... đứng đầu là Tôn Thất Thuyết (1835 - 1913). Mặc dù có những điểm bất đồng trong chuyện phế lập, nhưng phái chủ chiến và đa số hoàng tộc đã nhanh chóng thông qua kế hoạch táo bạo đánh úp quân Pháp ở đồn Mang Cá và toàn bộ khu vực kinh thành của Tôn Thất Thuyết.

Lực lượng quân Pháp ở Huế có tới 2300 tên do tướng Đờ Cuốc xy (De Courcy) chỉ huy nhằm tiêu diệt lực lượng chủ chiến của Tôn Thất Thuyết.

Nhưng phe chủ chiến đã nhanh tay hơn. Đêm 4 rạng 5 - 7 - 1885, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn nổ súng đánh úp đồn Mang Cá. Quân Pháp mất 4 sĩ quan và trên 60 lính. Nhưng do sự chuẩn bị chưa đầy đủ nên khi quân Pháp phản công, quân ta bị động, thiệt hại rất lớn. Tôn Thất Thuyết phải đưa xa giá vua Hàm Nghi rời kinh thành, đi ra Quảng Trị mà từ lâu ông đã cho chuẩn bị cơ sở.

Khi tới Tân Sở (Quảng Trị), quân sĩ chỉ còn 500 người. Ngày 13 - 7 - 1885, Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương lần thứ nhất, nêu lại sự kiện "sự biến kinh thành", hô hào dân chúng phò vua cứu nước. Ngày 19 - 9 - 1885, khi Pháp vội vã đưa Đồng Khánh lên làm vua bù nhìn ở Huế, Hàm Nghi xuống chiếu lần thứ hai, bóc trần âm mưu của Pháp, cảnh cáo thế lực đầu hàng của Đồng Khánh và nêu cao tính chính thống, chính nghĩa của mình.

Quân Pháp đánh chiếm Quảng Bình tháng 7 - 1885, Nghệ An tháng 8 - 1885, Quảng Nam tháng 12 - 1885 để bao vây chặt lực lượng chủ chiến. Mặt khác, chúng ra sức khủng bố, mua chuộc những người có liên quan đến sự kiện còn ở kinh thành, tăng cường lực lượng ngụy binh, tô vẽ cho triều đình Đồng Khánh vừa dựng lên một cách vội vã.

Nhưng tất cả hành động đó của chúng không ngăn được một phong trào dân tộc võ trang đã âm ỉ sục sôi, chỉ đợi dịp nổ bùng.

* Hai giai đoạn phát triển của phong trào Cần Vương:

Giai đoạn thứ nhất (1885 - 1888):

Lúc đầu, "triều đình Hàm Nghi" với sự phò tá của 2 người con Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đàm và Tôn Thất Thiệp, Đề đốc Lê Trực, Tri phủ Nguyễn Phạm Tuân di chuyển và chiến đấu ở vùng rừng núi Quảng Bình; sau phải vượt Trường Sơn, qua đất Hạ Lào về vùng sơn phòng Ấu Sơn (Hà Tĩnh). Đây là trang sử vẻ vang hiếm có của một ông vua yêu nước khi dòng họ mình nói chung đã hàng giặc. Để chiến đấu lâu dài, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn quyết định vượt vòng vây đi xây dựng lực lượng kháng chiến ở Thanh Hoá, rồi qua Trung Quốc.

Tháng 12 - 1886, theo lệnh toàn quyền Pôn Be (P. Bert), Đồng Khánh xuống 1 dụ kêu hàng, nhưng không một ai trong "triều đình Hàm Nghi" chịu buông súng.

Ngược lại, chưa bao giờ cả nước ta lại có nhiều cuộc khởi nghĩa đến như thế dưới ngọn cờ Cần Vương. Trong giai đoạn đầu này, phong trào Cần Vương trải rộng từ địa bàn trung tâm ra Bắc và Nam Kỳ. Ở Trung Kỳ, trước hết là Quảng Bình với Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân; Quảng Nam là Trần Quang Dự, Nguyễn Hàm, Nguyễn Duy Hiệu; Quảng Ngãi là Lê Trung Đình; Bình Định là Mai Xuân Thưởng...

Bắc Kỳ cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa quan trọng như Đốc Tít ở Đông Triều, Cai Kinh ở Bắc Giang, Nguyễn Quang Bích ở Tây Bắc... Đặc biệt, xứ Bắc Kỳ cũng đang hình thành những cuộc khởi nghĩa lớn, có sức chiến đấu mạnh mẽ, có tiếng vang như Tạ Hiện ở Thái Bình, Nam Định; Nguyễn Thiện Thuật ở Hưng Yên, Hải Dương; Phạm Bành, Đinh Công Tráng ở Thanh Hóa; Lê Ninh, Phan Đình Phùng ở Đức Thọ, Hương Khê (Hà Tĩnh)...

Giai đoạn thứ hai (1888- 1896):

Đêm 1 - 11 - 1888, vua Hàm Nghi bị giặc bắt do sự phản bội của Trương Quang Ngọc tại vùng núi Tuyên Hóa (Quảng Bình). Ông bị đày đi Angiêri.

Trong điều kiện ngày càng khó khăn, số lượng các cuộc khởi nghĩa có giảm bớt, nhưng lại tập trung thành những trung tâm kháng chiến lớn.

Tại Thanh Hóa, cứ điểm Ba Đình bị san phẳng sau cuộc tiến công dài ngày đầu tháng 1 - 1887 của 3000 quân Pháp. Phạm Bành, Đinh Công Tráng mở đường máu về căn cứ Mã Cao (Yên Định) theo kế hoạch đã định. Họ đã chiến đấu ở Mã Cao nhiều tháng trời, thắng nhiều trận đáng kể và chỉ rút lui khi Mã Cao bị vỡ vào mùa thu 1887.

Nhưng dưới sự lãnh đạo của Tống Duy Tân ở Vĩnh Lộc và sự trợ giúp của các thủ lĩnh người Thái là Cầm Bá Thước, người Mường là Hà Văn Mao, ngọn lửa Ba Đình lại được thổi lên, gọi là khởi nghĩa Hùng Lĩnh, kéo dài tới năm 1892.

Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật nổ ra từ năm 1885, với lối đánh du kích, biến hóa phân tán, dựa vào thiên nhiên của nghĩa quân Bãi Sậy, tuy không có những trận đánh lớn như ở Ba Đình nhưng cũng gây cho quân Pháp nhiều tổn thất.

Cuộc khởi nghĩa lớn nhất, kéo dài suốt thời Cần Vương là khởi nghĩa Hương Khê. Kế thừa cuộc khởi nghĩa đầu tiên của Lê Ninh ở Đức Thọ, Hà Tĩnh, tiến sĩ Phan Đình Phùng với sự trợ giúp của Cao Thắng, Ngô Quảng, Cao Đạt, Hà Văn Mỹ, Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch... đã đưa cuộc khởi nghĩa này lên tầm vóc lớn nhất, độc đáo nhất thời Cần Vương.

Phan Đình Phùng đã chia địa bàn 4 tỉnh: Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình thành 15 quân thứ, xây dựng những chiến tuyến cố định, mạnh (Cồn Chùa, Thượng Bồng - Hạ Bồng, Trùng Khê - Trí Khê, Vụ Quang) kết hợp lối đánh du kích với lối đánh lớn chiến tuyến cố định, cuộc khởi nghĩa Hương Khê đã gây cho quân Pháp nhiều tổn thất. Phó tướng Cao Thắng, hy sinh lúc mới 30 tuổi là người có tài chế súng theo kiểu năm 1874 của Pháp. Thực dân Pháp phải huy động một lực lượng quân sự lớn, không kể cả 3000 ngụy quân của Nguyễn Thân, vượt xa cả quân số, vũ khí khi chúng tấn công thành Ba Đình. Những chiến thắng của Phan Đình Phùng như trận đánh úp thành Hà Tĩnh, bắt sống Tri phủ Đinh Nho Quang 1892, trận Vạn Sơn tháng 3 - 1893, trận tập kích Hà Tĩnh lần thứ hai năm 1894 và trận Vụ Quang tháng 10 - 1894 được coi là một thành tựu của nghệ thuật quân sự Việt Nam lúc đó.

Phan Đình Phùng tạ thế ở núi Quạt (Hà Tĩnh) ngày 28 - 12 - 1895 để lại bài thơ Tuyệt mệnh vào loại xuất sắc trong văn học cận đại. 23 bộ tướng của ông cũng bị giặc Pháp bắt và xử tử tại Huế. Đầu năm 1896, những tiếng súng cuối cùng của phong trào Cần Vương chấm dứt.

Phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX là phong trào dân tộc, phong trào yêu nước chống chủ nghĩa thực dân xâm lược kết hợp với chống triều đình phong kiến đầu hàng đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp. Phong trào tuy thất bại nhưng đã tô thắm thêm truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 9-1-2012 01:10 PM
Phong trào đấu tranh tự vệ của nông dân Yên Thế

Trong phong trào dân tộc cuối thế kỉ XIX, song song với các cuộc đấu tranh Cần Vương còn có các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân và đổng bào miền núi. Theo bước chân xâm lược của thực dân Pháp, phong trào kháng chiến của nhân dân ta nổ ra từ đồng bằng, rồi lan dần lên trung du, miền núi: Trong hàng loạt cuộc nổi dậy của nông dân cuối thế kỉ XIX, nổi bật nhất là phong trào nông dân Yên Thế.

Trong phong trào dân tộc cuối thế kỉ XIX, song song với các cuộc đấu tranh Cần Vương còn có các cuộc đấu tranh tự phát của nông dân và đồng bào miền núi.

Theo bước chân xâm lược của thực dân Pháp, phong trào kháng chiến của nhân dân ta nổ ra từ đồng bằng, rồi lan dần lên trung du, miền núi: Trong hàng loạt cuộc nổi dậy của nông dân cuối thế kỉ XIX, nổi bật nhất là phong trào nông dân Yên Thế.

Phong trào nông dân Yên Thế (1884 - 1913)

Phong trào nông dân Yên Thế là phong trào đấu tranh vũ trang lớn và kéo dài nhất trong phong trào chống Pháp cuối thế kỉ XIX sang hơn mười năm đầu thế kỉ XX.

Căn cứ Yên Thế ở phía tây Bắc Giang, có diện tích rộng từ 40 đến 50 km2, gồm đất đồi là chủ yếu, có cây cối rậm rạp, gò bụi um tùm. Từ đây có thể đi thông sang Tam Đảo, Thái Nguyên, xuống Phúc Yên, Vĩnh Yên...

Tình hình suy sụp của nông nghiệp Việt Nam dưới thời Nguyễn đã làm cho nông dân nhiều vùng đống bằng miền Bắc buộc phải bỏ làng mạc đi nơi khác kiếm sống, trong đó có một số người đã lên Yên Thế. Từ giữa thế kỷ XIX, họ bắt đầu lập ra một số làng mạc và tổ chức làm ăn, chống lại các thế lực đe dọa từ bên ngoài tới. Khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng ra Bắc Kỳ, Yên Thế trở thành đối tượng bình định đầu tiên của chúng. Để bảo vệ cuộc sống của mình, nông dân Yên Thế đã nổi dậy chống Pháp. Phong trào bắt đầu bùng nổ từ năm 1884 và kéo dài mãi tới năm 1913.

Lãnh đạo phong trào đa số là nông dân như: Cả Dinh, Cả Huỳnh, Cai Cờ, Cả Trọng (con Đề Thám). Nhưng người có công và đóng vai trò to lớn hơn cả là Lương Văn Nắm (Đề Nắm) và tiếp đó là Hoàng Hoa Thám (Đề Thám). Trong hàng ngũ chỉ huy còn phải kể đến nhiều nhân vật khác, đặc biệt có bà Ba Cẩn (vợ ba Đề Thám).

Phương thức tác chiến của nghĩa quân là đánh du kích, lấy ít đánh nhiều. Nghĩa quân thường đánh những trận nhỏ, dựa vào địa hình hiểm trở và công sự dã chiến để đánh gần, đánh nhanh, rồi rút lui nhanh.

Tên sĩ quan thực dân Galiêni (Galliéni) trong cuốn "Ba binh đoàn ở Bắc Kì"(l) đã nhận xét: nghĩa quân Yên Thế tất cả đều can đảm, thiện chiến, tuyệt đối phục tùng người chỉ huy, xuất sắc trong cách đánh phục kích và đánh trong rừng, hiểu biết một cách kì lạ mọi thuận lợi của địa hình để vận dụng trong chiến đấu.

Nhờ chiến thuật đánh du kích mà nghĩa quân Yên Thế đã có thể duy trì được cuộc chiến đấu trong gần 80 năm ròng rã.

Phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế được bắt đầu bằng việc chống trả cuộc hành binh của quân Pháp tháng 6 - 1884 vào căn cứ Yên Thế, do tướng Bờrie đờ Litxlơ chỉ huy. Trong cuộc hành binh này, quân Pháp đã bị các đội quân của Đề Nắm, Đề Thám chặn đánh quyết liệt, buộc chúng phải rút lui.

Khởi nghĩa Yên Thế diễn ra qua bốn giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất (1884 - 1892): giai đoạn này, các toán nghĩa quân còn hoạt động riêng lẻ, chưa có sự phối hợp và chỉ huy thống nhất. Lúc bấy giờ xuất hiện hàng chục toán nghĩa quân của Đề Nắm, Bá Phức, Thống Luận, Tổng Tài, Đề Thuật, Đề Chung... Mỗi thủ lĩnh cầm đầu một toán quân và làm chủ một vùng.

Trong giai đoạn này, tuy phong trào chưa được thống nhất vào một mối, nhưng nghĩa quân vẫn hoạt động có hiệu quả. Tháng 11 - 1890, nghĩa quân Đề Thám đã giành thắng lợi trong trận chống càn ở Cao Thượng. Từ đầu đến cuối tháng 12 - 1890, ba lần quân Pháp tấn công vào Hố Chuối, nhưng cả ba lần chúng đều bị nghĩa quân Đề Thám đánh bại.

Đến cuối năm 1891, nghĩa quân đã làm chủ hầu hết vùng Yên Thế, mở rộng hoạt động sang cả Phủ Lạng Thương.

Năm 1891, quân Pháp lại tấn công Hố Chuối, nghĩa quân Đề Thám phải rút lên Đồng Hom. Tranh thủ thời cơ, chúng tiến nhanh vào vùng Nhã Nam, rồi vừa tổ chức các cuộc càn quét, vừa xây dựng các đồn bốt để bao vây nghĩa quân.

Nhằm ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét của địch, nghĩa quân đã lập một cụm cứ điểm gồm 7 hệ thống công sự ở phía bắc Yên Thế do Đề Nắm, Đề Thám, Bá Phức, Đề Tâm, Đề Tuất, Đề Chung, Tổng Tài chỉ huy. Lúc này, Đề Nắm là một trong những thủ lĩnh có uy tín nhất của nghĩa quân Yên Thế.

Tháng 3 - 1892, Pháp huy động hơn 2.200 quân bao gồm nhiều binh chủng (công binh, pháo binh...) do tướng Voarông (Voiron) chỉ huy ào ạt tấn công vào căn cứ nghĩa quân. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân sau nhiều trận kịch chiến đã phải rút khỏi căn cứ. Lực lượng nghĩa quân bị suy yếu rõ rệt. Khó khăn ngày càng nhiều, một số thủ lĩnh ra hàng, một số khác hi sinh trong chiến đấu, trong đó có Đề Nắm bị giết vào tháng 4 - 1892.

Để cứu vãn tình thế, Đề Thám đã đứng ra tổ chức lại phong trào và trở thành thủ lĩnh tối cao của nghĩa quân Yên Thế.

Giai đoạn thứ hai (1893 - 1897): trong giai đoạn này, nghĩa quân đã hai lần đình chiến với Pháp, lần thứ nhất vào tháng 10 - 1894, lần thứ hai vào tháng 12 - 1897. Sau khi Đề Nắm hi sinh, Đề Thám đảm nhận vai trò lãnh đạo phong trào Yên Thế. Ông đã khôi phục những toán quân còn sót lại ở Yên Thế và các vùng xung quanh, rồi tiếp tục hoạt động. So với giai đoạn trước, số lượng nghĩa quân tuy có giảm, nhưng địa bàn hoạt động lại mở rộng hơn.

Năm 1894, nghĩa quân trở về Yên Thế tiến hành xây dựng lại căn cứ Hố Chuối, đồng thời mở rộng hoạt động ra các vùng thuộc Bắc Ninh, Bắc Giang. Lúc này, các phong trào Bãi Sậy, Ba Đình, cũng như các đội quân kháng chiến của Đốc Ngữ, Đề Kiều đều đã tan rã, nên thực dân Pháp có điều kiện tập trung lực lượng đàn áp khởi nghĩa Yên Thế.

Về phía nghĩa quân, tuy có giành được một số thắng lợi, nhưng lực lượng cũng suy yếu rõ rệt. Trong tình hình đó, Đề Thám thấy cần phải hòa hoãn với Pháp để tranh thủ thời cơ củng cố lực lượng. Tháng 10 - 1894, cuộc thương lượng giữa nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp kết thúc. Kết quả quân Pháp phải rút khỏi khu vực Yên Thế, giao các tổng Nhã Nam, Mục Sơn, Yên Lễ, Hữu Thượng cho nghĩa quân kiểm soát. Nhưng thời gian hòa hoãn chưa được bao lâu, quân Pháp đã bội ước, lại tổ chức tấn công. Nghĩa quân Đề Thám đã chống đỡ quyết liệt. Để tránh những cuộc đụng độ lớn với địch, Đề Thám chủ trương chia nghĩa quân thành những toán nhỏ phân tán hoạt động trong rừng và ở các làng mạc. Nghĩa quân phải di chuyển hoạt động trong bốn tỉnh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Phúc Yên.

Trước sự truy lùng và vây quét ráo riết của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân ngày càng suy yếu. Để bảo toàn lực lượng, Đề Thám lại xin giảng hòa với Pháp lấn thứ hai. Thực dân Pháp lúc này cũng muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai thác thuộc địa. Vì vậy, tháng 12 - 1897, hiệp ước hòa hoãn giữa thực dân Pháp và nghĩa quân Đề Thám đã được kí kết với những điều kiện ràng buộc chặt chẽ hơn, nghĩa quân phải nộp cho Pháp tất cả vũ khí và phải bãi binh. Đề Thám bề ngoài tỏ ra là phục tùng, nhưng bên trong vẫn ngầm củng cố lực lượng.

Giai đoạn thứ ba (1898 - 1908):

Trong suốt 11 năm đình chiến, nghĩa quân Yên Thế vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu. Tại căn cứ Phồn Xương, nghĩa quân vừa sản xuất tự túc lương ăn, vừa tăng cường sắm sửa vũ khí, ra sức luyện tập. Nhờ vậy, lực lượng nghĩa quân ở Phồn Xương tuy không đông (khoảng 200 người), nhưng rất thiện chiến. Đồng thời, Đề Thám còn mở rộng quan hệ giao tiếp với các nhà yêu nước ở Bắc và Trung Kỳ.

Tại Yên Thế, nghĩa quân Hoàng Hoa Thám đã hai lần đón tiếp nhà yêu nước Phan Bội Châu. Giữa năm 1906, Phan Châu Trinh cũng lên Yên Thế gặp Đề Thám. Đề Thám còn lập một căn cứ gọi là đồn Tú Nghệ dành cho các nghĩa sĩ miền Trung ra huấn luyện quân sự.

Về phía Pháp, trong thời gian này chúng đã ráo riết lập đồn, bốt, mở đường giao thông..., tạo mọi điều kiện cần thiết để đánh đòn quyết định vào căn cứ nghĩa quân Yên Thế.

Giai đoạn thứ tư (1909 - 1913):

Giữa năm 1908, xảy ra vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội có sự tham gia của Đề Thám. Nhân cơ hội này, thực dân Pháp chủ trương tập trung lực lượng tiêu diệt nghĩa quân. Tháng 1 - 1909, dưới quyền chỉ huy của đại tá Batay (Bataille), khoảng 15.000 quân cả Pháp và Ngụy đã ào ạt tấn công vào Yên Thế. Nghĩa quân vừa chống đỡ, vừa chuyển dần xuống Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, rồi rút sang Tam Đảo, Thái Nguyên. Trên đường di chuyển, nghĩa quân vẫn tổ chức đánh trả quyết liệt, gây cho địch những thiệt hại nặng nề. Điển hình là trận chặn giặc ở đồn Hom, Yên Thế (30 - 1 - 1909); trận núi Hàm Lợn ở Tam Đảo, Phúc Yên (15 - 3 - 1909).

Trước các cuộc vây quét tiêu diệt gắt gao của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân ngày càng giảm sút. Đến cuối năm 1909, hầu hết các tướng lĩnh đã hi sinh, hoặc sa vào tay giặc, như Cả Trọng, Cả Huỳnh, Cả Tuyển (con Nguyễn Thiện Thuật), Ba Biều, bà Ba Cẩn... Có một số người ra hàng như: Cả Dinh, Cai Sơn... Đến đây, phong trào coi như đã thất bại về cơ bản. Ngày 10 - 2 - 1913, Đề Thám bị giết hại tại một khu rừng cách chợ Gồ 2 km. Sự kiện này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào nông dân Yên Thế.

Khởi nghĩa Yên Thế trước sau là một phong trào đấu tranh tự phát của nông dân. Trong quá trình tồn tại, phong trào phần nào đã kết hợp được yêu cầu độc lập dân tộc với nguyện vọng dân chủ, bước đầu giải quyết được yêu cầu ruộng đất cho nông dân. Khởi nghĩa Yên Thế là phong trào đấu tranh lớn nhất của nông dân trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Sự tồn tại bền bỉ, dẻo dai của phong trào đã nói lên tiềm năng, ý chí và sức mạnh to lớn của nông dân. Nhưng nông dân chỉ có thể trở thành lực lượng cách mạng thật sự khi được giai cấp tiên tiến dẫn đường.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 9-1-2012 06:09 PM
Việt Nam Quốc dân đảng

25 - 12 - 1927: Việt Nam Quốc dân đảng ra đời


Cuối năm 1926, đầu năm 1927, tại Hà Nội, một nhóm những thanh niên có tư tưởng yêu nước cho ra đời Nam Đồng thư xã, một nhà xuất bản chuyên in những sách báo tiến bộ do anh em Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm chủ trương: Dần dần Nam Đồng thư xã đã tập hợp được một số trí thức, công chức, sinh viên, nhân sĩ… trong đó sau này có những người trở thành yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng như Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp… Sau thời gian vận động chuẩn bị, vào đêm 24 rạng 25 - 12 - 1927, một cuộc họp được tổ chức tại số nhà 9 đường 96 phố Trúc Bạch (Hà Nội), quyết định thành lập tổ chức chống Pháp lấy tên là Việt Nam Quốc dân đảng.

Cuối năm 1926, đầu năm 1927, tại Hà Nội, một nhóm những thanh niên có tư tưởng yêu nước cho ra đời Nam Đồng thư xã, một nhà xuất bản chuyên in những sách báo tiến bộ do anh em Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm chủ trương: Dần dần Nam Đồng thư xã đã tập hợp được một số trí thức, công chức, sinh viên, nhân sĩ… trong đó sau này có những người trở thành yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng như Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp… Sau thời gian vận động chuẩn bị, vào đêm 24 rạng 25-12-1927, một cuộc họp được tổ chức tại số nhà 9 đường 96 phố Trúc Bạch (Hà Nội), quyết định thành lập tổ chức chống Pháp lấy tên là Việt Nam Quốc dân đảng.

Thành phần chủ yếu tham gia là tầng lớp tiểu tư sản trí thức thành thị như học sinh, sinh viên, giáo viên, công chức… Ngoài ra, Đảng còn phát triển khá mạnh vào hàng ngũ binh lính ngụy và một bộ phận tầng lớp trên ở nông thôn. Sau đó, Việt Nam Quốc dân đảng còn thu hút được nhóm Việt Nam Quốc dân của Nguyễn Khắc Nhu đang có chủ trương bạo động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang.

Về tổ chức, Việt Nam Quốc dân đảng có 4 cấp: Tổng bộ, Kỳ bộ, Tỉnh bộ, Chi bộ. Trong thực tế, địa bàn hoạt động chủ yếu là ở Bắc Kỳ và chưa khi nào tổ chức được một cơ quan trung ương thống nhất trên cả nước.

Về đường lối chính trị, tổ chức này có khuynh hướng là bạo động. Chương trình, điều lệ của Đảng lúc đầu còn mơ hồ, nhưng ngày càng bộc lộ lập trường dân chủ tư sản và chịu ảnh hưởng phần nào của học thuyết "Tam dân" của Quốc dân đảng Trung Quốc.

Sau vụ ám sát Badanh (tháng 2 - 1929), Việt Nam Quốc dân đảng bị đàn áp, bị đẩy vào tình thế phải phát động một cuộc bạo động non (tháng 2 - 1930). Sự khủng bố tàn bạo của thực dân Pháp đã dẫn tổ chức này đến sự tan vỡ hoàn toàn.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 9-1-2012 06:44 PM
Khởi nghĩa Yên Bái

Khởi nghĩa Yên Bái từ đầu tháng 2 năm 1929, nhân vụ án Badanh, thực dân Pháp ra sức truy lùng, bắt bớ những người yêu nước và phá vỡ hàng loạt các cơ sở cách mạng của Việt Nam quốc dân đảng ở Hà Nội và các tỉnh.

Từ đầu tháng 2 năm 1929, nhân vụ án Badanh, thực dân Pháp ra sức truy lùng, bắt bớ những người yêu nước và phá vỡ hàng loạt các cơ sở cách mạng của Việt Nam quốc dân đảng ở Hà Nội và các tỉnh. Số phận của Việt Nam quốc dân đảng đang mấp mé bên bờ vực thẳm.

Trước tình thế nguy cấp, những người lãnh đạo Tổng bộ cho rằng không thể cứ ngồi yên chịu chết, mà phải đứng lên sống mái với quân thù. Từ cách nhìn nhận đó, Nguyễn Thái Học đã quyết định triệu tập hội nghị đại biểu toàn quốc của Việt Nam quốc dân đảng ngày 17 - 9 - 1929 tại Lạc Đạo (Hải Dương) để bàn bạc và thống nhất kế hoạch khởi sự. Trong hội nghị này, xuất hiện hai phái: Phái cải tổ và phải khởi nghĩa. Phái chủ trương khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu chiếm ưu thế trong hội nghị. Tiếp theo hội nghị đại biểu toàn quốc, Việt Nam quốc dân đảng còn tổ chức một cuộc họp nữa ở Bắc Ninh để hoạch định thời gian và phương thức tiến hành khởi nghĩa. Theo kế hoạch đã được thống nhất, Việt Nam quốc dân đảng sẽ tổ chức khởi nghĩa ở các nơi và cùng lúc đánh vào các đô thị lớn là những trung tâm quân sự của Pháp. Lực lượng khởi nghĩa chủ yếu gồm anh em binh lính là người của Đảng trong quân đội của Pháp, đồng thời phối hợp với lực lượng của Đảng ở bên ngoài. Vũ khí một phần do các cơ sở của Đảng chế tạo phần còn lại phải cướp từ tay giặc. Thời gian khởi nghĩa ấn định vào ngày 9 - 2 - 1930. Theo phân công của Đảng, Nguyễn Thái Học trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh đồng bằng: Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An; còn Nguyễn Khắc Nhu chịu trách nhiệm tố chức cuộc khởi nghĩa ở ba tỉnh trung du Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái.

Sau hai hội nghị ở Lạc Đạo và Bắc Ninh, công tác chuẩn bị khởi nghĩa được triển khai và đẩy mạnh ở các địa phương. Các xưởng chế bom được lập ra tại các tỉnh Bắc Ninh, Phú Thọ, Hải Dương, và đã sản xuất được hàng nghìn quả bom xi măng. Ngoài ra, Việt Nam quốc dân đảng còn tổ chức rèn dao, kiếm, mã tấu và đưa đi cất giấu ở những nơi kín đáo chờ ngày khởi sự. Các cơ sở may cờ, quân phục và in truyền đơn cũng làm việc liên tục ngày đêm.

Giữa lúc công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa đang được tiến hành khẩn trương thì một số biến cố đã xảy ra, gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng. Điển hình là vụ nổ bom do sơ suất khi chế tạo đã làm chết 3 đảng viên Việt Nam quốc dân đảng ở Bắc Ninh (ngày 8 - 9 - 1929), và nhất là vụ phản bội của Phạm Thành Dương (tức Đội Dương) ngày 25 - 12 - 1929 tại hội nghị Võng La (Phú Thọ). Những sự cố này đã buộc Pháp cảnh giác, tăng cường các cuộc lùng sục, khủng bố, đẩy Việt Nam quốc dân đảng đến nguy cơ khởi nghĩa non.

Để đối phó với tình hình, ngày 26 - 1 - 1930, Nguyễn Thái Học lại triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại làng Mỹ Xá (Nam Sách, Hải Dương) để khẳng định lại chủ trương khởi nghĩa, đồng thời kiểm tra và thúc đẩy tiến độ thực hiện các công việc chuẩn bị khởi nghĩa. Trên cơ sở phần tích tình hình của Đảng, Nguyễn Thái Học nhận xét: "Đảng chúng ta (tức VNQDĐ - TG) có thể tiêu ma hết lực lượng. Một khi lòng sợ sệt đã chen vào đầu óc quần chúng khiến họ hết hăng hái, hết tin tưởng thì phong trào cách mạng có thể nguội lạnh như đám tro tàn, rồi người của Đảng cũng sẽ liên tiếp bị bắt dẩn, vô tình đã xô đẩy anh em vào cái chết lạnh lùng mòn mỏi ở các phòng ngục trại giam, âu là chết đi để thành cái gương phấn đấu cho người sau nối bước. Không thành công thi cũng thành nhân".

Căn cứ vào kết quả chuẩn bị khởi nghĩa ở các địa phương, Nguyễn Thái Học đã bàn bạc với các đổng chí, quyết định hoãn thời gian khởi nghĩa tại ba tỉnh miền xuôi đến ngày 15 - 2 - 1930.

Đúng như kế hoạch đã định, đêm ngày 9 rạng ngày 10 - 2 - 1930, cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ ở Yên Bái. Quân khởi nghĩa đã chiếm được trại lính cơ số 5 và 6, giết được một số sĩ quan và hạ sĩ quan người Pháp. Nhưng họ vẫn không lôi kéo được toàn bộ lính khố xanh, và không làm chủ được tình hình chiến sự ở Yên Bái.

Sáng ngày 10 - 2, Pháp tập trung lực lượng (có máy bay yểm trợ) tố chức phản công chiếm lại các căn cứ bị mất, đẩy nghĩa quân vào tình trạng tan rã.

Tại Lâm Thao (Phú Thọ), nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Phạm Nhận đã nhất loạt nổ súng và nhanh chóng chiếm được huyện đường. Tri phủ Đỗ Kim Ngọc bỏ trốn. Nghĩa quân treo cờ và đốt lửa báo tin thắng lợi.

Cũng đêm 9 - 2 - 1930, Nguyễn Khắc Nhu dẫn một toán nghĩa quân đến đánh đồn Hưng Hóa, nhưng không đạt kết quả. Sáng hôm sau, quân Pháp từ Phú Thọ kéo lên phản công quyết liệt, quân khởi nghĩa bị đánh tan, Nguyễn Khắc Nhu bị thương sau đó bị bắt, rồi tự sát để giữ tròn khí tiết.

Tại Sơn Tây, cuộc tấn công đánh đốn chùa Thông cũng không giành được thắng lợi do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ. Sáng ngày 10 - 2, người phụ trách có khởi nghĩa ở đây là Phó Đức Chính đã bị bắt.

Sau khi các cuộc nổi dậy ở các tỉnh miền ngược do Nguyễn Khắc Nhu đã thất bại thì tại các tỉnh miền xuôi kế hoạch khởi nghĩa mới bắt đầu được triển khai. Đêm ngày 14 rạng 15 tháng 2 năm 1930, Việt Nam quốc dân đảng đã nổi dậy khởi nghĩa ở Phả Lại, Vĩnh Bảo (Hải Dương), Kiến An và Phụ Dực (Thái Bình), nhưng đều không thu được kết quả.

Tại Vĩnh Bảo, dưới sự chỉ huy của Trần Quang Diệu, nghĩa quân đã từ Cổ Am kéo lên đánh phá huyện đường, giết tri huyện Hoàng Gia Mô, rồi tự giải tán: ở Phụ Dực nghĩa quân đánh chiếm phủ huyện, đốt hết giấy tờ sổ sách, sau đó tự giải tán.

Tại Kiến An, do kế hoạch khởi nghĩa bị lộ, thực dân Pháp đã tức thời bắt giam toàn bộ số lính khố đỏ, và tố chức canh phòng cẩn mật. Biết không thể khởi nghĩa thắng lợi, nghĩa quân nhanh chóng tự giải tán trước khi bị quân Pháp phản công.

Riêng ở Hà Nội, ngay đêm nổ ra cuộc khởi nghĩa Yên Bái (10 - 2), một số đảng viên Việt Nam quốc dân đảng (đều là học sinh trường Bách Nghệ) đã ném bom vào nhà tên giám đốc sở mật thám ác nu (Arnoux), vào nhà tù Hỏa Lò và sở cảnh sát. Nhưng các vụ ném bom này ít gây tổn hại cho Pháp, không có tiếng vang lớn trong dân chúng.

Như vậy, chỉ trong vòng một tuần lễ, cuộc khởi nghĩa vũ trang quy mô lớn do Việt Nam quốc dân đảng phát động đã bùng nổ ở nhiều nơi và mau chóng đi tới thất bại. Cuộc khởi nghĩa tuy không đạt được kết quả (do công tác tổ chức thiếu chu đáo, kế hoạch rất chủ quan, còn Pháp thì đang mạnh), nhưng đã có tiếng vang cả trong và ngoài nước. Tại Thủ đô Paris (Pháp), sinh viên và Việt kiều đã tổ chức biểu tình ủng hộ khởi nghĩa Yên Bái và chống việc khủng bố các chiến sĩ Việt Nam quốc dân đảng.

Khởi nghĩa Yên Bái với những hành động quả cảm của các nghĩa quân Việt Nam quốc dân đảng đã thể hiện tinh thần yêu nước, chí khí quật cường của dân tộc ta, góp phần thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước trong các tầng lớp nhân dân. Từ đó, thấy rõ mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp đã trở nên vô cùng gay gắt.

Tuy nhiên, thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cũng chứng tỏ sự bồng bột, hăng hái nhất thời của tầng lớp tiểu tư sản. Đó cũng là thất bại của giai cấp tư sản dân tộc trong cuộc đấu tranh giành quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Đồng chí Lê Duẩn - nguyên tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: "Khởi nghĩa Yên Bái chi là một "cuộc bạo động bất đắc dĩ, một cuộc bạo động non, để rồi chết luôn không bao giờ ngóc lên nổi". Khẩu hiệu "Không thành công thì thành nhân" biểu lộ tính chất hấp tấp tiểu tư sản, tính chất hăng hái nhất thời và đồng thời cũng biểu lộ tính chất không vững chắc, non yếu của phong trào tư sản.

Từ sau cuộc bạo động Yên Bái, Việt Nam quốc dân đảng hoàn toàn tan rã, khuynh hướng cách mạng dân tộc hoàn toàn thất bại, hệ tư tưởng tư sản cũng hoàn toàn bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Ngọn cờ cách mạng đã chuyển hẳn sang tay giai cấp vô sản. Từ đây trở đi, trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc, giành độc lập dân tộc chỉ là những phong trào do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 9-1-2012 09:17 PM
Đảng cộng sản Đông Dương

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời

Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển không đồng đều, mạnh nhất là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ, bởi ở đây có đông hội viên và trong hoạt động thực tiễn có nhiều sáng tạo.

* Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản:

Phong trào công nhân cuối những năm 20 phát triển không đồng đều, mạnh nhất là phong trào công nhân ở Bắc Kỳ, bởi ở đây có đông hội viên và trong hoạt động thực tiễn có nhiều sáng tạo. Phong trào "vô sản hóa" cũng được phát sinh từ đây và đã góp phần đẩy nhanh quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Từ thực tiễn sinh động đó, những người lãnh đạo trong "Kỳ bộ Bắc Kỳ" những học trò xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc, đã nắm bắt được đòi hỏi của phong trào, nhận ra sự cấp thiết phải thành lập một Đảng cộng sản thay cho hội Việt Nam cách mạng thanh niên để tiếp tục đưa phong trào giải phóng dân tộc tiến lên.

Tháng 3 - 1929, Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu, Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính và Nguyễn Tuân, họp tại ngôi nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội) đã quyết định lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên nhóm làm đầu tàu cho cuộc vận động thành lập Đảng cộng sản ở Việt Nam.

Tại Đại hội đầu biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ họp vào cuối tháng 3 - 1929 trong đồn điền Bô Ren (Sơn Tây) đã nhất trí thông qua chủ trương lập Đảng cộng sản thay cho hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã hết vai trò lịch sử và cử một đoàn đại biểu gồm 4 đồng chí do Trần Văn Cung, bí thư Kỳ bộ, dẫn đầu đi dự Đại hội I của hội Việt Nam cách mạng thanh niên sẽ họp ở Hương Cảng. Đại hội cũng giao cho đoàn đại biểu của mình có nhiệm vụ ''đấu tranh khẳng định xu thế thành lập Đảng cộng sản của kỳ bộ mình tại Đai hội I hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Đầu tháng 5 - 1929, tại Đại hội I của hội Việt Nam cách mạng thanh niên, đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã đưa ra đề nghị giải tán tổ chức Thanh niên và thành lập Đảng Cộng sản. Nhưng đề nghị đó không được chấp nhận, nên đoàn đã bỏ đại hội ra về.

Sau khi về tới Hà Nội, ngày 1 - 6 - 1929, đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã ra Tuyên ngôn giải thích lý do họ bỏ đại hội ra về và chỉ ra những điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi để thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân.

Đêm 17 - 6 - 1929, 20 đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ đã nhóm họp từ ngôi nhà 312 phố Kham Thiên (Hà Nội) tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản đảng. Hội nghị đã thông qua Tuyên ngôn, Điểu lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận của Đảng. Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản đảng xác định rõ tính chất của Đảng: "Đông Dương Cộng sản đảng là Đảng cách mạng, đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức thợ thuyền) ở Đông Dương. Đảng Cộng sản là đảng bênh vực cho toàn thế giới vô sản giai cấp, nhưng chỉ gồm những người nào giác ngộ cách mạng, tiên tiến hơn cả trong giai cấp vô sản".

Cùng với công tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản đảng đã cử người vào Trung Kỳ và Nam Kỳ tuyên truyền và tổ chức các cơ sở Đảng ở các địa phương đó. Trước ảnh hưởng sâu rộng của Đông Dương Cộng sản đảng, Tổng bộ Thanh niên và Kỳ bộ Nam Kỳ đã quyết định thành lập An Nam Cộng sản đảng vào tháng 8 - 1929, xuất bản báo Đỏ làm cơ quan ngôn luận của mình.

Cùng với quá trình phân hóa trong hội Việt Nam cách mạng thanh niên dẫn tới sự ra đời của hai tổ chức cộng sản, khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngày càng thắng thế trong Tân Việt Cách mạng đảng. Các đại biểu cấp tiến của Tân Việt đã nhóm họp tại Sài Gòn vào tháng 9 - 1929, ra "Tuyên đạt" tuyên bố chính thức thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn và sẽ cùng Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng "liên hợp thành một tổ chức cộng sản ở Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất". Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở nửa sau năm 1929 khẳng định hệ tư tưởng cộng sản đã chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc ở Việt Nam.

* Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:

Sau khi ra đời, ba tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính. Trong quá trình phát triển tổ chức của mình, các đảng cộng sản không thể không tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân, và không tránh khỏi công kích lẫn nhau. Tình hình đó sớm muộn sẽ gây ra sự chia rẽ trong phong trào công nhân, dẫn đến sự tổn thất cho phong trào cách mạng. Một đòi hỏi khách quan là phải thống nhất các tổ chức cộng sản lại làm một. Vì vậy, ngày 27 - 10 - 1929 Quốc tế Cộng sản đã gửi một lá thư, như một chỉ thị cho những người cộng sản Đông Dương, trong đó yêu cầu các tổ chức cộng sản phải chấm dứt sự chia rẽ, công kích lẫn nhau và tích cực xúc tiến việc hợp nhất thành một đảng duy nhất ở Đông Dương. Thực hiện chỉ thị đó của Quốc tế Cộng sản, Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng đã cử những đại diện của mình, tiến hành những cuộc tiếp xúc bàn việc hợp nhất, nhưng không thành.

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã tới Hương Cảng (Trung Quốc) để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất.

Hội nghị hợp nhất gồm hai đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh, 2 đại biểu của An Nam cộng sản Đảng là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, đã họp ở Cửu Long Hương Cảng (Trung Quốc). Tại phiên họp ngày 3 - 2 - 1930, các đại biểu đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt. Trong các văn kiện chủ yếu trên, Đảng cộng sản Việt Nam được xác định là "đội tiền phong của vô sản giai cấp" chủ trương tiến hành "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đồng thời, qua các văn kiện đó, Đảng cộng sản Việt Nam xác định cho mình nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, thành lập chính phủ công nông binh, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc phong kiến chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá các sản nghiệp, mở mang sản xuất, thực hiện các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng nam nữ, thi hành luật ngày làm việc 8 giờ...

Để thực hiện được mục tiêu chiến lược trên, Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương tập hợp được đại bộ phận giai cấp công nhân, làm cho giai cấp công nhân lãnh đạo được quần chúng, phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo. Đồng thời phải "hết sức liên lạc" với tiểu tư sản trí thức, trung nông... để lôi kéo họ về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nữa là làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.

Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo và thông qua tại hội nghị hợp nhất là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng một cương lĩnh cách mạng đúng đắn và sáng tạo.

Sau hội nghị hợp nhất, ngày 24 - 2 - 1930 theo đề nghị của Đông Dương cộng sản liên đoàn, Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng cộng sản Việt Nam đã chấp nhận hợp nhất tổ chức này vào Đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy, việc hợp nhất các tổ chức cộng sản đến cuối tháng 2 năm 1930 mới hoàn tất.

Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam chứng tỏ giai cấp công nhân nước ta đã trưởng thành và đủ khả năng đảm nhiệm vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Thông qua đội tiền phong của mình, giai cấp công nhân có sứ mệnh lãnh đạo toàn thể nhân dân tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tới thắng lợi. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã chấm dứt cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước từ cuối thế kỷ trước. Sự ra đời của Đảng chính là sự chuẩn bị nhân tố quan trọng đầu tiên cho những thắng lợi tiếp sau. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam là bước ngoặt lịch sử quan trọng trong lịch sử nước ta.

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai, đất nước ta đã có những biến chuyển mạnh mẽ trên phương diện kinh tế và xã hội. Từ đó, phong trào dân tộc cũng có những bước phát triển mạnh mẽ. Trong những năm 20 của thế kỷ này, các giai tầng xã hội đã bước lên vũ đài chính trị với những đòi hỏi, yêu cầu và những hành động cách mạng riêng, tùy thuộc vào mối quan hệ của mình đối với chính quyền thực dân, tùy thuộc vào vị thế của mình trong kết cấu giai cấp của xã hội thuộc địa. Phong trào dân tộc sau chiến tranh có những chuyển biến mới trong nội dung và phong phú về các hình thức biểu hiện. Và cuối cùng, lịch sử đã chứng kiến sự bất lực của hệ tư tưởng dân chủ tư sản trước nhiệm vụ cứu nước và chứng kiến sự chuyển giao ngọn cờ giải phóng vào tay giai cấp công nhân với đội tiền phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 10-1-2012 12:40 PM
Việt Minh

10 đến 19 - 5 - 1941: Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII. Mặt trận Việt Minh được thành lập


Hội nghị tiến hành từ ngày 10 đến 19 - 5 - 1941 tại khu rừng Khuổi Nậm, Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, với sự tham gia của Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, đại biểu xứ ủy Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Hội nghị tiến hành từ ngày 10 đến 19 - 5 - 1941 tại khu rừng Khuổi Nậm, Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, với sự tham gia của Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, đại biểu xứ ủy Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Phân tích tình hình thế giới, nghị quyết của hội nghị nhận định: "Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này, sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công".

Về tình hình Đông Dương, hội nghị xác định rõ: "Khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương khỏi ách của giặc Pháp - Nhật".

Về mối quan hệ giữa các dân tộc Đông Dương, hội nghị khẳng định sự tôn trọng việc lựa chọn hình thức nhà nước của mỗi dân tộc, sống trên bán đảo Đông Dương sau khi cách mạng thành công, nhưng trước mắt muốn đánh đuổi Pháp - Nhật "phải có một lực lượng thống nhất của tất thảy các dân tộc Đông Dương họp lại". Hội nghị tán thành nghị quyết của hai hội nghị Trung ương trước đó về việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược nhằm nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, ngày 19 - 5 - 1941, hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay cho mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ các dân tộc Lào và Campuchia thành lập mặt trận của mình. Các tổ chức của Việt Minh sẽ là các Hội Cứu quốc. Hội nghị quyết định tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng mặt trận dân tộc.

Về phương pháp cách mạng, hội nghị nhận định "cuộc cách mạng Đông Dương sẽ kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang" và "với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương giành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn" và quyết định sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật "sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngôi sao vàng 5 cánh làm cờ toàn quốc", nhấn mạnh nhiệm vụ tăng cường đội ngũ của Đảng là lấy "vận động công nhân làm công việc đầu tiên trong việc tổ chức quần chúng của Đảng"…

Hội nghị đã bầu ra Ban chấp hành trung ương Đảng và cử Trường Chinh làm Tổng bí thư. Ban Thường vụ có thêm Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt.

Hội nghị Trung ương lần thứ VIII là một sự kiện quan trọng, cùng với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược của Đảng, trực tiếp góp phần quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 10-1-2012 01:59 PM
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân

22 - 12 - 1944: Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành lập


Đứng trước những yêu cầu thực tiễn của cách mạng, tháng 12 - 1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao cho Võ Nguyên Giáp phụ trách. Bản chỉ thị lịch sử này là một văn kiện có tính chất cương lĩnh quân sự của Đảng, đề cập một cách toàn diện đường lối.

Đứng trước những yêu cầu thực tiễn của cách mạng, tháng 12 - 1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và giao cho Võ Nguyên Giáp phụ trách. Bản chỉ thị lịch sử này là một văn kiện có tính chất cương lĩnh quân sự của Đảng, đề cập một cách toàn diện đường lối. Phương châm, tổ chức và hoạt động của lực lượng vũ trang cách mạng. Trong điều kiện lịch sử đương thời, bản chỉ thị nhấn mạnh: "Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền…", đồng thời "Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc khắp đất nước Việt Nam chúng ta".

Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị, ngày 22 - 12 - 1944 tại khu rừng thuộc huyện Nguyên Bình (Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã chính thức làm lễ thành lập gồm 3 tiểu đội, với 34 chiến sĩ được chọn lọc từ những chiến sĩ du kích Cao - Bắc - Lạng do Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.


Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 10-1-2012 02:27 PM
Cách mạng tháng Tám

19 - 08 - 1945: Cách mạng tháng tám, tổng khởi nghĩa giành chính quyền

Đầu năm 1945, quân đội Xô Viết liên tiếp giành thắng lợi trên chiến trường Châu Âu, giải phóng hàng loạt nước và tiến thẳng vào sào huyệt của phát xít Đức ở Béclin. Ngày 8/5/1945, phát xít Đức đầu hàng vô điều kiện. Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật, đẩy quân phiệt Nhật vào tình thế thất bại. Ngày 13/8/1945, hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, nhận định thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã tới, những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi. Uỷ ban khởi nghĩa gửi quân lệnh số 1 cho đồng bào và cho chiến sĩ cả nước ngay trong đêm ấy.

Ngày 16/8/1945, đại hội họp ở Tân Trào đã thông qua "10 chính sách lớn của Việt Minh", thông qua "lệnh tổng khởi nghĩa" quyết định Quốc Kỳ nền đỏ, sao vàng, chọn bài tiến quân ca làm Quốc ca và bầu ra uỷ ban dân tộc giải phóng trung ương, tức chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn thể đồng bào ta hãy đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta". Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân ta từ Bắc đến Nam đã tiến hành cuốc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng tám thành công.

Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ 14/8, một ngày sau khi hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc. Từ ngày 14 đến 18, tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng miền Bắc, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và các thị xã Bắc Giang, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Hội An.

Ngày 17/8, ở Hà Nội, tổng hội viên chức chính quyền bù nhìn tổ chức một cuộc mittinh lớn tại quảng trường nhà hát thành phố, có hàng vạn người tham gia để ủng hộ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Trong mittinh này, dưới sự lãnh đạo của xứ Uỷ Bắc Kỳ và thành Uỷ Hà Nội, quần chúng cách mạng đã giương cao lá cờ đỏ sao vàng, chiếm lấy diễn đàn cuộc mittinh, cán bộ Việt Minh đã diễn thuyết báo tin cho đồng bào biết quân phiệt Nhật đã đầu hàng và giới thiệu chủ trương đường lối cứu nước của Việt Minh, kêu gọi nhân dân đánh đổ chính quyền bù nhìn thân Nhật. Cuộc mittinh đã tiến thành cuộc biểu tình, tuần hành thị uy, bắt đầu từ quảng trường nhà hát thành phố và lan khắp nơi trên phố phường Hà Nội. Cả Hà Nội tưng bừng khí thế sục sôi khởi nghĩa.

Ngụy quyền cực kỳ bối rối hoang mang, chúng dựng lên cái gọi là "Uỷ ban chính trị" đề nghị với Việt Minh: "Đằng nào các ông cũng thắng, nhưng để điều đình với Đồng Minh sẽ vào Đông Dương giải giáp quân Nhật, đề nghị vùng nông thôn cách thành phố 15km là thuộc quyền các ông, còn thành phố cần có nhân sĩ, trí thức đứng ra giao dịch với Đồng Minh".

Đại biểu Việt Minh đã trả lời dứt khoát, "giao dịch với Đồng Minh lúc này, ngoài Việt Minh không ai có thể có lực lượng và danh nghĩa cả".

Sáng ngày 19/8, theo lời kêu gọi của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường tiến thẳng về trung tâm Nhà hát thành phố để dự mittinh. Họ vừa đi vừa hô khẩu hiệu:

* Đả đảo chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
* Thành lập chính phủ dân chủ cộng hòa Việt Nam.
* Anh em binh lính hãy mang súng gia nhập hàng ngũ chiến đấu bên cạnh Việt Minh.
* Việt Nam hoàn toàn độc lập.

Cuộc mittinh diễn ra vào ngày 19/8/1945. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến Quân Ca, đại biểu uỷ ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu của Việt Minh. Cuộc mittinh trở thành cuộc biểu tình vũ trang tiến vào chiếm phủ khâm sứ, trại lính bảo an và các cơ sở của chính phủ bù nhìn.

Từ Hà Nội, làn sóng cách mạng toả đi khắp nơi, cả nước vùng dậy đấu tranh giành chính quyền và liên tiếp giành thắng lợi.

Cách mạng tháng tám là sự kiện vĩ đại trong lich sự dân tộc, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Đây là lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền trong cả nước, lần đầu tiên chế độ dân chủ nhân dân ở Việt Nam ra đời.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 10-1-2012 03:00 PM
2 tháng 9 năm 1945

2 - 9 - 1945: Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập"


Tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập" tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 2 - 9 - 1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra mắt quốc dân tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội.

Tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản "Tuyên ngôn Độc lập" tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

"Ngày 2 - 9 - 1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra mắt quốc dân tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Hàng chục vạn người gồm đủ các đoàn thể, các giới… tới dự, cùng với đội quân giải phóng ở chiến khu mới về. 2 giờ chiều, mít tinh bắt đầu khai mạc. Hồ Chí Minh đọc lời Tuyên ngôn của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tiếp đó, toàn thể nhân viên trong Chính phủ làm lễ tuyên thệ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp trình bày về tình hình trong nước và những chính sách của Chính phủ. Tiếp đến, Trần Huy Liệu, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền báo cáo về việc đoàn đại biểu chính phủ đi tước ấn kiếm Bảo Đại và trình bày với quốc dân chiếc "ấn quốc bảo" và thanh kiếm vàng mà Bảo Đại mới trao trả cho nhân dân. Nguyễn Lương Bằng, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh nói về cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Minh và hô hào nhân dân đòan kết ủng hộ Chính phủ, thi hành triệt để chương trình kiến quốc của Việt Minh. Tới 3 giờ chiều, toàn thể quốc dân tuyên thệ. Sau mỗi lời thề, toàn thể đồng bào đều giơ tay hô lớn "Xin thề!" tỏ ra ý chí bền vững không gì lay chuyển nổi của cả một dân tộc đứng lên giành tự do độc lập. Cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh bước ra lễ đài một lần nữa. Người hô hào nhân dân kiên quyết hy sinh giữ vững nền độc lập vừa mới giành được. Lễ mít tinh bế mạc biến thành một cuộc biểu tình tuần hành vĩ đại trong thành phố".

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trước thế giới: "Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy!".

Ngày 2 - 9 - 1945 mãi đi vào lịch sử như một ngày độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam sau ngót một thế kỷ đô hộ của chủ nghĩa thực dân Pháp, ghi nhận chiến công của Việt Nam - một dân tộc tiên phong trong sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Ngày 2 - 9 trở thành ngày Quốc khánh của nhân dân Việt Nam và đó cũng là cái mốc chấm dứt lịch sử cận đại Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc ta.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 10-1-2012 04:07 PM
Nam Bộ kháng chiến

23 - 9 - 1945: Ngày Nam Bộ kháng chiến

Chỉ 3 tuần lễ sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 23/9/1945 thực dân Pháp núp dưới bóng quân đội Anh tước vũ khí của quân đội Nhật ở Nam Bộ, âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa. 6.000 quân Pháp dựa vào hơn 1 vạn quân Anh đã trắng trợn gây hấn ở thành phố Sài Gòn. Chúng mưu toan chiếm Nam Bộ làm bàn đạp chiếm cả Việt Nam và Đông Dương.

7h sáng ngày 23/9, Xứ uỷ và Uỷ ban hành chính Nam Bộ (sau đổi tên thành Uỷ ban kháng chiến) họp khẩn cấp tại phố Cây Mai (Chợ Lớn) có đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt trung ương Đảng và tổng bộ Việt Minh tham dự. Hội nghị quyết định phát động nhân dân kiên quyết kháng chiến chống xâm lược. Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập, ra lệnh tổng bãi công, bãi thị, bất hợp tác với địch, phong toả địch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Bộ sục sôi căm thù, nhất tề đứng dậy, xông ra mặt trận quyết chiến với quân xâm lược, mở ra một trang sử oanh liệt mới: Nam Bộ kháng chiến.

Chiều 23/9, cả Sài Gòn đình công, không hợp tác với Pháp. Các công sở xí nghiệp, hãng buôn đóng cửa, chợ không họp, xe ngừng chạy. Các ụ chiến đấu mọc lên khắp nơi. Ngay những ngày đầu quân Sài Gòn đã tiêu hao sinh lực địch và phá huỷ một phần cơ sở vật chất của chúng. Tiếng súng kháng chiến ở Sài Gòn chấn động cả nước. Nhiều tỉnh Nam Bộ đưa lực lượng đoàn viên, thanh niên về góp sức với Sài Gòn chống quân xâm lược.

Ban thường vụ trung ương Đảng họp chủ trương đánh mạnh quân Pháp ở Nam Bộ, quyết tâm giành thắng lợi ở chiến trường để tạo điều kiện cho việc đấu tranh với quân Tưởng ở ngoài Bắc. Ngày 27/9/1945, chủ tich Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào miền Nam khẳng định quyết tâm kháng chiến của Đảng, chính phủ và nhân dân ta, chỉ rõ mục tiêu chiến đấu vì độc lập tự do của tổ quốc. Người nêu cao lẽ sống "thà chết tự do hơn sống nô lệ" của nhân dân ta. Đáp lời kêu gọi của Người, xứng đáng với lòng tin cậy và sự cổ vũ của nhân dân cả nước, nhân dân Nam Bộ vùng dậy dũng cảm đánh trả kẻ địch có trang bị hiện đại, làm thất bại âm mưu của địch, tạo điều kiện để ta củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc.

Tháng 2/1946, thay mặt chính phủ và đồng bào cả nước, chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Nam Bộ danh hiệu vẻ vang: "Thành đồng tổ quốc".
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 10-1-2012 04:32 PM
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

19 - 12 - 1946: Ngày toàn quốc kháng chiến

Sau cách mạng tháng tám 1945, thực dân Pháp tìm mọi cách thục hiện dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa.

Bội ước hiệp định sơ bộ 6/3/1945 và thoả ước 19/4/1945, thực dân Pháp ráo riết tăng cường lực lượng và đến tháng 11/1946, số quân của chúng đã lên tới 10 vạn. Chúng lần lượt cho quân đổ bộ trái phép vào Đà Nẵng, Đồ Sơn, Cát Bà đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn và chuẩn bị kế hoạch đánh vào cơ quan đầu não của ta ở thủ đô Hà Nội.

Ngày 18 và 19/12/1946, hội nghị mở rộng Ban chấp hành trung ương Đảng họp khẩn cấp ở Vạn Phúc, Hà Đông quyết định phát động cả nước kháng chiến và chỉ ra đường lối kháng chiến lâu dài.

Ngày 19/12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Người nói: "Chúng ta muốn hoà bình, chúng bắt chúng ta nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa.

Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.

Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên. Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt thì phải đứng lên chống thực dân Pháp. Ai có súng cầm súng, ai có gươm cầm gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước…".

Đáp lời kêu gọi cứu nước của chủ tịch Hồ Chí Minh, theo đường lối kháng chiến đúng đắn do Đảng vạch ra, thanh niên cả nước cùng toàn dân nhất tề đứng lên giết giặc cứu nước. Đêm 19/12/1946, tiếng súng giết giặc của thủ đô Hà Nội đã nổ, mở đầu cuộc kháng chiến. Quân và dân cả nước cũng đã vùng lên kháng chiến và giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc ta.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 10-1-2012 07:52 PM
Chiến tranh Đông Dương

Sự bùng nổ và cuộc kháng chiến toàn quốc (1946 - 1950)


Ngay trong quá trình đàm phán ở hội nghị giữa ta và Pháp đang diễn ra ở Phôngtennobô, Pháp đã mở rộng chiến tranh ra nhiều nơi. Ở chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ, địch liên tục tiến công chiếm đóng vùng giải phóng.

Ngay trong quá trình đàm phán ở hội nghị giữa ta và Pháp đang diễn ra ở Phôngtennobô, Pháp đã mở rộng chiến tranh ra nhiều nơi. Ở chiến trường Nam Bộ, Nam Trung Bộ, địch liên tục tiến công chiếm đóng vùng giải phóng. Tại miền Bắc, tháng 11 - 1946, chúng ta đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn. Tháng 12 - 1946, chúng đánh Đồ Sơn, Đình Lập. Sau các vụ ném lựu đạn vào nhiều khu vực dân cư thành phố, từ giữa tháng 12 trở đi, chúng đã gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Sự kiện tàn sát nhân dân ta tại Hàng Bún và phố Yên Ninh tháng 12 - 1946 chứng tỏ thực dân Pháp đã sẵn sàng bước sang cuộc phiêu lưu quân sự mới.

Ngày 18 và 19 - 12 - 1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư đòi ta phải phá bỏ công sự trong thành phố và đòi để chúng kiểm soát, giữ gìn trật tự Hà Nội. Chúng tuyên bố sẽ hành động bằng sức mạnh quân sự nếu ta không thực hiện các yêu sách đó. Tình hình vô cùng khẩn cấp, đòi hỏi ta phải đứng lên.

Ngày 18, 19 tháng 12 - 1946. Ban Thường vụ trung ương Đảng họp do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã nhận định tình hình và chỉ thị cho các địa phương "Tất cả hãy sẵn sàng". Chiều 19 - 12, Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho các đơn vị vũ trang sẵn sàng chiến đấu theo thời gian đã quy định.

20 giờ ngày 19 - 12 - 1946, mệnh lệnh chiến đấu bắt đầu. Quân dân thủ đô đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc.

Ngay khi tiếng súng kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã truyền đi khắp cả nước. "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" cùng với những tư liệu khác như chỉ thị toàn dân kháng chiến, kháng chiến nhất định thắng lợi đã nêu bật những vấn đề căn bản nhất về đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó là:

- Chỉ ra cuộc kháng chiến nhân dân ta đang tiến hành là sự tiếp nối con đường cách mạng tháng Tám bằng hình thức chiến tranh cách mạng, chính nghĩa để bảo vệ độc lập và thống nhất dân tộc.

- Kháng chiến và kiến quốc liên quan mật thiết với nhau. Tiến hành kháng chiến, thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, đồng thời thực hiện nhiệm vụ dân chủ; hai nhiệm vụ đó quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng nhiệm vụ dân tộc là cấp bách nhất, còn vấn đề ruộng đất sẽ được giải quyết dần dần phù hợp với yêu cầu của cuộc chiến tranh giải phóng. Cuộc kháng chiến của Việt Nam là cuộc chiến tranh nhân dân, toàn diện. Sức mạnh của nó là tổng hợp sức mạnh của toàn dân, chiến đấu chống kẻ thù trên các mặt trận quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

- Cuộc chiến đấu sẽ diễn ra lâu dài. Trường kỳ kháng chiến là một phương châm chiến lược quân sự bảo đảm kháng chiến thắng lợi. Những phương châm chỉ đạo chung cho cuộc kháng chiến đã được cụ thể hóa, vận dụng trong công cuộc kháng chiến kiến quốc suốt thời kỳ từ 1946 đến 1954.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 11-1-2012 06:31 PM
Cuộc kháng chiến phát triển mạnh mẽ và thắng lợi (1951 - 1954)

1. Thực dân Pháp sa lầy trong chiến tranh, Mỹ can thiệp sâu vào Đông Dương

Sau chiến dịch Biên giới, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam nhận được sự chi viện của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa.

Cũng từ năm 1950 trở đi, Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào các nước ở bán đảo Đông Dương. Đến năm 1954, viện trợ quân sự của Mỹ đã chiếm 73% tổng ngân sách chiến tranh của Pháp ở Đông Dương.

Được Mỹ viện trợ, thực dân Pháp tìm những thủ đoạn mới với hy vọng sẽ giành thắng lợi ở Việt Nam và Đông Dương. Một mặt, Pháp và Mỹ ra sức xây dựng chính phủ bù nhìn, mặt khác, tăng cường lực lượng quân sự để bình định và tìm cách phản công lực lượng vũ trang cách mạng, hòng giành lại quyền chủ động trên chiến trường.

Tướng Đơ Lat đơ Tatxinhi (De Lattre de Tassiny) được cử sang chỉ huy ở Đông Dương. Đơ Lat vạch kế hoạch tác chiến với nội dung chủ yếu là phải xây dựng lực lượng chủ lực cơ động mạnh, tăng cường lực lượng nguỵ quân; xây dựng tuần phòng ngự bao quanh vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ để ngăn chặn chủ lực ta, tăng cường bình định vùng địch tạm chiếm, tiến công phá căn cứ của ta và chuẩn bị tiến công ra chiếm vùng tự do.

Giải pháp chiến tranh mới của địch cũng như sự can thiệp ngày càng trắng trợn của Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp không ít khó khăn. Chỉ riêng ở chiến trường đồng bằng Bắc Bộ, hàng trăm làng bị địch chiếm lại, nhiều khu căn cứ du kích bị địch đánh phá.

Tuy nhiên, với nỗ lực phi thường của quân và dân ta, được sự giúp đỡ của các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, công cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam vẫn phát triển không ngừng và đã làm thất bại những cố gắng của địch trong những năm 1951 - 1952.

2. Sự phát triển của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa:

Đại hội Đảng cộng sản Đông Dương lần thứ hai (1951) là cột mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử cách mạng của nhân dân 3 nước Đông Dương. Đại hội đã quyết định lập Đảng mác xít riêng cho Việt Nam, Lào và Campuchia để tạo điều kiện cho cách mạng mỗi nước phát triển trong tình hình mới.

Đại hội đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng về cách mạng Việt Nam và tổ chức Đảng trong hoàn cảnh mới, nêu rõ nhiệm vụ lâu dài của cách mạng Việt Nam, đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc.

Sau đại hội Đảng, đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt đã quyết định thống nhất hai tổ chức mặt trận thành Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là mặt trận Liên Việt). Cương lĩnh của mặt trận Liên Việt là tiêu diệt đế quốc Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ cùng bọn tay sai, giải phóng dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, cùng nhân dân thế giới bảo vệ hoà bình.

Hội nghị đoàn kết nhân dân Việt -  Miên - Lào gồm đại biểu mặt trận yêu nước của 3 dân tộc trên bán đảo Đông Dương tổ chức vào ngày 11 - 3 - 1951 đã ra tuyên bố thành lập khối liên minh giữa 3 dân tộc anh em, dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền của nhau, phấn đấu vì độc lập, tự do của mỗi nước.

Hệ thống chính quyền kháng chiến các cấp được củng cố từ trung ương xuống cơ sở phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ hành chính được nâng cao; các Bộ đã phát huy được vai trò quản lý nhà nước, điều hành kháng chiến, kiến quốc theo nhiệm vụ đã được Quốc hội và Chính phủ quy định.

Cùng với đà phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nền kinh tế ngày càng thu được những thành tựu quan trọng mới. Nông nghiệp vẫn là nhân tố quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm 1953, luật Cải cách ruộng đất được ban hành. Đến trước tháng 5 - 1954, hàng triệu nông dân đã được chia hàng chục vạn hecta ruộng đất của địa chủ Việt gian, thực dân và ruộng đất vắng chủ. Đến năm 1953 - 1954, sản lượng lương thực vùng giải phóng đạt gần 3 triệu tấn.

Kết quả của quá trình thực hiện từng bước chính sách ruộng đất đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong giai đoạn quyết định cuối cùng.

Ngành công nghiệp, đặc biệt công nghiệp quốc phòng vẫn được chú trọng phát triển, đã đáp ứng được ngày càng nhiều hơn việc cung cấp vũ khí cho bộ đội đánh địch trên các chiến trường. Các bộ phận tiểu thủ công nghiệp vẫn đảm bảo cung cấp đủ những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống dân sinh và quốc phòng. Ngành thương nghiệp, bao gồm khu vực do Nhà nước quản lý và tư nhân có phát triển hơn thời kỳ trước.

Văn hóa giáo dục trong vùng giải phóng có bước phát triển to lớn kể từ khi thực hiện chính sách cải cách giáo dục năm 1950. Số học sinh cấp I, II, III, trong vùng tự do lên đến khoảng 1 triệu; hàng nghìn cán bộ kỹ thuật đã được đào tạo; một số sinh viên, cán bộ đã được gửi đi đào tạo ở nước ngoài.

Cơ sở y tế, chăm sóc sức khỏe cho bộ đội và nhân dân được mở rộng. Các tác phẩm văn hóa nghệ thuật được sáng tác ngày càng phong phú. Sinh hoạt văn hoá quần chúng ngày càng được chú trọng. An ninh trật tự vùng giải phóng ngày càng bảo đảm.

Đời sống của nhân dân, bộ đội, cán bộ hành chính được cải thiện một bước. Nạn đói và nhiều loạt dịch không còn hoành hành như trước. Quan hệ quốc tế giữa nước ta và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển. Trung Quốc và Liên Xô đã chi viện cho Việt Nam một số quân trang, quân dụng, thuốc men, lương thực và thực phẩm.

Nền dân chủ cộng hòa được củng cố và ngày càng phát triển là nhân tố quyết định đến thắng lợi trên mặt trận quân sự.

3. Tiến triển trên mặt trận quân sự và ngoại giao:

* Sự phát triển lực lượng vũ trang cách mạng:

Lực lượng bộ đội chủ lực có thêm một số đơn vị mới: đại đoàn 316 (1/5/1951), đại đoàn công pháo 351 (27/3/1951), đại đoàn 325 (5/12/1952), trung đoàn 148 và 246. Tổng số lực lượng chủ lực thuộc Bộ Tổng tham mưu có 7 đại đoàn và 2 trung đoàn độc lập.

Lực lượng chủ lực của các liên khu cũng phát triển: Nam Bộ có các tiểu đoàn chủ lực nổi tiếng 302, 307; Nam Trung Bộ có trung đoàn 812; khu V có trung đoàn 108 và 803; khu IV có trung đoàn 271; khu III có trung đoàn 42; Việt Bắc có trung đoàn 238.

Cùng với đà phát triển của khối bộ đội chủ lực thuộc Bộ Tổng tham mưu hoặc Bộ chỉ huy Liên khu, bộ đội tỉnh, huyện và lực lượng dân quân du kích bám trụ các địa phương ngày càng đông và vũ khí trang bị được cải tiến. Lực lượng vũ trang cách mạng, với ba thứ quân, như mô hình chóp nón, chứng tỏ cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện đã phát triển khá cao trong những năm cuối cuộc chiến tranh.

* Đấu tranh quân sự:

Thực hiện chủ trương tiến công sâu vào vùng địch hậu, tiêu diệt địch, phá thế kìm kẹp của chúng, lực lượng vũ trang cách mạng đã mở nhiều chiến dịch ở vùng trung du và đồng bằng vào đầu những năm 1950.

Chiến dịch Trần Hưng Đạo (từ 25/12/1950 đến 17/1/1951): Đại đoàn 308 và 312 cùng hai trung đoàn độc lập và bộ đội địa phương tiến công tiêu diệt địch ở tuyến phòng thủ vòng ngoài của chúng, kéo dài từ Việt Trì đến Bắc Giang, mở rộng vùng giải phóng ra khu vực có nguồn lương thực tương đối dồi dào, từ đó phát động chiến tranh du kích ở vùng địch hậu tại Liên khu III.

Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (29 - 3 đến 5 - 4 - 1951): Đại đoàn 308 và 312 cùng một số trung đoàn độc lập tiến công địch ở tuyến quốc lộ 18, đoạn từ Phả Lại đến Uông Bí, Mạo Khê. Mục tiêu của chiến dịch nhằm tiêu diệt lực lượng dịch đồn trú ở đây, tạo đà cho chiến tranh du kích ở địa phương phát triển.

Chiến dịch Quang Trung (28 - 5 đến 20 - 6 - 1951 ): Đại đoàn 308, 304 và 320 cùng một số đơn vị hoả lực phối thuộc, có nhiệm vụ tiến công địch trong vùng sâu thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, phá tan lực lượng ngụy quân, tạo thế cho cuộc chiến tranh nhân dân phát triển ở vùng đông dân, giành lấy địa bàn quan trọng về kinh tế.

Qua 3 chiến dịch ở trung du và đồng bằng đã để lại nhiều bài học trong việc tổ chức chiến đấu cho lực lượng vũ trang cách mạng. Cuộc chiến đấu quyết liệt giữa bộ đội chủ lực của ta với lực lượng địch đóng trên các địa bàn trên chứng tỏ dù ta có quyết tâm lớn, dù có trận bộ đội ta đông hơn địch, nhưng trước mắt ta chưa thể giành thắng lợi lớn.

Sau hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ hai từ ngày 27 - 9 đến ngày 5 - 10 - 1951, cuộc chiến tranh du kích trong vùng địch hậu đã phát triển và phối hợp có hiệu quả với cuộc chiến đấu của bộ đội chủ lực trong phạm vi toàn quốc.

Rút bài học từ các chiến dịch ở trung du và đồng bằng, bộ đội chủ lực đã tiến công địch ở những địa bàn phù hợp với sở trường của lực lượng vũ trang cách mạng.

Chiến dịch Hoà Bình: Tháng 11 - 1951, địch sử dụng lực lượng cơ động chiến lược khoảng 30 tiểu đoàn đánh chiếm Hòa Bình, cửa ngõ nối tình tự do với đồng bằng Bắc Bộ. Mục tiêu của chiến dịch là tiến công và tiêu diệt lực lượng chủ lực địch ở tuyến phòng thủ Hòa Bình sông Đà đường số 6 phối hợp cùng mặt trận phía sau lưng địch phá kế hoạch bình định của địch ở đồng bằng Bắc Bộ, tạo điều kiện cho chiến tranh du kích phát triển.

Sau hơn hai tháng chiến đấu (từ 10 - 12 - 1951 đến 25 - 2-1952), 3700 quân địch trên cả hai mặt trận đã bị loại khỏi vòng chiến đấu; vùng giải phóng và khu căn cứ du kích đều được mở rộng, tạo thành thế liên hoàn trong nhiều tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.

Chiến thắng Hoà Bình đã đẩy địch sâu vào thế bị động phòng ngự báo hiệu kế hoạch Đơ Lat nhất định thất bại. Chiến dịch Hòa Bình tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội ở các chiến trường Bình Trị Thiên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ đẩy mạnh chiến tranh du kích, mở rộng vùng giải phóng.

Chiến dịch Tây Bắc: Cuối năm 1952, bộ đội được lệnh tiến công địch ở Tây Bắc nhằm mục đích tiêu diệt sinh lực địch, giành dân, mở rộng vùng giải phóng.

Tây Bắc có vị trí quan trọng, nhưng lực lượng địch ở đây tương đối yếu. Bộ đội tham gia chiến dịch này gồm đại đoàn 308, 312, 316, tiểu đoàn 910 và các đơn vị hoả lực phối thuộc.

Sau gần hai tháng chiến đấu (từ 14 - 10 đến 10 - 12 - 1952) ta đã diệt 6000 địch, mở rộng vùng giải phóng liền với căn cứ địa Việt Bắc. Phối hợp với chiến dịch Tây Bắc, chiến tranh du kích phát triển khắp các chiến trường.

Đầu năm 1953, trung ương Đảng chỉ đạo phương châm chiến đấu là: Tạm thời tránh chỗ mạnh, đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng địch hậu.

Phối hợp cùng bộ đội Pa Thét Lào, đầu năm 1953, các đại đoàn chủ lực Việt Nam mở chiến dịch Thượng Lào. Đây là chiến dịch đánh lần đầu tiền của liên quân Lào - Việt trên đất bạn.

Sau hơn một tháng vận động truy kích, tiêu diệt địch, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 3000 tên, giải phóng khoảng 1/5 diện tích nước Lào. Thắng lợi đó chứng tỏ cách mạng Đông Dương đang vươn lên giành thế chủ động trên khắp các chiến trường.

* Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ:

Sự sa lầy của Pháp ở Đông Dương càng tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp sâu và tìm cách gạt Pháp. Tuy nhiên, cả hai tên thực dân đều muốn tìm giải pháp mới hòng đảo ngược tình thế trên chiến trường. Tướng Nava (Navarre) được điều sang Đông Dương để thực hiện mưu đồ đó.

Nava vạch ra kế hoạch tác chiến gồm hai bước:

Bước một (từ thu đông 1953 - xuân 1954): Phòng ngự chiến lược ở chiến trường miền Bắc, bình định miền Nam, xoá bỏ vùng tự do Liên khu V.

Bước hai (từ mùa thu 1954): Tiến công chiến lược miền Bắc, từ thắng lợi quyết định về quân sự, buộc ta đàm phán theo điều kiện có lợi cho Pháp.

Muốn thực hiện ý đồ đó, điều quan trọng nhất là phải tập trung khối cơ động mạnh mới có thể giành thắng lợi với ta trong trận quyết chiến chiến lược.

Kế hoạch quân sự của Nava là sự nỗ lực tối đa của quân Pháp ở Việt Nam. Chính phủ Pháp hy vọng từ đó sẽ giành thắng lợi quyết định trong cuộc chiến tranh vốn quá lâu dài, đang bị dư luận ở Pháp và quốc tế lên án là cuộc chiến tranh bẩn thỉu. Mỹ đã kiểm tra, ủng hộ và viện trợ cho kế hoạch Nava.

Từ mùa hè năm 1953, Nava bắt đầu thực hiện bước thứ nhất. Địch mở liên tiếp nhiều cuộc hành quân trên các chiến trường và ra sức tập trung lực lượng cơ động. Cuối năm 1953, Nava đã tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ 44 tiểu đoàn.

Phối hợp với đòn tìến công của các đại đoàn chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích liên tục mở nhiều đòn tiến công dồn dập như mặt trận đường số 5, tập kích sân bay Cát Bà, Đồ Sơn, Gia Lâm, Tân Sơn Nhất, mặt trận đường số 9, ở Liên khu V, ở Nam Bộ...

Như vậy, trước khi trận quyết chiến lược Điện Biên Phủ mở màn, qua mấy tháng đấu trí, đấu lực ở giai đoạn đầu của chiến cuộc đông xuân 1953 - 1954, địch đã hoàn toàn bị động chiến lược. Trong khi đó, thế trận chiến tranh nhân dân của ta đã phát triển và lớn mạnh chưa từng có.

Là sản phẩm của thế bị động, nhưng thực dân Pháp được Mỹ giúp sức đã nhanh chóng biến Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm rất mạnh. Địch có 16.200 quân, bao gồm lực lượng bộ binh tương đương khoảng 14 tiểu đoàn, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải, một liên đội 12 máy bay. Tập đoàn Điện Biên Phủ có 49 cứ điểm đề kháng mạnh với 3 phân khu liên hoàn. Các tướng lĩnh và chính khách cả Pháp và Mỹ tin chắc Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả xâm phạm".

Tổng số bộ đội của ta tham gia chiến dịch khoảng 55.000 người, gồm 5 đại đoàn (308, 312, 316, 304, 351) cùng các tiểu đoàn thuộc đơn vị công binh, vận tải, thông tin, quân y phối thuộc.

Lực lượng phục vụ chiến dịch có 260.000 dân công hỏa tuyến, hơn 600 xe ô tô, 20.000 xe đạp thồ và 11.800 thuyền. Hàng chục tấn đạn dược, gần 3 vạn tấn gạo từ hậu phương được dồn ra mặt trận.

13 giờ ngày 13 - 3 - 1954, quân ta nổ súng tiến công Điện Biên Phủ.

Đây là chiến dịch lớn nhất trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân cả nước: Lực lượng bộ đội được huy động đông nhất, với trang bị hiện đại nhất lúc đó; tiến hành chiến dịch liên tục, dài ngày, bao gồm một loạt trận đánh công kiên; kết hợp cường tập, mật tập, vây lấn; ưu thế binh lực trong từng trận đánh nói riêng và toàn bộ chiến dịch nói chung, ta mạnh hơn địch nhiều lần.

Sau 3 đợt tiến công đến ngày 7 - 5 - 1954, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của địch hoàn toàn bị tiêu diệt 16.200 tên, kể cả bộ chỉ huy mặt trận của địch bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống. Toàn bộ kho tàng, vũ khí của địch bị thu hoặc bị phá hủy, 57 máy bay địch bị bắn rơi.

Trong khi bộ đội tiến hành chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân cả nước đã phối hợp nhịp nhàng, tiến công địch khắp nơi. Những thắng lợi từ mặt trận chính dội về đã thúc đẩy cuộc chiến đấu ở các địa phương phát triển. Ngược lại, cuộc chiến đấu và chiến thắng của chiến trường cả nước càng làm cho quân viễn chinh Pháp ở Điện Biên Phủ thêm cô lập, tuyệt vọng.

Chiến thắng Điện Biên Phủ là kết quả trực tiếp, cao nhất của chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 và là đỉnh cao của 9 năm kháng chiến thần thánh của dân tộc ta. Chiến thắng lịch sử này đã tạo điều kiện căn bản cho cuộc đấu tranh ngoại giao thắng lợi.

* Trên mặt trận ngoại giao:

Một ngày sau khi Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ, hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh họp ở Giơnevơ đã bắt đầu bàn về vấn đề Đông Dương. Hội nghị có đại diện của 9 nước Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Anh, Campuchia, Lào, đại diện của chính quyền Bảo Đại và đoàn đại biểu của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu.

Đại diện của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố lập trường trước sau như một của nhân dân Việt Nam là lập lại hoà bình ở Đông Dương phải là một giải pháp toàn bộ về chính trị và quân sự cho cả 3 nước Đông Dương, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước.

Do tương quan so sánh lực lượng trên phạm vi thế giới và khu vực, do so sánh lực lượng trực tiếp giữa ta và địch trên chiến trường, do lợi ích của các nước khi tham gia hội nghị, nên cuộc đấu tranh tại bàn đàm phán diễn ra rất gay go, phứt tạp. Cuối cùng, ngày 21 - 7 - 1954, các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia được ký kết. Bản tuyên bố cuối cùng về lập lại hoà bình ở Đông Dương được các nước tham dự hội nghị cam kết chính thức chấp nhận. Đại diện chính phủ Mỹ ra tuyên bố riêng thừa nhận Hiệp định.

Nội dung của Hiệp định Giơnevơ có 13 điều khoản, gồm các nội dung chính:

- Chấm dứt chiến sự, lập lại hoà bình ở Đông Dương.

- Cấm các nước ngoài đưa nhân viên quân sự và xây dựng căn cứ quân sự ở Đông Dương. Lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời cho hai miền Bắc - Nam.

- Thừa nhận nguyên tắc về độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia.

- Các bên tham gia hội nghị thừa nhận quyền độc lập, thống nhất, chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Hai bên Việt Nam sẽ tiến hành tổng tuyển cử vào tháng 7 - 1956.

- Quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương. Pháp cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thố của Lào và Campuchia.

- Những nguyện tắc trong quan hệ giữa 3 nước Đông Dương là tôn trọng chủ quyền độc lập, thống nhất, không can thiệp vào nội bộ của nhau.

Với giải pháp Giơnevơ, nhân dân Việt Nam đã đi được một nửa chặng đường trong sự nghiệp thiêng liêng giải phóng Tổ quốc, biểu hiện sinh động rằng trước khi giành thắng lợi hoàn toàn vì một quốc gia nhỏ như Việt Nam phải đương đầu với thế lực xâm lược lớn. Trong bối cảnh quan hệ quốc tế lúc đó, thì cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của nhân dân ta sẽ diễn ra phức tạp, lâu dài, gian khổ.

Ngày 22 - 7 - 1954. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: "Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ". Người khẳng định: "Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng".
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 11-1-2012 08:05 PM
Tình hình Việt Nam sau hiệp định Giơnevơ 1954

Tình hình Việt Nam hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết đã kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Chúng ta đã thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản quy định về đình chiến, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực.

1. Tình hình Việt Nam:

Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương được ký kết đã kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ đối với ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.

Chúng ta đã thực hiện nghiêm chỉnh những điều khoản quy định về đình chiến, tập kết chuyển quân và chuyển giao khu vực. Nhưng phía Pháp chỉ thực hiện khi có những đấu tranh mạnh mẽ và kiên quyết của nhân dân ta.

Ngày 10 - 10 - 1954, quân Pháp rút khỏi Hà Nội. Cùng ngày, quân ta tiến vào tiếp quản. Thủ đô giải phóng rợp cờ, hoa, biểu ngữ, vang dậy tiếng hoan hô của đồng bào mừng đón đoàn quân chiến thắng trở về.

Ngày 1 - 1 - 1955, tại quảng trường Ba Đình lịch sử đã diễn ra cuộc mít tinh trọng thể của hàng chục vạn nhân dân Hà Nội chào mừng trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh về Thủ đô.

Ngày 16 - 5 - 1955, toán lính Pháp cuối cùng rút khỏi Hải Phòng, và đến ngày 22 - 5 - 1955 thì rút khỏi đảo Cát Bà. Miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng.

Khi rút quân, Pháp mang theo hoặc trước đó đã phá hỏng nhiều máy móc, thiết bị, tài sản để gây khó khăn cho ta. Pháp còn cùng với Mỹ và Ngô Đình Diệm chỉ đạo bọn phản động tiến hành dụ dỗ, cưỡng ép nhiều đồng bào công giáo vào Nam để thực hiện ý đồ phung phá cách mạng về sau.

Trong khi đó, ở miền Nam, thực dân Pháp cũng có những hành động phá hoại hiệp định mới được ký kết.

Quân Pháp rút toàn bộ khỏi miền Nam Việt Nam khi còn nhiều điều khoản hiệp định có liên quan đến trách nhiệm của họ chưa được thi hành, trong đó có điều khoản về việc tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử hai miền Bắc - Nam Việt Nam. Pháp trút bỏ trách nhiệm thi hành những điều khoản còn lại của hiệp định cho Mỹ - Diệm, người kế tục chúng ở miền Nam.

Đế quốc Mỹ ra sức thực hiện ý đồ đã vạch ra từ trước nhằm độc chiếm miền Nam Việt Nam, tiến tới độc chiếm toàn Đông Dương. Ngày 25 - 6 - 1954 Mỹ đã ép được Pháp đưa Ngô Đình Diệm (người của Mỹ) thay Bửu Lộc (người của Pháp) lên làm thủ tướng chính phủ bù nhìn miền Nam Việt Nam.

Ngày 23 - 7 - 1954, ngoại trưởng Mỹ Đa lét (Dulles) tuyên bố: "Từ nay về sau, vấn đề bức thiết không phải là than tiếc dĩ vãng, mà là lợi dụng thời cơ để việc thất thủ miền Bắc Việt Nam không mở đường cho chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở Đông Nam Á và Tây Nam Thái Bình Dương".

Tháng 9 - 1954, Mỹ lôi kéo được một số đồng minh như Pháp, Anh... và một số nước Đông Nam Á lập ra khối "Liên minh quân sự Đông - Nam Á" (SEATO) và ngang nhiên đặt miền Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này.

Đưa được tay sai lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, gạt hết quân Pháp và tay sai của chúng ra khỏi miền Nam, Mỹ đã thực hiện được bước đầu ý đồ độc chiếm miền Nam Việt Nam.

Chính quyền Ngô Đình Diệm, với sự giúp đỡ và có sự chỉ đạo của Mỹ, ra sức phá hoại hiệp định Giơnevơ, từ chối hiệp thương với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà về việc tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất Việt Nam trong thời hạn hai năm theo điều khoản của hiệp định.

Đến hạn hai năm, tháng 7 - 1956, Diệm tuyên bố. "Sẽ không có hiệp thương tổng tuyển cử, vì chúng ta không ký Hiệp định Giơnevơ, bất cứ phương diện nào chúng ta cũng không bị ràng buộc bởi hiệp định đó". Bằng một loạt hành động trái với hiệp định, như bày trò "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại rồi suy tôn Ngô Đình Diệm làm Tổng thống (tháng 10 - 1955), tổ chức bầu cử riêng rẽ, lập quốc hội lập hiến (tháng 5 -1956), ban hành hiến pháp của cái gọi là "Việt Nam cộng hoà" (tháng 10 - 1956), Diệm đã trắng trợn từ chối và phá hoại việc thống nhất Việt Nam.

Cùng với sự giúp đỡ dưới hình thức "viện trợ" quân sự, chính trị, kinh tế, miền Nam Việt Nam được xây dựng thành căn cứ quân sự, thành cơ sở kinh tế thực dân kiểu mới của Mỹ.

Tất cả việc làm trên của Mỹ - Diệm không ngoài mục đích tách hẳn một phần lãnh thổ của Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để lập ra một quốc gia riêng biệt, thậm chí là một phần lãnh thổ của nước Mỹ. Tháng 5 - 1957, Ngô Đình Diệm tuyên bố tại Washington "Biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17".

2. Nhiệm vụ cách mạng:

Trong tình hình đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền, Đảng và chính phủ đề ra cho cách mạng mỗi miền những nhiệm vụ chiến lược phù hợp với đặc điểm tình hình và yêu cầu của cách mạng từng miền, nhằm chấm dứt tình trạng đất nước bị chia cắt.

Ở miền Bắc, sau khi kháng chiến chống Pháp kết thúc, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân căn bản hoàn thành, Đảng chủ trương chuyển sang xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trước khi bắt đầu những nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc phải trải qua giai đoạn đấu tranh đòi phía Pháp thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Giơnevơ, tiếp quản vùng mới giải phóng, hoàn thành cải cách ruộng đất, hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Trong quá trình này, Mỹ đã mở rộng hoạt động ném bom bắn phá, nên miền Bắc phải kết hợp cả với cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, nhằm bảo vệ miền Bắc và phối hợp với cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam. Xây dựng chủ nghĩa xã hội còn nhằm xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa cách mạng của cả nước và là hậu phương cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc.

Ở miền Nam, do vẫn còn dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, Đảng chủ trương tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mở đầu thời kỳ ta đấu tranh đòi Mỹ - Diệm thi hành nghiêm chỉnh hiệp định Giơnevơ 1954 về Việt Nam. Trong quá trình diễn biến, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng dân tộc chống cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ, nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, phối hợp với cuộc chiến đấu của nhân dân hai nước Lào và Campuchia...

Hai miền đồng thời thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách mạng cả nước là đánh Mỹ và bọn tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất đất nước, tạo điều kiện để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Trong việc thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu chung của cách mạng cả nước, cách mạng mỗi miền có vị trí và vai trò khác nhau. Miền Bắc là hậu phương nên nó có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng cả nước và sự nghiệp thống nhất đất nước. Miền Nam là tiền tuyến nên nó có vai trò quyết định trực tiếp trong việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hậu phương và tiền tuyến, cách mạng hai miền Bắc - Nam, do đó, có quan hệ gắn bó với nhau, phối hợp với nhau, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 11-1-2012 09:09 PM
Việt Nam (1954 - 1975)

Xây dựng miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ - Diệm ở miền Nam (1954 - 1960)


Sau tháng 7 - 1954, đất nước ta tạm chia làm hai miền. Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ, tiến tới thống nhất nước nhà. Công cuộc xây dựng miền Bắc (1954 - 1960) tiếp quản miền Bắc (1954 - 1955), trước khi rút quân ra khỏi miền Bắc theo Hiệp định Giơnevơ, thực dân Pháp cùng đế quốc Mỹ tiến hành nhiều hoạt động nhằm chống phá công cuộc xây dựng miền Bắc.

Sau tháng 7 - 1954, đất nước ta tạm chia làm hai miền. Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục đấu tranh thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân tộc, dân chủ, tiến tới thống nhất nước nhà.

1. Công cuộc xây dựng miền Bắc (1954 - 1960)

* Tiếp quản miền Bắc (1954 - 1955):

Trước khi rút quân ra khỏi miền Bắc theo hiệp định Giơnevơ, thực dân Pháp cùng đế quốc Mỹ tiến hành nhiều hoạt động nhằm chống phá công cuộc xây dựng miền Bắc.

Trong các thành phố, chúng tháo dỡ máy móc chuyển vào Nam, đóng cửa một số nhà máy cửa hàng, lôi kéo lực lượng trí thức, cán bộ kỹ thuật tay nghề cao vào Sài Gòn. Hồ sơ, tài liệu trong các công sở bị thiêu huỷ hoặc chuyển về vùng kiểm soát. Chúng xuyên tạc, dụ dỗ, cưỡng bức gần một triệu đồng bào di cư vào Nam, xúi dục bạo loạn, cài gián điệp ở lại… Cuộc đấu tranh chống địch phá hoại miền Bắc diễn ra khá gay go, trên tất cả các lĩnh vực.

Vì chuẩn bị chu đáo nên ta đã tiếp quản Hà Nội nhanh, gọn, an toàn. Ngày 1 - 1 - 1955, hàng vạn nhân dân đã tiến hành cuộc mít tinh chào mừng trung ương Đảng, Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh về thủ đô. Hà Nội trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Tháng 5 - 1955, quân đội Pháp hoàn toàn rút khỏi miền Bắc.

Ta và địch tiến hành trao trả cho nhau hàng vạn tù binh, 15 vạn chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc. Miền Bắc bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.

Trong nông nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc, có hơn 1.400.000 hécta đất bị bỏ hoang, hàng chục vạn nông dân không nhà ở, nhiều công trình thủy lợi bị thực dân Pháp tàn phá, hàng chục vạn trâu bò bị giật... Trong công nghiệp, phần lớn các xí nghiệp máy móc thiếu, hoặc quá lạc hậu. Khai thác mỏ giảm một nửa so với trước chiến tranh. Hệ thống giao thông và cơ sở hạ tầng nói chung bị tàn phá nghiêm trọng. Hàng triệu người miền Bắc mù chữ. Số trường lớp thiếu, tỷ lệ học sinh đến trường thấp. Số kỹ sư và cán bộ kỹ thuật ở lại trong các công sở thuộc Pháp trước đây rất ít. Hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân hầu như không đáng kể.

Thực trạng trên đòi hỏi phải khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đó là nhiệm vụ trung tâm, nặng nề của nhân dân miền Bắc sau tháng 7 - 1954.

Trong năm 1954 và đầu năm 1955, trung ương Đảng, Chính phủ và Quốc hội đã ra chiếu chỉ thị, chủ trương khôi phục kinh tế. Kế hoạch khôi phục kinh tế trong 3 năm (1955 - 1957) là phấn đấu đạt các chỉ tiêu kinh tế trước chiến tranh.

Nông nghiệp: Thực hiện cải cách ruộng đất trong những năm 1954 - 1956 không chỉ nhằm thực hiện nhiệm vụ cách mạng dân chủ, chia ruộng đất cho nông dân, mà nó còn có ý nghĩa quyết định trong khôi phục và phát triển kinh tế nông nghiệp.

Từ đợt I đến đợt V, cải cách ruộng đất được tiến hành trong 3653 xã, đã chia khoảng 334.100 ha ruộng đất cho khoảng 2 triệu hộ nông dân không có hoặc thiếu ruộng. Sau cải cách ruộng đất, các tầng lớp nông dân có diện tích canh tác tương đối đồng đều.

Do nông dân thực sự được quyền sở hữu ruộng đất và do các chính sách khuyến nông như, thủy lơi, phân bón, sức kéo... nền nông nghiệp được phục hồi nhanh chóng. Đến năm 1957, sản lượng lúa của miền Bắc đạt khoảng 4 triệu tấn, tăng hơn 1,5 triệu tấn so với năm 1939.

Về công nghiệp: Hầu hết các cơ sở sản xuất cũ được khôi phục, hơn 50 cơ sở mới, chủ yếu thuộc ngành sản xuất tiêu dùng được xây dựng. Bên cạnh việc xây dựng cơ sơ sản xuất quốc doanh, khu vực công nghiệp tư nhân, bao gồm các cơ sở sản xuất tư bản tư doanh và tiểu thủ công nghiệp được khuyến khích phát triển sản xuất.

Ngành văn hoá giáo dục phát triển khá nhanh. Hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học được tiêu chuẩn hóa một bước. Năm học 1956 - 1957, có gần 1 triệu học sinh phổ thông, hơn 600.000 học sinh vỡ lòng, 2984 sinh viên đại học, gần 8000 học sinh chuyên nghiệp trung cấp. Hơn 1 triệu người được xoá nạn mù chữ.

Hệ thống y tế, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được nhà nước quan tâm xây dựng. Nếp sống lành mạnh, vệ sinh được vận động thực hiện khắp mọi nơi. Đến năm 1957, miền Bắc có 153 cơ sở điều trị, 108 đội y tế lưu động, khoảng 8000 cán bộ y tế từ bác sĩ đến y tá. Những nạn dịch rất phổ biến ở miền Bắc như đau mắt hột, sốt rét… không còn xuất hiện nhiều như trước nữa.

Tuy nhiên trong buổi đầu xây dựng đất nước không thể tránh khỏi những khuyết điểm hạn chế. Những sai lầm trong khi thực hiện cải cách ruộng đất ảnh hưởng lớn đến tư tưởng quần chúng nhân dân, nhất là tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, trí thức. Lực lượng trong và ngoài nước lợi dụng tình hình đó đã đẩy mạnh hoạt động thổ phỉ ở một số vùng miền núi, gây bạo loạn ở một số nơi ở vùng đồng bằng; nhóm Nhân văn giai phẩm ra nhiều ấn phẩm chống lại vai trò lãnh đạo của Đảng.

Đánh giá đúng nguyên nhân của các sự kiện trên, một mặt, Đảng và chính phủ nghiêm khắc sửa chữa sai lầm của mình, mặt khác, tuyên truyền giáo dục, phân hoá những người lầm đường trở về với sự nghiệp chung của dân tộc. Đối với những phần tử đầu sỏ, ngoan cố, nhà nước kiên quyết xử lý theo pháp luật.

Trong ba năm khôi phục kinh tế, nền kinh tế miền Bắc được phục hồi, phát triển với sự hiện diện của nhiều thành phần kinh tế. Trên 10 vạn người thất nghiệp ở Hà Nội, Hải Phòng và các thị xã, thị trấn trên miền Bắc đã có việc làm ổn định. Đời sống nhân dân dần được nâng cao.

Với những thành tựu thu được trong thời kỳ khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá xã hội (1955 - 1957), miền Bắc đã cơ bản khắc phục được hậu quả của chiến tranh. Đây là thời đoạn lịch sử quá độ chuẩn bị cho miền Bắc bước vào thời kỳ mới.

Trong thời kì cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960):

Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành trung ương Đảng (tháng 11 - 1958) vạch chủ trương thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, tiểu thương tiểu chủ, thợ thủ công và nông dân cá thể. Đi đôi với quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa. Hội nghị xác định phải ra sức xây dựng, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh.

Trong kế hoạch 3 năm lần thứ hai, nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp có vị trí trọng tâm, quan trọng nhất. Phương hướng cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp là đưa nông dân vào làm ăn tập thể.

Từ quý III năm 1958, một số hợp tác xã sản xuất nông nghiệp có vị trí trọng tâm, quan trọng nhất. Phương hướng cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp được xây dựng thí điểm. Năm 1959, phong trào phát triển khắp nơi và trở thành cao trào trong năm 1960. Đến cuối năm 1960, có 85,83% tổng sản xuất tập thể

Tư sản dân tộc miền Bắc vốn ít, phần đông kinh doanh thương nghiệp và nhà ở. Họ từng là bạn đồng minh của giai cấp công nhân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vì vậy với chính sách cải tạo hoà bình, bằng trưng mua, chuộc lại, nên đến năm 1960, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với lực lượng này căn bản đã hoàn thành. Khoảng 3 vạn công nhân trong các cơ sơ sản xuất tư nhân đã trở thành cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước.

Chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với lực lượng tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công là đưa họ vào con đường làm ăn tập thể trong các hợp tác xã thủ công nghiệp, tổ sản xuất thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán. Phần lớn lực lượng tiểu thương được chuyển sang sản xuất nông nghiệp.

Đồng thời với nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, công nghiệp quốc doanh được ưu tiên đầu tư xây dựng. Vốn đầu tư năm 1960 ở khu vực công nghiệp quốc doanh tăng 2,6 lần so với năm 1957. Vì vậy, có hàng trăm cơ sở sản xuất mới và tỷ trọng giá trị tổng sản lượng công nghiệp ngày một cao. Tỷ trọng công nghiệp quốc doanh và công ty hợp doanh chiếm 25,6% vào năm 1957 đã lên 58% tổng giá trị sản phẩm công nghiệp vào năm 1960. Tỷ trọng giữa công nghiệp và nông nghiệp năm 1957 là 31,4%/68,4% đã tăng lên 42,6%/57.4% vào năm 1960. Một số khu công nghiệp được xây dựng như Thượng Đình, Thái Nguyên, Nam Định, Hải Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng. Công nghiệp địa phương cũng phát triển khá nhanh, năm 1960 đã tăng 10 lần so với năm 1957.

Lực lượng lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh tăng từ 259.100 người vào năm 1957 lên 477.400 người vào năm 1960.

Cải tạo xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế - xã hội miền Bắc, đưa thành phần kinh tế toàn dân và tập thể thành vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế quốc dân.

Văn hóa, giáo dục cũng thu được nhiều thành tựu to lớn. Vào năm học 1959 - 1960, miền Bắc có 6.300 trường, với 2,5 triệu học sinh, sinh viên, chiếm khoảng 17% dân số. Số học sinh phổ thông ở các cấp I, II, III và số sinh viên đại học tăng từ 2 đến 4 lần so với năm học 1956 - 1957. Số nữ sinh và học sinh các dân tộc miền núi đến trường ngày càng đông.

Hệ thống y tế chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng phát triển khá nhanh. Số cơ sở điều trị, điều dưỡng, nhà hộ sinh tăng hơn 10 lần so với năm 1956. Các bệnh dịch lây lan với quy mô và phạm vi lớn ở miền Bắc căn bản không còn nữa.

Hệ thống chính trị được củng cố, hoàn thiện. Hiến pháp mới của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được ban hành ngày 1 -1 - 1960. Cơ quan hành chính các cấp từ trung ương đến cơ sở tuy giảm về số lượng biên chế, nhưng hiệu quả công tác lại được nâng cao hơn trước.

Lực lượng vũ trang cách mạng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Chế độ nghĩa vụ quân sự xác định nhập ngũ bảo vệ tổ quốc là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi công dân. Các sư đoàn chủ lực được trang bị binh khí kỹ thuật mới, tiến dần lên chính quy hiện đại. Bộ đội địa phương, dân quân du kích được tổ chức, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Lực lượng Công an nhân dân được kiện toàn về tổ chức, nghiệp vụ được nâng cao. Đến năm 1960, về căn bản, quân và dân miền Bắc đã tiêu trừ xong lực lượng phỉ và bọn bạo loạn.

Thực hiện kế hoạch 3 năm lần thứ nhất (1955 - 1957) và 3 năm lần thứ hai (1958 - 1960) đã làm diện mạo miền Bắc thay đổi.

2. Đấu tranh chống Mỹ - Ngụy ở miền Nam

* Quá trình áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam:

Sau hiệp định Giơnevơ, Mỹ từng bước thay thế vị trí của Pháp ở miền Nam: Về chính trị, Mỹ đã ép Pháp trao quyền cai trị ở miền Nam cho Ngô Đình Diệm con bài Mỹ đã chuẩn bị từ trước. Từng bước một, Diệm loại lực lượng thân Pháp khói bộ máy hành chính.

Tháng 3 năm 1956, Mỹ Diệm tổ chức bầu cử Quốc hội ở miền Nam, lập chế độ Việt Nam cộng hòa do Diệm làm tổng thống. Sự kiện Mỹ Diệm lập quốc gia độc lập dân chủ ở miền Nam là cột mốc đánh dấu Mỹ đã áp đặt xong thể chế chính trị hoàn toàn phụ thuộc Mỹ ở miền Nam.

Để gây dựng và duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới, Mỹ đã tăng cường viện trợ mọi mặt cho Diệm. Lực lượng cột trụ để bảo vệ "Việt Nam cộng hòa" là quân đội Sài Gòn do Mỹ huấn luyện, chỉ huy. Mỹ nhanh chóng xây dựng 10 sư đoàn cho quân ngụy, với trang bị hiện đại. Sau khi dẹp xong lực lượng Việt quốc, Việt cách ở miền Trung: Diệm quay sang tiêu diệt lực lượng vũ trang của các giáo phái thân Pháp (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên). Cuộc chiến giữa Diệm với lực lượng thân Pháp bùng nổ tại Sài Gòn và vùng bưng biền Đồng Tháp trong những năm 1954 - 1955 ở quy mô một cuộc chiến tranh, về thực chất là sự hất cẳng quân sự của chủ nghĩa thực dân kiểu mới đối với Pháp.

Viện trợ tài chính cho Sài Gòn liên tục được tăng cường song song với sự hiện diện ngày càng nhiều cố vấn quân sự Mỹ. Các căn cứ quân sự hiện đại được xây dựng nhanh chóng. Lối sống Mỹ, văn hóa Mỹ du nhập và truyền bá vào miền Nam.

Miền Nam có vị trí quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Mục tiêu của Mỹ ở đây là biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự, ngăn chặn "làn sóng đỏ" đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á, chống lại phong trào giải phóng dân tộc đang bùng nổ ở khu vực này.

Khi Mỹ triển khai và đã áp đặt xong chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền Nam, thì đối tượng đấu tranh của nhân dân ta không còn là chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, mà đã chuyển sang chủ nghĩa thực dân kiểu mới - đế quốc Mỹ, một siêu cường có tiềm lực kinh tế và quân sự khổng lồ, hung hăng, hiếu chiến. Vì vậy, cuộc đấu tranh vì độc lập, thống nhất dân tộc của nhân dân ta chắc chắn sẽ diễn ra ác liệt gấp bội so với thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

* Phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam trong những năm 1954 - 1956:

Trong 300 ngày chuyển quân tập kết, cán bộ và chiến sĩ chiến đấu, công tác ở miền Nam rời chiến trường ra Bắc. Chính quyền kháng chiến các cấp giải thể; vùng giải phóng rộng lớn ở miền Trung và Nam Bộ được giao cho đối phương quản lý.

Nhìn trong phạm vi cục bộ, cuộc đấu tranh với Mỹ - Diệm của đồng bào, đồng chí ở lại miền Nam không còn có đủ những ưu thế giống như họ từng có trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp.

Tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng, nhân dân miền Nam đã chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương chuyển hướng chủ đạo chiến lược của Đảng với lực lượng chính trị của mình, đã kiên cường đấu tranh chống kẻ thù đang rắp tâm phá hoại hiệp định Giơnevơ, chống đàn áp, trả thù những người kháng chiến cũ.

Khẩu hiệu đấu tranh chính, chủ yếu của nhân dân miền Nam trong thời kỳ này là đòi hỏi đối phương phải thả tù chính trị, đòi thực hiện hiệp thương, tổng tuyển cử, thống nhất đất nước như hiệp định Giơnevơ đã quy định. Mục tiêu đó đã thu hút hàng triệu quần chúng xuống đường trong các năm từ 1954 - 1956. Ở Sài Gòn - Gia Định, có những cuộc mittinh, tuần hành lôi cuốn hàng chục vạn đồng bào tham gia. Từ ngày ký hiệp định Giơnevơ cho đến giữa năm 1956, lực lượng nhân dân miền Nam luôn chiếm ưu thế về chính trị.

Tuy mục tiêu đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử không thực hiện được bởi Mỹ - Diệm ngoan cố chia cắt nước ta, nhưng phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam, của đồng bào đô thị đã thể hiện rằng thống nhất đất nước là nguyện vọng sâu sắc, thiêng liêng của nhân dân cả nước. Với kẻ thù mới, nhân dân miền Nam cần có phương hướng đấu tranh thích hợp để hoàn thành mục tiêu cách mạng của mình.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 12-1-2012 11:27 AM
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ ở miền Nam (1961 - 1965)


Mỹ tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam. Để tránh thất bại hoàn toàn ở miền Nam Việt Nam sau cuộc "Đồng khởi" (1959 - 1960), Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, từ chiến lược "Chiến tranh đơn phương" (1954 - 1960) sang chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961-1965).

1. Mỹ tiến hành chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam:

Để tránh thất bại hoàn toàn ở miền Nam Việt Nam sau cuộc "Đồng khởi" (1959 - 1960), Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, từ chiến lược "Chiến tranh đơn phương" (1954 - 1960) sang chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 - 1965).

"Chiến tranh đặc biệt" là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ, được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn quân sự và dựa vào vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh của Mỹ nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Âm mưu cơ bản của "Chiến tranh đặc biệt" là "dùng người Việt đánh người Việt".

Thực hiện kế hoạch chiến lược trên, Mỹ tăng nhanh viện trợ quân sự cho Diệm, đưa vào miền Nam số lượng ngày càng lớn "cố vấn" quân sự và lực lượng hỗ trợ chiến đấu. Số lượng đó tăng lên hàng năm: cuối năm 1960 có 1.100 tên; cuối năm 1962 có 11.000; cuối năm 1964 có 26.000. Bộ chỉ huy quân sự Mỹ (MACV) được thành lập tại Sài Gòn ngày 8 - 2 - 1962 thay cho đoàn cố vấn viện trợ quân sự (MAAG) được thành lập năm 1950.

Để phối hợp, chính quyền Sài Gòn ra sức bắt lính, tăng nhanh lực lượng quân ngụy, từ 170.000 (giữa 1961) lên 560.000 (cuối 1964). Quân ngụy được trang bị hiện đại, sử dụng phổ biến các chiến thuật mới, như "trực thăng vận", "thiết xa vận".

Được sự hỗ trợ chiến đấu và chỉ huy của cố vấn Mỹ, quân Ngụy liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành nhiều hoạt động phá hoại miền Bắc, hoạt động kiểm soát, phong tỏa biên giới và vùng biển.

Dựa vào lực lượng quân sự và bằng những cuộc hành quân càn quét, chính quyền Sài Gòn đã ráo riết dồn dân, lập "Ấp chiến lược" (sau đổi là "Ấp tân sinh"), dự định dồn 10 triệu nông dân vào 16.000 ấp trong tổng số 17.000 ấp toàn miền Nam bằng thủ đoạn cưỡng ép. Chúng lập ấp đến đâu thì giăng đồn bốt, lập bảo an, dân vệ, chính quyền đến đó để kìm kẹp. Nhân dân trong các "Ấp chiến lược" bị kiểm soát gắt gao, ngột ngạt, như trong các trại tập trung. "Ấp chiến lược" được coi là "quốc sách" và gần như một cuộc chiến tranh tổng lực nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các xã, ấp, tách dân khỏi cách mạng tiến tới nắm dân, thực hiện chương trình "bình định" miền Nam.

Mỹ - Nguỵ dự định thực hiện những mục tiêu của "Chiến tranh đặc biệt", trọng tâm là mục tiêu "bình định" trong vòng 18 tháng, bắt đầu từ giữa năm 1961 bằng kế hoạch Stalây Tay lo. Đến đầu năm 1964, khi 18 tháng đã qua, miền Nam vẫn chưa được "bình định", Mỹ đặt yêu cầu khiêm tốn: "bình định" miền Nam có trọng điểm trong thời hạn 2 năm bằng kế hoạch Giônxơn - Mác Namara.

2. Miền Nam chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ:

Đáp ứng yêu cầu của cách mạng từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên chiến tranh cách mạng, chống "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - Ngụy, ngày 15 - 2 - 1961, các lực lượng vũ trang cách mạng thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Đây là sự kiện quan trọng tiếp sau sự kiện Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời (ngày 20 - 12 - 1960) và Trung ương Cục miền Nam Việt Nam được thành lập (tháng 1 - 1961) thay cho xứ uỷ Nam Bộ cũ.

Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của mặt trận do Đảng lãnh đạo, quân giải phóng miền Nam cùng với nhân dân đẩy mạnh đấu tranh chống Mỹ và tay sai, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy với tiến công trên cả ba vùng chiến lược, tiến công địch bằng cả ba mũi chính trị, quân sự và binh vận.

Trên mặt trận quân sự, quân giải phóng giành thắng lợi mở đầu vang dội trong trận ấp Bắc (Mỹ Tho) ngày 2 - 1 - 1963. Tại đây, lần đầu tiên với số quân ít hơn địch 10 lần, quân giải phóng đánh bại cuộc hành quân càn quét của trên 2.000 lính nguỵ có cố vấn Mỹ chỉ huy, được pháo binh, máy bay lên thẳng, xe tăng, xe bọc thép của Mỹ yểm trợ.

Trên mặt trận chống phá "bình định", giữa địch và quân cách mạng đã diễn ra cuộc đấu tranh dai dẳng, giằng co nhau quyết liệt giữa lập và phá "Ấp chiến lược". Đến cuối năm 1964 đầu năm 1965, từng mảng lớn "Ấp chiến lược" do địch lập ra bị quân dân ta phá và có nhiều ấp sau đó trở thành làng chiến đấu. Phong trào đấu tranh chính trị lên cao ở các đô thị và nhiều vùng nông thôn rộng lớn. Đặc biệt ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, phong trào đã thu hút đông đảo quần chúng, nhất là giới phật tử, các tầng lớp học sinh, sinh viên tham gia. Chính phong trào này đã góp phần quyết định làm lung lay ngụy quyền Sài Gòn, buộc Mỹ phải đi đến quyết định làm đảo chính quân sự thay Diệm.

Đông - Xuân 1964 - 1965, quân giải phóng mở chiến dịch tiến công địch ở miền Đông Nam Bộ với trận mở màn chiến thắng ở Bình Giã (ngày 2 - 12 - 1964), làm phá sản về cơ bản chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 12-1-2012 12:43 PM
Chiến đấu bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đánh bại "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ ở miền Nam (1965 - 1968)


Miền Nam chiến đấu chống chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ (1965 - 1968)

Đầu năm 1965, trước nguy cơ phá sản hoàn toàn của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh và quân chư hầu cùng với vũ khí, phương tiện chiến tranh vào miền Nam nhằm đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, chuyển sang chiến lược "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và mở rộng "Chiến tranh phá hoại" miền Bắc.

"Chiến tranh cục bộ" là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới nằm trong chiến lược quân sự toàn cầu "phản ứng linh hoạt" của Mỹ. "Chiến tranh cục bộ" bắt đầu từ giữa năm 1965 được tiến hành bằng lực lượng của quân viễn chinh Mỹ, quân "đồng minh" và quân ngụy tay sai ở miền Nam, trong đó quân Mỹ giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta.

Số lính Mỹ có mặt ở miền Nam cuối năm 1964 là 26.000 đến cuối năm 1965 lên tới 180.000 và 20.000 lính chư hầu. Đó là chưa kể 70.000 lính hải quân và không quân trên các căn cứ Mỹ ở Guam, Philippin, Thái Lan và hạm đội 7 luôn sẵn sàng tham chiến ở miền Nam.

Ỷ vào ưu thế quân sự cộng với quân đông, vũ khí hiện đại, hoả lực mạnh, cơ động nhanh, Mỹ vừa mới vào miền Nam đã cho quân viễn chinh mở ngay cuộc hành quân "tìm diệt" mang tên "Ánh sáng sao" vào căn cứ của quân giải phóng ở Vạn Tường - Quảng Ngãi (tháng 8 - 1965). Tiếp đó Mỹ mở liền hai cuộc phản công chiến lược trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 bằng nhiều cuộc hành quân vào "Đất thánh Việt cộng".

Miền Nam chiến đấu chống "Chiến tranh cục bộ" của Mỹ là chiến đấu chống lại một cuộc chiến tranh xâm lược được tăng cường và mở rộng với lực lượng quân đội mạnh, lúc cao nhất (năm 1968) lên hơn 1 triệu quân, gồm Mỹ, chư hầu và ngụy quân với vũ khí hiện đại.

Nhưng với ý chí không gì lay chuyển "quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược", được sự phối hợp chiến đấu và chi viện ngày càng lớn của miền Bắc, quân dân miền Nam đã anh dũng chiến đấu và liên tiếp giành thắng lợi, với thắng lợi mở đầu ở Vạn Tường (ngày 18 - 8 - 1965).

Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực quân giải phóng lúc đó đang đóng ở Vạn Tường, cùng với quân du kích và nhân dân địa phương đã đẩy lùi cuộc hành quân của địch, diệt hơn 900 tên, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay.

Khả năng thắng Mỹ trong "Chiến tranh cục bộ" của quân dân ta được chứng minh trong chiến thắng Vạn Tường đã trở thành hiện thực trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967. Ta đập tan liền hai cuộc phản công chiến lược bằng hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định" của Mỹ vào "Đất thánh Việt cộng".

Tổng hợp trong mùa khô thứ hai, trên toàn miền, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 151.000 tên địch, trong đó có 68.200 Mỹ, 5.540 chư hầu, bắn rơi và phá huỷ 1.231 máy bay, phá huỷ 1.627 xe tăng và xe bọc thép, 2.107 ôtô.

Ngoài ra, ở hầu khắp các vùng nông thôn, nông dân được sự hỗ trợ của các lực lượng vũ trang, đã vùng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, trừng trị bọn ác ôn, phá từng mảng lớn "Ấp chiến lược". Trong hầu hết các thành thị miền Nam, giai cấp công nhân, các tầng lớp lao động khác, học sinh, sinh viên, phật tử, các binh sĩ ngụy đều nổi dậy đấu tranh đòi Mỹ rút về nước, đòi tự do dân chủ. Kết quả là vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Đến cuối năm 1967, Mặt trận có cơ quan thường trực ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa và ở một số nước thế giới thứ ba. Cương lĩnh của Mặt trận được 41 nước, 12 tổ chức quốc tế và 5 tổ chức có tính chất khu vực lên tiếng ủng hộ.

Đêm 30 rạng sáng 31 - 1 - 1968, (đêm giao thừa Tết Mậu Thân) quân dân ta trên khắp miền Nam đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37 trong tổng số 44 tỉnh, 5 trong số 6 đô thị, 64 trong số 242 quận lỵ và ở hầu khắp các "Ấp chiến lược", các vùng nông thôn.

Tại Sài Gòn, quân giải phóng tiến công tận các vị trí đầu não của địch, như toà Đại sứ Mỹ dinh "Độc lập", Bộ tổng tham mưu ngụy, Bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất... Trong đợt 1, không đầy một tháng, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 147.000 tên địch, trong đó có 43.000 lính Mỹ, phá huỷ một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng. Từ trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình, đại diện cho tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở các thành thị đã được thành lập ở Sài Gòn, Huế và toàn miền Nam.

Đó là đòn bất ngờ làm cho địch choáng váng. Nhưng do lực lượng địch còn đông (hơn nửa triệu lính Mỹ, gần 1 triệu lính ngụy), cơ sở ở thành thị mạnh, chúng nhanh chóng tổ chức được lực lượng phản công lại quân ta ở cả thành thị lẫn nông thôn, lực lượng của ta gặp không ít khó khăn và tổn thất.

Nhận định về cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: "Về cuộc tổng tấn công Mậu Thân, mục đích của chúng tôi là làm sao Mỹ rút khỏi Việt Nam và qua đợt 1, chúng tôi thắng to, nhưng nếu làm theo quyết định của Trung ương: xong đợt 1 rút ngay về nông thôn thì tình hình sẽ khác, đằng này không làm như vậy nên bị tổn thất, song vẫn đạt yêu cầu: buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán thương lượng".

* Mỹ tiến hành chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (1965 - 1968):

Cuối năm 1964 đầu năm 1965, đồng thời với việc đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam, Mỹ mở rộng chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc.

Ngày 5 - 8 - 1964, dựng lên "sự kiện vịnh Bắc Bộ", Mỹ cho máy bay ném bom, bắn phá một số nơi ở miền Bắc như: cửa sông Gianh, Vinh - Bến Thuỷ, Lạch Trường, thị xã Hòn Gai.

Ngày 7 - 2 - 1965, lấy cớ "trả đũa" việc quân giải phóng miền Nam tiến công doanh trại quân Mỹ ở Plâycu, Mỹ cho máy bay ném bom, bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ... mở đầu chính thức cuộc chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc lần thứ nhất.

Tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, Mỹ âm mưu: Phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng, phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam; uy hiếp tinh thần, làm lung lay quyết tâm chống Mỹ của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước.

Mỹ coi việc thực hiện những mục tiêu đó như những biện pháp nhằm củng cố tinh thần quân nguỵ đang sa sút nghiêm trọng, ngăn phong trào giải phóng dân tộc đang dâng cao. Mỹ đã huy động một lực lượng không quân và hải quân rất lớn, gồm hàng ngàn máy bay tối tân thuộc 50 loại khác nhau, kể cả những loại mới nhất, như F111, B52, và với các loại vũ khí hiện đại khác.

Không quân và hải quân Mỹ tập trung đánh vào các mục tiêu quân sự, các đầu mối giao thông, các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, các công trình thuỷ lợi, khu đông dân. Dã man hơn, chúng đánh cả trường học, nhà trẻ, bệnh viện, khu an dưỡng, đền, chùa, nhà thờ.

Máy bay, tàu chiến Mỹ ném bom, bắn phá liên tục, khắp mọi nơi, mọi lúc, trong mọi thời tiết, với cường độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày chúng thả bom khoảng 300 lần, với 1.600 tấn bom đạn trút xuống các làng mạc, phố xá. Bom đạn của chúng đã cướp đi biết bao sinh mạng và gây thương tích cho bao nhiêu người. Bom đạn của chúng cũng đã tàn phá biết bao của cải, cơ sở kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải), công trình văn hoá, giáo dục, y tế mà nhân dân ta đã tạo nên trong hơn 10 năm trước đó.

* Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại, vừa chiến đấu vừa sản xuất:

Ngay từ khi Mỹ bắt đầu mở rộng chiến tranh phá hoại, miền Bắc đã kịp thời chuyển mọi hoạt động cho phù hợp với hoàn cảnh mới, thực hiện quân sự hoá toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào phòng tránh, tiến hành triệt để sơ tán, phân tán người và của khỏi những vùng trọng điểm, những nơi đông dân, để tránh thiệt hại lớn, bảo đảm đời sống ổn định.

Chống lại những hành động phá hoại của địch là nhiệm vụ của các lực lượng phòng không, không quân, của lực lượng hải quân, với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, và của cả lực lượng tự vệ, dân quân, của toàn dân, bất cứ trẻ già, trai gái với vũ khí thông thường, hễ địch đến là đánh, ai không trực tiếp chiến đấu thì phục vụ chiến đấu, lúc tạm thời yên ổn thì toàn dân tham gia sản xuất.

Trong sản xuất, xây dựng kinh tế, ta chủ trương đẩy mạnh kinh tế địa phương, chú trọng phát triển nông nghiệp. Xây dựng kinh tế thời chiến theo hướng đó sẽ hạn chế được sự tàn phá của chiến tranh và tăng khả năng đảm bảo cho nhu cầu của cuộc chiến đấu tại chỗ và đời sống nhân dân từng địa phương.

Các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội (như văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, văn học, nghệ thuật) cũng được chú trọng phát triển.

Trong chiến đấu và sản xuất, phong trào thi đua chống Mỹ, cứu nước dâng cao, thể hiện sáng ngời chân lý: "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Các lực lượng vũ trang nhân dân nêu khẩu hiệu "Nhằm thẳng quân thù mà bắn", "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Giai cấp công nhân nêu quyết tâm "Chắc tay súng, vững tay búa", phấn đấu đạt "Ba điểm cao". Nông dân tập thể nêu quyết tâm "Chắc tay súng, vững tay cày", phấn đấu đạt "Ba mục tiêu''. Thanh niên có phong trào "Ba sẵn sàng", phụ nữ có phong trào "Ba đảm đang", giáo viên và học sinh có phong trào thi đua "Hai tốt", thiếu niên nhi đồng có phong trào "Làm nghìn việc tốt".

Trong hơn bốn năm (từ ngày 5 - 8 - 1964 đến ngày 1 - 11 - 1968), quân dân miền Bắc đã bắn rơi, phá huỷ 2.334 máy bay, trong đó có 6 chiếc B52, 3 chiến F111; diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái; bắn cháy, bắn bị thương 143 tàu chiến, tàu biệt kích của chúng. Do bị thất bại nặng ở cả hai miền, đến ngày 1 - 11 - 1968, Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng hẳn ném bom, bắn phá miền Bắc.

Trong khi đó, sản xuất tiếp tục được đẩy mạnh. Trong nông nghiệp, diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên, ngày càng có nhiều hợp tác xã, nhiều địa phương đạt "Ba mục tiêu". Từ bảy huyện đạt mức sản lượng thóc 5 tấn/hecta trong hai vụ năm 1965 đã tăng lên 14 huyện năm 1966, 30 huyện năm 1967. Hàng chục nghìn cán bộ, công nhân kỹ thuật được đào tạo để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong công nghiệp, năng lực sản xuất ở một số ngành được giữ vững. Các cơ sở công nghiệp lớn đã kịp thời sơ tán, phân tán và sớm đi vào sản xuất, bảo đảm những nhu cầu thiết yếu nhất của chiến đấu, sản xuất và đời sống. Đầu tư vào công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng tăng lên so với thời kỳ trước chiến tranh. Mức đầu tư vào công nghiệp địa phương trong hai năm 1966 - 1967 tăng 1,5 lần so với kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1961 - 1965). Mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối hoàn chỉnh, có thể tự cấp tự túc đến mức cao nhất, bảo đảm hậu cần cho cuộc chiến đấu tại chỗ, tự sản xuất các mặt hàng tư liệu sản xuất phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng thiết yếu của nhân dân địa phương. Tiểu thủ công nghiệp, một bộ phận quan trọng của công nghiệp địa phương, cũng được chú trọng phát triển.

Nhờ những nỗ lực phi thường trong sản xuất, trong chiến đấu bảo vệ sản xuất của giai cấp công nhân, nông dân tập thể, của toàn dân, cùng với sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa và loài người tiến bộ, những nhu cầu của cuộc chiến đấu tại chỗ và ở miền Nam, cùng với những nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân đã được đáp ứng.

* Miền Bắc làm nghĩa vụ hậu phương lớn:

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền Bắc là hậu phương lớn có nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Miền Bắc đã làm tròn nghĩa vụ đó một cách xuất sắc.

Ngay cả trong điều kiện chiến tranh ác liệt, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, miền Bắc vẫn hướng về miền Nam. Vì tiền tuyến kêu gọi, hậu phương sẵn sàng đáp lại "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Vì miền Nam ruột thịt, miền Bắc phấn đấu "Mỗi người làm việc bằng hai".

Tuyến đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam mang tên Hồ Chí Minh trên bộ dọc theo dãy Trường Sơn và trên biển dọc theo bờ biển Việt Nam bắt đầu khai thông từ tháng 5 - 1959, dài hàng nghìn kilômét đã nối liền hậu phương tiền tuyến, thắt chặt tình cảm ruột thịt Bắc - Nam.

Qua hai tuyến đường vận chuyển chiến lược đó, chủ yếu trên đường Trường Sơn, trong bốn năm (1965 - 1968) miền Bắc đã đưa hơn 300.000 cán bộ, bộ đội vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, tham gia các nhiệm vụ xây dựng kinh tế, văn hoá tại các vùng giải phóng, và cũng đã gửi vào Nam hàng chục vạn tấn hàng, gồm vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nhiều vật dụng khác. Tính chung, sức người, sức của từ Bắc chuyển vào Nam trong bốn năm đã tăng gấp 10 lần so với thời kỳ trước. Đó là chưa kể hàng vạn chiến sĩ lái xe, lái tàu, công binh, thanh niên xung phong, giao liên làm nhiệm vụ đưa đón trên tuyến đường Trường Sơn.

Nguồn lực chi viện trên cùng với thắng lợi của quân dân miền Bắc giành được trong chiến đấu và sản xuất, có tác dụng to lớn. Nó đã góp phần quyết định vào thắng lợi của quân dân miền Nam trong chiến đấu chống chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 12-1-2012 05:36 PM
Chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh và "Đông Dương hoá" chiến tranh của Mỹ (1969 - 1973)


Đầu năm 1969, vừa trúng cử tổng thống và chính thức bước vào Nhà Trắng, Níchxơn cho ra đời "Học thuyết Níchxơn", đề ra chiến lược toàn cầu "Ngăn đe thực tế" thay cho chiến lược toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" của Kennơđi đã bị phá sản trên thế giới và ở Đông Dương.

Đầu năm 1969, vừa trúng cử tổng thống và chính thức bước vào Nhà Trắng, Níchxơn cho ra đời "Học thuyết Níchxơn", đề ra chiến lược toàn cầu "Ngăn đe thực tế" thay cho chiến lược toàn cầu "Phản ứng linh hoạt" của Kennơđi đã bị phá sản trên thế giới và ở Đông Dương. Mỹ thực hiện thí điểm ở các nước Đông Dương chiến lược toàn cầu mới, đề ra chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh, "Lào hoá" chiến tranh, "Khơme hoá" chiến tranh, và "Đông Dương hoá" chiến tranh.

"Việt Nam hoá" chiến tranh của Níchxơn là để thay cho chiến lược chiến tranh cục bộ của Giônxơn đã phá sản, là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ được tiến hành bằng quân đội tay sai là chủ yếu, có sự phối hợp của một bộ phận đáng kể lực lượng chiến đấu Mỹ và vẫn do Mỹ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn quân sự, cung cấp đô la, vũ khí kỹ thuật, phương tiện chiến tranh, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta.

Thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh, quân viễn chinh Mỹ và quân chư hầu rút dần khỏi chiến tranh đồng thời tăng cường quân đội tay sai để giảm xương máu người Mỹ trên chiến trường. Thực chất đó là sự tiếp tục thực hiện âm mưu "dùng người Việt đánh người Việt".

Nhưng trong thời kỳ đầu của "Việt Nam hoá" chiến tranh, quân Mỹ còn giữ vai trò quan trọng, cùng với quân ngụy là hai lực lượng chiến lược. Quân Mỹ và chư hầu trong năm đầu (1969) đạt đến con số cao nhất (hơn 50 vạn lính Mỹ, 7 vạn lính chư hầu) là chỗ dựa của quân ngụy và của chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh.

Quân đội Sài Gòn còn được Mỹ sử dụng như lực lượng xung kích ở Đông Dương trong các cuộc hành quân mở rộng xâm lược Campuchia (1970), tăng cường chiến tranh ở Lào (1971), thực hiện âm mưu "dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương".

Miền Nam chiến đấu chống chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh của Mỹ là chiến đấu chống lại một cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện được tăng cường với lực lượng địch lúc cao nhất trên 1,5 triệu lính ngụy, Mỹ, chư hầu (1971), trên địa bàn toàn Đông Dương, vừa chiến đấu chống địch trên chiến trường, vừa đấu tranh với chúng trên bàn đàm phán.

Trong năm đầu chống chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh, lực lượng cách mạng có những tổn thất và khó khăn, một mặt do địch gây ra, mặt khác do ta chủ quan trong việc đánh giá âm mưu mới của địch, chậm trễ trong việc đề ra chủ trương, biện pháp đối phó hữu hiệu.

Nhưng các khó khăn của ta đã từng bước được khắc phục, tạo điều kiện cho cách mạng tiếp tục giành thắng lợi. Thắng lợi chính trị mở đầu giai đoạn chống chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh là sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam ngày 6 - 6 - 1969. Đó là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam Việt Nam. Vừa ra đời, Chính phủ cách mạng lâm thời đã được 23 nước công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.

Thực hiện lời chúc Tết năm 1969 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", và di chúc thiêng liêng của Người để lại trước khi qua đời (ngày 2 - 9 - 1969), quân dân miền Nam cùng với quân dân miền Bắc ra sức đẩy mạnh kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Trong hai năm 1970 - 1971, quân dân ta ở miền Nam cùng với quân dân hai nước Lào và Campuchia đã giành những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sự, chính trị.

Trong hai ngày 24 và 25 - 4 - 1970, để đối phó lại việc Mỹ giật dây bọn tay sai làm đảo chính quân sự xoá bỏ nền trung lập của Campuchia (ngày 18 - 3 - 1970) chuẩn bị cho bước phiêu lưu quân sự mới, ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia họp Hội nghị cấp cao để biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước đoàn kết chiến đấu chống Mỹ.

Từ ngày 30 - 4 đến ngày 30 - 6 - 1970, quân giải phóng miền Nam, có sự phối hợp của quân dân Campuchia, đã chiến đấu dũng cảm, đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mỹ và nguỵ Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 lính Mỹ - Nguỵ, giải phóng hoàn toàn năm tỉnh thuộc Đông Bắc Campuchia và phần lớn nông thôn của 10 tỉnh khác, hình thành một vùng giải phóng rộng lớn với 4,5 triệu dân.

Từ ngày 12 tháng 2 đến ngày 23 tháng 3 - 1971, quân dân ta có sự hỗ trợ và phối hợp chiến đấu của quân dân Lào, đã đập tan cuộc hành quân chiếm giữ đường 9 - Nam Lào của 4,5 vạn lính Mỹ - Ngụy Sài Gòn mang tên "Lam Sơn - 719" nhằm cắt đôi chiến trường Đông Dương, cắt tuyến chi viện chiến lược của ta. Ta loại khỏi vòng chiến đấu 22.000 lính Mỹ - Ngụy, quét hết quân địch còn lại khỏi Đường 9 Nam Lào, giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương.

Trong cùng thời gian chiến thắng ở Đường 9 Nam Lào, quân tình nguyện của ta cùng với quân dân Campuchia giành chiến thắng đập tan cuộc hành quân mang tên "Toàn thắng 1-71" của 2,3 vạn quân ngụy Sài Gòn dưới sự yểm trợ của không quân Mỹ vào vùng căn cứ của quân giải phóng ở Đông Bắc Campuchia.

Ở khắp các đô thị miền Nam, phong trào của các tầng lớp nhân dân nổ ra liên tục, mạnh mẽ. Đặc biệt ở Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, phong trào học sinh, sinh viên rầm rộ đã thu hút đông đảo giới trẻ tuổi tham gia. Phong trào tuổi trẻ, học sinh, sinh viên thời kỳ này có vai trò quan trọng, thường là "châm ngòi nổ" cho phong trào chung của các tầng lớp nhân dân thành thị.

Tại các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven thị, khắp nơi đều có phong trào quần chúng nổi dậy phá "ấp chiến lược", chống chương trình "bình định nông thôn" của địch. Đến đầu năm 1971, cách mạng giành được quyền làm chủ thêm 3.600 ấp với 3 triệu dân. Chính quyền cách mạng cũng đã cấp cho nông dân trên 1,6 triệu héc ta ruộng đất. Trong vùng giải phóng, các hoạt động sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, công tác văn hoá, giáo dục, y tế cũng đã đạt được những kết quả quan trọng.

Những thắng lợi quân sự, chính trị trên đây, nhất là thắng lợi ở Đường 9 - Nam Lào và Đông Bắc Campuchia nửa đầu 1971 đã làm phá sản bước đầu chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh và "Đông Dương hoá" chiến tranh của Mỹ, mở ra khả năng thực tế làm phá sản hoàn toàn chiến lược đó.

Trưa 30 - 3 - 1972, quân ta bắt đầu cuộc tiến công chiến lược theo kế hoạch của Quân ủy trung ương. Mở đầu cuộc tiến công, quân ta đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu, rồi phát triển rộng ra khắp chiến trường miền Nam và kéo dài trong năm 1972. Kết quả là sau gần ba tháng chiến đấu (đến cuối tháng 6 - 1972, quân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu một lực lượng lớn sinh lực địch, khoảng 25 vạn quân, phá và thu một khối lượng lớn phương tiện chiến tranh, gồm 636 xe tăng và xe bọc thép, 419 khẩu pháo, 340 máy bay; giải phóng những vùng đất đai rộng lớn hơn 1 triệu dân. Đó là đòn mạnh mẽ giáng vào chiến lược "Việt Nam hoá" chiến tranh của Mỹ.

Sau đòn mở đầu bất ngờ của quân ta, quân Ngụy có sự yểm trợ tối đa của hỏa lực, không quân và hải quân Mỹ, đã phản công mạnh, gây thiệt hại cho ta. Phối hợp với Ngụy, chính quyền Níchxơn "Mỹ hoá" trở lại một phần cuộc chiến tranh xâm lược miền Nam và quay trở lại tiến hành cuộc chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc từ 6 - 4 - 1972.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 12-1-2012 06:34 PM
Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam


Do thất bại ở hai miền nước ta, nhất là sau cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc từ từng phần (ngày 31 - 3 - 1968) đến toàn bộ (ngày 1 - 11 - 1968), đến bàn hội nghị đàm phán với đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày 13 - 5 - 1968), và sau đó với đại diện của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (ngày 25- 1 - 1969).

Do thất bại ở hai miền nước ta, nhất là sau cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc từ từng phần (ngày 31 - 3 - 1968) đến toàn bộ (ngày 1 - 11 - 1968), đến bàn hội nghị đàm phán với đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày 13 - 5 - 1968), và sau đó với đại diện của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (ngày 25-1-1969).

Từ phiên họp đầu tiên (ngày 13 - 5 - 1968) đến khi đạt được giải pháp Hiệp định Pari (ngày 27 - 1 - 1973), hội nghị hai bên (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ) và bốn bên (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hoa Kỳ, Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam và Việt Nam Cộng hoà) ở Pari đã trải qua 202 phiên họp chung công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng.

Trong các phiên họp chung công khai cũng như các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam không bỏ qua bất cứ vấn đề quan trọng nào có liên quan đến cuộc chiến tranh, nhưng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt nhất là đòi Mỹ rút hết quân viễn chinh cùng quân chư hầu khỏi miền Nam và đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam.

Phía Mỹ có quan điểm ngược lại, nhất là vấn đề rút quân, đòi quân đội miền Bắc cũng rút khỏi miền Nam, và từ chối ký dự thảo hiệp định do phía Việt Nam đưa ra (tháng 10 - 1972) để rồi mở cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 vào Hà Nội - Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 với ý đồ buộc phía Việt Nam ký vào dự thảo hiệp định do chúng đưa ra.

Nhưng Mỹ đã thất bại. Việt Nam đã đập tan cuộc tập kích bằng máy bay chiến lược B52 của Hoa Kỳ, làm nên trận "Điện Biên Phủ trên không", sau đó buộc được họ trở lại ký vào dự thảo hiệp định Pari do ta đưa ra trước đó.

Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam chính thức được ký kết ngày 27 - 1 - 1973 tại Pari giữa bốn bên tham dự Hội nghị.

* Nội dung Hiệp định ghi rõ:

- Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.

- Hoa Kỳ rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu, phá hết các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

- Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do. Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

- Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.

Hiệp định Pari 1973 về Việt Nam (được hội nghị 12 nước họp ngày 2 - 3 - 1973 tại Pari công nhận về mặt pháp lý quốc tê) là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta trên cả hai miền đất nước, mở ra bước ngoặt mới cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Với Hiệp định Pari, ta tuy chưa đạt được mục tiêu "đánh cho Ngụy nhào", nhưng đã buộc được "Mỹ cút", là một thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên "đánh cho Ngụy nhào".
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 12-1-2012 08:33 PM
Giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975)


Cuối năm 1974 đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, hội nghị Bộ Chính trị (từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 7 - 10 - 1914) và Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ ngày 18 - 12 - 1974 đến ngày 8 - 1 - 1975) đã bàn kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Cuối năm 1974 đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, hội nghị Bộ Chính trị (từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 7 - 10 - 1914) và hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ ngày 18 - 12 - 1974 đến ngày 8 - 1 - 1975) đã bàn kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Chiến thắng Phước Long và tình hình chiến sự sau Phước Long giúp Bộ Chính trị củng cố thêm quyết tâm chiến lược, bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch hai năm (1975 - 1976) hoàn toàn giải phóng miền Nam.

Bộ Chính trị đề ra kế hoạch hai năm, nhưng lại nhấn mạnh "cả năm 1975 là thời cơ" và chỉ rõ "Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975". Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải tranh thủ thời cơ thực hiện "Tổng công kích - Tổng khởi nghĩa", phải đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hoá..., giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta ở miền Nam đã diễn ra gần hai tháng mùa xuân 1975 với ba chiến dịch lớn: Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh đánh vào Sài Gòn.

* Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 4 - 3 đến ngày 24 - 3 - 1975):

Tây Nguyên là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng mà cả ta và địch đều chú ý và cố gắng nắm giữ.

Đầu tháng 3 - 1975, quân ta tiến công địch nhiều nơi ở Tây Nguyên, và ngày 4 - 3 - 1975 đánh nghi binh ở Plâycu, Kontum nhằm thu hút quân địch vào hướng đó. Ngày 10 - 3 - 1975, với lực lượng mạnh hơn địch, quân ta được lệnh tiến công thị xã Buôn Ma Thuộc, đánh các cơ quan đầu não của địch. Sau hai ngày chiến đấu, ta tiêu diệt toàn bộ quân địch ở đây và hoàn toàn làm chủ thị xã (ngày 11 - 3 - 1975).

Ngày 12 - 3 - 1975, quân địch tập trung lực lượng mở cuộc phản công nhằm chiếm lại Buôn Ma Thuộc, song tất cả các cuộc phản công của chúng đều bị đánh tan.

Ngày 14 tháng 3, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút khỏi Plâycu, Kontum và toàn bộ Tây Nguyên về giữ vùng duyên hải Nam Trung Bộ, rồi tập trung lực lượng tái chiếm Buôn Ma Thuộc. Ngày 16 tháng 3, quân ta được lệnh đánh chặn và truy kích địch trên đường chúng rút khỏi Tây Nguyên. Đến ngày 24 tháng 3, toàn bộ quân địch rút chạy bị quân ta tiêu diệt. Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc. Ta diệt toàn bộ quân đoàn 2 trấn giữ ở đây, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân. Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sang giai đoạn mới: từ cuộc tiến công chiến lược phát triển thành cuộc tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.

* Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (ngày 25 - 3 và 29 - 3 - 1975):

10 giờ 30 phút ngày 25 tháng 3, quân ta tiến vào Huế đến ngày hôm sau (ngày 26 tháng 3) thì giải phóng hoàn toàn thành phố và toàn tỉnh Thừa Thiên. Trong cùng thời gian, quân ta tiến vào giải phóng thị xã Tam Kỳ (ngày 24 tháng 3), Quảng Ngãi (ngày 25 tháng 3), Chu Lai (ngày 26 tháng 3) tạo thêm một hướng uy hiếp Đà Nẵng từ phía Nam.

Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất của Mỹ - Ngụy rơi vào thế cô lập. Quân ta từ ba phía Bắc, Tây, Nam tiến nhanh áp sát thành phố. Hơn 10 vạn địch bị dồn ứ về đây trở nên hỗn loạn, mất hết khả năng chiến đấu. Chúng phải dùng máy bay di tản cố vấn Mỹ và một phần lực lượng Nguỵ. Sáng ngày 29 tháng 3, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào thành phố, đến ba giờ chiều thì chiếm toàn bộ thành phố.

Ngày 2 tháng 4 tại Tổng hành dinh, sau khi nghe báo cáo về chiến dịch giải phóng Đà Nẵng, Tổng hành dinh đã trực tiếp chỉ thị cho tướng Lê Trọng Tấn tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa. Ngày 28 tháng 4 chiến sĩ ta trên các đảo, trên các tàu chiến đã nhận được điện khen: "Quân ủy Trung ương rất phấn khởi được tin quân ta đã chiếm các đảo thuộc Trường Sa. Nhiệt liệt khen ngợi các đơn vị đã hoàn thành nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược".

Trong cùng thời gian với chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng từ cuối tháng 3 đầu tháng 4 - 1975, nhân dân các tỉnh còn lại ven biển miền Trung, phía nam Tây Nguyên và một số tỉnh ở Nam Bộ, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương và của quân chủ lực, đã nổi dậy đánh địch giành quyền làm chủ.

* Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 - 4 đến ngày 30 - 4 - 1975):

Sau một tháng tiến công và nổi dậy, quân dân ta đã giành toàn thắng trong hai chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, giải phóng hơn nửa đất đai và nửa số dân toàn miền Nam, chiếm giữ một khối lượng lớn vật chất, trang bị, phương tiện chiến tranh. Các lực lượng vũ trang của ta đã trưởng thành nhanh chóng.

Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của địch giảm sút nghiêm trọng, chúng phải lùi về phòng thủ từ Phan Rang trở vào. Mỹ cũng đã hết sức giúp Ngụy kéo dài cơn hấp hối bằng cách lập cầu hàng không viện trợ khẩn cấp cho chúng.

Về phía ta, như Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 25 - 3 - 1975 đã nêu rõ: "Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam… Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa" (trước tháng 5 - 1975). Chiến dịch giải phóng Sài Gòn cũng được Bộ Chính trị quyết định mang tên "Chiến dịch Hồ CHí Minh".

Từ đầu tháng 4, trên mọi miền đất nước, nhân dân sống những ngày giờ hết sức sôi động và hào hứng. Cả dân tộc ta ra quân trong mùa xuân lịch sử với tinh thần "đi nhanh đến, đánh nhanh thắng" và với khí thế "thần tốc, bất ngờ, táo bạo, chắc thắng".

Ngày 9 tháng 4, quân ta tiến công Xuân Lộc, một căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía đông. Tại đây diễn ra những trận chiến ác liệt. Ngày 16 tháng 4, toàn bộ quân dịch ở Xuân Lộc tháo chạy.

Ngày 18 tháng 4, tổng thống Mỹ ra lệnh di tản hết người Mỹ khỏi Sài Gòn. Ngày 21 tháng 4, Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố từ chức tổng thống.

17h 26 tháng 4, quân ta được lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch. Tất cả năm cánh quân ta từ các hướng vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào Sài Gòn.

Ngày 28 tháng 4, các trận địa pháo của ta đồng loạt nã đạn vào sân bay Tân Sơn Nhất, và chiều hôm đó phi công ta dùng năm máy bay chiến đấu phản lực A37 thu được của địch mở đợt tập kích của địch vào khu vực chứa máy bay của chúng.

Đêm 28 rạng sáng 29 tháng 4, tất cả các cánh quân của ta được lệnh đồng loạt tổng công kích vào trung tâm thành phố, đánh chiếm tất cả các cơ quan đầu não của địch.

9 giờ 30 phút, ngày 30 tháng 4, tổng thống ngụy Dương Văn Minh vừa nhậm chức hôm 28 tháng 4, kêu gọi "ngừng bắn để điều đình giao chính quyền" nhằm cứu quân nguỵ khỏi sụp đổ.

10 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4, xe tăng của ta tiến thẳng vào dinh "Độc lập", bắt toàn bộ chính quyền Sài Gòn, tổng thống Dưng Văn Minh tuyên bố đầu hàng, 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc "dinh Độc lập" báo hiệu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Thừa thắng, sau giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại ở Nam Bộ nhất tề đứng lên tiến công và nổi dậy theo phương thức "xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh". Đến ngày 2 - 5 - 1975, Nam Bộ và miền Nam nước ta hoàn toàn giải phóng.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 13-1-2012 05:43 PM
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 1976

Việt Nam xây dựng lại đất nước (1975 - 1986)

I. Khắc phục hậu quả chiến tranh, hoàn thành thống nhất đất nước (1975 - 1976):

1. Tình hình đất nước sau đại thắng mùa xuân 1975:


Với đại thắng mùa xuân 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của  nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Đây lâ một trong những chiến thắng lịch sử oanh liệt nhất, lẫy lừng nhất của dân tộc Việt Nam. Chúng ta đã đánh bại đế quốc Mỹ - một đế quốc có thế lực kinh tế, quân sự hùng mạnh vào bậc nhất thế giới. Một kỷ nguyên phát triển rực rỡ của cách mạng Việt Nam đã được mở ra: Kỷ nguyên cả nước độc lập, thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ hết sức khó khăn lại phải tiến hành trong điều kiện đất nước vừa trải qua những năm tháng chiến tranh liên miên nên càng nặng nề và gian nan hơn.

Nhân dân miền Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa làm nhiệm vụ của hậu phương lớn vừa phải trực tiếp chống lại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ nên "quá trình tiến lên sản xuất lớn bị chậm lại vài ba kế hoạch 5 năm". Vì thế, kinh tế miền Bắc chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, cơ chế quản lý vốn nặng về tập trung quan liêu bao cấp, lại bị chi phối thêm bởi quy luật chiến tranh nên càng bị méo mó, phi kinh tế. Sau năm 1975, chiến tranh kết thúc, cơ chế quản lý kinh tế bộc lộ rõ hơn những bất cập của nó. Quan hệ sản xuất có dấu hiệu của sự khủng hoảng. Do vậy, việc chấn chỉnh lại cơ chế quản lý kinh tế cho phù hợp với quy luật vận động là một vấn đề hết sức khó khăn. Về mặt xã hội, chiến tranh đã làm xáo trộn và gây tổn thất lớn cho lực lượng lao động, để lại hậu quả rất nặng nề và kéo dài.

Đối với miền Nam, do chính sách thực dân kiểu mới, yếu tố tư bản chủ nghĩa đã xâm nhập mạnh vào các ngành công nghiệp, thương nghiệp, tài chính ngân hàng... và bước đầu trong nông nghiệp. Trong chừng mực nhất định, kinh tế ở các vùng bị tạm chiếm đã phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa.

Tuy nhiên, kinh tế miền Nam chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, cơ cấu mất cân đối và lệ thuộc nặng nề vào viện trợ bên ngoài. Vì vậy, khi Mỹ rút quân, cắt giảm viện trợ, nền kinh tế miền Nam lập tức rơi vào khủng hoảng. Nhiệm vụ khôi phục và phát triển một nền kinh tế vốn mang tính lệ thuộc cao như vậy trở nên hết sức khó khăn. Đó là chưa kể đến khó khăn ở những vùng bị tàn phá bởi chiến tranh, bị hủy diệt bởi chất độc hóa học. Sau giải phóng, miền Nam còn có sự phức tạp về mặt xã hội. Chiến tranh và quá trình cưỡng bức đô thị hóa của Mỹ đã gây xáo trộn trong phân bố lực lượng lao động. Nông thôn nông nghiệp thiếu lao động. Các vùng đô thị, mật độ dân số quá đông, không tương xứng với sự phát triển về kinh tế.

Sau chiến tranh, quần chúng nhân dân rất phấn khởi, nhanh chóng bắt tay vào xây dựng chế độ mới, nhưng cũng còn một bộ phận, nhất là những người đã từng tham gia trong bộ máy quân sự và chính trị của chính quyền Sài Gòn tỏ ra lo ngại, thậm chí có người lợi dụng nhà nước gặp khó khăn để kích động, lôi kéo quần chúng, móc nối với các thế lực phản động bên ngoài, gây rối loạn trong nước.

Những di hại do chế độ thực dân mới của Mỹ để lại cũng rất nặng nề như tệ nạn ma túy, lưu manh, bụi đời, mại dâm...; số người thất nghiệp, đặc biệt là số người mù chữ chiếm tỷ lệ lớn trong dân cư.

Tóm lại, tình hình đất nước sau đại thắng mùa xuân 1975 có nhiều thuận lợi đồng thời cũng có rất nhiều khó khăn, phức tạp mà chúng ta chúng ta chưa lường được hết.

2. Nhanh chóng ổn định tình hình các vùng mới giải phóng, bước đầu khắc phục hậu quả chiến tranh, tiến hành khôi phục kinh tế:

Để sớm ổn định tình hình các vùng mới giải phóng, chính quyền cách mạng và các đoàn thể quần chúng nhanh chóng được thành lập. Chính quyền cách mạng đã chỉ đạo các cơ sở tiếp quản những vùng mới giải phóng. Do triển khai kịp thời và chủ động nên công việc tiếp quản diễn ra nhanh gọn, có kết quả. Chúng ta đã tiếp nhận gần như nguyên vẹn các căn cứ quân sự, các cơ sở sản xuất, hành chính, văn hóa, góp phần tạo cơ sở vật chất ban đầu để nhanh chóng khôi phục kinh tế.

Về mặt xã hội, chính quyền cách mạng đã có chính sách đúng đắn đối với những người đã từng tham gia trong bộ máy chính quyền, quân đội của chế độ cũ để họ yên tâm tham gia xây dựng cuộc sống mới; kiên quyết trừng trị những phần tử chống đối, những chủ tư sản đầu cơ tích trữ lũng đoạn thị trường gây tác động xấu đến sản xuất và đời sống của nhân dân; tạo điều kiện cho những đồng bào bị gom trong các ấp chiến lược hay phải di tản vào thành phố trong thời kỳ chiến tranh được trở về quê cũ làm ăn; thu xếp việc làm cho hàng chục vạn người thất nghiệp, tổ chức cho dân đi xây dựng vùng kinh tế mới nhằm phân bố lại lực lượng lao động. Nhờ vậy, vấn đề an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững, mọi sinh hoạt của nhân dân nhanh chóng trở lại bình thường.

Về kinh tế, chính quyền cách mạng đã có những biện pháp khuyến khích sản xuất phát triển. Những cơ sở sản xuất của các phần tử phản động, tư sản mại bản, những người chạy trốn ra nước ngoài đã được chuyển sang khu vực quản lý của nhà nước. Sau một thời gian ngắn, các cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp của nhà nước và của cả tư nhân đều được tạo điều kiện thuận lợi để trở lại hoạt động. Những khó khăn về nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng thay thế được khắc phục dần. Năm 1976, gần 400 xí nghiệp lớn nhỏ ở Sài Gòn đã trở lại hoạt động.

Chính quyền cách mạng cũng rất chú ý đến việc khôi phục sản xuất nông nghiệp. Chính quyền đã tịch thu ruộng đất của các phần tử phản động, đem chia cho nông dân, vận động nông dân vào các tổ đổi công, giúp đỡ nông dân tích cực tháo gỡ bom mìn, khuyến khích khai hoang, phục hóa, làm thủy lợi. Vì thế, nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục và bước đầu đã có sự phát triển, đáp ứng nhu cầu về lương thực cho nhân dân.

Đặc biệt, các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội được tiến hành rất khẩn trương. Đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, báo chí được kịp thời sử dụng vào công tác thông tin, tuyên truyền, cổ động. Những hoạt động văn hóa lành mạnh được đẩy mạnh ở khắp mọi nơi, đồng thời với việc nghiêm cấm những hoạt động văn hóa phản động, đồi trụy, bài trừ những tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan, mại dâm, ma túy... Cuộc sống văn hoá mới dần dần được xây dựng. Hệ thống các trường học lần lượt được mở lại. Việc xóa nạn mù chữ được chú trọng. Các địa phương đều phát động phong trào bình dân học vụ, mở các lớp bổ túc văn hóa ở khắp nơi. Ngành y tế được xây dựng và đẩy mạnh hoạt động. Nhiều đội y tế lưu động được phái xuống các thôn, xã tổ chức tiêm phòng, khám chữa bệnh cho nhân dân, kịp thời dập tắt những ổ dịch. Công tác vệ sinh phòng bệnh, hoạt động thể dục, thể thao cũng được chú ý phát động thành phong trào quần chúng.

Những hoạt động nêu trên của chính quyền cách mạng trong năm đầu tiên sau giải phóng đã đem lại lòng tin cho nhân dân, nhất là ở những vùng mới giải phóng. Kết quả hoạt động của chính quyền về các mặt tuy còn rất hạn chế nhưng có tác dụng to lớn trong việc sớm ổn định tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhân dân, nhất là đồng bào ở vùng mới giải phóng yên tâm, tin tưởng vào chế độ mới. Sự ổn định của xã hội, lòng tin của dân chúng chính là điều kiện căn bản để chúng ta tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

Ở miền Bắc, tuy chiến tranh đã chấm dứt từ sau hiệp định Pari nhưng do sự tàn phá nặng nề của hai lần chiến tranh phá hoại nên trong năm 1975, nhân dân miền Bắc vẫn phải tiếp tục khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế. Cho đến hết năm 1975, nhiệm vụ khôi phục kinh tế mới căn bản hoàn thành. Hầu hết các cơ sở công nghiệp bị chiến tranh tàn phá đã được khôi phục (trừ một số ít còn kết hợp khôi phục với mở rộng). So với năm 1965, giá trị sản lượng công nghiệp năm 1975 đạt 173,3%. Giá trị sản lượng nông nghiệp đạt 111,4%.

Đương nhiên, hậu quả của những năm thắng chiến tranh liên miên còn rất nặng nề về cả kinh tế lẫn xã hội. Nhân dân hai miền còn phải tiếp tục khắc phục trong nhiều năm sau.

3. Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước:

Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất về mặt lãnh thổ nhưng ở mỗi miền lại tồn tại một hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Trong khi đó, ý nguyện của dân không chỉ là sự thống nhất về lãnh thổ mà là sự thống nhất trọn vẹn trên tất cả các mặt. Mặt khác, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước chỉ có thể được tiến hành có hiệu quả khi đất nước đã thống nhất về mặt nhà nước. Đây sẽ là cơ sở pháp lý để chúng ta thống nhất về các mặt kinh tế - xã hội, là công cụ đắc lực để tổ chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả hai miền.

Để chuẩn bị cho công việc trọng đại đó, từ tháng 2 - 1976, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tiến tới cuộc tổng tuyển cử được triển khai ở tất cả các địa phương.

Ngày 25 - 4 - 1976, nhân dân khắp hai miền Bắc - Nam nô nức tham gia tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Đây là lần thứ hai cuộc tổng tuyển cử được tổ chức trên phạm vi cả nước, sau lần đầu tổ chức từ ngày 6 - 1 - 1946. Hơn 23 triệu cử tri (98,8% tổng số cử tri) đi bầu và đã bầu ra 492 đại biểu. Kết quả của tổng tuyển cử là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trên con đường tiến tới hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.

Ngày 24 - 6 - 1976, Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất, được gọi là Quốc hội khóa VI với ý nghĩa kế tục sự nghiệp của 5 khóa Quốc hội trước, họp kỳ đầu tiên tại Hà Nội.

Quốc hội quyết định đặt tên nước Việt Nam thống nhất là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua chính sách đối nội, đối ngoại, bầu cử các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của nhà nước, quy định các nguyên tắc xây dựng bộ máy chính quyền các cấp, quy định quốc kỳ, quốc ca, bầu ủy ban dự thảo Hiến pháp.

Với kết quả của kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI, công việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã hoàn thành, đáp ứng nguyện vọng của quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu tất yếu khách quan của sự phát triễn cách mạng Việt Nam, tạo nên những điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước, tập trung cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất, mở ra khả năng to lớn để phát triển quan hệ với các nước trên thế giới.

Những thành quả bước đầu trong sự nghiệp thống nhất đất nước năm đầu tiên sau hòa bình đã cho phép hai miền cùng bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm trên phạm vi cả nước.

II.  Bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc (1976 - 1985):

1. Tập trung sức mạnh của cả nước, thực hiện kế hoạch 5 năm 1976 - 1980:

Trên cơ sở xác định đường lối chung, đường lối xây dựng kinh tế, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã quyết định phương hướng, nặng nề của chiến tranh vừa phải tổ chức lại nền kinh tế, xây dựng một bước nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đặt nền móng cho sự nghiệp công nghiệp hóa nước nhà. Kế hoạch 5 năm đầu tiên sau khi đất nước thống nhất nhằm hai mục tiêu cơ bản và cấp bách: xây dựng một bước cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, hình thành bước đầu cơ cấu kinh tế mới trong cả nước và cải thiện một bước đời sống của nhân dân lao động.

Nhằm thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, chúng ta đã tiến hành củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, thống nhất nền kinh tế theo mô hình chung trên phạm vi cả nước.

Ở miền Bắc, nhiều cơ sở kinh tế quốc doanh được khôi phục, mở rộng. Một số cơ sở được xây dựng thêm. Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp càng trở nên sôi động. Mô hình hợp tác hóa - tập thể hóa được đẩy tới mức cao nhất.

Ở miền Nam, do chính sách thực dân mới của Mỹ, nền kinh tế ở các vùng tạm chiếm bước đầu phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, sau năm 1975, chúng ta phải tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm thống nhất nền kinh tế theo mô hình chung trong cả nước. Đối tượng của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa vẫn nhằm vào kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể.

Trong công nghiệp, nhà nước đã quốc hữu hóa và chuyển thành quốc doanh tất cả các xí nghiệp công quản, các xí nghiệp của tư sản mại bản và tư sản bỏ chạy ra nước ngoài. Năm 1976, tư sản mại bản và tư sản lớn đã bị xóa bỏ. Đối với tư sản loại vừa và loại nhỏ, Đảng và nhà nước chủ trương cải tạo bằng con đường thành lập các xí nghiệp công tư hợp doanh. Tiểu chủ được đưa vào các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp.

Trong thương nghiệp, Đảng và nhà nước chủ trương phải xóa bỏ ngay thương nghiệp tư bản tư doanh, chuyển đại bộ phận tiểu thương sang sản xuất. Đầu năm 1978, một chiến dịch tiến công vào tư sản thương nghiệp được triển khai. Hàng nghìn cơ sở kinh doanh của tư sản thương nghiệp được chuyển giao cho thương nghiệp quốc doanh quản lý và sử dụng. Cuối năm 1978 có khoảng 9 vạn người buôn bán nhỏ được chuyển sang sản xuất và 15.000 người được sử dụng trong ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Đồng thời với quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp, hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán được hình thành và dần dần chiếm lĩnh thị trường.

Đến giữa năm 1979, chúng ta đã căn bản hoàn thành việc chuyển các cơ sở tư bản tư doanh trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, xây dựng và dịch vụ quan trọng thành các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh.

Trong nông nghiệp, từ cuối năm 1978 đến cuối năm 1980, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp được đẩy mạnh ở các tỉnh phía nam. Tính đến tháng 7 - 1980, toàn miền đã xây dựng được 1.518 hợp tác xã, 9.350 tập đoàn sản xuất, thu hút 35,6% tổng số hộ nông dân vào con đường làm ăn tập thể.

Qua cải tạo, thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể đang phát triển trong thể chế kinh tế cũ bị hạn chế, thủ tiêu. Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể ngày càng được mở rộng trở thành hai thành phần kinh tế chủ yếu. Nền kinh tế miền Nam bước đầu phát triển theo mô hình kinh tế của miền Bắc cũng như của cả phe xã hội chủ nghĩa nói chung.

* Đồng thời với nhiệm vụ cũng cố quan hệ sản xuất ở miền Bắc, cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, nhà nước đã tăng cường đầu tư và tích cực phát triển lực lượng sản xuất:

Trong kế hoạch 5 năm 1976 - 7980, Nhà nước đã dùng 1/3 ngân sách để đầu tư xây dựng cơ bản (theo giá so sánh năm 1982), xấp xỉ tổng 1 mức đầu tư xây dựng cơ bản của miền Bắc 21 năm trước đây. Do đó, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kình tế quốc dân tăng lên đáng kể. Riêng ngành công nghiệp đã có thêm 714 xí nghiệp quốc doanh, trong đó 415 xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng. Nhờ vậy, công suất của nhiều ngành công nghiệp tăng lên rõ rệt.

Ngành nông nghiệp đã phục hoá được 50 vạn héc ta ruộng đất bị bỏ hoang  trong thời kỳ chiến tranh, khai hoang 70 vạn ha, diện tích tiêu tăng 86 vạn ha, diện tích trồng cây hàng năm tăng 2 triệu ha, diện tích trồng rừng tăng 58 vạn ha. Ngoài ra, nông nghiệp còn được trang bị thêm 18 nghìn chiếc máy kéo, đưa diện tích cày bừa bằng máy đạt 25% tổng diện tích gieo trồng.

Ngành giao thông vận tải đã khôi phục và xây dựng mới tuyến đư­ờng sắt Bắc -  Nam với chiều dài hơn 1.700 km, làm thêm 3.800 km đường ô tô, xây dựng lại những cầu đường bộ bị chiến tranh tàn phá và xây dựng mới một số cầu đường bộ khác với chiều dài tổng cộng 30.000 mét.

* Trong kế hoạch 5 năm (1976 - 1980), văn hoá, giáo dục, y tế có  những thành tựu rất quan trọng, đặc biệt là các tỉnh miền Nam:

Để thực hiện mục tiêu cải thiện đời sống văn hoá của nhân dân, nhà nước đã tăng cường đầu tư cho lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế. Hệ thống trường học, bệnh viện, các cơ sở văn hoá tiếp tục được tu bổ, xây dựng. Ở các tỉnh miền Nam, việc xây dựng hệ thống trường học từ cấp cơ sở, nhất là ở các vùng nông thôn được đặc biệt quan tâm cùng với việc tiếp tục bổ sung đội ngũ giáo viên, thống nhất chương trình đào tạo.

Tháng 1 - 1979, Bộ Chính trị đã ra nghị quyết 14 về cải cách giáo dục nhằm xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất trong cả nước. Nội dung cải cách giáo dục được thực hiện chủ yếu trong các kế hoạch sau.

Năm học 1979 - 1980, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm, cả nước có gần 1,5 triệu học sinh mẫu giáo, 11,7 triệu học sinh phổ thông các cấp, trên 13 vạn học sinh trung học chuyên nghiệp, 15 vạn sinh viên đại học. Như vậy, số người đi học trong cả nước vào năm học 1979 - 1980 xấp xỉ bằng 1/3 số dân, tăng hơn năm học 1976 - 1977 là 2 triệu người. Phong trào bình dân học vụ tiếp tục phát triển ở những vùng mới giải phóng của miền Nam, thu hút được nhiều người tham gia. Tỷ lệ người mù chữ giảm dần.

Mạng lưới các bệnh viện, phòng khám bệnh, trạm y tế, nhà hộ sinh, cơ sở điều dưỡng được mở rộng. Tình hình y tế được cải thiện rõ rệt ở những vùng mới giải phóng. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có nhiều tiến bộ, trở thành phong trào quần chúng trong các địa phương, xí nghiệp, trường học.

Kết thúc kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, chúng ta đã đạt được một số thành tựu quan trọng như thống nhất đất nước về mặt nhà nước, thiết lập hệ thống chính trị mới trong cả nước. Trên cơ sở đó, chúng ta đã thực hiện một loạt các chính sách khác nhằm tiến tới thống nhất nước nhà về mọi mặt. Nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh quy mô lớn ở biên giới phía tây nam và phía bắc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào. Trên mặt trận kinh tế, nhân dân ta đã nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định sản xuất và đời sống. Chúng ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng về phát triển sự nghiệp giáo dục trong cả nước.

Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế còn thấp so với yêu cầu đề ra trong kế hoạch, thậm chí có những điểm không phù hợp, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, chúng ta đã nỗ lực tiến hành cải tạo quan hệ sản xuất. Kết thúc kế hoạch, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể đã được đẩy tới mức cao nhất ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời được xác lập ở các tỉnh phía Nam. Về hình thức, công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất đã thành công. Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ quan hệ sản xuất có phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hay không, có đem lại hiệu quả kinh tế hay không, thì vấn đề lại hoàn toàn khác. Khu vực kinh tế quốc doanh, mặc dù được đầu tư nhiều nhưng làm ăn kém hiệu quả. Khu vực kinh tế tập thể cũng ở trong tình trạng như vậy. Ở miền Bắc, quy mô của các hợp tác xã nông nghiệp càng lớn thì hiệu quả càng thấp. Ở miền Nam, các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất được thành lập một cách ồ ạt nhưng cũng vì không có hiệu quả nên nông dân không hưởng ứng. Cuối năm 1980, ngay sau khi được đánh giá là đã hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp thì hàng loạt hợp tác xã và tập đoàn sản xuất tan rã, toàn miền chỉ còn lại 3.732 tập đoàn sản xuất và 173 hợp tác xã quy mô vừa.

Với kế hoạch 1976 - 1980, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân được tăng cường so với trước, nhưng tốc độ tăng không tương xứng với mức đầu tư xây dựng cơ bản. Trong 5 năm 1976 - 1980, giá trị tài sản cố định tăng chỉ bằng 46,8% tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản. Mặt khác, hiệu quả kinh tế của hệ thống cơ sở vật chất lại thấp. Nhiều công trình đã xây dựng xong nhưng chỉ huy động được trên dưới 50% công suất. Giá trị tài sản cố định tăng, trang bị tài sản cho một lao động tăng nhưng năng suất lao động xã hội tính bằng thu nhập quốc dân theo giá so sánh lại giảm.

Vì vậy trong những năm đầu, nền kinh tế còn đạt được tốc độ tăng trưởng, nhưng từ năm 1979, tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân đều giảm. Tính chung lại, trong kế hoạch 1976 - 1980, bình quân một năm tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%, thu nhập quốc dân tăng 0,4%. Trong khi đó dân số tăng với tốc độ bình quân 2,24%. Năm 1980, kết thúc kế hoạch 5 năm nhưng tất cả 15 chỉ tiêu chủ yếu đều không đạt kế hoạch, thậm chí một số sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp quan trọng bình quân đầu người không giữ được mức của năm 1976.

Tình hình sản xuất như vậy cộng với những sai lầm trong lưu thông phân phối, thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định nên lạm phát diễn ra nghiêm trọng. Đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Nguyên nhân của tình trạng trên bao gồm cả những yếu tố khách quan và chủ quan.

Về khách quan: Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ là chủ yếu, lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá và chịu nhiều hậu quả của chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Năm 1979, chiến tranh ở biên giới phía tây nam và phía bắc làm cho bức tranh kinh tế càng xấu hơn. Thiên tai vào những năm 1977, 1978 cũng góp phần làm cho sản xuất nông nghiệp giảm sút v.v...

Về chủ quan: Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc đánh giá tình hình, xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Do chủ quan nóng vội mà chúng ta đã đề ra những mục tiêu quá lớn và bỏ qua những bước đi cần thiết.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 13-1-2012 06:26 PM
2. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1981 - 1985. Một vài đổi mới cục bộ:

Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 thực hiện không mấy thành công đã làm cho Đảng cộng sản Việt Nam nhận thấy phải có sự điều chỉnh nhất định trong đường lối chính sách kinh tế của mình. Nghị quyết hội nghị ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khóa IV), tháng 8 - 1979 chính là sự khởi đầu của quá trình điều chỉnh, đặt cơ sở cho quá trình đổi mới căn bản sau này. Hội nghị chủ trương phải sửa chữa các khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, nhất là phải đổi mới công tác kế hoạch hóa và cải tiến một cách cơ bản chính sách kinh tế làm cho sản xuất "bung ra" theo phương hướng kế hoạch của Nhà nước. Từ đó dẫn đến những đổi mới cục bộ trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985.

Tháng 3 - 1982, Đảng cộng sản Việt Nam họp đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V. Trong khi khẳng định Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối chung và xác định từng chặng đường đi cho cách mạng Việt Nam. Trong đó, chặng đường trước mắt bao gồm những năm của thập niên 80 với nhau mục tiêu kinh tế - xã hội tổng quát.

1. Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.

2. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo.

3. Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước.

4. Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh trật tự.

Theo tinh thần đó và rút kinh nghiệm trong việc xây dựng kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, Đảng và nhà nước nhấn mạnh đến tính khả thi trong việc đề ra các mục tiêu của kế hoạch này. Vì vậy, trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, tuy vẫn đề ra nhiệm vụ tiếp tục củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhưng thận trọng hơn và và việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật không triển khai đồng loạt trước như trong kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 mà tiến hành một cách có trọng điểm. Số chỉ tiêu kinh tế xã hội chủ yếu định ra trong kế hoạch này so với kế hoạch trước vừa ít về số lượng, vừa thấp về mức phấn trong một số chỉ tiêu.

* Thực hiện kế hoạch năm năm, cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội tiếp tục được xây dựng:

Công tác đầu tư xây dựng cơ bản trong 2 kế hoạch 5 năm liền đưa lại kết quả là nhiều công trình công nghiệp tương đối lớn đã được xây dựng như nhà máy nhiệt điện Phả Lại, thủy điện Hòa Bình, Trị An, khu vực dầu khí Vũng Tàu, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch, Hà Tiên, nhà máy phân lân Lâm Thao, nhà máy sợi Hà Nội, Vinh, Huế, Nha Trang; nhà máy đường Sơn Lam, La Ngà; các nhà máy giấy Bãi Bằng, Tân Mai… nhờ vậy mà năng lực một số ngành sản xuất tăng lên.

Về cải tạo quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, công cuộc cải tạo sản xuất xã hội chủ nghĩa trong công nghiệp tiếp tục được tiến hành mềm dẻo hơn, không nóng vội như những năm 1976 - 1980. Ở miền Bắc, trong kế hoạch 5 năm trước, một số hợp tác xã nông nghiệp được tổ chức lại theo hướng trở lại quy mô nhỏ trước đó. Ở miền Nam, tư tưởng nóng vội dẫn đến ồ ạt, dùng mệnh lệnh ép buộc nông dân vào hợp tác xã như trước đây đã bị phê phán. Nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi và quản lý dân chủ được chú ý. Những nơi chưa tiến hành tổ chức HTX đã cố gắng tìm ra những hình thức, bước đi thích hợp như vận động nông dân vào các tổ đoàn kết, tập đoàn sản xuất rồi sau đó mới thành lập hợp tác xã.

* Kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 đã tiến hành một số đổi mới cục bộ trong quản lý ở một vài ngành kinh tế:

Trong nông nghiệp, để khắc phục tình trạng khủng hoảng về mô hình mô hình tổ chức sản xuất, ngày 13 - 1 - 1981, ban Bí thư trung ương đã ban hành chỉ thị 100 CT/CP, chính thức quyết định chủ trương thực hiện chế độ khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động (thường gọi là khoán 100). Chỉ thị ban Bí thư đáp ứng nguyện vọng của nông dân nên nông dân các nơi nhiệt liệt hưởng ứng. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng nhanh chóng đi vào thực tiễn.

Hình thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động đã khắc phục được những hạn chế của các hình thức khoán trong hợp tác xã nông nghiệp trước đây, gắn được lợi ích của người lao động với sản phẩm cuối cùng. Người nông dân rất quan tâm đến năng suất, sản lượng. Do đó, họ đã tích cực đầu tư công sức, vật tư để phát triển sản xuất, sản lượng lương thực trong cả nước vì thế mà tăng lên. Năm 1980, sản lượng lương thực là 14,4 triệu tấn, năm 1985 với kết quả đó, khoán 100 được coi là bước đột phá đầu tiên trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp. Trong công nghiệp, ngày 21 - 1 - 1981, Chính phủ đã ban hành Nghị định 25-CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Đây là bước khởi đầu giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận với cơ chế thị trường thông qua việc thực hiện các kế hoạch ngoài kế hoạch pháp lệnh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên kết quả đổi mới cơ chế quản lý trong các doanh nghiệp quốc doanh còn hạn chế.

Về chính sách giá cả tiền lương: Trong thời gian 1981 - 1982, Nhà nước tiến hành điều chỉnh giá. Đây là cuộc cải cách giá tương đối lớn đầu tiên ở Việt Nam nhằm đưa hệ thống giá cũ, quá thấp, nặng tính bao cấp, tồn tại suốt mấy chục năm, tiếp cận với giá thị trường cùng thời điểm. Tháng 10 - 1985, Nhà nước lại tiến hành đợt tổng điều chỉnh giá đi đôi với xây dựng hệ thống lương theo giá mới, đồng thời tiến hành đổi tiền. Tuy nhiên, cải cách giá trong kế hoạch này không thành công vì nó vẫn nằm trong khuôn khổ Nhà nước quy định giá. Sau một thời gian điều chỉnh, giá thị trường tự do lại tăng vọt, chênh lệch giữa hai loại giá vẫn ngày càng lớn. Ngân sách bội chi ngày càng tăng, mức độ lạm phát ngày càng cao. Tình hình đó đã làm trầm trọng thêm tình trạng mất ổn định về kinh tế - xã hội, gây hỗn loạn trên thị trường và gây khó khăn lớn cho đời sống của nhân dân.

Đối với những mục tiêu về xã hội, mặc dù kinh tế còn rất khó khăn nhưng Đảng và nhà nước vẫn chủ trương thực hiện mục tiêu chăm lo đến đời sống của nhân dân về cả vật chất lẫn tinh thần. Kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, Đảng và nhà nước đã cố gắng tìm tòi một hướng đi mới để phát triển kinh tế, nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất, tiến tới cải thiện đời sống của nhân dân. Kết quả đổi mới bước đầu trong nông nghiệp đã góp phần giải quyết nhu cầu về lương thực trong nước và cải thiện một bước đời sống của nông dân thành phần dân cư chiếm số đông trong xã hội. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế tiếp tục phát triển và có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng nền văn hóa mới, con người mới. Một số nội dung của cải cách giáo dục đã được thực hiện. Nhiều loại hình trường lớp được mở ra. Hệ thống dạy nghề chính quy đã được hình thành. Nội dung giảng dạy, học tập có một số điểm sửa đổi. Các trường đều đẩy mạnh lao động sản xuất, gắn nhiệm vụ giáo dục với các chương trình kinh tế - xã hội của cả nước và của từng địa phương.

Sau chiến thắng biên giới phía tây nam và phía bắc, Đảng và nhà nước tiếp tục chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng và an ninh, thi hành chính sách hậu phương quân đội. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, an ninh chính trị giành thêm những thắng lợi mới. Chúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng phản động Fulro ở vùng Tây Nguyên, bắt gọn nhiều nhóm phản động, gián điệp, thám báo và làm phá sản âm mưu phá hoại của chúng.

Như vậy, so với kế hoạch 5 năm trước thì kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 có một số điểm mới đáng ghi nhận. Chúng ta đã tiến hành một bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư và nhịp độ phát triển đi đôi với một số thay đổi cục bộ trong cơ chế quản lý kinh tế. Nền kinh tế có bước tăng trưởng khá hơn. Tổng sản phẩm xã hội bình quân tăng 7,3%/năm, thu nhập quốc dân tăng 6,4%. Mặc dù vậy, nền kinh tế trong những năm 1981 - 1985 về cơ bản vẫn vận hành theo cơ chế quản lý cũ. Đổi mới cục bộ đã làm bộc lộ rõ hơn những yếu kém của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nhưng chưa đủ sức phá vỡ cơ chế đó, càng không đủ khả năng tạo ra một cơ chế mới. Do đó, chưa tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Kết thúc kế hoạch, nhiều chỉ tiêu cũng không đạt được mức đề ra ban đầu.

Sau hai kế hoạch 5 năm xây dựng và phát triển kinh tế theo mô hình cũ, nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng:

+ Quan hệ sản xuất chưa phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

+ Kinh tế tăng trưởng thấp, nếu tính chung từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân mỗi năm tăng 4,6%. Thu nhập quốc dân tăng 38,8%, bình quân tăng 3,7%/năm.

+ Sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Toàn bộ quỹ tích lũy (tuy rất nhỏ bé) và một phần tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước ngoài.

Hàng năm, Nhà nước không những phải nhập các mặt hàng quan trọng cho sản xuất mà còn phải nhập hàng tiêu dùng, kể cả những loại hàng hóa lẽ ra sản xuất trong nước có thể đáp ứng được như gạo và vải mặc. Từ 1976 đến 1985 Nhà nước đã nhập 60 triệu mét vải các loại và gần 1,5 triệu tấn lương thực quy gạo.

+ Lạm phát diễn ra ở mức trầm trọng. Trong kế hoạch 1976 - 1980, lạm phát đã gây tác động xấu đến đời sống kinh tế - xã hội. Chính phủ đã có nhiều biện pháp kiềm chế tốc độ lạm phát nhưng không có hiệu quả. Năm 1985, cải cách giá, lương tiền không thành công đã làm cho tốc độ lạm phát tăng vọt.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 14-1-2012 10:45 AM
Việt Nam bắt đầu thực hiện đổi mới (1986 - 1990)


Đại hội lần thứ VI - Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ 15 đến 18 - 12 - 1986) đã đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong thập niên đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng trong thời kì đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

1. Đại hội lần thứ VI - Đại hội mở đầu công cuộc đổi mới:

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ 15 đến 18 - 12 - 1986) đã đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong thập niên đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng trong thời kì đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đề ra nhiệm vụ chung cho cả chặng đường đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là "Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" và "Trong khi không ngừng chăm lo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa".

Đại hội lần thứ VI của Đảng khẳng định tiếp tục đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa do các đại hội lần thứ IV và lần thứ V của Đảng đề ra.

Tuy nhiên, đến đại hội VI, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì quá độ tiếp tục được cụ thể hóa trên cơ sở nâng cao nhận thức về đặc điểm thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là cả một thời kì lịch sử lâu dài, khó khăn, trải qua nhiều chặng và hiện đang ở chặng đường đấu tiên. Đại hội nêu rõ "chặng đường đầu tiên là một bước quá độ nhỏ trong bước quá độ lớn" và "nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo".

Ổn định tình hình kinh tế - xã hội bao gồm ổn định sản xuất, ổn định phân phối, lưu thông, ổn định đời sống vật chất và văn hóa, tăng cường hiệu lực của tổ chức quản lí, lập lại trật tự, kỉ cương và thực hiện công bằng xã hội.

Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến lên, ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được.

Những mục tiêu cụ thể là: sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy, tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lí nhằm phát triển sản xuất; xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới; tạo ra chuyển biến tốt vế mặt xã hội; bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.

Muốn thực hiện những "nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát" của chặng đường đầu tiên (phải trong nhiều kế hoạch 5 năm nữa) thì trong 5 năm trước mắt (1986 - 1990) cần tập trung sức người, sức của thực hiện bằng được nhiệm vụ, mục tiêu của ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

Những mục tiêu cụ thể là:

- Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ tái sản xuất sức lao động.

- Đáp ứng nhu cầu của nhân dân về những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.

- Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu để đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và những hàng hóa cần thiết.

Muốn thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế, thì nông nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp phải được đặt đúng vị trí là mặt trận hàng đầu và được ưu tiên đáp ứng nhu cẩu về vốn đấu tư, về năng lực, vật tư, lao động, kĩ thuật v.v...

Nội dung Ba chương trình kinh tế là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.

Đại hội lần thứ VI của Đảng đã bầu Ban chấp hành Trung ương gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 13 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết. Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng bí thư của Đảng. Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ được giao trách nhiệm làm cố vấn cho Ban chấp hành Trung ương Đảng. Đại hội lần thứ VI là đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng.

2. Kết quả bước đầu:

Đường lối đổi mới đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra đã thật sự đi vào cuộc sống và đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, trước tiên là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế.

Về lương thực, thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn triền miên (năm 1988, năm ta phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo), đến năm 1990, chúng ta đã vươn lên đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống nhân dân và thay đổi cán cân xuất - nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc phát triển sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, xóa bỏ chế độ bao cấp, tự do lưu thông và điều hòa cung cầu lương thực thực phẩm trên phạm vi cả nước. Sản lượng lương thực năm 1988 đạt 19,50 triệu tấn (vượt năm 1987 hơn 2 triệu tấn) và năm 1989 đạt 21,40 triệu tấn.

Hàng hóa trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tuy chưa đạt kế hoạch vẫn tăng hơn trước và có tiến bộ về mẫu mã. Các cơ sở sản xuất gắn chặt với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của Nhà nước về vốn, giá vật tư, tiền lương... giảm đáng kể. Đó là kết quả của chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đối mới nhiều chính sách về sản xuất và lưu thông hàng hóa.

Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức và góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Từ năm 1986 đến năm 1990, hàng xuất khẩu tăng gấp 3 lần (từ 439 triệu rúp và 884 triệu đô la, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đô la). Từ năm 1989, sản xuất của ta tăng thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu thô và một số mặt hàng mới khác. Năm 1989, Việt Nam xuất 1,5 triệu tấn gạo; nhập khẩu giảm đáng kể, tiến gần đến mức cân bằng giữa xuất và nhập.

Những kết quả của việc thực hiện các mục tiêu của Ba chương trình kinh tế gắn liền với những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí lại cơ cấu kinh tế. Nhà nước cho đình và hoãn nhiều công trình đã kí với nước ngoài và của một số ngành, địa phương để tập trung vốn cho các công trình trọng điểm trực tiếp phục vụ Ba chương trình kinh tế hoặc có ý nghĩa trọng yếu. Trong 5 năm 1986 - 1990, ta đã dành cho Ba chương trình kinh tế hơn 60% vốn đầu tư của ngân sách trung ương, 75% - 80% vốn đầu tư của địa phương. Ngoài ra, phần đầu tư của nhân dân cũng rất lớn, đồng thời đã thu hút được một số vốn đầu tư của nước ngoài. Nhiều công trình công nghiệp nặng quan trọng được khởi công từ những năm trước, nay được đưa vào sử dụng. Một số ngành sản xuất mới, có triển vọng tốt như dầu khí được hình thành... Một số loại hình kinh tế dịch vụ mới ra đời và phát triển nhanh, góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hóa và phục vụ đời sống nhân dân.

Một thành tựu quan trọng nữa là đã bước đầu kiềm chế được đà lạm phát. Nếu chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%, năm 1987 là 10%, năm 1988 là 14%, thì năm 1989 là 2,5% và năm 1990 là 4,4%. Đây là kết quả tổng hợp của việc thực hiện Ba chương trình kinh tế và đổi mới cơ chế quản lí, đổi mới chính sách giá và lãi suất, mở rộng thông thương và điều hòa cung cầu hàng hóa. Điều có ý nghĩa là chúng ta đạt được kết quả này trong hoàn cảnh nguồn trợ giúp bên ngoài giảm so với trước, vừa chống lạm phát và thực hiện chuyển từ giá bao cấp sang giá kinh doanh. Nhờ kiềm chế được lạm phát, các cơ sở kinh tế có điều kiện thuận lợi để hạch toán kinh doanh, đời sống nhân dân giảm bớt khó khăn.

Một thành tựu quan trọng khác về đối mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước.

Phát triển quan điểm kinh tế của Đại hội VI, hội nghị lần thứ 6 (tháng 8 - 1989) của Ban chấp hành Trung ương đã khẳng định việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi nhanh vào cuộc sống, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế; khơi dậy được nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản xuất, dịch vụ, tạo thêm việc làm cho người lao động và tăng sản phẩm cho xã hội, tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường.

Ngoài những thành tựu về kinh tế, chúng ta còn đạt được nhiều thành tích và tiến bộ bước đầu trên các lĩnh vực khác.

Bộ máy và đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các cơ quan Trung ương và địa phương được sắp xếp lại. Ngày 19 - 4 - 1987, cuộc bầu cử Quốc hội khóa VIII đã diễn ra dân chủ hơn so với các kì bầu cử trước. Nhân dân đã lựa chọn bầu được 496 đại biểu. Ngày 17 đến 22 - 6 - 1987, Quốc hội khóa VIII họp kì thứ nhất đã bầu Võ Chí Công làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Lê Quang Đạo Chủ tịch Quốc hội; Phạm Hùng - Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; bầu chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện truởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy. Nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị có một số đổi mới theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường quyền lực của các cơ quan dân cử; hiệu lực quản lí của chính quyền các cấp được nâng cao; bước đầu chỉnh đốn Đảng đi đôi với đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Từng bước phá thế bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Những thành tựu, ưu điểm và tiến bộ nói trên chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp.

Công cuộc đổi mới về thực chất là một cuộc cách mạng, có thành tựu, ưu điểm, tiến bộ, nhưng đồng thời cũng có nhiều khó khăn, hạn chế, yếu kém. Những ưu điểm thành tựu đạt được bước đầu thực hiện đường lối đổi mới là rất quan trọng, song khó khăn, yếu kém cũng rất lớn, đó là: đất nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng vẫn chưa được giải quyết:

- Nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát ở mức cao, lao động còn thiếu việc làm, hiệu quả kinh tế thấp, nhiều cơ sở sản xuất bị đình đốn kéo dài, chưa có tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.

- Chế độ tiền lương bất hợp lí, đời sống của những người sống chủ yếu bằng tiền lương (hoặc trợ cấp xã hội) và của một bộ phận nông dân bị giảm sút. Tốc độ tăng dân số còn cao.

- Sự nghiệp văn hóa còn những mặt tiếp tục xuống thấp. Tình trạng tham nhũng, ăn hối lộ, mất dân chủ, bất công xã hội, vi phạm pháp luật, kỉ luật, kỉ cương và nhiều hiện tượng tiêu cực khác còn nặng nề và phổ biến.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 14-1-2012 05:55 PM
Tiếp tục đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội (1991 - 1995)

Đại hội lần thứ VII - đại hội tiếp tục công cuộc đổi mới Trong quá trình thực hiện nghị quyết đại hội VI, những diễn biến quốc tế phức tạp đã tác động xấu đến tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta.

1. Đại hội lần thứ VII - đại hội tiếp tục công cuộc đổi mới:

Trong quá trình thực hiện nghị quyết đại hội VI, những diễn biến quốc tế phức tạp đã tác động xấu đến tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta. Nhưng Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tòi, khai phá con đường đổi mới tuy chưa có một khuôn mẫu cho trước, từng bước đưa đường lối của Đại hội VI đi vào cuộc sống. Tuy tình hình cách mạng còn nhiều khó khăn, song với kết quả đạt được trong bước đầu đổi mới đã có thể xác nhận khả năng tự đổi mới của nhân dân ta là hiện thực.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (họp từ ngày 24 đến 27 - 6 - 1991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, đề ra chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu ưu điểm đã đạt được; khắc phục những khó khăn hạn chế mắc phải trong bước đầu đổi mới ngăn ngừa những lệch lạc phát sinh trong quá trình đó, điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đối mới (được đề ra từ Đại hội VI) để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của đất nước tiến lên.

Ngoài việc quyết định những công việc cách mạng trong nhiệm kì, Đại hội VII của Đảng còn quyết định một số vấn đề về chiến lược lâu dài. Đó là việc thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000". Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) gồm 146 ủy viên, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương gồm 13 ủy viên. Đỗ Mười được bầu làm Tổng bí thư của Đảng.

Bước vào nhiệm kì Đại hội VII của Đảng, vào thập niên cuối cùng của thế kỉ XX đã có nhiều biến động to lớn, tác động sâu sắc đến tiến trình lịch sử loài người. Bối cảnh quốc tế và nước ta có những thay đổi lớn, tác động đến quá trình đổi mới của ta, bắt đầu từ Đại hội VI và tiếp tục sau Đại hội VII của Đảng.

Tình hình quốc tế, về chính trị, sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch tăng cường việc thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình"; kích động việc thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng, nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, truyền bá tư tưởng văn hóa đồi trụy, độc hại; đưa lực lượng gián điệp, biệt kích vào nước ta nhằm cấu kết với bọn phản động và các phần tử xấu trong nước, tăng cường hoạt động nhằm lật đổ chế độ...

Về kinh tế, những thay đổi ở Liên Xô và Đông Âu đã gây ra cho chúng ta nhiều đảo lộn lớn và đột ngột về thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, về nhiều chương trình hợp tác kinh tế và nhiều hợp đồng về lao động. Trong thời gian ngắn, nước ta phải chuyển một phần đáng kể khối lượng buôn bán từ các thị trường truyền thống sang thị trường mới; chịu những tác động lớn về biến động cung  cầu và giá cả của thị trường thế giới. Nguồn vay bên ngoài giảm mạnh, sự ưu đãi về giá chấm dứt, nợ nước ngoài phải trả hàng năm tăng lên, trong khi một số nước tiếp tục chính sách bao vây kinh tế nước ta, gây cho ta thêm nhiều khó khăn.

Song, chúng ta cũng có những điếu kiện thuận lợi mới. Quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta ngày căng được mở rộng, trong đó quan hệ với một số nước được cải thiện và từng bước bình thường hóa. Điều đó tạo thêm khả năng để chúng ta mở rộng thị trường, thu hút nguồn vốn và kĩ thuật, học hỏi kinh nghiệm của thế giới. Đống thời, quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng, đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng vươn lên thích ứng với những yêu cầu khắt khe về chất lượng, hiệu quả, về quy chế và luật pháp kinh doanh của thị trường thế giới.

Tình hình trong nước: Trên tất cả cặc lĩnh vực, nhất là về kinh tế - xã hội, vẫn còn nhiều khó khăn (như đã trình bày ở  trên), bao trùm nhất là "Đất nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội... nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết".

Nhưng chúng ta có thuận lợi cơ bản, đó là: những thành tựu bước đầu rất quan trọng và những kinh nghiệm đổi mới đã thu được trong những năm trước là to lớn; đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ đường lối đổi mới; cục diện chính trị nước ta ổn định. Chúng ta có nhiều tiềm năng để phát triển: đội ngũ lao động vã cán bộ khoa học - kĩ thuật cần cù, thông minh, sáng tạo; khả năng thâm canh, tăng vụ và mở rộng diện tích trong nông nghiệp, phát triển nghề rừng và thủy sản còn lớn; công nghiệp dầu khí, công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu có những điều kiện thuận lợi để mở rộng; vốn nhàn rỗi trong nhân dân còn nhiều...

Xuất phát từ đặc điểm tình hình quốc tế và trong nước nói trên, căn cứ vào mục tiêu của chặng đường đầu thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (đề ra từ Đại hội VI), Đại hội VII của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.

Các mục tiêu cụ thể là:

- Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.

- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân số. Ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo đảm để tiền lương tối thiểu đáp ứng được nhu cấu thiết yếu của người lao động, ngăn chặn thu nhập phi pháp và bất công.

- Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi mới tổ chức và cán bộ.

- Bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng.

Đại hội VII của Đảng cũng đề ra mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) là: đầy lùi và kiểm soát được lạm phát, ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống nhân dân và bắt đầu có tích lũy từ nội bộ nến kinh tế.

Để thực hiện mục tiêu trên, phải phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế, đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hóá đẩy mạnh nhịp độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật; hình thành về cơ bản và vận hành tương đối thông suốt cơ chế quản lí mới.

2. Tiến bộ và hạn chế, thời cơ và thách thức:

Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch nhà nước 5 năm (1991 - 1995), trên các lĩnh vực của công cuộc đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu và tiến bộ to lớn:

+ Nhịp độ phát triển kinh tế được đẩy mạnh, nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đã hoàn thành vượt mức:

Trong 5 năm, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước đạt 8,2% (kế hoạch là 5,5% - 6,6%).

Công nghiệp tăng bình quân hàng năm 18,3% (kế hoạch là 7,5% - 8,5%). Một số ngành có mức tăng cao: năm 1995 so với năm 1990, công nghiệp nhiên liệu (cả dầu khí) gấp 3,2 lần, điện gấp 1,6 lần, vật liệu xây dựng gấp 2,7 lần, chế biến thực phẩm gấp 1,9 lần.

Nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,5% (kế hoạch là 3,7% - 4,5%) Sản lượng lương thực 5 năm này tăng 26% so với 5 năm trước, tạo điều kiện cơ bản để ổn định đời sống nhân dân; phát triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Kim ngạch xuất khẩu thủy, hải sản năm 1995 tăng gấp 8 lần năm 1990.

Các ngành dịch vụ năm 1995 tăng 80% so với năm 1990, bình quân hàng năm tăng 12%. Giao thông vận tải có chuyển biến tiến bộ, vận tải hàng hóa tăng 62%. Viễn thông phát triển nhanh; doanh thu bưu điện và doanh thu du lịch tăng gấp 10 lần. Thị trường hàng hóa trong nước phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội vê số lượng, chất lượng và chủng loại.

Lĩnh vực tài chính, tiền tệ có tiến bộ đáng kể, nổi bật nhất là đã từng bước đẩy lùi lạm phát và chặn được nạn lạm phát cao. Lạm phát từ mức 67,1% năm 1991, giảm xuống 17,5% năm 1992 và 12,7% năm 1995. Tỉ lệ thiếu hụt ngân sách được kiềm chế, chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp bội chi, thay bằng vay của dân, của nước ngoài.

Quy mô đầu tư phát triển toàn xã hội tăng. Vốn đầu tư cơ bản toàn xã hội năm 1990 chiếm 15,8% tổng sản phẩm trong nước, năm 1995 là 27,4%. Trong 5 năm, vốn đầu tư­ phát triển toàn xã hội khoảng 18 tỉ đô la (theo mặt bằng giá năm 1995), trong đó phần của nhà nước chiếm 43%, đầu tư của nhân dân chiếm trên 80%, đầu tư trực tiếp của nước ngoài chiếm 27%.

Những kết quả về đầu tư phát triển đã làm tăng năng lực sản xuất trong nông, lâm ngư nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Một số công trình quan trọng của nền kinh tế, nhất là giao thông, thủy lợi, dầu khí, thép, xi măng và các cơ sở du lịch, dịch vụ... được đưa vào hoạt động.

Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thi trường, có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tiếp tục được xây dựng. Cơ cấu kinh tế theo ngành và vùng đã bắt đầu chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp cũng có những thay đổi theo hướng có hiệu quả hơn. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng.

+ Kinh tế đối ngoại phát triển, thị trường xuất, nhớp khẩu mở rộng, nguồn vốn đầu tư của nước ngoài tăng nhanh:

Trong 5 năm, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 17 tỉ đô la (kế hoạch là 12 - 15 tỉ), bảo đảm nhập các loại vật tư, thiết bị và hàng hóa đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống. Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, đã có thêm một số mặt hàng chế biến và tăng số mặt hàng có khối lượng xuất khẩu lớn, như dầu thô, gạo, cà phê, hải sản, may mặc...

Tổng kim ngạch nhập khẩu trên 21 tỉ đô la, kể cả phần nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tỉ trọng nhập khẩu vật tư thiết bị tăng lên, đáp ứng được nhu cầu phát triển. Quan hệ mậu dịch đã mở rộng với trên 100 nước và tiếp cận với nhiều thị trường mới.

Nhà nước còn mở rộng quyền xuất, nhập khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, ban hành một số chính sách khuyến khích xuất khẩu.

Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong 5 năm tăng nhanh, bình quân hàng năm là 50%. Đến cuối năm1995, tổng số vốn đăng kí các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt trên 19 tỉ đô la, trong đó khoáng 1/3 đã được thực hiện. Tỉ trọng đầu tư vào công nghiệp chiếm 40% tổng số vốn theo dự án (nếu kể cả dầu khí thì chiếm trên 60%). Địa bàn đầu tư phân bố rộng hơn trên các vùng lãnh thổ. Hình thức đầu tư chủ yếu là xí nghiệp liên doanh chiếm trên 65% tổng số vốn; xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài chiếm gần 18%; hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm gần 17%. Mối quan hệ hợp tác phát triển đã được khôi phục, khai thông và mở rộng với nhiều nước và các tổ chức tài chính quốc tế. Cơ chế thu hút nguồn tài trợ phát triển song phương và đa phương đã được thiết lập.

+ Khoa học và công nghệ có bước phát triển mới, văn hóa và xã hội có những chuyển biến tích cực:

Hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích nghi dần với cơ chế thị trường.

Công tác giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới sau một số năm giảm sút. Tỉ lệ người biết chữ trong nhân dân đã nâng lên, đạt mức 90%, tỉ lệ trẻ em đi học trong độ tuổi phổ cập tiểu hoc và số hoc sinh phổ thông các cấp học đều tăng; tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giảm. Mạng lưới trường phổ thông mở rộng đến các xã, phường, cơ sở vật chất được cải thiện. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú cho con em người dân tộc Hình thức trường chuyên, lớp chọn được phát triển ở nhiều địa phương. Nhiều trường bán công và dân lập ra đời, hoạt động có hiệu quả.

Các trường, lớp dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức. Hệ thống giáo dục đại học, trung học chuyên nghiệp mở rộng hơn trước cả về quy mô, ngành nghề và loại hình đào tạo. Các trường đại học và cao đẳng được sắp xếp lại các trung tâm đại học quốc gia ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và ba trung tâm đại học khu vực đang hình thành.

Công tác thông tin đại chúng, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật phát triển phong phú cả về thể loại, hình thức và nội dung, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin và hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực trong công tác tuyên truyền, giáo dục (đặc biệt là giáo dục truyền thống cách mạng), đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, đẩy lùi ảnh hưởng của văn hóa độc hại. Diện phủ sóng truyền thanh, truyền hình được mở rộng.

Trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe, đã có những cố gắng và tiến bộ về vệ sinh phòng bệnh, thực hiện có kết quả các chương trình chăm sóc và bảo vệ trẻ em, chương trình phòng chống sốt rét, bướu cổ, phòng chống suy dinh dưỡng; tăng tỉ lệ số dân được dùng nước sạch, được cung cấp dịch vụ y tế tại xã phường. Một số trung tâm y tế được đầu tư nâng cấp và trang bị lại. Chế độ bảo hiểm y tế được mở rộng.

Công tác dân số, "kế hoạch hóa" gia đình phát triển sâu rộng và bước đầu đạt được kết quả. Tỉ lệ sinh mỗi năm giảm gần 1 phần nghìn.

Chủ trương "đền ơn đáp nghĩa" đối với những người có công với nước được toàn dân hưởng ứng. Phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng được mở rộng trở thành nét đẹp trong xã hội ta.

Thu nhập và đời sống của các tầng lớp nhân dân ở các vùng đều được cải thiện với mức độ khác nhau. Số hộ thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm đi. Nhiều địa phương đã thanh toán được nạn đói. Mỗi năm giải quyết được hơn một triệu lao động có việc làm.

Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của cơ chế bất hợp lí, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội. Trên cơ sở đó, lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đất nước, vào Đảng và Nhà nước được nâng lên.

+ Ổn định tình hình chính trị - xã hội được giữ vững, quốc phòng và an ninh được củng cố:

Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập, chủ quyền và môi trường hòa bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới.

Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Việc xử lí kiên quyết các vụ vi phạm pháp luật trong một số lĩnh vực đã mở ra khả năng thiết lập và củng cố trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật.

+ Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị:

Trên cơ sở cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên tất cả các lĩnh vực.

Đảng được củng cố và tăng cường về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được tiếp tục phát triển nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.

Hệ thống chính trị từng bước được tiếp tục kiện toàn. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa IX được diễn ra sôi nổi trong toàn quốc vào ngày 19 - 7 - 1992. Quốc hội khóa IX có 395 đại biểu. Kì họp thứ nhất của Quốc hội khóa IX họp ở Hà Nội (từ 19 - 9 đến 8 - 10 - 1992) đã bầu Chủ tịch, các phó Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và Đoàn thư kí. Nông Đức Mạnh được bầu giữ chức Chủ tịch Quốc hội. Quốc hội đã bầu Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước, Nguyễn Thị Bình làm phó Chủ tịch nước; phê chuẩn danh sách phó Chủ tịch và các ủy viên của Hội đồng quốc phòng và an ninh; đã bầu Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về danh sách các phó Thủ tướng là Phan Văn Khải, Nguyễn Khánh và Trần Đức Lương, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội từng bước được đối mới về phương thức hoạt động. Khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố hơn.

Hệ thống pháp luật được phát triển. Để đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới, ngày 15 - 4 - 1992, kì họp thứ 11 của Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới. Ngoài Lời nói đầu, Hiến pháp mới gồm có 12 chương và 147 điều. Ra đời trong thời kì đổi mới, Hiến pháp 1992 thể hiện tinh thần đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, phù hợp với xu thế của thời đại. Hiến pháp mới đã điều chỉnh, sửa đổi một cách cơ bản toàn diện các quy định của Hiến pháp 1980, đặc biệt là chương về "chế độ kinh tế". Quốc hội cũng đã sửa đổi, bổ sung và ban hành các đạo luật mới làm cho hệ thống pháp luật nước ta phù hợp với Hiến pháp mới, bảo đảm quản lí xã hội thực sự được tiến hành bằng pháp luật.

+ Mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây, tham gia tích cực vào các hoạt động của cộng đồng quốc tế:

Chúng ta đã triển khai tích cực và năng động đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa. Khôi phục và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc, tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết với Lào, xây dựng quan hệ láng giềng tốt với Campuchia; phát triến quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của tổ chức ASEAN; củng cố quan hệ hữu nghị truyền thống với nhiều nước, từng bước đổi mới mối quan hệ với Liên Bang Nga, những nước trong Cộng đồng các quốc gia độc lập và Đông Âu; mở rộng quan hệ với các nước công nghiệp phát triển; bình thường hoá quan hệ với nhiều nuớc Nam Á, Nam Thái Bình Dương, Trung Đông, châu Phi và Mĩ Latinh; mở rộng quan hệ với Phong trào không liên kết, các tổ chức quốc tế và khu vực…

Đến nay nước ta có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước, có quan hệ buôn bán với trên 100 nước. Các công ty của hơn 50 nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư trực tiếp vào nước ta. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế dành cho ta sự viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay để phát triển.

Bên cạnh thành tựu và tiến bộ đáng ghi nhận, nước ta vẫn còn nhiều yếu kém và hạn chế:

- Tình trạng tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, làm ăn phi pháp chưa được ngăn chặn, có nơi nghiêm trọng. Tiêu cực trong bộ máy nhà nước, trong Đảng và các đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là trên các lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, xuất nhập khẩu, thuế và cả trong hoạt động của các cơ quan thi hành pháp luật... nghiêm trọng kéo dài.

- Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp cư, dân tăng nhanh. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở những vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, vùng đồng bào dân tộc, còn nhiều khó khăn. Nhịp độ phát triển dân số vẫn cao. Số người chưa có việc làm ở thành thị còn chiếm khoảng 7%, thời gian lao động ở nông thôn mới được sử dụng ở mức thấp.

- Chất lượng giáo dục và đào tạo thấp; công tác giáo dục ở vùng sâu, vùng xa, miền núi còn nhiều khó khăn. Hệ thống khám - chữa bệnh phần lớn bị xuống cấp cả về cơ sở vật chất vẫn chất lượng và tinh thần phục vụ. Người nghèo không đủ tiền chữa bệnh và cho con em đi học. Tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái, hủy hoại tài nguyên ngày càng tăng; đã có những bệnh dịch, bệnh xã hội đe dọa một số vùng, số người nhiễm HIV ngày càng tăng, văn hóa phẩm độc hại lan tràn, tệ nạn xã hội phát triển; trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp.

- Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện không nghiêm. Quản lí nhà nước vê đất đai, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái cùng các hoạt động văn hóa, hoạt động khoa học và công nghệ... chưa tốt.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 14-1-2012 06:12 PM
Những thành tựu và tiến bộ của công cuộc đổi mới sau 10 năm, nhất là sau kế hoạch 5 năm (1991 - 1995), đã và đang tạo ra thế và lực mới, cả ở bên trong và bên ngoài để đất nước bước vào thời kì phát triển mới: "Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt chưa vững chắc".

Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công cuộc công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khả năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế giới tăng thêm. Đó là thời cơ lớn của chúng ta.

Nhưng do vẫn còn những hạn chế và yếu kém chưa được khắc phục nên khi bước vào thời kì phát triển mới, đất nước gặp không ít khó khăn và thử thách. Bốn nguy cơ mà hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (1 - 1994) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6 - 1996) của Đảng nêu lên là những thách thức lớn đối với nhân dân ta trong những thời kì tiếp sau của công cuộc đổi mới. Bốn nguy cơ đó là:

+ Sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát của ta quá thấp, nhịp độ tăng trưởng của ta chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt.

+ Âm mưu diễn biến hòa bình, dùng chiêu bài "dân chủ', "nhân quyền'' của các thế lực thù địch trước việc sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước do khuyết tật của mô hình cũ, hòng can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.

+ Chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kì đất nước đổi mới, thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường.

+ Tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ bị xói mòn; các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch, dẫn tới chệch hướng xã hội chủ nghĩa là mảnh đất thuận lợi cho "diễn biến hòa bình".

Những thách thức đó, nhân dân ta đã từng trải qua và còn phải trải qua. Từ thực tế phong phú của 10 năm đổi mới, với những thành tựu đã đạt được cũng như những yếu kém, khuyết điểm đã phạm phải, đem lại cho Đảng và nhân dân ta những bài học kinh nghiệm sau:

+ Trong quá trình đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới. Phê phán nghiêm túc sai lầm, khuyết điểm phải đi đôi với việc khẳng định những việc làm đúng; không phủ nhận sạch trơn quá khứ, không hoang mang, mất phương hướng, từ thái cực này sang thái cực khác.

+ Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu chủ trương đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Phát huy dân chủ, khắc phục những hiện tượng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời chống mọi khuynh hướng dân chủ cực đoan, quá khích, chống mọi âm mưu lợi dụng chiêu bài "dân chủ nhân quyền" của kẻ thù để gây rối chính trị, chống phá chế độ, can thiệp vào nội bộ nước ta.

+ Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Vận dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lí nền kinh tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ cho mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội, chứ không phải đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực, mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội, nên khi vận dụng nó cần đấu tranh khắc phục để hạn chế tối đa tiêu cực.

+ Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp đổi mới tiến lên, giành những thành tựu lớn hơn, cần thực hiện tốt hơn việc mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân (cả ở trong nước và ở nước ngoài), phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, động viên sức mạnh của cả dân tộc phấn đấu vì mục tiêu dân giàu  nước mạnh xã hội công bằng, văn minh.

+ Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Động viên mọi nguồn lực bên trong là chính, đồng thời khai thác tốt những điều kiện thuận lợi mới trong quan hệ đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ những nhân tố tích cực phục vụ cho công cuộc xây dựng và bào vệ đất nước. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, giữ gìn, phát huy bản sắc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

+ Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi việc xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Đảng ta phải luôn tự đổi mới và chỉnh đốn. Củng cố và xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ; tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; đối mới phương thức, lề lối làm việc, nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Tác giả: love_milk_tea9    Thời gian: 14-1-2012 07:11 PM
Đất nước chuyển sang thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng

Chủ trương của Đảng chuyển đất nước sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ cuối năm 1986 đến giữa năm 1960, đất nước Việt Nam đã trải qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng với hai kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm.

1. Chủ trương của Đảng chuyển đất nước sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá:

Từ cuối năm 1986 đến giữa năm 1960, đất nước Việt Nam đã trải qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng với hai kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm. Trong 10 năm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân Việt Nam đã phát huy cao độ nội lực của dân tộc, kiên trì mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa vì độc lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã giành được những thành tựu to lớn. Tuy còn một số mặt yếu kém, chưa vững chắc song nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đất nước đã có điều kiện để chuyển sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Trong bối cảnh đó, Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đ­ợc triệu tập ở Hà Nội từ 22 - 6 đến 1 - 7 - 1996 (kể cả họp nội bộ và họp công khai). Đại hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện quan trọng: Báo cáo chính trị, phương hướng nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, Điều lệ Đảng (bổ sung và sửa đổi) và Nghị quyết của Đại hội. Đại hội đã bầu Ban chấp hành Trung ương Đảng do Đỗ Mười làm Tổng Bí thư.

Đến tháng 12 - 1997, tại hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương đã chấp nhận đề nghị của đồng chí Đỗ Mười chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư và bầu đồng chí Lê Khả Phiêu giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Kiểm điểm, đánh giá kết quả của 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VII và tổng kết 10 năm đối mới, Đại hội đã kết luận: "Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VII đất nước đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta không những đã đứng vững mà còn vươn lên đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt.

Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kì quá độ là chuẩn bị tiên đề cho công nghiệp hóa cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kì mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.

Những thành tựu đạt được trong thời gian qua là kết quả của một quá trình tìm tòi, đổi mới, bám sát thực tiễn, nhạy bén với thời cuộc, phê phán những lệch lạc về tư tưởng chính trị đa nguyên chớm nở trong nội bộ Đảng, sự phấn đấu gian khổ của toàn Đảng, toàn dân.

Đại hội cũng đã phân tích bối cảnh chung, đặc điểm tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố khó lường, tác động sâu sắc đến các mặt của đời sống xã hội, đưa đến những thuận lợi đồng thời cũng xuất hiện những thách thức lớn. Vì thế, chúng ta chủ động nắm thời cơ, vươn lên phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra thế và lực mới, đồng thời luôn luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục những yếu kém, bảo đảm phát triển đúng hướng.

Căn cứ vào nhận định trên và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội khẳng định cẩn tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng đất nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sớ vật chất  kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Trên con đường thực hiện mục tiêu nêu trên, Đại hội xác định: "Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kì phát triển mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 ; tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ. nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỉ sau.

Đại hội cũng đã nêu lên các định hướng phát triển, các lĩnh vực chủ yếu trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm còn lại của thập niên 90 là:

+ Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông thôn, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.

+ Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.

+ Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao.

+ Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ.

+ Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.

+ Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như: chế biến nông, lâm, thủy sản, khai thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch.

+ Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ.

Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, nêu nhiệm vụ tống quát, những tư tưởng chỉ đạo, các chương trình và lĩnh vực phát triển.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đánh dấu bước ngoặt lãnh đạo chuyển đất nước ta sang thời kì mới - thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân, vì tình hữu nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước vào thế kỉ XXI.

2. Sự biến chuyển của đất nước trong những năm 1996 - 2000:

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, những yếu kém vốn có của nền kinh tế, những đợt thiên tại lớn hên tiếp xảy ra, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực châu Á, tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, ra sức thực hiện kế hoạch kinh tế  xã hội 1996 - 2000, đã đạt được những thành tựu quan trọng:

+ Nhịp độ kinh tế tăng trưởng khá. Hằng năm, tổng sàn phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân 6 - 94% đã hình thành các vùng cây công nghiệp có giá trị, nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Công nghiệp giữ nhịp độ tăng, giá trị sản xuất bình quân hằng năm 13,5% ; kết cấu hạ tầng: bưu chính viễn thông, đường sá, cầu cống, sân bay, điện... được tăng cường. Xuất và nhập khẩu tiếp tục phát triển. Năm 2000 đã chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế; các chi tiêu chủ đã đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra:

+ Văn hóa, xã hội có những tiến bộ, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Mức tiêu dùng bình quân đấu người tăng gấp đôi. Mỗi năm đã giải quyết việc làm cho hơn một triệu lao động. Công tác xóa đói giảm nghèo trên phạm vi cả nước, nhất là ở các vùng trọng điểm, đạt kết quả lớn.

+ Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường.

+ Hệ thống chính trị được tiếp tục củng cố. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa X được tiến hành dân chủ và sôi nổi trong toàn quốc. Quốc hội đã bầu Trần Đức Lương làm Chủ tịch nước, Nguyễn Thị Bình làm Phó Chủ tịch nước, Nông Đức Mạnh làm Chủ tịch Quốc hội, Phan Văn Khải làm Thủ tướng chính phủ và các phó thủ tướng là: Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Công Tan, Ngô Xuân Lộc, Phạm Gia Khiêm và các bộ trưởng cùng các thành viên khác của chính phủ. Nền hành chính quốc gia được tiến hành cải cách một bước, nhà nước pháp quyền được tiếp tục xây dựng và hoàn thiện. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã có nhiều cố gắng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vai trò của Mặt trận ngày càng được phát huy mạnh mẽ. Quyền làm chủ của nhân dân được tôn trọng và được phát huy trên các lĩnh vực; bước đầu thực hiện một số chính sách và quy chế đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở.

+ Quan hệ đối ngoại và việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng và đạt được nhiều kết quả. Quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, các bạn bè truyền thống được tăng cường trên nhiều mặt, quan hệ với các nước phát triển và nhiều nước khác cùng nhiều tố chức quốc tế và khu vực được tăng cường. Hoạt động đối ngoại nhân dân đã được mở rộng về cả phương thức, quy mô và địa bàn, góp phấn tích cực vào thắng lợi ngoại giao của nước ta.

Những thắng lợi trong những năm 1996 - 2000 đã tăng cường sức mạnh, làm đổi thay bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc nền độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam.

Những thành tựu to lớn đó được bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:

+ Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng và có đường lối phương thức lãnh đạo, tổ chức đúng đắn.

+ Nhà nước ta có cố gắng lớn trong việc điều hành quản lí đất nước.

+ Toàn dân và toàn quân ta đã phát huy lòng yêu nước nồng nàn, phát huy nội lực dân tộc, đoàn kết nhất trí, năng động sáng tạo, tiếp tục thực  hiện công cuộc đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, chúng ta cũng còn những yếu kém, khuyết điểm. Đó là:

+ Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, chưa hiệu quả và sức cạnh tranh thấp.

+ Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết, như: tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở mức cao, chất lượng giáo dục - đào tạo thấp; mê tín, hủ tục tăng; các tệ nạn ma túy, mại dâm chưa bị đẩy lùi, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, tình trạng khiếu kiện của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời...

+ Tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu kéo dài, một số cán bộ, đảng viên sa đọa, biến chất, thoái hóa về tư tưởng, đạo đức, lối sống.

Tuy còn một số mặt yếu kém và khuyết điểm, một số chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm (1996 - 2000) không đạt, song qua 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991 - 2000), nhân dân Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với mười năm truớc.
Tác giả: chObi    Thời gian: 25-1-2012 11:07 PM
Thích học sử nhưng mấy sự kiện thì chẳng nhớ nổi
Thích nghe người khác kể chuyện xưa hơn là tự mình đọc, vừa dễ nhớ lại thấy thích thú hơn
Thực ra hồi bé tí teo ước mong là sau này sẽ thành nhà sử học hay khảo cổ học gì đó nhưng lớn thêm chút nữa mới biết là chẳng còn gì cho mình đi tìm tòi nữa. Haiz!
Nếu được thay vì tìm hiểu lịch sử mình muốn tìm hiểu trang phục dân tộc của VN từ xưa hơn
Tìm đọc nhiều tài liệu rồi mà vẫn không thấy văn bản nào ghi rõ cả, toàn mô tả qua loa
Đọc vài dòng mà để liên tưởng rồi vẽ ra cũng đau cả đầu
Tò mò không biết trang phục ngày xưa của VN như thế nào
Nếu bạn có tài liệu thì chia sẻ nhé
Thanks{:263:}
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 3-4-2013 08:55 PM
ôi

mềnh thích học sử dã man

thích đọc sách sử và các tiểu thuyết lịch sử

thật ra lịch sử cũng k khó lắm đâu

nếu mn đừng đọc những con số khô khan và thuộc lòng là được

chỉ cần nhớ dữ liệu,những sư kiện quan trọng

và nhất là nếu yêu thích lịch sử thì sẽ thấy môn này rất thú vị
Tác giả: papillon09    Thời gian: 5-4-2013 10:22 PM
Những tài liệu lịch sử, Văn hoá này hay quá.
Đây là những nghiên cứu của bạn hay biên chép từ sách nào?
(Xin lỗi mình không ở VN nên không rành)
Cảm ơn bạn đã chia sẽ.

Tác giả: papillon09    Thời gian: 6-4-2013 06:42 AM
"love_milk_tea9  - Cái này mình tìm trên mạng rồi post về đây đó bạn"

Oh thì ra vậy. Dù gì bạn cũng tốn nhiều công lao và thời giờ để sưu tầm...
Việc làm nầy rất hửu ích cho sự tăng trưởng kiến thức về văn hóa cho
mọi người trong đây. Cảm ơn bạn.  


Tác giả: HongMai    Thời gian: 19-4-2013 01:43 AM
Nếu bạn chấm dứt từ cái post thứ 48 thì có lẽ hay hơn.
Sử tuy được viết bởi người đương thời nhưng khi đưa vào chính sử để chúng ta học tập thì cần phải được những đời sau (sau khi nhà cầm quyền đương thời không còn nắm quyền lực nữa) viết thì hy vọng mới đảm bảo được tính trung thực và độ chính xác của đoạn sử đó.
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 01:17 PM
           An Dương Vương chọn đất đóng đô ở nơi… chó đẻ

Theo Ngọc phả Đền Hùng: “…Thục An Dương Vương được nước, cảm thấy sự nhường ngôi của (Hùng) Duệ Vương công đức như trời đất, bèn dóng xe về núi Nghĩa Lĩnh, dựng giao đàn để quốc gia phụng tự, dựng hai cột đá ở giữa núi, chỉ lên trời mà khấn  rằng: Nguyện có trời cao lồng lộng chứng giám xét soi, xin đời đời giữ gìn non sông bền vững và trông nom miếu vũ họ Hùng, sai lời thề sẽ bị trăng vùi gió dập…”.

Sau đó An Dương Vương đã rời đô về đất Cổ Loa, xây dựng tòa thành 9 vòng theo hình xoáy ốc mà lịch sử, huyền tích thường gọi là thành Ốc (Loa thành), Cổ Loa thành hoặc bằng nhiều tên khác như Khả Lũ, Côn Lôn thành, Khả Lưu thành, Qủy Long thành, Tư Long thành, Trung Quy thành…

Dã sử và truyền tụng ở địa phương cho biết, ban đầu An Dương Vương chọn đất Uy Nỗ (Tó) làm nơi xây dựng kinh đô, nhưng đàn chó của vua cứ kéo nhau sang đất Cổ Loa, trong đó có con chó quý tìm đến một khu gò đất lót ổ đẻ con, vì thế vua cho dời đô sang Cổ Loa, dựng cung điện ngay trên gò đất nơi chó đẻ. Với quan niệm “đất chó đẻ là đất quý” nên người dân Cổ Loa trước đây có tục làm nhà trên khu đất chó đẻ con.

Đời Lý Thái Tổ dựng cung điện trên núi Nùng ở Thăng Long hay chuyện Trần Hưng Đạo chọn nơi dựng thái ấp ở Kiếp Bạc cũng đều gắn với việc chó tìm đất để lót ổ sinh con…

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... -vua-viet-nam-2749/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 01:25 PM
Lý Anh Tông cho…10 vạn quân đi dẹp trộm cướp



Lý Anh Tông là vị vua cho huy động một lực lượng đông nhất trong lịch sử để trấn áp tội phạm. Dưới triều ông trị vì, ngoài một số cuộc khởi nghĩa, nổi loạn còn xuất hiện tình trạng binh lính đào ngũ đi làm cướp, vì thế vào tháng 8 năm Qúy Mùi (1163) vua sai Phí Công Tín đem 10 vạn quân đi đánh dẹp các đảng cướp.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Bọn lính bỏ trốn, rủ nhau tụ họp thành bầy cướp bóc nhân dân trên đường bộ. Vua sai Phí Công Tín đem quân 10 vạn quân đi đánh dẹp yên được”.

Huy động cả một lực lượng khổng lồ để trấn áp chứng tỏ tình trạng cướp bóc lúc bấy giờ rất nghiêm trọng nhưng may mắn là triều đình đã khắc phục được. Điều thú vị là người có công lớn trong việc trấn áp tội phạm không phải là một võ tướng mà ông xuất thân từ quan văn, về sau mới chuyển sang ban võ nắm binh quyền.  Phí Công Tín làm quan dần dần từ chức Nội thường thị lên đến chức Tả ty, rồi Chư vệ, Binh bộ thượng thư, hàm Thái bảo và được Lý Anh Tông ban quốc tính (họ Lý).

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... -vua-viet-nam-2749/

Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 01:28 PM
Trần Nhân Tông xem bói quốc gia đại sự


Trong lịch sử có những vị vua rất không ưa chuyện bói toán, thuật số nhưng ngược lại có người thậm chí còn thưởng cả chức quan, tước vị cho người đã gieo quẻ, bói trúng, đó là trường hợp đặc biệt liên quan đến vua Trần Nhân Tông.

Tháng 5 năm Kỷ Sửu (1289), sau chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ 3, vua Trần Nhân Tông đã phong cho Phùng Sĩ Chu chức Hành Khiển, lý do là “khi người Nguyên sang, vua sai Sĩ Chu bói. Sĩ Chu đoán rằng: Thế nào cũng đại thắng! Vua mừng bảo: Nếu đúng như lời đoán, sẽ có trọng thưởng. Giặc yên, vua nói: Thiên tử không có nói đùa. Do đấy, có lệnh này” (Đại Việt sử ký toàn thư).

Đến năm Nhâm Thìn (1292) vua lại phong cho một viên quan là Trần Thì Kiến giữ chức An phủ lộ Yên Khang (nay là đất Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình) cũng vì ông đã bói trúng.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho hay: “Trước đây, quân Nguyên vào cướp, vua sai Thì Kiến bói, được quẻ Dự biến sang quẻ Chấn, đoán là tốt. Mùa hạ năm sau, quân Nguyên đại bại, quả đúng như lời đoán. Mùa thu năm Trùng Hưng thứ 2 (1285), quân Nguyên lại vào cướp, vua lại sai bói, được quẻ Quan biến sang quẻ Hoán, Thì Kiến đoán: "Hoán nghĩa là tan, là điềm giặc tan". Sau quân Nguyên đến sông Bạch Đằng, quả nhiên tan chạy. Vua khen tài của Kiến, cho nên có lệnh này”.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... -vua-viet-nam-2749/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 01:34 PM
Vua Lê Thánh Tông cấm phá thai


Trong bộ luật Hồng Đức do Lê Thánh Tông ban hành có nhiều quy định liên quan đến nghề y như trừng phạt thầy thuốc kém đức, vấn đề về pháp y... Đặc biệt, vị hoàng đế này còn ra lệnh cấm phá thai và ít nhất hai lần đã đề cập đến vấn đề này.

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, vào tháng 3 năm Giáp Thìn (1484): “Ngày 12, nhắc lại việc đàn bà phá thai và phá thai cho người khác. Trước đây có lệnh cấm rằng: loại đàn bà tàn nhẫn, vì muốn ít con cái để giữ lấy nhiều của, hoặc ngại việc sinh đẻ, muốn tránh khó nhọc, thấy mình có thai, dùng kế cho sẩy thai, thương tổn tính mệnh, làm hại luân thường, cùng là những kẻ phá thai cho người khác, đều phải tra xét, trị tội theo luật pháp.

Thế mà chúng vẫn coi là tờ giấy lộn, không đổi lỗi trước, vẫn theo thói cũ, tệ trước càng tăng, coi thường pháp luật, làm hư phong tục không gì hơn thế. Nay hãy nhắc rõ lệnh trước, răn cấm nghiêm hơn, nếu có người đàn bà nào như hạng nói trên mà mọi người đều biết, cùng là người chồng không biết răn cấm, đều trị tội theo luật pháp”.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... -vua-viet-nam-2749/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 01:35 PM
Vua Minh Mạng ban hành lệnh cấm thuốc phiện đầu tiên


Khó có thể biết được thuốc phiện được sản xuất, sử dụng ở nước ta từ bao giờ nhưng dần dần đến những thập niên đầu thế kỷ 19, hoạt động buôn bán, sử dụng thuốc phiện đã gây ra những tiêu cực, nhất là khi người nước ngoài mang thứ hàng này vào bán kiếm lời ở nước ta. Trước tình hình đó vua Minh Mạng đã ban lệnh cấm đầu tiên nhằm ngăn cấm việc buôn bán, sử dụng thứ “thuốc độc” này.

Sách Đại Nam thực lục chính biên cho biết vào tháng 7 năm Canh Thìn (1820) vua Minh Mạng ban dụ rằng: “Thuốc phiện là thứ thuốc độc từ ngoại quốc đem lại, những phường du côn lêu lổng mới hút cho là phong lưu, rồi chuyển thành thói quen, thường thường nghiện mà không thể bỏ được. Vì nó, quan bỏ cả chức vụ, dân thì phá hết sản nghiệp, thậm chí gầy yếu sinh bệnh tổn tạng, thương sinh. Vậy nên bài để nghiêm cấm đi”.

“Lúc ấy, đình thần bàn tâu: Bất luận quan hay dân, ai nghiện hút, chứa, nấu hoặc bán thuốc phiện đều bị xử tội đồ; ai bắt được thì thưởng 20 lạng bạc; cha anh không ngăn cấm con em, xóng giềng biết mà không tố đều bị xử trượng…” (Đại Nam thực lục chính biên).

Lời tấu nghị tâu lên, vua Minh Mạng sửa là quan chức có phạm tội này thì bị cách chức, còn các điều khác thì theo lời bàn của đại thần mà cho thi hành. Tiếp đó, vào các năm Giáp Thân (1824), Nhâm Thìn (1832), Kỷ Hợi (1839), vua Minh Mạng lại ban hành thêm quy định mới với hình phạt nghiêm khắc hơn đối với các tội trạng liên quan đến mua bán, sử dụng thuốc phiện, như người hút thuốc phiện bị phạt theo mức từ “đánh 100 trượng, phát lưu 3.000 dặm” đến “tịch thu toàn bộ gia sản”; người nấu, tàng trữ thuốc phiện, bị phạt theo mức từ “sung quân đi biên viễn” đến “xử giảo và tịch thu gia sản”...

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... -vua-viet-nam-2749/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 01:38 PM
QUY MÔ VÀ LÃNH THỔ CỦA TRIỀU ĐẠI HỌ TRƯNG RỘNG LỚN ĐẾN ĐÂU?


Những đánh giá của các nhà sử học các thời Trần, Lê cho phép đoán định địa bàn của cuộc kháng chiến, cũng là lãnh thổ của triều đại họ Trưng, rất rộng lớn, đến tận phía ngoài Ngũ Lĩnh.

Về việc kết thúc cuộc chiến giữa Hai Bà với Mã Viện, cách ghi của các tài liệu cũng không nhất trí. An Nam chí lược ghi Hai Bà bị Mã Viện chém, còn Đại Nam quốc sử diễn ca thì viết: Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo/Chị em thất thế phải liều với sông. Dù sao thì cái chết của Hai Bà là sự hy sinh tràn đầy khí phách anh hùng. Hai Bà là người mở đầu công cuộc chống ngoại xâm cứu nước trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc khiến cho con cháu muôn đời khâm phục và biết ơn.



Minh họa cảnh Hai Bà Trưng ra trận.


Chính Lê Tắc (gia thần của Trần Ích Tắc đầu hàng và lưu vong ở đất Nguyên) dù phải viết theo quan điểm của nhà Hán cũng không thể không bộc lộ thái độ thán phục Hai Bà, trong bài Đồ chí ca, Lê Tắc viết: “Mê linh hai gái sánh anh hùng/Chị là Trưng Trắc, em Trưng Nhị/Phất cờ độc lập xứ Giao Châu/Oai phục trăm Man, ai dám ví/Lĩnh Nam sáu mươi lẻ năm thành/Bà chị làm vương, em làm súy/Đường đường tướng Hán Mã Phục Ba/Cắn răng khổ chiến ba năm lẻ”.

Vấn đề thứ hai còn chưa được tìm hiểu kỹ là quy mô về thời gian và không gian triều đại họ Trưng. Có phải lãnh thổ của vua Trưng chỉ là quận Giao Chỉ, Nhật Nam, Cửu Chân và sự nghiệp của triều đại Hai Bà chỉ vẻn vẹn có 3 năm?

Có người đặt vấn đề là, nếu chỉ đến khi chồng bị Tô Định thảm sát, bà Trưng Trắc mới nổi dậy thì khó có thể tập hợp ngay được một lực lượng hùng hậu để nhanh chóng giành lại cả phần lãnh thổ ngoài Ngũ Lĩnh và lập nên một triều đại bề thế mà nhà Hán phải vất vả huy động binh hùng tướng mạnh hao người tốn của mới tiêu diệt được. Phải chăng dân chúng của vua Hùng với lãnh thổ rộng lớn “Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn… chia làm 15 bộ” (Đại Việt sử ký toàn thư) dù bị nhà Hán chiếm cứ vẫn không chịu bị chế ngự.

Thế lực của các Lạc tướng vẫn tồn tại, cho nên khi Hai Bà vừa phất cờ nổi dậy thì “chỉ hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố cùng 65 thành đã hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay”. Đó chính là cái ý mà các nhà sử học Lê Văn Hưu, Nguyễn Nghiễm, Ngô Thì Sĩ đều cho là “hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương”. Và đó cũng là cái lý để các ông trách cứ “bọn đàn ông” “tự vứt bỏ mình”, trong khoảng hơn nghìn năm “chỉ bó tay, làm tôi tớ cho người phương Bắc”, không biết xấu hổ với hai người con gái họ Trưng!

Những ý kiến rất cô đúc đó của các nhà sử học các thời Trần, Lê cũng cho phép chúng ta đoán định địa bàn của cuộc kháng chiến, cũng là lãnh thổ của triều đại họ Trưng, rất rộng lớn, đến tận phía ngoài Ngũ Lĩnh.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... g-lon-den-dau-2894/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 01:49 PM
18 ĐỜI VUA HÙNG VƯƠNG: MỘT Ý NIỆM VỀ LIÊN TỤC


Đề tài chính của bài này: Chuyện 18 đời vua Hùng Vương có thật hay không? Con số 18 có chính xác chỉ 18 đời vua hay không? Hoặc giả được ghi sai chép trật? Từ 80 đời hoặc 180 đời, chép lộn ra thành 18 đời? Hoặc không có gì hết.

Sau đây xin quan sát chuyện 18 đời dưới một góc độ tương đối mới, và sẽ cố gắng tránh đề cập đến những vấn đề liên hệ, như: trăm con, gốc gác Âu Cơ và Lạc Long Quân, Hùng Vương, Văn Lang, v.v... Xin để dành cho những dịp khác.

Viết về Họ Hồng Bàng, quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim [1] có chép:
Cứ theo tục truyền thì Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục.  Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.

Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.

Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 trước Tây Lịch?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long quân bảo Âu Cơ rằng: Ta là dòng dõi Long-quân, nhà ngươi dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 ta đem xuống bể Nam Hải.

Sau đó vẫn theo truyền thuyết Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương. Hùng Vương cai trị nước Văn Lang theo lối cha truyền con nối đến 18 đời, thì bị Thục Phán, từ biên cương phía Bắc, đánh bại. Thục Phán lên ngôi, xưng là An Dương Vương, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Đó là năm 258 trước Công Nguyên (TCN).

Theo sách vở cũ, các đời vua Hùng bắt đầu từ năm 2879 và kết thúc vào 258 TCN. Tổng cộng 2622 năm. Nếu chia ra 18 đời thì mỗi một đời vua kéo dài trung bình 146 năm. Một chuyện hết sức hoang đường, nếu nhớ: (i) Các triều đại vua chúa bên Tàu vào thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo dài trung bình khoảng 10-20 năm, như Châu Trang Vương (696-682 TCN), 14 năm chẳng hạn; và (ii) Đời sống con người thời đó trung bình chỉ kéo dài khoảng 50 năm. Hơn thời sống trong hang động chừng 20 năm.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư [2], xuất hiện khoảng 1479 dưới đời vua Lê Thánh Tôn, chính là bộ sử đầu tiên đưa truyền thuyết Âu Cơ - Lạc Long Quân, rồi Hùng Vương vào sử sách nước Việt. Trước thời Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, có 2 bộ sử nữa, nhưng hoàn toàn không đề cập đến truyền thuyết Lạc Long Quân. Đó là Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu, xuất hiện năm 1272, và Đại Việt Sử Lược với tác giả khuyết danh, ra đời trong khoảng cuối thế kỷ 14 dưới đời nhà Trần. Bộ sách của Lê Văn Hưu, tuy thất truyền từ lâu nhưng phần lớn được Ngô Sĩ Liên xử dụng khi soạn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Đại Việt Sử Lược thất lạc nhiều năm, nhưng về sau được một vị quan nhà Thanh tìm được ở một thư khố bên Tàu.

Chuyện tích vua Hùng với 18 đời, cùng những truyền tích khác như: Phù Đổng Thiên Vương, Sơn Tinh Thủy Tinh,... thật ra được Ngô Sĩ Liên  nhập vào bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, từ những sách thuật chuyện u linh hoang đường như: Việt Điện U Linh Tập, và Lĩnh Nam Chích Quái, xuất hiện trong khoảng thế kỷ 14. Đặc biệt Lĩnh Nam Chích Quái, do tiến sĩ Vũ Quỳnh hiệu đính, thuật lại những chuyện thần thoại ở khu vực phía Nam rặng núi Ngũ Lĩnh (Lĩnh Nam), tức phía Nam của nước Sở ở vào thời Xuân Thu Chiến Quốc xa xưa (722-221 TCN).

Trở lại với năm đầu và năm cuối của thời Hồng Bàng. Trần Trọng Kim dùng thẳng tài liệu của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (2879-258 TCN) - nhưng đặt thêm một dấu hỏi (?) sau năm khởi đầu: 2879 TCN. Bởi thật ra, chính Ngô Sĩ Liên cũng chỉ đề cập đến 18 đời ở bên ngoài phần Ngoại Kỷ (từ thời Hồng Bàng đến Ngô sứ quân). Đặc biệt Ngô Sĩ Liên có chép lời bàn ở cuối chương về thời Hồng Bàng [2], bày tỏ mối ngờ vực về truyền thuyết Âu Cơ: Cái thuyết nói 50 con theo mẹ về núi, biết đâu không phải là thế. Còn Sơn Tinh Thủy Tinh thì ông cho: rất là quái đản, tin sách chẳng bằng không có sách, hãy tạm thuật lại chuyện cũ để truyền lại sự nghi ngờ thôi.

Ngô Sĩ Liên đã đoán rất đúng: Khi nhét các truyền tích vào cổ sử, ông đã tiếp tục gieo nghi ngờ và thắc mắc với mọi người Việt từ lúc đó cho mãi đến ngày nay. Mặc dù đã căn dặn kỹ: tin sách chẳng bằng không có sách (tận tín thư bất như vô thư) [7].
Mãi cho đến cuối thế kỷ 20, nỗ lực của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đã đưa đến một số điều chỉnh về năm tháng. Trong đó niên đại kết thúc đời Hồng Bàng (và bắt đầu thời Thục Phán) được dời về năm 208 TCN (xem ghi chú trong [3]). Đặc biệt, gần đây, họ phối hợp những luận cứ dựa trên các khám phá khảo cổ học về thời đại văn minh Đông Sơn với một đoạn ngắn của quyển Đại Việt Sử Lược [2], thất truyền lâu năm nhưng về sau tìm lại được ở thời Mãn Thanh (bên Tàu)

Đền đời Trang Vương nhà Châu [4] (696-682 TCN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, đặt quốc hiệu là Văn Lang,  phong tục thuần lương chơn chất, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời, đều xưng là Hùng Vương .

Xin chú ý đến một vài điểm:
(i) Đại Việt Sử Lược vẫn cho thời đại Hùng Vương kéo dài 18 đời.
(ii) Không có ghi chi tiết Cha Mẹ của Hùng Vương. Tức giấy khai sinh của Hùng Vương không có tên Lạc Long Quân và Âu Cơ.
(iii) Vua Hùng thứ nhất khởi đầu sự nghiệp vào khoảng năm 688 TCN, và kết thúc vào năm 208 TCN. Bình quân 26 năm cho mỗi một đời vua.
(iv) Chính sự dùng dây kết nút để... truyền thông với nhau. Tức không có chữ viết. Không có sử sách gì hết. Tức không giống như văn minh Hoa Hạ ở khu vực bình nguyên sông Hoàng Hà.

Tóm tắt:
- Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, 18 đời vua Hùng: 2879-258 TCN
- Theo nhiều tài liệu sử hiện nay, dựa trên tài liệu khai quật và Đại Việt Sử Lược, 18 đời Hùng Vương: khoảng 688-208 TCN
Thế nhưng vẫn có nhiều người hãy còn ... ấm ức không đồng ý, bởi làm như vậy số năm văn hiến của nước Việt sẽ bị rút xuống còn dưới 3000 năm, thay vì 4000 năm văn hiến như xưa. (Xem [8]). Tức trong khi văn minh Hoa Hạ đã nở rộ, đời sống con người ở nước Nam hãy còn khá ...man di.

Sau đây chúng ta thử nhìn vấn đề dưới một góc độ khác. Một góc nhìn chịu ảnh hưởng của toán học. Trong đó có số âm, số dương, số thực và ... số ảo. Có hệ thống đếm số 10, hệ thống đếm số 5 (như dân Khmer ở cổ thời [11]), hệ thống đếm số 2 (như trong máy điện toán). Cũng như ý niệm về tập hợp.

Những con số 18

Để ý con số 18 hầu hết trên toàn thế giới ngày nay thường được dùng để định mức tuổi trưởng thành của người công dân. Tuổi công dân. Bất cứ mọi dân tộc nào trên thế giới cũng biết đến số 18 này.

Đối với văn hoá miền Hoa Nam, nhất là đối với người Quảng Đông và Hongkong, số 18 là một con số hên. Phát âm số 18 theo kiểu Quảng Đông: /xập bát/ (mười tám, thập bát). Âm điệu rất giống với /xật phát/ (tất phát), mang nghĩa ‘thế nào cũng phát tài’.

Số 18 cho tuổi công dân, và số hên của người Quảng Đông không có liên hệ gì hết đối với 18 đời vua Hùng. Tuy nhiên, nếu nhìn trở lại cội nguồn của lịch sử nước Tàu chúng ta sẽ thấy ngay con số 18 đã xuất hiện khi người Hoa bắt đầu viết sử sách. Trước hết họ thêu dệt câu chuyện ông Bàn Cổ, thủy tổ loài người, tức dân Trung Quốc.

‘Theo tục truyền’, thuở ban đầu trời đất lẫn lộn với nhau thành một khối, rất hỗn độn. Vũ trụ là một cái trứng khổng lồ chứa Bàn Cổ trong đó [13]. Bàn Cổ ngủ trong trứng đến ‘18 ngàn’ năm, rồi mới thức dậy. Thấy ngột ngạt, Bàn Cổ mới lấy cây rìu rộng đập vỡ vỏ trứng. Ánh sáng và khí thoát lên trên tạo thành Trời, và phần lạnh và đục như chất bùn lắng xuống phía dưới tạo thành Đất. Bàn Cổ đứng chính giữa, đầu đội trời chân đạp đất. Cả ba thực thể đó đều tăng trưởng với mức độ mỗi ngày dài thêm một trượng, tức chừng 3.3 thước (mét) tây. Rồi 18 ngàn năm nữa trôi qua, Bàn Cổ vẫn đứng chính giữa, ngăn cách Trời và Đất. Đến lúc Bàn Cổ mất, chiều cao của Bàn Cổ đã đạt đến 9 triệu lí (xin để ý 18 chia cho 2 ra 9). Hơi thở Bàn Cổ trở thành gió và mây, tiếng thành sấm. Một con mắt trở thành mặt trời, con mắt kia thành mặt trăng. Thân và tay chân biến thành 5 ngọn núi lớn. Máu thành sông biển. Râu tóc trở nên bao nhiêu ngôi sao và tinh tú ở trên trời. Vân vân và vân vân.
Xin để ý, con số 18 trong chuyện Bàn Cổ có vẻ thuần nhất chỉ một chuỗi trình liên tục, một thứ chu kỳ [4]. Những sự kiện hay sự vật trong đó mang cùng chung một số đặc tính. Trong 18 ngàn năm đầu: Bàn Cổ chìm trong giấc ngủ. Một liên tục: Ngủ. Liên tục kế tiếp: Thức, trong thế đứng, thế chổng, đầu đội trời chân đạp đất. ‘Liên tục’ này cũng kéo dài 18 ngàn năm. Cuối cùng, khi kết thúc liên tục ‘thức’, hay chu kỳ ‘thức’,  Bàn Cổ cao được 9 triệu lí (1 lí = 600 thước). Con số 9 thật ra chỉ là 18 chia cho 2.

Sau Bàn Cổ một ít lâu, xã hội của chủng Hoa nguyên thuỷ bên sông Hoàng Hà có 3 vị vua trứ danh (Tam Hoàng), và 5 đế nổi tiếng (Ngũ Đế). Tuy nhiên có chừng 5-8 giả thiết khác nhau về tên họ của những vị này. Danh sách Tam Hoàng đáng kể và thường thấy nhất chính là: Phục Hi, Thần Nông và Hoàng Đế [14] [18]. Bà Nữ Oa cũng có tên trong một số danh sách Tam Hoàng. Trong số các danh sách Ngũ Đế, một số có tên vua Nghiêu và vua Thuấn. Theo thiển ý, những vị Tam Hoàng – Ngũ Đế kiểu này chỉ mang tính chất biểu tượng cho khối chủng tộc. Thí dụ: Vua Thần Nông chỉ mang nghĩa: dân Hoa thời đó bắt đầu sinh sống bằng nghề Nông. Bà Nữ Oa đội đá vá Trời: Hoa chủng thuở xa xưa mang Mẫu Hệ.

Chỉ có vua Nghiêu (Yao) và Thuấn (Shun) là có vẻ ‘bán-huyền-thoại’ [12]. Thuấn sau cùng truyền ngôi lại cho ông Yũ (Vũ), khởi đầu triều đại đầu tiên của nước Tàu: nhà HẠ. Nhà Hạ kéo dài được 18 đời với vua cuối là Kiệt. Vua Kiệt là một bạo chúa, ham mê trụy lạc, nên bị Thành Thang hội chư hầu lật đổ và thiết lập nên nhà Thang hay Thương (còn gọi Ân (Yin), 1070-1027 trước Công Nguyên). Cho đến nay vẫn chưa có tài liệu khai quật để minh chứng hiện diện của nhà Hạ. Nhưng có rất nhiều chứng tích về nhà Thương [9] [12] [17].

Một lần nữa, con số 18 xuất hiện chỉ 18 đời vua nhà Hạ. Có thể để ý:
- Sử gia Trung quốc biết rất ít về nhà Hạ, ngoài những truyền tích trong dân gian. Đặc biệt vua Kiệt vì mê nàng Muội Hỷ nên mất nước.
- 18 đời vua Hạ một lần nữa lại chỉ một liên tục có cùng chung một số đặc tính. Đó là chu kỳ đời nhà Hạ. Chi tiết không được rõ!
- Số 18 do đó có thể hàm ý một ẩn số. Một ẩn số khá hoa mỹ trong ngôn ngữ và văn minh Hoa Hạ, thay vì ‘x’ như trong toán học ngày nay.

Xin quan sát tiếp.

Vào một dịp tình cờ, trong những ngày nghỉ nhân dịp Giáng Sinh và đầu năm 2005, tại hạ tìm ra được một tiệm chuyên cho mướn đĩa DVD chuyên về phim Hongkong, phim Hàn quốc, nhất là loại kiếm hiệp trữ tình. Loạt phim kiếm hiệp thuộc thời vàng son điện ảnh Hongkong, của Shaw Brothers (Run Run Shaw và Runme Shaw), vào thập niên 1960-70 được cho in lại vào dạng DVD. Thế là liên tiếp nhiều hôm, tại hạ cho đĩa DVD vào máy rồi ngồi xem lại những phim kungfu cũ do các tài tử gạo cội thời đó thủ diễn. Như: Trần Quan Đại, La Liệt, Trần Tinh, Vương Yũ, Khương Đại Vệ (David Chiang), Phó Thanh, … Phải nhìn nhận phim kiếm hiệp Hongkong thời đó thật hay. Hay đến nỗi nhà đạo diễn lừng danh Mỹ Quentin Tarantino gần đây đã làm 2 phim Kill Bill với Uma Thurman, để vinh danh thời vàng son của điện ảnh Hương cảng.

Liên tiếp hai phim Hongkong đã xử dụng ý niệm ‘18’ để chỉ một liên tục, một chu kỳ. Thứ nhất, bộ phim 3 điã DVD về ‘Xạ Điêu Anh Hùng Truyện’ phóng tác theo tiểu thuyết của Kim Dung, với tài tử đoản mệnh Phó Thanh trong vai Quách Tĩnh. Và thứ hai, phim ‘Thế võ Bọ Ngựa’ (Shaolin Mantis) do David Chiang (Khương Đại Vệ, Kang Da Wei) đóng vai chính.

Ở phim ‘Xạ Điêu Anh Hùng’, đoạn Bắc Cái bị rắn của Tây Độc cắn, tàn phế võ công. Bắc Cái Hồng Thất Công mới truyền ngôi Bang chủ Cái Bang cho Hoàng Dung. Lúc truyền chức vụ Bang chủ, Hồng Thất Công có nói với Hoàng Dung, đại khái:’Bây giờ thầy xin truyền lại cho con chức vụ Bang Chủ của Cái Bang. Từ khi Bang ta được thành lập, đến đời của Thầy là đời thứ 18,…’
Cũng lại con số 18, trong một câu chuyện hoàn toàn hư cấu. Một con số ảo, trong một bối cảnh với nhân vật ảo. Nhưng trên một nền tảng văn minh… có thật và thứ thiệt. Con số 18 ở đây lại đánh dấu kết thúc 1 chu kỳ, một liên tục trong chiều thời gian. Chu kỳ đó là một chu kỳ của các Bang Chủ thuộc nam phái. Nó kết thúc bởi Hoàng Dung là một người nữ, con gái của Đông Tà Hoàng Dược Sư, trở thành một Bang chủ mới.

Phim thứ hai kế tiếp, cũng dùng con số 18, đã cuối cùng thuyết phục được tại hạ và đem lại hứng khởi viết nên bài này. Đó là phim ‘Thế võ Bọ Ngựa Thiếu Lâm’ (Shaolin Mantis) do Khương Đại Vệ thủ vai chính. Chuyện phim nói về vụ người Hán lúc nào cũng lén lút tụ tập lo bài Mãn phục Minh. Vua Mãn Thanh ngày nọ mới phái đại hiệp Wai Fong (David Chiang) văn võ toàn tài đi truy tầm một đám phục quốc lợi hại ở miền Giang Nam. Wai Fong phải trá hình làm một ông đồ ngốc nghếch, để len vào một gia đình vọng tộc, có tinh thần phục quốc cao, với võ nghệ rất siêu quần. Gia đình ấy có một người con gái rất khoái võ nhưng không chịu học chữ. Thầy đồ nào đến nhà dạy dỗ cho cô ta thường chỉ chịu được năm bảy ngày, rồi cũng phải cuốn gói chuồn êm. Lúc Wai Fong đến thị trấn, y gặp thị đang đánh đập và đuổi  ông Thầy đồ già bởi không được vừa ý với lối dạy của ông. Thấy Wai Fong đẹp trai, nho nhã, cô ta mới mời dọn về nhà để làm lão sư mới cho cô. Trước khi cho việc thầy Wai Fong, cô này báo động trước, đại khái: ‘Anh có chắc đủ sức làm thầy tôi không. Anh coi chừng rồi cũng như ông thầy già, ban nãy bị tôi đuổi việc. Anh biết hôn, ông Thầy đó là ông Thầy thứ 18 rồi đó.’

Thật quá rõ: số 18 được dùng để chỉ một tập hợp, một liên tục, hay chu kỳ. Trong trường hợp phim ‘Quyền Bọ ngựa’ nói trên, nó chỉ một chu kỳ hay tập hợp những ông thầy đồ già, có mạng ngũ hành không khắc được cô học trò ngỗ nghịch hư hỏng kia. ‘Liên tục’ đó sẽ được khép kín lại sau khi thầy Wai Fong nhận việc. Bởi thầy Wai Fong sẽ mở màn cho một ‘liên tục’ mới. Một liên tục, tràn đầy những ca khúc tình yêu, dẫn đến tình vợ chồng giữa cô học trò tinh ý và ông thầy Wai Fong.
Ta để ý, trong tất cả các trường  hợp dùng 18 - từ 18 đời vua nhà Hạ cho đến 18 ông thầy không trị được học trò – danh tánh và chi tiết về 18 vị đó hoàn toàn mang tính cách… không quan trọng. Không thành vấn đề. Người phát ngôn ra con số 18 đó có vẻ chỉ muốn chúng ta biết ‘đó là một con số nào đó’, có thể lớn hơn 2, hoặc nhiều hơn 3. Và cũng có thể là một con số Không (0). Số chính xác không quan trọng. Bởi thực chất của nó chẳng có quan trọng. Nhưng quan trọng hơn chỉ ở chỗ những phần tử trong ‘tập hợp’ đó mang cùng một số đặc tính chung. Xin được lập lại, số 18 trong văn minh Hoa Hạ có vẻ mang chung một ý nghĩa như ‘ẩn số X’ trong toán học. X= 0,1, 2, 3,…. Nhưng ký hiệu ‘18’ đó có vẻ hoa mỹ hơn, chải chuốt hơn X. Và cũng có ý của một số bán xác định hay bất chợt, tương đương với N trong toán học. Với ngụ ý: không cần tìm hiểu rõ chi tiết về đặc tính của những nhân vật mang số từ 1 đến 18 làm gì. Chỉ cần hiểu đó là một tập hợp, một liên tục, chu kỳ, hay chuỗi trình kín, nay đã hoàn toàn kết thúc.

Bội số của 18 và 9

Bất cứ ai cũng đều biết rõ 18 chính là: 9 nhân cho 2. Khoảng cách từ mặt đất đến trời xanh, theo ý niệm người Hoa thời cổ đại, bằng chiều cao của Bàn Cổ, tức 9 triệu lý (= 4600000 km). Cũng dùng con số 9.

Rất nhiều số đếm của văn minh Trung quốc vẫn dùng đến 9 hoặc 18, và bội số của chúng.

Về võ nghệ, ta có ‘thập bát ban võ nghệ’ tức 18 kiểu đánh võ khác nhau. Gồm: đánh côn, đi quyền, v.v... Nhưng thật sự ít khi thấy sách vở Tàu ghi lại đầy đủ 18 lối đánh võ khác nhau đó. Nếu đọc truyện Tàu xưa, ta cũng thường thấy: ‘tam thập lục kế yĩ đào vi thượng’: trong 36 kế, kế chạy trốn là hay nhất. 36 chính là = 18 nhân 2. Cũng ít thấy ai cho biết chi tiết của từng mưu kế trong con số 36 kế đó. Chùa Thiếu Lâm cũng vậy. Nhiều phim kungfu hư cấu cho thấy phái Thiếu Lâm có đến 36 phòng luyện võ. Mỗi phòng một kiểu luyện khác nhau. Nhưng cũng ít khi quay cho thấy đầy đủ 36 phòng đó.

Đọc Tây Du Ký, ta để ý hai nhân vật có bùa phép thần thông quảng đại nhất. Người thứ nhất là Tôn Ngộ Không, tức Tề Thiên Đại Thánh. Người thứ hai, Dương Tiễn tức Nhị Lang. Cả hai đều có đến 72 thứ phép tắc thần tiên. Thường gọi: thất thập nhị huyền công. Xin kể vài thứ phép. Tôn Ngộ Không có thể bứt một cọng tóc thổi phù một cái. Presto! Cọng tóc biến ngay ra thành một Clone Tôn Ngộ Không khác, với khả năng bùa phép, võ nghệ y hệt như Tôn Ngộ Không thiệt. Tôn Ngộ Không cũng có thể uốn người nhảy lên không trung một cái, lập tức biến thành con chim. Nhị Lang Dương Tiễn cũng vậy. Cũng đầy đủ 72 thứ bùa phép y như Tôn Ngộ Không. Nhưng có lẽ vì y thuộc loại quan ở trên Trời, đi đâu cũng có chó theo, nên tác giả cho y thuộc phe chánh đạo, phải trên rơ phe tà đạo đại diện bằng Tề Thiên. Cũng có thể y mang mạng Kim, phía Tây, nên có vẻ trên cơ hơn một chút và khắc được Tôn Ngộ Không, mạng Thổ, phía Đông. Tuy cả hai cùng có ‘thất thập nhị huyền công’ như nhau.

Nhưng đặc biệt để ý, tác giả Ngô Thừa Ân không bao giờ liệt kê đầy đủ 72 thứ phép thần thông đó gồm những thứ phép nào. Ta chỉ biết 72 là một bội số của 18, và tất nhiên của 9:  72= 18 x 4;  72= 9 x 8.

Như vậy có thể tóm tắt: Trong văn minh người Hoa, họ rất thích dùng những con số như 9, 18,  36, 72, 108 (108 anh hùng Lương Sơn Bạc trong ‘Thủy Hử’),… Tất cả đều là bội số của 18, đặc biệt cũng là bội số con số 9.
Thế tại sao họ lại thích con số 9? Có nhiều lý do, và xin để lý do chính qua phần sau. Lý do thông thường: số 9 là số dùng để chỉ vua chúa.

Người Trung quốc từ thời xa xưa đã dành số lẻ để chỉ đàn ông, và số chẵn chỉ đàn bà. Con số 9 tượng trưng cho người đàn ông có uy quyền nhất. Số 9 do đó dùng để chỉ các bậc đế vương.

Theo chuyện kể của Ngọc Phương [10], ‘những toà điện trong Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh gồm 9900 gian nhà. Các tháp canh ở bốn góc cung điện đều có 9 xà và 18 cột. Còn trên các bức từơng bình phong có trạm khắc 9 con rồng…

Một ví dụ điển hình nhất về con số 9 huyền thoại là bệ thờ ở Thiên Đàn Bắc Kinh – nơi các hoàng đế thời Minh và Thanh hàng năm thường tế Trời để cầu cho quốc thái dân an. Bệ thờ có hình tròn, xây thành 3 cấp. Mặt trên của bệ thờ ghép bằng 9 vòng đá đồng tâm. Vòng đá trong cùng gồm 9 phiến đá hình quạt, vòng thứ hai gồm 18 phiến (9x2), vòng thứ ba 27 phiến (9x3), … cho đến vòng ngoài cùng, vòng thứ 9 gồm 81 phiến (9x9) ghép lại.’

Hệ số đếm dùng con số 9

Giải đáp số 9 là số của vua chúa, tuy tiến thêm 1 bước nhưng vẫn chưa giải thích được toàn diện tại sao người Hoa từ xưa vẫn ưa dùng các bội số của 9, như 36, 72, 108, và nhất là 18. Mặc dù rằng chúng ta đã khá đủ tư liệu, kể trên, để chứng minh rằng: số 18 trong ‘18 đời vua Hùng’ chỉ là một con số quy về ý niệm của một liên tục, một châu kì, một tập hợp kín.

Đóng góp quan trọng thứ hai của bài này chính là giả thuyết: Người Hoa nguyên thủy, kể luôn  cả chủng Yueh (Việt) ở phía Nam sông Dương Tử, vào thuở khai thiên lập địa, tạo dựng nên xã hội, đã dùng hệ thống đếm dựa trên con số 9, chứ không phải con số 10 theo hệ thống thập phân hiện nay. Phát hiện này, mặc dù còn trong dạng giả thuyết, có lẽ từ xưa đến nay chưa thấy bàn đến trong sách vở. Và có lẽ chính người Hoa cũng không ngờ tới chuyện này.

Thế nào là hệ thống đếm số 9? Muốn hiểu hệ thống đếm số 9 ta thử nhờ một em bé đếm thử từ 1 đến 20. Em đếm, bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới:
1 – 2 – 3 – 4 – 5 – 6 – 7 – 8 – 9  rồi 10. Tức con số lớn nhất trong hệ thống thập phân. Sau đó, em đếm tiếp: 10+1, em gọi tắt ‘mười một’,  rồi 10+2, gọi tắt 12, 10+3, gọi tắt 13,… tuốt đến 19 (tức 10+9). Sau đó, em đếm 10+10. Nhưng 10+10, em nghĩ có vẻ bất tiện, nên thế bằng: 2 lần 10, gọi tắt thành ‘hai mười’, tức ‘hai mươi=20’. Tiếp theo đó: 20+1, tức 21; 20+2, tức 22, v.v.

Như đã phân tích kỹ trong bài viết về hệ thống đếm số của người Mường (hệ 9) [11], ở thời cổ đại có nhiều hệ thống đếm số khác nhau. Thí dụ, người Khờ-Me tức Cam Bốt ngày nay, dùng hệ thống đếm số 5. Tức khi đếm tới số 5 là hết. Họ phải đếm lại dùng số 1 ban đầu. Nghĩa là họ xem số 6 như là 5+1. Tiếp tục: 7=5+2,…

Phát âm về số đếm trong tiếng Cam Bốt, từ 1-12, xin liệt kê như sau:
0 = son  {đọc như: /sohn/}  => không
1 = múay  /mooeh/ => một
2 = bpii /bpee/ => hai
3 = bey  /bay/  => ba
4 = buan  /booan/ => bốn
5 = bram /blam/ => năm => Số lớn nhất trong hệ
5. Muốn đếm tiếp, phải dùng đến số 5, rồi cộng thêm:
6 = bram-múay /blam-mooeh/ => sáu => sáu (6)= bram (5)+muay (1): bram-muay
7 = bram-bpil  /bram-bpee/ => bảy=> bảy (7)= bram (5)+bpil (2): bram-bpil
8 = bram-bey  /bram-bay/  => tám => 8= bram (5)+bey (3)
9 = bram-búan /bram-booan/ => chín => 9= bram (5)+buan (4)
10 = dop /dup/  => mười => một tên gọi mới có nghĩa 2x5
11 = dop-muay /dup-mooeh/ => 11= dop (10)+muay (1), mười một
12 = dop-bpii  /dup-bpie/  => 12= dop (10)+bpie (2), mười hai ……………………
16 = dop-brammuay /dup-blammơoeh/ => 16= dop (10)+bram(5)+muay(1)

Như vậy, đối với hệ đếm số 5, số 5 là số lớn nhất. Hệ đếm này dựa vào lối đếm dùng bàn tay 5 ngón.
Đối với hệ thống đếm số 10 như toàn cầu xử dụng hiện nay, số 10 là số lớn nhất. Hệ đếm số 10 xử dụng cả 10 ngón tay.
Đối với hệ thống đếm số 9, số 9 là số lớn nhất. Trong hệ đếm đó, số 9 lớn nhất đã được dùng để chỉ vua chúa. Hệ thống đếm số 9, theo thiển ý, đã dành 1 ngón tay để chỉ số không (0). Còn lại 9 ngón kia dành cho số đếm từ 1 đến 9.
Hệ thống đếm số 9 vận hành ra sao? Như thường, đếm từ 1 đến 9. Số 10 đã được đếm như 9+1. Mười một: 9+2, v.v... cho đến 17= 9+8.
Rồi 18 sẽ được gọi như = 2 lần 9. Tức 29. Số 19 sẽ trở thành ‘2 lần 9 + 1’. Đếm tuốt đến 27 ta sẽ đếm theo hệ thống 9 thành 39, tức 3 lần 9. Ba lần chin = 39 = 3x9 = 27. Đúng là những con số Bình Nguyên Lộc [5] đã nêu lên thắc mắc không hiểu tại sao người Mường lại đếm số khác với Việt. Việt gọi số đếm 27, trong khi Mường gọi đó 39. Số 39 của Mường mang nghĩa 3 lần 9, thuộc hệ thống đếm số 9. Việt 27 = Mường 39. Hai mươi bảy bằng vơí ba nhân cho chin lần, 27= 3x9. Mường đọc ‘ba chỉn’, tức 39. Muốn biết rõ về người Mường, và nếp sống cùng văn hoá của họ xin xem tác phẩm của Jeanne Cuisinier về xã hội Mường xuất bản vào năm 1946 [15].

Rất có thể người Hoa ở thời mới tạo dựng xã hội đã dùng hệ thống đếm 9, bởi những lý do sau:
(i) Họ đã dùng số 9 để chỉ người đàn ông có quyền lực nhất. Số 9 là số lớn nhất trong hệ thống đếm số 9. Chứ không phải trong hệ thống đếm số 10 như Ngọc Phương đã trình bày [10].
(ii) Vào thời cổ đại, thật cổ, văn minh Trung Đông chưa truyền đến Trung Quốc. Người Hoa chắc chắn phải có một hệ thống đếm hơi khác với hệ đếm số 10, của Trung Đông. Mặc dù rằng có thể đến đời nhà Thương, hoặc đầu đời nhà Châu (khoảng năm 1000 trước Công Nguyên), hệ thống đếm số 10 đã du nhập đến Khu vực sông Hoàng Hà.
(iii) Người Hoa vẫn thích dùng bội số của 9, như 18, 36, 72,… Y như những người quen hệ thống 10, sẽ thích dùng: 10, 20, 30, 40…
(iv) Người Mường cho đến giữa thế kỷ 20 vẫn còn dùng hệ thống đếm số 9, họ đã mang theo khi di cư về phía Nam. Người Mường là ai? Đại khái họ cũng cùng chung chủng Yueh (Việt), nhưng thuộc chi Thái. Khi xưa họ tập trung ở vùng phía Nam sông Dương Tử, đặc biệt tại nước Ba và Thục, giáp giới với nhà Tây Châu (770-476 TCN). Sau khi nước Thục bị nhà Tần dứt điểm, họ thiên cư về Nam, và gia nhập cộng đồng Tây Âu ở khu vực Quảng Tây, Quí Châu, ngày nay. Bởi những gì họ còn giữ, rất có khả năng đã được chia xẻ qua lại với Hoa chủng bên nước Châu ngày trước. Nên nếu họ còn giữ hệ thống đếm số 9, người Hoa thứ thiệt tại nước Châu ngày xưa thật xưa chắc cũng đã dùng hệ đếm số 9 đó.
(v) Nếu ở cổ thời, lúc văn minh phương Tây chưa mang sang hệ đếm số 10, rất có khả năng cả hai vùng Hoa Nam và Hoa Bắc đều xử dụng và quen thuộc với hệ đếm theo số 9. Từ đó họ sẽ quen dùng những bội số như 18, 24, 36, 72, v.v...
(vi) 18 đời vua nhà Hạ, triều đại khởi thủy của nước Tàu, đã xử dụng con số 18 theo thói quen của hệ thống đếm số 9 đó. Và từ đó việc vay mượn ý niệm triều đại Hồng Bàng của Tàu đưa vào truyền thuyết dựng nước ở phía Nam, chắc cũng không có gì lạ cả.

Tóm tắt

Bài này thử nhìn vấn đề ’18 đời vua Hùng’ dưới góc độ toán học và văn minh Hoa Hạ. Kết quả cho thấy con số 18 thật ra chỉ là một con số bất chợt, không liên hệ đến chi tiết lịch sử.

Số 18, trong văn hoá Trung quốc, thông thường được dùng để chỉ một chu kỳ. Hoặc một liên tục, một tập hợp, mà những phần tử trong tập hợp đó có cùng chung một số đặc tính. Ở một mặt khác, nó là một con số che lấp những thiếu thốn về hiểu biết và chi tiết về tính chất của từng phần tử trong tập hợp đó. Nói một cách khác, số 18 chỉ là một lối nói cho văn vẻ, dùng toán số (2x9= 18) của giới sĩ phu Trung quốc. Có lẽ với mục đích… để hù những người không biết chữ, và cũng để cho bài viết, bài văn cho được trôi chảy, không có những điều ‘không biết’. Số 18 là một con số dùng để…che mắt, lấp loát những cái không biết.

Số 18 hoặc 36, 72, hay về sau ‘Bách’ tức 100, như dùng để chỉ khối chủng Yueh (Bách Việt), đã được xử dụng hết sức tiện nghi. ‘Bách’ dùng để chỉ số nhiều, đếm không hết, chứ không phải 100. Bởi vào thời Xuân Thu, ở phía Bắc sông Dương Tử có đến trên dưới 1000 nước [12]. Khối Yueh ở phía Nam chắc cũng tương tự, vượt trên 100 rất xa. Do đó nếu ‘Bách’ (100) là một con số bất chợt, thì ‘thập bát’ (18) cũng chỉ như vậy mà thôi.

Nhìn lại công trình của Ngô Sĩ Liên dười góc độ của thế kỷ 21 hiện nay, bắt buộc ta phải có một cái nhìn khác. Trong góc nhìn đó, chúng ta phải nhớ, Ngô Sĩ Liên và cộng sự đã có tư duy rất khó vượt khỏi lối suy nghĩ, lối viết lách của những sư phụ ở Bắc phương. Họ phải theo một khuôn khổ định trước để chứng tỏ tri thức đã đạt tới mức chuẩn của giới khoa bảng ở phương Bắc. Từ đó ta có thể thấy:
(i) Truyền thuyết viết ra sao, họ chép y lại như vậy. Chỉ được phép than thở hoài nghi trong phần luận bàn mà thôi. Đặc biệt nhất, Ngô Sĩ Liên đã căn dặn hậu bối: ‘Hoàn toàn tin vào sách chẳng bằng không có sách’.
(ii) Lối viết sử kiểu Tàu ra sao, họ sẽ theo y như vậy. Tàu không biết nhiều về nhà Hạ, nên phải gom góp các chuyện cổ tích, các truyền thuyết, rồi đưa vào con số 18 rất phổ thông, để gói ghém một trang sử cổ cho được đẹp mắt. Không có cách gì khác, phía bên An-nam cũng làm theo y như vậy. Họ làm việc qua nhiều tác phẩm và nhiều năm tháng, để rồi sau cùng, Ngô Sĩ Liên và các cộng sự thu thập tất cả, đặc biệt 18 đời vua Hồng Bàng, rồi đưa vào bộ Sử Ký có tầm vóc đầu tiên của nước Nam.
(iii) Đặc biệt 18 đời vua Hồng Bàng Việt Nam, rập y khuôn 18 đời vua nhà Hạ, triều đại hồng bàng ở bên Tàu. Để ý rất nhiều bài viết trong vài thập kỷ qua ưa liệt kê danh sách các đời vua Hùng. Khổ nỗi tất cả đều viết tên hiệu bằng…chữ Hán ròng. Thí dụ, Hùng Huệ Vương, Hùng Tấn Vương, v.v. Y như là cái nước của mấy ông vua Hùng giống như mấy cái nước chư hầu ở đời nhà Châu phía bắc sông Dương Tử, thời Xuân Thu Chiến quốc. Và những vua Hùng này có lẽ nói với thần dân của các ông bằng tiếng Tàu, trước khi người Tàu đến nước đó cả ngàn năm.
(iv) Truyền thuyết dựng nước đó, ở mặt cội nguồn, cũng không quên lôi thêm một trong những biểu tượng xã hội nguyên thủy của Tàu là ‘vua’ Thần Nông. Theo thiển ý, Thần Nông chỉ là một biểu tượng, chỉ một xã hội đã tiến lên ngành canh nông để kiếm ăn, sinh sống. Nó cũng giống như thời bây giờ, người ta dùng ‘Thế Kỷ 18’ để chỉ thời đại con người đạt đến cách mạng công nghệ. Hoặc, trong một tương lai nào đó, có thể người ta dùng ‘thời đại Bill Gates’ để chỉ thời đại điện toán, và internet. Chứ không phải Bill Gates là ông tổng thống toàn cầu ở vào thế kỷ 21, đối với hậu thế  4 ngàn năm sau, có thể đoán nhầm, v.v...

(v) Con số 18, thường dùng trong văn hoá Trung quốc để chỉ một chuỗi trình nào đó theo với chiều thời gian, mà chi tiết thường không biết rõ. Như một tập hợp, như một liên tục nay đã khép kín. Bản chất chi tiết của từng phần tử trong tập hợp hay liên tục đó vẫn là ẩn số cho đến ngày nay. Tháng 3, 2005 N.N.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... em-ve-lien-tuc-340/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 01:51 PM
VŨ KHÍ CỦA CHA ÔNG TA: THUYỀN CHIẾN


Tới thời nhà Lý, quân thủy vẫn được coi là đội quân nòng cốt. Biểu hiện rõ rệt của thiên hướng phát triển quân thuỷ trong thời Lý còn ở chỗ nhà Lý rất chú trọng việc đóng thuyền.

Chính những chiếc thuyền chiến cùng đội quân thủy tinh nhuệ đã giúp nhà Lý trong những cuộc hành quân đánh Chiêm, phá Ung, Khâm, Liêm (năm 1075) và chống Tống (năm 1077).

Chiến thuyền nhà Lý

Theo sử liệu, loại thuyền chiến phổ biến nhất thời đó là Mông đồng. Đây là loại thuyền có khả năng tải trọng và hành trình rất tốt. Những cuộc hành quân đánh Chiêm Thành, vượt biển đánh Khâm, Liêm.... đã chứng tỏ điều đó.

Thuyền chiến còn có khả năng chở voi vượt biển làm quà trong những lễ nghi ngoại giao hoặc tăng sức đánh bộ trong những trận tập kích vượt biển.



Tranh tái hiện chiến thắng Bạch Đằng chống quân Nguyên Mông năm 1288.


Năm 1155 - 1156, nhà Lý cử sứ giả mang 5 con voi, theo đương biển vào cảng Khâm Châu làm quà cho vua Tống. Trong trận tập kích vào cảng Khâm năm 1075, từ Vĩnh An (khu vực Trà Cổ hỉện nay ) thuyền chiến của quân Lý đã đảm bảo chuyển hàng vạn quân bí mật vượt biển, tập kích rất bất ngờ vào cảng, khiến cho quan quân Tống chưa kịp đề phòng đã bị quân ta bắt sống gần như toàn bộ.

Đáng lưu ý, quân Lý có thể đã vượt biển trong đêm,qua một đoạn đương hàng trăm cây số trong mùa gió ngược. Lúc này vào khoảng cuối năm, theo thống kê của các nhà khí tượng học, thì vào tháng 12, khi cuộc tập kích đó diễn ra (29/12/1075), các đợt gió mùa đông bắc tập trung dày nhất.

Vượt qua những trở ngại về thời tiết, những đòi hỏi rất khắt khe về thời gian để tạo yếu tố bất ngờ, quân Lý đã thắng lợi giòn giã ở cảng Khâm. Thành công ấy có được là nhờ khả năng phục vụ chiến dịch rất cao của đội chiến thuyền.

Theo nhà sử học Nguyễn Lương Bích, năm 1228, khi nhà Trần thay nhà Lý, một tướng thuỷ cấp cao trong triều đình cũ của nhà Lý là Lý Long Tường đã dùng thuyền chiến đem gia đình và quân bản bộ vượt biển lên phía bắc.

Cuộc hành trình đã kết thúc tại một bến cảng thuộc một vùng đất thời đó còn vô cùng xa xăm với đất nước ta, đó là bờ biển Triều Tiên.

Thuyền hai lòng

Có hai loại thuyền đặc chủng được sử sách nhắc đến là thuyền lầu (lâu thuyền) và thuyền hai lòng (lưỡng phúc thuyền)

Trong Việt Sử lược đã nhắc đến hiện tượng này vào năm 1106: “Tháng 11, vua sắp có việc lôi thôi với nhà Tống, sai đóng thuyền Vĩnh Long hai đáy và đóng chiến hạm”.

Còn sách Toàn thư, nhắc đến một hiện tượng khác vào năm 1124: “Tháng giêng nhuận, đóng thuyền Tường Quan, kiểu hai lòng” nguyên văn là Lưỡng phúc thuyền, tức thuyền hai bụng, cũng có thể hiểu tương tự như hai đáy. Cho tới nay, cấu tạo loại thuyền này như thế nào vẫn chưa được giải mã.

Trong Võ bị chế thắng chi có nói đến loại thuyền Mẫu tử mà có lẽ Binh thư yếu lược vào thời Nguyễn đã chép lại. đây là loại thuyền chuyên dùng để đánh hoả công, gồm một khung thuyền giả to (thuyền mẹ) bọc ngoài, ở phía trước một chiếc thuyền thật nhỏ hơn (thuyền con).

Trên khung thuyền to, người ta chất củi lửa và thuốc cháy, mũi thuyền có những đinh nhọn. Khi đánh địch, người ngồi núp trong thuyền nhỏ chèo thật nhanh, lao thật mạnh vào thuyền đối phương, khiến cho những đinh sắt nhọn ở mũi khung thuyền giả cắm vào mạn thuyền đối phương.

Sau đó người ta đốt chất cháy trên thuyền giả đó rồi rút thuyền con khỏi khung thuyền to chạy về. Thuyền giả cháy sẽ đốt luôn thuyền đối phương.

Một loại thuyền khác vào thời nhà Hồ, cũng có thể hiểu là thuyền hai lòng hay hai đáy, đó là thuyền đinh sắt có hiệu là Trung tàu tải lương.

Theo mô tả, nếu thuyền bình thường có một đáy, thì thuyền loại này làm thêm một “đáy” nữa, tức một tầng sàn ở trên, chia bụng thuyền làm hai phần: phần dưới để lính chèo thuyền, phần trên giấu lính chiến đấu. Loại thuyền này khá lớn, phải hai người đẩy một mái chéo*.

Việt Nam là một trong những nước có thuyền lầu sớm trong quân thuỷ, đó là những thuyền lầu đơn giản khắc trên trống đồng Đông Sơn kèm theo hình ảnh người lính luôn sẵn sàng chiến đấu với cung nỏ trên tay.

Tới thế kỷ 19, theo ý nghĩa hình khắc trên chín đỉnh linh thiêng của triều Nguyễn, thì thuyền lầu được chọn như một loại thuyền chiến tiêu biểu cho quân thủy.
(Bài có dùng tư liệu sưu tầm và nghiên cứu của TS Nguyễn Văn Việt)

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... a-thuyen-chien-337/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 01:55 PM
Nhà Nguyễn - lịch sử thăng trầm của một dòng họ

- Kỳ 1: Hùng cứ một phương


Họ Nguyễn Phúc đi vào lịch sử VN cách nay tròn 450 năm với sự kiện Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa (1558). Nhưng câu chuyện lại bắt đầu từ hơn 30 năm trước đó, khi Mạc Đăng Dung chấm dứt nhà Hậu Lê, lập ra nhà Mạc (1527).

Hữu vệ điện tiền tướng quân Nguyễn Kim (cha của Nguyễn Hoàng) trung thành với triều đại cũ, bỏ sang Lào, tôn con của Lê Chiêu Tông lên làm vua, tức Trang Tông (1533). Chẳng bao lâu, đất nước Đại Việt bị chia làm đôi: nhà Mạc (sử gọi là Bắc triều) chỉ còn làm chủ phần đất nay là Bắc bộ; nhà Lê trung hưng (tức Nam triều) quản lý lãnh thổ từ Thanh Hóa trở vào Bình Định ngày nay.

Vào vùng đất mới

Công cuộc trung hưng đang dở dang thì Nguyễn Kim chết (1545). Mọi binh quyền rơi vào tay con rể là hữu tướng Trịnh Kiểm. Kiểm sợ tả tướng Nguyễn Uông (anh của Nguyễn Hoàng) chia quyền nên cho người hãm hại em vợ. Nguyễn Hoàng lo lắng, nhờ chị là Ngọc Bảo (vợ của Kiểm) xin chồng cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Kiểm đang muốn đẩy Nguyễn Hoàng đi xa cho khuất mắt nên đồng ý (1558).

Năm 1570, trấn thủ Quảng Nam Nguyễn Bá Quýnh được gọi ra giữ đất Nghệ An, Nguyễn Hoàng được giao thêm xứ Quảng Nam. Từ đó, lãnh thổ dưới quyền tổng trấn Thuận - Quảng trải dài từ bờ nam sông Gianh đến đèo Cù Mông (tương ứng với các tỉnh, TP Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngày nay). Đây là vùng đất mới, dân cư thưa thớt, tài nguyên chưa khai thác nên trong buổi đầu Nguyễn Hoàng gặp biết bao khó khăn, thiếu thốn.
Ban đầu Nguyễn Hoàng vào Nam chỉ với ý định bảo toàn mạng sống. Nhưng khi thấy Trịnh Kiểm ngày càng lấn át quyền vua khiến vua Lê chỉ còn là hư vị, Nguyễn Hoàng quyết chí tách khỏi Đàng Ngoài, hùng cứ một phương. Trước mắt, Đàng Trong còn yếu, còn nghèo nên bề ngoài Nguyễn Hoàng phải giả vờ thần phục họ Trịnh. Hằng năm, ông phải nộp đủ các loại thuế (từ năm 1573, thuế thân được quy thành 400 cân bạc và 500 tấm lụa).

Việc đầu tiên của Nguyễn Hoàng là củng cố phòng thủ. Ông cho xây các đồn ở cửa biển để bảo vệ miền duyên hải. Năm 1571, quân Mạc theo đường biển đánh vào Thuận Hóa nhưng bị đẩy lui. Từ đó Mạc không dám tấn công Đàng Trong nữa. Nguyễn Hoàng rất quan tâm đến sản xuất nông nghiệp. Đại Nam thực lục tiền biên chép: “Mấy năm được mùa luôn, trăm họ giàu thịnh”. Giá gạo ở Đàng Trong năm 1608 chỉ 3 đồng tiền một đấu, rất rẻ so với giá gạo ở Đàng Ngoài”.

Nhưng nông nghiệp chỉ đảm bảo an ninh lương thực cho dân chúng, chính thương nghiệp mới làm đất nước giàu lên một cách nhanh chóng. Trong lúc triều đình nhiều quốc gia châu Á theo đuổi chính sách ức thương (kìm hãm thương nghiệp) thì Nguyễn Hoàng lại khuyến khích việc mua bán, nhất là mua bán với nước ngoài.

           
  

         Chùa Thiên Mụ được chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng năm 1601, khi vào làm trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam


“Dân nhờ được yên, công ấy rất lớn”

Tương truyền Nguyễn Hoàng cho sứ giả đến hỏi ý kiến của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhà lý học không trả lời thẳng, nhìn đàn kiến trên hòn non bộ, nói bâng quơ: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (một dãy núi ngang trên hòn non bộ có thể làm nơi dung thân muôn đời cho đàn kiến). Nghe sứ giả thuật lại, Nguyễn Hoàng hiểu là Trạng Trình khuyên ông nên đi vào vùng đất bên kia đèo Ngang (Hoành Sơn).

Mặc dù chuyện trên có chép trong Đại Nam thực lục tiền biên, nhiều nhà nghiên cứu không tin là có thật mà do người đời sau bịa đặt, mượn “lời sấm” của Trạng Trình để khẳng định cơ đồ dòng họ Nguyễn sẽ tồn tại dài lâu.

Năm 1592, quân Lê - Trịnh chiếm lại Thăng Long. Vua Lê rời Thanh Hóa (Tây Đô) ra Thăng Long (Đông Đô). Nguyễn Hoàng ra chúc mừng vua. Trịnh Tùng (con của Trịnh Kiểm, lúc này đã chết) muốn “điệu hổ ly sơn”, tâu với vua Lê phong Nguyễn Hoàng làm thái úy hữu tướng, trên danh nghĩa vẫn giữ chức tổng trấn Thuận - Quảng, nhưng phải lưu lại kinh đô vô thời hạn để giúp triều đình đánh dẹp dư đảng nhà Mạc.

Nguyễn Hoàng phải ẩn nhẫn sống cảnh cá chậu chim lồng trong tám năm trời. Năm 1600, nhân có vụ khởi binh chống Trịnh Tùng nổ ra ở Nam Định, Nguyễn Hoàng xin đem quân bản bộ theo đường biển đi đánh, giả vờ thua rồi về thẳng Thuận Hóa. Từ đó, Nguyễn Hoàng không đặt chân lên Thăng Long nữa.

Sau hơn nửa thế kỷ vào Nam, Nguyễn Hoàng đã biến Thuận - Quảng thành một vùng đất phồn thịnh. Chính vua Lê Thế Tông cũng phải khen Nguyễn Hoàng “trấn thủ hai xứ, dân nhờ được yên, công ấy rất lớn”, phong cho ông làm thái úy, tước Đoan quận công.

Lê Quý Đôn làm bồi tụng (chỉ sau tể tướng một bậc) trong phủ chúa Trịnh, đương nhiên không có cảm tình với Đàng Trong, nhưng đã viết về Nguyễn Hoàng trong Phủ biên tạp lục với lời lẽ ca ngợi: “Đoan quận công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối... Chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yên tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp”.

Năm 1613 Nguyễn Hoàng 88 tuổi, dặn dò con là Nguyễn Phúc Nguyên trước khi mất: “Đất Thuận - Quảng phía bắc có Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng, sắt; biển có cá, muối. Thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ dựng xây cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta”.

Vâng lời di huấn của cha, Nguyễn Phúc Nguyên “sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài đâu cũng vui phục” (Đại Nam thực lục tiền biên). Khi thấy đủ mạnh, Nguyễn Phúc Nguyên công khai không thần phục họ Trịnh nữa: không nộp thuế, không nhận sắc, không ra Thăng Long mà cũng không gửi con thay mình ra Thăng Long như họ Trịnh đòi. Trịnh đem quân vào đánh nhưng cả sáu lần đều không thành công nên phải rút về, chấp nhận sông Gianh là ranh giới của hai miền. Đến đây, giấc mộng xây dựng “cơ nghiệp muôn đời” của Nguyễn Hoàng được thực hiện.
------------------------------------------
Cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân và quốc vương Chiêm Thành đã đưa hai châu Ô và Rí vào bản đồ Đại Việt. Hơn ba thế kỷ sau, một công nữ họ Nguyễn cũng chấp nhận “nước non ngàn dặm ra đi” làm dâu xứ người.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... -cu-mot-phuong-326/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 02:05 PM
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

- KỲ 2: CHUYỆN VỀ MỘT CÔNG NỮ HỌ NGUYỄN


Hơn ba thế kỷ sau, một công nữ họ Nguyễn cũng chấp nhận “nước non ngàn dặm ra đi” làm dâu xứ người, tạo điều kiện cho người Việt vào sinh sống trên lưu vực sông Đồng Nai, dẫn đến sự thành lập phủ Gia Định năm 1698 - cách nay tròn 310 năm. Bất công thay tên của bà không được biết đến, nói chi việc xây dựng một tượng đài để ghi công.



Các đại biểu dự hội thảo “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử VN”  (tổ chức tại  Thanh Hóa tháng 10-2008) và đông đảo bà con xã Hà Long, huyện Hà Trung, Thanh Hóa thắp hương tại lăng Trường Nguyên, tương truyền là nơi an táng Nguyễn Kim, thân phụ chúa Nguyễn Hoàng - Ảnh: Việt Dũng


Cuộc hôn nhân của công nữ

Năm 1619, chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả một con gái của mình cho Araki Sutaru - một thương nhân Nhật Bản. Năm sau, ông lại gả con gái khác cho quốc vương Chân Lạp Chey Chêtthâ II. Lúc đó, Chân Lạp đang là nạn nhân của nước láng giềng phía tây. Cứ vài chục năm một lần, quân Xiêm lại tràn sang đánh chiếm Chân Lạp, đốt phá, bắt người, cướp của. Vì vậy, năm 1620 vua Chey Chêtthâ II quyết định cầu hôn con gái vị chúa Đàng Trong, với ý định tìm một chỗ dựa về chính trị và quân sự nhằm đối phó với các cuộc xâm lược của quân Xiêm.

Theo Biên niên sử hoàng gia Chân Lạp, cô công nữ Đàng Trong có sắc đẹp tuyệt trần. Mặt khác, nhờ được giáo dục từ nhỏ theo truyền thống đạo đức Phật giáo (Nguyễn Hoàng và Nguyễn Phúc Nguyên đều sùng mộ đạo Phật) nên cô hội nhập nhanh chóng vào môi trường văn hóa xứ chùa tháp, nơi tuyệt đại đa số dân chúng là phật tử. Do đó, tuy Chey Chêtthâ II có nhiều vợ, cô gái Thuận Hóa thùy mị nết na vẫn được vua yêu quý nhất và được phong làm đệ nhất hoàng hậu.

Để đỡ nhớ quê hương, cô xin vua cho phép người Việt được tự do đến sinh sống trên lãnh thổ Chân Lạp. Họ buôn bán hay làm thợ thủ công ở vùng kinh đô, đông đảo hơn là những người đến khai phá vùng đông nam Chân Lạp.

Lãnh thổ Chân Lạp tương đối rộng nhưng dân số ít, nên người nước này sống tập trung ở vùng đất màu mỡ xung quanh biển Hồ và dọc theo sông Mekong. Theo nhà sử học Pháp Philippe Devillers, cho đến lúc đó “đồng bằng sông Cửu Long chỉ là đầm lầy hôi thối, những bãi bùn rộng mênh mông với những cây đước”. Từ cuối thế kỷ 16, một số người Việt rời quê hương đến đây làm ruộng, đánh cá...

Cuối năm 1621, đầu 1622, vua Xiêm xua quân sang đánh Chân Lạp. Nhờ thuyền chiến, vũ khí và nhất là nhờ quân tình nguyện do Đàng Trong viện trợ, Chey Chêtthâ II đã đẩy lui hai đạo quân Xiêm. Năm sau, vua Xiêm cho quân tấn công Chân Lạp một lần nữa nhưng lại bị tổn thất nặng nề, phải rút về nước. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gửi sang kinh đô Udong một sứ bộ mang theo nhiều tặng phẩm để chúc mừng chiến thắng của Chân Lạp, đồng thời đảm bảo với Chey Chêtthâ II về sự ủng hộ và giúp đỡ của Đàng Trong cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước chùa tháp.

Sứ thần Đàng Trong cũng chuyển cho quốc vương Chân Lạp một quốc thư ngỏ ý muốn mượn Kas Krobei (Sài Gòn) và Prei Nokor (Chợ Lớn) để lập hai trạm thuế thương chính trong năm năm. Chey Chêtthâ II hỏi ý kiến các quan đại thần. Tất cả đều đồng ý. Nhà sử học người Pháp Henri Russier cho biết bà hoàng hậu Đàng Trong đã năn nỉ chồng chấp thuận đề nghị của cha mình.

Hướng về đất phương Nam

Năm 1624, bà sinh hạ công chúa Ang Na Ksatri. Công chúa rất được vua yêu quý. Nhưng khi hạnh phúc đang tràn trề thì tiếc thay Chey Chêtthâ II băng hà. Cái chết của nhà vua đẩy Chân Lạp vào một giai đoạn mất ổn định chính trị nội bộ. Tuy nhiên, với đức độ và trí thông minh, bà thái hậu Đàng Trong đã vượt lên mọi tranh chấp phe phái, được các ông hoàng trẻ Chân Lạp kính trọng và nghe theo.

Bà giữ một vai trò quan trọng trong sinh hoạt chính trị của vương quốc. Hoàng tử Cau Bana Cand (sử Việt gọi là Nặc Ông Chân) - một người con của Chey Chêtthâ II với bà vợ người Lào - cưới vợ người Mã Lai theo đạo Hồi nên bỏ đạo Phật để theo đạo của vợ. Năm 1642, Cand dựa vào một nhóm người Mã Lai và Chiêm Thành theo đạo Hồi nổi loạn, giết vua Ang Nan (rể của bà thái hậu Đàng Trong) để cướp ngôi. Cand còn giết nhiều người khác (trong đó có chú ruột là nhiếp chính vương Utey) một cách dã man.

Hai người con của Utey là Ang Sur và Ang Tan (sử Việt gọi là Nặc Ông Xô và Nặc Ông Tân) cầm đầu một cuộc nổi dậy để lật đổ Cand và báo thù cho cha. Cuộc nổi dậy không thành công, Sur và Tan bí mật đến gặp bà thái hậu Đàng Trong, nhờ bà xin chúa Nguyễn giúp đỡ. Bà đồng ý, viết thư cho chúa Nguyễn Phúc Tần (cháu gọi bà bằng cô).

Đáp ứng yêu cầu của hai hoàng thân Chân Lạp, chúa Nguyễn gửi 3.000 quân sang bắt Cand đưa về Quảng Bình. Cand xin thần phục chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn trả tự do cho Cand. Trên đường về Udong, Cand nhuốm bệnh và qua đời ở Bat Anhchien ven sông Vàm Cỏ Tây. Ang Sur và Ang Tan trở thành chính vương và phó vương của Chân Lạp. Nhớ ơn bà thái hậu và chúa Nguyễn, hai ông luôn tạo điều kiện thuận lợi để di dân người Việt làm ăn trên đất nước mình, số lượng người Việt vào đây mới bắt đầu tăng lên đáng kể.

Theo GS Nguyễn Đình Đầu trong Địa chí văn hóa TP.HCM (do GS Trần Văn Giàu chủ biên), cho đến cuối thế kỷ 17, đã có hơn 4 vạn hộ dân Việt sống trên một địa bàn rộng nghìn dặm ở lưu vực sông Đồng Nai. Người Việt trở thành thành phần dân cư đa số tại đó.

Tên người chưa được sử ghi

Tất cả những gì chúng ta biết được về bà - mà người Chân Lạp gọi là Ang Cuv - là nhờ Biên niên sử hoàng gia Chân Lạp và các công trình nghiên cứu của các nhà sử học nước ngoài. Vì một lý do nào đó, các sử gia triều Nguyễn hoàn toàn không nhắc đến cuộc hôn nhân Việt - Chân Lạp này (cũng như các cuộc hôn nhân Việt - Nhật Bản và Việt - Chiêm Thành diễn ra trong thời kỳ đó). Vì lẽ đó cho đến nay chúng ta không biết bà tên gì.

Trước đây, có người cho rằng tên bà là Ngọc Vạn. Nhiều người cũng đã chấp nhận như vậy. Thật ra cái tên đó chẳng qua là do phỏng đoán, chứ không căn cứ vào một tài liệu gốc nào.

Theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, chúa Sãi có bốn con gái. Hai công nữ thứ nhất và thứ tư là Ngọc Liên (vợ của phó tướng Nguyễn Phúc Vĩnh, tức Nguyễn Hữu Vĩnh, trấn thủ dinh Trấn Biên) và Ngọc Đĩnh (vợ của phó tướng Nguyễn Phúc Kiều, tức Nguyễn Cửu Kiều, trấn thủ dinh Quảng Bình). Đối với hai công nữ thứ hai và thứ ba là Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, Đại Nam liệt truyện tiền biên ghi “khuyết truyện” (không có tiểu sử). Như vậy, trong hai công nữ Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, ai là hoàng hậu xứ chùa tháp, ai là phu nhân của thương gia Nhật Bản?
Tên bà vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời đáp.
__________________
Người ta gọi chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa mở cõi. Ông cho mở rộng thương cảng Hội An trở thành thương cảng chính trên toàn khu vực tương đương Việt Nam và Đông Nam Á hiện nay.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... g-nu-ho-nguyen-327/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 02:14 PM
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

- KỲ 3: TRUNG TÂM GIAO THƯƠNG


Chỉ hơn 10 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Hoàng sau đó, vùng đất Thuận Hóa đã thay da đổi thịt. Bảng nhãn Lê Quý Đôn ghi nhận trong Phủ biên tạp lục (bản dịch của Viện Sử học): “Chợ không bán hai giá, người không ai trộm cắp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến buôn bán, đổi chác phải giá (…), trong cõi đều an cư lạc nghiệp”.
“Ngọn đũa thần” nào đã mang lại sự đổi thay đó?

Kiếm được rất nhiều mối lợi

So với Đàng Ngoài, Đàng Trong là vùng đất mới, tiềm năng thiên nhiên chưa được khai thác, nhân lực tại chỗ vô cùng thiếu thốn. Để đối phó với họ Trịnh ở phía Bắc, Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đời sau phải tìm phương cách làm cho Đàng Trong nhanh chóng giàu mạnh, đó là phát triển thương mại, mở rộng ngoại thương.



Chiếc cầu này được các thương nhân người Nhật Bản xây dựng vào khoảng thế kỷ 17, nên người ta còn gọi là cầu Nhật Bản. Năm 1653, người ta dựng thêm phần chùa, từ đó người địa phương gọi là Chùa Cầu. Năm 1719, chúa Nguyễn Phúc Chu thăm Hội An, đặt tên cho chiếc cầu là Lai Viễn với ý nghĩa là “bạn phương xa đến”. Trong ảnh: Chùa Cầu lung linh trong đêm hội Phố Hoài - Ảnh: Hoàng Duy


Xác lập và bảo vệ chủ quyền trên biển

Các chúa Nguyễn đã lập hải đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải để khai thác quần đảo Hoàng Sa (còn gọi là quần đảo Vạn Lý Trường Sa vì lúc đó hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn được xem là một dãy đảo dài vạn dặm), cù lao Côn Lôn và các đảo phía Hà Tiên. Việc làm này đã xác lập chủ quyền của nước ta đối với các hải đảo nói trên.

Năm 1702, quân Anh chiếm quần đảo Côn Lôn. Năm sau, trấn thủ Trương Phúc Phan nửa đêm đưa lính đánh đuổi quân chiếm đóng ra khỏi quần đảo

Trong luận án tiến sĩ “Xứ Đàng Trong - lịch sử xã hội và kinh tế Việt Nam thời Nguyễn ở các thế kỷ 17-18”, Li Tana nhận định (bản dịch của Nguyễn Nghị): “Đối với các nước khác ở Đông Nam châu Á, vấn đề ngoại thương có thể chỉ là vấn đề làm giàu, nhưng đối với Đàng Trong vào buổi đầu, đây là vấn đề sống còn”.

Đây là một chính sách mới so với các triều đại trước và kể cả với vương triều Nguyễn sau này, vì bao triều đại trước vẫn chủ trương “lấy nông nghiệp làm gốc” (dĩ nông vi bản), không mặn mà lắm với việc buôn bán với nước ngoài, chỉ cho phép thuyền buôn ngoại quốc cập bến tại một số cảng chứ không cho vào sâu trong nội địa.

Cristophoro Borri, một nhà truyền giáo người Ý sống ở Đàng Trong từ 1618-1622, nhận xét (bản dịch của Hồng Nhuệ và Nguyễn Nghị): “Chúa Đàng Trong không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc (…) cùng với tàu chở rất nhiều hàng hóa của họ”. Các chúa Nguyễn chủ động mời gọi các nước đến mua bán với Đàng Trong.

Ngày nay chúng ta có thể tìm thấy trong sách Ngoại phiên thông thư của Kôndôh Juuzôu nhiều công hàm của các chúa Nguyễn gửi cho chính quyền Nhật Bản từ năm 1601-1694. Công hàm đầu tiên là của chúa Nguyễn Hoàng gửi tướng quân Tokugawa Ieyasu bày tỏ lòng mong muốn thông thương Đàng Trong - Nhật Bản.

Năm 1617-1618, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng gửi thư mời Công ty Đông Ấn của Hà Lan sang buôn bán… Borri viết: “Chúa Nguyễn thu được lợi nhuận lớn trong việc buôn bán (với nước ngoài) này bằng thuế hàng hóa và thuế hải khẩu đặt ra và cả nước đều kiếm được rất nhiều mối lợi không thể tả hết”.

Đàng Trong đã sớm trở thành một trung tâm giao thương quốc tế. Ngoài những khách hàng quen thuộc đến từ Trung Hoa, Chân Lạp, Xiêm, Batavia (Indonesia), Đàng Trong còn đón nhận thương nhân các nước Nhật Bản, Bồ Đào Nha (từ thuộc địa Macao), Tây Ban Nha (từ thuộc địa Philippines), Hà Lan, Anh, Pháp…

Ngoại thương kích thích sự phát triển sản xuất của nhiều địa phương. Các làng nghề xuất hiện ngày càng nhiều để cung ứng cho hàng xuất khẩu. Tính chất của nền kinh tế từ đó thay đổi: từ sản xuất tự cấp tự túc chuyển sang sản xuất hàng hóa. Một số đô thị ra đời: Đà Nẵng, Tam Kỳ (Quảng Nam), Thanh Hà (Thừa Thiên - Huế), Nước Mặn (Bình Định)…, nhưng thịnh vượng nhất là Hội An.



Phần mộ ông bà Araki Sutaru ở Nagasaki - Ảnh: Ma Cẩm Long Hà


Hải cảng đẹp nhất Đàng Trong

Borri mô tả Hội An là “hải cảng đẹp nhất Đàng Trong, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới”, là “một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một của người Tàu, một của người Nhật”. Một thương nhân Quảng Đông nói với Lê Quý Đôn: “Thương nhân Trung Hoa từ Quảng Nam về thì các hàng hóa không món gì không có. Hàng hóa sản xuất ở các phủ Thăng Hoa, Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Bình Khang và dinh Nha Trang, đường thủy đường bộ, đi thuyền đi ngựa, đều hội tập ở phố Hội An, vì thế khách phương Bắc (tức Trung Hoa) đều đến tụ tập ở đây để mua về nước... Hàng hóa nhiều lắm, dù trăm chiếc tàu to chở cùng một lúc cũng không hết được”.

Các chúa Nguyễn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương nhân nước ngoài, nhất là thương nhân Nhật Bản. Đàng Trong trở thành bạn hàng số một của xứ Phù Tang. Năm 1619, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã gả con gái cho thương nhân Nhật Bản Araki Sutaru, ban cho Araki tên Hiển Hùng và cho mang họ chúa (Nguyễn Phúc). Sau đó, Araki đưa vợ về thăm quê ở Nagasaki. Tại đây, bà có tên Oukakutome (Vương Gia Cửu Hộ Mại) và còn được gọi một cách thân mật là Anio. Không may, từ năm 1636, vì nhiều lý do, nhà cầm quyền Nhật ra lệnh tỏa quốc cấm thương nhân Nhật ra nước ngoài buôn bán. Vì vậy, hai vợ chồng Nhật - Việt không còn dịp trở lại Đàng Trong nữa.

Bà Anio qua đời ngày 7-11-1645, còn ông mất trước đó chín năm. Mộ hai ông bà Araki Sutaru hiện vẫn còn ở Nagasaki. Hiện nay Bảo tàng nghệ thuật Nagasaki vẫn còn lưu giữ một gương soi của bà Anio mang từ Đàng Trong qua. Vì Quốc sử quán của nhà Nguyễn hoàn toàn không nói tới cuộc hôn nhân Đàng Trong - Nhật này nên đến nay chúng ta vẫn chưa tìm ra tên chính xác của bà.

Công cuộc mở cửa của các chúa Nguyễn không chỉ mang lại lợi ích kinh tế mà còn làm phong phú đời sống văn hóa ở Đàng Trong. Hội An với những di tích văn hóa nổi bật tồn tại qua năm tháng đã được Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1999.
----------------------------------------
Cho đến hôm nay, trải qua bao thăng trầm lịch sử, trên miền đất Nguyễn Hoàng chọn làm “kinh đô” khởi nghiệp, 450 năm qua, còn lại gì lưu dấu tiền nhân?

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... am-giao-thuong-328/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 02:26 PM
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

- (KỲ 4): TRÊN MIỀN ĐẤT DỰNG NGHIỆP


Trên miền đất dựng nghiệp

Tháng 6-1904, linh mục Leopold M. Cadière về làm quản hạt Dinh Cát (xứ Quảng Trị). Những năm tháng ở đây ông đã nghiên cứu về các chúa Nguyễn trong buổi đầu và sau đó trên tập san của Trường Viễn Đông Bác Cổ (Bulletin de l’École Francaise d’Extrême Orient), trong bài “Le mur de Đồng Hới” in năm 1906, Cadière cho biết thời gian chúa Nguyễn Hoàng đến Ái Tử trong khoảng từ ngày 10-11 đến 10-12 (dương lịch) năm 1558. 450 năm đã qua, trải qua bao nhiêu dâu bể phân tranh, bao thăng trầm lịch sử, trên miền đất Nguyễn Hoàng chọn làm “kinh đô” khởi nghiệp ấy còn lại gì lưu dấu tiền nhân? Còn những gì tưởng niệm tiền nhân?

Buổi đầu đất lạ

Bây giờ khách ngược xuôi trên đường thiên lý Bắc - Nam, qua khỏi thị xã Đông Hà (nếu đi từ Bắc vào) hay vượt qua thành cổ Quảng Trị (đi từ Nam ra) sẽ gặp một thị trấn nhỏ nằm bên sông Thạch Hãn với tấm biển đề: “Thị trấn Ái Tử, huyện Triệu Phong”. Chúng tôi tìm về Ái Tử, dấu tích của chúa Nguyễn Hoàng không còn nhiều ở đây nhưng vẫn còn đó những thao thức về miền đất “dung thân” của chúa Nguyễn.

Cách Ái Tử khoảng 60km về phía nam theo quốc lộ 1A là kinh thành Huế lộng lẫy vàng son, lưu dấu vang bóng vương triều nhà Nguyễn. Kinh đô Huế với đền đài cung điện giờ đã là Di sản văn hóa thế giới, còn với sử sách, Ái Tử là kinh đô đầu tiên của cơ nghiệp nhà Nguyễn, là thủ phủ khai nguyên của xứ Đàng Trong. Thời gian gần 70 năm làm thủ phủ chưa phải là dài, nhưng ý nghĩa của miền đất này không đo đếm bằng thời gian mà chính là những gì nó đã mang lại cho nhà Nguyễn trong buổi “vạn sự khởi đầu nan”. Bởi vậy khi Huế được là “chính dinh”, các chúa Nguyễn vẫn không quên tôn phong cho đất Ái Tử này là “cựu dinh”.

Mang theo câu sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, Nguyễn Hoàng lên thuyền về phương Nam với nhiều tráng đinh, nghĩa dũng quê nhà huyện Tống Sơn (Thanh Hóa) cùng nhiều cư dân miền Thanh Nghệ. Câu sấm của Trạng Trình đã được sử sách nhắc đến nhiều. Nhưng sao ngày cất bước ra đi của 450 năm trước ấy, khi đã vượt qua “Hoành Sơn nhất đái”, Đoan quận công Nguyễn Hoàng đã không hạ trại ở phía nam đèo Ngang? Không dừng lại bên sông Gianh? Bên bờ Nhật Lệ? Hay xứ cửa Tùng phì nhiêu màu mỡ mà lại đi sâu vào miền Ái Tử bốn bề cát trắng chơ vơ?

Đại Việt sử ký toàn thư bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697) viết về cuộc ra đi này chỉ mấy dòng ngắn ngủi: “Mậu Ngọ - tháng mười, thái sư Trịnh Kiểm vào chầu dâng biểu tâu xin sai con thứ của Chiêu Huân tĩnh công (tức Nguyễn Kim) là Đoan quận công Nguyễn Hoàng đem quân vào trấn thủ xứ Thuận Hóa để phòng giặc phía đông”.

Học giả Phan Khoang trong Việt sử xứ Đàng Trong viết chi tiết hơn: “Đoan quận công và đoàn tùy tùng từ cửa Việt lên sông Quảng Trị, đóng dinh tại làng Ái Tử. Năm ấy ông 34 tuổi. Khi Đoan quận công mới đến Ái Tử, dân sở tại đem dâng bảy vò nước trong. Nguyễn Ư Dĩ (quan thái phó, cậu ruột của Nguyễn Hoàng) nói với Đoan quận công rằng: Ấy là điềm trời cho ông nước đó!”.



Miếu Trảo Trảo - Ảnh tư liệu từ B.A.V.H.


Tìm dấu miếu xưa

Dấu vết dinh xưa nay đã tuyệt mù tăm tích. Nhưng cạnh bờ sông, gần sân bay Ái Tử vẫn còn địa điểm một ngôi miếu thờ lưu dấu chiến công của Nguyễn Hoàng trong trận đánh tướng nhà Mạc là Lập Bạo vào năm 1572.

Huyền tích kể rằng Lập Bạo vốn là một tướng tài của nhà Mạc, giỏi về thủy chiến, đưa 60 binh thuyền từ Hải Dương vượt biển lên sông Ái Tử đánh cướp. Thế giặc mạnh, Nguyễn Hoàng đem quân ra bờ sông chống giữ, đêm ấy nằm mộng thấy một người đàn bà mặc áo xanh hiện ra bảo rằng muốn diệt tướng giặc hãy dùng mỹ kế. Vừa tỉnh giấc thấy một tì nữ là Ngô Thị nhan sắc xinh đẹp bước vào. Sực nhớ giấc mộng, Nguyễn Hoàng sai Ngô Thị mang lễ vật đến dâng cho Lập Bạo cầu hòa. Thấy Ngô Thị xinh đẹp, Lập Bạo mê thích nhưng giả bộ cả giận nói rằng: “Ngươi đến đây làm mồi nhử ta chăng?”. Ngô Thị uyển chuyển ứng đáp, rồi dụ Lập Bạo theo mình đi vào nơi quân của Nguyễn Hoàng mai phục. Lập Bạo biết bị lừa nên lao xuống sông.

Vốn là tướng giỏi bơi lặn khó bề bắt được, nhưng Lập Bạo lặn đến đâu thì trên mặt nước có con chim bay tới đó cất tiếng kêu “trảo trảo” như chỉ đường cho quân Nguyễn. Lập Bạo bị bắt, quân nhà Mạc tan tác. Nhớ ơn thần sông giúp rập, Nguyễn Hoàng cho lập đền thờ tại bờ sông Ái Tử, phong là “Trảo Trảo Linh Thu phổ trạch tướng hựu phu nhân”, dân trong vùng gọi là miếu Trảo Trảo. Dấu tích miếu này còn trong một tấm hình ở tạp chí B.A.V.H (Đô thành hiếu cổ).

Những huyền tích trong buổi đầu khởi nghiệp có thể là một cách để gầy dựng thêm lòng tin trong dân gian, giúp cho việc mưu cầu đại nghiệp. Còn vai trò của Nguyễn Hoàng với đất này sử sách còn chép rõ. Nhiều tư liệu lưu đến bây giờ cho thấy dưới thời Nguyễn Hoàng đóng thủ phủ ở miền Quảng Trị, cảng Cửa Việt đã từng sầm uất đô hội. Ngay từ thời đó đã thiết lập thư từ bang giao buôn bán với Nhật Bản. Vết tích trên bến dưới thuyền một thời vang bóng vẫn còn lưu dấu, những gạch đá xây thành vẫn im lặng nhắc nhở, cả pho tượng đồng nguyên vẹn chân dung Thái phó Nguyễn Ư Dĩ.

Hóa ra vẫn còn rất nhiều dấu vết của Nguyễn Hoàng nơi làng Trà Liên, xã Triệu Giang, huyện Triệu Phong - xưa kia đây chính là dinh trấn Trà Bát. Năm 1600 Nguyễn Hoàng đã dời thủ phủ từ Ái Tử về đây. Trà Bát là cái gạch nối giữa Nguyễn Hoàng (với 13 năm đóng đô ở đây đến lúc mất - năm 1613) và người con trai thứ sáu của ông - chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đóng đô thêm 13 năm nữa, trước khi dời thủ phủ vào Phước Yên (Quảng Điền) năm 1626.
__________________
Trước khi chúa Nguyễn mở mang giao thương với nước ngoài để có một cảng thị Hội An sầm uất thì ở xứ Trà Liên đã được sử sách nhắc đến như một thương cảng đô hội nhất Đàng Trong bấy giờ.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... at-dung-nghiep-329/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 11:20 PM
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

- KỲ 5: DINH XƯA, CẢNG CŨ BÂY GIỜ






Từ Ái Tử, nơi Nguyễn Hoàng dựng dinh trấn đầu tiên về Trà Liên chỉ cách chừng 3km về phía đông bắc. Trong những năm chiến tranh, người Mỹ xây dựng Ái Tử thành một căn cứ quân sự lớn nên vết tích dinh trấn đầu tiên của chúa Nguyễn hầu như bị cày xới để xây dựng đồn bót, kho đạn, sân bay… nay không còn lưu dấu gì. Riêng dinh Trà Bát có phần may mắn hơn.

“Bảo vật quốc gia”

Chúng tôi về gặp ông Bùi Thịnh, trưởng ban điều hành làng văn hóa Trà Liên, với hi vọng được ông dẫn lối đi tìm những dấu tích. Trước khi rẽ xe vào trụ sở Hợp tác xã Trà Liên, chúng tôi ngỡ ngàng khi thấy pho tượng đồng Nguyễn Ư Dĩ được thờ trong cái am nhỏ vừa đơn sơ vừa chắc chắn. Pho tượng đồng này có một số phận nổi chìm kỳ lạ và giờ đây được xem là “bảo vật quốc gia” tại Quảng Trị.



Tượng đồng Nguyễn Ư Dĩ đang lưu giữ tại làng Trà Liên -Ảnh: L.Đ.Dục



Thái phó Nguyễn Ư Dĩ - tước Uy Quốc công, là cậu ruột của Nguyễn Hoàng, người đã nuôi dạy Nguyễn Hoàng từ khi mới 2 tuổi lúc Nguyễn Kim (thân phụ Nguyễn Hoàng) lánh nạn sang Lào. Chăm lo cho người cháu, thấy Nguyễn Hoàng “tướng mạo khôi ngô, vai lân lưng hổ, mắt phượng trán rồng, thông minh tài trí, kẻ thức giả đều biết đấy là bậc phi thường” nên Nguyễn Ư Dĩ đã đem việc kiến công lập nghiệp khuyến khích cháu. Chính Nguyễn Ư Dĩ là người đã thay mặt Nguyễn Hoàng đi lĩnh ý Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, rồi sau đó theo phò tá Nguyễn Hoàng trong buổi đầu đến Ái Tử.

Ngôi chùa thờ Nguyễn Ư Dĩ có tên là Liễu Ba (hay còn gọi là Liễu Bông - Miếu Bông). Hiếm có một công thần nào lại được dân cúng giỗ quanh năm như thái phó Nguyễn Ư Dĩ. Ông Bùi Thịnh cho biết phong tục dân làng mỗi năm đều giỗ quan thái phó vào các ngày rằm tháng hai, tháng sáu, tháng tám và ngày tết. Pho tượng Nguyễn Ư Dĩ được đúc bằng đồng vào khoảng thế kỷ 17, được đặt tại chùa. Năm 1972 chiến tranh bom đạn ác liệt nhưng pho tượng vẫn nguyên vẹn. Ngày hòa bình trên nền chùa cũ, dân làng dựng lại một nếp chùa đơn sơ để đặt tượng thờ.



Vùng Trà Bát bây giờ thật quạnh hiu-Ảnh: L.Đ.Dục


Tuy nhiên năm 1989 kẻ gian đã đánh cắp pho tượng đồng quý giá này.

Theo lời một bô lão trong làng, khi pho tượng bị mất cả làng đã đổ ra tìm kiếm. Do tượng quá nặng, kẻ cắp đã mang pho tượng xuống vùi trên bãi cát ven sông Thạch Hãn gần làng. Khi cả làng dùng thuốn sắt đi dò dọc triền sông thì phát hiện tượng đang còn bị chôn vùi dưới cát. Dân đã không để tượng ở chùa Liễu Bông cũ mà mang về cạnh đình làng, rồi xây một cái am nhỏ nhưng kiên cố có bọc bêtông cốt thép để bảo vệ tượng.

Chúng tôi ra chùa Liễu Bông, ngôi chùa được dựng nên thờ phụng các công thần theo phò tá Nguyễn Hoàng buổi đầu dựng nghiệp đã mất dấu. Trên nền chùa xưa một dòng họ khác trong làng đã xây một khu lăng mộ nguy nga đồ sộ trên chính nền chùa cũ. Đau xót hơn khi chúng tôi tìm thấy quanh khu lăng mộ những phiến đá ôm lót chân cột chùa để nằm lăn lóc dãi dầu mưa nắng. Những phiến đá chứng nhân của hơn bốn thế kỷ còn bị đối xử như vậy, thảo nào bao nhiêu dấu tích buổi tiền nhân khởi nghiệp cũng dần biến mất.

Trà Bát chính là nơi Nguyễn Hoàng trút hơi thở cuối cùng vào năm 1613. Trước lúc lâm chung, cũng tại Trà Bát, ông đã triệu người con trai thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên đang làm trấn thủ Quảng Nam về cầm tay dặn dò: “Đất Thuận - Quảng phía bắc có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang (sông Gianh) hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân, núi Thạch Bi vững bền, núi sinh vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của kẻ anh hùng. Nếu biết dạy dân, luyện binh thì chống chỏi với họ Trịnh đủ xây dựng sự nghiệp muôn đời, nếu thế lực không địch được thì cố giữ đất đai để đợi thời cơ chứ đừng bỏ hỏng lời dạy của ta”. Vâng mệnh cha, từ dinh Trà Bát này Nguyễn Phúc Nguyên đã nối ngôi chúa chăm lo việc phòng thủ, sửa thành lũy, đặt quan ải, vỗ về quân dân, trong ngoài mến phục gọi ông là Chúa Sãi hay Sãi Vương.

Mãi đến năm 1626 Nguyễn Phúc Nguyên mới dời dinh trấn từ Trà Bát vào Phước Yên - Quảng Điền, nay thuộc Thừa Thiên - Huế.

Thương cảng một thời

Không xa nền cũ ngôi chùa Liễu Bông là khu vực được xem là các vòng thành của dinh Trà Bát xưa. Một gò đất cao ráo, còn vương lại những phiến đá sa thạch to rộng và vô số gạch vụn đỏ au lẫn trên nền đất cũ. Từ vị trí các vòng thành dấu tích của dinh Trà Bát, chỉ đi thêm một quãng không xa là ra đến Bến Gành. Sông Thạch Hãn chảy về quãng này chợt uốn một vòng cung rộng mênh mông. Anh Phan Văn Khuynh, trưởng ban văn hóa xã hội của xã Triệu Giang, đưa chúng tôi ra bờ sông.
Hơn bốn thế kỷ sông không biết có đổi dòng đổi bến, nhưng bên triền đất lở ven sông chúng tôi tận mắt chứng kiến rất nhiều mảnh chum gốm với họa tiết độc đáo lộ ra như chính đất đai đã gìn giữ trong lòng sâu của mình những phồn hoa đô hội một thời.

Trước khi chúa Nguyễn mở mang giao thương với nước ngoài để có một cảng Hội An sầm uất thì ở xứ Trà Liên này với quãng đường từ Cửa Việt lên đây chưa đầy chục cây số đã được sử sách nhắc đến như một thương cảng đô hội nhất Đàng Trong bấy giờ. Linh mục Nguyễn Văn Ngọc, trong bài nghiên cứu “Cửa Việt dưới thời Nguyễn Hoàng và Chúa Sãi (1558-1626)” đăng trên tạp chí Cửa Việt (bộ cũ) số xuân Tân Mùi 1991 (trang 100-104) đã công bố nhiều tư liệu về tầm vóc của vùng cảng Cửa Việt và dinh Trà Bát này.

Những tư liệu của linh mục Ngọc dựa trên những ghi chép của các nhà truyền giáo thế kỷ 16-17 và những nghiên cứu của L.M. Cadière sau này cho thấy các thương thuyền của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Áo Môn (tức Macau - bấy giờ bị Bồ Đào Nha xâm lược năm 1557 và sau này thành thuộc địa của người Bồ Đào Nha) đã đến đây chào quan tổng trấn (tức Nguyễn Hoàng, sau này là Nguyễn Phúc Nguyên). Chính sự sầm uất của cảng Cửa Việt đã khiến tàu nước ngoài vào cướp bóc cư dân ven biển vùng này và Nguyễn Phúc Nguyên đã vâng lệnh cha dẫn mười thuyền chiến đi đánh tan hai thuyền của tướng giặc là Hiển Quý vào năm 1585.

Bây giờ nhìn dòng sông Thạch Hãn cuồn cuộn nước xuôi về Cửa Việt đổ ra biển Đông, nhìn những dấu gạch gốm lẫn vào lòng đất đá bên bờ nước, rồi lăng mộ tư nhân dựng trên nền ngôi chùa xưa là Quốc miếu thờ những công thần, nhìn những dấu vết thành quách đang tan vào cát bụi, dẫu biết không có gì vĩnh cữu trước thời gian, dẫu biết 30 năm bom đạn chiến tranh muôn phần tàn phá nhưng vẫn không thể thầm trách hậu thế đã hững hờ.
_________________________
Hơn 300 năm sau, khi Ái Tử hay Trà Bát không còn là thủ phủ như buổi đầu khởi nghiệp, nhưng hậu thế của Nguyễn Hoàng - vua Hàm Nghi - đã về Quảng Trị xây dựng một kinh đô dự phòng để di đô khi Huế lâm nguy.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... ang-cu-bay-gio-330/

Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 11:30 PM
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

(KỲ 6): “KINH ĐÔ KHÁNG CHIẾN”




“Kinh đô kháng chiến”

Hơn 300 năm sau, khi Ái Tử hay Trà Bát không còn  là thủ phủ như buổi đầu khởi nghiệp, nhưng hậu duệ của Nguyễn Hoàng -  vua Hàm Nghi, một vị vua yêu nước của vương triều Nguyễn, đã về Quảng  Trị lập “kinh đô kháng chiến” chống Pháp. Đó chính là thành Tân Sở ở Cam  Lộ.



Dài theo đường thiên di của lịch sử, của dân tộc, nhiều chứng tích đã bị phôi pha, quên lãng rồi tan vào cát bụi. Và Tân Sở cũng không ngoài số phận đó.

“Kinh thành dự bị, kinh đô kháng chiến”

Từ huyện lỵ Cam Lộ nằm ở km 12 trên quốc lộ 9 từ Đông Hà đi Lao Bảo, rẽ về phía hướng nam theo đường vào Cùa chừng 7km sẽ gặp một bình nguyên đất badan màu mỡ được vây bọc những đồi núi bát úp khá kín đáo và hiểm yếu. Đó là thành Tân Sở.

Sau khi Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn từng bước nhượng bộ chủ hòa, tuy nhiên trong triều đình vẫn nổi lên phái chủ chiến do thượng thư bộ binh Tôn Thất Thuyết và phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường đứng đầu. Kinh thành ngày càng bị uy hiếp, từ năm 1883 Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã chủ trương xây dựng một “kinh đô dự phòng” để di đô khi Huế lâm nguy. Và vùng Cùa với Tân Sở là trung tâm được chọn.

Khi người Pháp đánh chiếm cửa Thuận An (tháng 8-1883) thì Tân Sở được đẩy nhanh tốc độ xây dựng. Một “kinh đô kháng chiến” được xây bằng tre, gạch, gỗ, đá… của nhân dân Quảng Trị đóng góp. Đến đầu năm 1885 thì Tân Sở hoàn thành. Một trong những tư liệu đầu tiên tìm hiểu về căn cứ Tân Sở này là của giáo sĩ A.Delvaux, từng đến truyền giáo ở xứ đạo Phước Tuyền (Cam Lộ), đăng trên tập san Đô Thành Hiếu Cổ (B.A.V.H - “Le camp de Tan So”) với những miêu tả chi tiết kèm theo bản đồ thành Tân Sở.

Tân Sở được xây với mục đích làm căn cứ kháng chiến nên thành có diện tích rộng gần bằng kinh thành Huế. Với chiều dài 548m, rộng 418m, ngoài thành có hàng rào cọc nhọn và hào sâu bao bọc, tiếp là thành đắp bằng đất nện, mở bốn cửa tiền - hậu - tả - hữu theo hướng tương ứng nam - bắc - đông - tây, tiếp theo là tre gai được trồng thành bốn lớp lũy dày, giữa các lũy tre là thành đất, tiếp giáp với thành nội là trại lính, kho hậu cần, bãi tập voi, ngựa. Chính giữa trung tâm là khu vực thành nội được xây bằng gạch vồ với chiều dài 165m, rộng 100m, ngoài bốn cửa tiền - hậu - tả - hữu còn có thêm Ngọ Môn. Bên trong thành nội là hành cung với các ngôi nhà kiên cố được tháo dỡ từ Huế rồi mang ra dựng lại để vua và các quan làm việc như dinh lãnh binh, chánh sứ, phó sứ, bang tá...

Lần giở những trang tài liệu cũ về căn cứ Tân Sở lúc bấy giờ có thể hình dung cả một “công trường kháng chiến” khi hàng vạn dân đinh trong vùng tụ hội về đây xây dựng thành lũy, binh lính tập trung luyện tập. Lương thực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến được vận chuyển từ đồng bằng sông Hồng vào đây qua cảng Cửa Việt. Súng thần công, đạn dược được chuyển từ kinh thành Huế ra, lò rèn nổi lửa đúc súng ống. Tiền bạc ngân lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến cũng được Tôn Thất Thuyết cho chuyển ra đây với ba trăm ngàn lượng, bằng một phần ba kho nội phủ.

Những trù liệu của triều đình khi xây dựng căn cứ Tân Sở đã thành sự thật khi sự biến đêm 23-5 năm Ất Dậu (1885) xảy ra. Cuộc tập kích đồn Mang Cá và Tòa khâm sứ Pháp không thành, kinh đô chìm ngập trong biển máu. Tôn Thất Thuyết và triều thần phò giá vua Hàm Nghi ra Tân Sở để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến đánh Pháp. Tại đây vua Hàm Nghi đã xuống chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cả nước phò vua đánh giặc.
Cuộc kháng chiến của phong trào Cần Vương với sự tham gia của nhân dân và nhiều sĩ phu yêu nước kéo dài đến những năm đầu thế kỷ 20. Tân Sở thành xưa sau này bị quân Pháp đốt phá, nhưng theo A.Delvaux, khi ông lên đây lần đầu vào năm 1906 cho biết những thành lũy trong và ngoài Tân Sở vẫn còn khá nguyên vẹn.

Hoang tàn dấu tích



Hơn 120 năm đã qua khi chúng tôi về lại thành xưa Tân Sở chỉ thấy một bình nguyên mênh mông phủ kín bạt ngàn cao su. Những lũy tre ken dày mấy lớp xưa kia nay chỉ còn vài khóm lưa thưa nhưng vẫn mọc thẳng hàng, đủ cho chúng tôi nhận ra dấu vết của vòng thành ngoại. Trên lô cao su chưa khép tán, mấy người dân vùng Cùa tranh thủ gặt lúa. Chị Trần Thị Cúc ở thôn Mai Lộc 2, xã Cam Chính kể hồi xưa chị còn nhỏ lên đây vẫn thấy bờ tre ken dày. Hồi những năm 1970-1980, người ta mưu sinh bằng việc tìm phế liệu, trong khu vực thành Tân Sở xưa này đã tìm thấy khá nhiều đạn của súng thần công, những viên đạn hình cầu đúc bằng gang hay sắt, đồng, kích cỡ đường kính lớn nhỏ khác nhau.

Còn theo A.Delvaux, sau khi Tân Sở bị Pháp chiếm và đốt phá, công sứ Quảng Trị là Hamelin đã sai chuyển bốn khẩu thần công có khắc chữ Hán từ Tân Sở về đặt trước hành cung ở thành cổ Quảng Trị, trong đó hai cỗ súng dài đến 2,57m. Hỏi thăm những người dân quanh vùng để tìm đến chủ một vựa thu mua phế liệu thời đó, chúng tôi gặp anh Trần Xuân Hòa, năm nay 54 tuổi, người thôn Đốc Kỉnh, Cam Chính. Theo anh Hòa, số đạn thần công hồi đó anh mua nhiều vô kể nhưng đều cân sắt phế liệu, anh có giữ lại một vài viên bằng đồng nhưng rồi thất lạc mất.

Lũy tre không còn, những chứng tích súng đạn của kinh thành kháng chiến cũng không. May sao trong vườn nhà anh Hòa vẫn còn một số viên gạch vồ, vốn xưa kia là gạch xây thành nội Tân Sở. Hồi đó, dân trong vùng vào Tân Sở kiếm hết phế liệu thì nhặt những viên gạch còn lành lặn về lát sân, lát nền giếng. Những viên gạch vồ với kích thước không lẫn vào đâu được, đã xanh sắc rêu im lặng trong góc vườn nhà anh Hòa.

Một “kinh đô kháng chiến” được nhắc nhiều trong sử sách mà nay chỉ còn lại vài viên gạch lẻ loi như thế này thôi ư? Một chương bi tráng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc lẽ nào không còn ai biết? Nhìn ra mênh mông bình nguyên, chập chùng đồi núi vây bọc bốn bề, chốn hiểm địa chở che cho Tổ quốc buổi sơn hà nguy biến nay không một tấm bia biển để nhắc nhở hậu thế.

Quảng Trị ba lần làm kinh đô và thủ phủ

Lần thứ nhất: Khi chọn đất đứng chân cho hành trình mở cõi, từ năm 1558 Nguyễn Hoàng đã chọn Ái Tử của Quảng Trị.

Lần thứ hai: Khi Pháp nổ súng xâm lược (1858), lo ngại trước thế quân Pháp, năm 1883 để phòng khi Huế thất thủ, nhà Nguyễn chọn Quảng Trị để lập “kinh đô kháng chiến”, xây dựng căn cứ Tân Sở (nay thuộc vùng Cùa, huyện Cam Lộ, Quảng Trị).

Lần thứ ba: Năm 1973, khi đặt “thủ đô” cho Cộng hòa miền Nam Việt Nam giữa lúc cuộc đấu tranh đòi thống nhất đất nước diễn ra ác liệt nhất, Cam Lộ được chọn đặt trụ sở của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, nơi đây đã diễn ra những lễ trình quốc thư, tiếp kiến ngoại giao với sự có mặt của các chính khách trong chính phủ kháng chiến Huỳnh Tấn Phát, Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình...

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... chien%E2%80%9D-683/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 11:43 PM
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

- KỲ 7: SỰ TƯỞNG NIỆM LẶNG LẼ




Danh thơm của người mở cõi dành cho ngôi trường được vinh dự mang tên, tên trường nay cũng không còn.

Trường Nguyễn Hoàng



Trường trung học Nguyễn Hoàng xưa -Ảnh tư liệu chụp năm 1958


Hiếm có ngôi trường nào đặc biệt như Trường Nguyễn Hoàng. Được một nhóm thân hào, nhân sĩ ở thị xã Quảng Trị lập ra vào năm 1951 là trường trung học tư thục, năm học tiếp theo được công nhận là trường công lập và đến niên khóa 1953-1954 mang tên Trường trung học Nguyễn Hoàng. Quảng Trị vốn là đất địa đầu giới tuyến, sau những tao loạn thời cuộc Trường Nguyễn Hoàng đã có lúc dời vào tận Hòa Khánh (Đà Nẵng) nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi.

Sau 24 năm tồn tại, sau ngày giải phóng (1975) ngôi trường trung học đầu tiên của tỉnh Quảng Trị không còn mang tên Nguyễn Hoàng. Trên vị trí trường xưa mọc lên một ngôi trường trung học mới mang tên Trường cấp III Triệu Hải, và sau những lần tách nhập địa giới hành chính, bây giờ ngôi trường ấy mang tên Trường THPT thị xã Quảng Trị.

Trường Nguyễn Hoàng không còn mang tên xưa nhưng những thế hệ cựu học sinh Nguyễn Hoàng đã mang theo hình ảnh ngôi trường cùng tên vị chúa mở cõi đi khắp năm châu bốn bể. Hiếm có ngôi trường nào với nhiều thế hệ trò giỏi như Trường Nguyễn Hoàng, không chỉ trước 1975 mà hơn 30 năm nay vẫn gìn giữ và phát huy truyền thống đất học.

Đi đến đâu, những cựu học sinh miền đất này vẫn mang niềm tự hào “học trò Nguyễn Hoàng”, dù họ đang là anh nông dân hay chữ lam lũ ruộng vườn hoặc những nhà khoa học, doanh nhân đang sống ở chân trời góc biển. Đó cũng là sự tưởng niệm lặng lẽ rằng cho dẫu thế nào thì không ai, không điều gì bị lãng quên, như sau này nhà thơ Nguyễn Duy cảm khái về lễ cải táng vua Duy Tân: “Bao triều vua phế đi rồi/Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ”.

Năm 2006, những cựu học sinh Nguyễn Hoàng đã góp tay để cho ra đời tập sách Chân dung và kỷ niệm. Chỉ chưa đầy hai năm, tiếng gọi của những cựu học sinh Nguyễn Hoàng đã nối vòng tay lan xa khắp các châu lục, đã có bốn tập sách, mỗi tập dày ngót ngàn trang in những hồi ức, kỷ niệm về ngôi trường. Tâm nguyện của những học trò ra đi từ mái trường này vẫn là không làm điều gì thẹn với uy danh tiền nhân mà ngôi trường được mang tên.



Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo. Năm 1622, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã cho lập dinh trấn tại nơi này để giữ yên biên thùy phía tây - Ảnh: L.Đ.Dục


Mơ một nơi lưu bóng tiền nhân?

Dấu ấn của các chúa Nguyễn trên đất Quảng Trị không chỉ ở Ái Tử, Trà Bát, Cửa Việt… Bây giờ đi ngược lên miền tây huyện Gio Linh, nơi những rừng cao su xanh tốt bạt ngàn, đặc biệt với hệ thống giếng cổ độc đáo được xếp hạng di tích quốc gia, ít ai biết miền đất ấy đã được Nguyễn Hoàng mở mang bằng việc đưa các tù binh nhà Mạc lên đấy khai khẩn, lập nên làng xóm (sau này cũng với chính sách ấy ông đã đưa tù binh nhà Trịnh vào khai phá các vùng đất mới từ Quảng Ngãi vào đến Phú Yên ngày nay).

Hay giờ đây cái tên Lao Bảo trở nên nổi tiếng là đầu cầu của hành lang kinh tế Đông - Tây nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là cửa ngõ đường xuyên Á, một khu kinh tế đặc biệt trên biên giới Việt - Lào. Tuy nhiên ít ai biết vào năm Nhâm Tuất (1622), chính Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên là người đã lập nên dinh trấn Ai Lao này để canh phòng nạn cướp bóc nơi biên thùy, tạo sự thông thương buôn bán với các bộ lạc Lạc Hoàn, Vạn Tượng (Lào), khi ấy thủ phủ vẫn ở làng Trà Bát.
Nhiều nhà nghiên cứu đã nói rằng tìm hiểu về triều Nguyễn mà thiếu chặng đường khởi nghiệp ở Quảng Trị là một thiếu hụt đáng tiếc. Nhưng Quảng Trị, trải qua mấy chục năm binh lửa đạn bom, dấu vết di tích đã không còn được bao nhiêu. Bom đạn phá một phần, những nhìn nhận thiếu khách quan về nhà Nguyễn suốt mấy chục năm qua, sự vô tâm của con người cũng góp phần xóa đi phần ít ỏi dấu tích còn lại.

Trong một lần làm việc với lãnh đạo huyện Triệu Phong (với huyện lỵ đang đóng tại vùng đất Ái Tử), chúng tôi được biết huyện Triệu Phong cũng mong muốn tôn tạo, trưng bày những dấu vết của thủ phủ Ái Tử, dinh trấn Trà Bát. Nhưng cũng chỉ là ước mong vậy thôi, chưa có gì khởi động. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân gợi ý khó có thể phục dựng tất cả, bởi đó là công việc đòi hỏi nhiều kinh phí và tốn kém, nhưng có một cách làm khác là thu nhỏ những di tích ấy bằng những mô hình với tỉ lệ nhỏ hơn, và tập trung tất cả mô hình ấy vào một khu vực.

Ở Ái Tử có một khu đất rộng chạy sát sông Thạch Hãn lâu nay vẫn được giữ để làm sân bay trong tương lai (thời chiến tranh là sân bay quân sự của Mỹ). Tuy nhiên, mới đây quy hoạch sân bay cho Quảng Trị đã được dời ra vùng Quán Ngang, huyện Gio Linh. Nhiều người mơ ước trên  khu đất định làm sân bay ấy, những dấu tích buổi đầu mở cõi của chúa Nguyễn Hoàng được phục dựng, mô hình thành Tân Sở được tái hiện trở thành một bảo tàng thu nhỏ nhưng sinh động, để rồi khi đến đó người ta hình dung được lịch sử khai mở Đàng Trong đã bắt đầu từ miền đất Ái Tử như thế nào, công cuộc kháng chiến của vua Hàm Nghi và thành Tân Sở đã diễn ra ra sao… Âu cũng là hậu thế tri ân tiền nhân vậy!

Nhưng ước mơ chuyện ngôi trường xưa được mang lại tên Nguyễn Hoàng, một con phố trung tâm nơi đô thị cửa ngõ Lao Bảo mang tên Chúa Sãi… có là điều quá khó khăn khi lịch sử trước hết là sự công tâm và quá khứ lịch sử cũng cần sòng phẳng?
___________________________
Năm 1987, giáo sư Trần Quốc Vượng đã nhận định: “Có thời Nguyễn, chúng ta mới có được một Việt Nam hoàn chỉnh như ngày nay”. Hai thập niên qua, dần dần đã có một cái nhìn rộng mở hơn đối với vương triều Nguyễn.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... g-niem-lang-le-331/
Tác giả: nhimxu8409    Thời gian: 20-4-2013 11:52 PM
NHÀ NGUYỄN - LỊCH SỬ THĂNG TRẦM CỦA MỘT DÒNG HỌ

(KỲ CUỐI): - KHƠI DÒNG LỊCH SỬ




Tuy nhiên, sự đánh giá đối với vương triều Nguyễn có vẻ đặc biệt hơn so với các triều đại khác trong lịch sử nước ta. Đặc biệt ở chỗ nhiều người chưa có được sự nhất trí trong nhận thức và sự giống nhau trong quan điểm. Chẳng hạn có người cho rằng nhờ có nhà Nguyễn nên nước ta mới có được một đất nước rộng lớn và hoàn chỉnh như ngày nay, cũng có người lên án nhà Nguyễn là một triều đại “bán nước”.



Đà Nẵng lấy tên chúa Nguyễn Hoàng đặt cho một con đường ở quận Hải Châu trung tâm thành phố -Ảnh: Đoàn Cường


Thịnh rồi suy

Vương triều Nguyễn chỉ mới được thành lập một cách chính thức vào đầu thế kỷ 19, nhưng sự chuẩn bị để đi đến kết quả đó đã bắt đầu từ rất lâu, muộn lắm là cũng vào thế kỷ 17. Theo bước thăng trầm của lịch sử mọi triều đại phong kiến, ngai vàng của các chúa Nguyễn Đàng Trong đã bị lung lay ngay sau cái chết của chúa Nguyễn Phúc Khoát vào năm 1765. Từ đó, Quốc phó Trương Phúc Loan, một con người vừa tham quyền vừa tham tiền, đã khuấy động cả triều đình Phú Xuân.

Bằng mọi thủ đoạn gian ác, ông đã đưa hoàng tử thứ 16 của vị chúa thứ 8 Nguyễn Phúc Khoát là Nguyễn Phúc Thuần mới 11 tuổi lên nối ngôi để lợi dụng. Sự lộng quyền của Trương Phúc Loan đã làm bộ máy cai trị của nhà chúa yếu kém dần và lâm vào tình trạng “dột từ nóc dột xuống”.

Đó chính là lý do khiến ba anh em nhà Tây Sơn nổi dậy ở Quy Nhơn vào năm 1771. Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân từ Quy Nhơn vào đánh Gia Định, chúa tôi nhà Nguyễn phải chạy xuống Định Tường, Cần Thơ rồi Long Xuyên. Quân Tây Sơn đuổi theo, bắt được chúa và đoàn tùy tùng, họ đều bị giết, chỉ trừ Nguyễn Phúc Ánh kịp thời rời đất liền ra trốn tránh ở đảo Thổ Châu.

Sau đó, ông trở về Long Xuyên tụ tập được một số người thân tín và tái khởi binh đánh chiếm lại Sài Gòn. “Rồi từ đó, suốt 24 năm trời, từ năm 1778 - 1802, Nguyễn (Phúc) Ánh liên tiếp chống lại kẻ thù họ Nguyễn. Cuối cùng ông gây dựng được cơ đồ cũ, lên ngôi với đế hiệu Gia Long, cai trị trên một lĩnh thổ to rộng hơn bao giờ hết về trước, và lĩnh thổ này chính ông đã đặt cho tên Việt Nam” (Nguyễn Phương, 82 năm Việt sử, 1802-1884, Đại học Sư phạm Huế xuất bản, 1963).

Nếu nói công bằng thì sự thống nhất quốc gia vào đầu thế kỷ 19 không phải là công riêng của ông vua đầu triều Nguyễn là Gia Long, mà nó đã được đặt sẵn nền tảng trước đó trên dưới hai thập niên với việc xóa bỏ ranh giới sông Gianh khi quân Trịnh mở cuộc Nam chinh vào đầu năm 1775, và nhất là lúc hoàng đế Quang Trung mở cuộc Bắc phạt vào năm 1788. Việc thiết lập vương triều Nguyễn cũng dựa trên nền tảng của một số triều đại tiền nhiệm trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, mà căn cơ và quan trọng nhất của vương triều này vẫn là thời của các chúa Nguyễn.

“Thà làm dân một nước độc lập”

Gia Long là vị vua khai sáng vương triều Nguyễn, kéo dài 143 năm (1802-1945) qua 13 đời vua. Nay nhìn lại lịch sử 143 năm trải qua 13 đời vua ấy, các nhà sử học dễ nhất trí với nhau rằng có thể chia đại khái ra làm hai giai đoạn. Giai đoạn độc lập tự chủ tồn tại dưới đời các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và một phần đời vua Tự Đức. Nhưng sau cái chết của vị vua thứ tư này thì thực dân Pháp đã có thể gây áp lực trực tiếp lên chính triều đình Huế, buộc Nam triều phải ký hiệp ước Patenôtre (6-6-1884) và tước đoạt nền độc lập của Việt Nam.

Mặc dù ngay sau đó, ngọn lửa giành lại chủ quyền có lóe lên vào năm 1885 dưới thời Hàm Nghi, rồi Thành Thái và Duy Tân, nhưng lực bất tòng tâm, kinh đô thất thủ, Việt Nam hoàn toàn bị đặt dưới quyền cai trị của người Pháp. Vương triều Nguyễn đã để mất nước (cho đến năm 1945), như chính Bảo Đại đã tuyên bố khi thoái vị: “Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ”.

Khi đang viết bài này, tôi đọc được một cuộc phỏng vấn ngắn với nhà thơ Nguyễn Duy trên báo Lao Động ra ngày 16-7-2008, với nhan đề “Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ”. Đây là câu thơ mà Nguyễn Duy dùng để mở đầu kịch bản phim Đi tìm dấu tích ba vua do Đài truyền hình TP.HCM thực hiện. Khi trả lời câu hỏi tại sao lại phải “khơi dòng lịch sử bị nghẽn” vào thời điểm này, nhà thơ Nguyễn Duy thổ lộ: “Cho đến bây giờ nhiều người biết rằng nhà Nguyễn có công lớn đối với nước nhà, nhưng không hiểu tại sao và từ lúc nào lại bị biến dạng, bị hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hóa”.
Nhìn chung, vấn đề nào cũng có hai mặt của nó, kể cả “tấm huy chương” mà một số sử gia, trong đó có các nhà bỉnh bút ở Quốc Sử Quán, Nội các và Hàn Lâm viện triều Nguyễn đã gắn cho vua Gia Long nói riêng và vương triều Nguyễn nói chung. Nhưng vì chính vua Gia Long là người muốn giành lại vương quyền cho dòng họ mình để thành lập triều Nguyễn với bất cứ giá nào, kể cả việc cầu viện ngoại bang, cho nên con cháu ông sau đó đã phải trả một cái giá rất đắt khi quân đội thực dân Pháp đến xâm lược nước ta.

Trong bài “Vài suy nghĩ về vị thế xứ Huế và vị thế lịch sử của nó” đăng trên tạp chí Sông Hương tháng 5-6 năm 1987, giáo sư Trần Quốc Vượng đã đưa ra một nhận định đầy công tâm và chính xác về nhà Nguyễn: “Có thời Nguyễn, chúng ta mới có được một Việt Nam hoàn chỉnh như ngày nay”. Và trong ngót hai thập niên qua, nhiều cuộc hội thảo khoa học và nhiều công trình nghiên cứu đã dần dần đem lại một cái nhìn rộng mở hơn chứ không còn gay gắt như trước đối với vương triều Nguyễn.

cre: http://www.lyhocdongphuong.org.v ... i-dong-lich-su-332/
Tác giả: ada_thai    Thời gian: 21-4-2013 10:31 PM
love_milk_tea9 gửi lúc 3-1-2012 12:56
C. Nhà Đinh (968 - 980)
Nhà Đinh 12 năm (968 - 980), quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa ...


bạn ơi mình cũng thích trao đổi về lịch sử Việt Nam lắm nhưng cũng không có nhiều cơ hội. Hôm nay thấy bạn lập cả trang về lịch sử mạo muộn hỏi bạn vấn đề này bạn giúp mình một ích ý kiến nha
theo như lời dẫn của bạn là:

"Năm 978, Đinh Tiên Hoàng lập con nhỏ là Hạng Lang làm thái tử, phong con thứ là Toàn làm Vệ vương. Đinh Liễn là con trai đầu, đã từng có nhiều công lao trong sự nghiệp đánh dẹp 12 sứ quân, dựng nên triều đại mới, chỉ được phong Nam Việt vương. Không chấp nhận điều đó, Đinh Liễn cho người ngầm giết Hạng Lang. Sự việc chưa có gì đổi mới thì cuối năm 979, nhân một bữa tiệc rượu trong cung của hai cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn, một viên quan hầu tên là Đỗ Thích đã ám hại cả hai.

Đỗ Thích bị bắt giết. Triều thần đưa Vệ vương Toàn mới 5 tuổi lên nối ngôi. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn được cử làm phụ chính. Vì nghi ngờ Lê Hoàn có ý định cướp ngôi, các tướng cũ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Điền, Nguyễn Bạc, Phạm Hạp đã đưa quân về kinh định giết ông. Cuộc chiến xảy ra. Đinh Điền, Phạm Hạp, Nguyễn Bạc đều bị giết."


Quả thật các tư liệu lịch sử nước của chúng ta đều ghi chép lại như thế (tuy nhiên bạn cũng biết đó có một số việc, sự việc lịch sử nó không vô tư mà bị 1 thế lực nào đó ....) vì sau mình lại nói thế vì mình đã suy nghĩ khá nhiều ở giai đoạn này mình thấy nó có 1 sự vô lý về cái chết của Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn. Vua và con vua đều là do Đỗ Thích giết hại (Đỗ Thích chính là thái giám quan) mình thật sự không hiểu nổi anh này có động cơ gì mà giết nhà vua ghê gướm thật (giết vua tru vi 9 họ) mà sau khi giết rồi chẵn thấy 1 cái lợi ích gì hết thật vô lý (ông này bị Lê Hoàn giết trả thù cho vua)
và có 1 giải thuyết đặt ra rằng giữa Lê Hoàn và Dương Vân Nga đã có ABC trước đó liên kết Đỗ Thích giết hại nhà vua mua đồ soán ngô sau khi thành công giết chết đỗ Thích bịch đầu mối vì đến thời điểm hiện tại chỉ công bố Đỗ Thích đã bị giết chết nhưng chưa từng nêu là đây là 1 vụ án được xử công khai mà có cảm giác rất kỳ hoặc trong cái chết này bởi 1 người như Đỗ Thích giết vua là khó rồi còn phải giết cả Đinh Liễn (không được phong Thái Tử giết làm gì ta) nếu không có 1 thế lực giúp sức liệu Đỗ Thích có làm được việc đó hay không???????????? nên việc nghi ngờ cướp ngôi theo mình là có cơ sở

Không biết bạn có lý giải gì không nhỉ? rất mong nhận phản hồi từ bạn^^
Tác giả: virgo_nhaycam    Thời gian: 6-8-2013 12:05 AM
HÀO KHÍ ĐÔNG A: TẢN MẠN HỒI CỨU TRẦN HỮU LƯỢNG & CHU NGUYÊN CHƯƠNG TRANH HÙNG (QUA LINH KHU ĐỒ)


Tác giả: Lê Hưng
I.Từ dã sử võ hiệp đến chính trị lịch sử:

1.1- Từ dã sử võ hiệp Trung Hoa:

Học giả - sử gia Trần Trọng Kim (1882 – 1953) khi đề cập việc giao thiệp chính trị của nước ta (thời gian vua Trần Dụ Tông: 1341 – 1369) với nước Tàu:

-bấy giờ ở bên Tàu, nhà Nguyên đã suy, trong nước rối loạn, có bọn Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành, Chu Nguyên Chương khởi binh đánh phá. Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Từ Châu (tỉnh An Huy) chiếm giữ thành Kim Lăng, rồi trong 15 năm dứt được nhà Nguyên, dẹp yên thiên hạ …

(Việt Nam Sử Lược – NXB. Tổng Hợp Tp.HCM – 2005)

Câu chuyện tranh hùng của các nhân vật lịch sử Trung Hoa nói trên, đã được nhà văn Kim Dung (người Hồng Kông – TQ) viết thành tiểu thuyết võ hiệp dã sử “Cô gái Đồ Long” khá nổi tiếng. Bạn đọc người Việt chúng ta (khi đọc các bản dịch Việt ngữ cuốn truyện này) đều chú ý tới nhân vật Trần Hữu Lượng – thủ lĩnh hệ thống Cái Bang – khởi xướng cuộc nổi dậy của dân nghèo chống lại nhà nước Đại Nguyên (tộc người Mông Cổ cai trị nước Trung Hoa), đồng thời cũng là đại kình địch của lực lượng Bạch Liên giáo (chủ trương phục hồi nhà Tống, giải phóng ách cai trị của nhà Nguyên – Mông Cổ) do chủ soái Chu Đức Dụ tức Chu Nguyên Chương cầm đầu. Trần Hữu Lượng (THL) dưới bút pháp tác giả Kim Dung, có tài năng hiếm lạ:

- lúc còn tuổi ấu nhi, chỉ nghe lén Trương Tam Phong đọc khẩu quyết “Chân Kinh” tại chùa Thiếu Lâm, mà cậu bé THL đã “thuộc nằm lòng” toàn bộ nội dung “bí kíp Chân Kinh” (nghĩa là có trí nhớ siêu việt như thần đồng Lê Quí Đôn thời hậu Lê – thế kỷ 18 ở nước ta)

- đến khi vào tuổi thanh niên, THL đã toả sáng tinh thần ham học hỏi, mạnh dạn tiếp cận nhiều cao thủ võ lâm (như dâm tăng Thành Khôn, quái hiệp khiếm thị Tạ Tốn …) để cầu học thêm võ nghệ bậc cao của các kỳ nhân trong thiên hạ …

1.2- Đến chính sử Đại Việt:

Hai bộ sách lịch sử có uy tín và lâu đời của nước ta:

- bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” của Lê Văn Hưu (đời Trần thế kỷ 13), Ngô Sỹ Liên (thế kỷ 15 đời Lê …(1))

- bộ “Việt sử tiêu án” của Ngô Thời Sỹ thời hậu Lê (2)

là khá rõ ràng về nhân thân – lý lịch của “nhân vật có thật” trong lịch sử: Trần Hữu Lượng (THL). Vậy THL là ai ?

II. Nhân thân lịch sử Trần Hữu Lượng:

Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” ghi:

- Giáp Ngọ năm thứ 14 (1354), Nguyên Chí Chính năm thứ 14. Mùa Xuân tháng 2, quan trấn giữ biên giới phía bắc cho chạy trạm tâu việc: Trần Hữu Lượng nước Nguyên dấy binh, sai sứ sang xin hoà thân (Trần Hữu Lượng là con Trần ích Tắc).

Theo “Việt sử tiêu án” ghi:

- Trần Hữu Lượng khởi binh ở Giang Châu, sai sứ giả sang nước ta xin hoà (Hữu Lượng là con của Ích Tắc, cuối đời Nguyên cùng vua Minh Thái Tổ khởi binh). Ngoài ra các sách “Đại Nam thực lục” “Đại Việt sử ký bản kỷ” cũng cho biết: THL là con Trần Ích Tắc.

Theo tài liệu “Trần Triều thế phổ”, người Việt chúng ta đều đã biết:

* vua Thái Tông Trần Cảnh có 3 con trai với Chiêu Thánh hoàng hậu là Trần Quốc Khang, Trần Quang Hoảng (tức là vua Trần Thánh Tông), Trần Quang Khải; và có thêm 2 con trai khác (với hai bà phi) là Trần Ích Tắc và Trần Nhật Duật. Vậy Trần Ích tắc là hoàng đệ của vua Trần Thánh Tông (1258 – 1278)

* Người anh ruột Thái Tông Trần Cảnh là ông Trần Liễu có hai con trai: Trần Quốc Doãn và Trần Quốc Tuấn (tức Hưng Đạo Vương).

Như vậy: Trần Hưng Đạo và Trần Ích Tắc là anh em thúc bá; do đó ta suy ra ngay phả hệ: Trần Hữu Lượng là cháu gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bằng BÁC (họ bên nội của dòng dõi Đông A nhà Trần Việt Nam)

Sử gia – học giả Trần Trọng Kim ghi trong “Việt Nam sử lược” như sau:

- “hoàng đệ Trần Ích Tắc là một người hay chữ trong nước lúc ấy, mở học đường để những người văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đỉnh Chi cũng học ở trường ấy ra …” (trang 121 – VNSL)

- “bọn hoàng tộc là Trần ích Tắc, Trần Tú Viên … đều ra hàng Thoát Hoan cả. Chỉ có Hưng Đạo Vương phụng xa giá đi, trèo non vượt bể, trải gió dầm mưa, thế lực tuy cùng, nhưng vẫn bền vững một lòng tìm kế đánh giặc …” (trang 136 – VNSL); sự việc xảy ra năm 1284 khi quân nhà Nguyên vây hãm Thăng Long).



- “Vua nhà Nguyên nghe lời, cho quân sĩ nghỉ vài tháng: Còn Trần Ích Tắc đã theo Thoát Hoan về Tàu, thì cho ra ở Ngọc Châu”

(trang 143 – VNSL; sự việc xảy ra năm 1285 trước khi Thoát Hoan sang đánh nước ta lần thứ hai – 1287)

Từ các chi tiết đã dẫn ở trên, chúng ta đã có thể biết thêm: Chiêu quốc Vương Trần ích Tắc theo phò nhà Nguyên và dời khỏi nước Đại Việt từ năm 1287 đời vua Trần Nhân Tông ông sống lưu vong và trở thành công dân nước Trung Hoa từ đời vua Nguyên Thành Tông (khi Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt qua đời) và được cấp ruộng ở vùng Hán Dương, làm chức Bình Chương tỉnh Hồ Quảng, thọ 76 tuổi (3). Như vậy: Trần Hữu Lượng là người Hoa gốc Việt Nam, mang dòng máu “Đông A hào kiệt”hậu duệ của những danh tướng Việt Nam đời Trần (Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản …), nên mới đủ bản lãnh “tranh bá đồ vương” với Chu Nguyên Chương (tức Chu Đức Dụ) người Hoa bản địa gốc nông dân tỉnh An Huy (TQ), tuy cả hai người này đều nhằm mục đích chung: giải phóng nước Trung Hoa thoát khỏi ách đô hộ của tộc người Mông Cổ.

III. Linh khu đồ của hai nhân vật nổi dậy chống nhà Nguyên:

3.1- Trong các nhóm nổi dậy kháng Nguyên vào hậu bán thế kỷ 14 ở Trung Hoa, chỉ có ba lực lượng đáng kể:

3.1.1- Chu Nguyên Chương phò vua nhà Tống (Tiểu Minh Vương) đóng đô ở Hào Châu, tự xưng là Ngô Vương phía tây đất Ngô (sau này ám sát vua Tống – 1366, sáng lập ra nhà Minh).

3.1.2- Trương Sĩ Thành, tự xưng là Chu đế, đóng đô ở vùng phía đông đất Ngô.

3.1.3- Trần Hữu Lượng tự xưng là Hán Đế ở đất Giang Sở. Tuy ba nhóm nổi dậy đều chống phá lật đổ nhà Đại Nguyên Mông Cổ, thực sự họ lại tranh chấp – tiêu diệt lẫn nhau, để dành quyền cai trị nước Trung Hoa đáng kể nhất là lực lượng quân sự to lớn của Trần Hữu Lượng và của Chu Nguyên Chương. Lịch sử Trung Hoa cho biết thêm nhân thân của hai nhân vật:

* Chu Đức Dụ (tức Chu Nguyên Chương) sinh ở Hào Châu tỉnh an Huy (TQ) thuộc giới nông dân nghèo, sớm mồ côi cha mẹ, tuổi ấu thơ đi tu ở Hoàng giác tự, tuổi thanh niên gia nhập hàng ngũ kháng Nguyên của môn phái Bạch liên giáo …

* Trần Hữu Lượng sinh ở Miễn Dương tỉnh Hồ Bắc (TQ), thuộc giới người làm nghề chài lưới (xin lưu ý: ông tổ các vua Trần nước ta, là ông Trần Lý cũng xuất thân làm nghề đánh cá ở tỉnh Nam Định – Việt Nam); nhà văn Kim Dung (tác giả nhiều bộ sách võ hiệp nổi tiếng ở Hồng Kông – TQ) đã mô tả THL là mẫu người “đặc sắc hiếm có” (như cách đúc kết của nhà nghiên cứu y – sử TS.BS Bùi Minh Đức – California):

- Thông minh, có chí ham học, khôn ngoan giảo quyệt, mưu mô, nhiều tham vọng nhưng lại là người chỉ huy giỏi … (4). Nhưng theo nhận xét riêng của người viết: những đặc sắc hiếm có vừa nêu là thiên hướng chỉ CNC nhiều hơn (khi thẩm định bằng LKĐ)

3.2- Linh khu đồ của THL&CNC

Khá nhiều tài liệu nghiên cứu “Tử Vi đẩu số” về các nhân vật lịch sử được lưu truyền đến bây giờ (như Đông A di sự, Tử vi nghiệm lý, Gia phổ huyền thư dòng họ Lê Lã …) đã cho biết các “thông số thời gian” để lập được linh khu đồ (LKĐ):

- Chu Nguyên Chương (5) sinh năm Mậu Thìn (1328) ngày 21 tháng 10 âl giờ Mùi – Mệnh Mộc, cục Thổ, thân cư Phúc)

- Trần Hữu Lượng (6) sinh năm Nhâm Tuất (1322) ngày 26 tháng 9 âl giờ Tý – Mệnh Thuỷ, cục Kim, Thân cư Mệnh)

IV. Nhận dạng thắng – thua tranh hùng giữa CNC & THL:

Nhóm nghiên cứu hậu TL phát hiện một lý thú đầu tiên, là cấu trúc 14 dữ kiện VIP của LKĐ CNC & LKĐ THL hoàn toàn giống như nhau, chỉ khác ở các dữ kiện chi tiết (để biết tại sao THL thất bại trước CNC):

4.1- dạng thức của CNC là “Sát Phá Tham” ở tam giác địa chi Thân Tý Thìn; còn dạng thức của THL là “Tử Phủ Vũ Tướng Liêm” ở tam giác địa chi Dần Ngọ Tuất. Lời giải đáp: xem mục 2.2 và mục 2.6 trang 30 – 31 sách “biết mình – hiểu người, hài hoà cuộc sống” và trang 173 sách đã dẫn sẽ tường minh “con người thật” của CNC và THL !

4.2- Người xưa đã đúc kết kinh nghiệm:

- Mệnh tốt không bằng Thân tốt

Thân tốt không bằng phúc đức tốt

rất đúng khi nhìn vào LKĐ.CNC: thân cư Phúc ở Ngọ (thuộc dạng thức VIP : Tử Phủ Vũ Tướng Liêm: thuần âm của dữ kiện Thái Âm) hơn hẵn cung Phúc của LKĐ.THL ở Tý (dạng thức VIP: Sát Phá Tham: thuần dương của dk. Thái Dương). Nên nhớ quan điểm thuần Âm Dương của nhóm n/c hậu TL:

- Âm là tiếp thu, nhận thêm vào …

- Dương là phát tán, làm vơi bớt đi …

(xem trang 62 – 63 sách đã dẫn, hoặc sách “nghiệm lý hệ điều hành âm dương” trang 13 – 14 – 15 – 16. NXB Tổng Hợp Tp. HCM 2010)



4.3- Thế “minh lộc – ám lộc” của LKĐ CNC: Hoá Lộc ở quan lộc địa chi Thân “nhị hợp” với Lộc Tồn ở phụ mẫu địa chi Tỵ, là lợi thế sáng giá; trong khi LKĐ THL: minh lộc (Hoá Lộc) và ám lộc (Lộc tồn) lại chung đụng sát phạt nhau tại Phụ mẫu: cực kỳ bất lợi (mỗi khi 2 dk này đồng cung) chưa kể nhóm sát thủ: Địa không – Địa kiếp – Kiếp sát – Thiên không – Lưu hà cũng hiện diện tại đây !

4.4- Còn luận về tư thế “chính nhân quân tử” (theo truyền thống đạo lý cổ truyền), rõ ràng LKĐ THL đẹp nhân cách hơn LKĐ CNC:

- Mệnh và an Thân cùng nằm trong tam giác Thái tuế – Quan phù – Bạch hổ gọi là vòng Thái tuế (của LKĐ THL) so sánh với Mệnh tuy nằm trong vòng Thái tuế nhưng an Thân lại nằm ở tam giác Tuế phá – Tang môn – Điếu khách, gọi là mẫu Tuế phá (của LKĐ CNC). Lời giải đáp: mục IV trang 102 – 103 – 104 sách đã dẫn, sẽ hiểu thêm: khi có tham vọng chính trị, thì phải biết “tung hoả mù” nhiều thủ đoạn để đối phương … hết biết ! Cách hành động của CNC (nói một đàng làm một ngả) hơn điểm THL ở chỗ này đây!

4.5- THL tử trận năm 45 tuổi âm lịch (1366, tại mặt trận thuỷ chiến trên hồ Thẩm Dương – Trường Giang, bị CNC dùng hoả công vây hãm) đúng vào đại vận 44 – 53 tuổi ở tam hạp cục hoả (Dần Ngọ Tuất) trong khi bản mệnh và an Thân cũng thuộc tam hạp hoả (Dần Ngọ Tuất) hoả gặp hoả! Cụ Thiên Lương sinh thời đã truyền cho con cháu một “nghiệm lý” về qui luật ngũ hành:

- mộc gặp mộc: tốt

- kim gặp kim: tốt (kim gặp hoả cục: kim khắc lúc sau)

- hoả gặp hoả: xấu (hoả gặp kim cục: hoả khắc lúc đầu)

mà LKĐ của THL lại thuộc kim cục (nên mới bước vào đại vận thái tuế, đã gặp ngay sự xấu)

- thuỷ gặp thuỷ: xấu

- thổ gặp thổ: hoà

4.6- THL lại thua điểm CNC (được báo trước từ linh khu đồ) rất hiển thị trên 2 LKĐ như sau:

- LKĐ THL: cung quan lộc bị Triệt án ngữ; cung tật ách có dk Thiên hình (mũi tên, hòn đạn) chờ sẳn

- LKĐ CNC: cung tật ách được 2 dk che chở: Tuần không và Thiên Lương; cung quan lộc lại thuộc tam giác vàng “Thân Tý Thìn” (xem lời giải đáp ở mục 4.1 trang 102 sách đã dẫn, hoặc mục 2.2 trang 30, mục 2.6 trang 31 sách đã dẫn)

4.7- Sống ở đời phải biết nghiệm lý như người Âu Châu:

“Vivre, c’est lutter” (sống ấy là tranh đấu), trong khoa “linh khu thời mệnh lý” cũng quan niệm: cung thiên di là môi trường sống luôn luôn phải bị cung mệnh chế ngự! Do đó, khi nhìn vào thân thế sự nghiệp của CNC và của THL, chúng ta thấy bản minh hoạ “sống động”:

- LKĐ CNC: cung Mệnh ở Thân Tý Thìn (tam hạp thuỷ, đồng thời cũng là tam giác vàng quí nhất trong mỗi LKĐ) là thế thượng phong thiên hạ!

Cung Thiên di ở Dần Ngọ Tuất (tam hạp hoả) luôn bị kém thế hơn, vì thuỷ chế ngự hoả!

- LKĐ THL: cung Mệnh ở Dần Ngọ Tuất (hoả)

Cung Thiên di ở Thân Tý Thìn (thuỷ) luôn luôn mạnh mẽ khắc chế cung mệnh (hoả)

THL lại thua điểm CNC quá rõ ràng!


V. Tâm tư của người viết:

Mỗi khi đọc lại 3 đoạn viết trong bộ sử ký chính thống “Đại Việt Sử Ký toàn thư” (tác giả là các sử quan Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên …) như sau:

5.1- Năm Giáp Ngọ - 1354 Trần Hữu Lượng nước Nguyên dấy binh, sai sứ sang xin hoà thân (Hữu Lượng là con Trần Ích Tắc)”

5.2- Năm Tân Sửu – 1361: “tháng 2, Minh Thái Tổ đánh Giang Châu. Trần Hữu Lượng lui giữ Vũ Xương, sai người sang ta xin quân (cứu viện). Vua không cho”

5.3- Năm Bính Ngọ - 1366: “Hán là quốc hiệu của Trần Hữu Lượng. Lượng đánh nhau với Chu Nguyên Chương ở hồ Thẩm Dương, bị chết trận. Chu Nguyên Chương đến vây Vũ Xương, con của Lượng là Trần Lý đầu hàng)

Người viết bài này không khỏi ngậm ngùi một nhánh “hào khí Đông A Việt Nam” ngày xưa bị rơi vào tình huống:

- Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương!

(thơ Nguyễn Du thế kỷ 18)

bởi vì nhân vật THL đúng là “mẫu người tài” được nhận dạng qua học thuật “linh khu thời mệnh lý” nhưng chịu số phận “có tài mà cậy chi tài; chữ tài liền với chữ tai một vần”và qua đời khi tuổi nam nhi còn nhiều tráng khí như thi hào Nguyễn Du nghiệm lý trong truyện Kiều.

Tôi cũng cảm thông con cháu tôi (hậu duệ nhà giáo TL và thầy thuốc ĐS) dòng họ Lê Lã – Hưng Yên thường phàn nàn, tiếc nuối về cuộc tranh hùng bá vương này:

- Giá như “ngày xa xưa ấy” các vua nhà Trần ( Đại Việt ) chi viện quân lương tích cực cho ông Trần Hữu Lượng theo thỉnh nguyện cầu cứu của ông ấy (vì tình nghĩa họ hàng gần cận, cũng như vì đồng chủng dân tộc), thì rất có thể “người hùng hậu duệ hào khí Đông A” THL đã không thua … Chu Nguyên Chương!

Nhưng tôi (cũng như những ai đã am hiểu tinh hoa nguồn văn hoá phi vật thể “linh khu thời mệnh lý”) đều “càng thông cảm hơn” cho các vua nhà Trần thời bấy giờ (vua Trần Minh Tông, Trần Dụ Tông…) đã phải “khước từ” lời cầu viện của người bà con ruột thịt THL cũng chỉ vì “sinh mệnh tồn tại” của quốc gia Đại việt, với lý do rất dễ hiểu: giữ gìn hoà khí ngoại giao với nước Tàu đất rộng người đông, khi mà:

- Linh khu đồ sáng sủa của CNC hơn hẳn LKĐ của THL (như nhiều chi tiết đã dẫn giải ở phần IV bài viết này), bởi lẽ hoàng tộc đời nhà Trần VIỆT NAM có “chìa khoá vàng” giải mã các linh khu đồ (tức số Tử Vi cổ truyền) là cẩm thư bí truyền “Đông A di sự” nổi tiếng của dòng họ Trần; tất nhiên khi “hội chẩn” LKĐ của hai hào kiệt nêu trên, thì các vua Trần phải gạt bỏ tình riêng gia tộc (không ứng cứu THL) để sau này CNC (khi ông ta thống nhất được thiên hạ Trung Hoa) sẽ không kiếm cớ “gây khó dễ” với xứ Đại Việt của … chúng ta!

http://www.lyhocdongphuong.org.v ... a-linh-khu-do-2932/
Tác giả: nhimxu0984    Thời gian: 6-8-2013 12:09 AM
KHẢO VỀ VĂN HIẾN ĐẠI VIỆT QUA LÊ THÁNH TÔNG - KỲ 1


Tác giả: Trần Trọng Dương, Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển
Bậc hiền vương văn minh lỗi lạc

Những hành xử của Lê Thánh Tông cả trước và sau khi lên ngôi không những tỏ rõ “khí lượng thiên tử” mà còn cho thấy ông đã được đào tạo một cách bài bản như thế nào về quan niệm trị nước theo tiêu chuẩn của Nho giáo.

Lê Thánh Tông thuộc loại hình nhân vật lịch sử đáng chú ý. Có thể có nhiều cách phân loại khác nhau. Từ quan điểm hiện đại, nhiều người coi ông như một mẫu hình nhà văn hóa của Đại Việt hay nhà chính trị lỗi lạc, nhà thơ lớn của Đại Việt vào thế kỷ XV.

Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, nghiên cứu bất cứ một lĩnh vực nào thì người nghiên cứu nên tự đặt mình vào bối cảnh thời đại cũng như bối cảnh tri thức của thời đại đó, tộc người đó. Điều này sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn từ bên trong, tránh đi lối nhìn đã “hiện đại hóa” của đời sau.

Chính vì vậy, bài viết xuất phát từ việc khảo về khái niệm văn hiến trong bối cảnh tri thức Nho gia Việt Nam cũng như “văn hiến Đại Việt” qua trường hợp Hoàng Đế Lê Thánh Tông, để ngõ hầu lý giải được phần nào những đóng góp lịch sử của vị hoàng đế này đối với lịch sử và dân tộc.

Với thức nhận như trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về từ nguyên của khái niệm “văn hiến” trong bối cảnh tri thức của Nho gia1. Kết quả có thể tóm lược như sau. Về mặt tự nguyên, Văn có bốn nghĩa: văn tự, ngôn ngữ, văn thư, và văn chương (2), cũng như trỏ những tư liệu nói chung có liên quan đến điển chương chế độ, hiến chỉ người hiền tài, chủ thể sáng tạo có học thức.

Các quá trình hoạt động văn hóa xã hội trên (Sáng tạo văn tự, ghí tái ngôn ngữ; Dịch thuật; Mở mang giáo hóa; Thiết định pháp độ; Thiết định phong tục) đều có thể quy vào quá trình kiến tạo văn hiến và có thể coi như là những tiêu chuẩn để chúng tôi tiến hành khảo sát từng tiêu chí cụ thể qua trường hợp hoàng đế Lê Thánh Tông. Việc khảo sát này dựa trên những thư tịch cổ còn lại, cũng có khi có sự kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây. Vì vậy, bài viết sẽ mang dáng dấp một bài tổng thuật, đôi chỗ có phát hiện mới cũng chỉ mang tính chất bổ sung.

Thân Nhân Trung trong Thánh Tông Chiêu lăng bi minh viết: “cập sinh, thiên tư nhật biểu, thần thái anh dị, càn kiện khôn thuận, chí tính thuần toàn, kỳ kỳ nhiên, ngực ngực nhiên, chân tác Hậu chi thông minh, biểu bang chi trí dũng” nghĩa là [vua sinh ra] tư trời rạng rỡ, thần thái anh dị, có cái cương kiện của quẻ càn, có cái nhu thuận của quẻ khôn, tính nết thuần toàn, chững chạc thay, vời vợi thay! Thực là [tư chất] thông minh của bậc Hoàng đế, thực là [khí tượng] trí dũng của kẻ biểu bang” (3).

Khi Thái Tông mất, hai đại thần Lê Khả và Lê Xí phò Nhân Tông hoàng đế lên ngôi. Niên hiệu Thái Hòa năm thứ 3 (1445), ông được phong tước Bình Nguyên vương, phủ đóng ngay tại kinh đô, hàng ngày cùng các vị vương khác vào Kinh diên học tập.

Như ta biết, Tư Thành là em út, cách ứng xử của Nho gia cũng đã nằm lòng. Giữ hiếu đễ với anh, cũng tức là tỏ lòng trung với nước. Mặt khác, những bài học lịch sử mà Nho giáo đã đưa ra trong kinh sử trước đây về mối quan hệ anh em trong hoàng tộc, khiến ông nhận thực rõ ràng hơn về vị thế của mình. Phương thức ứng xử “giữ phận”, “ẩn mình” có thể nói là cách tốt nhất để “hành đạo”. Cho nên, lúc ấy, quan giữ chức Kinh diên là Trần Phong, thấy ông “cử chỉ đoan chính, thông tuệ hơn người” cũng đã giật mình.

Còn Tư Thành cũng đã ngay lập tức đọc được việc mình bị “đọc”, nên “càng dè dặt, không dám lộ vẻ anh hoa, mà chỉ lấy sách vở cổ kim và nghĩa lý thánh hiền làm thú, ...suốt đêm không rời quyển sách; thiên tài cao cả mà việc chế tác lại rất lưu tâm, yêu việc thiện, mến người hiền luôn luôn không mỏi.”

Đến khi loạn Nghi Dân nổ ra, ông vẫn thản nhiên không tham gia chính sự, bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra. Đây chính là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất khiến các đại thần thời bấy giờ như Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm, ...mới nhận ra rằng ông là “bậc minh tuệ, độ lượng trầm nhã, vượt trên nhân quần” nên mới đón rước ông về nối ngôi hoàng đế.

Có thể nói, những hành xử của Lê Thánh Tông cả trước và sau khi lên ngôi không những tỏ rõ “khí lượng thiên tử” mà còn cho thấy ông đã được đào tạo một cách bài bản như thế nào về quan niệm trị nước theo tiêu chuẩn của Nho giáo.

“Vua tư trời sao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay, ... Các sách kinh sử, các sách lịch toán, các việc thánh thần, cái gì cũng tinh thông.” (Vũ Quỳnh 1453-1516, ĐVSKTT. T3. nxb KHXH. H.)

Qua lời trên của Vũ Quỳnh, có thể thấy, Lê Thánh Tông đã/ được trang bị cho mình mọi kiến thức cần thiết nhất để sau này ông đứng ở ngôi vị thiên tử. Hiếu đễ để thuận lòng người, hợp ý trời. Khi đã gặp thời, “phi long tại thiên” thì dùng “chư khoa bách nghệ” để ứng phó và xử lý mọi công việc. Dùng võ là để bình định thiên hạ, oai chấn tứ di, đánh dẹp các thế lực cát cứ ở trong và ngoài nước. Dùng văn để giáo hóa thiên hạ. Dùng đức để cải hóa nhân tâm. Dùng pháp để răn dè sai trái.

Có thể nói, bản thân Lê Thánh Tông xét cả về tư chất cũng như đức độ, cũng như tầm tri thức là vị vua “kiểu mẫu” theo đúng kinh sách của Nho gia. Ở khía cạnh này, có thể coi nhân vật Nhà Nho- Hoàng đế là loại hình nhân vật đáng chú ý hơn cả để nghiên cứu về khía cạnh “hiến” trong khái niệm văn hiến. Bậc hiền vương Lê Thánh Tông là biểu hiện tiêu biểu nhất cho văn hiến Đại Việt vào thế kỷ XV. Bởi từ bối cảnh tri thức và bối cảnh thời đại, Hoàng đế vừa là sản phẩm của thời đại ấy lại vừa là nhân tố quan trọng nhất tạo tác nên thời đại đó.

Sở dĩ nói, Lê Thánh Tông là hiền vương bởi ông là một trong hai vị vua thực hiện một cách đầy đủ nhất những tiêu chuẩn của quan niệm Nho giáo chính thống. “Hiền” là một khái niệm của Nho, là một phức thể định hình cụ thể giữa hai yếu tố “tự tu” và “kinh tế”. Hiền là một danh từ trỏ chung cho những nhân vật ngưỡng mộ và thực hành đức trị theo những mô hình cổ đại thời Chu. Đời sau, người ta còn dùng các từ hiền nhân, hiền sĩ. Nhưng về cấp độ và vị thế chính trị thì hiền chia làm hai loại: 1. Hiền thần và 2. hiền vương.

Trong đó hiền vương là người thực hiện một cách hoàn bị những bài học đạo đức (nội thánh) và chính trị (ngoại vương) (4) theo nguyên lý và hình mẫu có sẵn. Không chỉ có vậy, khái niệm hiền của Nho gia còn được gia cố bởi nhiều tiêu chí khác, như chúng tôi đã thảo luận khi đề cập về Sĩ Nhiếp (5).

Dù là với tiêu chí nào đi chăng nữa thì Lê Thánh Tông là một thực thể sống động cho những nguyên tắc hành xử và hoạt dộng xã hội của Nho gia. Điều ấy sẽ dần dần được đề cập đến như dưới đây.

http://www.lyhocdongphuong.org.v ... anh-tong-ky-1-2801/
Tác giả: virgo_nhaycam    Thời gian: 6-8-2013 12:12 AM
KHẢO VỀ VĂN HIẾN ĐẠI VIỆT QUA TRƯỜNG HỢP HOÀNG ĐẾ LÊ THÁNH TÔNG - KỲ 2


Tác giả: Trần Trọng Dương, Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển

Nằm trong hoạt động kiến tạo văn hiến, Lê Thánh Tông là một trong những vị vua có nhiều trước thuật có giá trị, ông đã sai Nho thần biên soạn nhiều bộ sách mang tính học thuật, có ý nghĩa thiết lập những giá trị mới có khuynh hướng Nho hóa về nhiều phương diện như lịch sử, chế độ, pháp luật, dân tục, ngôn ngữ, văn hóa, văn học...

Các sách trước tác của Lê Thánh Tông
Về các tập thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông có các tập:
* Minh Lương cẩm tú

*Quỳnh Uyển cửu ca

* Chinh Tây kỷ hành

* Cổ Tâm bách vịnh

* Châu cơ thắng thưởng

* Văn minh cổ xúy

* Anh hoa hiếu trị

* Cổ kim cung từ thi tập

* Xuân vân thi tập

Trong đó, ba tập cuối hiện đã mất. Minh lương cẩm tú 明 良 錦 繡 gồm 18 bài, phần đa vịnh các cửa biển từ cửa Thần Phù đến Hải Vân quan. Đại Việt thông sử 大越通史 của Lê Quý Đôn ghi nhận, tập thơ do từ thần biên tập thơ ngự chế và các bài do bề tôi họa lại1. Quỳnh Uyển cửu ca 瓊 苑 九 歌 là tập thơ do vua tôi xướng họa nhân dịp hai năm liền được mùa theo chín chủ đề: 1. Phong niên (được mùa), 2.
Quân đạo (đạo làm vua), 3. Thần tiết (tiết làm bề tôi), 4. Minh lương (vua sáng tôi hiền), 5. Anh hiền (các bậc anh tài hiền triết), 6. Kỳ khí (khí lạ), 7. Thảo tự (chữ Thảo), 8. Văn nhân, 9. Mai hoa. Tập thơ còn 1 bài tựa của Lê Thánh Tông và bài bạt của Đào Cử. Chinh tây kỷ hành 征西紀行 là tập thơ nhật ký theo lộ trình tiến đánh Chiêm Thành từ năm 1470 đến 1471, gồm ba mươi bài. Cổ tâm bách vịnh 古心百詠 là tập thơ “họa thơ vịnh sử của nhà Nho đời Minh là Tiên Tử Nghĩa. Các từ thần là Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận phụng bình. Thơ đều làm theo thể ngũ ngôn tuyệt cú.”2 Châu cơ thắng thưởng 珠 璣勝賞 như tên của nó là những vần thơ châu ngọc được viết khi du ngoạn cảnh núi sông danh thắng của đất nước, như chùa Sài Sơn, núi Chiếu Bạch, động Long Quang,... gồm 20 bài. Văn minh cổ xúy 文明鼓吹 là tập thơ Lê Thánh Tông cùng các hoàng tử và triều thần viết3nhân dịp về bái yết sơn lăng, viếng thăm lăng mộ hoàng tộc để tỏ lòng hiếu kính tổ tiên, cầu cho quốc thái dân an. Xuân vân thi tập春雲詩集 là một tuyển tập các tác phẩm thơ của Lê Thánh Tông, không biết có phải được tập hợp ngay khi tác giả còn sống hay không. Nhưng theo Phan Huy Chú khen thì tập thơ này “bài nào cũng có khí khái mạnh mẽ, lời ý bay bướm.”4 Ba tập thơ sau cùng đến nay đã không còn. Tuy nhiên, qua nhiều cổ thư khác như Đại Việt sử ký toàn thư, Toàn Việt thi lục, Thiên Nam dư hạ tập, Hoàng Việt thi tuyển,... thì Lê Thánh Tông còn khoảng 150 bài không thuộc các tập thơ trên. Số lượng tác phẩm thi văn của Lê Thánh Tông thực tế có thể còn nhiều hơn, nhưng còn lại đến nay chỉ có khoảng 350 bài5.
Văn chữ Hán Lê Thánh Tông còn để lại khá phong phú với khoảng hơn 40 sắc phong, chỉ dụ. Nhất là tập truyện Thánh Tông di thảo 聖宗遺草 với gần 20 truyện ngắn.
Ngoài thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông còn có khá nhiều thơ Nôm, tập trung chủ yếu trong Hồng Đức quốc âm thi tập 洪 德國音詩集. Hiện vẫn chưa có con số thống kê chính xác các bài thơ Nôm của ông. Nhưng bài văn Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn 十戒孤魂國語文 có thể coi là bài văn biền ngẫu có giá trị bậc nhất của thế kỷ XV.

Các sách thời Hồng Đức
Là một mẫu điển hình nhất của người hành đạo nhập thế, Lê Thánh Tông hơn ai hết ý thức được việc phải biên soạn lịch sử với tư cách là những công cụ để nối liền đạo thống. Bộ Đại Việt sử ký toàn thư có thể coi là một sản phẩm của Nho học thế kỷ XV. Bộ sách này do sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn theo chỉ dụ của Lê Thánh Tông năm 1479. Để biên soạn được bộ sử này, hoàng đế đã nhiều lần xuống chiếu sưu tầm tư liệu, sách vở và dã sử dân gian. Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn có chép về việc này như sau: “Hồi đầu Quang Thuận, hạ chiếu tìm tòi các dã sử, thu thập những truyện ký cổ kim còn chứa ở tư gia, hạ lệnh cho đem dâng lên tất cả. Khoảng năm Hồng Đức, nhà vua lại hạ chiếu cầu những sách còn sót, lại đem chứa cất ở bí các. Trong dịp này, có người đem dâng những sách lạ, sách bí truyền, đều được khen thưởng nhiều.”6 Có thể coi, đây là những hoạt động xây dựng kho tư liệu sử liệu dân tộc đầu tiên sau thời thuộc Minh. Từ kho sử liệu này, Ngô Sĩ Liên đã biên soạn nên cuốn sử ký của triều đại mình. Cụ thể là, ông đã dựa vào truyền thuyết và các dã sử để biên soạn phần Ngoại kỷ - đây cũng là lần đầu tiên lịch sử của Đại Việt được kéo dài thêm 2000 năm từ đời Hồng Bàng đến nhà Thục Triệu, đến nhà Ngô. Ở các phần Bản kỷ(10 quyển, từ nhà Đinh đến Lê Thái Tổ), Ngô Sĩ Liên dựa vào hai bộ chính sử có trước đó là Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu và Sử ký tục biên của Phan Phu Tiên rồi tiếp tục bổ sung sử liệu mới, phê phán đúng sai, sửa sang chau chuốt lời văn cũng như thêm phần lời bàn. Bộ sách được viết theo thể thức biên niên, gồm 15 quyển. Đây là bộ sử quan phương còn lại đến nay, được coi là bộ sử có giá trị nhất, có quy mô hệ thống nhất theo quan điểm thời bấy giờ.
Thiên Nam dư hạ tập 天南餘暇集 là bộ sách lớn nhất do Lê Thánh Tông chủ biên sai các văn thần như Đỗ Nhuận 杜 潤, Nguyễn Trực 阮 直 biên soạn vào năm 1483. Sách được biên soạn theo loại sách hội yếu, thông điển, gồm 100 quyển ghi chép đầy đủ các chế độ, luật lệ, văn thư, điển lệ, các giấy tờ văn thư hành chính (như chiếu, dụ, cáo, sắc...). Hiện nay, bộ sách đã tàn khuyết gần hết, chỉ còn lại 10 tập chép tay viết về các mảng quan chế, điều luật, bản đồ, sớ văn; Thơ, văn, điển lệ, điều luật, chinh chiến, quan chức, thiên văn, địa lí, lịch sử… của nhà Lê, từ Lê Thánh Tông trở về trước. Cụ thể như sau: 1. Điều luật và Quan chế (A.334/1 – 10)7; 2. Bình thi văn (A.334/2); 3.Liệt truyện, Tạp thức (A.334/3); 4.Khảo sử (A.334/4)8; 5.Thi tập; Đối liên (A.334/5); 6.Phú tập (A.334/6); 7.Thi tiền tập; Chinh tây kỉ hành; Minh lương cẩm tú và Quỳnh uyển cửu ca (A.334/7 và VHv.1313/a); 8.Chinh Chiêm Thành sự vụ; Chinh Tây kỉ hành (A.334/8); 9.Điển lệ; Phú tập (A.334/9); 10.Thiên hạ bản đồ; Quan chế (A.334/10). Ngoài ra còn thấy chép cả một số tác phẩm của Lê Thánh Tông bài Lam Sơn lương thủy phú, bài văn tế Nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. Theo đánh giá của Bùi Duy Tân: “Thiên Nam dư hạ tập là bộ tùng thư hội điển quy mô bậc nhất thời Trung đại. Sự xuất hiện của bộ sách thể hiện ý thức xây dựng điển chương chế độ cho một đất nước có văn hiến của Lê Thánh Tông và các văn thần thời Hồng Đức.”9
Ngoài ra, những năm thuộc niên hiệu Hồng Đức đời Lê Thánh Tông còn biên soạn và bàn hành hai bộ sách khác là Lê triều quan chế 黎 朝 官 制 (6 quyển, ghi Chế độ quan chức triều Lê, gồm quan tước, phẩm trật, thể lệ tuyển bổ, phong tặng, tập ấm v.v.) và Sĩ hoạn châm quy (đã mất?). Ba bộ sách về hệ thống luật pháp, điển chế trên có lẽ ít nhiều tiếp thu bộ Hình thư (6 quyển) do Nguyễn Trãi san định vào năm Đại Bảo triều Lê Thái Tông (1440-1442). Và cả bốn bộ này lại là cơ sở cho các sách hình luật được biên soạn các đời vua sau đó như Trị bình bảo phạm (1 quyển, 50 điều) đời vua Lê Tương Dực (1509-1516), Quốc triều điều luật (6 quyển) năm Cảnh Hưng thứ 30 (1769), Khám tụng điều lệ(2 quyển) năm Cảnh Hưng thứ 38 (1777), Quốc triều thiện chính tập (7 quyển?), Thiện chính tục tập (8 quyển) chép chính lệnh từ sau đời Trung hưng đến năm Cảnh Hưng thứ 20 (1759).
Tập bản đồ thời Hồng Đức còn lại có Hồng Đức bản đồ 洪 德 版 圖, An Nam quốc Trung đô tịnh tam thập thừa tuyên hình thế đồ thư 安南國中都並三十承宣形勢圖書, An Nam địa chí 安 南 地 輿 志, Thiên hạ bản đồ 天 下 本 圖, Toản tập Thiên Nam lộ đồ thư纂 集天南路圖書 vẽ năm Hồng Đức 21 (1490),... gồm bản đồ toàn quốc, bản đồ Trung Đô (Thăng Long) và 13 bản đồ thuộc 13 thừa tuyên (Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thuận Hóa, Quảng Nam), trong đó có ghi rõ 49 châu, 181 huyện, 53 phủ, các núi, sông, thành trì, đường sông, đường bộ, đường biển. Trong số 49 bản đồ, có 14 bản đồ đời Lê10, trong đó phần đa đều tiếp thu từ bản đồ được vẽ vào thời Hồng Đức. Nhóm thứ nhất gồm các bản đồ hình thế, dùng cho việc quản lý hành chính hoặc học tập, như Bản quốc dư đồ, Bắc Kỳ các tỉnh toàn đồ... Ở loại bản đồ này, người vẽ thường quan tâm đến các chi tiết như cương vực, ranh giới các tỉnh, phủ, huyện, sông, biển, núi, thành trì, nơi đô hội...
Cuốn Hồng Đức niên lệ thể thức 洪德 年 例 體 式 là sách ghi thể thức các loại giấy tờ trình báo, cung khai, khám nghiệm, chúc thư, văn khế... và một số điều luật về bộ và hình thời Hồng Đức. Cuốn Hồng Đức thiện chính 洪 德 善 政ghi 76 điều luật của đời Hồng Đức về ruộng đất, nông tang, hôn nhân, chia gia tài, chúc thư, văn tự v. v. Cuốn Quốc triều Hồng Đức niên gian thư cung thể thức 國 朝 洪 德 年 間 諸 供 體 式 ghi thể thức lấy cung, làm giấy tờ, khám nghiệm và các điều luật về hình, hộ dưới thời Hồng Đức (1470 - 1479) như: cách xử phạt việc đánh người bị thương tích, việc người bị đánh chết sau 18 ngày, việc tranh chấp ruộng đất, việc xử vợ chồng không có con... Ngoài các thư tịch cổ nêu trên, triều Lê Thánh Tông cũng để lại số lượng lớn các di sản văn khắc, trong đó đáng kể đến các bia đề danh tiến sĩ tại Văn miếu tại Hà Nội, các văn bản thơ ma nhai, biển gỗ được in khắc ở nhiều nơi như Hòa Bình, Hải Dương, Lai Châu, Hà Tây, Quảng Ninh,... Các sắc phong cổ thời này cũng được ghi chép tản mát trong nhiều thần tích, thư tịch địa bạ, cổ chỉ, xã chí khác, và đến nay chưa có ai thực hiện việc sưu tầm thống kê toàn bộ.
=

http://www.lyhocdongphuong.org.v ... anh-tong-ky-2-2807/

Tác giả: nhimxu0984    Thời gian: 6-8-2013 12:13 AM
KHẢO VỀ VĂN HIẾN ĐẠI VIỆT QUA TRƯỜNG HỢP HOÀNG ĐẾ LÊ THÁNH TÔNG - KỲ 3


Không chỉ thực hiện những chính sách ngôn ngữ văn tự phù hợp với bối cảnh lịch sử của đất nước và tình hình văn hóa của khu vực, điều đáng nói hơn là Lê Thánh Tông và các triều thần thi nhân của mình đã tiến hành thành công một cuộc cải cách về ngôn ngữ thơ ca thế kỷ XV.
Về văn tự
Từ thời Lý Trần cho đến thời Lê Thánh Tông, Đại Việt sở dĩ đã được coi là nước văn hiến bởi lẽ các triều đại này đã thực hiện những chính sách ngôn ngữ văn tự phù hợp với bối cảnh lịch sử của đất nước và tình hình văn hóa của khu vực.
Đến triều Lê Thánh Tông, Đại Việt vẫn sử dụng chính sách song ngữ (tiếng Hán và tiếng Việt) và tam văn tự (chữ Hán, chữ Sancrit và chữ Nôm). Tuy nhiên, có sự phân chia khả năng hành chức cho từng ngôn ngữ và các hệ thống chữ viết. Tiếng Hán (chữ Hán) được coi là ngôn ngữ của nhà nước, ngôn ngữ quan phương dùng cho việc quản lý hành chính (công văn giấy tờ), ngoại giao với khu vực, ghi chép lịch sử, văn học, tôn giáo và khoa cử. Tiếng Việt và chữ Nôm được coi là tiếng bản ngữ và văn tự bản sắc, dùng để giao tiếp thường nhật (kể cả khi thiết triều?)1. Đây đồng thời là công cụ giao tiếp giữa triều đình với các cấp quản lý phía dưới và với dân chúng. Và quan trọng nhất, nó là công cụ giao tiếp chính thức của toàn bộ cộng đồng cư dân Việt.
Tuy nhiên, xét ở khía cạnh kiến tạo văn hiến, Lê Thánh Tông có đóng góp lịch sử nhất định ở phương diện này. Ông là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử, đưa chữ Nôm và ngôn ngữ bản địa (tiếng Việt) vào sáng tác thơ ca cung đình. Tập thơ Nôm lớn nhất thế kỷ XV - Hồng Đức quốc âm thi tập (HĐQATT) có thể coi là một kho tàng về ngôn ngữ tiếng Việt cổ thế kỷ này. Tập thơ là những sáng tác thơ Đường luật của Lê Thánh Tông và triều thần với nội dung khá phong phú, gồm ba trăm hai mươi tám bài (328) với độ dài văn bản là 18368 lượt chữ (so với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi có hai trăm năm tư (254) bài với độ dài văn bản là 14224 lượt chữ).

Cải cách ngôn ngữ dân tộc
Điều đáng nói hơn nữa là Lê Thánh Tông và các triều thần thi nhân của mình đã tiến hành thành công một cuộc cải cách về ngôn ngữ thơ ca thế kỷ XV. Nhiều người vẫn coi Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là một đỉnh cao không thể vượt qua. Từ định kiến đó, một số ý kiến coi HĐQATT là một sự “giậm chân tại chỗ” hay là “vệt kéo dài” của ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi đầu thế kỷ XV. Chúng tôi cho rằng, quan niệm như vậy xuất phát từ mục đích nghiên cứu của giai đoạn đó: đề cao tuyệt đối thơ Nguyễn Trãi để làm nổi bật tính nhân dân, tính dân tộc của tác phẩm, hạ thấp thơ văn cung đình của triều thần vua tôi Lê Thánh Tông để phê phán những tệ lậu của chế độ phong kiến.
Thực tế, Lê Thánh Tông đã tạo ra một đỉnh cao khác về ngôn ngữ nghệ thuật vào thế kỷ XV. Đỉnh cao này đã được ông chuẩn bị một cách bài bản và học thuật2. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập hàng loạt các thủ pháp tu từ mới đã được thiết lập.
Lần đầu tiên, lối ngôn ngữ thơ cảm giác được hiện thực hóa bằng cách sử dụng các từ láy thuần Việt. Các từ láy tập trung với mật độ dày đặc, để tạo nên những hiệu ứng đa chiều từ tất cả các giác quan:

Rỡ rỡ cửa vàng ngày Thuấn rạng Làu làu phiến ngọc lịch Nghiêu phân Cao vòi vọi ngôi hoàng cực Khắp lâng lâng phúc thứ dân(Nguyên đán)

Cũng lần đầu tiên các từ láy đi đôi với lối điệp từ để tạo sóng âm:
Mặt làu làu, vóc thỏ thanh thanh Tròn tròn, méo méo in đòi thuở Xuống xuống, lên lên suốt mấy canh Tháng tháng liếc qua, lầu đỏ đỏ Đêm đêm liền tới, trướng xanh xanh

Theo thống kê của Vương Lộc, số lượng từ láy trong HĐQATT lên đến ba trăm bảy mươi lăm (375) đơn vị3, ví dụ như: chạnh chạnh, cạy cạy, chấp chảnh, chắm chắm, êu ếu, dặng dặng, kềnh kềnh, lam am, lom om, năm nắm, nghể ngái, tha la, xun xoăn, lởm thởm,… Kỹ thuật này sau đó đã trở thành một thủ pháp quen thuộc rất hay được các chúa Trịnh sử dụng trong các tập thơ Nôm Ngự đề Thiên hòa doanh bách vịnh, Lê triều ngự chế quốc âm thi, Kiền nguyên ngự chế thi tập. Truyện Kiều cũng không ít lần sử dụng biện pháp tu từ học này, ví dụ như: trông vời bạt lệ phân tay, góc trời thăm thẳm, ngày ngày đăm đăm…
Lê Thánh Tông cũng là người đầu tiên đưa ngôn ngữ dân gian vào hoạt động sáng tạo nghệ thuật cung đình. Thực ra, dùng các ngữ liệu của văn học dân gian vào việc sáng tác thơ Đường luật đã bắt đầu thấy từ Nguyễn Trãi. Nhưng thơ Nguyễn Trãi là thơ ở ẩn; dân dã cũng là có lý do khách quan và chủ quan riêng của nó. Còn thơ trong HDQATT thì cái dân dã ấy, cái dân gian ấy lại bắt nguồn từ ý định nghệ thuật chủ quan. Đáng nói hơn, đó là nhận thức của một vị vua “sùng Nho chuộng Chữ” như Lê Thánh Tông. Nhận thức ấy của ông đã truyền sang cho cả các Nho thần tài hoa của mình, ví dụ những câu như: mướp đắng khen ai đổi mạt cưa, hay chớ chơi chống bỏi trẻ xem khinh, hay Kìa ai vẽ rắn sự còn gương.
Không những thế, Lê Thánh Tông và các hiền thần của mình còn ý thức một cách sâu sắc về việc tận dụng từ vựng thuần Việt và hạn chế một cách tối đa các từ Hán Việt trong thơ của mình. Theo thống kê của Bùi Duy Tân, từ thuần Việt trong HĐQATT chiếm hơn 70% (khoảng 2400 từ), từ Hán Việt chiếm 30% (khoảng 1000 từ)4. Số liệu này càng có ý nghĩa khi chúng ta biết trong tiếng Việt hiện đại, từ vựng gốc Hán chiếm đến 70% đến 80%. Ví dụ:
Sông trăng lạt vẻ sao thưa, Gác cũ, rêu đầy, lấp dấu thơ. Mưa tạnh, hoa sầu, chiều lạt mạt, Xuân về, én thảm, tiếng u ơ. Đêm tàn, ruột thắt, hồn xơ xác. Gối chiếc, châu đằm, giấc ngẩn ngơ. Lá thắm, thơ bài, mong bắt chước, Nước xuôi, thơ ngược, biết bao giờ…? (Hoài viễn bài 16)

Bài thơ không có một từ Hán Việt song tiết nào, chỉ có 12 từ Hán đã gia nhập khá sâu vào tiếng Việt như: hoa, xuân, tạnh,chiếc, sầu, châu, hồn, mong, thảm, én, gác, thơ. Về mặt phong cách học, đây rõ ràng là một kỹ pháp khác hẳn so với đời sau, như trường hợp thơ Bà Huyện Thanh Quan với lối thơ đài các mà xa xăm kiểu “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Lần đầu tiên, kỹ xảo âm thanh được sử dụng như một phương pháp tạo nghĩa, tạo cảm giác. Cũng là lần đầu tiên, một tác giả viết tiếng Việt đã “hình dung khởi điểm về điều rằng tổ chức âm thanh là có nghĩa”5 và ý thức về “những lặp lại về nhịp điệu”6. Các kỹ thuật này tân kỳ đến mức, nói như Vương Lộc, “nếu lấy ra khỏi tập thơ, khó có thể nghĩ rằng nó đã được viết ra cách đây năm thế kỷ”7. Đến đây, người viết đột nhiên nhớ đến những câu kiểu như Thơ mới của Phạm Thái: “buồn đốt lò vàng hương nhạt khói, sầu nâng chén ngọc rượu không hơi” (thơ tế Trương Quỳnh Như). Nhưng cái ấn tượng về cách chơi chữ “nước xuôi> < thơ ngược” quả cũng khiến người đọc giật mình.

Lần đầu tiên, thơ Nôm Việt xuất hiện lối tư duy ngôn ngữ nghệ thuật theo hệ hình. Nhà thơ đã tổ chức bài thơ bằng cách thiết lập các phương trình đồng đẳng, để tạo nên những biểu tượng thơ đa chiều8:
Chín vạc đặt yên bằng núi Ai rằng sự chẳng đến muôn dân (Ông đầu rau)

Ba ông đầu rau (một vật rất đỗi dân gian) là đồ dùng để đặt nồi nấu nướng. Từ đó, Lê Thánh Tông đã đặt ra các hệ phương trình bất ngờ:
Ông đầu rau (dùng để đặt nồi) = ba chân vạc (của đỉnh, vạc) Muôn dân (nhờ đó mà nấu nướng) = trăm họ được nhờ

Mặt khác, tác giả cũng đã sử dụng lại một hệ phương trình biểu tượng song trùng khác trong truyền thống mỹ học của Nho gia:

Chín vạc = biểu tượng truyền quốc = tượng trưng cho giang sơn đất nước Nấu canh (trong vạc) = điều canh = chăn dân, vỗ trị quốc gia

Và phương trình bất ngờ nhất, thú vị nhất là:
ông đầu rau = người ở dưới khuông phò bách tính và xã tắc = Thừa tướng.

Nói như Nguyễn Phan Cảnh, thì Lê Thánh Tông ở đây đã thực hiện thao tác cơ bản nhất của hoạt động sáng tạo nghệ thuật: “tùy theo nội dung của tiêu chí lựa chọn để lập phương trình”9. Theo chúng tôi, đây là một trong những kỹ xảo thơ phức tạp nhất trong kho tàng văn học cổ của dân tộc. Biểu tượng ông đầu rau có lẽ cũng là hình tượng thơ độc đáo trong lịch sữ mỹ học Nho giáo. Điều đáng nói hơn nữa là lối tư duy ngôn ngữ này đã được Lê Thánh Tông sử dụng một cách triệt để, từ đó ông sáng tạo ra một thể loại mới. Đó là lối thơ vịnh vật- khẩu khí với hàng loạt các hệ hình như: thằng bù nhìn- tướng soái, con cóc- ông vua, quả dưa- hiền thần, đám khoai- gia tộc,…
Có thể nói, những đóng góp trên của Lê Thánh Tông về mặt ngôn ngữ dân tộc, cụ thể là ngôn ngữ nghệ thuật là không thể phủ nhận. Không những thế, những đóng góp ấy còn thể hiện ở một số mặt khác về mảng Hán văn Việt Nam trung đại, như bài viết sẽ bàn dưới đây.

Thiết lập khuynh hướng văn học Nho gia quan phương
Văn học Nho gia đã bắt đầu khởi phát từ đời các triều đại trước đó, và rõ nét nhất là trong thơ của một số tác gia cuối đời Trần. Thế nhưng thơ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh có hơi hướng xuất thế của người đi ở ẩn. Phải đến Lê Thánh Tông, xu hướng văn học Nho gia theo dòng chính thống mới thực sự xuất hiện, bởi cũng lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, vị chủ tao đàn nguyên soái lại chính là một hoàng đế thánh vương. Văn chương là một nhu cầu của đạo đức. Nghệ thuật là một cách để giáo hóa. Làm thơ là một hành vi chính trị. Nhà thơ Hoàng đế cũng là Nguyên soái của Tao đàn mà “các hội viên” không ai khác chính là đám Nho thần tài năng. Mục đích của thơ ca là hướng đến một trạng thái bình hòa của ổn định chính trị theo mẫu hình Đường Ngu Nghiêu Thuấn. Vua tôi cùng xướng họa để làm một cuộc hòa tấu bất tận về một nền đức trị lý tưởng. Niềm cảm hứng thơ ca đồng nhất với cảm hứng đạo đức. Đạo đức- thơ ca cùng vận hành với nhịp vận hành của vũ trụ và thời đại. Nói như John K. Whitmore, “giai đoạn này đã tạo ra nét riêng cho ba thập kỷ tiếp theo: vua ham văn chương, các nhà Nho trẻ tài giỏi; thơ ca và đạo Khổng.”10
Cái cộng cảm ấy là một thứ tình cảm đạo đức mà thời nay khó có thể tưởng tượng được. Niềm vui ngây ngất trong Quỳnh uyển cửu ca không hẳn là vì hai năm được mùa liên tiếp, mà bởi bản chất của hiện tượng: mùa màng bội thu là một phong vũ biểu “lấy vũ trụ để xác định chuẩn mực đạo đức.”11 Cho nên, Hồng Đức (đức cực lớn)- niên hiệu thứ hai ông dùng cho thời đại cai trị của mình, chính là một biểu hiện về bản chất của thể chế Nho giáo thời bấy giờ. Trong bài Quân minh thần lương, ông viết dâng lên Thái Tổ Cao Hoàng Đế rằng:

孝孫洪德承丕緒, 八百姬周樂治平。
Hiếu tôn hồng đức thừa phi tự
Bát bách Cơ Chu lạc trị bình
(cháu hiếu hồng đức nối cơ đồ lớn
Sẽ vui với cảnh trị bình như tám trăm năm nhà Chu)

Thực chất, Lê Thánh Tông muốn nói rằng: ông đang được thừa hưởng cái đức lớn của tổ tông để lại (đức ấm). Hành động “tự tu, tự tỉnh” của cá nhân được chuyển đổi thành “đạo đức tông tộc.” Công lao cá nhân khởi nguồn từ công nghiệp của tổ tiên.
Hơn thế nữa, “thiên đức” đã nhất thể hóa với “tổ tông chi đức”, để trở thành một thực thể siêu hình tối thượng đang hiện thực hóa qua hành động “thay trời hành đạo” của bậc thiên tử. Cho nên, Thân Nhân Trung có lần mới họa lại rằng:

格天帝德妙全能 協應休徵百榖登
Cách thiên đế đức diệu toàn năng
Hiệp ứng hưu trưng bách cốc đăng
(tiếp được với trời, đức của nhà vua mới diệu kỳ toàn năng Phúc lành ứng hợp, tỏ rõ ra ở việc mùa màng bội thu)

Trời cảm ứng với đức của người cầm quyền sẽ tạo ra những điềm lành (hưu trưng). Nhà vua là người “thông linh” bằng những nghi lễ cúng tế thần, đó là các nghi lễ “báo cáo đạo đức” chứ không phải là “báo cáo chính trị”. Lần đầu tiên trong lịch sử Đại Việt, thơ ca- đạo đức- chính trị hòa làm một. Cảm hứng nghệ thuật- xúc cảm đạo đức thiêng liêng và ý thức trách nhiệm chính trị đã nhất thể hóa một cách tuyệt đối
Lê Thánh Tông đã gây dựng nên cả một triều đại thi ca. Các Nho thần văn sĩ trẻ trong triều đều do chính tay ông tuyển chọn. Vua cùng các hoàng tử và các quan trong Hàn lâm viện và Đông các nhiều lần xướng họa. Con số các tác giả trong triều của ông còn lại tác phẩm đến nay cỡ khoảng 70 người, số lượng nhiều hơn hẳn các văn thần trong Tao đàn nhị thập bát tú. Lần đầu tiên trong lịch sử, vua tôi đã có sự cộng cảm và tiến hành các sáng tác tập thể.
Trong bài tựa Quỳnh uyển cửu ca (năm 1494), chính nhà vua đã viết: “ta nhân lúc muôn việc được rỗi, nửa ngày được nhàn, thường xem các sách, vui thích lục nghệ, mọi sự huyên náo lắng xuống, một ngọn đèn sáng thơm tho, thị dục ít, tinh thần trong sáng, ở yên hứng cao, mới phấn khởi nghĩ đến khuôn phép lớn của thánh đế minh vương, lòng cẩn thận của trung thần lương bật. Gọi chàng “giấy”, họ “bút”, thượng khách “mực”, trọng thần “nghiên đá”, bảo đi bảo lại rằng: chân tình ta phát triển ra, có anh khí dào dạt, thành cách ngôn hay. Các ngươi có thể ghi chép giúp ta được không?” Đây có thể coi là những lời tự sự chân thành hay một nét chân dung tạ họa của ông ở cạnh khía này.

Sáng tạo thể tài thơ Nôm vịnh sử dân tộc là một đóng góp nữa ở mặt văn chương của Lê Thánh Tông.
Vịnh sử là một thể thơ chức năng của Nho giáo nhằm nêu lên những bài học của tiền nhân và khuyến giới cho người hành đạo, học hỏi quá khứ để áp dụng cho thực tiễn hiện tại. Từ trước Lê Thánh Tông, thơ vịnh sử chỉ nằm gọn trong giới hạn của thơ chữ Hán. Tập thơ Cổ tâm bách vịnh của Lê Thánh Tông- tập thơ vịnh Bắc sử cũng nằm trong lối đi cũ như vậy. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Lê Thánh Tông cùng quần thần đã tạo nên một bước phát triển mới. Cái mới và cũng là đóng góp của Lê Thánh Tông đối với văn học và văn hiến Đại Việt được thể hiện ở hai mặt: (1) đưa thể tài vịnh sử vào việc sáng tác thơ Nôm, (2) chú trọng vịnh các nhân vật lịch sử của Đại Việt. Đúng như Bùi Duy Tân đã phát hiện “chỉ đến thời Lê Thánh Tông mới xuất hiện lối thơ vịnh Nam sử và viết bằng chữ Nôm. Lê Thánh Tông là người đầu tiên dùng chữ Nôm vịnh nhân vật lịch sử dân tộc, mở đường cho sự xuất hiện một lối thơ rất độc đáo và rất phong phú về cảm hứng dân tộc, cảm hứng nhân văn trong văn học trung đại Việt Nam”12 . Đây có thể coi là sự dung hội hợp lý giữa quan niệm thẩm mỹ Nho gia với mục đích phát triển của dân tộc. Bài học lịch sử và bài học đạo đức không gì hùng hồn hơn, thiết thực hơn bằng cách chiêm nghiệm qua chính các nhân vật lịch sử của đất nước mình.
Như trên đã nói, chức năng của thơ vịnh sử là nêu lên những bài học theo tiêu chuẩn của Nho gia. Đó có thể là bài học về khí tiết, về đạo đức, về phẩm hạnh, về tài năng, về sự nghiệp trị bình. Thơ Nôm Lê Thánh Tông còn có đóng góp nữa, đó là “thể hiện cảm hứng lịch sử qua việc đề cao nhân cách văn hóa của danh nhân đất Việt.”13 Hơn thế nữa, ông còn vịnh cả... bề tôi của mình. Đây cũng là hiện tượng ít thấy trong lịch sử Nho giáo cũng như văn học dân tộc. Bài vịnh về trạng nguyên Nguyễn Trực có thể coi là “một kiểu vinh danh rất mới” của ông:

Nối dòng thi lễ nhà truyền báu Tranh giải khôi nguyên bảng chói vàng

Còn đối với trạng nguyên Lương Thế Vinh, ông đã có những câu thơ “huyền thoại hóa” vị hiền thần của mình:

Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua
Gióng khách tiên đành kíp tới nhà
Cẩm tú mấy hàng về động ngọc
Thánh hiền ba chén ước hồn hoa
Khí thiêng đã lại thu sơn nhạc
Danh lạ còn truyền để quốc gia
Khuất ngón tay than tài cái thế
Lấy ai làm trạng nước Nam ta

Có thể nói, ở khía cạnh văn học sử, Lê Thánh Tông đã mở rộng nguyên mẫu của thể tài thơ vịnh sử. Ở khía cạnh ngôn ngữ, ông đã mở rộng biên độ chức năng của thơ Nôm, hơn nữa là của tiếng Việt. Thơ Nôm Lê Thánh Tông là “sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố Nho giáo tích cực và tinh thần dân tộc tự chủ về mặt văn hóa”14. Đó là những đóng góp không thể phủ nhận được.

Thơ Nôm đề vịnh phong cảnh Đại Việt
Đầu thế kỷ XV, thơ Nôm Nguyễn Trãi chủ yếu là lối thơ trữ tình, với những biểu trưng ước lệ của Nho giáo, với trúc quân tử, tùng đống lương, mai ẩn dật, lan giấu hương. Lê Thánh Tông là người đã “giải truyền thống” lối diễn đạt ấy bằng cách đưa những vấn đề của bản địa vào thơ. Thơ ông tràn ngập các địa danh của đất nước Đại Việt. Không những thế ông tỏ ra có một ý thức rõ rệt về vấn đề cương vực địa lý, về “Nam quốc”, “Nam thiên”. Có thể nói như Yves Lacoste, đằng sau những bài thơ vịnh phong cảnh là cả “một tầm vóc lịch sử”15.
Kinh lịch khắp các nơi trên lãnh thổ của mình, Thiên Nam động chủ là người có nhiều cảm xúc hơn cả, và có nhiều ý thức về lãnh thổ quốc gia về hơn ai hết. Kia sông Bạch Đằng, nọ núi Song ngư, đó cửa Thần Phù, nữa chùa Trấn Quốc. Nhìn ngắm giang sơn, nhà thơ vẫn đọc trong đó những bài học lịch sử và niềm tự hào về chiến công hiển hách của cha ông:

Leo lẻo doành xanh nước tựa dầu
Trăm ngòi ngàn lạch chảy về chầu
Rửa không thảy thảy thằng Ngô dại
Dịa mọi lâng lâng khách Việt hầu
Nọ đỉnh Thái Sơn rạnh rạnh đó
Nào hồn Ô Mã lạc loài đâu
Bốn phương phẳng lặng kình bằng thóc
Thong thả dầu ta bủa lưới câu
(Bạch Đằng giang)

Đôi câu thơ kết của bài thơ là một cái lạ. Tự hào về đất nước với tư cách là vị quân chủ mà không chút kiêu căng, cái tư thế thanh thản buông câu trên dòng sông chiến địa có phần nào mang dáng dấp của một thi nhân minh triết.

Thơ Nôm khẩu khí
Như trên đã đề cập đến thơ Nôm khẩu khí từ góc độ của ngôn ngữ hệ hình. Ở đây, chúng ta còn thấy loại thơ này còn là một đóng góp của Lê Thánh Tông về mặt giọng thơ. Giọng thơ là điều hiếm thấy trong bối cảnh văn hóa trung đại, khi quan niệm mỹ học thời này là việc “giả giọng truyền thống” với các định hướng sáng tác là “nghĩ cổ, tập cổ, hoài cổ”. Loại thơ này hầu che lấp con người cá nhân của chủ thể sáng tạo. Thế nhưng, giọng thơ của Lê Thánh Tông nổi lên như một hiện tượng độc đặc, đến mức nó là một trong những tiêu chí quan trọng nhất để phân biệt nhà thơ này với các tác giả khác trong tập Hồng Đức quốc âm thi tập, đó là chất giọng đế vương, mà trước đến nay người ta vẫn thường định danh bằng cụm từ “thơ khẩu khí”16.
Thơ khẩu khí của Lê Thánh Tông lấy những vật tầm thường, nhỏ mọn làm đối tượng chính, từ những đồ gia dụng như bếp, cái rế, quạt, ấm đất, bù nhìn cho đến những con vật bình thường như gà, chó, kiến, cóc, rận, muỗi... Thấp thoáng sau những ẩn dụ là chất hóm hỉnh, hài hước, vừa thông minh dí dỏm nhưng cũng hết sức ý vị. Những vật bình dị thế kia nhưng khi qua ngòi bút của ông bỗng biến thành những nhân vật có tài ích đối với triều đình, xã tắc.

Mở đường Truyện thơ Nôm Đường luật
Truyện thơ Nôm là một sản phẩm độc đáo của văn hóa Việt Nam. Trước nay, phần đa công chúng chỉ biết đến các tác phẩm truyện thơ Nôm viết theo thể lục bát hay song thất lục bát được sáng tác khá muộn, quãng từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Thế nhưng trong Hồng Đức quốc âm thi tập có đến hai truyện thơ Nôm viết theo thể thơ Đường luật. Cấu trúc của mỗi truyện gồm nhiều bài thơ ghép lại với nhau theo trình tự tuyến tính thời gian của chuyện kể. Chuyện thứ nhất là Lưu Nguyễn gặp tiên với các tình tiết: hai chàng vào núi, gặp tiên nữ, tống biệt, và quay lại nũi cũ tìm người tiên. Chuyện thứ hai là chuyện Chiêu Quân cống Hồ(gồm 49 bài thơ Nôm Đường luật) với các tình tiết: nhà vua lên ngôi, xã tắc thái bình, vua cầu tôi hiền, vua kén cung nữ, Chiêu Quân nhập cung, Chiêu Quân được sủng ái, Chiêu Quân bị thất sủng, Chúa Hung Nô cầu hôn, Chiêu Quân bị cống sang Hồ, Chiêu Quân từ biệt vua và song thân, Chiêu Quân ở đất khách, oán trách quân vương, và tự tử. Về cấu trúc vĩ mô thì cả hai đều là các câu truyện có mở đầu và kết thúc trọn vẹn. Tuy nhiên, mỗi một khúc đoạn được thể hiện bằng một bài thơ Đường luật đồng thời cũng là một bài thơ độc lập, mang tính trữ tình. Vì vậy, đặc điểm lớn nhất của chúng là tính trữ tình- tự sự. Tự sự là cái cớ để tác giả thể hiện cái tình cảm của mình vào đó. Hơn hết lối kể chuyện với nhân vật thứ ba- người kể, đã khiến cho tác phẩm giầu sức cuốn hút hơn. Đây có thể coi là một sáng tạo nữa của Hồng Đức quốc âm thi tập.
Tạm thời, có thể đi đến nhận định rằng đây là hai truyện thơ Nôm Đường luật sớm nhất trong lịch sử17 mà đến nay còn lưu giữ được18. Dù rằng, đó có thể là sáng tác tập thể chứ không phải của Lê Thánh Tông. Đây là những sự kiện có ý nghĩa sâu sắc, rằng: 1.truyện thơ Nôm Đường luật là lối truyện thơ cổ xuất hiện trước, và có thể là tiền thân của các truyện thơ Nôm lục bát ở các thế kỷ sau. 2.truyện thơ Nôm là sản phẩm của các Nho sĩ bác học, xuất phát từ cung đình19.

Lê Thánh Tông với văn nôm biền ngẫu
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là bài văn tế Nôm được chép trong bộ Thiên Nam dư hạ tập do chính Lê Thánh Tông và các triều thần biên soạn. Tác phẩm gồm mười một đoạn, đoạn mở đầu và mười đoạn răn mười loại cô hồn: thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu, nho sĩ, thầy thiên văn địa lý, lương y, tướng quân, hoa nương, thương cổ (lái buôn), đãng tử (kẻ lang thang). Tác phẩm viết theo lối văn biền ngẫu. Mười đoạn sau đều kết thúc bằng một bài kệ theo thể thất ngôn bát cú, đôi chỗ pha lục ngôn. Toàn bài văn tế xấp xỉ bốn trăm câu văn, câu thơ. Cùng với bài thệ văn của Lê Lợi, đây có thể coi là hai áng văn Nôm cổ còn lại của thế kỷ XV.

Mặt mũi vẻ vang,
Chân tay rún rẩy.
Sắm của ăn, lo của mặc;
Săn mớ thuốc, sắp mớ rau.
Khoét móng chân, vẹn mẽ đồng tiền;
Nhổ lông mũi, bương đầu cái nhíp...
Để trễ việc cửa việc nhà;
Lo lắng đánh đàn đánh đúm.
Thăm tìm quán khách, chơi bời dại nguyệt dại hoa;
Đủng đỉnh cầu đình, lơ lửng đứng đường đứng sá...
Hỡi ôi!
Sống bởi chưng ở nết ỡm ờ,
Thác cho phải nên thân đói khát...

Văn tế là thể loại giao thoa giữa Phật giáo với quan niệm tín ngưỡng của người Việt. Văn tế cô hồn có xuất phát từ văn hóa Phật giáo. Bùi Duy Tân cho rằng bài này đã dựa vào khoa Mông sơn thí thực - một loại văn “thỉnh âm hồn” thường dùng trong tết trung nguyên, dùng để cúng các cô hồn20. Dân gian có câu: tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân. Một số nhà nghiên cứu coi đây chỉ là một bài văn để giáo huấn theo tư tưởng chính thống chứ không phải là mục đích nhân đạo theo tinh thần tư bi bác ái của Phật giáo. Song, chúng tôi cho rằng không hẳn như vậy. Đây có lẽ là bài văn tế được soạn ra nhân dịp tiết trung nguyên để tuyên đọc trong một đại lễ cúng cô hồn của triều đình. Điều này chứng tỏ rằng, Lê Thánh Tông chỉ bài Phật trên phương diện mô hình nhà nước và quản lý xã hội. Tức là ngay ở thời kỳ thịnh trị nhất của Nho gia- thời được coi “độc tôn Nho thuật”, Phật giáo vẫn tồn tại với những chức năng cứu rỗi tâm linh ngay trong tầng lớp phía trên của xã hội. Nhập triều vẫn là Nho. Nhưng trong các mối quan hệ khác, các tôn giáo “khác mối” (dị đoan) vẫn hành chức như thường. Điều này có thể thấy rõ qua những ghi chép về Lê Thánh Tông qua Đại Việt sử ký toàn thư, ông cùng từng có quan hệ với giới tăng lữ và đạo lưu và viết khá nhiều thơ văn cầu đảo.
Tuy nhiên, điểm đặc biệt đáng nói đến của bài văn tế chính là hơi hướng Nho giáo của nó. Người chủ đàn tế chính là đương kim hoàng thượng. Cúng cô hồn là cúng xá tội vong linh. Nhưng các vong linh ấy vẫn là bề tôi, là thần dân của ông. Cho nên, bài văn tế ngoài chức năng cứu rỗi siêu thoát, còn mang tính chất giáo giới, khuyến trừng. Lê Thánh Tông đã mượn lời răn cô hồn để giáo huấn người sống21, mượn Phật lễ để nói về lễ nhà Nho:
Mừng hội công danh;

Đua tài văn võ.
Chĩnh chện áo dài đai rộng;
Nghênh ngang đòng cả mác dài...
Vào thì làm rường làm cột, khỏe chống miếu đường;
Ra thì nên ải nên thành, bền che phiên chấn...
(Giới quan liêu)

Qua bài văn, tác giả đã phần nào phác ra được những hiện thực của xã hội thế kỷ XV. Đó là “sứ điệp văn nghệ lời Việt” (chữ của Thanh Lãng)22. Bài Thập giới cô hồn quốc ngữ văn là áng văn tế cổ nhất, là đóng góp nữa của Lê Thánh Tông về mặt thể loại23.

Thánh tông di thảo - tập truyện truyền kỳ đầu tiên của văn học trung đại
Thánh Tông di thảo là tập truyện do Lê Thánh Tông sáng tác, được người đời sau tập hợp và chép lại. Cuối mỗi truyện đều có lời bàn của Sơn Nam Thúc. Tập truyện này gồm có mười chín truyện ngắn và một truyện phụ lục. Tập truyện này lấy những dữ kiện lịch sử xã hội thời chống Minh và thời Lê Thánh Tông, ngoài ra còn tiếp thu những truyện dân gian. Về mặt loại hình, thì tập truyện bao gồm các thể loại truyền kỳ, truyện kỳ ảo, truyện ngụ ngôn và tạp ký. Tập truyện này được đánh giá là “bước tiến rõ rệt của văn tự sự truyện ký từ chỗ nặng về ghi chép sự tích cũ đến chỗ hư cấu, phóng tác những truyện mới.” 24
Văn xuôi trung đại Việt Nam trước Thánh Tông di thảo có ba tác phẩm. Việt điện u linh là tập thần tích với bút pháp thần thoại.Thiền uyển tập anh chỉ là những ký chép về hành trạng các thiền sư, phả hệ các dòng thiền, Có thể coi đây là hai tác phẩm thiền phả, ít nhiều có tính chất văn học. Tác phẩm thứ hai là Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh thì đơn thuần là sưu tập truyện dân gian. Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái là hai tác phẩm thuộc thể loại chí quái. Phải đến Thánh Tông di thảo mới có những “bước đột khởi của thể loại”25 (chữ của Vũ Thanh).
Thoát khỏi folklore và sử ký, Thánh Tông di thảo lần đầu tiên chạm đến ngưỡng của sự sáng tạo bằng các thủ pháp nghệ thuật. Lần đầu tiên, truyện ngắn trung đại xuất hiện nhân vật thứ ba. Đó là tác giả- người kể chuyện. Người kể chuyện tham gia vào cấu trúc của tác phẩm với tâm trạng trữ tình: “ta ở địa vị Đông cung là bậc quý, sau này lên ngôi nam diện là bậc tôn, cả thiên hạ cung phụng một người, giàu sang còn gì bằng nữa? Tại sao chỉ nửa thuyền trăng tỏ, khúc địch véo von đã làm cho ta thay đổi, coi thường mọi vị trân cam không bằng một bầu mây nước. Nỗi lòng này do từ đâu?” (Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc). Và đây đó trong chuyện xuất hiện những đoạn miêu tả tâm lý nhân vật. Đây là “tiền đề cho những truyện ngắn tâm lý”26 của Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ vào thế kỷ XVI. Xuyên suốt toàn bộ tập truyện còn là những tình tiết hư cấu của tác giả trên cơ sở của truyền thuyết và truyện dân gian. Năng lực hư cấu của tác giả đồng thời cũng loại bỏ các thủ pháp truyền thống của văn xuôi lịch sử (sử ký). Các dữ kiện lịch sử có thật đã được tác giả “tiêu hóa” nhằm hướng đến một tác phẩm nghệ thuật thuần túy, điều này chứng tỏ truyện ngắn của Lê Thánh Tông đã “tách rời khỏi thế bất phân với sử học và triết học.”27 Thêm nữa, tác giả cũng đã sử dụng các yếu tố kỳ ảo như là một thủ pháp kỹ thuật nhằm tạo sự lôi cuốn cho chuyện kể, nhiều tình tiết đan xen như mơ như thực, như mộng như đời.
Những chuyện kể còn được mở rộng về mặt đối tượng phản ánh. Lần đầu tiên những hạng người rất bình thường (chứ không chỉ là thần, thánh, thiền sư) trở thành nhân vật chính của tác phẩm. Nói như Vũ Thanh, “sự đa dạng của đề tài được phản ánh, sự xuất hiện của những màu sắc mỹ học mới mẻ, việc hướng tới bản sắc nghệ thuật của thể loại, cũng như việc quan tâm đến cuộc sống, đến con người trong một ngòi bút đã bắt đầu tạo được những nét riêng biệt quý giá đã xác định vị trí quan trọng của Thánh Tông di thảo trong tiến trình phát triển của truyện ngắn Việt Nam trung cổ.”28

http://www.lyhocdongphuong.org.v ... anh-tong-ky-3-2808/
Tác giả: virgo_nhaycam    Thời gian: 6-8-2013 12:15 AM
KHẢO VỀ VĂN HIẾN ĐẠI VIỆT QUA TRƯỜNG HỢP HOÀNG ĐẾ LÊ THÁNH TÔNG - KỲ 4


Trong các khía cạnh của sự nghiệp kiến tạo văn hiến, thì việc mở mang giáo hóa được coi là kế sách rất quan trọng cho sự phát triển bền vững của quốc gia. Lê Thánh Tông là vị vua đã kiến tạo nên một mô hình khoa cử hoàn bị, khiến cho khoa cử thời đại của ông đi đến sự hưng thịnh nhất trong lịch sử.

Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập Bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào năm 1484
Sự coi trọng khoa cử về bản chất là coi trọng người tài. Lê Thánh Tông là người nhận thức một cách sâu sắc về vị trí và vai trò của kẻ sĩ trong việc xây dựng thể chế theo mô hình Nho gia cũng như cho việc xây dựng một nền văn hiến của dân tộc. Tinh thần trọng học, chuộng tài ấy thể hiện một tầm nhìn chiến lược để Đại Việt phát triển về mọi mặt ở nhiều thế kỷ sau. Lê Thánh Tông đã sai Thân Nhân Trung sai soạn bài văn đề danh tiến sỹ của Khoa thi năm Đại Bảo thứ 3 (1442) để khắc lên bia đá dựng tại Văn miếu Quốc tử giám. Bài văn đã nêu lên một tư tưởng phổ quát cho mọi thời đại:
"Hiền tài quốc gia chi nguyên khí, nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long, nguyên khí nỗi tắc quốc thế nhược dĩ ô. Thị dĩ thánh đế minh vương mạc bất dĩ dục tài thủ sĩ, bồi thực nguyên khí vi tiên vụ dã."
賢材國家之元氣,元氣盛則國勢強以隆,元氣餒則國勢弱以污。是以聖帝明王莫不以育材取士培植元氣為先務也
(Hiền tài là nguyên khí của đất nước, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và vươn cao, nguyên khí suy thì thì thế nước yếu mà xuống thấp. Do đó, các bậc thánh đế, minh vương không ai không lấy việc đào tạo nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí làm việc quan trọng đầu tiên.).

Trạng nguyên Vũ Duệ trong bài văn sách cũng có ý kiến tương tự: “nhân tài không phát triển, không lấy gì để dùng, để giữ cương thường muôn thuở, khơi dẫn nguyên khí quốc gia”. Luận điểm trên đã nêu bật mối quan hệ tất yếu giữa người hiền tài với vận mệnh quốc gia trong tiến trình phát triển của đất nước.
Lê Thánh Tông thực sự đã thực hiện một cuộc cải cách triệt để về giáo dục và khoa cử Nho học. Thứ nhất là về giáo dục. Nếu như thời Lý Trần, giáo dục Nho học chỉ thu hẹp phạm vi tứ thư ngũ kinh, thì đến thời Lê Thánh Tông đã mở rộng thêm các sách khác như Ngọc đường văn phạm, Văn hiến thông khảo, Văn tuyển, cương mục1... Ngoài ra, ông còn cho xây dựng các kho sách công ngay tại từng phủ. Triều đình cũng thực hiện chính sách cấp học bổng cũng như lương học cho các sĩ tử khi còn đang đi học. Mỗi tháng, thượng xá sinh2 được 10 quan, trung xá sinh được 9 quan, hạ xá sinh được 8 quan. Đây là điều chưa từng có trong lịch sử khoa cử Nho học. Không những thế, các sĩ tử còn được học tập trong Nhà thái học (mà trước đó chỉ dành cho các hoàng tử). Kho Bí thư và các phòng ốc ăn ở cũng được xây dựng ngay trong khuôn viên để các sĩ tử tiện theo học. Không những thế, triều đình Lê Thánh Tông còn có chính sách bổ dụng các loại sĩ tử trên. Bộ Lại và học quan của Quốc Tử giám chiếu theo các chức còn khuyết mà bổ dụng theo từng cấp để khuyến khích nhân tài. Đây là vừa là chính sách khuyến học lại vừa là chính sách đào tạo nhân tài bằng cách “học nhi hành”. Sử dụng ngay trong quá trình đào tạo, và ngược lại đào tạo trong khi sử dụng. Lê Thánh Tông còn xuống Chiếu khuyến học3 và đích thân vi hành đến các học xá. Ông cũng cho đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, mỗi người chuyên trị một kinh để dạy học trò.
Lê Thánh Tông định khoa chế thi cử một cách quy củ từ thi Hương đến thi Hội. Năm 1462, ông định ra lệ thi Hương, cứ ba năm một lần. Đây là một bộ máy tuyển chọn nhân tài từ cấp cơ sở, nhằm chọn ra những sĩ tử xuất sắc nhất từ các địa phương. Thi Hương gồm có bốn kỳ: kỳ thứ nhất thi tứ thư ngũ kinh (5 bài), kỳ thứ hai thi thể loại (chế, chiếu, biểu, tứ lục), kỳ thứ ba thi thơ phú (thơ Đường, phú cổ thể và Ly tao) và văn tuyển, kỳ thứ tư thi văn sách (hỏi về kinh, sử và những vấn đề thời sự về trị quốc)4. Người trúng ba kỳ thi Hương được gọi là sinh đồ, trúng cả bốn kỳ được gọi là hương cống5. Trong đó, chỉ có hương cống mới được tiếp tục vào thi Hội. Trong suốt 37 năm với 12 khoa thi dưới triều Lê Thánh Tông, có khoảng 7000 sĩ tử đỗ sinh đồ, hương cống. Đây có thể coi là lượng nhân tài đông đảo nhất trong lịch sử, gấp sáu đến bảy lần so với tổng số sĩ tử của ba triều Lý- Trần- Hồ cộng lại6.
Thi Hội đời Lê Thánh Tông cũng được chuẩn quy với bốn kỳ giống như thi Hương. Tuy nhiên, cấp độ cao hơn rất nhiều. Các quan giỏi nhất, có uy tín nhất, có nhân cách nhất, giữ những chức vụ trọng yếu nhất trong triều mới được làm khám khảo. Vua đích thân ngự ở điện Kính Thiên ra đề văn sách ở kỳ tứ để hỏi về trị đạo. Đây cũng là hiện tượng đầu tiên trong lịch sử khoa cử Nho học. Về mặt thể lệ, trước đó, hễ ai đã vào đến thi Hội thì sẽ trúng cách; nhưng đến thời Lê Thánh Tông vua thân hành khảo xét nếu thấy không thực tài vẫn có thể bị xóa tên. Điều này chứng tỏ, Lê Thánh Tông rất coi trọng thực học. Từ chương thi phú kinh nghĩa suông thì vẫn không đủ, quan trọng nhất của một nhân tài là việc áp dụng lý thuyết Nho giáo vào những vấn đề thời sự của quốc gia. Tiêu chí này phần nào phù hợp với khái niệm trí thức hiện nay: trí thức phải là người “dấn thân” cho đời sống xã hội. Về bản chất, cuộc sách vấn giữa vua và sĩ tử trong thời Lê Thánh Tông là “cuộc hiến kế sách”7 của những trí thức Nho học đối với những vấn đề thời sự nóng hổi của triều đình, đất nước, là một cuộc sát hạch trình độ tư duy, khả năng vận dụng học thuyết đức trị của Nho giáo vào việc giải quyết những vấn đề của thực tế xã hội. Có khi sách vấn còn là một cách để Lê Thánh Tông thử Nho sĩ về khả năng phản biện xã hội, nhất là phản biện...chính đương kim hoàng thượng. Các sĩ tử khi thực hiện đối sách có khi phải thẳng thắn bàn đến nghĩa vụ của của quân vương, hay hình mẫu của ông vua lý tưởng. Như trạng nguyên Vũ Kiệt thì hình mẫu lý tưởng ấy là vị vua biết “dùng người hiền, cầu can gián, yên muôn vật, thương muôn dân, sùng Nho thuật...”8, ông hy vọng: “bậc thánh nhân làm việc không theo sự sáng suốt của riêng mình mà hợp với sáng suốt của thiên hạ, không theo tiêu chí của riêng mình mà hợp chí của thiên hạ”. Hay như trạng nguyên Vũ Duệ trong bài đối sách đã viết: “ba điều Trí- Nhân- Dũng là cái đức thông suốt trong thiên hạ, ý nói bậc làm vua phải sáng tỏ điều đó để trị nước.”
Văn sách đình đối thời Lê Thánh Tông còn bàn đến nhiều vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực xã hội khác như: sửa đổi phong tục tập quán, chống tham quan ô lại, vấn đề chống thiên tai, vấn đề ngoại giao, ổn định dân cư, củng cố quốc phòng, kinh tế sản xuất... Ví dụ, khi bàn về binh phòng quân sự, Vũ Kiệt viết: “sự nhiệm mầu của cơ biến, cách thức của việc bày bố dàn trận cũng không ngoài nhân nghĩa... đạo trị nước lo dùng đức giáo hóa sau mới dùng võ công...thần mong bệ hạ nắm chắc điều tín tất có uy quyền để khích lệ tướng sĩ,...lại biết lấy lễ để cố kết nhân tâm, lấy ân phủ dụ để bền chí quân sĩ...” Hay khi bàn về việc kinh tế, trạng nguyên Vũ Dương viết: “việc làm giàu mà không có nhân nghĩa trung chính ấy cũng không thể làm dân no, nước đủ chi dùng.” Các biện pháp đưa ra đều rất cụ thể, nhưng tựu chung vấn đề cốt lõi nhất để thực hiện và giải quyết các vấn đề ấy đều dựa trên học thuyết đức trị của Nho gia. Một điều đáng chú ý nữa là những người đưa ra kế sách, sau khi cập đệ liền được đưa vào bộ máy chính trị để thực hiện, thi hành chính những kế sách mà mình đưa ra. Đó là một trong những điểm tích cực nhất của khoa cử và giáo dục đời Lê Thánh Tông. Với 502 tiến sĩ9 và 9 trạng nguyên chọn lọc được trong số mười tám nghìn (18000) sĩ tử đương thời. Trong thời gian 38 năm trị vì (so với 845 lịch sử khoa cử), tức thời gian chỉ bằng 1/22, mà thời Lê Thánh Tông đã lấy đỗ 502 / 2896 tiến sĩ, tức tỷ lệ bằng 1/6 tổng số tiến sĩ, và 9/45 trạng nguyên tức là tỷ lệ bằng 1/5 tổng số trạng nguyên trong lịch sử10. Những trí thức Nho sĩ này đã góp phần tạo nên một phong khí học thuật lớn nhất trong lịch sử, góp phần quan trọng vào việc chấn hưng đất nước, xây dựng một nền văn hiến của cả một thời đại, tạo đà để văn hóa Đại Việt tiếp tục phát triển trong nhiều thế kỷ sau này.

http://www.lyhocdongphuong.org.v ... anh-tong-ky-4-2809/
Tác giả: nhimxu0984    Thời gian: 6-8-2013 12:23 AM
NHỮNG KHOA THI CUỐI CÙNG CỦA NHÀ NGUYỄN


Tác giả: Đinh Văn Niêm
Nguồn: www.bee.net.vn

Gia Long lên ngôi, tình hình chính trị xã hội còn rất phức tạp, nhưng việc học hành đã bắt đầu được quan tâm. Tháng 5/1802, bắt đầu bổ nhiệm quan chức học hiệu những vùng trọng yếu ở Bắc Hà. Tháng 9, đặt chức đốc học trấn Bắc thành.
Năm 1803, cho dựng nhà Đốc học ở Quốc Tử Giám, lập trường học theo hệ thống từ trấn, phủ, huyện, xã và quy định con em từ 8 tuổi trở lên vào tiểu học rồi đến học sách hiếu kinh, trung kinh; 12 tuổi trở lên học sách Luận ngữ, Mạnh tử rồi tới sách Trung dung, Đại học; 15 tuổi trở lên học Thi, Thư, sau học Dịch, Lễ, Xuân thu, học kèm Chư tử và Sử. Cấp lương tháng cho các quan dạy học.

Năm 1807, định phép thi Hương và thi Hội. Phép thi và danh vị những người thi đỗ vẫn theo quy chế nhà Lê. Gia Long mở được 3 khoa thi Hương vào các năm 1807, 1813 và 1819 lấy đỗ 256 hương cống và hơn 1.000 sinh đồ. Còn thi Hội chưa mở được khoa nào. Minh Mệnh lên ngôi năm 1821, mở Ân khoa thi Hương. Năm 1822, mở Ân khoa thi Hội. Năm 1825, Minh Mệnh xuống chiếu đổi danh sắc. Trước, người đỗ thi Hương gọi là hương cống nay đổi là cử nhân, người đỗ sinh đồ nay gọi là tú tài. Nhà Nguyễn theo luật tứ bất: không lấy trạng nguyên, không lập hoàng hậu, không phong tể tướng, không phong vương cho người ngoại tộc. Trong các khoa thi nhà Nguyễn không có danh hiệu đệ nhất giáp đệ nhất danh.
Năm 1829, Minh Mệnh cho lấy thêm danh hiệu phó bảng trong các kỳ thi Hội. Về quyền lợi đãi ngộ không bằng tiến sĩ nhưng việc bổ dụng vẫn được trọng thị.
Đến đời Vua Thiệu Trị, cứ 3 năm 1 khoa thi. Các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thi Hương. Các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thi Hội.

Thời Tự Đức còn có các khoa thi đặc biệt như năm 1851 vừa thi chính khoa xong lại mở thêm Chế khoa Cát sĩ. Các cử nhân, giám sinh Quốc Tử Giám, các giáo thụ, huấn đạo ở các phủ, huyện, các tiến sĩ, phó bảng chưa bổ nhiệm, các cử nhân, tú tài đều được dự thi. Khoa thi này khó hơn khoa thi tiến sĩ. Những người đỗ được ân chuẩn, đãi ngộ cao hơn.
Năm 1865, lại mở thêm khoa Nhã sĩ, những người đỗ được khắc tên vào bia tiến sĩ. Ân khoa tiến sĩ còn được mở thêm một khoa vào năm 1884 đời vua Kiến Phúc. Sau hiệp ước Patenotre 1884, triều Hàm Nghi, Đồng Khánh không mở được khoa thi nào. Thành Thái lên ngôi, khoa thi tiến sĩ lại được tiến hành đều đặn như thường lệ.

Những năm cuối triều Thành Thái, Duy Tân, những nhà nho nhiệt huyết Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Lương Văn Can, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đòi phải đề cao tân học, cải cách khoa cử để đào tạo nhân tài có thực học.
Những khoa thi cuối thời Duy Tân bị dư luận phê phán không còn là một khoa thi Nho học đơn thuần vì đã thêm kỳ thi tiếng Pháp và luận quốc ngữ. Những khoa thi dưới triều Khải Định càng bị dư luận phê phán là không hợp thời thế, các nhà khoa bảng ở giai đoạn này cũng thấy cần phải có một cuộc cải cách thi cử lớn mới mong đáp ứng vai trò kẻ sĩ với thời đại. Khoa thi Hội năm 1919 là khoa thi cuối cùng của lịch sử khoa bảng nước nhà.

http://www.lyhocdongphuong.org.v ... cua-nha-nguyen-347/
Tác giả: virgo_nhaycam    Thời gian: 6-8-2013 12:23 AM
THÀNH CỔ DIÊN KHÁNH - KHÁNH HÒA


Tác giả: Mộng Đắc
Nguồn: www.hoidisan.vn

Năm 1775, sau khi đánh bại quân Chúa Nguyễn, chiếm thành Diên Khánh, Nghĩa quân Tây Sơn đã lấy đây làm sở lị của dân Bình Khang. Vào năm Quý Sửu (1793), sau khi đánh thắng nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã cho xây dựng Diên Khánh thành một căn cứ vững chắc, một công trình vừa mang tính phòng thủ từ xa, vừa là trụ sở mang tính chính trị. Thành Diên Khánh chính thức xuất hiện từ đó. Ngày nay, thành cổ Diên Khánh nằm ở trung tâm huyện Diên Khánh, cách thành phố Nha Trang khoảng 10 km về phía Tây, bên phải Quốc lộ 1A.

Thành cổ Diên Khánh là một quần thể kiến trúc kiểu thành trì quân sự phổ biến ở Châu Âu thế kỷ 12-13. Nó nằm trên một vùng đất cao thuộc địa phận xóm Đông Môn, thị trấn Diên Khánh, xung quanh đắp đất, với tổng diện tích khoảng 36.000m2. Tường thành lục giác, dài 2.693m, 6 cạnh thông đều nhau, đắp bằng đất, cao gần 4m. Mặt ngoài gần như dựng đứng. Xưa, thành có 6 cửa nhưng nay có 2 cửa đã bị lấp bớt, 4 cửa còn lại được xây gạch kiên cố, trên có Vọng Lâu để quan sát. Mỗi cổng thành là một kiến trúc rộng khoảng 17m, cao 4.5m gồm 2 tầng với lối xây dựng hình vòng cung vừa bền, vừa chịu được áp lực từ trọng lượng của Vọng Lâu dồn xuống. Mái Vọng lâu lợp ngói âm dương, 4 đầu đao uốn cong như đầu thuyền. Phía ngoài thành có hào sâu thông ra sông Cái, vì vậy hào luôn luôn đầy nước. Chung quanh hào lại có luỹ tre bao bọc dầy đặc, cho nên thành luỹ tuy bằng đất nhưng lại rất kiên cố. Rễ tre giữ thành rất tốt, còn thân tre tạo thành một hàng rào phòng ngự chống lại đạn pháo từ ngoài bắn vào.
Với lối kiến trúc thành cao hào sâu, trên mặt tường thành và phía ngoài hào cây cối um tùm, thành Diên Khánh đã trở thành một cứ điểm quân sự quan trọng trong hệ thống phòng thủ của tỉnh Khánh Hoà trước kia. Theo các tài liệu lưu trữ và dấu tích còn sót lại thì bên trong thành Diên Khánh có nhiều công trình kiến trúc như: Hoàng cung (xây theo kiểu Điện Thái Hoà ở Huế), sân Chầu, dinh Tuần vũ, Án sát, Lãnh binh, Tham tri, nhà kho, nhà lao... rất kiên cố. Từ khi xây xong cho đến cuối thời Pháp thuộc, thành Diên Khánh là nơi đóng các quân đầu não địa phương của Triều Nguyễn và là một trung tâm kinh tế, văn hoá, chính trị của địa phương. Trong phong trào Cần Vương (1885- 1886), thành là tổng hành dinh của Nghĩa quân Khánh Hoà. Pháp đã nhiều lần nã pháo vào thành. Khi chiếm được, thực dân Pháp cho san bằng 2 mặt Bắc Nam. Thời kháng chiến chống xâm lược Pháp (1945-1954) thành Diên Khánh lại trở thành trụ sở của Bộ Tư lệnh Mặt trận Nha Trang. Dưới sự chỉ huy của Bộ Tư lệnh, quân dân Nha Trang, Diên Khánh đã phối hợp cùng nhau đánh thắng nhiều trận giòn giã trong cuộc chiến đấu 101 ngày đêm lịch sử, từ Cầu Mới Nha Trang đến thành Diên Khánh. Từ năm 1975 đến nay, thành Diên Khánh trở thành trụ sở của các cơ quan lãnh đạo huyện Diên Khánh.
Nói đến thành Diên Khánh, không thể không nhắc tới Văn Miếu Diên Khánh, được dựng lên để thờ Đức Khổng Tử. Văn Miếu xây dựng và trùng tu vào năm 1864 trên một khu đất cao ráo nhất trong vùng, có diện tích rộng gần 1.500m2. Văn Miếu có tấm bia đá khắc tên những người đỗ đạt cao trong các khoa thi. Những ông Cử, ông Tú thời ấy như Nguyễn Khanh, Lê Thiện Kế, Lê Nghị, Lê Viết Tạo... Ngoài việc lấy đạo học làm người quân tử, nhiều người đã đem lòng yêu nước, ủng hộ phong trào Cần Vương chống Pháp hồi đầu thế kỷ 20.
Với lịch sử 200 năm, thành Diên Khánh chứng kiến bao biến động, thăng trầm của xã hội thời phong kiến cũng như cuộc đấu tranh của nhân dân Khánh Hòa trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Thành Diên Khánh và Văn Miếu Diên Khánh đã trở thành di tích lịch sử cấp Quốc gia, một điểm du lịch hấp dẫn với nhiều du khách trong nước và quốc tế.

http://www.lyhocdongphuong.org.v ... hanh-khanh-hoa-348/
Tác giả: virgo_nhaycam    Thời gian: 6-8-2013 12:26 AM
KHOA CỬ TRIỀU TÂY SƠN: MỘT GIẤC MƠ VÀNG


ác giả: Đinh Văn Niêm
Nguồn: www.bee.net.vn

Mùa thu tháng 8, Quang Trung năm thứ 2 (1789) vừa lên ngôi chính vị, đánh bại quân nhà Thanh, việc triều chính chưa được củng cố, nhưng nhà vua đã mở khoa thi Hương cho học trò  xứ Nghệ (có người gọi là khoa thi Tuấn sĩ). Sai Nguyễn Khải Xuyên - La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp làm Đề điệu kiêm chức chánh chủ khảo chấm thi. Đồng thời nhà vua xuống chiếu cho lập Sùng Chính viện:

"Chiếu cho La Sơn Phu tử được biết: Ông tuổi, đức đều cao, tất cả sĩ  phu đều trông ngóng... nay trong nước đã yên, trẫm toan hưng khởi chính học. Ông đã lấy học thuật hiện rõ bên tà, bên chính trong phép học trẫm rất vui lòng. Trẫm định đặt Sùng chính thư viện ở Vinh Kinh tại núi Nam Hoa, ban cho ông chức Sùng chính viện viện trưởng chuyên coi việc dạy học. Nhất định theo phép học Chư Tử khiến cho nhân tài có thể thành tựu, phong tục trở lại tốt đẹp.
Từ nay, phàm trong các viên tư nghiệp, đốc học, mỗi năm nếu có ai học hay, hạnh tốt thì kê quê quán, tên họ đề đạt đến thư viện giao cho ông khảo sát đức nghiệp và hạnh nghệ tâu lên triều đình để bổ dụng. Ông nên gắng giảng rõ đạo đức, rèn đúc nhân tâm để cho xứng với ý của Trẫm khen chuộng người tuổi cao, đức lớn". Khâm tại đặc chiếu Quang Trung năm thứ 4, ngày 20 tháng 8 Sau khi xuống chiếu lập Sùng chính viện, vua Quang Trung còn hạ chiếu lập các nhà học cấp xã và cấp phủ, huyện.
Nội dung: "Chiếu cho quan viên và trăm họ trong nước được biết: Dựng nước lấy việc học làm đầu, muốn thịnh trị lấy nhân tài làm gốc, trước đây nhiều việc, việc học không sửa sang được, khoa cử bỏ dần, nhân tài ngày càng ít. Phàm hết loạn thành trị, lẽ tuần hoàn là thế, sau loạn càng cần sửa sang hưng khởi, lập giáo hóa, lập khoa cử là quy mô lớn để chuyển loạn thành trị. Trẫm khi mới bình định đã có nhã ý hậu đãi nhà nho, có lưu tâm quý mến kẻ sĩ, muốn được người thực học để dùng cho quốc gia.
Vậy ban chiếu xuống cho dân các xứ cần lập học xã chọn nho sĩ học thức, có đức hạnh đặt làm thày học giảng dạy cho học trò xã mình. Hẹn năm nay mở khoa thi Hương. Những tú tài thi Hương đỗ hạng ưu được đưa lên trường Quốc học, đỗ hạng thứ thì đưa vào trường Phủ học. Những Hương Cống ở triều cũ chưa làm chức nhiệm gì nay tới chầu thì bổ các chức huấn đạo, tri huyện. Nho sinh và sinh đồ đợi kỳ thi vào thi lại, đỗ hạng ưu thì tuyển dụng, hạng kém thì bãi về trường xã học tiếp. Còn những "sinh đồ ba quan" nhất thiết bắt về làm dân, cùng dân chịu sưu hạch". Đây là những chủ trương tích cực, biện pháp rõ ràng, khoa học nhằm dồn công sức xây dựng đất nước nhưng thời gian quá ngắn, vua Quang Trung chỉ mới tổ chức được 1 khoa thi Hương, còn khoa Tiến sĩ thì chưa tổ chức được khoa nào. Thực là một giấc mơ vàng.

http://www.lyhocdongphuong.org.v ... t-giac-mo-vang-346/




Chào mừng ghé thăm Kites (https://forum.kites.vn/) Powered by Discuz! X3