Kites

Tiêu đề: [Huyền Huyễn - Xuất Bản] Từng Thề Ước | Đồng Hoa (Chương 19) [In trang]

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 28-11-2013 10:42 AM
Tiêu đề: [Huyền Huyễn - Xuất Bản] Từng Thề Ước | Đồng Hoa (Chương 19)



Tên truyện : Từng Thề Ước
Tác giả: Đồng Hoa
Dịch giả: Tố Hinh
Tình trạng sáng tác: Hòan

Nguồn tác phẩm: Tại đây

♪ Ebook  ♪


--> Download tại đây <--



Giới Thiệu




Đồng Hoa là một trong những cái tên nóng nhất trên các diễn đàn văn học mạng Trung Quốc nhiều năm gần đây. Gây ấn tượng với Bộ bộ kinh tâm, qua thời gian, văn phong của nữ tác giả này ngày càng được xưng tụng là ”hành văn bình thản, nhập bút trục tầng, xâm nhập trạc nhân đau lòng”, không phải loại hoa lệ sáo rỗng, mà trong cái ”mỹ” luôn có chút chân chất, bình dị, từng bước làm quen rồi thấm sâu vào hồn người đọc. Trong các tác phẩm của mình, Đồng Hoa không thiên vị cho bất kỳ nhân vật nào, không vì điểm tô cho nhân vật này mà hạ thấp nhân vật khác. Tất cả đều sống, đều suy nghĩ, hành động khác nhau, đều có cái bất đắc dĩ của riêng mỗi người, có mục tiêu mà họ đeo đuổi, vì nó họ có thể bỗng chốc trở thành người khác, phải đánh đổi, hy sinh và nhận lấy những mất mát... giống hệt trong đời thực.

Với Từng Thề Ước, Đồng Hoa tiếp tục xây dựng một câu chuyện tình yêu diễm lệ với bối cảnh thần tiên cùng những không gian mầu nhiệm, kỳ ảo. Tuy chất liệu câu chuyện mang đậm màu sắc hoang đường nhưng những gì mà các nhân vật của Đồng Hoa thể hiện lại rất thực tế, rất người. Rốt cuộc, tình yêu là gì? Đã không giữ lời, sao còn thề hẹn? Đã không có ý đến cùng sao cứ gieo vào lòng nhau những mơ tưởng hạnh phúc lâu dài?...


Tóm Tắt Tác Phẩm






Văn Án







Giới Thiệu Tác Giả







Một Số Nhận Định về Từng Thế Ước




"Yêu một người phải như thế nào? Đọc Từng thề ước mới biết, yêu là phải như Xi Vưu, yêu thì tha thiết, sẵn sàng làm bụi đất dưới chân tình nương. Đến khi hận tột cùng, hận vào tim gan xương tủy vẫn không cách nào làm tổn thương người yêu cho được..."


- Tạp chí Đọc sách Trung Hoa -

"Đến cuối cùng chỉ còn lại mình ta, ôm ấp lời hẹn ước, ôm ấp tình yêu, ôm ấp những quá vãng không ai hay biết... Một câu chuyện khiến lòng người tê dại."


- Mạng văn hóa Sina-

"Đọc Từng thề ước để thấy, bi kịch cũng có nhiều khuôn mặt."


- Nhà văn Kim Tử, tác giả của Mộng hồi Đại Thanh-

Mời bạn đón đọc.




Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 28-11-2013 10:59 AM
♫ Mục Lục ♫







Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 28-11-2013 11:07 AM
Chương 00


  Thuở vũ trụ còn hỗn độn, hồng hoang sơ khai, trong thiên hạ chỉ có một vị vua, chính là Bàn Cổ đại đế đã mở ra trời đất, sáng tạo nên cả thế giới.

Lúc bấy giờ trời và đất còn chưa cách nhau vời vợi, con người sống trên mặt đất, thần linh ngụ đỉnh non tiên, thông qua thang trời là có thể gặp được. Thần tộc, Nhân tộc và Yêu tộc cùng sống dưới một vòm trời.

Bàn Cổ đại đế có ba thuộc hạ tình như anh em, trong đó người có thần lực cao nhất là một nữ tử, thời gian đã quá lâu, chẳng thể tra được tên tuổi nữa, chỉ biết sau này bà lập nên Hoa Tư quốc[1], được đời sau tôn xưng là Hoa Tư Thị. Còn hai vị kia là nam nhân, một là Thần Nông Thị, đóng ở Trung nguyên, giữ yên bốn cõi, một là Cao Tân Thị, đóng ở phía Đông, trấn giữ Thang cốc nơi mặt trời ló rạng và Quy khư, chốn ngàn vạn dòng nước trên thế gian đổ về.

Theo sách Liệt Tử, phần Hoàng Đế: “Hoàng Đế ngủ ngày, mộng du đến nước Hoa Tư, không biết nước này xa mấy nghìn vạn dặm, đại khái thuyền xe không thể tới được.” .

Theo sách Liệt Tử, phần Thang Vấn: “Không biết về phía Đông Bột Hải mấy ức vạn dặm, có một vụng nước thăm thẳm không đáy, tên gọi Quy khư. Nước từ tám phương trời chín phương đất, nước từ dòng Thiên Hán (Ngân Hà) không ngừng đổ về đây mà mực nước vẫn không tăng không giảm.

Sau khi Bàn Cổ đại đế quy tiên, lửa chiến tranh bùng lên khắp thiên hạ. Hoa Tư Thị chán ghét cảnh chinh chiến liên miên bèn bỏ đi lánh đời, sáng lập ra Hoa Tư quốc tươi đẹp hòa bình, nhưng bà được đời sau tưởng nhớ lại chẳng bởi Hoa Tư, mà nhờ con trai Phục Hy và con gái Nữ Oa của mình.

Theo Xuân Thu thế phổ, “Con trai Hoa Tư tên gọi Phục Hy, con gái tên gọi Nữ Oa.”

  Phục Hy – Nữ Oa cai trị đặt nặng cả ân uy, khiến anh hùng thiên hạ đều kính phục, sau cùng chấm dứt can qua, được tôn xưng là Phục Hy đại đế và Nữ Oa đại đế. Cả một vùng đại hoang chồng chất tang thương lại được đón cảnh thái bình, khôi phục dần sức sống.

Mấy ngàn năm sau, Phục Hy đại đế qua đời, Nữ Oa đại đế đau xót khôn nguôi, ẩn cư Hoa Tư quốc, từ đó chẳng một ai gặp bà nữa, còn sống hay đã chết cũng không ai hay biết, tộc Phục Hy Nữ Oa dần dà suy tàn.

  Trải bấy thăng trầm, cùng với sự xuống dốc của tộc Phục Hy, hai tộc Thần Nông ở Trung Nguyên và Cao Tân ở Đông Nam đã trở thành hai đại bá chủ, tuy ngoài mặt vẫn giữ đúng giao ước năm xưa cắt máu ăn thề trước mặt Phục Hy Nữ Oa đại đế, các bên không xâm phạm lẫn nhau, nhưng bên trong đã ngùn ngụt dã tâm muốn thôn tính đối phương.

  Phía Tây Bắc đại hoang có ngọn núi không danh tiếng, gọi là Hiên Viên sơn, dưới chân núi là nơi cư trú của Hiên Viên tộc, một Thần tộc nhỏ yếu chẳng mấy ai biết tới. Sau nghi thức cúng tế long trọng, đại trưởng lão của bộ tộc cực lực gạt bỏ mọi dị nghị của tộc nhân, chọn vị anh hùng trẻ tuổi nhất trong tộc làm thủ lĩnh, chính đại trưởng lão cũng chẳng thể ngờ thiếu niên đó sẽ hoàn thành được sự nghiệp vĩ đại nhường nào.

  Trải qua mấy ngàn năm, vị thiếu niên thống lĩnh Hiên Viên tộc không tên tuổi kia đã vùn vụt trưởng thành, tới khi Thần Nông và Cao Tân nhận thức được sự nguy hiểm của y thì đã bỏ lỡ thời cơ tiêu diệt, đành bất lực nhìn Hiên Viên tộc nhảy vọt lên thành đại Thần tộc thứ ba, thế lực sánh ngang với Thần Nông, Cao Tân, hai Thần tộc từ thời thượng cổ.

Thần Nông tộc đứng đầu ba đại Thần tộc cũng chính là hậu duệ của Thần Nông Thị năm xưa vâng mệnh Bàn Cổ đóng tại Trung nguyên, thủ lĩnh được tôn là Viêm Đế, lấy nhân trị nước; Cao Tân tộc, hậu duệ của Cao Tân Thị trấn giữ Đông Nam thuở trước, thủ lĩnh được tôn là Tuấn Đế, lấy lễ trị nước; cuối cùng là Hiên Viên tộc mới quật khởi, thống trị Tây Bắc, thủ lĩnh được tôn là Hoàng Đế, lấy pháp trị nước.

Trong Sơn Hải Kinh có ba đại Thần hệ, Viêm Đế hệ ở Trung nguyên, Tuấn Đế hệ ở phương Đông và Hoàng Đế hệ mới nổi sau này. Cũng từ đó Thần Nông ở Trung nguyên, Cao Tân ở Đông Nam và Hiên Viên ở Tây Bắc chia ba thiên hạ, tạo thành thế chân vạc.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 28-11-2013 04:53 PM
Chương I


Trời sinh ta vốn là kẻ ngông cuồng


I.1


Nước Thần Nông ở Trung Nguyên có vị trí tốt nhất Đại Hoang, chiếm số dân nhiều nhất Đại Hoang, và cũng là quốc gia có sản vật dồi dào nhất.

Ở phía tây nam nước Thần Nông, núi non trùng điệp, khe rãnh tung hoành, khí độc bao phủ núi rừng, mãnh thú hoành hành, đường đi vô cùng hiểm trở, không dễ dàng thông với các nước khác, bị coi là nơi man rợ. Nơi đó có tộc Cửu Di, tộc Cửu Di có tập tục khác một trời một vực so với những bộ tộc bên ngoài, rất dã man lạc hậu, bị thần tộc liệt vào đám dân đen bậc thấp nhất, nam tử sinh ra làm nô lệ, nữ tử sinh làm nô tì.

Hơn một trăm năm trước, tộc Cửu Di không cam lòng chịu kiếp nô dịch tàn khốc, hơn một trăm sơn trại liên hợp lại với nhau để phản kháng, bởi vì có yêu thú ác độc trợ giúp tộc Cửu Di, nên họ đã khiến mười mấy đại tướng của tộc Thần đến bình loạn phải đội mưa mà về, cuối cùng kinh động đến Viêm Đế. Đệ nhất cao thủ Chúc Dung của tộc Thần Nông chủ động xin đi giết giặc, hàng phục yêu thú tác loạn.

Giữa biển mây mù, một hàng mười mấy thần tướng khống chế tọa kỵ chạy như bay.

Phóng mắt nhìn đi, dãy núi Cửu Di trải dài ngàn dặm, giữa biển mây mù lượn lờ trôi, núi non trùng điệp, vách đá sừng sững, một ngọn núi xanh tốt mọc lên, không rõ lớn nhỏ, xa xa gần gần, mờ mờ ảo ảo trước biển sương trắng, một trận gió đến, thoắt cái hình như có, một trận gió đi, thoắt cái lại tựa như không, giống như một bức tranh thủy mặc.

Một thần tướng thân hình nhỏ nhắn mặc áo đen cười nói: “Không ngờ bọn tiện Cửu Di này lại có phong cảnh đẹp như vậy, khó trách người ta nói tiện tì của Cửu Di dung mạo thanh tú, là những nô tì mà nhà giàu có ở tộc Thần thích dùng nhất. Trước đây hàng năm đều có nô tì mới, nhưng từ khi bị tên súc sinh kia làm loạn, đã hơn trăm năm nay không có nô tì nào ở Cửu Di đến tộc của chúng ta, nghe nói bây giờ chỉ cần một tiện tì chân chính từ Cửu Di là đã có thể đổi được một gốc san hô xanh từ đáy biển.” San hô xanh dưới đáy biển đối với tộc Người chỉ là vật phẩm quá đỗi bình thường, nhưng đối với tộc Thần mà nói thì lại là thánh phẩm chữa thương, khi hắn mở miệng nói, ánh mắt lóe ra tia sáng, hiển nhiên đang có dự định khác.

Nam tử áo xanh bên cạnh hắn nhắc nhở : “Đừng để phong cảnh bên ngoài mê hoặc, trong núi Cửu Di có rất nhiều hiểm ác, tộc Thần chúng ta không sợ mãnh thú chim muông, nhưng khí độc có thể ăn mòn linh thể của chúng ta, không thể không đề phòng được, tên Đào Nhạc dưới chướng của vương tử [1] Du Võng bị trúng khí độc do tên súc sinh kia bày ra, đến nay linh lực cũng không thể khôi phục hoàn toàn…”

[1] Vương tử gần như hoàng tử. Du Võng là con trai của Viêm Đế Thần Nông.

Nam tử đi trước hừ lạnh một tiếng, nam sử áo xanh biết mình đã lỡ lời, lập tức câm như hến. Bộ dạng của thần tướng hừ lạnh kia cũng có chút anh tuấn, chỉ có điều trên mặt hằn rõ nét thô bạo, người khác không dám nhìn lâu. Chân hắn giẫm lên con chim ác của Đại Hoang được xưng là Tất Phương Điểu, trên người mặc một bộ chiến bào màu đen, trước ngực thêu một huy ấn hình ngọn lửa ngũ sắc mạ vàng, thấy huy ấn như vậy liền biết hắn là đệ nhất cao thủ của nước Thần Nông, Chúc Dung, Du Võng tuy là vương tử, nhưng Chúc Dung có thần lực cao cường, nắm binh quyền trong tay, từ trước đến nay không hề để Du Võng vào mắt.

Thần tướng nhỏ nhắn mặc áo đen tên là Hắc Vũ, giỏi về xu nịnh lấy lòng, biết rõ tâm tư Chúc Dung, cười lạnh nói: “Không phải khí độc của chúng lợi hại, mà là đám thuộc hạ của vương tử toàn là lũ ăn hại! Mất hơn trăm năm mà cũng không giết chết được tên súc sinh chưa khai thông linh khí, còn hao tổn vài viên đại tướng nữa. Lần này tướng quân Chúc Dung đích thân đến, tên súc sinh kia đừng có mà mơ tưởng đến cơ hội được nhìn mặt trời mọc vào ngày mai. Ngày mai trong điện Tử Kim, tướng quân sẽ quăng cái đầu tên súc sinh ấy trước mặt tất cả đại thần, cho Du Võng xấu hổ mà chết!”

( Linh lực và linh khí thường dùng để nói trình độ tu luyện pháp thuật của thần tiên. Chắc rất nhiều bạn đọc nhiều truyện còn hiểu rõ hơn mình, nhưng chú thích thêm vì có thể có bạn không hiểu rõ.)

Trong mắt Chúc Dung ẩn có ý cười, nhưng ngoài miệng lại lạnh giọng trách mắng: “Đừng nói hươu nói vượn! Việc ta làm là phụng mệnh của Viêm Đế, các ngươi đều phải toàn lực ứng phó, chờ giết chết được súc sinh, muốn ban thưởng cái gì, ta liền thưởng cho cái đấy, còn mấy gốc san hô xanh kia thì tính cái gì chứ?”

Các vị thần tướng đều mặt mày rạng rỡ, cao giọng tạ ơn. Nam tử áo xanh ban nãy mở miệng tên Lam Điền, làm việc gọn gàng cẩn thận, nói: “Cửu Di núi cao rừng rậm, địa hình phức tạp, tên súc sinh kia lại quen thuộc địa hình, vô cùng giỏi lẩn trốn, cho dù lấy linh thức [2] của tộc Thần cũng không tìm được hắn, cho nên lúc trước nhóm thần tướng đuổi giết hắn hơn trăm năm mà vẫn không giết chết hắn được, nếu hắn không lộ thân hình, trốn trong hàng trăm hang núi ở đây, thì sợ rằng chúng ta cũng khó tìm ra.”

[2] Linh thức là  pháp thuật dùng để tìm kiếm.

Các vị thần tướng hai mặt nhìn nhau, đều nhìn về phía Hắc Vũ, Hắc Vũ thấp thỏm lo âu cúi đầu, khiếp sợ Chúc Dung có thể hỏi hắn kế sách.

Không ngờ Chúc Dung lại cười lạnh nói: “Ta sớm đã nghĩ cách đối phó với hắn rồi, đối phó với dã thú, đương nhiên là phải dùng một con thỏ bố trí một cái bẫy, chúng ta chuẩn bị sẵn cạm bẫy chờ súc sinh tự mình chui đầu vào cửa. Các ngươi đi bắt tất cả nam tử cường tráng của Cửu Di lại, hạn cho súc sinh phải xuất hiện trước lúc mặt trời lặn, sau khi mặt trời lặn, thì cứ qua một nén nhang lại giết chết mười nam tử, cứ như vậy đến khi súc sinh xuất hiện thì thôi.”

Lam Điền đầy mặt kinh hãi, vẻ mặt những thần tướng khác cũng biến đổi, Hắc Vũ lại nịnh nọt cười nói: “Quả nhiên tướng quân là người anh minh nhất! Muốn tên súc sinh kia lộ mặt thì chỉ có thể bắt hết bọn dân đen ở Cửu Di lại. Thuộc hạ nghe nói hôm nay là lễ hội Khiêu Hoa ở Cửu Di, bọn dân đen ở đó sẽ không được thành hôn, cả trai lẫn gái đều phải tụ tập đến thung lũng Khiêu Hoa, tằng tịu với nhau như dã thú, bây giờ chúng ta đến, số người bắt được cũng giảm đi.”

Lam Điền lắp bắp nói: “Tộc Thần không thể lạm giết tộc Người, nếu Viêm Đế, Viêm Đế biết được, thì thực sự khó lường…”

“Viêm Đế đã nhận ra sao? Chẳng lẽ ngươi muốn đi mật báo?”Chúc Dung giương mắt lạnh lẽo nhìn hắn.

Lam Điền lập tức quỳ xuống, “Thuộc hạ tuyệt trung thành và tận tâm với tướng quân.”

Chúc Dung hừ lạnh một tiếng, hạ lệnh nói: “Chúng ta liền đi xem lễ hội Khiêu Hoa này của bọn dân đen thôi.”

“Tuân mệnh!”Chúng thần cùng lên tiếng đồng ý.

Nơi rừng núi sâu thẳm ở Cửu Di.

Bởi vì cây rất cao, rừng rất dày, tuy rằng ánh nắng bên ngoài rất xán lạn, nhưng ở giữa khe núi này, lại cảm thấy thấp thoáng bóng hoàng hôn. Vu Vương của tộc Cửu Di quỳ gối trên đám lá dày mục nát, vẻ mặt cung kính hướng về phía núi cao.

Hắn lễ bái vài lần, sau đó lớn giọng hô với núi cao: “Bách thú vương à, xin ngài lắng nghe lời cầu chúc của tôi!”

Từng trận gió hoang vu thổi tới, rừng núi mênh mông, chưa có lời đáp.

Vu Vương cũng sớm quen rồi, cho tới giờ cũng không có ai chân chính gặp được thú vương, không ai biết hắn là mãnh hổ, hay là cự gấu, bọn họ chỉ có niềm tin vững chắc về sự tồn tại của hắn hết thế hệ này đến thế hệ khác. Vu Vương mang vẻ mặt buồn rầu nói: “Bách thú vương, ngài mau chóng trốn đi! Viêm Đế phái Hỏa Thần Chúc Dung mang theo thần tướng tới giết ngài, Chúc Dung là đệ nhất cao thủ của tộc Thần Nông, nghe nói hắn khống chế cai quản lửa trong thiên hạ, một cái Hỏa Tinh có thể phá hủy một tòa thành trì, theo tôi biết thì không ai dám mạo hiểm xúc phạm hắn, ngài cũng khó ngăn cản hắn, vậy nên xin ngài mau chóng trốn đi!”

Bùm bùm, bùm bùm -

Một đống quả rừng nện vào người Vu Vương, đến nỗi cái trán của hắn bắt đầu đổ máu.

“Chi, chi, thử, thử…” Mấy con khỉ bám vào ngọn cây lay động đến lay động đi, vừa hung thần ác sát nhe răng trợn mắt, vừa đập phá Vu Vương, hiển nhiên lại muốn đuổi hắn đi.

Vu Vương cũng không trốn không tránh, ngược lại quỳ xuống đi vài bước, dùng sức dập đầu, thút thít nói: “Bách thú vương, ngài sống trong núi tự do tự tại, không gì quản chế, nhưng chúng tôi chỉ là dân đen ở Cửu Di, vốn sinh ra nam phải làm nô lệ, nữ phải làm nô tì. Một trăm năm trước chúng tôi si tâm vọng tưởng, mới kéo ngài vào trận đại hỏa ngập trời này, giờ đây tộc Thần tức giận với ngài, phái Hỏa Thần Chúc Dung đến đuổi giết ngài. Thần lực của Chúc Dung mạnh mẽ khôn cùng, có thể khuynh đảo, sụp đổ trời đất, theo truyền thuyết chín trăm năm trước ở động Ngọc Sơn gần biển Đông, có một con yêu quái rồng, dẫn hơn một ngàn tiểu yêu quái tác loạn, Viêm Đế phái hơn một trăm đại thần tướng mà vẫn không thu phục được yêu quái, Chúc Dung khi ấy vừa mới trưởng thành đã cầu xin đi giết yêu quái, thật không ngờ hắn chỉ cần một trận lửa là có thể đốt tất cả lũ yêu quái thành bột phấn.”

Vu Vương sợ thú vương nghe không hiểu, không tiếc mạo hiểm đắc tội với thú vương, nói: “Ngài sinh trưởng ở nơi núi sâu rừng thẳm, không rõ cao thủ của tộc Thần họ lợi hại thế nào. Nếu ví ngài là hổ báo hung mãnh nhất núi rừng này, thì bọn thợ săn lần này đến đây chính là thợ săn lợi hại nhất thế gian, ngài phải biết rằng hổ báo có hung mãnh đến đâu cũng không thể đấu lại thợ săn có bản lĩnh cao cường. Bách thú vương à, cầu ngài rời khỏi Cửu Di đi, tự chúng tôi nguyện làm nô lệ nguyện nô tì, chúng tôi nguyện làm nô dịch…”

Hắn tận tình khuyên bảo khóc lóc cầu xin, bọn khỉ kia vẫn trêu đùa không biết chán.

Vu Vương nhìn thấy vài cái đầu, thất tha thất thểu đi từ ngoài rừng vào, bốn nam tử cường tráng bước nhanh đến, đỡ lấy hắn, “Vu Vương, thú vương đi rồi sao?”

Vu Vương nói: “Ta đã nói rất rõ ràng rồi, chúng ta không cần ngài phù hộ, nên mời ngài rời đi thôi.”

Bốn nam tử kia đều xây xẩm mặt mày, Vu Vương nói: “Các anh đừng si tâm vọng tưởng nữa, kẻ đến đuổi giết thú vương chính Hỏa Thần Chúc Dung, thiên hạ này ai dám đối nghịch với Hỏa Thần chứ? Chẳng lẽ các anh thật sự muốn thú vương của Cửu Di chúng ta phải chết sao?”

Bốn nam tử cùng lên tiếng nói: “Dù chúng tôi có chết, cũng không thể để thú vương bị tộc Thần giết chết.”

Vu Vương gật gật đầu, “Hôm qua, ta đã phái Vu sư mang theo một trăm nam tử và một trăm nữ tử ra ngoài núi hiến làm nô dịch cho bọn quý tộc, nghe nói Viêm Đế vô cùng nhân hậu, chỉ cần chúng ta không tiếp tục tác loạn, khẳng định ông ta có thể khoan dung cho chúng ta, buông tha việc đuổi giết thú vương.” Hắn lấy lại tinh thần, vỗ vỗ bả vai của bốn người kia, ngậm cười nói: “Hôm nay là lễ hội Khiêu Hoa, các anh đều là dũng sĩ của Cửu Di, cô nương ở các sơn trại đang chờ các anh đó, nhanh đi đến thung lũng Khiêu Hoa tìm cô nương mình yêu thương đi, cố gắng sinh thêm vài cậu tiểu dũng sĩ nữa!”

Bốn nam tử tuy dũng mãnh, nhưng lại chưa bao giờ đi ra ngoài núi, tộc Cửu Di lại có tính tình đơn thuần, nghe thấy lời Vu Vương phân phó, bọn họ đều yên tâm, cười nói một lúc rồi cùng đi đến thung lũng Khiêu Hoa.

Lễ hội Khiêu Hoa, vào ngày mùng tám tháng tư, đúng vào thời điểm đẹp nhất của mùa xuân, muôn hoa đua nở trên núi.

Trong thung lũng Khiêu Hoa, khắp nơi đều là hoa tươi đủ màu sắc, các cô nương đều mặc đẹp đứng dưới gốc cây ca hát, tìm kiếm người mình yêu; đám nam nhi cũng túm năm tụm ba đứng trên tảng đá nhanh mồm nhanh miệng hát đối với các cô nương, hoặc đứng một mình dưới bóng cây thổi kèn; còn có những đôi trai gái nắm tay nhau, tránh dưới gốc cây thầm thì tán tỉnh.

Mặt trời đã sắp đi nghỉ mà vẫn không quên chiếu rọi xuống núi rừng mỹ lệ, gió xuân dịu dàng mang theo hương hoa tươi mát và rượu mạnh tinh khiết, trên sườn núi có cô nương xinh đẹp, nam tử cường tráng, họ nhiệt tình ca hát, thổi kèn… Trong thung lũng đã tràn ngập niềm sung sướng, tựa như cả những con chim nhỏ cũng đang vui cười bay múa, không ai biết thung lũng hạnh phúc này sắp bị giết hại thành lò máu.

Đột nhiên, bốn phía nổi lên ngọn lửa, mọi người đang vui sướng không hề phòng bị, chỉ có thể kinh hoàng tránh né ngọn lửa ngày một lớn kia, dần dần, đám người bị buộc phải tụ lại một chỗ, ngọn lửa tụ lại, biến thành một vòng lửa thật lớn, phụt lên giống như hàng rào màu đỏ, giam giữ tất cả mọi người giữa hỏa ngục.

Vài dũng sĩ không cam lòng xông vào ngọn lửa, nhưng ngọn lửa kia như có sức sống, quấn quanh thân mình họ, bọn họ bị đốt, phát ra tiếng kêu thê lương thảm thiết, mềm yếu ngã xuống đất, lăn lội thế nào cũng không thể dập tắt ngọn lửa, cuối cùng họ bị đốt cháy.

Đám người kinh hoảng nhìn mọi chuyện trước mắt, không biết đến tột cùng đã xảy ra chuyện gì.

Chúc Dung khống chế tọa kỵ, từ trên trời giáng xuống, khinh thường nhìn vào giữa vòng lửa.

Chúc Dung nói với rừng núi: “Súc sinh, hạn cho người phải đứng trước mặt ta trước khi mặt trời lặn, nếu không mỗi nén nhang ta sẽ giết mười tên dân đen, cho đến khi diệt hết tộc Cửu Di.” Giọng hắn như tiếng sấm, ầm ầm vang xa, đám chim rừng kinh hoảng, thú vật trốn chạy, mọi người trong sơn trại đều đau đớn ôm lỗ tai ngồi chồm hỗm trên mặt đất, cả người mềm nhũn không thể dậy nổi một tia sức lực.

Một dũng sĩ Cửu Di giãy giụa bò lên, giận dữ hét: “Thú vương đã rời đi rồi, các ngươi đừng mơ tưởng dùng chúng ta để áp chế thú vương!”

Chúc Dung cười lạnh một tiếng, “Ta sẽ giết bọn dân đen ngươi trước đã, bạo dân to gan, nếu hắn chạy trốn tới chân trời, ta cũng sẽ tới chân trời nhặt đầu hắn về.”

Bốn dũng sĩ dũng cảm nhất Cửu Di đều run rẩy cả người, hai mắt nổi lửa, nhìn người trong bộ tộc giữa vòng lửa, lại nhìn rúi rừng rậm rạp, chính bản thân họ cũng không biết mình đang mong thú vương xuất hiện, hay là ngóng trông hắn không hiện ra.

Mặt trời dần ngả về tây, càng ngày càng nhỏ bé hơn, mọi khi vào giờ này, nhà nhà trong sơn trại đều nổi khói bếp, cùng trò chuyện vui vẻ, nhưng hôm nay chỉ có tiếng thở trầm trọng. Dần dần, thở tiếng càng ngày càng nhỏ, tất cả mọi người nín thở, tựa như chỉ có vậy mới có thể khiến cho mặt trời lặn chậm đi một chút, để cho bộ tộc của họ có thêm một phần hi vọng sống sót.

Khi ánh nắng cuối cùng của hoàng hôn biến mất, Chúc Dung hừ lạnh, “Quả nhiên chỉ là một tên súc sinh nhát gan!” Hắn phất tay, ý bảo giết chết mười người.

Hắc Vũ tiến lên, Chúc Dung và những thần tướng còn lại đều đang ngấm ngầm đề phòng, nếu súc sinh thật sự là thần linh ở Cửu Di, thì đây chính là cơ hội cuối cùng để hắn cứu người.

Hắc Vũ chậm rãi giơ đao lên. Người bên ngoài vòng lửa, bên trong vòng lửa đều nín thở chờ đợi, trong sơn cốc không có một âm thanh nào.

Xoát -

Theo ánh đao, mười đầu người chỉnh tề ngay ngắn rơi trên mặt đất.

“Ngươi là thần sao? Ngay cả ác ma cũng không hung tàn như người!” Máu tươi kích thích đám người, mọi người quên đi nỗi sợ thần tiên, thê lương mắng chửi, khóc than nguyền rủa.

Chúc Dung thất vọng nhìn núi cao bốn phía, lơi lỏng đề phòng, xem ra súc sinh dù sao cũng là súc sinh, vô tình vô nghĩa, không bao giờ liều chết cứu người.

Lại qua một nén nhang, Chúc Dung gật đầu với Hắc Vũ, Hắc Vũ lần thứ hai đi về hướng vòng lửa, ánh đao hiện lên, lại là mười đầu người nữa chỉnh tề ngay ngắn rơi xuống đất.

“Liều mạng với bọn chúng!”

“Van cầu ngài, ngài là thần tiên tôn quý mà!”

Chúng nam tử phẫn nộ mắng, chúng nữ tử bi thương thút thít, liên tiếp, vang vọng khắp ngọn núi.

Lại qua một nén nhang, ngay cả liếc nhìn Chúc Dung cũng lười, chỉ một lòng tính toán xem súc sinh có thể trốn hướng nào.

Hắc Vũ đến gần vòng lửa, thanh niên trai tráng đứng ngoài bảo vệ nữ tử phía sau, tự động đứng thành một hàng, vừa đủ mười người, tuy rằng trên mặt là thấy chết không sợ, nhưng ánh mắt lại tức giận bừng bừng nhìn Hắc Vũ, nói lên họ tuyệt không khuất phục.

Lòng Hắc Vũ run lên, cắn chặt răng, vung đao muốn chém, bùm một tiếng, đột nhiên không thấy bóng dáng hắn đâu, chỉ nhìn thấy trên mặt đất vỡ ra một cái hố đen sì.

Lam Điền và vài thần tướng xuống dưới xem xét tình hình, cái hố vừa hẹp vừa sâu, ánh lửa không thể xuyên thấu, vài cái đầu nhòm ngó thăm dò, rồi ngay lập tức ngẩng đầu lên.

“Hắc Vũ?”

“Đã… Đã chết!” Ngữ điệu khó hiểu, giống như không nói, hai âm tiết ngắn ngủi đều tối nghĩa khó nghe. Đám người trong vòng lửa lại vui mừng hoan hô, “Là thú vương!” “Thú vương đến rồi!”

Chúc Dung giận dữ, vung ra một chưởng, một ngọn lửa đỏ đậm gào thét bay vào hố sâu.

“A!” Tiếng kêu gào thảm thiết, nghe ra cảm thấy vô cùng quen tai.

Lam Điền dựa theo ánh lửa, có vẻ nhìn thấy một người nằm úp dưới đáy hố, chiếc roi của hắn trở nên dài vô hạn, quấn người ở dưới lên, là một khối thi thể đã bị Chúc Dung thiêu cháy đen.

“Là, là… Hắc Vũ.”

Các vị thần tướng hai mặt nhìn nhau, Chúc Dung lúc này mới biết mình đã trúng quỷ kế của súc sinh, mà giờ đây súc sinh dưới hố đã sớm trốn thoát rồi, bị chọc giận, Chúc Dung nâng tay muốn giết chết tất cả dân đen trong vòng lửa. Một cô gái thét chói tai: “Ngài đã nói chỉ cần thú vương xuất hiện sẽ bỏ qua cho chúng tôi, thú vương đã xuất hiện rồi mà!”
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 28-11-2013 04:59 PM
Chương I


Trời sinh ta vốn là kẻ ngông cuồng


I.2



Các vị thần tướng hai mặt nhìn nhau, Chúc Dung lúc này mới biết mình đã trúng quỷ kế của súc sinh, mà giờ đây súc sinh dưới hố đã sớm trốn thoát rồi, bị chọc giận, Chúc Dung nâng tay muốn giết chết tất cả dân đen trong vòng lửa. Một cô gái thét chói tai: “Ngài đã nói chỉ cần thú vương xuất hiện sẽ bỏ qua cho chúng tôi, thú vương đã xuất hiện rồi mà!”

Tuy tính khí của Chúc Dung táo bạo, giết chóc tàn nhẫn, nhưng từ trước đến nay luôn cao ngạo, cũng không lật lọng. Một bụng tức giận không có chỗ nào phát tiết, hắn nổi trận lôi đình, hướng lên trời rống giận, “Súc sinh, ta nhất định phải tự tay cắt đầu ngươi, đào ra tim gan ngươi!” Bất ngờ thay đổi chưởng lực, ngọn lửa đập phá về phía cái hố, oanh một tiếng cái hố đã sụp đổ.

Lam Điền nhìn xuống chân, phân tích một màn vừa rồi. Chỉ sợ là khi họ vừa đến Cửu Di, súc sinh đã âm thầm quan sát họ. Khi hai mươi người bị giết, dân đen vừa khóc vừa mắng, thanh âm ồn ào, họ nghĩ kế sách của mình đã mất hết hiệu lực, buông lỏng đề phòng, thì tên súc sinh kia liền sử dụng thuật xuyên rừng để đả thông cạm bẫy. Hắc Vũ rớt xuống, cùng với địch ở trong tối ta ở ngoài sáng, sợ bị ám sát, không dám lên tiếng, súc sinh lại cố ý lên tiếng chọc giận Chúc Dung, mượn đao giết người. Nếu thần lực của Chúc Dung yếu một chút, có lẽ Hắc Vũ còn kịp giải thích, nhưng thần lực của Chúc Dung rất cao cường, chỉ trong chớp mắt đã đoạt lấy tính mạng của Hắc Vũ.

Súc sinh này quả nhiên giảo hoạt ngoan độc, bây giờ để hắn chạy thoát, không thể lại dùng dân đen buộc hắn bước ra nữa, ngàn dặm núi rừng Cửu Di này đều là nhà của hắn, dù bọn họ có thần lực cao tới đâu, cũng chỉ như mò kim đáy biển.

Các vị thần tướng đều ủ rũ, khiếp sợ bị Chúc Dung quở trách, Chúc Dung lại nhắm mắt trong chốc lát, chỉ vào hướng tây nam nói, “Súc sinh trốn hướng kia, chúng ta đuổi theo! Khi hắn ẩn thân dưới hố, trên người lây dính hỏa linh của ta, không thể trốn thoát khỏi lòng bàn tay ta được!”

Đám thần tướng lập tức hưng phấn, tu vi của súc sinh mà đem so sánh với Chúc Dung thì đúng là cách biệt một trời một vực, ưu thế duy nhất chính là quen thuộc địa hình, giỏi về ẩn nấp, lúc này hắn không thể trốn nữa, tương đương với chuyện mất đi tất cả che chở.

Chúc Dung hạ lệnh với nhóm thần tướng: “Các ngươi cứ giả như không biết gì, truy kích bốn phía, để hắn tiếp tục trốn. Ta đi phía trước đợi hắn, xem hắn đến tột cùng là cái dạng gì, dù hắn có là yêu quái hay ma quỷ ta cũng phải cho hắn chậm rãi nếm thử cảm giác bị lửa nướng chín, chờ đến khi hắn khóc rống cầu xin tha thứ ta liền cắt đầu hắn.” Chúc Dung nắm binh quyền trong tay, ngay cả vương tử cũng phải nể hắn ba phần, hôm nay lại bị một con dã thú đùa bỡn ngay trước mặt, nếu không tự tay giết chết hắn thì không đủ để tiết hận.

“Dạ!” Chúng thần cùng lên tiếng đồng ý.

Chúc Dung nín thở, khống chế Tất Phương Điểu, lặng lẽ chạy về phía trước, chặn súc sinh lại.

Sau khi hắn hạ xuống, đắn đo nhìn quanh bốn phía. Hai bên là vách núi, thẳng sáp tận trời, cho dù là tộc Thần, nếu không có tọa kỵ cũng khó làm được gì, phía trước có hai con đường nhỏ, nếu bị phá hủy sẽ không còn đường mà đi, trên vách núi cheo leo vô số dây leo chằng chịt rậm rạp, xanh biếc như tấm rèm châu bao phủ núi rừng.

Chúc Dung đứng trên một thân dây leo, lạnh lùng cười, hai tay giơ lên, ngón tay khẽ động, vô số đốm lửa bay ra, giống như đom đóm bay lượn giữa đám dây leo, dần dần biến mất không thấy.

Sau khi bố trí thỏa đáng, hắn ẩn mình trong rừng rậm, yên lặng chờ súc sinh đến.

Súc sinh hành động vô cùng mau lẹ, chỉ qua một chén trà nhỏ đã thấy một âm thanh truyền đến. Chúc Dung tập trung nhìn kỹ, chỉ nhìn thấy trong rừng cây có một con vật gì đó lông lá rậm rạp, dáng vẻ khôi ngô, tựa như vượn mà không phải vượn đang chạy vọt đến.

Chúc Dung còn muốn chờ hắn đến gần một chút mới đột ngột làm khó dễ hắn, nhưng súc sinh bỗng nhiên dừng lại, đề phòng nhìn về phía Chúc Dung đang trốn. Chúc Dung có thần lực cao cường, sau khi nín thở, cho dù là cao thủ của tộc Thần cũng khó phát hiện được, nhưng tên súc sinh như hổ báo này chỉ cần dùng cái mũi của mình đã có thể phát hiện ra, có thể ngửi ra mùi nguy hiểm.

Nếu đã bị phát hiện, Chúc Dung cũng không tiếp tục trốn nữa, hắn đi ra ngoài.

Súc sinh nhe răng trợn mắt giận dữ kêu, giương nanh múa vuốt hướng về phía hắn, lực lớn vô cùng, có thể xé rách mãnh hổ, thế nhưng người hắn gặp lại là Hỏa Thần Chúc Dung. Chúc Dung khẽ động ngón giữa, mấy ngọn lửa bay ra, súc sinh không ngờ cũng có linh lực, vung ra vài cái lá cây ngăn cản ngọn lửa.

Thừa dịp lửa bị ngăn cản, súc sinh đột nhiên nhảy cao về phía trước, bắt lấy một dây leo để đu, chỉ trong giây lát đã bắt được một dây leo rất cao khác, chỉ cần lay động mấy cái, hắn đã có thể vượt qua vách đá, biến mất không thấy, mà Chúc Dung còn muốn gọi tọa kỵ lại, nơi này tràn đầy dây gai, Tất Phương Điểu to lớn như vậy sợ rằng ngay cả vỗ cánh cũng khó.

“Rống rống – rống rống – “Súc sinh oai phong giữa trời cao, nhe răng trợn mắt với Chúc Dung, cũng không biết là đang nhăn mặt hay đang cười nhạo Chúc Dung.

Chúc Dung lạnh lùng cười nói, “Súc sinh dù sao cũng chỉ là súc sinh!” Lời nói còn chưa tán đi, trên dây leo đã vụt ra những đốm lửa đỏ rực, hóa thành những con rắn lửa, cuốn lấy súc sinh, đốt lông rậm trên người hắn.

Dây leo xanh tươi trên vách núi biến thành dây lửa hừng hực thiêu đốt, súc sinh không dám bám vào dây leo nữa, quay người lại, dùng tốc độ điên cuồng mà trốn chạy, so với săn báo còn mau lẹ hơn, ngay cả thần cũng khó so bì với tốc độ ấy. Nhưng giữa rừng núi hắc ám, ánh lửa trên người hắn chói mắt như ánh mặt trời, căn bản không có chỗ nào có thể ẩn nấp.

Chúc Dung ha ha cười to, không vội không gấp đuổi theo sau hắn, “Ngươi dùng kế để trêu đùa ta, ta đây cũng sẽ cho ngươi nếm thử cảm giác thế nào gọi là bị trêu chọc.”

Súc sinh vừa trốn vừa vặt xuống vô số lá cây, muốn dùng linh lực dập tắt lửa, nhưng Chúc Dung được tôn xưng là Hỏa Thần, lửa của hắn sao có thể dễ dàng tiêu diệt?

Xương thịt bị nướng cháy, súc sinh đau đớn khắp người, ngửa mặt lên trời rống to, trong núi rừng vang lên tiếng kêu gào liên tiếp, các loại động vật đều có. Thậm chí ngay lập tức có cả linh cẩu và chó sói nhảy ra, muốn ngăn cản Chúc Dung, nhưng chúng còn chưa được đến gần Chúc Dung, thì cả người đã bị nướng đen cháy.

Chúc Dung lúc này mới hiểu súc sinh được gọi là thú vương cũng không phải vô căn vô cứ, tên súc sinh này thật sự có thể ra lệnh cho trăm thú (bách thú) , khó trách hắn giỏi ấn nấp như vậy, bởi vì mỗi một con thú, mỗi một con chim trong núi rừng này, đều là một thám tử của hắn.

Vì súc sinh có ánh lửa trong người, không có chỗ trốn, lại vì bị đau đớn, tốc độ càng ngày càng chậm, dần dần bị Chúc Dung đuổi theo. Chúc Dung vận động pháp khí hóa thành lưới lửa, bao vây súc sinh, ý cười đầy mặt thúc giục lửa cháy càng mạnh hơn, súc sinh kêu gào thê thảm, tính hoang dã không thể kềm chế, không để ý đến lửa đang thiêu đốt xương thịt mình, giãy giụa vươn tay theo lưới lửa, đi công kích Chúc Dung. Chúc Dung chưa từng thấy yêu quái nào dám phản kháng dưới lưới lửa của mình, nhất thời mất cảnh giác, bị súc sinh bắt được, trên cánh tay hắn là năm vết máu dài bị móng vuốt cào. Chúc Dung nổi giận, dùng sức xoay ngược tay lại, đánh gãy cánh tay súc sinh, nâng chân giẫm nát cẳng chân súc sinh, điểm điểm lửa trắng ở mũi chân hắn xâm nhập vào da thịt súc sinh, da thịt còn chưa bị thương, mà đã từ từ đứt hết gân chân của súc sinh.

Khuôn mặt Chúc Dung vô cùng dữ tợn, khàn giọng nói: “Ta muốn cắt đứt gân tay gân chân của ngươi, thiêu hủy tất cả xương thịt của ngươi, cho ngươi có hóa thành tro cũng phải nhớ kĩ sự lợi hại của Chúc Dung ta đây.”

Súc sinh mắt hổ trợn trừng, giận dữ nhìn Chúc Dung, không có một chút sợ hãi khuất phục nào.

Chúc Dung đốt đứt gân một chân của súc sinh, nhấc chân muốn giẫm lên cổ tay hắn, nhưng chỉ trong nháy mắt, đột nhiên toàn thân súc sinh phát lực, dùng đầu làm binh khí, đụng mạnh về phía đũng quần Chúc Dung.

Chúc Dung toàn thân đều là lửa, nhưng chỉ duy nhất nơi đó còn có sứ mệnh quan trọng khác, không có khả năng tu luyện ra lửa, hắn vội vàng né tránh, súc sinh tận dụng cơ hội quay cuồng giữa không trung, vùng thoát khỏi lưới lửa, nhưng có vẻ như hắn cũng không còn nhiều sức lực nữa, không nhảy đi quá xa được, chỉ có thể rơi xuống bụi cỏ cách đó không xa.

Chúc Dung đuổi tới đó, “Xem ngươi có thể trốn chỗ nào – ” Hắn gầm gừ trong miệng.

Súc sinh mang theo bụi cỏ lăn xuống dưới, đến khi Chúc Dung đuổi tới, đã không thấy bóng dáng hắn đâu.

Đây là một bẫy để thợ săn bắt gấu chó, bên trong có một con hươu chẳng may mắc vào, bởi vì mấy ngày nay ở sơn trại vội vàng chuẩn bị hiến nô lệ, thợ săn không có thời gian đến thu con mồi, máu của con hươu thu hút bầy sói, nhưng chúng không tiến vào từ bên trên, cũng không dám đến gần cạm bẫy, mà chúng liền đào một cái động ở bên cạnh để vào ăn vụng. Súc sinh lợi dụng sự hợp tác vô ý giữa người và sói để tạo nên hang động ngầm trốn thoát.

“Xem ngươi chạy khỏi lòng bàn tay ta thế nào!” Chúc Dung dùng thuật tìm kiếm, lại phát hiện ra không thể tìm ra dấu vết của súc sinh, lúc này mới biết vì sao con hươu bị xé thành mấy khối, tên súc sinh giảo hoạt am hiểu đấu trí giữa thợ săn và dã thú, đoán được Chúc Dung có thể mai phục hắn ở chỗ này, khẳng định là trên người mình có đồ vật gì đó chỉ dẫn Chúc Dung, cho nên hắn vận dụng kinh nghiệm của thợ săn dùng nước tiểu của động vật để che giấu mùi con người, hắn xé rách thịt con hươu ra, vừa chạy vừa dùng máu hươu bôi loạn toàn thân, che giấu thứ “Mùi” có thể tiết lộ hành tung của mình.

Hỏa linh của Chúc Dung phải luyện mất ngàn năm mới thành, gió thổi không tan, nước rửa không sạch, máu hươu cũng không thể lấn át được hắn, nhưng trời sinh vạn vật, tương sinh tương khắc, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, ngũ hành tương sinh, cũng tương khắc. Súc sinh dính máu đầy người bò trên mặt đất, toàn thân được đất vàng bao vây, đất vàng nhuộm đầy máu tươi hoàn toàn khắc chế được hỏa linh của Chúc Dung. Cũng không biết súc sinh hiểu được ngũ hành tương khắc, hay chỉ là đánh bậy đánh bạ, nhưng có một điều chắc chắn là Chúc Dung đã để mất tung tích của hắn.

Chúc Dung nổi giận vung ra một chưởng, ngọn lửa bay tán loạn đốt cháy đám cây xanh thành tro tàn.

Lam Điền dẫn chúng thần đi tới, nghe thấy Chúc Dung hổn hển mắng chửi như muốn băm thây súc sinh ra thành vạn đoạn, biết Chúc Dung lại thua rồi, cũng không dám nhiều lời.

Chờ đến khi Chúc Dung vơi dần cơn tức, Lam Điền hỏi rõ tình huống, mới nói: “Súc sinh bị thương một tay, một chân bị đốt gân cốt, cho dù trốn cũng không thoải mái đâu, chúng ta cẩn thận tìm hắn, nhất định có thể tìm được.”

Chúc Dung lập tức hạ lệnh, tìm kĩ từng tấc đất, không buông tha bất cứ thứ gì khác thường.

Giống như phân tích của Lam Điền, súc sinh dù sao cũng chạy trốn rồi, nhưng trong quá trình trốn khó tránh khỏi để lại dấu vết, mặc dù có địa hình phức tạp che giấu, nhưng những kẻ đuổi giết hắn không phải tiểu thần tiểu yêu, mà là một đám thần tướng linh lực cao cường.

Súc sinh dùng đủ loại phương pháp, cũng không có cách nào hoàn toàn vùng thoát khỏi bọn họ.

Không ngủ không nghỉ chạy thoát bảy ngày, súc sinh đã sức cùng lực kiệt. Bởi vì vẫn không có cơ hội nghỉ ngơi, nên vết thương trên người hắn ngày càng nghiêm trọng hơn, chân trái bị Chúc Dung đốt gân ngày càng đau đớn hơn, chỉ cần động một chút đã cảm thấy như có lửa đốt cháy trong chân hắn, đau buốt thấu xương.

Súc sinh ngửa đầu nhìn vách đá cao nghìn trượng trước mắt, bay qua ngọn núi này liền ra khỏi Cửu Di. Rất nhiều năm trước hắn đã đi qua nơi đó, có lẽ trốn tới đó có thể thoát khỏi sự đuổi giết của đám thần tướng kia.

Hắn hít sâu một hơi, kéo theo cái chân gãy bám víu vào vách đá, ngày xưa chỉ cần một cái nhảy vọt là có thể nhảy qua ngọn núi, nhưng giờ đây hắn chỉ có thể tiến từng bước từng bước một.

Hắn bắt được một khối đá nhô ra, cánh tay đã mất hết sức lực, tay run run không thể nắm chặt, ngã nhào xuống, may mắn được những nhánh cây mọc lan tràn cản lại một chút, mới ngã chậm hơn. Súc sinh nhìn thoáng qua chỗ này, mấy khối đá cũng rơi xuống mặt đất, vỡ vụn, nếu hắn ngã xuống, khẳng định cũng sẽ tan xương nát thịt.

Không biết là đau hay mệt, đầu hắn có chút choáng váng, oán hận phun ra một ngụm máu, tiếp tục giãy giụa bò về phía vách đá.

Dựa vào một chân, một bàn tay leo đến đỉnh của vách đá, đến lúc này ngay cả sức ngẩng đầu lên hắn cũng không có, thân thể mềm lả ghé trên vách núi, há to miệng hút không khí, thầm nghĩ ngủ một giấc thật say.

Giữa núi rừng có tiếng cú kêu, tiếng sói hú lên, thanh âm của chúng cho thấy có người từ ngoài đến, bọn Chúc Dung kia lại đuổi theo.

Súc sinh dùng sức chống người dậy, ngẩng đầu nhìn về phía vách núi đối diện, nếu cánh tay của hắn không bị đả thương, gân chân không bị đốt đứt đoạn, thì vách núi có cheo leo hiểm trở đến mấy cũng có thể vượt qua, nhưng hôm nay toàn thân hắn mang đầy thương tích, ngay cả đi một bước cũng không còn sức nữa.

Giờ phút này, rốt cuộc hắn hiểu mình không trốn thoát được rồi.

Mấy trăm năm qua, hắn cùng đàn thú trốn tránh vô số lần, đã nhìn thợ săn giết đồng bạn của mình như thế nào, giữa bao lần vào sinh ra tử đó, hắn học được đủ loại kĩ năng sống, nhưng chỉ cần lão hổ hung mãnh bị thương, thì có thể bị thợ săn bắt được.

Hắn hít sâu một hơi, chịu đựng đau nhức đứng lên, chân tay rủ xuống đất, chỉ còn một tay một chân có thể thật sự dùng sức, phủ phục bước đi giống như dã thú bị thương, đi tới bờ vực cheo leo.

Thà hắn nhảy xuống vách núi này rồi tan xương nát thịt, tình nguyện bị sói mẹ tha đi nuôi lớn sói con, cũng không muốn bị lột hết da lông, biến thành đệm đất cho đám thợ săn, đầu bị cắt lấy, biến thành trang sức trong gian phòng của đám thợ săn.

Hắn ngửa đầu nhìn về phía trời cao, bầu trời xanh đen, một vầng trăng tròn sáng tỏ, chiếu sáng từ trên không xuống mặt đất. Mấy trăm năm qua, hắn có vô số đồng bạn, đã chết một đám lại một đám, giữa đám cây cối, sớm sinh tối tàn là chuyện vô cùng bình thường, đến hôm nay hắn cũng không làm chủ được đám thực vật, không tiếc nuối, thế nhưng đây lại là một mùa xuân, một mùa xuân làm hắn luống cuống hoang mang…

Tiếng kêu đêm càng bén nhọn hơn, hắn nhắm hai mắt lại, nhảy xuống.

Thân thể rơi xuống rất nhanh, tiếng gió vù vù thổi quét qua tai, giống như một khúc hát tang. Có lẽ bởi vì mất đi thị giác, khứu giác trở nên mẫn cảm khác thường, có lẽ bởi vì còn lưu luyến sinh mệnh này, nên mỗi một loại mùi trong không khí đều có thể phân biệt rõ ràng: tràn đầy hương thơm, đó là cỏ cây đang nảy nở sinh sản; hương thơm ngọt nhàn nhạt, đó là dã thú đang kéo thi thể của con mồi về sào huyệt cho con chúng ăn; mùi sữa như có như không, đó là mùi của đám tiểu thú mới sinh ra; còn có một loại hương thơm xa lạ không thể phân biệt, theo gió núi bay tới, mang theo một chút thơm ngát, một chút ấm áp và cả một chút bí ẩn, khiến thân thể hắn nôn nóng phát sốt.

Hắn hoang mang không thể tin được giữa núi rừng này còn có mùi hương nào mình không phân biệt được, đột nhiên truyền đến một tiếng cười thanh thúy dễ nghe, giống như tiếng chuông bạc nhộn nhạo trong gió xuân. Lòng hắn rung lên, theo bản năng giơ tay ra, không ngờ lại bắt được nhánh cây, theo bản năng đã sớm hình thành mấy trăm năm nay, thân thể hắn nhanh chóng co rụt lại, lật người, vắt trên cành cây.

Trong khe núi, đá nhô lên lởm chởm, có một dòng suối chảy róc rách giữa khe núi chật hẹp, nước suối trong mát lúc thì chảy xiết, lúc lại thong thả. Một cô gái mặc áo xanh đi tới từ khe núi, một tay cầm giày thêu, một tay vén vạt váy, đệm mũi chân, nhảy tới nhảy lui trên những tảng đá ở ven dòng suối, nàng vừa nhảy vừa cười, ánh trăng như đang nhộn nhạo dưới mũi chân trắng mịn của nàng, nhẹ nhàng như dòng nước, thơm mát như đóa hoa.

Lúc này đúng là mùa hoa đào nở rộ, hai bên khe núi là vách đá dựng đứng, tất cả đều sáng quắc màu hoa đào, dưới ánh trăng mênh mông, tựa như dòng sông, tựa như dải lụa, đẹp như mộng như ảo. Thiếu nữ áo xanh kia hiển nhiên cũng đã yêu cảnh sắc nơi đây, ngồi xuống một tảng đá lớn nghịch nước, đột nhiên nàng đứng lên, tháo trâm gài tóc ra, mái tóc đen của nàng xõa xuống, cởi bỏ dây lụa, rút quần áo, thân thể trần trụi bùm một tiếng nhảy vào nước suối, nàng chơi đùa trong nước như một con cá, nhất thời lẻn vào trong nước, nhất thời nhảy lên mặt nước, nhất thời lại nằm trên mặt nước, khe khẽ hát và nghỉ ngơi, tùy ý để những bông hoa đào hay xuống từ trên núi, nhẹ nhàng hôn lên thân thể nàng.

Trong gió càng mang đậm hơi thở xa lạ kia, không hiểu sao thân thể hắn lại rung động, lại khô nóng, lại hưng phấn, vui sướng.

Tiếng kêu đêm ngày càng thê lương, Chúc Dung đã sắp đuổi đến rồi, súc sinh hốt hoảng, quên đi tất cả, hình ảnh đêm trăng hoa đào rơi xuống khe núi trước mắt hắn, giống như đóa hoa dại đầu tiên giữa rừng núi hoang vu, tiếng sấm đầu tiên giữa mùa xuân, đột nhiên để lại trong lòng hắn một cái gì đó xa lạ mà lại quen thuộc.

Hàng trăm năm qua, từng mùa xuân đến, tính tình lũ dã thú đều thay đổi đột ngột, cho dù hắn đi đến đâu, đều có thể nhìn thấy một đôi dã thú cùng một chỗ, cho dù là đồng bạn tốt nhất của hắn cũng sẽ nhe răng tức giận với hắn, cảnh cáo hắn rời xa, không do dự gạt bỏ hắn. Hắn khó hiểu, hoang mang, cô độc chạy tới chạy lui, xem xét bốn phía, nhưng càng xem càng mơ hồ, hắn không rõ vì sao những con chim xinh đẹp kia lại phải tỉ mỉ xây tổ, xòe cái đuôi màu sắc rực rỡ, khép nép rụt rè hát cho một con chim khác nghe, mời nó đi vào cái tổ mình xây; cũng không rõ vì sao con cáo đỏ gian xảo keo kiệt kia lại liều mình đi trộm gà trong thôn để đưa đến trước mặt một con cáo khác, vừa không ngừng đẩy con gà về phía con cáo kia, vừa nịnh nọt dỗ dành nó, cầu xin nó ăn gà; hắn càng không rõ vì sao lão hổ trắng độc lai độc vãn kia, vì muốn bảo vệ một lão hổ khác, mà dám quyết đấu với đám hổ dữ, mình đầy thương tích cũng không chịu thoát đi.

(Tiểu Dương: con chim xòe đuôi màu sắc rực rỡ ở trên là con công trống, vào mùa sinh sản chúng làm vậy để “ve vãn” con công mái.)

Cô đơn, tĩnh lặng, trong mê hoặc, hắn cảm giác được điều gì đó, ngay ở phía trước thôi, một khi bắt lấy hắn liền hiểu rõ, hiểu rõ vì sao chúng vui vẻ như vậy, hiểu rõ chính hắn là cái gì, hiểu rõ ý nghĩa của mùa xuân, hiểu rõ tại sao mình cô độc, nhưng dù hắn có dùng sức với tay thế nào, cũng không thể bắt được.

(Ý nghĩa của mùa xuân: nếu không nhầm là mùa động dục, mùa sinh sản ^^.)

Bây giờ, hắn hiểu rõ rồi, ở nơi cảnh sắc sinh động này, vạn vật nảy sinh giữa mùa xuân, hắn cũng giống như vô số dã thú trong núi rừng, sau khi nhìn thấy một con thú cái, đột nhiên hắn liền hiểu.

Cô gái trong khe núi này, đã làm thức tỉnh một phần tâm linh đang say ngủ bên trong con người hắn.

Hắn muốn ôm nàng đến cái tổ trên cây của mình, đưa nàng đến hang động trong núi của mình, hát lên giống như những con chim để nói với nàng, sào huyệt hắn xây nên an toàn vững chắc cỡ nào, có thể ngăn cản diều hâu, để bảo vệ nàng sinh ra trứng; hắn muốn đi bắt con thỏ ngon nhất, dâng tặng đến trước mặt nàng, cắn bộ ngực béo mập nhất ra cho nàng, cầu xin nàng ăn như con cáo đỏ kia; hắn muốn đi tiểu khắp bốn phía quanh khe núi, trên mỗi một thân cây, mỗi một tảng đá đều lưu lại mùi của hắn, tuyên cáo với tất cả dã thú và thợ săn đây chính là lãnh địa của hắn, để nàng ở chỗ này tự do chơi đùa, không cho phép bất luận kẻ nào thương tổn nàng, nếu có người dám can đảm bước vào lãnh địa của hắn, uy hiếp nàng, thì hắn cũng sẽ giống như lão hổ trắng kia, thề sống chết quyết đấu với bọn chúng.

Ý niệm mãnh liệt mênh mông trong đầu giống như từng tia chớp cắt qua bầu trời đen nhánh, trái tim ngây thơ hoang vu của hắn đột nhiên bừng sáng.

Mùa xuân, hóa ra đây là mùa xuân!

Hắn ngửa mặt nhìn trời tru lên với ánh trắng, tiếng kêu ngân nga cao vút làm cho tất cả dã thú trong núi đều e sợ leo xuống, núi rừng đột nhiên yên tĩnh chết lặng, khe núi cũng thật thanh bình yên tĩnh. Cô gái dưới dòng suối ngẩng đầu nhìn về phía vách núi. Bởi vì khoảng cách xa xôi, chỉ nhìn thấy một bóng đen, một cái đầu dã thú như sói như hổ đứng trên đỉnh vách đá, phía sau là một vòng trăng tròn thật lớn, nhảy qua ngang đầu hắn, hắn như đứng giữa ánh trăng, mỗi cái lông mao đều uy phong lẫm lẫm.

Cô gái dưới suối lại không hề thấy sợ, mà còn nhẹ giọng cười, mở ra hai tay vuốt mặt nước, rồi giơ lên đón những bông hoa đào, tạo nên bọt nước trong suốt rực rỡ, không ngờ theo tiếng huýt gió của dã thú, nhẹ nhàng đùa với hoa đào và bọt nước, lúc lên lúc xuống, lúc xoay lúc nhảy, lại giống như đang nhảy một điệu hoa đào dưới ánh trăng vì dã thú.

Súc sinh bi thương chăm chú nhìn nàng trong chớp mắt, kiên quyết trở lại, nhảy xuống vách núi cheo leo, kéo cái gãy chân, khập khiễng đi về phía rời xa khe núi, hắn đi trên con đường này chẳng những không che giấu hành tung, mà ngược lại còn thường thường dừng lại, nghiêng tai lắng nghe, xác nhận bọn Chúc Dung đã rời xa khe núi, chính thức đuổi theo tung tích của hắn.

Giữa núi hoa rực rỡ, mùa xuân chim bay bướm lượn, mấy trăm năm cô đơn hoang mang đã biến mất, nhưng khi hắn vừa mới hiểu mùa xuân mỹ lệ ra sao, thì lại không có cách nào sống thêm đến mùa xuân kế tiếp nữa. Điều duy nhất hắn có thể làm, chính là để nàng không bị thương tổn mà thôi.

Hết Chương I

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 28-11-2013 07:40 PM
Chương II


Lỡ Vướng Phải Lưới Trần Giăng Mắc


II.1


Mặc gió đông thổi tung mái tóc, nàng đưa mắt nhìn khắp bốn bể, chợt thấy hắn, nàng liền nhoẻn miệng cười, thời khắc ấy, hoàng hôn lung linh, ráng chiều sóng sánh, con đường ngập trong cát bụi bỗng như có ngàn vạn gốc đào theo nhau nở rộ, muôn sắc rạng ngời, hoa bay phấp phới.

Hai trăm năm sau, núi Thần Nông.

Núi Thần Nông là nơi vương tộc Thần Nông sinh sống, nằm ở nội địa của nước Thần Nông, cùng với bốn sông chín núi hai mươi tám đồi, ngọn cao nhất là đỉnh Tử Kim, nơi Viêm Đế bắt đầu cuộc sống hàng ngày, đàm phán chuyện đất nước.

Vì những năm gần đây Viêm Đế say mê y dược, công văn văn thư và những việc lặt vặt đều do vương tử Du Võng xử lý, Du Võng là con trai độc nhất của Viêm Đế, thần lực thấp kém, trong tộc Thần Nông này còn không xếp nổi vào hàng một trăm người giỏi nhất, tuy nhiên vì có tâm tính nhân hậu, làm việc rộng lượng, nên cũng được nhiều thần tử tin tưởng, chư hầu trong nước ủng hộ.

Hôm nay sau khi hội họp xong, Du Võng vẫn chưa xuống núi, mà bỏ lại người hầu bên cạnh, cưỡi tọa kỵ lặng lẽ bay về phía cấm địa Thảo Ao Lĩnh.

Hai trăm năm trước Thảo Ao Lĩnh bị Viêm Đế liệt vào khu cấm địa, vậy mà Du Võng lại không để ý. Hắn để tọa kỵ nấp sau một gò đất, tách bụi gai và cỏ hoang ra, nắm lấy những mảnh đá, trèo lên vách núi cheo leo.

(Tọa kỵ là con vật gì đó có thể bay.)

Trên đỉnh núi có một nhà tranh, trong phòng không có người. Ngoài nhà tranh, mây mù mờ mịt, che khuất tầm mắt, nhưng trước mặt là vách núi cheo leo, vách đá sinh trưởng rất nhiều cây thông cây tùng, so le chằng chịt, mấy con khỉ Ma-các [1] cầm quả dại ăn ngon lành, hai con diều hâu một trước một sau bay tới, dừng ở ngọn cây, thầm thì với nhau.

Du Võng đứng ở vách đá, ngắm nhìn biển mây, tĩnh lặng đợi chờ, sau một lúc lâu, nói với khỉ Ma-các và diều hâu: “Chỉ sợ khi ta còn ở không trung, bọn mi đã âm thầm mật báo cho Xi Vưu rồi, nhưng tại sao lại không thấy hắn đâu nhỉ?”

[1] Khỉ Ma-các: tên tiếng Anh là Macaca mulatta.

Khỉ Ma-các cắn nuốt quả dại, diều hâu dùng mỏ rỉa rỉa lông, hiển nhiên không hề hiểu tiếng người, không thể trả lời Du Võng, dưới vách núi lại có tiếng nói truyền đến, “Ta không ngửi được mùi rượu, đương nhiên sẽ chạy chậm rồi.”

Có một trận gió thổi đến, sương càng dày đặc hơn, mây mù cuồn cuộn, giống như bức màn che, bao phủ khắp nơi, tùng bách phiêu diêu, vách núi rung chuyển, bỗng sinh ra cảm giác thê lương. Một thân ảnh đỏ đậm như máu chói lóa như nắng gắt hiện ra từ biển mây, phiêu phiêu lay động lay động bay về phía Du Võng, nhìn thì thật nhẹ nhàng, nhưng thực tế lại đang dùng lực rất mạnh rất nhanh.

Khi thân ảnh màu đỏ đó đứng vững, mây mù tán đi, chỉ nhìn thấy một nam tử thân hình to lớn, áo bào có chút nhăn nhúm, tóc rối tung, toàn thân đều lộ ra dáng vẻ lười biếng, nhưng đôi mắt lại sắc bén dị thường, cũng có lòng tôn trọng Du Võng, thoáng cúi đầu, tránh được tầm mắt của hắn.

Nam tử áo đỏ này chính là người Du Võng chờ đợi, Xi Vưu, nhìn hai tay trống trơn của Du Võng, than thở: “Không mang rượu tới thì đi vào khu cấm địa này tìm ta làm gì chứ?”

Du Võng cười nói: “Nếu ngươi giúp ta điều tra rõ một chuyện, ta sẽ đến địa cung của phụ vương trộm loại rượu tiến cống tuyệt phẩm về cho ngươi.”

“Ngươi có nhiều thuộc hạ bản lĩnh cao cường như vậy cơ mà, ta còn có thể giúp ngươi làm cái gì nữa?”

“Nghe nói Chúc Dung ham địa hỏa ở núi Bác Phụ, lấy một ngọn núi làm lò luyện công, khiến cho vài trăm dặm quanh đó không có lấy một ngọn cỏ, dân chúng nước Bác Phụ rơi vào cảnh lầm than, thế nhưng không hề có tên quan nào bẩm báo với phụ vương. Ta nghĩ phái một vị thần đi thăm dò rõ ràng chuyện này, nếu là thật, lập tức tấu với phụ vương, giao trách nhiệm cho Chúc Dung phải hủy lò luyện công đó đi. Chuyện không lớn, nhưng ngươi cũng biết tính tình nóng nảy của Chúc Dung rồi đấy, không có mấy vị thần dám đắc tội với hắn, nghĩ đi nghĩ lại cũng chỉ có ngươi không sợ hắn.”

Xi Vưu kêu hai tiếng, một con khỉ Ma-các già tai trắng nhảy lên vách núi, cung kính dâng mấy quả dại tươi ngon lên trước mặt Xi Vưu, Xi Vưu vừa cầm dã quả quăng vào miệng ăn vừa hàm hồ nói: “Đúng là ta không sợ hắn, nhưng cũng không phải ta muốn đi chọc hắn. Oán hận giữa ta và hắn cũng đủ sâu nặng rồi, ngươi cũng nên biết sư phụ để nơi này là cấm địa, chính là để cấm Chúc Dung và ta tiếp xúc với nhau, sợ hắn nhất thời khống chế không nổi mà giết chết ta.”

Du Võng biết tính tình Xi Vưu ăn mềm không ăn cứng, nhíu mày nhăn trán thở dài, dở chiêu mềm mỏng, “Huynh đệ tốt của ta ơi, ngươi giúp ta lần này đi mà.”

Xi Vưu cười lắc đầu, “Thôi, thôi, thôi! Ta sẽ giúp ngươi đi đến núi Bác Phụ một chuyến.”

Thấy Xi Vưu đồng ý rồi, Du Võng lại lo lắng, “Lúc nào cũng phải cẩn thận đấy, chỉ cần lặng lẽ điều tra rõ xem lời đồn là thật hay giả thôi, những chuyện còn lại cứ để ta xử lý, trăm ngàn lần đừng tìm Chúc Dung xung đột. Còn nữa, ngươi chải lại đầu tóc cho sợi nào ra sợi đấy đi, áo bào cũng phải sửa lại đừng có mà nhăn nhúm thế kia, bên ngoài là nơi tộc người sinh sống, không thể như trên núi được, ngươi đừng làm người ta sợ…”

Xi Vưu mặt nhăn mày nhíu, ném một quả dại vào miệng Du Võng, nhảy lên nhảy xuống vách núi cheo leo, chỉ trong giây lát đã biến mất giữa biển mây, Du Võng nhếch khóe miệng, sửng sốt trong giây lát, cười nhai quả dại rồi rời đi.

Vùng hoang dã bên ngoài nước Bác Phụ, Xi Vưu bước những bước dài, đầu ngước nhìn trời, tra xét hỏa linh có dư thừa hay không, cảm thụ được vạn vật đang thút thít giãy giụa, Chúc Dung quả nhiên đã luyện công ở đây.

Hắn không hề cảm thấy Chúc Dung làm sai cái gì, vạn vật trong trời đất này vốn là kẻ mạnh ăn kẻ yếu, tâm tính của Du Võng quá lương thiện, lúc nào cũng thích xen vào chuyện của người khác. Có điều, nếu Du Võng không có tật xấu xen vào chuyện của người khác, đưa hắn về núi Thần Nông, thì cũng vốn không có Xi Vưu ngày hôm nay.

Hắn thu hồi linh lực, đang quay đầu không chút để ý, thì bất ngờ lại nhìn thấy -

Gió tây thổi qua, cạnh dòng sông, một cái cô gái mặc áo xanh nửa mới nửa cũ, đang bước đi dưới ánh chiều tà. Khắp nơi hoang vu, đất trời đen tối, nhưng nàng lại bừng bừng sức sống, giống như bông hoa dại đang đón gió giữa vách núi chênh vênh.

Gió hoang thổi cuồn cuộn làm tung bay mái tóc nàng, tầm mắt nàng đảo qua những con đường bốn phía, khi ánh mắt nàng dừng trên người hắn, mặt nàng giãn ra, nở một nụ cười, chỉ trong chớp mắt, trời chiều tỏa ánh sáng đầy màu sắc, trong không khí bụi mù hình như có ngàn cây vạn cây hoa đào nối đuôi nhau nở rộ, màu sắc và hoa văn xán lạn, nhụy hoa rực rỡ.

Đáy lòng Xi Vưu vui sướng dạt dào, nhưng vẻ mặt vẫn lạnh lùng hoang vu như trước, tầm mắt đảo qua bóng dáng cô gái áo xanh kia, đi qua người nàng, chuẩn bị trở về núi Thần Nông. Hai trăm năm nay, hắn từ một con dã thú học cách làm người, trước tiên hiểu được thì ra dữ tợn thường được giấu đằng sau nụ cười, hiểu được dùng nụ cười là để che giấu dữ tợn, hắn không muốn đi tìm tòi nghiên cứu hàm ý đằng sau nụ cười của nàng.

Cô gái áo xanh bước nhanh đuổi theo hắn, cười nhẹ rồi nói, “Công tử, xin hỏi đường đến nước Bác Phụ đi như thế nào?”

Hắn dừng chân, chậm chạp không nói lời nào, chưa quay người lại, nhưng cũng không rời đi, chỉ yên lặng nhìn rặng mây đỏ, vẻ mặt lạnh lẽo, trong mắt lại lộ ra một chút đắn đo.

Cô gái hoang mang khó hiểu, khẽ kéo một góc ống tay áo Xi Vưu, “Công tử? Anh không thoải mái à?” Nhưng nàng không biết điều mình giữ lại có lẽ là một tai họa cho mình.

Cũng tốt, liền nhìn con người thật của nàng đi! Khoảng khắc quay đầu lại, Xi Vưu lập tức thay đổi tâm ý, cũng thay đổi vẻ mặt, cười hì hì nói: “Ta vừa hay đúng là người Bác Phụ đấy, cô nương… À, nếu tiểu thư không chê, thì có thể đồng hành.”

“Thật tốt quá, tôi tên là Tây Lăng Hành (heng), là người vùng núi thôn quê, không cần đa lễ, anh gọi tôi A Hành là được.”

Xi Vưu nhìn chằm chằm Tây Lăng Hành, sau một cái chớp mắt, mới chậm rãi nói: “Ta tên là Xi Vưu.”



Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 28-11-2013 07:43 PM
Chương II


Lỡ Vướng Phải Lưới Trần Giăng Mắc


II.2


A Hành và Xi Vưu cùng đi, qua hôm sau thì tới thành Bác Phụ, cả hai bèn tìm một quán trọ nghỉ chân.



Xa xa Bác Phụ sơn đang bốc cháy phừng phừng, ngày cũng như đêm, rọi sáng cả bầu trời.



Trời nóng như thiêu khiến tiểu nhị trong quán cũng ỉu xìu ngồi ỳ ra, thấy một nam một nữ sánh vai bước vào, nam tử bộ dạng nhếch nhác, vạt áo đỏ nhuốm bụi đường, y chẳng buồn nhấc mình đứng dậy, bèn vờ như không thấy.



Xi Vưu hô lớn: “Mau mang rượu ra đây, khát cháy cổ rồi.”



Tiểu nhị lườm hắn rồi xòe năm ngón tay ra: “Một bình nước sạch năm ngọc tệ[1]!” Tỏ ý rằng ngươi uống nổi không?



[1] Người thời xưa dùng ngọc làm vật trung gian để trao đổi lưu thông hàng hóa (tương tự như tiền ngày nay), gọi là ngọc tệ. (ND)



Xi Vưu cũng lườm lại y, đúng là không uống nổi! Nhưng hắn vẫn ti tởn nhìn sang Tây Lăng Hành. Suốt dọc đường hắn vẫn ăn chực uống nhờ nàng, Tây Lăng Hành cũng đả quen, bèn móc hầu bao ra đếm, vừa đúng năm ngọc tệ.



“Uống nước mà nhịn ăn thì đâu có được.” Xi Vưu lo lắng nói: “Vậy ngươi có tiền...” Tây Lăng Hành còn chưa nói hết đã thấy Xi Vưu một tay xòe ra, tay kia chỉ chỉ đôi khuyên ngọc thạch trên tai mình, “Gán thêm đôi hoa tai kia đi, tuy chất ngọc không tốt lắm nhưng chắc cũng đổi được bữa cơm đó.”



Tây Lăng Hành cười khẽ, tháo hoa tai ra đặt vào tay Xi Vưu.



Tiếu nhị vội vàng vơ lấy hoa tai và ngọc tệ, trước khi đi vào trong còn lườm Xi Vưu thêm cái nữa, y đã gặp khối kẻ vô lại nhưng chưa thấy ai vô lại đến thế này!



Tiểu nhị bưng nước và đồ ăn ra, Xi Vưu liền rót ngay cho mình một chén, mặc Tây Lăng Hành cau mày nhìn về phía “Hỏa Diệm sơn” đằng xa.



Vừa thong thả nhấp từng ngụm nước, Xi Vưu vừa nheo mắt ngắm Tây Lăng Hành, ánh mắt sâu xa tựa một con báo vừa tỉnh ngủ đang uể oải quan sát con mồi.



Dường như Tây Lăng Hành cũng cảm nhận được cái nhìn của Xi Vưu liền ngoảnh phắt lại, nhưng chỉ thấy Xi Vưu đang lén lút rót thêm chén nữa.



Bị nàng phát giác, hắn đành cười hì hì: “Cô uống không?” Rồi đứa chén nước tới trước mặt nàng.



Tây Lăng Hành dịu dàng lắc đầu, “Ngươi uống thêm chút đi!”



Nàng gọi tiểu nhị lại hỏi: “Nghe nói Bác Phụ quốc mưa thuận gió hòa, muôn dân an cư lạc nghiệp, sao lại thành ra thế này?”



“Mấy chục năm trước quả đúng là mưa thuận gió hòa, lúa gạo bội thu nhưng chẳng biết tự lúc nào Bác Phụ sơn bắt đầu bốc cháy, khí hậu càng lúc càng khô hạn, nước càng ngày càng khan hiếm, dân chúng vì giành nhau giọt nước mà xung đột, ở nơi này mạng người còn không bằng bát nước đó!” Tiếu nhị nhìn quầng lửa phía cuối trời than thở: “Người già đều nói lửa trên Bác Phụ sơn là do thần tiên nhen lên để trừng phạt chúng ta, nhưng rốt cuộc chúng ta đã làm sai điều gì cơ chứ?”



Chợt một lão già tuổi chừng lục tuần, để râu dê, đeo cây tam huyền cầm bước vào quán, sắc mặt lão đỏ tía, mồ hôi đẫm cả trán, run rẩy nói với tiểu nhị: “Xin tiểu ca cho lão ngụm nước.”



Tiếu nhị đã quen với cảnh này nên chỉ xị mặt đứng im. Lão già liền khom lưng van vỉ mấy vị khách lác đác trong quán: “Vị khách quan nào ban cho lão ngụm nước đi?”



Mọi người đều ngoảnh mặt làm ngơ.



“Lão lại đây ngồi đi!”



Lão già vội chạy lại, Tây Lăng Hành định rót nước cho lão, Xi Vưu vội giữ chặt lấy bình, liên tục đứa mắt ám chỉ nàng đã hết tiền. Tây Lăng Hành giật lấy bình nước, hắn lại giằng lại, bình nước cứ chạy sang trái rồi chạy sang phải, ánh mắt lão già cũng đảo lia lịa, hết sang trái rồi sang phải.



Trái phải, trái phải...



Sau mấy vòng, lão đã thấy đầu váng mắt hoa, suýt té xỉu.



Tây Lăng Hành đập cho Xi Vưu một cái khiến hắn phải hậm hực buông tay ra, lão già kia cũng thở phào nhẹ nhõm, run run ngồi xuống.



Hớp được miếng nước, sắc mặt láo khá hẳn lên, bèn quay sang cảm tạ Tây Lăng Hành: “Đa tạ ơn cứu mạng của tiểu thư, lão đây chẳng có gì báo đáp, đành đàn tặng nàng một khúc, kể một chuyện lạ coi như để tạ ơn vậy.” Lão so dây hắng giọng cất lời: “Vừa nãy nghe tiểu thư hỏi về lửa trên Bác Phụ sơn, lão đành đánh liều nói thật. Thật ra lửa trên Bác Phụ sơn nào phải lửa trời trừng phạt phàm nhân, mà là ngọn lửa vô danh do Hỏa thần Chúc Dung nhen lên đấy thôi. Vì Bác Phụ sơn thông với địa hỏa, hỏa linh dồi dào, Chúc Dung muốn luyện hỏa linh của mình nên đã dẫn địa hỏa lên, biến cả ngọn núi thành lò luyện công của hắn, các thôn xóm xung quanh vốn chung sống thuận hòa vậy mà nay ngày ngày đâm chém nhau tranh giành giọt nước, trai tráng không chết dưới đao thì què chân cụt tay, những kẻ có cơ hội thoát đều bỏ đi tha hương, còn lại toàn cô nhi quả phụ, chỉ tội cho cây cỏ vùng này, không tay không chân muốn chạy cũng chẳng chạy nổi...”



Xi Vưu ngắt lời lão, vẻ hoảng hốt, “Im ngay! Dám chỉ trích Thần tộc, lão không cần mạng nhưng chúng ta còn cần đó!”



Lão già chăm chú nhìn Tây Lăng Hành không đáp, như đang mong đợi điều gì, hồi lâu mới ôm cây tam huyền cầm lên lẳng lặng bỏ đi.



Tây Lăng Hành dõi mắt nhìn về phía “Hỏa Diệm sơn” trầm ngâm. Dập lửa không khó, nhưng Chúc Dung nào dễ đối phó! Hắn là một trong mười cao thủ đứng đầu Thần tộc, nghe nói tâm địa rất hẹp hòi, chỉ cần sơ ý trừng mắt một cái cũng bị hắn ghi hận, nếu hủy lò luyện công của hắn e rằng phải đền mạng thật.



Xi Vưu bỗng ghé tai Tây Lăng Hành thì thầm: “Ta thấy lão già đó có vấn đề, nói là khát gần chết nhưng trán lại đầy mồ hôi, chẳng giống người thiếu nước chút nào, không hiểu định giở quỷ kế gì nữa.”



Tây Lăng Hành gật đầu, “Ta cũng thấy thế, lão không phải là người... không phải một ông lão bình thường.” Lão già vốn thuộc Yêu tộc, linh lực không tệ, tiếc rằng Mộc yêu bản tính sợ lửa, lão cũng vì cứu đám cây cỏ quanh đây mà tới, định dò xem nàng có linh lực hay không, tuy dụng tâm riêng nhưng chẳng có ác ý.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 28-11-2013 07:46 PM
Chương II


Lỡ Vướng Phải Lưới Trần Giăng Mắc


II.3


Nhân lúc Xi Vưu nghỉ ngơi, Tây Lăng Hành lén bỏ đi, tới Bác Phụ sơn.



Vì địa nhiệt nên quanh Bác Phụ sơn đầy rẫy hiểm nguy, các kẽ nứt trên mặt đất chốc chốc lại phụt khí nóng rực, ở một vài nơi, bề mặt trông có vẻ bằng phẳng nhưng bên dưới có lẽ đã tan chảy cả.



Tây Lăng Hành thận trọng vòng tránh luồng khí nóng phụt lên, chật vật đi về phía Bác Phụ sơn. Nàng vừa nhấc chân phải dợm bước, chợt một tiếng la thảm vang lên, nàng ngoái lại thấy Xi Vưu đụng phải luồng khí, bị bỏng ngã lăn ra đất, bèn chạy tới đỡ hắn dậy, “Sao ngươi lại đến đây?”



Bỗng nghe sau lưng nổ uỳnh một tiếng, khí nóng ập tới, Tây Lăng Hành lập tức lấy thân mình chắn cho Xi Vưu, xốc hắn nhảy ra ngoài.



Chỗ nàng suýt giẫm xuống khi nãy đã biến thành một cái lỗ sâu hoắm không thấy đáy, hơi nước bốc lên nghi ngút tựa một con rồng lớn xông thẳng lên trời, đến đá tảng cũng nát thành bột mịn.



Tây Lăng Hành toát mồ hôi lạnh, chẳng dám tưởng tượng nếu vừa nãy mình đặt chân xuống thì sẽ ra sao.



Xi Vưu ôm chặt lấy nàng ngượng nghịu nói: “Tây Lăng cô nương, ta chưa kết hôn đâu, nếu cô muốn làm vợ ta, ta phải về hỏi ý mẹ trước đã.”



“Hả?” Đang hoảng hốt, Tây Lăng Hành chảng hiểu hắn nói gì, nhưng thấy mình đè lên người hắn, hai tay còn ôm lấy hắn, nàng liền đỏ mặt đứng dậy, “Ta không phải... Ta cũng vì cứu ngươi thôi. Phải rồi, sao ngươi lại tới đây?”



“Sao cô lại tới đây?” Xi Vưu vặn lại.



“Ta định hủy...” Tây Lăng Hành bực bội, “Ta đang hỏi ngươi cơ mà!”



“Ta cũng đang hỏi cô đó! Cô nói trước đi rồi ta nói!”



Biết tỏng tính ngang ngược của hắn, Tây Lăng Hành liền quay mình bỏ đi, “Ngươi thấy rồi đấy, nơi này nguy hiểm lắm, mau về đi!”



Thận trọng lấn từng bước, Tây Lăng Hành cũng đi được một quãng đường, trông thấy một khoảnh đất bùn thủng lỗ chỗ, thăm dò thấy không có gì nguy hiểm, nàng đang định tiến vào thì lại nghe tiếng la thảm phía sau.



Xi Vưu ôm lấy một bên chân bị phỏng dung nham, vừa đau đớn nhảy dựng lên vừa nghiến răng nghiến lợi vẫy tay với nàng.



“Sao ngươi còn đi theo ta, không sợ chết à!”



“Ai thấy nấy có phần, ta cũng không lấy nhiều đâu, bốn phần là đủ rồi!”



“Thấy cái gì, ngươi muốn chia cái gì thứ?”



“Thì bảo bối đó! Cô lén lén lút lút, thậm thà thậm thụt, chẳng phải đi đào của báu sao?”



“Ta đâu có đi đào của báu!”



Xi Vưu lắc đầu đáp: “Chim chết vì mồi, người chết vì tiền, ta thông minh lắm, cô đừng hòng lừa!”



Đã tới tận đây rồi, muốn quay về cũng khó, Tây Lăng Hành chẳng biết làm sao, đành đi tiếp, “Ngươi phải bám theo ta, đừng chạy lung tung đấy.”



Xi Vưu gật đầu lia lịa, nắm chặt lấy chéo áo nàng, vẻ mặt căng thẳng.



Vì vướng Xi Vưu lằng nhằng quấy rối nên phải lát sau Tây Lăng Hành mới quay lại khoảnh đất bùn khi nãy được. Nhìn từng bọt nước vàng nổi lên từ đám đất bùn, Xi Vưu liền hăm hở chạy đến, “Đẹp quá!”



Tây Lăng Hành kéo hắn lại, “Đó là khí độc dưới lòng đất đó!” Nàng thầm hú vía, nếu chẳng phải tên lưu manh kia quấy nhiễu, nàng đã bước vào đó rồi.



Tây Lăng Hành dẫn Xi Vưu đi đường vòng, hết một ngày, cuối cùng cũng tới chân Bác Phụ sơn an toàn.



Hơi nóng bốc lên hừng hực như muốn thiêu chín người, Xi Vưu rên la không ngớt, còn A Hành chỉ nắm chặt tay hắn, ra sức dùng linh lực bao quanh thân thể hắn, mặc bản thân càng lúc càng đuối sức, may sao quần áo khoác trên mình nàng do mẫu thân pha lẫn tơ Băng Tằm vào dệt thành nên mới khắc chế được địa hỏa.



Đi thêm một đoạn, Xi Vưu mặt đã đỏ bừng, khò khè nói: “Ta không đi nổi nữa rồi, cô tự lên núi mà đào của báu đi, cứ mặc ta, ta đợi cô ở đây.”



“Đã bảo không phải đi đào kho báu rồi mà!” Để hắn lại đây e rằng chưa tới một tuần trà, hắn đã bị hỏa linh ăn mòn, tan thành mây khói. Tây Lăng Hành nghĩ ngợi rồi cởi áo ngoài ra.



Mặc Xi Vưu vùng vằng không chịu mặc đồ con gái. Tây Lăng Hành cứ khoác lên người hắn, vừa choàng vào, hắn đã thấy toàn thân mát rượi, “Cái gì thế?”



“Ngươi cứ khoác vào đi”, Tây Lăng Hành gượng cười, linh lực của nàng vốn đã không cao, giờ chẳng còn áo choàng, lại phải lo cho hắn, quả rất nhọc sức.



Xi Vưu vừa đi vừa nhìn Tây Lăng Hành, thấy mặt nàng đỏ bừng, rõ ràng sau khi đưa áo cho hắn nàng càng mệt mỏi hơn.



Đang đi, Xi Vưu chợt mỉm cười ranh mãnh, vừa nhoẻn miệng chân hắn đã bước hụt, ngã khuỵu xuống đất, Tây Lăng Hành định đỡ hắn dậy nhưng chỉ hơi nhúc nhích, hắn đã la toáng lên.



Tây Lăng Hành rờ chân hỏi xem hắn đau chỗ nào nhưng Xi Vưu chỉ rên rỉ, mặt trắng bệch, rõ ràng là không đi nổi nữa.



“Để ta cõng ngươi!” Tây Lăng Hành khom người nói.



Xi Vưu chẳng chút khách khí, liền cười hì hì bám lấy nàng, “Vất vả cho cô rồi!”



Tây Lăng Hành hì hục leo núi, chẳng biết do ảo giác hay do tiêu tốn quá nhiều linh lực mà Xi Vưu trên lưng càng lúc càng nặng thêm, về sau nàng cảm thấy như mình không phải đang cõng người mà là cõng một quả núi nhỏ, xém nữa ngã lăn ra.



“Sao ngươi nặng thế?”



Tấm lưng Xi Vưu đã hóa đá, khiến tất cả trọng lượng của núi non quanh đó tụ lại đè lên mình Tây Lăng Hành, nhưng ngoài miệng hắn vẫn càu nhàu: “Cô có ý gì? Nếu không thích cõng thì cứ bỏ xuống đi! Ta liều mạng lên núi đào của với cô, thế mà thừa dịp ta bị thương, cô lại định bỏ mặc ta!”



“Ta đâu có ý đấy, chỉ là thấy ngươi nặng quá thôi mà...”



“Cô thấy ta nặng quá à? Lẽ ra ta không được để cô cõng, đúng không? Nhưng tại cô mà ta bị thương đó! Giờ cô thấy ta phiền phức, chỉ mong cho ta chết quách đi chứ gì! Thế thì cô cứ vứt ta xuống, mặc ta chết luôn ở đây đi! Ôi, thật tội nghiệp cho bà mẹ già tám mươi vẫn đợi ta ở nhà..,” Xi Vưu nức nở khóc nói.



“Thôi thôi được rồi, coi như ta sai!”



“Cái gì là ‘coi như’ cô sai?” Xi Vưu vẫn chưa chịu thôi, vùng vẫy muốn tuột xuống.



Tây Lăng Hành đành nuốt giận nói cho qua chuyện “Là ta không đúng.”



Vừa hì hục cõng Xi Vưu, nàng vừa phải tránh các cạm bẫy dưới chân, lại phải luôn đề phòng những quả cầu lửa bay xuống, suốt dọc đường vô cùng nguy hiểm, mấy lần suýt nữa táng mạng, thế mà hắn còn càu nhàu chê nàng cõng không vững.



Tây Lăng Hành giận đến nghiến răng nghiến lợi nhưng chẳng thể bỏ mặc chuyện sống chết của hắn, đành vừa rủa thầm vừa thề rằng qua đận này nhất định sẽ tuyệt giao với gã vô lại này!



Chật vật mãi mới leo được lên sườn dốc gần đỉnh núi, Tây Lăng Hành bèn đặt Xi Vưu xuống, mồ hôi đầm đìa, khắp người lấm lem đất cát, chỉ mình hắn là khoan khoái nhẹ nhàng, sạch sẽ tinh tươm vì chẳng phải đi đường cũng không cần phí sức.



Đang lau mồ hôi trán, Tây Lăng Hành chợt thấy có gì đó không ổn, nhận ra tên Xi Vưu ba toác đã nín lặng hồi lâu, nàng lo lắng ngoảnh lại mới thấy hắn đang nhìn mình chăm chú khác thường, bộ dạng vô cùng ngang ngược lếu láo, chẳng coi thiên hạ ra gì.



Tây Lăng Hành giật thót mình, cảm thấy như Xi Vưu đã trở thành một con người khác, “Ngươi... làm sao thế?”



Xi Vưu nhoẻn miệng cười, trơ trẽn túm lấy tay nàng nói: “Hay là cô làm vợ ta đi, cô khỏe thế này làm ruộng chắc giỏi lắm.”



Đúng là đồ lưu manh mặt dày!



Tây Lăng Hành chẳng buồn đáp, chỉ giật tay hắn ra, ngoảnh đầu nhìn ngọn lửa bừng bừng bốc lên trời, thầm cảm thán: Chúc Dung không hổ là Hỏa thần, một lò luyện công mà cũng uy thế nhường này, dù nàng có dập được lửa, e rằng cũng khó thoát nổi sự truy sát của hắn, đành tới đâu hay đó thôi.



Tây Lăng Hành rút ra một chiếc “tráp ngọc”, nhìn giống bạch ngọc nhưng thực tế lại là huyền băng vạn năm, từ bên trong hai con Băng Tằm vương gần như trong suốt có đôi cánh mỏng tựa tơ cựa mình chui ra khỏi mảnh băng.



Không khí xung quanh dường như ngay lập cức lạnh cứng, Xi Vưu ôm vai run bần bật. Tây Lăng Hành đưa tráp ngọc cho hắn, dặn, “Đứng sau lưng ta nhé.”



Dứt lời nàng vận linh lực xua hai con Băng Tằm vương bay lên, nhả tơ dệt thành một tấm lưới dày đặc bao quanh ngọn lửa, lưới càng kết càng dày, sắc mặt nàng cũng càng lúc càng đỏ bừng, mồ hôi ròng ròng đầy trán.



Sau cùng tấm lưới Băng Tằm khổng lổ cũng giăng xong, Tây Lăng Hành thúc động linh lực chụp lưới xuống, dập lửa từ từ từng chút một, nhưng khi đến gần miệng núi, địa hỏa chợt bùng lên rừng rực như muốn phá lưới xông ra khiến nàng bị chấn động phải lùi liền ba bước, suýt nữa ngã xuống dốc, may mà Xi Vưu đỡ kịp.



Tây Lăng Hành chẳng buồn lên tiếng, chỉ gật đầu tỏ vẻ cảm ơn rồi gắng vận lực tiếp tục khép lưới lại, nhưng ngọn lửa chẳng hề bị áp chế mà còn bốc cao hơn, sắc mặt nàng cũng từ đỏ đổi sang trắng, càng lúc càng trắng bệch, thân hình lảo đảo muốn ngã.



Bỗng nàng thấy cổ họng ngòn ngọt bèn hộc ra một ngụm máu, bắn tóe lên mặt lưới, uỳnh một tiếng, tấm lưới tỏa ra bạch quang chói lọi, nhưng hồng quang cũng bùng lên, nuốt trọn lấy bạch quang. Ngọn lửa bên trong đã chọc thủng lưới, tạt về phía Tây Lăng Hành. Bị hơi nóng táp vào mặt, Tây Lăng Hành thấy trước mắt tối sầm, ngã lăn ra ngất xỉu.



Bấy giờ hết thảy người qua lại trên đường đều trợn tròn mắt nhìn về phía Bác Phụ sơn.



Hồng quang đang rực rỡ ngập trời đã bị vầng sáng như một tấm lưới bạc dồn ép nhỏ dần lại, cả bầu không khí cũng dịu hẳn đi, đột nhiên ánh lửa sắp lụi tàn thình lình bùng lên, tấm lưới bạc biến mắt, ngọn lửa lại chiếu đỏ rực một góc trời.



Giữa lúc thế lửa đang bừng bừng dữ dội, đột nhiên một đạo bạch quang chói lòa vút lên khiến ai nấy giờ đều phải nhắm mắt quay đi.



Khi mọi người mở được mắt ra thì đã chẳng thấy bạch quang lẫn hồng quang đâu nữa, trời đất xung quanh cũng tối sầm cả lại.



Trên nền trời thăm thẳm âm u tựa một mảnh thủy tinh đen nguyên chất, muôn ngàn ánh sao lấp lánh, làn gió hây hây mang theo hơi sương đêm mát lạnh cứ thế ùa vào mặt.



Đêm hôm đó cũng như bao đêm khác giữa đất trời này, nhưng mấy chục năm nay. Bác Phụ quốc chưa từng có buổi đêm nào như thế.



Mọi người đều ngơ ngác đứng nhìn lên bầu trời, như thể cả Bác Phụ quốc đã trúng phải định thân chú.



Một lúc lâu sau, từ những kẽ đất nứt nẻ bỗng phun ra bao nhiêu cột nước, cột thấp cột cao tạo nên những đóa hoa nước tuyệt đẹp, từng đóa nở xòe trong màn đêm, tuy không rực rỡ chói lọi nhưng dưới mắt những kẻ đã chịu hạn hán lâu ngày, đó vẫn là loài hoa đẹp nhất.



Vừa trông thấy nước, tất cả người trên phố đều nhảy cẫng lên reo hò, bất kể quen hay lạ cũng ôm chầm lấy nhau, người già thì mừng mừng tủi tủi vốc nước đổ vào miệng, trẻ nít thì chạy nhảy nô đùa giữa những cột nước. Trẻ con Cự Nhân[2] tộc cầm máng đá, trẻ con người phàm xách thùng gỗ, hứng nước té vào nhau, vừa té vừa cười.



[2] Người khổng lồ. (ND)



Tây Lăng Hành mở mắt bừng tỉnh, liền trông thấy cả bầu trời đầy sao láp lánh, tĩnh lặng mà mỹ lệ.



Nàng ngẩn người một thoáng mới nhận ra mình đang ở đâu. “Lửa tắt rồi kìa, lửa tắt rồi!” Nàng xúc động lay lay Xi Vưu đang hôn mê, hắn mơ màng mở mắt, rồi trợn trừng mắt kinh ngạc, lắp bắp hỏi: “Hết, hết lửa rồi kìa! Là cô dập tắt đám cháy rừng hả?”



Tây Lăng Hành nghi hoặc nhìn hắn, “Ta củũng chẳng biết là ai dập nữa, có khi là ngươi đấy.” Trước lúc hôn mê, rõ ràng nàng thấy ngọn lửa ngút trời đang ập xuống mình, còn ngỡ rằng phen này không chết ắt cũng trọng thương.



Xi Vưu liền nhảy dựng lên, hào khí xông mây vô ngực cất tiếng: "”Là ta chứ còn ai nữa! Ta thấy hai con tằm béo sắp bị lửa nuốt liền tập trung linh lực toàn thân ném cái tráp ra, hừm, linh lực của ta mạnh lắm, lửa tắt ngúm ngay!” Vẻ mặt hắn dương dương đắc ý, dường như đang tưởng tượng ra lát nữa xuống núi sẽ được vạn dân dập đầu cảm tạ.



Thái độ tranh công của hắn không ngờ lại giải tỏa được nghi vấn trong lòng Tây Lăng Hành, nàng cười phá lên, xem ra đúng là mèo mù vớ cá rán, một kẻ đến Băng Tằm vương cũng không biết, địa hỏa thì nói là cháy rừng, học mót ở đâu được chút pháp thuật giang hồ tạp nham lại tưởng là mình có linh lực cao cường.



Xi Vưu hâm hực hỏi: “Cô cười gì đó?”



Tây Lăng Hành cười khúc khích đáp: “Ngươi quên ngọn lửa đó do ai tạo ra à? Là Chúc Dung nhen lên đó, tính tình hắn còn hung hãn hơn lửa của hắn nữa, hắn chỉ cần búng tay một cái...” Nàng nhìn Xi Vưu, “... có thể đốt ngươi thành tro bụi!”



Xi Vưu rùng mình, mặt lộ vẻ thấp thỏm lo lắng, bắt đầu lẩm bẩm đùn đẩy trách nhiệm, “Thật ra lúc đó ta sợ cuống cả lên, thấy ngọn lửa đột nhiên bốc cao bèn quăng tráp ngọc bỏ chạy, rồi ngã bịch một cái, không biết gì nữa.”



Thấy gã lưu manh này cuối cùng cũng biết nhún nhường, Tây Lăng Hành liền cười khanh khách đẩy hắn xuống núi, vừa đi vừa hô lớn: “Người hùng dập lửa đến đây!”



Xi Vưu nắm chặt tay Tây Lăng Hành, mặt tái mét, “Đừng nói linh tinh, ta đâu có dập lửa.” Tây Lăng Hành cười ngặt nghẽo, vẫn không ngừng la lớn, “Người hùng dập lửa ở đây này!”



Tất cả mọi người đều xúm lại quỳ xuống trước mặt họ.



Tây Lăng Hành đẩy Xi Vưu vào giữa đám đông rồi bước tới trước mặt mọi người hùng hồn nói: “Lửa là do ta dập!” Nàng trừng mắt nhìn Xi Vưu, thầm rủa: hừ, đồ chết nhát, ta đùa ngươi thôi!



Mọi người đều té nước vào Tây Lăng Hành, nàng vừa tránh vừa cười vang vui sướng, “Các người nhớ nhé, tên ta là Tây Lăng Hành, nếu có người hỏi ai dập lửa, cứ nói là Tây Lăng Hành.”



Đám đông đang chìm trong hân hoan vừa té nước vừa cười đáp: “Tây Lăng, Tây Lăng, là Tây Lăng cô nương cứu chúng tôi.”



Chen chúc giữa đám đông, Xi Vưu lặng lẽ nhìn Tây Lăng Hành miệng cười người né, ánh mắt thăm thẳm lạ thường, nụ cười uể oải trên môi thoáng vẻ dịu dàng.





Sáng hôm sau, lúc hắn tỉnh dậy, Tây Lăng Hành đã bỏ đi đâu không biết.



Tiểu nhị cười hì hì đưa cho hắn một bình nước, “Tây Lăng cô nương đi trước rồi, hôm nay chẳng ai mua nước cho ngươi đâu, có điều bây giờ Bác Phụ miễn phí nước!”



Xi Vưu đón lấy bình nước, hững hờ cảm tạ.



Tên tiểu nhị sững sờ, thấy người trước mặt hình như khác hẳn hôm qua.



Bỗng trên trời vang lên mấy tiếng chim kêu nhưng chẳng ai để ý, chỉ mình Xi Vưu đứng bật dậy mở cửa sổ.



Trên nền trời xanh biếc, mắt người thường chỉ trông thấy một chấm đen nho nhỏ, phải chú ý mới nhận ra, nhưng hắn lại thấy đó là một con Tất Phương điểu khổng lồ, trên lưng còn có Hỏa thần Chúc Dung, kẻ nắm giữ toàn bộ lửa trong thiên hạ.



Xi Vưu hết sức kinh ngạc, hắn biết Chúc Dung sẽ nổi giận nhưng chẳng ngờ hắn lại giận đến nỗi bất chấp thân phận, đích thân ra tay truy sát Tây Lăng Hành, kẻ hủy lò luyện công của mình. Nếu bị hắn bắt được, hẳn nàng không còn đất sống.



Xi Vưu đặt vội chén xuống bước ra ngoài, thoạt nhìn có vẻ thong thả nhưng chỉ nháy mắt, bóng hắn đã biến mất giữa đồng hoang.

Hết CHương II

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 29-11-2013 02:24 PM
Chương 3


Hẳn duyên xưa trúc chắc chi đây


3.1


Vừa đi vừa thấp thỏm, sau cùng Tây Lăng Hành dừng bước, ngoảnh sang phải rồi ngoảnh sang trái, thấy chẳng có ai cả, nàng vừa thở phào nhẹ nhõm, tươi cười quay đầu lại, lập tức trợn tròn mắt lên.

Xi Vưu đang đứng ngay đằng trước, vẻ mặt bực bội, nghển đầu nhìn về phía sau nàng, dường như không hiểu sao nàng lại lén lén lút lút thế này. Hắn ghé tai Tây Lăng Hành căng thẳng hỏi: “Sao thế? Có tên vô lại nào bám đuôi chúng ta ư?”

Một tháng sau, bên bến sông Mân.

Cỏ biếc lưa thưa, hạnh hoa đọng tuyết, vầng tịch dương đỏ ối chênh chếch rọi mặt sông, ráng hồng chiếu xuống khiến nửa dòng sông đỏ rực, nửa kia lại biếc xanh. Giữa dòng tấp nập thuyền bè qua lại, một chiếc thuyền đậu bên bến sông.

Nhà thuyền hô lớn, chống sào chuẩn bị rời bến.

“Đợi đã! Nhà thuyền đợi đã! Cứu mạng cứu mạng!”

Thiếu nữ áo xanh vừa chạy vừa thét. Nhà thuyền đang chần chừ chẳng biết nên dừng hay không thì lại thấy một nam tử áo đỏ đuổi sát sau lưng thiếu nữ, hung hăng quát: “Đứng lại, cô đứng lại đó cho ta!”

Nhà thuyền lắc đầu than thở, đúng là phong hóa suy đồi, thói đời hiểm ác mà!

Y chậm tay chèo chốc lát đợi thiếu nữ áo xanh nhảy lên rồi lập tức ra sức khua chèo, đẩy thuyền lướt đi băng băng. Nào ngờ nam tử kia đã đuổi kịp vào phút chót, vừa hay nhảy được xuống thuyền.

Thiếu nữ áo xanh hốt hoảng, vội cố sức trốn vào giữa đám người.

Nam tử áo đỏ túm chặt lấy cô, “Ta xem cô còn trốn đi đâu?”

Nhà thuyền lặng lẽ nắm lấy con dao chặt củi giấu dưới sàn thuyền.

“Tây Lăng cô nương, ơn cứu mạng thật không có gì đền đáp, để ta lấy thân trả ân đi mà.” Nam tử áo đỏ có vẻ rất thành khẩn, trong khi thiếu nữ kia mặt ủ mày chau, con dao của nhà thuyền cũng khựng lại giữa chừng.

Nam tử áo đỏ ngoảnh lại trừng mắt nhìn nhà thuyền, “Ngươi cầm dao làm gì đó, có phải chúng ta định quỵt tiền đâu?” Nói đoạn hắn quăng một nắm tiền vỏ sò vào lòng y.

Thiếu nữ áo xanh đang định lẩn đi thì bị hắn kéo lại, “Xuống thuyền chúng ta sẽ tìm một quán trọ nghỉ ngơi rồi bàn tính chuyện chung thân đại sự.”

Thiếu nữ áo xanh dường như chán chẳng buồn phản đối nữa, chỉ ôm lấy tay nải ngồi phịch xuống.

Gã trai vẫn ngồi chồm hỗm bên cạnh nàng thao thao bất tuyệt: “Cô xem, ta dung mạo anh tuấn, gia tư giàu có, linh lực cao cường, đúng là ngàn người chọn một đó nha…”

Người trên thuyền đều đổ dồn mắt vào hắn, nhìn từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, nhưng vẫn không sao kết nối được kẻ đang ngồi trước mặt mình với hình ảnh hoa mỹ kia. “

Hơn nữa chúng ta ôm ấp cũng ôm ấp rồi, ở ngoài đồng hoang cô còn tựa lưng vào lòng ta, thân thể dán sát lấy nhau…” Người trên thuyền lại dồn mắt về phía thiếu nữ áo xanh tỏ vẻ khinh miệt, hèn chi tên lưu manh kia tìm đến nàng, hóa ra nàng ta cũng thuộc phường sa đọa.

“Là ngươi áp ngực vào lưng ta, đâu phải ta tựa lưng vào lòng ngươi!” Thiếu nữ tái mặt quát.

Có khác gì nhau đâu? Người trên thuyền càng khinh bỉ nàng hơn. “Là hắn bị thương nên tôi mới cõng…” Trước ánh mắt kỳ thị của mọi người, thiếu nữ áo xanh lí nhí phân bua, nghe như tiếng muỗi vo ve, rồi chẳng dám nhìn mặt đám người kia nữa, nàng đành ngẩng lên lặng lẽ hỏi trời xanh.

Thuyền đi chặng nào, nam tử áo đỏ kia lại thao thao chặng nấy, còn chưa cập bến thiếu nữ áo xanh đã nhảy tót lên bờ chạy mất.

Nam tử áo đỏ ngoảnh đầu nhìn về phía cuối trời như muốn xác định gì đó, chỉ trong nháy mắt, hắn cũng nhảy lên bờ đuổi theo thiếu nữ áo xanh, “Đứng lại! Đứng lại! Cô đứng lại cho ta!”

Nhà thuyền lắc đầu than thở, đúng là phong hóa suy đồi, phong hóa suy đồi mà!

Thiếu nữ thở hổn hển chạy vào quán trọ, vừa ngồi xuống đã thấy hắn chạy ào vào theo, ngồi đối diện với nàng.

Nàng liền hung hăng gọi đầy một bàn đồ ăn rồi chỉ nam tử áo đỏ bảo tiểu nhị: “Ta không có tiền đâu, cứ để hắn trả.” Lại ấn cốc nước vào tay hắn, “Ngươi nói suốt ngày chắc cũng khô cổ rồi, uống nước đi.”

Thiếu nữ áo xanh là Tây Lăng Hành, nam tử áo đỏ đương nhiên là gã lưu manh Xi Vưu mà nàng đụng phải gần Bác Phụ quốc. Tây Lăng Hành dập tắt lửa cho Bác Phụ quốc rồi nhân nửa đêm chuồn thẳng, nào ngờ sẩm tối hôm sau lại gặp Xi Vưu, hắn cảm tạ ân đức của nàng, rồi nàng đã cứu hắn, cứu ca ca hắn, cứu đệ đệ hắn, cứu cháu hắn, cứu con chó của cháu hắn, cứu luôn cả chú chuột mà con chó đó chưa kịp vồ… Tóm lại là đã cứu cả nhà hắn, cứu cả Bác Phụ quốc, bởi vậy kẻ làm nam nhi như hắn phải báo ơn, vừa khéo đôi bên đã đụng chạm da thịt với nhau, lại vô cùng ăn ý, hắn đành hy sinh bản thân, lấy thân báo đáp thôi.

Thoạt đầu Tây Lăng Hành chỉ coi chuyện đó như trò cười, nhưng bị hắn đuổi riết suốt một tháng trời, nàng mới hiểu ra đây chẳng phải trò đùa mà là quyết định cố chấp của kẻ điên.

Nốc cạn một cốc nước đầy, Xi Vưu đang định cất tiếng thì Tây Lăng Hành đã nhanh tay nhét luôn cái đùi gà vào miệng hắn, “Oa! Chúng ta ăn cơm trước rồi bàn bạc chuyện ngươi lấy thân báo đáp sau nhé!”

Cả quán trọ nhốn nháo chợt lặng phắc như tờ, mọi ánh mắt dồn về phía hai người, tìm kẻ thốt ra câu đó.

Tây Lăng Hành cũng bắt chước mọi người nhìn ngang ngó dọc, vờ như không phải mình nói ra.

Mọi người liếc qua hai bọn họ rồi lại quay sang tiếp tục nói về chuyện hạn hán. Bỗng hai chữ “Thiếu Hạo” lọt vào tai Tây Lăng Hành, nàng liền dỏng tai lắng nghe.

Năm nay trời làm đại hạn, thiệt hại nặng nhất là vùng giáp ranh giữa Thần Nông và Cao Tân, đám nạn dân cùng đường họp nhau dậy loạn, dám giết hại cả Thần tộc khiến Tuấn Đế nổi giân, Đại vương tử Thiếu Hạo bèn chủ động xin đi trấn áp loạn dân.

Thiếu Hạo vốn đã vang danh thiên hạ từ một ngàn tám trăm năm trước. Nghe nói năm đó y một thân bạch y, một thanh trường kiếm, bức mười vạn quân Thần Nông quốc dưới chân thành phải thoái lui, phong thái hào hoa khiến anh hùng thiên hạ đều nghiêng mình kính nể, nhưng y tựa như vệt sao băng lướt qua trời, vừa thành danh đã tuyệt tích, hơn ngàn năm nay chưa từng xuất hiện giữa nhân gian.

Suốt ngàn năm nay, Thiếu Hạo đã trở thành một truyền thuyết. Nghe nói y thích ủ rượu gảy đàn, rượu y ủ có thể khiến kẻ sống quên sầu, người chết ngậm cười, đàn y gảy có thể khiến xuân về khắp chốn, muôn hoa đua nở. Thiếu Hạo còn thích nghề rèn, Cao Tân tộc vốn là Thần tộc chuyên chế tạo binh khí, phần lớn binh khí trên đời đều do thợ rèn trong tộc làm ra, mà thợ rèn giỏi nhất Cao Tân tộc chính là Thiếu Hạo, y thần lực cao cường, mỗi binh khí tạo ra đều là tuyệt thế thần binh, nhưng chẳng hiểu sao hễ thứ gì vừa ra lò, y liền tiêu hủy ngay lập tức, bởi vậy đến giờ cũng chưa ai được thấy binh khí do Thiếu Hạo chế ra, có điều Thần tộc vẫn tin chắc rằng Thiếu Hạo chính là tay thợ rèn ưu tú nhất.

Nhìn phục sức có lẽ kẻ đang nói là người Cao Tân, giọng điệu đầy vẻ sùng kính Thiếu Hạo, y hào hứng kể lể mà quên rằng nơi này dù sao cũng nằm trong biên giới Thần Nông quốc, khó tránh nhiều người Thần Nông thấy chướng tai, buông lời chế giễu: “Toàn nói láo!”

Như hòn sỏi ném xuống mặt hồ làm gợn lên ngàn đợt sóng, đám dân Thần Nông trong quán nhao nhao cả lên, mồm năm miệng mười gièm pha Thiếu Hạo, lúc thì nói chưa từng nghe Thần Nông phải đại quân tiến đánh Cao Tân, một mình Thiếu Hạo đời nào bức lui được mười vạn quân chúng ta, rõ ràng là người Cao Tân thổi phồng, lúc lại nói Thiếu Hạo sao bì nổi Chúc Dung, e rằng gặp phải Hỏa thần lại rối rít xin tha.

“Bọn Cao Tân rõ nực cười! Nếu Thiếu Hạo lợi hại thế, sao chẳng thấy y đến dự tiệc Bàn Đào của Vương Mẫu? Trừ cuộc chiến không biết là thật hay giả kia, y đã thắng được vị anh hùng nổi danh nào trên đại hoang đâu? Hỏa thần của chúng ta đã thắng liền cả trăm bữa tiệc Bàn Đào, đánh bại vô số cao thủ rồi đó!”

“Ta thấy Thiếu Hạo chắc chắn không dám gặp Chúc Dung. Còn xưng anh hùng gì chứ, chẳng qua là đồ cẩu hùng gan bé như chuột!”

“Chính thế, chính thế! Thợ rèn giỏi nhất cái nỗi gì, e rằng nhác thấy Chúc Dung đã quỳ gối xin tha mạng rồi!”

Thấy mọi người càng nói càng chướng tai, tay Lây Lăng Hành chợt run bắn lên làm rơi chiếc bát xuống đất vỡ choang, bấy giờ ai nấy mới nín lặng ngoảnh lại nhìn.

Tay Tây Lăng Hành vừa luống cuống lau vết bẩn bắn lên quần, vừa cười hỏi một thiếu niên Thần Nông tộc lên tiếng khi nãy: “Ngươi đã thấy binh khí Thiếu Hạo rèn chưa?”

“Dĩ nhiên chưa rồi!” “Chưa nhìn thấy sao biết được y không phải thợ rèn giỏi nhất? Sao lại nói y gan bé như chuột, không phải đối thủ của Chúc Dung?”

Thiếu niên khinh khỉnh hỏi lại: “Thế cô thấy rồi à?”

Tây Lăng Hành vênh mặt: “Ta dĩ nhiên…” Bỗng nàng khựng lại một thoáng rồi hạ giọng, “Dĩ nhiên cũng chưa rồi!”

Thiếu niên thoáng cười nhạt, “Cô cũng chưa thấy thì dựa vào cái gì mà nói y là thợ rèn giỏi nhất? Làm sao biết y không phải gan bé như chuột, khiếp sợ Chúc Dung?”

Đám người trong quán đều cười rộ lên phụ họa. Tây Lăng Hành cắn môi làm thinh.

Đột nhiên, một giọng già nua cất lên: “Truyền thuyết có lẽ không hoàn toàn là thực, nhưng dân chúng đại hoang này cũng chưa đến nỗi nói không thành có để tán dương Thiếu Hạo đâu.”

Mọi người nghe tiếng đều nhìn về góc quán, liền thấy một lão già để râu dê, lưng đeo cây tam huyền cầm, nét mặt khắc khổ, lão đứng dậy khom lưng với Tây Lăng Hành cùng Xi Vưu.

Té ra là lão già từng gặp trong Bác Phụ thành, Tây Lăng Hành bèn gật đầu đáp lễ còn Xi Vưu chỉ khoanh tay cười.

Thiếu niên quát lớn: “Lão già kia, mau qua đây nói cho rõ ràng, nếu có nửa lời mập mờ thì đừng trách chúng ta vô lễ!”

Lão già bước ra giữa sảnh thản nhiên ngồi xuống rồi vừa gảy đàn vừa nói: “Tuy vùng đại hoang vẫn có câu: ‘một núi, hai bước, ba vương tộc, bốn thế gia’ nhưng giờ đây thiên hạ chia ba. Thần Nông, Cao Tân, Hiên Viên thành thế chân vạc, bởi thế những kẻ rỗi hơi đi phân chia ngôi thứ cao thủ Thần tộc cũng chỉ nhắc tới con cháu của ba vương tộc mà thôi…

” Đám người trong quán đều chăm chú lắng nghe, chỉ mình Xi Vưu vừa ngấu nghiến gặm đùi gà vừa giơ bàn tay bóng nhẫy mỡ túm lấy Tây Lăng Hành hỏi: “Cái gì mà một hai ba bốn, lão nói lung tung gì thế?”

Mọi người đều trừng mắt nhìn hắn, lão già cười đáp: “Câu đó đề cập tới mấy thế lực lớn trong Thần tộc, ai nấy đều biết ba vương tộc là Thần Nông, Cao Tân, Hiên Viên; một núi ý chỉ Ngọc sơn còn hai nước là Hoa Tư và Lương Chử; bốn thế gia là Xích Thủy, Tây Lăng, Quỷ Phương, Đồ Sơn. Luận về lai lịch, một núi, hai nước, bốn thế gia còn lâu đời hơn cả ba vương tộc, có điều Ngọc sơn đã xuất thế, Hoa Tư và Lương Chử tuyệt mù tăm tích, các thế gia thì đều chỉ chăm chăm lo giữ thân nên đám phàm phu tục tử chúng ta dần quên lãng đó thôi.”

Xi Vưu gật đầu, đang định hỏi tiếp thì Tây Lăng Hành đã giữ lấy tay gã, ghé tai nói nhỏ: “Mấy chuyện này muốn kể rõ phải mất mấy ngày đêm, cứ nghe xem lão nói gì đã.”

Xi Vưu liền chơi ác, miết tay lên tay Tây Lăng Hành khiến tay nàng dính đầy mỡ, Tây Lăng Hành hậm hực cau mày bĩu môi trừng mắt nhìn thủ phạm, đột nhiên nàng nhoẻn cười tinh quái, bôi luôn bàn tay bóng nhẫy vào tay áo hắn.

Lòng bỗng xao động, hắn hạ giọng hỏi: “Vợ yêu, hình như cô có nhiều bí mật lắm thì phải, cô họ Tây Lăng, có quan hệ gì với Tây Lăng thế gia không thế?”

“Coi như có chút đi, ta có quan hệ huyết thống với họ nhưng không phải chi chính nên mới bị ngươi ức hiếp phải bỏ chạy đấy thôi!” A Hành cốc đầu hắn rồi ra dấu im lặng, tỏ ý bảo hắn đừng làm ồn, nghe xem lão kia nói gì. “…

Thời trẻ Thiếu Hạo rất mê rèn sắt, thường trà trộn vào những lò rèn dân gian học lén tay nghề của người ta. Nhưng nghề rèn không phải cứ quan sát là học được, mà phải trải qua trăm tu ngàn luyện mới thành. Thiếu Hạo liền lui về quê mở một lò rèn, chuyên làm cày cuốc cho nông dân, nồi niêu xoong chảo cho phụ nữ, vì sản phẩm rất tốt nên dân chúng bảy thôn tám xã xung quanh đều kéo tới lò của y. Suốt mấy năm làm thợ rèn, những người tới nhờ y sửa sang lại nông cụ chẳng ai biết y là Thiếu Hạo, mãi tới khi Tuấn Đế đời thứ sáu lâm bệnh nặng, Thần Nông thừa dịp dấy binh áp sát, Cao Tân nháo nhào đi tìm kiếm một lò rèn thì bà con quanh đó mới hay. Thần tộc Cao Tân hay kể chuyện Thiếu Hạo cởi áo ngắn, quăng thiết chùy, khoác vương bào, cầm trường kiếm một mình bức lui mười vạn đại quân Thần Nông, nhưng trăm họ Cao Tân lại thích thuật chuyện Thiếu Hạo rèn sắt hơn.

Lão già râu dê hớp một ngụm nước rồi hắng giọng kể tiếp: “Có lẽ vì thân phận đã lộ nên Thiếu Hạo không quay lại vùng quê đó nữa, nhưng nơi ấy sau cũng đổi tên thành Thiết Tượng Phô[1], một là để tưởng nhớ chàng thợ rèn Thiếu Hạo, hai là bởi lúc còn ở đó, mỗi khi có người tới xin học nghề rèn, y đều tận tâm chỉ dạy, khiến trong vùng nổi lên rất nhiều thợ rèn kỹ nghệ phi phàm, lò rèn mọc lên san sát, đám quý tộc Nhân tộc hay tới đó sắm vũ khí tùy thân để thể hiện địa vị, nhìn binh khí mấy vị tiểu ca ngồi đây mang theo người có vẻ bất phàm, e rằng cũng từ Thiết Tượng Phô mà ra.”

[1] Lò rèn

Mấy gã thiếu niên sững người, bất giác đặt tay lên bội kiếm mà mình vẫn lấy làm tự hào.

Lão già mỉm cười: “Cao Tân quốc trọng lễ nghĩa, phân chia đẳng cấp giàu nghèo rất rạch ròi, vậy mà Thiếu Hạo thân là vương tử tôn quý lại đi rèn nông cụ cho dân, còn tận tâm chỉ bảo những kẻ ham học hỏi. Hơn ngàn năm nay có vẻ như y lánh đời ở ẩn nhưng khắp Cao Tân nơi nào cũng có những truyền thuyết về việc y diệt ác trừ yêu, cứu khổ giúp yếu. Lần này việc trấn áp bạo dân rất tốn sức, lại chẳng được lợi lộc gì, các thần tiên khác tránh còn không kịp, vậy mà Thiếu Hạo chủ động xin đi, đủ thấy y nhất định không phải kẻ hèn nhát sợ sệt. Lão đây thấy mấy vị tiểu ca ăn mặc như sắp đi xa, những lời vừa nãy nói trên lãnh thổ Thần Nông thì chẳng sao, nhưng ngàn vạn lần đừng tức giận mà nói càn ở Cao Tân, muôn dân ở đó vô cùng kính trọng Thiếu Hạo, e rằng sẽ kích động dân chúng đó.”


Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 29-11-2013 02:41 PM
Chương 3


Hẳn duyên xưa trúc chắc chi đây


3.2


Thấy mấy gã thiếu niên Thần Nông sa sầm mặt, lão già lại chuyển chủ đề: “Nói đến hạn hán chẳng thể không ca ngợi Đại vương cơ[2] Vân Tang của Thần Nông. Thần Nông và Cao Tân đều bị hạn hán nghiêm trọng nhưng vương cơ luôn thương xót muôn dân, dốc sức vì bách tính nên đến giờ Thần Nông chỉ phải chịu thiên tai chứ chẳng có nhân họa. Còn Cao Tân và Trung Dung vương tử không gánh vác nổi, dân chúng nổi loạn khiến các quan lại Thần tộc địa phương bị đánh chết, may giờ có Thiếu Hạo chủ động xin đi dẹp loạn, bằng không e rằng nhân họa còn dữ dội hơn thiên tai nữa kìa.”

[2] Vương cơ: Trước thời nhà Chu, con gái của đế vương và chư hầu đều gọi là vương cơ, từ thời nhà Chu trở đi, con gái thiên tử dần dần đổi sang gọi là công chúa, con gái của chư hầu hoặc thân vương gọi là quận chúa.

Bấy giờ vẻ mặt đám thiếu niên Thần Nông mới giãn ra, họ tránh không nhắc tới Thiếu Hạo nữa, chỉ nhao nhao tán dương Vân Tang lên tận mây xanh.

Tây Lăng Hành cúi đầu, chẳng hiểu đang nghĩ gì, vẻ mặt nửa mừng nửa lo.

Xi Vưu cũng có vẻ ngẩn ngơ, đột nhiên cau mày đứng dậy bước ra ngoài, đứng giữa đồng hoang nghiêng tai nghe ngóng.

Để trốn tránh Xi Vưu, Tây Lăng Hành đã phải thay đổi hành trình hết lần này sang lần khác, cũng hết lần này sang lần khác vô tình tránh khỏi Chúc Dung, nhưng lần này, dường như Chúc Dung đã nhận ra điều gì đó nên tìm thấy hành tung bọn họ rất nhanh, chắc hẳn không thể đánh bài chuồn được nữa, phải tính cách khác thôi.

Thấy Xi Vưu quay lại, Tây Lăng Hành liền hỏi: “Ngươi ra ngoài làm gì đó?”

Xi Vưu cợt nhả cười đáp: “Ta sực nhớ ra chuyện chung thân đại sự còn phải hỏi ý kiến cha mẹ nên vừa nãy đi nhờ người đưa tin về nhà, mời cha mẹ tới gặp cô.”

Tây Lăng Hành vừa hớp một ngụm canh nóng, nghe hắn nói liền mắc nghẹn, suýt nữa chết sặc. Nàng yếu ớt chỉ mặt Xi Vưu, giận đến nỗi không thốt nên lời.

Ăn xong bữa, hai người bèn chọn hai gian phòng sát vách nghỉ tạm.

Đêm xuống, Tây Lăng Hành nằm trên giường trằn trọc hoài không ngủ nổi, trong đầu cứ lởn vởn câu chuyện Cao Tân Thiếu Hạo xin đi dẹp loạn vừa nghe kể. Lại nghĩ tới gã khùng Xi Vưu, nàng rùng cả mình, quyết định bỏ đi ngay lập tức, lần này nàng muốn đi về hướng Đông, xem xem Cao Tân Thiếu Hạo mà mình đã nghe danh từ nhỏ đến lớn rốt cuộc ra sao.

Nàng quyết định khởi hành ngay giữa đêm để cắt đuôi Xi Vưu.

Lựa lúc đêm khuya người vắng, Tây Lăng Hành bèn khoác tay nải rón rén rời khỏi quán trọ.

Vừa đi vừa thấp thỏm, sau cùng Tây Lăng Hành dừng bước, ngoảnh sang phải rồi ngoảnh sang trái, thấy chẳng có ai cả, nàng vừa thở phào nhẹ nhõm, tươi cười quay đầu lại lập tức trợn tròn mắt lên.

Xi Vưu đang đứng ngay trước mắt, vẻ mặt bực bội, nghển đầu nhìn về phía sau nàng, dường như không hiểu sao nàng lại lén lén lút lút như thế. Hắn ghé tai Tây Lăng Hành căng thẳng hỏi: “Sao thế? Có tên vô lại nào bám đuôi chúng ta ư?”

Tây Lăng Hành hít sâu một hơi, lấy tay che mặt rồi cắm cúi cất bước, chẳng buồn liếc Xi Vưu, chỉ sợ mình không nhịn được sẽ giết luôn tên vô lại này.

Xi Vưu lẵng nhẵng bám theo sau thở vắn than dài: “Có một chuyện thực hổ thẹn, vừa nãy ta nhận được tin bề trên trong nhà sai đi làm chút việc, e rằng phải xa cô mấy ngày rồi.”

Tây Lăng Hành lập tức bỏ ngay tay xuống, cười tươi rói: “Không sao không sao, nam tử hán đại trượng phu chí ở tứ hải, lòng theo ngũ hổ, công truyền thiên thu, đức lưu vạn tuế, chết để tiếng thơm, xả thân vì nghĩa… khụ… nói tóm lại là phải đặt đại sự làm trọng!”

Nét cười thoảng qua mắt Xi Vưu nhưng hắn vẫn làm bộ nhăn nhó: “Có điều ta nghĩ đi nghĩ lại thấy đi lo việc cũng quan trọng, mà báo ơn cũng rất quan trọng…”

Tây Lăng Hành liền tỏ vẻ buồn bã vỗ vai hắn: “Thật ra ta cũng chẳng nỡ xa ngươi, có điều phải đặt đại sự làm trọng!”

Xi Vưu rưng rưng cảm động, bèn nắm chặt tay nàng, “A Hành, thấy cô quyến luyến thế này, có lẽ ta sẽ ở lại!”

Khóe mắt bờ môi Tây Lăng Hành cùng lúc giật giật, “Ngươi sẽ ở lại thật chứ?”

“Sẽ ở lại thật đó!”

“Thật chứ?”

“Thật mà! Vì Tây Lăng Hành cô nương, ta tình nguyện…”

Tây Lăng Hành thình lình vung tay đấm bộp vào mặt Xi Vưu khiễn gã ngã lăn ra ngất xỉu.

Nàng ngồi xuống đắc ý vỗ vỗ má hắn, cười nhạt: “Tiểu tử thối! Chúng ta không hẹn ngày gặp lại!”

Khoác tay nải lên, nàng thấy cả người lâng lâng phơi phới, nhưng vừa tung tăng đi được một đoạn, nàng càng nghĩ càng thêm sợ, lỡ có kẻ xấu đi ngang qua thì sao? Lỡ thú dữ chạy tới thì thế nào? Lỡ…

Cuối cùng Tây Lăng Hành đành cuống cuồng chạy trở lại, nhưng gã Xi Vưu hôn mê nằm đó đã biến mất.

Nàng hoảng hốt dáo dác nhìn quanh tìm kiếm, nhưng vừa ngẩng đầu lên đã trông thấy một hàng chữ viết trên cây.

“Vợ yêu, chúng ta sắp gặp nhau rồi!” Cạnh đó còn vẽ một tên tiểu nhân áo đỏ đang cười toe toét.

Tây Lăng Hành nổi giận vung chân đá tên tiểu nhân kia một cái, lập tức kêu thét “ai da”, đau đến nỗi nghiến răng nghiến lợi, ôm chân nhảy lò cò.

Hai ngày sau, nàng bước vào địa giới Cao Tân quốc.

Sông ngòi cạn khô, đất đai cằn cỗi, xác chết đầy đồng, cảnh tượng nhuốm màu âm u.

Tây Lăng Hành buồn bã ủ ê nhưng chẳng làm sao được bởi đây không phải nhân họa mà là thiên kiếp, dù là thần tiên cũng chẳng thể trái ý trời.

Không muốn nhìn cảnh tượng thê thảm đó thêm nữa, nàng bèn tránh những con đường lớn đông người tụ tập, cứ lựa rừng sâu núi thẳm mà đi.

Đi suốt một ngày, đang định kiếm nơi nghỉ chân, bỗng nàng nghe thấy tiếng trống thình thình đầy phấn khích. Lần theo tiếng trống mà đi, nàng lại nghe thấy giọng ca thánh thót cùng tiếng hoan hô của đám đông.

Tây Lăng Hành không khỏi mỉm cười rảo bước thật nhanh, nhưng khi bước vào ngôi làng cổ kính đó, nàng chẳng thấy cảnh tượng gì vui vẻ mà trái lại là sự tàn nhẫn khiến người ta kinh sợ.

Hai thiếu nữ trang điểm lộng lẫy nằm dài trên đàn tế, một cô bị mổ phanh bụng, đã tắt thở, thầy tế mang mặt nạ tay cầm chủy thủ đầm đìa máu, tay bưng trái tim còn phập phồng, vừa hát vừa múa, thiếu nữ kia nhắm nghiền hai mắt, khóe môi mấp máy liên tục, chẳng hiểu đang ca hát hay cầu nguyện.

Tây Lăng Hành từng nghe kể về những bộ tộc hiến tế cả người để cầu trời đất phù hộ. Đó là phong tục địa phương, nàng không sao thay đổi được, nhưng nàng cũng chẳng thể trơ mắt nhìn một thiếu nữ tươi tắn như hoa chết thảm ngay trước mặt mình.

Tây Lăng Hành vận linh lực nhổ bật vô số gốc cây khiến đám người quanh đài tế nháo nhác lo tránh né, rồi thừa cơ xông tới cứu luôn thiếu nữ trên đài bỏ chạy.

Nàng thiếu nữ đó tên Sách Mã, là cô gái thông minh nhất trong tộc nên bị chọn làm vật tế trước trận chiến để cầu thắng lợi.

Tây Lăng Hành hỏi: “Các người muốn chống lại quân đội do Thiếu Hạo thống lĩnh sao?” Sách Mã đáp: “Tôi đâu biết mấy gã Thần tộc đó, tôi chỉ biết chúng giúp bọn quý tộc hà hiếp chúng tôi, chặn đứng mạch sông khiến chúng tôi mất nguồn nước uống, đều là đồ vô lại.”

Tây Lăng Hành gắng bênh vực Thiếu Hạo: “Vị thần đến đây lần này không giống bọn trước kia, y nhất định sẽ nghĩ cách giúp các người điều hòa lại nguồn nước chứ chẳng thiên vị đám quý tộc đâu, các người khỏi phải liều mạng kháng cự.”

Sách Mã trầm ngâm hồi lâu, đoạn cười nói: “Cô là thần tiên tốt, tôi tin cô! Đợi trời tối tôi sẽ lén về nhà nói với cha. Hảo tỷ tỷ, tôi thấy cô có thể sai khiến cây cô, cô tu luyện mộc linh ư?”

Tây Lăng Hành gật đầu.

Thấy trời sắp tối, Sách Mã liền vào rừng nhặt cành khô, rau dại về làm bữa tối cho Tây Lăng Hành. Nàng bảo cô ta đừng bày vẽ, nhưng Sách Mã đáp: “Cô cứu tôi mà tôi chẳng có gì báo đáp, đây là cách duy nhất tôi có thể làm để tạ ơn cô, bất kể cô ăn hay không tôi cũng phải làm.”

Sách Mã dùng mảnh đá lõm làm nồi, nấu một nồi canh rau rừng lạ miệng rồi đong đầy canh vào hai ống trúc, tự uống trước nửa ống, sau đó mới ngẩng lên nhìn Tây Lăng Hành, có vẻ nài nỉ.

Tây Lăng Hành chẳng nỡ từ chối, bèn cùng uống với cô.

Uống hết canh, nàng bỗng thấy đầu váng mắt hoa, linh lực ngưng trệ, vội hỏi, “Cô cho tôi ăn cái gì đó?” Sách Mã lạnh lùng đáp: “Là một loại nấm hiếm trong núi, sinh trưởng giữa đám tro tàn sau trận sấm sét, nó vô hại với Nhân tộc chúng tôi nhưng những kẻ tu luyện mộc linh của Thần tộc nếu ăn vào sẽ mất hết sức lực, trở thành người phàm như chúng tôi vậy.”

Lần đầu tiên Tây Lăng Hành hiểu được tại sao Thần tộc vừa xem thường lại vừa kiêng dè Nhân tộc, không chỉ bởi Nhân tộc đông đúc mà còn vì trời đất vạn vật tương sinh tương khắc, ông trời từ lâu đã ban cho họ những bảo bối để khắc chế Thần tộc, chỉ cần vận dụng khéo léo thì con người cũng có thể đánh bại Thần linh, giống như con đê có thể ngăn dòng nước ào ào chảy xiết nhưng một tổ mối nhỏ cũng có thể phá hủy cả dải đê kiên cố vậy.

Tay Lăng Hành lặng lẽ nhìn Sách Mã, cô ta chẳng dám đối diện với ánh mắt nàng, bèn cầm một khúc cây, đập cho nàng ngất xỉu.

Sáng hôm sau, khi tỉnh lại, Tây Lăng Hành nhận ra mình đang bị trói trên đài tế mà Sách Mã nằm hôm qua, linh lực vẫn chưa hồi phục chút nào. Tiếng trống thùng thùng rung trời chuyển đất, đám thầy tế đeo mặt nạ vây quanh nàng vừa hát hò vừa nhảy múa, ánh chủy thủ loang loáng khiến nàng hoa cả mắt.

Sách Mã nói với nàng: “Đem cô làm vật tế tốt hơn tôi, máu tươi của cô không những có thể tế trời đất, mà còn khiến cho tất cả chiến sĩ Nhân tộc thấy rằng Thần tộc chẳng có gì đáng sợ.”

Đám thầy tế ca vang một bài ca xưa cũ, vừa nhảy múa vừa tiến lại gần nàng.

Theo nghi lễ, các thầy tế sẽ cắt đứt kinh mạch tứ chi của Tây Lăng Hành, để máu nàng chảy theo rãnh trên đài tế xuống đất, gọi là Úy địa, sau cùng móc tim nàng ra dâng cho trời, gọi là Tế thiên, thông qua Tế thiên Úy địa mà đổi lấy nguyện vọng của mình.

Cổ tay cổ chân nàng bị dao cắt, nhưng vì cắt rất nhanh nên chẳng hề thấy đau. Linh lực cũng cuồn cuộn chảy ra theo dòng máu. Tây Lăng Hành cảm nhận rõ ràng cái chết đang đến rất gần, nàng vừa gắng gượng vùng vẫy lần cuối trong kinh hoàng, vừa nảy sinh cảm giác hoang đường, lẽ nào nàng lại chết trong tay mấy thầy tế tầm thường này của Nhân tộc?

Máu tươi nhuốm đỏ đài tế, Tây Lăng Hành cũng chẳng còn sức vùng vẫy nữa, đành buông xuôi, dùng chút sinh lực cuối cùng quyến luyến ngước nhìn bầy không xanh biếc trên đầu, cha, mẹ, ca ca… gã vô lại mặc áo đỏ Xi Vưu cũng hiện ra trước mặt, nàng không khỏi cười khổ, tiểu tử thối, ta đã nói không hẹn lần sau kia mà!

Thầy tế cắm chủy thủ vào ngực Tây Lăng Hành khiến toàn thân nàng co rút lại, ánh mắt mệt mỏi ngước nhìn trời, đồng tử giãn ra trong đau khổ, bầu trời xanh biếc tan trong mắt nàng, biến thành vô số ánh sao băng muôn màu sắc, ý thức của nàng cũng tan tác theo những vì sao băng đó, bay về phía màn đêm.

Nhưng đúng lúc nàng sắp bị cuốn vào màn đêm vĩnh cửu, một đôi tay rắn rỏi ấm áp chợt bế bổng thân thể nàng lên.

Hơi thở như sương mai buổi sớm, tiếng nói như phượng gáy ngọc khua, “A Hành, xin lỗi nàng, ta tới trễ!”

Lại nghe chiến sĩ Thần tộc cao giọng xin lệnh, “Điện hạ, giết hết đám loạn dân này ư?”

“Bọn họ chỉ vì sự sinh tồn của tộc nhân, vốn không có tội, thả họ về làng đi.” Giọng điệu nam tử hàm chứa nỗi xót thương.

Y vừa dùng linh lực phong bế linh thức của nàng lại, vừa ghé tai nói nhỏ: “A Hành, ta là Cao Tân Thiếu Hạo.”

Thiếu Hạo, là Thiếu Hạo mà nàng tâm tâm niệm niệm mong gặp mặt… Tây Lăng Hành muốn gắng gượng mở mắt nhìn, nhưng ý thức đã tan vào bóng tối.

Chạng vạng tối, Xi Vưu một thân hồng y giẫm trên lưng đại bàng từ trời đáp xuống.

Dưới bóng tịch dương đỏ như máu, đài tế cổ kính từng thấm đẫm biết bao máu tươi càng đượm vẻ trang nghiêm.

Linh lực mạnh mẽ tản mạn trong không khí như tuyên cáo tin dữ của kẻ sở hữu linh lực này. Xi Vưu lại gần đài tế, thoải mái nằm phục xuống vũng máu còn tươi, nhắm mắt lại, cố thu thập khí tức của Tây Lăng Hành vương trên vũng máu rồi khuếch đại linh lực bản thân thông qua cây cỏ và mặt đất, để tìm kiếm dấu tích về sinh mạng nàng.

Từ lúc chạng vạng tới khi tối om, gắn dốc hết toàn bộ linh lực, rà qua quét lại rất nhiều lần cũng chẳng thấy chút khí tức nào của nàng.

Nàng chết thật rồi!

Thật chẳng ngờ đùa mà hóa thật, hai người bọn họ đã không còn ngày gặp lại!

Hắn dịu dàng vỗ nhẹ lên đài tế như vỗ về tình nhân, mặc cho máu nhuộm đỏ ngón tay, gò má, lạnh lùng giễu cợt: “Sớm biết thế này, thà cứ để cô chết dưới tay Chúc Dung còn hơn.”

Xi Vưu quay mình nhìn vầng trăng tròn vành vạnh treo trên đầu ngọn cây, nhớ lại lần đầu gặp Tây Lăng Hành cũng là một đêm trăng tròn thế này. Đột nhiên hắn thấy mỏi mệt vô chừng, mấy trăm năm nay, hắn chưa từng mỏi mệt đến nhường này, thậm chí còn có phần chán ghét thế nhân.

Hắn nhắm mắt lại thiếp đi giữa vũng máu của nàng. Nửa đêm, Xi Vưu bỗng tỉnh dậy, mũi đầy mùi máu tanh tanh ngòn ngọt. Hắn đan hai tay vào nhau gối đầu lên, nằm ngửa giữa đài tế ngắm nhìn vầng trăng hiu quạnh mà sáng tỏ, bỗng thấy lẻ loi vô hạn, tại sao ông trời còn để hắn gặp lại nàng ở ngoại vi Bác Phụ quốc chứ?

Hắn nhắm mắt thì thầm: “Tây Lăng Hành, sớm biết thế này thà không gặp lại!” Linh lực theo máu nàng chạy ra cuồn cuộn thấm vào lòng đất, khiến cây cối trong làng tăng trưởng vùn vụt, trùm lên đường cái, vây lấy tường nhà, phong kín cửa sổ. Tới khi thức giấc, đám dân làng kinh hoàng nhận ra nhà nào nhà nấy đều xanh mướt một màu cây cỏ, hơn nữa chúng vẫn không ngừng sinh sôi, nhìn thì mềm mại mà chèn vỡ tủ, vặn gãy ghế, quấn lấy bất kể nam phụ lão ấu.

Tiếng kêu thảm thiết từ trong núi liên tục vẳng ra, vô số chim muông cảm nhận được nỗi kinh hoàng liền xao xác bay đi cả, thôn làng tĩnh mịch dường như đã biến thành một vùng đất chết. Riêng mình Xi Vưu vẫn gối đầu lên chỗ Tây Lăng Hành từng gối, uể oải cười ngước mặt nhìn trời.

Tiếng kêu thảm từ từ tắt lịm, sơn cốc khôi phục lại vẻ tĩnh lặng, cả thôn làng đều đã biến mất, chỉ còn đám cây cối xanh um ken dày rậm rạp. Hắn nhảy lên lưng đại bàng, đại bàng vỗ cánh bay lên, thoáng chốc đã biến mất giữa bầu không khí.

Dưới ánh trăng, đàn tế cũng như bốn bề quanh đó đều bị đám cây cối bao phủ dày đặc, nhìn từ trên xuống trông như một nấm mồ vĩ đại xanh mướt.

Hết Chương 3


Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 1-12-2013 10:13 AM
Chương 4


Dáng ngà vẻ ngọc ngất ngây say[1]


4.1


[1] Trích trong bài từ theo điệu Giang thành tử của Tô Thức (1036-1101), nhan đề Nghe đàn tranh trên hồ, cùng Trương Tiên Đồng làm thơ.


Dưới một trời hoa tuyết tả tơi, hai người họ sánh vai cùng ngồi trên vách đá. Xi Vưu ngẩng đầu nhìn ánh trăng vằng vặc, nghe lòng mình êm đềm vui vẻ, tựa như được trở về miền rừng núi mênh mông ấy, tự do tự tại, chẳng còn cô đơn nữa.  

Phía Tây đại hoang có một ngọn núi tuyệt đẹp, tên gọi Ngọc sơn[2]. Ngọc sơn là thánh địa thời thượng cổ, linh khí vô cùng đặc biệt, bất kể thần binh lợi khí nào chỉ cần tiến vào Ngọc sơn sẽ mất hết pháp lực, đúng là chốn đào viên ngoài cõi thế, vĩnh viễn không có giao tranh. Tất cả nữ tử cai quản Ngọc sơn đều phải tuân theo cổ huấn, không dính líu hồng trần, tránh xa phân tranh. Qua bao cuộc chiến tranh của Thần tộc, ngọn Ngọc sơn nằm ngoài cõi thế đã chở che cho không ít thần thánh cùng yêu tinh, ngay hai Thần tộc thượng cổ là Thần Nông và Cao Tân đều từng nhận ân huệ của Ngọc sơn, bởi thế, địa vị của Ngọc sơn ở đại hoang vô cùng tôn quý, đến Tam Đế cũng phải nhân nhượng ba phần.

[2] Theo Sơn Hải kinh, phần Tây Sơn kinh: “Đi về phía Tây ba trăm năm mươi dặm có ngọn núi tên gọi Ngọc sơn, là nơi ở của Tây Vương Mẫu.” Quách Phác chú thích: “Trên núi có nhiều ngọc thạch, nên gọi Ngọc sơn.”

Nữ tử cai quản Ngọc sơn được tôn xưng là Vương Mẫu, vì Ngọc sơn ở phía Tây nên người đời thường gọi là Tây Vương Mẫu, cứ ba mươi năm Vương Mẫu lại bày tiệc Bàn Đào một lần, mời anh hùng thiên hạ tụ họp về. Mấy ngày nay lại là tiệc Bàn Đào ba mươi năm mới có một lần, khách khứa từ bát hoang lục hợp tới dự tiệc, trên Ngọc sơn người đến kẻ đi cứ nườm nượp.

Xi Vưu mình khoác hồng bào, rảo bước từ phía Dao trì tiến lại, vẻ mặt lãnh đạm, ánh mắt sắc lạnh.

Bên bờ Dao trì trồng rất nhiều đào, hoa nở ngàn năm không tàn, trên bờ sắc hoa lộng lẫy, dưới nước sóng biếc dập dờn, hoa rọi nước, nước chiếu hoa, trên bờ dưới nước, từng khóm từng cụm, soi rọi lẫn nhau, lung linh rực rỡ.

Một cơn gió thổi, cánh hoa lả tả rụng xuống như mưa, phớt qua chân mày, gò má, bờ vai của Xi Vưu, hắn bước chậm lại, nhìn cảnh tượng hoa bay ngập trời, ánh mắt chợt trở nên bàng hoàng ngơ ngẩn, thấp thoáng vẻ bi thương.

Hắn dõi mắt nhìn theo những cánh hoa rơi nương chiều gió, trông về phía xa xăm – sóng biếc lăn tăn, khói sóng mịt mờ, mười dặm rừng đào, chín khúc hành lang, nữ tử áo xanh đứng dựa lan can trong tòa nhà thủy tạ đỏ thắm, tay cầm một cành đào, cúi đầu dứt nhị hoa ném xuống Dao trì trêu đùa bầy cá ngũ sắc.

Tim Xi Vưu bỗng đập rộn lên, hắn lập tức sải bước tiến lại, vừa đi vừa nhìn nữ tử áo xanh không rời mắt, nhưng bóng hoa trùng trùng cách trở, dáng người cứ thoắt ẩn thoắt hiện, không sao nhìn rõ, khi hắn chạy tới thủy tạ thì đã chẳng thấy người kia đâu nữa.

Xi Vưu cuống cuồng nhìn quanh tìm kiếm, nghe tiếng cười lanh lảnh từ rừng đào vọng ra, hắn liền chạy như bay đến, thấy một đám thiếu nữ đang nô đùa, trong đó có một nàng mặc áo xanh, hắn cất tiếng gọi “A Hành” đồng thời giơ tay toan túm lấy nàng, thiếu nữ bèn tươi cười ngoảnh đầu.

Cánh tay Xi Vưu khựng lại giữa chừng, không phải nàng!

Dáng người bên hàng hiên sóng biếc phảng phất giống A Hành, trong lúc nhất thời ngơ ngẩn hắn lại lầm tưởng đó là nàng, nhưng nàng lìa trần đã hai năm, thoáng động lòng đó chỉ là ảo giác dưới bóng hoa trong buổi chiều tà mà thôi.

Xi Vưu thất vọng quay người bỏ đi, hoa đào bên Dao trì được mặt trời chiếu rọi rực lên như lửa, nhưng trong mắt hắn, hương sắc ngập trời thảy đều lợt lạt, toát lên vẻ tịch liêu khôn tả.

Hai nữ tử sánh vai nhau đi giữa rừng đào, nhìn bề ngoài như đồng trang lứa, nhưng thực tế vai vế lại khác hẳn nhau. Một người là Vân Tang, Đại vương cơ Thần Nông quốc, người kia là Ngọc sơn Vương Mẫu.

Nghe đồn trên Ngọc sơn có vô số bảo bối, Vân Tang bèn tò mò hỏi Vương Mẫu xem Ngọc sơn rốt cuộc cất giấu những thần binh bảo khí gì.

Vương Mẫu chẳng hề giấu giếm Vân Tang, liệt kê tường tận từng thứ một.

Vân Tang xuất thân từ Thần tộc thượng cổ, sẵn có gia học uyên nguyên, cũng từng nghe nói tới một vài thần khí mà Vương Mẫu kể ra, nhưng nàng chưa hề biết món binh khí đứng đầu các thần binh lại là một cây cung không có mũi tên.

Vân Tang hỏi Vương Mẫu: “Chỉ nghe nói Bàn Cổ đại đế có một cây búa Bàn Cổ xẻ được đất trời, chưa từng nghe tới cung Bàn Cổ, lẽ nào trên đời này không có mũi tên nào lắp được vào cung ư? Đã không có tên thì cung còn dùng làm gì nữa?”

Vương Mẫu tính tình nghiêm túc, nói năng trang trọng nhưng đối đáp với Vân Tang lại vô cùng hòa nhã, dịu dàng: “Cây cung này không phải dùng để ghết chóc, mà dùng để truy tìm. Theo những gì Thái tổ sư phụ ghi chép lại thì sau khi Bàn Cổ đại đế xẻ đôi trời đất, vì bận rộn cai quản hai cõi nên đánh mất người con gái mình yêu thương nhất, để được gặp lại nàng, Bàn Cổ đại đế đã dốc hết tâm tư chế tạo ra cây cung này. Nghe nói nếu giương cung hết cỡ thì có thể gặp lại người thương lần nữa, bất kể xa cách bao nhiêu, bất kể đó là thần hay ma, còn sống hay đã chết.”

“Làm sao gặp lại được? Lẽ nào cây cung này có thể vạch đường cho đi tìm ư?”

“Ta chẳng biết nữa. Tương truyền năm xưa sau khi Phục Hy đại đế quy tiên, Nữ Oa đại đế quyến luyến nhớ nhung từng lên Ngọc sơn mượn cung, nhưng dốc hết thần lực, giương cung hết cỡ cũng chẳng cảm ứng được với Phục Hy đại đế, đừng nói là gặp lại nhau.”

Vân Tang tuy chững chạc nhưng vẫn mang tâm tính thiếu nữ, vừa nghe đã nảy sinh hứng thú, bèn than thở: “Thì ra Nữ Oa đại đế cũng bối rối bất lực trước tương tư, chẳng khác nào nữ tử bình thường. Có điều Bàn Cổ đại đế thần lực vô biên, chẳng gì không biết, sao lại không tìm thấy nữ tử mình yêu chứ?”

“Không biết nữa.”

“Sau khi đúc nên cây cung, Bàn Cổ đại đế có gặp lại người con gái đó không?” Vương Mẫu cười đáp: “Ta làm sao biết được. Con bé nhà ngươi đừng cho là thật! Thái tổ sư phụ chỉ ghi chép lại theo lời đồn đại, rốt cuộc là thật hay giả chẳng ai hay, có lẽ chỉ là một câu chuyện xuyên tạc đấy thôi.”

Xi Vưu nghe nói đến đây liền rẽ cây tiến lại, “Ta muốn cây cung Bàn Cổ đó.”

Thấy hắn ở gần đó mà mình chẳng hề nhận ra, Vương Mẫu thầm kinh hoảng trong lòng, nhưng vẫn giữ giọng ôn tồn bảo: “Đó là thần khí đứng đầu trong những số những thứ Ngọc sơn cất giữ, không thể giao cho ngươi được.”

Không để Xi Vưu kịp mở miệng, Vân Tang đã cướp lời: “Vương Mẫu, lần này hội Bàn Đào đem bảo bối gì ra làm phần thưởng đây?” Lại quay sang nói với Xi Vưu: “Nếu ngươi muốn có thần khí thì tới chừng đó đến giành bảo bối này đi.”

“Chắc chắn không phải cung Bàn Cổ, nhưng cũng là thần khí hiếm có khó tìm.” Vương Mẫu chuẩn bị rời bước, “Vương cơ Hiên Viên lần đầu tiên đến Ngọc sơn, ta phải đi gặp vương cơ, các ngươi cứ tự nhiên nhé.”

Vân Tang thuở nhỏ từng theo Luy Tổ, vương hậu Hiên Viên học nuôi tằm quay sa, sớm chiều bầu bạn với vương cơ Hiên Viên Bạt suốt mười năm, tình cảm rất thân thiết, bèn mừng rỡ nói: “Thì ra Bạt muội muội cũng tới rồi, bao năm nay chúng ta chưa gặp nhau, đợi chút nữa phải đi tìm cô ấy hàn huyên mới được.” Vân Tang thấy Vương Mẫu đã đi xa, liền quay sang bảo Xi Vưu, nửa như cảnh cáo lại nửa như cầu khẩn: “Ta biết ngươi vẫn coi trời bằng vung, tùy tiện phóng túng nhưng nơi này không phải Thần Nông sơn, ngươi nhất định không được làm loạn, nếu xảy ra chuyện thì chẳng ai cứu nổi ngươi đâu.”

“Biết rồi.” Xi Vưu cười cười, đưa mắt quan sát bố cục phương hướng trong rừng đào.

Vân Tang tâm tư thông tuệ, học rộng biết nhiều, hành sự quả quyết, đến Chúc Dung cũng phải kiêng nể ba phần, vậy mà chẳng cách nào trị được Xi Vưu, thấy hắn cười cười, lòng nàng càng thêm thấp thỏm, đành thầm mong sao mình chỉ lo hão mà thôi, “Phụ vương cho ta đem ngươi đến dự tiệc Bàn Đào là muốn ngươi làm quen với tình hình của đại hoang chứ đâu phải để ngươi làm loạn. Trên đại hoang này có mấy nữ tử không thể đắc tội, người thứ nhất chính là Vương Mẫu, ngươi nhất định không được…”

Xi Vưu cắt lời nàng: “Thế còn thứ hai?” “Vương cơ tộc Hiên Viên, Hiên Viên Bạt.”

Xi Vưu đùa: “Chứ không phải cô à?”

Vân Tang lườm hắn: “Hoàng đế Hiên Viên thê thiếp hàng đàn, trong đó có bốn phi tử được sách phong chính thức, bốn người này sinh được tổng cộng chín người con nhưng chỉ có một vương cơ Hiên Viên Bạt, hơn nữa còn là do chính phi Luy Tổ sinh ra, anh trai nàng cùng mẹ nàng chính là Hiên Viên Thanh Dương, kẻ có khả năng kế thừa đế vị Hiên Viên cao nhất. Từ nhỏ Hiên Viên Bạt đã đính hôn với tộc Cao Tân, vị hôn phu chính là Cao Tân Thiếu Hạo, cũng là kẻ rất có khả năng sẽ kế thừa ngôi vị Tuấn Đế.

” Xi Vưu nhìn quanh nhìn quất khắp rừng đào, hờ hững nói: “Vậy ả Hiên Viên Bạt không trêu vào được rồi.”

Vân Tang mỉm cười đáp: “Có điều tính tình Bạt muội muội rất tốt. Vương Mẫu lại…”

Vừa thấy nàng định chuyển chủ đề khuyên mình đừng quậy phá, Xi Vưu liền quay ngoắt người bỏ đi, Vân Tang cau mày, đoạn lắc đầu cười gượng, cứ theo tính tình hắn thì có thể nhẫn nại lắng nghe đến giờ đã là khó lắm rồi.

Vân Tang xem thời gian, đoán chừng bên Hiên Viên Bạt đã yên tĩnh, lại hỏi han biết được nàng ở Ao Đột quán, bèn theo hướng thị nữ chỉ, một mình tới thăm hỏi.

Vân Tang học rộng hiểu nhiều, từng trông thấy không ít cảnh đẹp kỳ thú, biết rằng tên gọi phải tương ứng với cảnh sắc mới coi là tên hay. Lấy hai chữ “ao đột”[3] đặt tên quán quả là độc đáo mới lạ, có điều thật không tưởng tượng nổi cảnh trí phải ra sao mới xứng được với tên đó.

[3] Hai chữ “ao đột” có nghĩa là lồi lõm.


Dọc đường càng xa khỏi Dao trì cảnh sắc càng vắng vẻ, cây cối dần lộ vẻ hoang sơ, con đường mòn trải sỏi uốn lượn quanh co, dòng suối nhỏ róc rách lúc ẩn lúc hiện. Đi không bao lâu thì thấy đình đài lều gác, cầu nhỏ mái cong trên sườn núi xa xa. Bốn bề cũng trồng toàn đào nhưng khác với rừng bích đào mười dặm rực rỡ sắc hương bên bờ Dao trì, ở đây chỉ toàn bạch đào ngàn cánh, lại trồng rất thưa, từng cây từng cây nở hoa trắng muốt, thanh khiết âm thầm, tựa như người đẹp ẩn cư nơi vắng vẻ, hoặc âm thầm nở bên hiên dưới cửa, hoặc chỉ thấy hương chẳng thấy hoa, nhìn quanh tìm kiếm mới thấy một cành hoa e thẹn ló ra dưới mái nhà, cách một bức tường đá.

Có lẽ để khỏi phá vỡ không khí thanh tĩnh u nhã nên nơi đây cũng vắng bóng thị nữ, rất hợp ý Vân Tang, dọc đường tới đây nàng chẳng gặp ả thị tỳ nào, có điều vẫn chưa thấy ý vị của hai chữ “ao đột” đâu cả, nhưng bậc kiến tạo nơi này tâm tư linh mẫn, ắt hẳn hai từ đó chẳng phải gọi suông.

Men theo đường hoa, Vân Tang chỉ nghe róc rách mà chẳng thấy dòng nước nào cả, phải ngoặt qua vách núi mới trông thấy xa xa có một mặt hồ thăm thẳm, nước hồ xanh biếc như ngọc, hòn đá bên hồ còn khắc ba chữ Ao Tinh trì, nét chữ cổ phác. Vân Tang mừng thầm bèn rảo bước lại đứng bên hồ, thấy từng đợt gió mát phả vào mặt rất dễ chịu, vô tình nàng cúi đầu ngắm bóng mình dưới nước, bỗng giật nảy người, trên mặt hồ có đến mấy Vân Tang, có kẻ còi gí như người lùn, kẻ lại cao lớn như người khổng lồ, kẻ cổ ngẳng bụng to như bị úng nước, kẻ đầu to tứ chi nghều ngào như quả bí đao trên sào trúc… kẻ nào kẻ nấy đều rất kỳ quái tức cười.

Nhận ra sự kỳ diệu bên trong, Vân Tang xém nữa đã vỗ tay khen hay. Té ra nơi này chẳng những nước biếc như ngọc mà còn là ngọc biếc như nước, mặt hồ xanh biếc trước mặt thoạt trông thì lăn tăn sóng gợn, hoàn mỹ vẹn toàn, thực tế bên dưới ẩn giấu vô số bích ngọc, bậc kiến tạo đã lợi dụng độ cong của bích ngọc khiến nước hồ chỗ nông chỗ sâu, tạo nên vô số nơi gồ ghề lồi lõm, mặt hồ như một tấm gương bằng ngọc phản chiếu bóng người, cũng hình thành nên vô số thấu kính lồi lõm, thấu kính lõm sẽ thu nhỏ hình dáng, thấu kính lớn thì phóng đại lên.

Thấy bốn bề vắng vẻ, Vân Tang liền nổi tính trẻ thơ, đi qua đi lại bên hồ, vung vẩy chân tay, nhìn bóng mình biến ảo dưới mặt nước, khi thành kẻ béo, lúc thành người gầy, nàng phá lên cười ngặt nghẽo. Vân Tang cười, những chiếc bóng muôn hình ấy cũng cười theo, thấy vậy nàng cười như nắc nẻ, cười đến chảy cả nước mắt.

Một nữ tử áo xanh ẩn mình trong bóng tối, lặng lẽ quan sát Vân Tang.

Lúc vừa lên núi chơi, thiếu nữ áo xanh đã nhác thấy Vân Tang nhưng nàng chợt nảy ý trêu đùa, muốn thử xem liệu nàng Vân Tang đoan trang từ tốn lần đầu nhìn thấy hồ nước quái dị kia có hoa chân múa tay, cười ngả nghiêng như mình chăng, bèn nấp vào góc khuất, định đợi khi Vân Tang mải cười sơ ý sẽ nhảy ra hù cho nàng ta chết khiếp.

Có điều, tận mắt thấy Vân Tang cười ngặt nghẽo, đột nhiên thiếu nữ áo xanh chẳng muốn quấy rầy nàng nữa. Mẫu hậu Vân Tang mất sớm, tiểu muội Nữ Oa[4] rong chơi Đông Hải không may chết đuối, nhị muội Dao Cơ vừa sinh ra là đau ốm liên miên, từ nhỏ trong lòng Vân Tang đã ngổn ngang trăm mối, nàng hầu như chưa bao giờ được thoải mái cười không cần ý tứ.


[4] Nữ Oa đề cập tới ở đây không phải Nữ Oa đội đá vá trời mà là con gái út của Viêm Đế trong thần thoại, về sau hóa thành chim Tinh Vệ ngậm đá lấp biển Đông
.

Bỗng Vân Tang im bặt tiếng cười, sầm mặt quát: “Ai đó? Ra đi!”

Thiếu nữ áo xanh giật mình, đang định ngoan ngoãn bước ra nhận sai xin lỗi, chợt thấy một nam tử dáng dấp phong nhã, diện mạo tuấn tú, bước trong hương hoa, rẽ cây từ rừng đào ung dung tiến lại, khóe môi ánh mắt đều thấp thoáng nét cười, “Xin vương cơ tha tội, tôi thấy vương cơ hoa chân múa tay, cười ngả nghiêng như trẻ nhỏ nên không dám quấy rầy.”

Đôi má Vân Tang thoáng ửng hồng nhưng vẻ mặt càng lạnh lùng hơn: “Đã biết thân phận ta mà còn to gan dám rình lén ư?”

Nàng má phấn ngậm hờn, sầu vương khóe mắt, một thân áo trắng đứng cười bên hồ, sau lưng là mấy gốc bạch đào ngàn cánh mây thua tuyết nhường, dáng vẻ còn u uẩn thanh tao hơn cả hoa đào.

Nam tử nhanh nhẹn thi lễ, thành khẩn nói: “Không phải tại hạ dám càn rỡ, có điều năm xưa hao tâm tổn trí suốt ba năm dựng nên quán Ao Đột này chỉ mong rằng kẻ nào trông thấy mặt nước xanh cũng có thể cười sảng khoái, quên hết ưu phiền trên đời. Hôm nay thấy tâm nguyện đạt thành nên có phần thất lễ, xin vương cơ thứ tội.”

Vâng Tang sững người, hai chữ “ao đột” hàm ý sâu xa kỳ diệu lại do bàn tay kẻ này tạo ra ư? Trong lúc ngỡ ngàng, cơn giận của nàng chợt tiêu tan cả.

Thấy bóng người dưới hồ có gầy có béo có cao có thấp, Vân Tang hạ giọng nói: “Những hình ảnh lạ lùng này thoạt trông có vẻ không giống chúng ta nhưng lại đều là chúng ta, không có phục sức hoa kệ, dạo mạo đẹp xấu, tạm thời quên đi tên tuổi và thân phận, chỉ tự mình vì mình mà cười sảng khoái một phen mới chỉ là nửa tâm nguyện, để cảm tạ ngươi đã cho ta một trận cười sảng khoái, ta sẽ tác thành nửa tâm nguyện nữa cho ngươi.”

Nam tử hỏi: “Nửa tâm nguyện nữa ư?”

Vân Tang khẽ cười, chỉ bóng mình và bóng nam tử in dưới hồ, “Hình ảnh dưới hồ này chẳng bị trói buộc bởi những phục sức bề ngoài, ta chỉ là ta, ngươi chỉ là ngươi, vậy nên ngươi chẳng cần tạ lỗi, ta cũng chẳng có quyền tha tội.”

Nam tử chợt thấy tim đập rộn ràng, ánh mắt thoáng mừng rỡ bất ngờ nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên, cười mỉm.

Vân Tang quan sát mặt hồ rồi nói, “Nơi này phối hợp cả gồ và trũng, tuy tinh diệu nhưng vẫn nghiêng về trũng hơn, nếu chỉ dựa vào đó mà đặt tên Ao Đột quán e không khỏi gượng ép, hẳn ngươi cũng chẳng thèm làm vậy. Nếu mặt hồ này là trũng, thiết nghĩ phải có ngọn núi để thành gồ, có hồ sâu núi cao, non non nước nước mới xứng gọi là Ao Đột quán.” Nói rồi Vân Tang men theo Ao Tinh trì, đi về phía vách núi cheo leo bên kia hồ nước.

Nam tử vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, lặng thinh không nói, chỉ chăm chú nhìn theo Vân Tang.

Vân Tang nhìn quanh tìm đường, cây cối nơi đây bỗng nhiên tươi tốt um tùm, nàng kiếm một hồi mới thấy con đường mòn quanh co, chỉ đủ một người đi, trên vách núi khắc ba chữ “Đột Bích sơn”. “Ao Tinh trì, Đột Bích sơn” Vân Tang vừa nhẩm trong lòng, vừa men theo thềm đá leo lên đỉnh núi.

Cả ngọn núi đều làm từ ngọc thạch, nhô hẳn lên cao, mặt quay về phía hồ lồi lõm gồ ghề, nơi lồi ra thì sắc ngọc nhàn nhạt, chỗ lõm vào thì sắc ngọc đậm đà, bởi ánh sách phản chiếu đậm nhạt khác nhau, vừa khéo trung hòa bớt phần nào sự lồi lõm dưới lòng hồ, lại thêm nhìn từ trên xuống, không trông rõ mặt hồ lồi lõm, chỉ thấy mặt nước phẳng lặng như gương, in bóng người một nam một nữ sánh vai đứng bên nhau.

Vân Tang nghĩ một lát mới hiểu ra, nhất định trên sườn núi có cơ quan, khéo léo lợi dụng tính khúc xạ của ngọc thạch nên rõ ràng nàng và nam tử kia kẻ ở trên người ở dưới, mỗi người một bên bờ hồ, nhưng bóng hình lại như sánh vai bên nhau, tựa kề thân thiết.

Thoạt đầu nàng còn tán thưởng nam tử học vấn uyên bác, biết phối hợp các loại kỹ năng, nhưng khi thấy bóng mình cùng y “tựa kề” dưới hồ, dù biết y đứng dưới chẳng thể trông thấy, nàng cũng không khỏi đỏ bừng mặt, tức tối lườm y, lòng thầm nhủ: y thiết kế như vậy là còn chừa chỗ bỡn cợt nữa! Nàng lập tức leo xuống, không thèm “tựa kề” cùng y thêm một giây một phút nào nữa. Trong lúc vội vội vàng vàng, nàng chẳng kịp trông thấy mấy hàng chữ phản chiếu trên mặt hồ lấp loáng: trăng nước bóng gương, vô tâm đi đến.

Vân Tang quay lại bên hồ, giữ nguyên vẻ mặt lạnh lùng, giễu cợt: “Tuy tâm tư tinh tế, tiếc rằng đã đặt nhầm chỗ mất rồi.”

Nam tử vẫn thản nhiên, dâng lên Vân Tang một chiếc hộp ngọc, hờ hững nói: “Tại hạ phụng lệnh điện hạ tới dâng vật này lên vương cơ, nay vật đã dâng rồi, tại hạ xin cáo lui.” Nói rồi liền nghênh ngang bỏ đi, thái độ cực kỳ vô lễ, khác hẳn kẻ khiêm tốn ôn hòa, cười nói tự nhiên khi trước.

Vân Tang tức nghẹn cả họng, hậm hực nhìn theo bóng y nhưng không sao nói rõ được mình tức giận điều gì. Một lúc lâu sau nàng cúi đầu, trông thấy dấu ấn Huyền điều – dấu ấn của vương thất Cao Tân – in trên hộp ngọc mới sực nhận ra: “Này, ngươi nhận lộn người rồi, ta không phải vương cơ Hiên Viên mà là vương cơ Thần Nông kia.”

Thiếu nữ áo xanh bấy giờ mới từ sơn động nhảy ra, vỗ tay cười nói, “Hay cho Ao Đột quán, thiết kế đã khéo, giải thích còn khéo hơn, muội ở bên hồ này ngắm nhìn suốt nửa ngày mà không nhận ra cái gì là nước thành chỗ trũng, non thành chỗ gồ.”

Chẳng hiểu sao trong lòng Vân Tang bỗng vừa thẹn vừa giận, cảm giác lạ lùng khó tả chưa từng thấy, nàng tức tối quăng hộp ngọc cho thiếu nữ áo xanh, chế giễu: “Hiên Viên vương cơ, chú rể của muội ngàn dặm xa xôi sai thuộc hạ mang quà tới tặng muội này, hèn nào muội cười tươi thế!”

Hiên Viên Bạt mở hộp ra xem, đỏ mặt nói: “Đâu phải quà cáp gì? Chỉ là mấy viên thuốc thôi mà.” Nàng ngẩng đầu lên, thấy Vân Tang đang đứng ngẩn người ra đó, gọi mấy tiếng cũng không nghe.

Hiên Viên Bạt vội lay lay Vân Tang: “Tỷ tỷ, tỷ sao thế?”

Vân Tang đáp: “Vị công tử vừa rồi là do Thiếu Hạo phái tới đưa đồ cho muội ư?”

“Chắc là thế.” “Y thấy ta phục sức hoa lệ lại đứng trong Ao Đột quán, gọi vương cơ ta cũng đáp, té ra y tưởng nhầm ta là muội.”

“Phải đó, chẳng phải tỷ đã biết rồi sao?” Hiên Viên Bạt ngơ ngác chẳng hiểu rốt cuộc Vân Tang định nói gì.

“Vậy y đương nhiên cũng nghĩ rằng ta là vị hôn thê của Thiếu Hạo, nghĩ rằng ta là một nữ tử đã đính hôn.”

“Ừm.” Hiên Viên Bạt gật đầu, vẫn chưa hiểu điều Vân Tang muốn nói.

Vân Tang cười rạng rỡ, ánh mắt lấp lánh niềm vui. “Tỷ tỷ, sao tỷ cứ lúc vui, lúc giận, lúc lại thẫn thờ ra thế? Chẳng giống khi xưa chút nào.” Vân Tang chỉ cười làm thinh, hồi lâu mới nói: “Còn muội vẫn y như hồi nhỏ. A? Thuốc à? Sao Thiếu Hạo lại phái người tới đưa thuốc cho muội? Muội bị bệnh ư? Hèn chi sắc mặt muội xanh xao quá.”

“Ôi, tỷ đừng nhắc đến chuyện ấy nữa, nói ra chỉ tổ làm trò cười thôi! Lúc muội du ngoạn nhân gian đã bị thương, được Thiếu Hạo cứu đó!”

Vân Tang véo mũi Hiên Viên Bạt, “Chẳng phải vừa khéo ư, anh hùng cứu mỹ nhân, mỹ nhân lấy thân đền đáp!”

Hiên Viên Bạt bĩu môi, “Khéo cái gì mà khéo? Muội có biết y cao hay thấp, béo hay gầy đâu. Lúc đó loạn dân ở Cao Tân vừa dẹp xong, Đại ca bảo Thiếu Hạo còn chuyện quan trọng phải lo liệu, chẳng đợi muội tỉnh lại y đã đi rồi, y trông thấy muội chứ muội nào đã thấy y, đúng là muội bị thiệt mà!”

Vân Tang cười: “Đừng lo, tuy chưa gặp Thiếu Hạo nhưng tỷ dám chắc y nhất định không làm muội thất vọng đâu.”

“Hừm, tỷ cũng chưa thấy, làm sao khẳng định được gì chứ?”

“Muội thấy gã vừa rồi thế nào?” “Lời nói cử chỉ của y khiến muội nhớ tới Tri Vị bá bá.” Tri Vị phò tá Hoàng đế dựng nước, được ca tụng là đế sư, theo lời Hiên Viên Bạt có thể thấy nàng cũng khen ngợi nam tử vừa rồi
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 1-12-2013 10:33 AM
Chương 4


Dáng ngà vẻ ngọc ngất ngây say[1]


4.2


Vân Tang tiếp: “Chim khôn chọn cành mà đậu, kẻ có tâm tư tinh tế nhường ấy đã chọn Thiếu Hạo trong hơn hai mươi vương tử Cao Tân, bởi thế muội cứ yên tâm đi.” Nàng thoáng chần chừ rồi ngập ngừng hỏi, “Muội có dò la xem y là ai được không?”

“Muội nhờ Tứ ca đi hỏi là biết thôi, đừng nói tới tài hoa, chỉ cần xét dung mạo, ở Cao Tân cũng chẳng có mấy công tử tao nhã tuấn tú như thế đâu.”

Vân Tang đỏ bừng mặt lên, “Tỷ tỷ còn chút việc phải nhờ muội đây.”

“Gì thế tỷ?”

Vân Tang ghé tai Hiên Viên Bạt thì thầm, vẻ mặt Hiên Viên Bạt thoắt kinh ngạc, thoắt tươi cười, sau cùng gật đầu lia lịa, hai nữ tử ngồi bên hồ to nhỏ hơn một canh giờ, mãi tới khi mặt trời ngả về Tây, Vân Tang mới đi khỏi.

Màn đêm buông xuống, mây che mờ trăng, khe núi mịt mù sương phủ.

Những đóa hoa đào trong Bàn Đào viên như được phủ một lớp màn the, thoạt nhìn tưởng như cả đất trời đều hóa thành mây ráng khói hồng, mờ mờ ảo ảo.

Xi Vưu bay vút vào giữa vườn đào, rút một dải lụa hồng bịt hai mắt lại. Lúc ban ngày, hắn đã phát hiện ra Ngọc sơn và rừng đào là một trận pháp lớn, không muốn bị ảo ảnh mê hoặc thì đừng nhìn, chỉ có thể dùng tâm nhãn cảm nhận sự biến hóa kỳ diệu của linh khí mà thôi.

Hắn di chuyển trong rừng đào, hết đi lại dừng, lúc đi thẳng lúc đi vòng, lúc rẽ ngoặt, cuối cùng cũng phá được trận pháp trong đó, tiến vào địa cung của Ngọc sơn. Nhìn hắn phá trận pháp có vẻ dễ dàng nhưng thực ra một khi đã vào trận, chỉ cần sẩy chân một bước sẽ lập tức chuốc lấy cái chết, mấy vạn năm nay mới chỉ có mình hắn suôn sẻ vượt qua.

Cả tòa địa cung đều được dựng nên từ ngọc thạch, chẳng có viên minh châu nào mà vẫn lấp lánh sáng rực. Phòng ốc bên trong san sát, đường đi khúc khuỷu, cất giấu đủ thứ báu vật, không sao tìm nổi. Xi Vưu nghĩ cung Bàn Cổ là thần binh, hẳn sẽ đi trong kho Binh Khí, bèn định thần cảm nhận một lát rồi chạy thẳng về hướng tỏa ra sát khí dày đặc.

Men theo bậc thềm xuống dưới, dọc hai bên lối đi bày đủ loại thần binh lợi khí mà hết thảy thần tiên ngày mơ đêm tưởng nhưng hắn chẳng thèm liếc lấy một lần, chỉ dán mắt vào một vật đặt ở xa tít.

Cuối con đường là một bức tường tạc bằng bạch ngọc, trên tường treo một cây cung.

Thân cung đen nhánh, dọc thân khắc hoa văn đỏ rực đơn giản mà cổ phác, dường như cảm nhận được Xi Vưu có ý nhắm vào mình, cây cung chợt tỏa ánh sáng đỏ rực, kích thước lúc to lúc nhỏ, lúc to thì cao hơn cả người, lúc nhỏ thì chỉ chừng một tấc. Giờ đây, Xi Vưu mới hiểu tại sao Vương Mẫu lại nói cây cung này không có mũi tên nào lắp vào được – cây cung có biến đổi khi to khi nhỏ thì làm gì có mũi tên nào trên đời lắp vào nổi chứ?

Xi Vưu lặng lẽ quan sát nó một lát rồi vận hết linh lực, một tay kết thành trận pháp, một tay nhanh nhẹn tháo cung xuống. Chẳng hiểu hắn đụng phải cơ quan nào mà cả địa cung rung lên, từng khối từng khối Trảm Long thạch sắc lẹm từ trần rơi xuống, hắn vội vàng tránh né, khó khăn lắm mới tránh được thì Trảm Long thạch lại biến thành ngàn lưỡi kiếm lao về phía hắn khiến hắn phải vừa chạy vừa rút lá đào đã chuẩn bị từ trước ra. Lá đào cùng chung một huyết mạch với Ngọc sơn, có thể che giấu khí tức của hắn.

Xi Vưu khắp người thương tích, bộ dạng nhếch nhác, loạng choạng thoát khỏi địa cung. Thấy đám thị vệ đã đuổi đến nơi, hắn chẳng kịp thở, lập tức bỏ chạy ngay, nhưng đám truy binh phía sau càng lúc càng đông, từ bốn phương tám hướng ùn ùn đổ lại.

Chẳng nấp được vào đâu trong rừng đào, hắn đành chạy về hướng Dao trì.

Vầng trăng tròn vành vạnh treo giữa bầu không, dịu dàng soi chiếu Dao trì và rừng đào. Gió đêm hiu hiu, một mảnh hồ lăn lăn sóng biếc, mười dặm dài hoa rụng tả tơi.

Giữa lớp lớp hoa rơi, thiếu nữ áo xanh ngồi vắt vẻo trên lan can nhà thủy tạ, hai tay vén vạt váy, đôi chân trần đá hất nước lên nghịch ngợm. Từng chuỗi bọt nước bắn tung tóe, ánh trăng lấp lánh cùng sóng nước long lanh bập bềnh dưới gót ngà.

Trong khoảnh khắc, tất cả mọi âm thanh đều lặng phắc, trong mắt Xi Vưu chỉ còn thiếu nữ áo xanh dưới ánh trăng giữa rợp rợp bóng hoa, từng động tác của nàng đều trở nên thong thả rõ rệt lạ thường. Hắn ngỡ như mình nằm mộng, cứ vừa chạy và chăm chú nhìn nàng không chớp mắt, chỉ sợ hễ chớp mắt nàng sẽ tan đi mất.

Tiếng kêu réo vẳng lại phá tan bầu không khí tĩnh lặng về đêm ở Dao trì, thiếu nữ áo xanh nghe động liền mỉm cười ngoái đầu khiến Xi Vưu giật nảy mình, khựng bước.

Dưới ánh trăng bát ngát, khuôn mặt thiếu nữ hiện rõ nét, chính là Tây Lăng Hành mà hắn tìm kiếm lâu nay, còn tưởng rằng đã chết.

“Xi Vưu? Sao ngươi lại ở đây?” Tây Lăng Hành giật nảy mình sửng sốt, bộ dạng có phần đanh đá nhưng ánh mắt không giấu nổi mừng rỡ.

Xi Vưu ngẩn người ra một thoáng rồi chạy vụt tới trước mặt Tây Lăng Hành, nắm chặt lấy nàng từ trên xuống dưới thật kỹ mới dám khẳng định tất cả là sự thực, “Sao cô cũng lại ở đây?”

Tây Lăng Hành lờ đi không đáp, trỏ đám thị vệ trong rừng đào: “Bọn họ đang đuổi ngươi đấy à? Ngươi ăn trộm gì thế?”

Xi Vưu uể oải đáp: “Ta lấy một cây cung trong địa cung ở Ngọc sơn, nhưng giờ chẳng cần tới nữa, đợt lát nữa trả lại chúng là xong.”

Tây Lăng hành biến sắc, “Ngươi, ngươi, ngươi muốn chết à! Đây là Ngọc sơn thánh địa, dù Hoàng Đế, Viêm Đế, Tuấn Đế có đến cũng phải tuân theo quy củ ở đây!” Nàng cuống đến nỗi quay mòng mòng cả lên, trong khi Xi Vưu vẫn bình chân như vại, thản nhiên cười nhìn nàng luống cuống.

Thấy đám thị vệ càng lúc càng đến gần, Tây Lăng Hành bèn đá văng Xi Vưu xuống hồ, “Chạy mau! Ta đi cản truy binh! Mau chuồn xuống núi rồi ném ngay cây cung hỏng đó đi! Bất kể xảy ra chuyện gì cũng không được thừa nhận rằng ngươi đã vào địa cung Ngọc sơn trộm báu vật, hễ thừa nhận là chết đó!”

Xi Vưu vẫn nhơn nhơn ló đầu lên khỏi mặt nước, làm bộ căng thẳng nói: “Vợ yêu, nếu cô xui xẻo bị bắt, nhớ đừng khai ra ta đấy!”

Tây Lăng Hành bực bội quát: “Cút mau!”

Mắt thấy đám thị vệ ùn ùn kéo đến, Tây Lăng Hành vội liếc xuống hồ, không thấy Xi Vưu đâu nữa, nàng mới dám thở phào nhẹ nhõm, lờ mờ cảm thấy có gì đó không ổn nhưng đã bị cả đám thị vệ vây lấy, đành cố lằng nhằng câu giờ với họ.

Hôm sau, mọi thứ trên Ngọc sơn bề ngoài vẫn vậy, nhưng tất cả khách khứa đều nhận thấy sự khác lạ.

Vân Tang phái thị nữ đi nghe ngóng xem đã xảy ra chuyện gì, hồi lâu, thị nữ quay về bẩm báo: “Tối qua dưới địa cung Ngọc sơn mất một món thần khí.”

Vân Tang giận đến nỗi hai mắt tóe lửa, trừng trừng nhìn Xi Vưu, đang định phát tác thì ả thị nữ lại nói tiếp: “Nghe nói đã bắt được kẻ trộm rồi.”

Vân Tang nhẹ cả người, vội ngượng nghịu cười với Xi Vưu tỏ ý tạ lỗi rồi quay sang mắt thị nữ: “Lần sau phải nói cho liền mạch, không được ngưng giữa chừng như thế.”

Ả thị nữ gần đây mới được vào hầu hạ cạnh Vân Tang, chưa hiểu tính tình ngoài lạnh trong nóng của nàng, líu ríu đáp: “Dạ!”

Vân Tang hỏi: “Kẻ nào to gan dám mạo phạm Ngọc sơn thánh địa thế?”

“Sự việc nghiêm trọng quá, nô tỳ không dò la được, nghe tỷ tỷ hầu hạ Vương Mẫu nói Vương Mẫu đích thân thẩm vấn kẻ trộm suốt nửa đêm mà chẳng được kết quả gì, cũng chẳng tìm thấy tang vật, đành phải thả ra, còn cấm các thị nữ không được bàn tán nữa, có điều, có điều…” Thị nữ nói một lèo hết cả hơi, đỏ bừng mặt lên.

Vân Tang ngán ngẩm bảo: “Ngươi lấy hơi đã rồi hãy nói.”

Ả thị nữ bối rối luống cuống, suýt khóc òa lên, trong khi gã Xi Vưu đầu trò lại bật cười: “Có điều thế nào?”

Ả thị nữ hít vào một hơi, nhanh nhảu đáp: “Có điều Vương Mẫu nói lúc địa cung bị mất trộm chỉ có mình nàng ta ở đó nên bị tình nghi nhiều nhất, nếu không chứng minh được sự trong sạch của mình, nàng ta sẽ bị giam lỏng một trăm hai mươi năm.”

Xi Vưu đăm chiêu hỏi: “Phải giam lỏng một trăm hai mươi năm ư?”

Vân Tang vẫy tay ra hiệu cho thị nữ lui xuống rồi thản nhiên nói: “Vậy là nhẹ lắm rồi. Phạm tội trên Ngọc sơn, sợ nhất không phải là Vương Mẫu xử phạt, mà là Vương Mẫu không xử phạt lại giao kẻ trộm cho gia tộc y, bọn họ đương nhiên phải có lời lại với Ngọc sơn, còn phải đối mặt với miệng lưỡi thế gian, hình phạt chỉ có nặng chứ không có nhẹ.”

Xi Vưu đưa mắt chăm chú nhìn Dao trì trăm dặm, đào nở ngàn năm ngoài song cửa, làm thinh không nói.

Hoàng hôn buông, tiệc Bàn Đào bắt đầu, chỗ ngồi được đặt bên Dao trì, trong các đình đài lầu gác bày đầy những bàn những sập dài ngắn đan xen, thoạt nhìn có vẻ tùy tiện nhưng thực tế lại rất trật tự.

Hàng chủ trì gồm bốn vị trí, Vương Mẫu ngồi ghế chủ tọa, bên phải là vương tử Quý Ly của Cao Tân, bên trái là vương cơ Vân Tang của Thần Nông, bên dưới Vân Tang là vương tử Xương Ý của Hiên Viên. Tiếp theo lần lượt là chỗ ngồi của bốn đại thế gia, sau đó mới là khách khứa của các gia tộc khác.

Xi Vưu ngồi bên phía tộc Thần Nông, vừa nâng chén uống rượu vừa dùng thần thức tìm kiếm Tây Lăng Hành nhưng chẳng thấy nàng đâu cả. Có lẽ vì phạm tội nên nàng đã bị cấm tham dự tiệc Bàn Đào rồi.

Trên Thí Luyện đài bắt đầu diễn ra các cuộc so tài về thần lực pháp thuật, kẻ thắng sẽ giành được tặng phẩm do Vương Mẫu chuẩn bị, đây là tiết mục truyền thống hàng bao năm nay trong tiệc Bàn Đào, có lẽ thoạt đầu chỉ là trò chơi để tăng thêm tửu hứng nhưng ngàn năm nay dần dà đã biến thành cơ hội tuyệt vời để anh hùng các tộc tranh đua cao thấp, khiến tất thảy thiên hạ đều quan tâm, thậm chí vì thế mà nảy ra cả Đại hoang anh hùng bảng.

Vương Mẫu cử thị nữ mở hộp ra, bên trong đặt một đóa hoa đào diễm lệ tươi tắn, lên tiếng giới thiệu: “Đây là Trụ Nhan hoa được thai nghén từ linh khí của Ngọc sơn, chẳng những có thể làm binh khí mà còn có khả năng giúp chủ nhân giữ mãi dung nhan tươi trẻ, không cần hao phí linh lực.”

Tất cả nữ tử đều ước ao giữ mãi dung nhan tươi trẻ, không khỏi kinh ngạc khẽ ồ lên.

Xi Vưu đã định lấy cớ thay đồ để rời chỗ, nghe thấy tiếng trầm trồ bèn ngoảnh lại nhìn Trụ Nhan hoa, bỗng động lòng dừng bước.

Xi Vưu đứng ngoài âm thầm xem tỉ thí, đến vòng cuối cùng quyết định thắng thua mới nhảy lên Thí Luyện đài, chỉ vài chiêu đã đẩy lùi được kẻ đang thắng thế, đoạt lấy Trụ Nhan hoa nhanh như sét đánh, dương dương tự đắc vẫy vẫy đóa hoa kẹp giữa ngón tay mình về phía Vương Mẫu, ném lại một câu “Đa tạ!” rồi nhảy xuống Thí Luyện đài bước đi.

Cử tọa đều kinh ngạc!

Kẻ đang thắng thế vừa rồi cũng là anh hùng nổi tiếng trong Thần tộc, vậy mà chỉ mấy chiêu đã bị Xi Vưu đánh bại, có điều đám khách khứa chẳng kẻ nào biết Xi Vưu, mọi người đều châu đầu ghé tai xì xào hỏi nhau về hắn.

Vân Tang thầm rủa Xi Vưu nhưng ngoài mặt vẫn phải ra sức che chở cho hắn, còn phải thay hắn nặn ra lý do cho hành vi vô lễ khi nãy nữa.

May sao Vương Mẫu cũng chẳng để bụng, chỉ thản nhiên tuyên bố Xi Vưu tộc Thần Nông đã giành chiến thắng.

Tối qua lúc gặp lại Tây Lăng Hành, Xi Vưu nắm lấy tay nàng, thoạt nhìn có vẻ thờ ơ nhưng thực tế là vừa kiểm tra thương thế của nàng, vừa để lại dấu ấn trên mình nàng. Giờ cứ việc lần theo đấu ấn đó, hắn dễ dàng tìm thấy Tây Lăng Hành.

Trong đêm tối, Tây Lăng Hành ôm một súc vải lụa men theo bờ Dao Trì, vừa đi vừa ngoảnh lại như sợ bị bám đuôi, chân bước về phía vắng vẻ.

Xi Vưu thấy hành động của nàng có phần kỳ lạ nên không gọi mà nấp trong bóng tối âm thầm bám theo.

Dưới bóng trăng, bên bia đá, vị công tử áo gấm đứng đầu ngọn gió, dung mạo tuấn tú, phong thái phiêu dật. Tây Lăng Hành thong dong tới trước mặt y.

“Nặc Nại tướng quân?”

“Chính tại hạ.”

“Ta là Tây Lăng Hành, bạn thân trong khuê phòng của vương cơ Hiên Viên.” Tây Lăng Hành dò xét Nặc Nại một lượt, như thể đang thầm định tình lang giùm bạn.

Nặc Nại dung mạo xuất chúng, danh tiếng lan xa, ở Cao Tân, mỗi lúc y ra đường đều có người xúm lấy nên đã quen với ánh mắt chằm chằm của kẻ khác, có điều chẳng hiểu sao ánh mắt Tây Lăng Hành khiến y nhớ tới vương cơ Hiên Viên bên Ao Tinh trì, trên Đột Bích sơn, đột ngột thấy bứt rứt không yên, vội vàng thi lễ: “Vương cơ truyền tin nói có việc quan trọng, dặn ta đừng tham dự tiệc Bàn Đào mà đợi người ở đây, chẳng hiểu đã xảy ra chuyện trọng đại gì?”

Chuyện quan trọng là không để ngươi trông thấy nàng ta trên tiệc Bàn Đào, Tây Lăng Hành chắp tay sau lưng nghiêng đầu cười hỏi: “Ngươi cảm thấy vương cơ thế nào?”

“Vương cơ huệ chất lan tâm, hoa dung nguyệt mạo.”

“Thật chẳng uổng công vương cơ biệt đãi ngươi.” Tây Lăng Hành trao súc lụa trong tay cho Nặc Nại. “Đây là vương cơ nhờ ta chuyển cho ngươi.”

Nặc Nại lui bước, không nhận lấy súc lụa, vẻ mặt lạnh băng, trong lời nói còn ẩn hàm ý: “Thiếu Hạo điện hạ bất kể tính tình hay tài hoa đều có một không hai, đúng là một đôi trời sinh với vương cơ, nếu vương cơ có gì gửi gắm, cứ việc phó thác cho Thiếu Hạo điện hạ, cần gì tại hạ ra sức.”

Tây Lăng Hành mỉm cười gật đầu, Vân Tang dặn nàng nếu Nặc Nại vui vẻ nhận lời ủy thác riêng thì chẳng những không được giao cho y mà còn phải mắng cho một trận, nhưng nếu y không chịu nhận thì phải nghĩ cách để giao nó cho y.

Tây Lăng Hành dúi súc lụa vào tay Nặc Nại, “Ngươi căng thẳng gì thế? Chẳng qua vương cơ hứng thú với việc chế tạo cơ quan trong trang viện, đây là bản vẽ mà vương cơ vẽ ra mấy năm nay, thật tình muốn nhờ ngươi chỉ giáo thôi mà.”

Sắc mặt Nặc Nại hơi dịu lại, “Danh sư trong vương tộc rất nhiều, tại hạ đâu dám nói xằng chỉ bậy.”

Tây Lăng Hành thở dài, “Ngươi bảo mình không dám nói xằng, vậy ngươi tưởng mấy kẻ mang danh cao sĩ kia dám nói xằng sao? Hơn nữa đừng nói trong Hiên Viên tộc, dù nhìn khắp cả thiên hạ cũng được mấy kẻ có tài như ngươi? Ngươi xem bản vẽ sẽ thấy, e rằng chỉ thua Ao Đột quán của ngươi mà thôi, còn những kẻ khác dù dám nói xằng cũng chẳng có tài mà lên tiếng đâu!”

Nặc Nại nghe đến đây hệt như kẻ hiểu võ gặp được kiếm báu, lòng nôn nóng chỉ hận không thể mở ngay súc lụa ra xem. “Vậy đợi tại hạ xem xét kỹ rồi sẽ bẩm lại với vương cơ.”

Tây Lăng Hành gật đầu cười ranh mãnh: “Vương cơ hành tung bất định, mấy ngày nữa có lẽ sẽ phải gặp sứ giả tới cầu kiến, tướng quân chớ vô lễ mà cự tuyệt ngay từ cửa nữa nhé.”

Nặc Nại mỉm cười hành lễ rồi cáo từ.

Tây Lăng Hành thấy y đã đi xa liền thong dong quay lại, đầu mải nghĩ miên man về Vân Tang cùng Nặc Nại, té ra Vân Tang tỷ tỷ cũng có lúc tinh quái nhường này, nàng càng nghĩ càng tức cười, không nhịn được hoa chân múa tay, cười hinh hích không thôi.

Đột nhiên nàng thấy mặt mình mát lạnh, vừa ngẩng đầu đã thấy ánh trăng vằng vặc, cánh đào trắng như tuyết bay ngập trời, phiêu phiêu phất phất, cuồn cuộn xoay xoay. Hệt như đông giá chợt về, cả đất trời phủ đầy một màu tuyết trắng, càng tăng thêm mấy phần kiều diễm dịu dàng.

Tây Lăng Hành vui thích chìa cả hai tay ra hứng lấy một vốc cánh hoa đưa lên mũi ngửi, thấy hương thơm ngan ngát, rõ ràng là hoa thật chứ chẳng phải ảo ảnh.

Nàng không nén nổi vui thích bắt đầu múa giữa trời “hoa tuyết”, tay áo lúc nhẹ nhàng vung ra, khi đột nhiên thu lại, tư thế uyển chuyển, bước chân thoăn thoắt, hệt như hoa yêu.

Nàng cười khanh khách gọi: “Xi Vưu, có phải ngươi không?”

Bóng dáng Xi Vưu dần dần hiện ra, tay còn cầm Trụ Nhan hoa, lặng lẽ cười giữa ngập trời hoa trắng, phong thái hiên ngang khiến những cánh hoa đào nhu hòa diễm lệ cũng đượm mấy phần anh khí.

Tây Lăng Hành cũng ngưng múa, đăm đăm nhìn Xi Vưu như đang nằm mộng.

Hai người cứ lặng lẽ nhìn nhau qua một màn tuyết trắng, mặc cánh đào bay ngập trời, chẳng rõ là do không đành phá vỡ vẻ đẹp trong khoảnh khắc hay trong lòng đang ấp ủ cảm nghĩ riêng.

Hồi lâu Tây Lăng Hành mới thở dài: “Ta biết ngươi sẽ không chịu nghe lời ta mà xuống núi.”

Xi Vưu chỉ cười không đáp.

Tây Lăng Hành chậm rãi bước tới, chăm chú nhìn hắn: “Hôm qua lúc ngươi đi rồi ta mới nhận ra, dù là cao thủ Thần tộc cũng chẳng mấy kẻ có thể an toàn thoát thân sau khi đánh cắp bảo vật dưới địa cung Ngọc sơn, khi xưa ở Bác Phụ sơn cũng là ngươi cứu ta phải không? Rốt cuộc ngươi là ai thế?

“Ta là ta thôi.”

Tây Lăng Hành quát, “Đừng gạt ta nữa, ta hỏi tên thật của ngươi kia!”

“Đám vu sư tộc Cửu Lê gọi ta là Thú vương, thần tiên trên Thần Nông sơn gọi ta là cầm thú hoặc súc sinh, còn sư phụ và Du Vương gọi ta là Xi Vưu.”

Xi Vưu trả lời hết sức thản nhiên nhưng Tây Lăng Hành lại thấy xót xa khôn tả, hạ giọng nói: “Linh lực của ngươi khá mạnh, ta còn tưởng ngươi là anh hùng nổi tiếng nào trong Thần tộc, ai dè lại chẳng có tên tuổi gì.”

Xi Vưu thổi đóa Trụ Nhan hoa trong tay, Trụ Nhan hoa từ từ nở ra, cao tới cả thước, trên cành đầy những nụ có đỏ có trắng, vô cùng mỹ lệ, hắn trao đóa hoa cho Tây Lăng Hành.

Thiếu nữ nào chẳng yêu hoa đẹp, Tây Lăng Hành liền mừng rỡ nhận lấy: “Tặng ta ư?”

Xi Vưu gật đầu.

“Cảm ơn ngươi.” Tây Lăng Hành vừa dứt lời cảm tạ đã bĩu môi lườm hắn, quay ngoắt đi, “Đồ bịp bợm! Rõ ràng ngươi lợi hại thế này, vậy mà dạo ở Bác Phụ quốc lại ức hiếp ta!”

Nàng leo lên đỉnh núi, kiếm một phiến đá tương đối bằng phẳng ngồi xuống, Xi Vưu cũng ngồi bên cạnh, khẽ gọi: “A Hành.”

Tây Lăng Hành ngoảnh đầu sang bên, chẳng để ý gì tới hắn, chỉ thích thú nghịch đóa Trụ Nhan hoa, nhìn tuyết rơi càng lúc càng dày.

Xi Vưu ngồi nhìn một lát rồi khum hai tay lên miệng huýt sáo mấy tiếng, lát sau chợt thấy hai chú chim cùng ngậm một cành đào bay lại, lá xanh biêng biếc như còn đẫm sương đêm, giữa đám lá thấp thoáng một trái đào nõn nà tươi rói, thoạt nhìn đã thèm.

Thần tộc có thể dùng thần lực sai khiến thú yêu điểu yêu, nhưng không thể ra lệnh cho đám chim thú bình thường chưa được khai thông linh trí, cảnh tượng này khiến Tây Lăng Hành tròn xoe mắt. Hai chú chim đậu xuống trước mặt nàng, đập cánh rồi cùng cất giọng hót líu lo như mời nàng nếm thử trái đào.

Tây Lăng Hành không khỏi nuốt nước miếng, liếc Xi Vưu rồi cầm lấy trái đào cắn một miếng, thấy thơm ngọt đến tận tâm can, ngon hơn hết thảy hoa quả trước đây từng nếm qua.

“Ngon quá!”

Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành, cười cười không nói, đây là trái đào ngon nhất trên Ngọc sơn này, khi xưa hắn còn thắc mắc tại sao con cáo nâu đó lại đem miếng mồi ngon nhất dâng cho kẻ khác, mãi đến bây giờ ngắm nụ cười mê hồn của nàng, hắn mới hiểu ra.

A Hành thấy trong lòng rúng động, chẳng dám nhìn Xi Vưu thêm nữa, chỉ cúi đầu lặng lẽ nghịch mấy cánh hoa rồi ăn đào, cảm giác vừa hoảng hốt vừa sợ sệt, còn xen lẫn chút ngọt ngào chẳng thể gọi thành tên.

Dưới một trời hoa tuyết tả tơi, hai người họ sánh vai cùng ngồi trên vách đá. Xi Vưu ngẩng đầu nhìn ánh trăng vằng vặc, nghe lòng mình êm đềm đến vui vẻ, tựa như được trở về vùng rừng núi mênh mông ấy, tự do tự tại, chẳng còn cô đơn nữa.


Hết chương 4


Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 1-12-2013 11:04 AM
Chương 5


Thư ngắn tình dài, lòng không tỏ


5.1


Thư viết rất dài, hết lải nhải kể mấy chuyện đất lề quê thói, rồi dịu dàng tự thuật đôi ba câu chuyện, có điều, một câu xem chừng rất bình thường trong đó lại khiến nàng thấy mắt cay cay.

“Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực cả hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.”

Một chữ “lại” vô tình viết ra mà khiến Tây Lăng Hành trằn trọc suốt cả đêm.  

Sau khi dự tiệc Bàn Đào, khách khứa thảy đều giải tán, chẳng còn khách đương nhiên chẳng cần dùng tới cung nữ gỗ nữa, số cung nữ thật trong cung điện vốn không có mấy, đi đi lại lại, lặng lẽ âm thầm, thông thường cả sáng chẳng nghe một tiếng nói.

Không còn những huyên náo phù phiếm, khắp trăm dặm đình đài lầu gác nguy nga tráng lệ cũng đượm đầy vẻ quạnh quẽ thê lương, ngàn dặm đào hoa rực rỡ chẳng làm sao che giấu nổi, có lẽ đây mới chính là diện mạo thật của Ngọc sơn.

Tây Lăng Hành chợt hiểu vì sao cứ ba mươi năm Vương Mẫu lại mở tiệc Bàn Đào một lần, bởi vì, bà quá đỗi tịch mịch! Dù người tham dự đều là những kẻ xa lạ nhưng dù sao cũng có thể mượn sự náo nhiệt của người ta để xua tan đi nỗi cô tịch của mình.

Nghĩ tới việc còn phải ở lại Ngọc sơn một trăm hai mươi năm, tức là mấy vạn ngày đêm nữa, kẻ luôn vô tư hồn nhiên như nàng cũng bắt đầu rầu rĩ.

Có lẽ Xi Vưu cũng hiểu được nỗi cô đơn của nàng nên phái người hầu đưa tới một chú tệ tệ[1] gầy ốm, nghe nói mẹ nó đã chết trong lúc bảo vệ địa bàn của mình, trước khi chết còn chưa sinh nở, để tệ tệ con được sống, tệ tệ mẹ đã gắng chút sức tàn lấy móng vuốt tự rạch bụng, moi đứa con chưa đủ ngày đủ tháng ra, vừa may được Xi Vưu cứu giúp, nhưng một con non như vậy làm sao sống nổi đây?

[1] Sơn Hải kinh – Đông sơn kinh: “Núi Cô Phùng có loài thứ hình dạng như cáo, có cánh, tiếng kêu như hồng nhạn, tên gọi tệ tệ. Tệ tệ thuộc giống hồ ly, tuy có cánh nhưng rất yếu ớt, khó mà bay lên được.”

Tây Lăng Hành ôm chú tệ tệ nhỏ đang thoi thóp tới cho Vương Mẫu xem thử, Vương Mẫu hờ hững nói: “Hồ tộc đỏng đảnh khó nuôi lắm, không sống nổi đâu.”

Chú tệ tệ nhỏ còn chưa mở nổi mắt nhưng khi Tây Lăng Hành lấy tay cù cù, nó liền ngậm ngón tay nàng mút chùn chụt, như đang bày tỏ khát khao ham sống.

Tây Lăng Hành lấy đào tiên và ngọc tủy mà người trong thiên hạ ước ao ra cho tệ tệ nhỏ ăn, chẳng ngại lãng phí, nàng thầm nghĩ nó đã không sống được lâu thì cứ ăn uống cho no nê đi.

Vương Mẫu cũng mặc nàng tùy ý, chỉ đứng bên thờ ơ quan sát.

Đào tiên và ngọc tủy đều do linh khí đất trời hội tụ lại mà thành, nhưng chính vì linh khí quá dồi dào nên nếu không hấp thụ nổi thì chỉ còn đường chết. Quả nhiên chỉ lát sau, chú tệ tệ nhỏ đã dựng hết lông lên, thân mình càng lúc càng phình ra hệt như một quả bóng da, tưởng chừng sắp nổ tung đến nơi, cặp mắt đỏ rực lên vì đau đớn, nó quằn quại vật vã.

Tây Lăng Hành luống cuống vỗ về tệ tệ nhưng nó hết cào lại cắn khiến tay nàng rướm máu. Vô tình mút được chút máu Tây Lăng Hành, tệ tệ nhỏ thấy cơn đau dịu dần bèn cắn chặt lấy tay nàng, ra sức hút máu. Tây Lăng Hành cũng mặc cho nó hút, chẳng hề ghìm giữ linh lực lại, dần dà, thân hình chú tệ tệ nhỏ khôi phục nguyên dạng, nó thỏa mãn cọ cọ vào nàng rồi thiếp đi.

Chữa xằng chữa bậy lại giữ được mạng, đúng là kẻ ngốc có phúc của kẻ ngốc! Vương Mẫu lắc đầu quay người bỏ đi.

Cứ như vậy, hàng ngày Tây Lăng Hành đều nuôi tệ tệ bằng đào tiên và ngọc tủy, hễ người nó trướng lên thì lại cho hút máu mình. Ngày lại ngày qua, chú tệ tệ thập tử nhất sinh đã bắt đầu chạy nhảy tung tăng, lông đen tuyền, đôi cánh bên sườn cũng cứng cáp hẳn lên.

Tới chừng hơn một tuổi nó đã lớn bằng con mèo, Tây Lăng Hành đặt tên cho nó là A Tệ.

Một hôm trong lúc đùa giỡn Tây Lăng Hành đặt A Tệ lên cành đào rồi len lén chuồn đi, A Tệ kêu lên mấy tiếng thảm thương chấp chới đập cánh bay đuổi theo nàng.

Loài tệ tệ tuy có cánh nhưng hai cánh rất yếu, khó mà bay lên được, ấy thế mà A Tệ được nuôi bằng đào tiên và ngọc tủy lại có thể bay!

Tây Lăng Hành kinh ngạc cười khanh khách, lập tức dắt A Tệ đi khắp nơi tập bay, khiến cả rừng đào cũng xao xác cả lên.

Thấy A Tệ tập bay, các cung nữ đồng loạt kéo tới xem, tuy A Tệ còn non nhưng có lẽ Hồ tộc trời sinh đã diễm lệ hơn người, ai thấy cũng yêu, bọn họ kinh ngạc gọi yêu nó là “Phi Thiên tiểu hồ ly”, Vương Mẫu ngẫu nhiên nghe được cũng dừng lại, ngạc nhiên quan sát nó.

Tây Lăng Hành làm mặt hề với Vương Mẫu, cười đắc ý ra vẻ chế nhạo Vương Mẫu cũng có lúc sai, A Tệ chẳng những sống được, mà còn sống khỏe nữa kia.

Tây Lăng Hành bị giam trong núi sâu chỉ có mình A Tệ làm bạn nên ngày ngày đều mong nhận được thư.

Đại ca Thanh Dương bận bịu công việc, đừng nói tới thư từ, đến một câu hỏi thăm cũng chẳng có. Tứ ca Xương Ý tuy quan tâm nàng nhưng chủ yếu là đưa đồ ăn đồ chơi tới chứ không viết thư. Chỉ riêng Xi Vưu cứ gửi thư tới tấp, thường một tháng phải đến mấy lá, từ chuyện lớn như quang cảnh các nơi tới chuyện vụn vặt như món hắn ăn, chuyện cười hắn nghe được đều viết cả vào thư, lá dài lá ngắn, dài thì cả trăm chữ, ngắn thì chỉ cụt lủn một câu: Hoa quỳnh trên bàn đã nở, sắc trắng, thơm ngát.”

Thỉnh thoảng Xi Vưu còn làm nàng bất ngờ. Xi Vưu kể rằng trên sông Hán Thủy xuất hiện yêu quái ăn thịt người, hắn tình nguyện xin đi thu phục yêu quái, tuy giết được nó nhưng cũng bị thương nhẹ, hắn đã lấy răng nó làm chuông gió tặng cho nàng.

Tây Lăng Hành hành treo chuông gió dưới mái hiên, mỗi khi gió thổi, nghe tiếng chuông leng keng, tâm trí nàng lại hiện lên một cảnh tượng vô cùng sống động: giữa biển sóng cuồn cuộn ngất trời, Xi Vưu giao đấu cùng thủy quái, cánh tay bị thương, máu nhuộm đỏ cả dòng Hán Thủy nhưng khóe môi vẫn thấp thoáng nét cười thản nhiên mà ngạo nghễ.

Dần dà Tây Lăng Hành bắt đầu dựa dẫm vào những bức thư của Xi Vưu, dù chỉ một câu ngắn ngủi của hắn cũng mang đầy sức sống và vẻ đẹp của trời đất ngoài kia, trong khi thư phúc đáp của nàng bức nào bức nấy toàn là nàng và A Tệ làm những việc này, nàng và A Tệ làm những việc kia.

Thỉnh thoảng Tây Lăng Hành chợt nghĩ nếu đồng thời xem tất cả các bức thư nàng gửi tới, chắc hẳn Xi Vưu sẽ tức chết mất, có điều nàng viết rất dí dỏm, Xi Vưu cũng chưa từng vì bực bội mà chấm dứt thư từ với nàng.

Đôi bên thư đi tin lại liên tiếp, tuy Vương Mẫu chẳng lấy làm phiền về việc Thanh Điểu[2] mỗi lần lên núi đều chuyển thư giùm A Hành nhưng Xi Vưu thấy không tiện, bèn nhắn nàng rằng đã tìm được một chú chim tuyệt vời để đưa thư.

[2] Theo Sơn Hải kinh – Hải Nội Bắc kinh: “Tây Vương Mẫu lưng tựa kỷ, đầu cài hoa ngọc, phía Nam có ba con Thanh điểu, đưa cơm cho Tây Vương Mẫu.”

Theo Sơn Hải kinh – Đại Hoang Tây kinh: “Ba con Thanh điểu đầu đỏ mắt đen, một con tên Đại Thu, một con tên Tiểu Thu, con còn lại tên là Thanh Điểu.”


Mấy tháng sau, một con Lang điểu[3] bị trói gô lại được gửi lên Ngọc sơn.

[3] Sơn Hải kinh: “Lang điểu là loài chim lành, toàn thân trắng muốt.”


Tây Lăng Hành mở thư ra xem ngay trước mặt nó, trong thư Xi Vưu nói theo lệnh Viêm Đế, hắn phải tới vùng rừng rậm ở Tây Nam, nơi chưa một quan viên Thần tộc nào đặt chân đến, cũng chẳng biết phải đi mất bao lâu, vốn định thuần phục con chim này rồi mới gửi cho nàng nhưng bây giờ không thể đem theo nó cùng đi được, đành gửi luôn vậy.

Đọc xong, Tây Lăng Hành nghiêng đầu ngắm nghía chú chim, thật không tưởng tượng nổi, dựa vào khả năng của mình mà Xi Vưu lại không thuần phục nổi một con chim.

Giống Lang điểu toàn thân trắng muốt, hai mắt xanh biếc, vì dáng vẻ đẹp đẽ, tính tình hiền hòa nên thường được các thiếu nữ Thần tộc nuôi trong khuê phòng, có điều con Lang điểu này trông vô cùng ngạo nghễ, chỉ ngẩng đầu nhìn trời, chẳng buồn liếc Tây Lăng Hành đến nửa con mắt.

Tây Lăng Hành cho nó ăn, nó cũng rất hiền hòa, ngoan ngoãn chén sạch hai chú cá ngũ sắc khiến nàng mừng rỡ nhủ thầm: đâu có khó thuần gì! Nào ngờ lúc ăn tới con cá thứ ba, Lang điểu bất thình lình mổ phập vào tay nàng, còn rứt luôn một miếng thịt.

Thấy tay nàng chảy máu ròng ròng, Lang điểu đắc ý hót vang, tiếng hót rất chói tai nhưng chim chóc quanh đó đều nghe tiếng mà đến, sợ sệt đậu đầy cành.

Nghe tiếng nó hót, Vương Mẫu kinh ngạc bước ra, quan sát kỹ một hồi rồi nói: “Hình như con Lang điểu này có lai lịch.”

Tây Lăng Hành khiêm nhường thỉnh giáo, Vương Mẫu bèn giảng giải: “Tiếng hót Lang điểu vốn rất trong trẻo êm tai, nhưng con Lang điểu này hót chói tai như thế là bởi nó không coi mình là Lang điểu mà lại vọng tưởng muốn có giọng hót thánh thót như phượng hoàng. Phượng hoàng năm trăm năm mới sinh một quả trứng, chẳng hiểu sao một quả trứng Lang điểu lại lẫn vào ổ phượng hoàng, cơ duyên xảo hợp, trứng phượng hoàng bỗng biến mất, phượng hoàng tưởng lầm trứng Lang điểu là của mình, liền ấp nở, còn nuôi nó lớn, con Lang điểu này cũng ráng tập theo tiếng kêu thánh thót của phượng hoàng nên mới thành ra thế này.”

Vương Mẫu lại nhìn những chú chim muốn bay mà không dám bay trên cành, cười nói: “Nếu là phượng hoàng thật, hẳn giọng hót đã thánh thót như tiếng đàn, muôn chim triều bái, hoan hỷ phục tùng chứ đâu như thế này.” Đám cung nữ đều bưng miệng cười chế nhạo, chỉ riêng Tây Lăng Hành động lòng thương cảm, bèn xách nó lên. Con Lang điểu này đã như vậy, Lang điểu thật không dám lại gần nó, mà phượng hoàng cũng chẳng thèm coi nó là đồng loại, thật ra, nó cũng đâu muốn làm phượng hoàng?

Nàng nói với nó: “Mày đấu được với Xi Vưu, hiển nhiên không phải thứ chim chóc tầm thường, ta chẳng tâm sức đâu mà thuần hóa mày, nhưng Xi Vưu đã mất công bắt mày tặng cho ta, ta cũng không thể trái ý hắn, thả mày đi được. Mày cứ tạm lưu lại Ngọc sơn truyền tin giúp ta, đợi chừng nào ta xuống núi thì tùy mày muốn ở hay đi cũng được. Nếu đồng ý, ta sẽ thả mày ra, nếu không nhận lời ta sẽ trói mày một trăm năm luôn.”

Đáp lại đề nghị của nàng, Lang điểu há mỏ khạc ra một đám lửa. Vương Mẫu lắc đầu than thở, thật đáng thương cho lòng kẻ làm cha làm mẹ trên đời, có lẽ đôi phượng hoàng kia đến chết vẫn không hiểu sao đứa con nở ra lại chẳng giống mình, để giúp đỡ nó, chúng đã chẳng tiếc hy sinh bản thân, cho Lang điểu ăn cả nội đan tu luyện trăm năm của mình.

Tây Lăng Hành tránh khỏi ngọn lửa, cũng chẳng lấy thế làm điều, chỉ quay sang bảo A Tệ: “Chúng ta đi.” Vương Mẫu đưa mắt nhìn đám thị nữ xung quanh, họ lập tức cúi đầu tản đi.

Lang điểu quen thói tự do, dù đã bị Xi Vưu bắt vẫn ngày ngày kháng cự hắn, lúc nào cũng căng thẳng kích động quá mức. Vậy mà bây giờ nó lại bị trói buộc trong một xó hẹp, chẳng ai buồn ngó ngàng, hằng ngày Tây Lăng Hành chỉ tới một lần, quăng đồ ăn vào rồi đi, bất kể nó khiêu khích ra sao nàng vẫn dửng dưng.

Thoạt đầu Lang điểu còn kêu loạn lên, dần dà chẳng hơi sức đâu mà kêu nữa, ngày ngày chỉ ngẩn ngơ nhìn cảnh vật trơ trơ trước mắt.

Mây sớm bay lên, ráng chiều buông xuống.

Tít tắp sâu trong rừng đào thường vẳng ra tiếng kêu vui vẻ của tệ tệ.

Thỉnh thoảng, tệ tệ sải cánh bay ngang qua đầu Lang điểu, để lại một vệt bóng, thực tình thấy tệ tệ bay chấp chới, Lang điểu chẳng xem ra gì, nhưng khi bóng tệ tệ đã khuất nó lại ngẩng đầu nhìn ngây dại bầu không trống trải.

Cứ thế hơn trăm ngày, một hôm Tây Lăng Hành để đồ ăn xuống rồi dợm bước định đi, Lang điểu chợt há mỏ ngậm vạt áo nàng níu lại.

Tây Lăng Hành ngoái đầu hỏi nó, “Mày đồng ý rồi ư?”

Nó ngẩng đầu lên, không đáp.

Tây Lăng Hành cũng chẳng chấp tính ngang ngạnh của nó, chỉ mỉm cười nói: “Tuy mày hung hăng nhưng tính tình cao ngạo, đương nhiên chẳng thèm hứa hão rồi.” Dứt lời, nàng phất tay cởi trói cho nó. “Khi nào có việc tao sẽ tìm mày, còn hàng ngày nếu không muốn gặp tao, mày cứ tùy ý bay lượn, miễn đừng ra khỏi phạm vi Ngọc sơn.”

Nó sắp vỗ cánh bay đi, lại nghe Tây Lăng Hành nói: “Mày không phải Lang điểu, cũng chẳng phải phượng hoàng, mày chỉ là mày thôi, trong thiên hạ này, mày là độc nhất vô nhị, tao tạm gọi mày là Liệt Dương[4] nhé, nếu sau này mày có cơ duyên tu thành người, có thể tùy ý đổi tên khác vậy.”

[4] Liệt: lẫm liệt, mạnh mẽ. Dương: Thái dương, dương khí.


Liệt Dương đứng ngây ra như đang ngẫm ngợi lời nàng, Tây Lăng Hành liền cầm lấy một cành đào, viết lên mặt đất hai chữ: “Liệt Dương”.

Lang điểu chăm chắm nhìn hai chữ “Liệt Dương” trên mặt đất hồi lâu rồi vỗ cánh bay đi.

Tây Lăng Hành khẽ thở dài, lắc đầu than cùng A Tệ, “Nó quật cường ghê, loài chim vốn ưa bay nhảy tự do, vậy mà vẫn kiên nhẫn được hơn một trăm ngày! Thiếu chút nữa ta đã mềm lòng, định viết thư cho Xi Vưu, xin hắn đồng ý để ta thả nó ra rồi.”

A Tệ nhếch mép cười, ánh mắt lấp lánh niềm vui. A Tệ là hồ ly, giống vật thông minh nhất trong muông thú, lại lớn lên giữa Ngọc sơn tràn trề linh khí, ăn đào tiên, uống ngọc tủy, được Tây Lăng Hành rèn giũa, tuy chẳng thể nói tiếng người nhưng cũng lanh lợi không kém một đứa trẻ.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 1-12-2013 02:53 PM
Chương 5


Thư ngắn tình dài, lòng không tỏ


5.2


Tây Lăng Hành hớn hở chạy về phòng, “Ta phải viết thư cho Xi Vưu, nếu hắn thấy Liệt Dương đưa thư tới hắn sẽ giật nảy mình, tò mò không biết tại sao ta lại thuần phục được nó nhanh thế cho xem. Mày nói ta có nên kể cho hắn chuyện ta cam kết với Liệt Dương không? Hay là đừng kể vội, cứ để hắn tò mò nhé!”

Liệt Dương quả rất giữ lời, nghe tiếng Tây Lăng Hành gọi, nó liền bay tới ngay.

Gửi gắm bức thư cho Liệt Dương xong, nàng còn quàng vào cổ nó một ống trúc đựng đầy ngọc tủy đã chuẩn bị trước, khiến nó tưởng đó là quà cáp mà nàng sai nó chuyển, nào ngờ, Tây Lăng Hành dặn dò: “Cái này để mày uống, khỏi phải ăn những thứ linh tinh, mày bay nhanh, chắc một ngày thì tới nơi, Xi Vưu nhận thư sẽ cởi nó ra hộ mày.”

Liệt Dương vỗ cánh lặng lẽ bay ra ngoài cửa sổ. Quả nhiên nó bay nhanh như chớp, thoáng cái đã mất hút, chỉ còn chiếc chuông gió dưới hiên nhà khẽ ngân những tiếng tinh tang.

Tây Lăng Hành ngồi vào bàn, chống cằm ngắm chuông gió, hai má ửng hồng. Trên Ngọc sơn này, năm năm tháng tháng hoa như cũ, tháng tháng năm năm thần tiên vẫn hệt xưa, nhưng dưới Ngọc sơn kia xuân qua thu đến, thu hết xuân về, ba mươi năm đằng đẵng, lại đã đến tiệc Bàn Đào.

Để chuẩn bị cho tiệc Bàn Đào, Vương Mẫu đã chế ra rất nhiều cung nữ gỗ phục vụ, trong cung chợt náo nhiệt hẳn lên.

Tây Lăng Hành thấy hay hay cũng bắt chước học làm gỗ. Vương Mẫu dạy nàng rằng trước tiên phải nhỏ máu tươi trong tim vào để người gỗ có sinh khí, rồi mới dùng linh lực điều khiển chúng làm việc. Làm người gỗ không khó, cái khó là điều khiển chúng, đừng nói tới máu tươi trong tim nối liền với huyết mạch của mình, mà linh lực cần thiết cũng quá lớn, thần tiên bình thường khó mà chịu đựng nổi. Kể cả Vương Mẫu nếu chẳng có Ngọc sơn dồi dào linh khí, nếu không phải những người gỗ đó theo hầu hạ bên mình thì bà cũng chẳng điều khiển nổi nhiều người gỗ như thế.

Vương Mẫu trêu Tây Lăng Hành: “Sắp tới được gặp mặt rồi, khỏi phải viết thư nữa, thích quá nhỉ?”

Tây Lăng Hành ngẩn người, như mừng như tủi, cúi gằm mặt xuống.

Vương Mẫu lắc đầu cười.

Đột nhiên Tây Lăng Hành ngẩng lên hỏi: “Vương Mẫu trước kia đâu có tổ chức tiệc Bàn Đào, từ khi Người làm Vương Mẫu mới đặt ra quy củ, cứ ba mươi năm bày tiệc Bàn Đào một lần, hao tổn rất nhiều tâm sức, chẳng rõ vị thần tiên hay yêu quái mà Người muốn gặp đã tới chưa?”

Vương Mẫu bỗng biến sắc, người gỗ đang làm dở trên tay rơi xuống đất, cung nữ bưng trà trong phòng vỡ tan thành tro bụi.

“Đừng tưởng ta ăn nói tử tế với ngươi, ngươi lại quên khuấy đây là đâu nhé, coi chừng ta giam ngươi thêm một trăm hai mươi năm nữa đấy!”

Nói rồi Vương Mẫu đùng đùng tức giận giũ áo đi thẳng, đám cung nữ cũng nín thinh, chỉ mình Tây Lăng Hành ngoảnh sang cười vụng với A Tệ: “Sao ta lại thấy thinh thích lão yêu bà này nhỉ?”

Tiệc Bàn Đào khai mạc, anh hùng các nơi theo thường lệ đều tụ họp đông đủ.

Thấy sứ giả lần này của tộc Hiên Viên là Tứ ca Xương Ý, Tây Lăng Hành rất vui, theo lý lần trước Xương Ý đã tới rồi, lần này không được đi nữa, nhất định là vì nàng nên Tứ ca mới cố nài nỉ phụ vương tranh thủ đến Ngọc sơn.

Tiếc rằng cả tộc Thần Nông chỉ cử mình Cộng Công tới dự yến.

Cộng Công nhận tội với Vương Mẫu, “Nhị vương cơ bệnh nặng qua đời, Viêm Đế đau buồn quá độ mà thành bệnh, các quan lại chức dịch trong tộc đều không dám rời Viêm Đế nên chỉ có mình vãn bối tới dự yến.”

Vương Mẫu đưa Cộng Công một giỏ đào tiên, sai hắn mang về cho Viêm Đế, “Giúp ta chuyển lời chia buồn với Viêm Đế, khuyên ngài cố nén đau thương.”

Cộng Công thi lễ rồi cung kính lui ra, Vương Mẫu đứng bên vách núi đăm đắm nhìn biển mây mờ mịt, dáng vẻ cô độc mà bi thương khôn xiết, cứ đứng như vậy cả ngày, chẳng cung nữ nào dám lại quấy nhiễu.

Tây Lăng Hành bước tới đứng sau lưng Vương Mẫu.

Vương Mẫu bèn đưa cho nàng một chiếc hộp gỗ: “Thanh Điểu vừa mang từ dưới núi lên đó, xem ra tuy Xi Vưu chưa tới nhưng lễ vật đã tới trước rồi.”

Tây Lăng Hành mở hộp ra, thấy bên trong là hai con phượng hoàng được đẽo bằng gỗ.

Thoạt đầu, nàng ngỡ ngàng chẳng hiểu gì cả, sau mới sực nghĩ ra, liền đặt cả hai xuống đất.

Hai con phượng hoàng vừa bén hơi đất lập tức lớn nhanh như thổi, hóa thành hai con phượng hoàng y như thật, bộ lông ngũ sắc rực rỡ, tiếng kêu thánh thót, bay lượn xung quanh.

Phượng hoàng là vua của muôn chim, thân phận cao quý, tính tình kiêu ngạo, nhưng hai chú phượng hoàng này lại rất thân thiết với Tây Lăng Hành, lúc bay ra xa múa lượn cho nàng ngắm, lúc liệng lại gần vờn quanh mình nàng. Giọng hót phượng hoàng thánh thót du dương tựa tiếng đàn, chúng vừa hót vừa bay lượn, khiến chẳng những Tây Lăng Hành mà cả Vương Mẫu cũng phải mỉm cười.

Chừng nửa tuần hương, linh lực để duy trì đã cạn kiệt, đôi phượng hoàng mới thôi múa lượn, khép cánh đỗ xuống, lại biến thành hai con chim gỗ.

Thấy Vương Mẫu ngây ra nhìn hai chú chim gỗ đến ngơ ngẩn, Tây Lăng Hành vội hỏi: “Sao thế ạ?”

Vương Mẫu thờ ơ: “Bạn của ngươi sai khiến được tượng gỗ từ ngoài ngàn dặm, còn khiến chúng cất tiếng hót, đúng là không vừa.” Thật ra, điều khiến Vương Mẫu cảm thán chính là, nhiều kẻ có thể vì quyền lợi mà bất chấp mọi giá, sai khiến rối gỗ từ xa để chúng giết người lấy đồ cho mình, còn Xi Vưu lại chẳng tiếc hao tổn tâm huyết chỉ để làm vui cho Tây Lăng Hành.

Tuy hai con chim gỗ đã thành ra vô dụng, Tây Lăng Hành vẫn tươi cười cất chúng đi.

Tiệc Bàn Đào dài ba ngày trôi qua rất mau.

Ba mươi năm nay, Tây Lăng Hành đã ăn chán đào tiên nên cũng chẳng còn gì hứng thú với tiệc Bàn Đào, thế mà khi tiệc tàn, nàng lại thấy lòng buồn vô cớ, có lẽ là bởi Xương Ý ca ca sắp phải đi.

Tây Lăng Hành quyến luyến tiễn Tứ ca xuống núi rồi một mình đi sâu vào giữa rừng đào, chẳng buồn mang A Tệ theo. Vậy mà chẳng hiểu sao Vương Mẫu vẫn tìm thấy nàng, còn hỏi: “Ngươi nhớ nhà ư?”

Tây Lăng Hành đã băn khoăn vì một câu nói của Vương Mẫu từ rất lâu. Hôm đó khi trừng phạt nàng, Vương Mẫu từng nói: “Nể mặt mẫu hậu ngươi, ta sẽ giữ thanh danh cho ngươi, không công bố tội trộm cắp ra ngoài, chỉ phạt ngươi chăm sóc vườn đào cho ta một trăm hai mươi năm.” Tây Lăng Hành chỉ nghe người ta nể mặt phụ vương oai trấn bốn bể của mình, lần đầu mới thấy có người “nể mặt mẫu hậu ngươi”, hơn nữa người đó lại là Ngọc sơn Vương Mẫu, nên nàng rất tò mò.

Tây Lăng Hành đánh liều hỏi Vương Mẫu: “Người quen mẫu hậu tôi sao?”

“Rất nhiều rất nhiều năm trước, chúng ta từng là đôi bạn khăng khít.”

“Thật ư?”

Tây Lăng Hành bị bất ngờ, bán tín bán nghi. “Giờ đây nhắc tới phụ vương ngươi thì thiên hạ ai ai cũng biết, nhưng khi còn chưa ai biết tới ông ta, mẫu hậu ngươi đã vang danh khắp chốn, người người đều biết nhà Tây Lăng có nàng kỳ nữ. Viêm Đế, Tuấn Đế đều phái sứ giả tới cầu thân cho con trai, nếu mẫu hậu ngươi nhận lời, có lẽ bây giờ ngươi đã là vương cơ của Thần Nông hay Cao Tân rồi.”

Tây Lăng Hành kinh ngạc đến không dám tin: “Vậy năm xưa mẫu hậu tôi thế nào? Còn phụ vương thì sao?”

Vương Mẫu lim dim mắt như đang hồi tưởng lại: “Mẫu hậu ngươi là người con gái thông tuệ dũng cảm nhất mà ta từng thấy, còn phụ vương ngươi cũng là gã thanh niên anh tuấn hào sảng nhất mà ta đã gặp qua, năm đó…” Vương Mẫu ngừng lại ngang chừng, hồi lâu không nói tiếp. Ánh dương xuyên qua những cánh đào rực rỡ, rải xuống đất thành những bụi vàng lắc rắc. Gió lay bóng động, tựa như dằng dặc thiếu hoa trôi ngang dung nhan Vương Mẫu, toát lên một nỗi bi ai mà A Hành cũng không sao hiểu nổi.

“Sao mẫu hậu tôi chưa từng nhắc tới Người nhỉ?”

Vương Mẫu mỉm cười, xua tan bóng dáng tháng năm vừa lướt qua gương mặt, “Bởi chúng ta đã không còn là bạn bè nữa.”

“Người không gặp phụ mẫu tôi bao lâu rồi?” “Hơn hai ngàn năm nay rồi, từ khi cai quản Ngọc sơn, ta chưa hề xuống núi, họ cũng chưa từng tới đây.”

Tây Lăng Hành nhìn quanh, chẳng nói nên lời. Hai ngàn năm, ngày lại ngày, năm lại năm, Vương Mẫu cứ một mình coi sóc cả rừng đào rực rỡ thắm tươi thế này ư?

Vương Mẫu thoáng trầm ngâm, đoạn hỏi tiếp: “Mẫu hậu ngươi khỏe chứ?”

Tây Lăng Hành nghiêng đầu nghĩ ngợi rồi đáp: “Khỏe lắm, mẫu hậu tôi ưa yên tĩnh, chẳng xuống núi, cũng hiếm khi tiếp khách.”

Dù được ăn đào tiên, người trong Thần tộc cũng chẳng thể trường sinh bất tử, có điều ăn thường xuyên sẽ giữ được dung nhan trẻ trung mãi mãi, nên dung mạo Vương Mẫu vẫn y như thiếu nữ vừa đôi tám. Tây Lăng Hành nhìn Vương Mẫu, buột miệng: “Mẫu hậu tôi tóc đã bạc trắng cả rồi.”

“Cha ngươi, cha ngươi…” Vương Mẫu nói nửa chừng rồi ngưng ngang.

Tây Lăng Hành đã hiểu ý Vương Mẫu muốn hỏi gì, liền đáp, “Mẹ tôi ưa yên tĩnh nên cha cũng hiếm khi quấy rầy bà.”

Vương Mẫu và Tây Lăng Hành nhìn nhau im lặng. Vương Mẫu không thể xuống núi vì giữ quy củ Ngọc sơn, nhưng còn mẹ nàng? Cớ gì bà phải tự giam mình?

Đột nhiên, Vương Mẫu muốn uống một trận say khướt bèn quát gọi thị nữ, sai họ đi lấy rượu.

Vương Mẫu đã say rồi, mấy ngàn năm nay mà mới được một trận thật say.

Tây Lăng Hành nhìn Vương Mẫu phất tay áo, phấp phới múa giữa rừng đào bát ngát.

Vương Mẫu mỉm cười, nhìn nàng, khẽ gọi: “A Luy, lại đây, A Luy, lại đây mau lên…”

Lần đầu tiên Tây Lăng Hành biết mẹ mình từng được bạn bè gọi thân mật là “A Luy”. Nàng đành đứng dậy múa cùng Vương Mẫu, nhưng không sao đáp lại lời bà.

Rất nhiều rất nhiều năm trước, hẳn Vương Mẫu cũng có một cái tên rất dịu dàng, chỉ là đã lâu lắm chẳng ai gọi tới nên mọi người đều không biết. Tây Lăng Hành không muốn gọi bà là Vương Mẫu, ít nhất là hiện giờ, nên đành làm thinh mà múa cùng bà.

Tiệc Bàn Đào đã tàn, Ngọc sơn trở lại vẻ quạnh quẽ hoang lương, tĩnh lặng như chết trước kia.

Hôm nay cũng giống hôm qua, từng ngày từng ngày đều đều trôi đi. Cỏ cây không đổi, cảnh sắc chẳng thay, bốn mùa đều là xuân nên ấm lạnh vẫn như thế, chẳng có gì biến chuyển.

Ba mươi năm trước, Tây Lăng Hành còn nhỏ, ít trải sự đời, chưa thấm thía nỗi khổ bị mất tự do nên không biết sợ, đương nhiên cũng chẳng mấy khổ đau, nhưng mới trải qua ba mươi năm, nghĩ tới còn ba lần mươi năm nữa, nàng chợt thấy tháng ngày trước mắt sao mà đằng đẵng lê thê, vì sợ hãi, nỗi đau khổ của nàng lại càng tăng thêm.

Ngọc sơn cách biệt thế gian nên Tây Lăng Hành cũng bị cách biệt với thế giới. Nàng thường nghĩ, có lẽ tới khi xuống núi nàng lại nhận ra mình đã chẳng biết nói gì với bạn bè nữa. Những gì họ biết, nàng nào có biết đâu.

Dẫu là Thần tộc thì một đời có được mấy mùa thanh xuân một trăm hai mươi năm?

Thư nàng gửi cho Xi Vưu cứ ngắn dần ngắn dần, ít dần ít dần, rồi cuối cùng ngừng hẳn.

Nhưng Xi Vưu vẫn gửi thư đều đặn như thường, thậm chí cũng chẳng truy vấn tại sao Tây Lăng Hành không trả lời, hắn chỉ bình thản thuật lại cuộc sống của mình, thỉnh thoảng kèm theo một món quà nho nhỏ. Dù không hồi âm, nhưng mỗi khi nhận được thư hắn, Tây Lăng Hành cũng thấy vui lên.

Hơn ba năm, một ngàn mấy trăm ngày Tây Lăng Hành chẳng viết cho hắn lấy nửa chữ, nhưng hắn vẫn đều đặn viết thư cho nàng như xưa.

Sau bốn năm, cảnh sắc trên Ngọc sơn vẫn trơ trơ không đổi như suốt ngàn năm qua, nhưng dưới núi, một mùa đông rét buốt căm căm lại vừa qua, tất cả đang chờ đón một mùa xuân ấm áp.

Đương lúc Tây Lăng Hành đứng giữa rừng đào nheo mắt ngắm vầng dương, Thanh Điểu lại mang thư của Xi Vưu tới.

Thư viết rất dài, hết lải nhải kể mấy chuyện đất lề quê thói, rồi dịu dàng tự thuật đôi ba câu chuyện, có điều, một câu xem chừng rất bình thường trong đó lại khiến mắt nàng cay cay.

“Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực cả hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.”

Một chữ “lại” vô tình viết ra mà khiến Tây Lăng Hành trằn trọc suốt cả đêm.

Sớm hôm sau, Liệt Dương mang thư của nàng từ Ngọc sơn bay đi.

Mấy chục năm sống bên nhau, A Tệ cùng Liệt Dương đã thành ra thân thuộc. Tuy Liệt Dương tính khí lạ lùng, không dễ gần gũi nhưng A Tệ thích Liệt Dương, bất kể Liệt Dương đối xử ra sao nó vẫn cứ bám riết lấy, Liệt Dương bị bám mãi cũng hết cả cáu kỉnh, dần dà chấp nhận A Tệ.

Thường thường, trong khi Tây Lăng Hành vừa coi sóc vườn đào vừa chăm chút đám trứng tằm, A Tệ hay chơi đùa với Liệt Dương.

Mấy chục năm nay nàng đã nhận được rất nhiều quà của Xi Vưu, nhưng chẳng hề tặng lại món gì. Trên Ngọc sơn đầy rẫy ngọc quý, cây hiếm, báu vật, có điều hết thảy thuộc về Vương Mẫu chứ không thuộc về nàng.

Mẹ nàng thạo nuôi tằm dệt vải nên từ khi chưa biết nói, nàng đã biết phân biệt đủ các loại trứng tằm, bèn nảy ý định dựa vào linh khí trên Ngọc sơn để ươm một mẻ trứng có một không hai, dệt một tấm áo độc nhất vô nhị trên đời tặng Xi Vưu.

Trên Ngọc sơn không hề có cảm giác nhật nguyệt chuyển vần, hoa đào nở một lần là tươi suốt ngàn năm nên nàng chỉ có thể tính thời gian dựa vào những bức thư đi tin lại của Xi Vưu.

Hắn viết thư cho nàng, nàng viết thư cho hắn, hắn lại viết thư cho nàng, nàng lại viết thư cho hắn… bao nhiêu thời gian đằng đẵng đã trôi qua giữa những cánh thư đi thư lại.

Mười sáu năm ươm được trứng hoa đào, năm năm quay tơ, ba năm dệt vải, một năm may áo, mất hai mươi lăm năm nàng mới may xong một chiếc áo tặng Xi Vưu.

Áo vừa may xong, hồng quang đã tỏa rực khắp phòng, làm kinh động cả Ngọc sơn. Đám thị nữ ngỡ là có cháy liền chạy nháo nhào khắp nơi kêu cứu, Vương Mẫu vội vàng tới nơi, chỉ thấy một tấm áo đỏ thắm giản dị nhưng sắc đỏ tựa hồ có sức sống, như đang điên cuồng tràn ra, lại như đang hú hét lao vút đi, Vương Mẫu quan sát hồi lâu, cảm thấy như mình sắp bị sắc đỏ đó nhấn chìm.

Cả Vương Mẫu cũng mới lần đầu được thấy sắc đỏ như vậy, bà sững sờ nhìn ngắm hồi lâu rồi quay sang bảo Tây Lăng Hành: “Ngươi đúng là con gái của A Luy.”

Tây Lăng Hành sai Liệt Dương mang áo tới cho Xi Vưu, cũng chẳng giải thích tấm áo này từ đâu mà có, chỉ nói là quà tặng cho hắn, mong rằng hắn sẽ thích.

Hết chương 5.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 1-12-2013 03:14 PM
Chương 6


Rừng vắng riêng mình ta vò võ[1]


6.1


[1] Trích trong bài từ theo điệu Mãn giang hồng, nhan đề Nhớ Tử Do của Tô Thức đời Tống.

A Hành chăm chú nhìn y, cảm thấy con người này khác hẳn nam tử cùng mình uống rượu chuyện trò đêm trước. Thiếu Hạo đêm qua hệt như kẻ hiệp khách ngang tàng, ngẫu nhiên gặp gỡ bên bờ dương liễu, có thể cùng chuốc chén, nói cười, thù tạc, nhưng sáng nay, dưới ánh mặt trời, y lại giống bậc vương giả cô đơn sải bước trên con đường trước điện, đầy ẩn nhẫn, lạnh lùng và thâm trầm.


Thấm thoắt lại đã tới tiệc Bàn Đào. Lần này, Hiên Viên tộc cử vương tử Thương Lâm, Thần Nông tộc cử vương cơ Vân Tang, Cao Tân tộc cử vương tử Yến Long tới dự.

Sau khi lên núi, theo lời Viêm Đế căn dặn, Vân Tang giao hết mọi việc giao tế đối đãi cho Xi Vưu còn bản thân tha hồ thảnh thơi tản bộ, vô tình, nàng lại đi tới Ao Đột quán.

Thấy Hiên Viên Bạt đang ngồi bên hồ ngẩn mặt nhìn trời, Vân Tang hết sức kinh ngạc, bèn đến gần “hù” một tiếng khiến Hiên Viên Bạt giật nảy mình.

“Sao muội lại lên Ngọc sơn này? Ta đâu có nghe nói muội tới dự yến!”

“Nói ra thì dài lắm, sáu mươi năm trước, sau khi tan tiệc Bàn Đào muội đã bị Vương Mẫu giữ lại đây, chưa hề xuống núi.”

Vân Tang sững người rồi sực hiểu ra, “Muội chính là tên trộm bị Vương Mẫu giam cầm ư?”

Hiên Viên Bạt bĩu môi gật đầu. Vân Tang liền ngồi xuống cạnh Hiên Viên Bạt hỏi chuyện, “Ta không tin muội lại tham mấy món thần binh lợi khí của Ngọc sơn đâu, thế rốt cuộc là sao? Liệu có phải bên trong có hiểu lầm gì không?”

Hiên Viên Bạt nhún vai, ra vẻ thản nhiên đáp: “Dẫu sao Ngọc sơn cũng là nơi tràn trề linh khí, bao nhiêu con em Thần tộc mong tới còn chưa được, muội bỗng dưng được cho không một trăm hai mươi năm, toàn đóng cửa tu luyện thôi.”

Vân Tang thông tuệ, thừa biết bên trong ắt có ẩn tình, có điều giờ lòng nàng đang ngổn ngang tâm sự, Hiên Viên Bạt đã không nói, nàng cũng chẳng bụng dạ nào mà gặng hỏi. Nhìn cảnh nước sâu thẳm, núi chót vót bày ra trước mặt, nàng không nén nổi tiếng thở dài, “Ta đang có chuyện buồn muốn tìm muội tâm sự đây.” Dứt lời, nàng lại làm thinh.

Biết tính Vân Tang muốn nói thì sẽ nói, nếu không có hỏi cũng bằng thừa, Hiên Viên Bạt chỉ im lặng ngồi bên nàng.

Hồi lâu Vân Tang mới lên tiếng: “Kể từ sau khi gặp Nặc Nại ở đây lần trước, chúng ta vẫn âm thầm qua lại với nhau.”

Hiên Viên Bạt mỉm cười: “Muội đoán được từ lâu rồi.”

“Nhị muội Dao Cơ sinh ra đã đau ốm, bao năm nay không rời giường bệnh, phụ vương chỉ một lòng lo lắng cho nó, để an ủi phụ vương đồng thời săn sóc Du Võng mồ côi mẹ từ lúc lọt lòng, ta đã phải gồng mình trưởng thành thật mau. Đôi khi Dao Cơ bị bệnh tật giày vò khổ sở muốn chết, phụ vương cũng đau đớn chẳng kém gì nó, ta lại trộm nghĩ, thà rằng… thà rằng Dao Cơ chết quách cho xong, giải thoát cho mình, cũng giải thoát cho tất cả chúng ta.”

Hiên Viên Bạt lặng lẽ nắm chặt tay Vân Tang. Nàng nhớ mẹ mình vô cùng yêu thương Vân Tang, có lần bà từng than thở: “Con nha đầu này chưa làm nũng hay gây chuyện bao giờ, cứ như là trời sinh ra để làm chị cả chăm sóc các em ấy.”

“Ba mươi năm trước, Dao Cơ cũng… cũng mất, phụ vương bệnh nặng nằm liệt giường, cơ hồ sắp theo Dao Cơ đi tìm mẫu thân, ta không rơi một giọt nước mắt, chỉ lo ngày đêm hầu hạ bên Người. Bệnh tình của Người lui dần, nhưng ta lại dần dần nhận ra mình không chịu nổi nỗi đau mất đi Dao Cơ, tuy Nhị muội có vẻ yếu ớt, nhưng mỗi lúc ta cần nhất, nó đều ở bên ta.” Vân Tang nhìn Hiên Viên Bạt, “Ta sinh ra trong vương thất, đã quá hiểu những thủ đoạn ngấm ngầm triệt hạ lẫn nhau, tính tình Du Võng lại nhu nhược nên có rất nhiều việc ta buộc phải cứng rắn. Đôi lúc mệt mỏi vô chừng mà chẳng có nổi một người bạn để thổ lệ tâm tình, ta chỉ biết ngồi thừ người ra đó. Mỗi lúc như vậy Dao Cơ lại tới ngồi sau lưng, gỡ tóc ta ra rồi dịu dàng chải lại, mùi thuốc tỏa ra từ người Nhị muội như an ủi vỗ về ta. Đêm hè, trong lúc ta tra cứu sách vở, Nhị muội thường quấn một tấm thảm ngồi bên cạnh thêu túi hương, mùa đông, Nhị muội không chịu được lạnh nhưng vẫn thèm chơi tuyết, lần nào như lần nấy đều ngồi trong nhà hé rèm nhìn ta và Du Võng nghịch tuyết, được chúng ta cho một quả cầu tuyết, Nhị muội thích lắm, như được bảo bối vậy.”

Bàn tay lạnh ngắt của Vân Tang run lên bần bật khiến Hiên Viên Bạt phải siết tay truyền hơi ấm và sức mạnh cho nàng, “Trong cung chẳng còn thoang thoảng mùi thuốc của Dao Cơ, ta đau đớn như chết cả cõi lòng nhưng ngoài mặt vẫn phải giữ vẻ thản nhiên, bệnh của phụ vương vừa khá lên, ta không dám khiến Người thương tâm thêm nữa. Nửa đêm dông gió, tiếng sấm sét làm ta giật mình tỉnh giấc, nhưng chẳng còn Dao Cơ ôm gối đứng ngoài rèm khẽ hỏi: ‘Tỷ tỷ, muội sợ lắm, cho muội ngủ với tỷ được không?’ Trước nay ta vẫn ngỡ là mình an ủi, bầu bạn cùng Nhị muội, ta bỗng thấy tiếng sấm thật là đáng sợ, mới hiểu ra, trong những đêm mưa gió đùng đùng ấy, không chỉ có ta che chở Dao Cơ, mà chính Dao Cơ cũng đã che chở cho ta. Trong đêm mưa gió, ta từ Thần Nông sơn lao tới tận biên thùy giáp Cao Tân tìm Nặc Nại đóng quân ở đó, lúc thấy ta xông vào trướng, chắc y đã được một phen hoảng hồn, dạo đó ta chỉ còn da bọc xương, mặt mày vàng vọt, lúc ấy lại vội vã xuống núi nên quần áo xộc xệch, đầu tóc bơ phờ, cả người ướt lướt thướt, hai chân đi đất.”

Vân Tang nhìn Hiên Viên Bạt, mặt đỏ lên rồi lại tái đi, “Ta cũng chẳng hiểu nổi mình nữa, vừa trông thấy Nặc Nại, ta đã nhào vào lòng y khóc òa lên như tìm được chỗ dựa, có thể buông hết những gánh nặng trên vai xuống, từ nhỏ đến giờ, đó là lần đầu ta mất kiềm chế. Y cứ ôm lấy ta mặc cho ta khóc lóc, bao nhiêu nước mắt phải kìm nén từ sau khi mẫu thân qua đời ta đều trút hết ra, khóc mãi khóc mãi đến nỗi ngất xỉu.”

Vân Tang đỏ bừng mặt hạ giọng: “Lúc ta tỉnh lại, y đã không còn trong trướng. Ta cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp y, bèn lập tức quay về Thần Nông sơn. Rất lâu sau chúng ta không liên lạc, cũng chẳng nhắc lại chuyện đêm đó, xem như chưa xảy ra chuyện gì, y đối với ta rất thờ ơ, nhưng, nhưng…” Vân Tang lúng túng mãi không nói nốt được nửa câu “nhưng cả hai đều biết có gì đó đã xảy ra rồi.”

Thần Nông và Cao Tân đều là Thần tộc từ thời thượng cổ, lễ nghĩa rất thủ cựu nghiêm ngặt, còn Hiên Viên lại khá phóng khoáng thoải mái đối với chuyện nam nữ, vậy nên thái độ của Hiên Viên Bạt và Vân Tang trước chuyện này khác nhau một trời một vực. Hiên Viên Bạt thấy đó là tình sâu nghĩa nặng, là chuyện hiển nhiên, nhưng Vân Tang lại lấy làm hổ thẹn, thấp thỏm lo lắng.

Hiên Viên Bạt cười hỏi: “Tỷ tỷ, tỷ đã tiết lộ thân phận mình cho Nặc Nại chưa?”

Vân Tang ủ rũ đáp, “Vẫn chưa. Ban đầu ta quá cẩn trọng, lại nghĩ thôi thì lỡ lầm cho lầm luôn, còn muốn thử thách nhân phẩm y trước đã, nhưng về sau chẳng hiểu sao càng lúc càng sợ thú thật, chỉ e y sẽ nổi giận rồi bỏ mặc ta. Ta định đợi cho đôi bên thân thiết hơn rồi nói, may ra y sẽ thông cảm, nhưng khi đã thân thiết ta lại lo sợ, mỗi lần định nói đều không thốt nên lời, sau đó lại xảy ra chuyện xấu hổ kia, y tỏ vẻ rất lạnh nhạt xa cách nên ta càng không tiện nói, cứ thế dùng dằng đến bây giờ, muội xem có cách gì không?”

“Dù tỷ tên gì thì cũng vẫn là tỷ, không phải sao? Nói rõ là được mà.”

“Giành được lòng tin rất khó mà hủy diệt thì dễ lắm, quan trọng không phải là dối gạt chuyện lớn hay nhỏ mà chính việc dối gạt đã là vấn đề. Cứ suy từ ta mà ra, nếu Nặc Nại cũng gạt ta như vậy, ta nhất định sẽ hoài nghi mọi lời y nói đều là giả dối. Nhìn y khiêm tốn ôn hòa như vậy nhưng còn trẻ đã nắm giữ binh quyền, chức vị lại cao, được Thiếu Hạo xem trọng, nhất định là tâm tư rất thâm trầm, giành được lòng tin của y hẳn là khó lắm, vậy mà ta lại, lại… gạt y.” Vân Tang rầu rĩ tự trách.

Hiên Viên Bạt sửng sốt, lẽ nào mọi chuyện phức tạp vậy sao? Hồi lâu sau, nàng thở dài, đột nhiên cũng bắt đầu lo lắng.

Tiệc Bàn Đào vẫn náo nhiệt như xưa, hết thảy khách khứa đều tụ họp bên bờ Dao trì, ăn uống no say, nói cười vui vẻ.

Xi Vưu ngồi một lát rồi lẻn đi tìm Tây Lăng Hành. Hắn rảo bước qua ngàn dãy hành lang, trăm gian lầu gác, một dãy rồi một dãy, một gian lại một gian, càng gần tới chỗ nàng, bước chân hắn càng chậm lại.

Hắn lần tới nơi nàng ở nhưng chỉ thấy vườn không nhà trống, gió nhẹ hiu hiu, chiếc chuông gió bằng răng thú dưới mái hiên khẽ tinh tang như một khúc ca dao xưa cũ.

Xi Vưu ngơ ngẩn lắng tai nghe. Năm xưa lúc hắn mới làm xong, chiếc chuông gió này trắng muốt như ngọc, trải sáu mươi năm dầm mưa dãi nắng, nó đã ngả vàng.

Hắn vòng qua gian nhà, đi thẳng vào rừng đào sau núi.

Dưới ánh trăng, cỏ xanh mươn mướt, ngàn cây đào rực rỡ trổ bông, nom xa tựa ráng hồng lộng lẫy, nhìn gần lại thấy lả tả hoa bay.

Lang điểu trắng muốt cao chừng một thước đậu trên ngọn cây, hồ ly to lớn, lông đen tuyền nằm dài trên bãi cỏ, thiếu nữ áo xanh tựa mình vào nó ngủ vùi, mặc cánh hoa rụng đầy lưng.

Đột nhiên A Tệ ngẩng lên nhìn gã nam tử áo đỏ cao lớn khôi ngô vừa xuất hiện trong rừng đào đầy cảnh giác, còn Liệt Dương chỉ hé mắt liếc qua rồi uể oải nhắm mắt lại.

A Tệ cùng Liệt Dương sớm tối bên nhau mấy chục năm, đôi bên đã hình thành cách giao tiếp riêng, thấy Liệt Dương như vậy, A Tệ cũng bớt cảnh giác, uể oải vùi đầu vào đám cỏ, hai tay bịt mắt tỏ ý: các người cứ tự nhiên, xem như không có ta.

Xi Vưu rón rén, ngồi xuống bên Tây Lăng Hành.

Thực ra Tây Lăng Hành không hề ngủ, Xi Vưu vừa tới nàng đã nhận ra ngay, nhưng cố tình vờ ngủ, nào ngờ tên Xi Vưu này bề ngoài nôn nóng nhưng thực chất rất kiên trì, cứ lẳng lặng ngồi đợi.

Tây Lăng Hành không giả vờ nổi nữa bèn hơi nhỏm người dậy hỏi: “Sao ngươi không gọi ta? Nếu ta ngủ suốt đêm ngươi cũng đợi suốt đêm à?”

Xi Vưu cười hì hì đáp: “Cô là vợ ngoan của ta, đợi cả đời cả kiếp cũng được, sá gì một đêm.”

Tây Lăng Hành vung tay đấm hắn: “Ta cảnh cáo đấy, không được nói nhảm nữa, ta đâu phải vợ ngươi.”

Xi Vưu giữ chặt tay Tây Lăng Hành, đăm đắm nhìn nàng, cười nói: “Cô không chịu làm vợ ta thì định làm vợ ai đây? Cô đã bị ngài Thú vương đây chấm làm vợ rồi, nếu kẻ nào lớn mật dám tranh đoạt, ta sẽ quyết đấu công bằng với hắn.”

Xi Vưu vốn chẳng tuấn tú gì cho cam, nhưng ánh mắt hắn sắc sảo, giảo hoạt như loài thú hoang, ẩn sau vẻ ngoài thờ ơ là sức mạnh kinh người, khiến dung mạo hắn toát lên sức cuốn hút lạ lùng, hễ gặp một lần là nhớ mãi.

Chẳng hiểu sao Tây Lăng Hành chợt thấy sờ sợ, không còn cảm giác thoải mái cười đùa mắng mỏ hắn như xưa nữa. Nàng liền vùng khỏi tay Xi Vưu, “Chúng ta đâu phải thú vật, quyết đấu gì chứ?”

Xi Vưu cười phá lên: “Các con đực chỉ quyết đấu để giành quyền giao phối cùng con cái khỏe đẹp thôi, chứ còn cô…” Hắn nhìn nàng tặc tặc lưỡi rồi lắc đầu, tỏ ý chẳng con đực nào buồn ngó tới nàng hay giao phối cùng nàng cả.

Câu nói của Xi Vưu quá đỗi thô thiển khiến Tây Lăng Hành ngượng đỏ cả mặt, bây giờ nàng mới hiểu tại sao người ta gọi hắn là súc sinh, liền bịt tai hét lên: “Xi Vưu, ngươi còn dám nói bậy ta sẽ không nghe nữa đâu đấy.”

Ngắm Tây Lăng Hành thẹn quá hóa giận, Xi Vưu bỗng thấy mê mẩn cả tâm thần, dục vọng ban sơ nhất của giống đực rục rịch trào lên, hắn đột nhiên sán lại đặt lên môi nàng một nụ hôn.

Tây Lăng Hành kinh ngạc đến đờ người, trợn trừng mắt nhìn Xi Vưu.

Xi Vưu xưa này hành sự rất lão luyện dứt khoát nhưng đây là lần đầu kề cận phụ nữ, hơn nữa còn là người con gái mình hằng yêu thương, lòng hắn khó tránh khỏi bối rối, trái tim vững vàng bình thản ngay cả khi sống chết cận kề giờ đây lại đập rộn lên trong lồng ngực, ánh mắt chan chứa nhu tình. Chừng như còn thèm thuồng vị ngọt ngào khi nãy, Xi Vưu lại cúi xuống tham lam hôn Tây Lăng Hành, vừa hôn vừa vụng về quờ quạng, toan lấn lướt thêm chút nữa.

Tây Lăng Hành sực tỉnh, vội cắn cho Xi Vưu một cái thật đau khiến hắn ré lên lùi lại, trợn mắt nhìn nàng, vừa ngượng ngùng vừa bối rối, hệt như một con thú nhỏ đang giận dữ.

Tây Lăng Hành lạnh lùng mắng: “Mùi vị thế nào? Lần sau ngươi còn dám, dám… như vậy nữa, ta sẽ… không nể nang đâu!”

Xi Vưu nhướng mày cười, lại biến thành Thú vương xảo quyệt tàn nhẫn, hắn giơ ngón tay quẹt máu trên miệng rồi thè lưỡi liếm mép, chăm chú nhìn bờ môi Tây Lăng Hành thật lâu như hồi tưởng tư vị khi nãy, lát sau mới lên tiếng đáp, không quên xuyên tạc câu hỏi của nàng: “Mùi vị tuyệt lắm!”

Tây Lăng Hành giận đến nghiến răng nghiến lợi nhưng chửi không lại, đánh không được, đành quay người chạy ra khỏi rừng, căm hận ném lại một câu: “Ta không muốn gặp đồ khinh bạc vô sỉ nhà ngươi nữa! Từ giờ chúng ta cắt đứt liên lạc!”

“Tốt quá tốt quá! Ta chán viết thư cho cô lắm rồi!”

Tây Lăng Hành chạy thẳng không buồn ngoái lại, đột nhiên hai mắt nàng đỏ lựng cả lên, dù chính nàng cũng chẳng rõ mình bực bội chuyện gì nữa.

Đêm đó, Tây Lăng Hành trằn trọc hoài không ngủ nổi, nghe tiếng chuông gió ngoài hiên cứ tinh tang mãi điếc cả tai, nàng bực bội tuột xuống giường, chạy lại bên cửa sổ, giật chuông gió quẳng đi.

Bốn bề xung quanh đã yên tĩnh, nhưng nàng càng khó chịu hơn, cảm thấy mọi thứ im ắng đến rùng mình, nếu không có chiếc chuông gió kia bầu bạn mấy mươi năm nay, có lẽ nàng đã nghẹt thở mà chết vì sự tĩnh lặng của Ngọc sơn rồi.

Một lúc lâu sau, nàng lại trở dậy nhìn đồng hồ nước, thấy mới tới canh hai, đêm nay sao mà dài đằng đẵng, nàng còn sáu mươi năm nữa, là bao nhiêu đêm đằng đẵng thế này đây?

Tây Lăng Hành uể oải nằm xuống nhắm mắt, cố dỗ giấc ngủ, có điều vừa trở mình nàng đã thấy không ổn, vội mở bừng mắt, liền trông thấy Xi Vưu đang nằm bên mép giường, một tay chống đầu, tay kia giơ chiếc chuông gió vừa bị nàng quẳng đi khi nãy, cười hì hì nhìn nàng.

Tây Lăng Hành quá đỗi kinh ngạc chỉ biết ngây người ra nhìn hắn, lát sau mới lấy lại được phản ứng, vội vận đủ mười phần linh lực tấn công Xi Vưu, những mong đập chết tên vô lại coi trời bằng vung này cho hả!

Xi Vưu chẳng buồn động tay đã nhẹ nhàng hóa giải được đòn tấn công của nàng, còn giở giọng trêu chọc: “Sao nha đầu bừng bừng sát khí thế?”

Trong lúc hắn nói, trên giường bỗng mọc ra mấy sợi dây leo xanh mướt, trói chặt lấy tứ chi nàng.

Biết linh lực đôi bên chênh lệch quá xa, bản thân mình đấu không lại Xi Vưu, Tây Lăng Hành lập tức thay đổi sách lược, hét lớn: “Cứu mạng, cứu mạng…”

Xi Vưu chống má ung dung nhìn nàng, cười thích thú như đang đợi để thưởng thức sự ngốc nghếch của nàng, xem xem mất bao lâu nàng mới phản kháng lại được. Hắn đã dám đến, đương nhiên nào có sợ gì.

Sực hiểu ra hắn đã hạ cấm chế, tiếng hét trong này chẳng thể truyền ra ngoài, nàng liền im bặt, nghiêm mặt lạnh lùng hỏi: “Ngươi muốn làm gì đây?”

Xi Vưu cười cười ngồi dậy cởi đồ ra, Tây Lăng Hành tái mặt, vẻ trấn tĩnh vờ vịt nãy giờ biến mất, cặp mắt nàng hằn nét kinh hoàng: “Ngươi dám!”

“Ta không dám à? Khắp thiên hạ chỉ có chuyện ta không muốn, chứ nào có chuyện ta không dám!” Hắn thản nhiên giơ tay cởi y phục của nàng, vẻ mặt tàn nhẫn vô tình. Ánh mắt Tây Lăng Hành đầy khổ đau thất vọng, nàng gằn từng tiếng: “Tuy hiện giờ ta chẳng cách nào kháng cự nổi ngươi, nhưng ngươi hãy nhớ lấy, trừ phi ngươi giết luôn ta, bằng không sẽ có ngày ta đập nát xương ngươi.”

Xi Vưu cười phá lên, lập tức dịu ngay nét mặt, vỗ vỗ má nàng: “Đùa với cô vui ghê, mới giỡn tí đã giận đùng đùng lên rồi, cô tưởng ta định làm vậy với cô thật sao?” Tây Lăng Hành bị quay mòng mòng, chỉ biết ngớ ra nhìn Xi Vưu, mặc hắn khoác áo lại rồi ngả người nằm xuống bên cạnh, cười hì hì nhìn nàng, “Các người chớ tưởng thú vật là man rợ, khi muốn giao phối, con đực không thể cưỡng ép mà phải nài nỉ để con cái chấp thuận, giữa đôi bên là tự nguyện cả đó.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 1-12-2013 07:38 PM
Chương 6


Rừng vắng riêng mình ta vò võ[1]


6.2


Tây Lăng Hành đỏ mặt lườm hắn: “Ngươi đã, đã không phải… nửa đêm còn mò vào phòng ta làm gì?”

“Ta muốn đưa cô đi.” Thấy Tây Lăng Hành ngơ ngác, Xi Vưu liền giải thích: “Chẳng phải ta đã bảo ta chán viết thư cho cô lắm rồi sao? Để khỏi phải viết thư nữa, ta sẽ đưa cô xuống núi.”

“Nhưng ta còn phải chịu phạt sáu mươi năm nữa.”

“Hừ, ta ngỡ cô chịu hết nổi từ lâu rồi chứ, lẽ nào cô ở đây mãi sinh nghiện à?”

“Đương nhiên là không, nhưng…”

“Sao lắm nhưng với nhị thế? Dù Thần tộc các người sống dai nhưng cũng chẳng nên phí hoài thời gian thế này, chẳng lẽ cô không nhớ những ngày tháng tự do tự tại khi trước sao?”

Tây Lăng Hành nín lặng hồi lâu, đoạn hỏi: “Vậy còn A Tệ với Liệt Dương làm sao đây?”

“Ta đã bàn bạc với chúng rồi, trước tiên cả hai sẽ yểm trợ cho chúng ta, đợi chúng ta xuống núi an toàn, Liệt Dương cùng A Tệ sẽ tìm tới sau.” Xi Vưu vuốt tóc nàng, “A Hành, mặc kệ cô có nhận lời hay không ta cũng quyết định rồi, ta sẽ đánh ngất rồi giấu cô trong đội xe của mình, chừng nào từ biệt Vương Mẫu thì đem theo cô xuống núi luôn. Nếu sau này xảy ra chuyện gì cũng là do Xi Vưu ta làm, không liên quan gì tới cô cả.”

Tây Lăng Hành lạnh lùng hỏi: “Ngươi đã có bản lĩnh này, sao sáu mươi năm trước không làm đi?”

Xi Vưu cười không đáp, “Cảm ơn cô đã tặng áo.”

“Đó là ta nhờ Tứ ca mua giùm, ngươi muốn cảm ơn thì đi mà cảm ơn Tứ ca ta ấy.” Tây Lăng Hành lườm hắn rồi nhắm nghiền mắt lại. Xi Vưu dỗ dành, “Cô cứ ngủ đi, đến khi nào đánh ngất cô, ta cũng đỡ phải gọi.”

Tây Lăng Hành càng nghe hắn nói càng tức anh ách, chẳng biết đốp lại thế nào. Xi Vưu búng tay tách một tiếng, đột nhiên trên thân leo trói chặt cổ tay Tây Lăng Hành chợt nhú lên từng nụ hoa trắng muốt lẫn trong đám lá xanh um, sau đó nở xòe thành từng đóa hoa nho nhỏ, tỏa hương thơm ngát, ru nàng vào giấc ngủ.

Tây Lăng Hành thiếp đi giữa hương hoa ngan ngát. Tỉnh lại, nàng nhận ra mình đã không còn nằm trên giường, mà đang ở trong một cỗ xe dát vàng khảm ngọc. Dẫu biết chắc Xi Vưu đã hạ cấm chế, nàng vẫn cẩn thận thu lại khí tức rồi mới khẽ khàng vén rèm trông ra.

Phần lớn các tộc đều đã được cung nữ đưa xuống núi, chỉ còn Tam đại Thần tộc do Vương Mẫu đích thân đưa tiễn, bấy giờ đang thi lễ cáo biệt trước đại điện. Vương Mẫu lần lượt từ biệt Thần Nông tộc, Cao Tân tộc, Hiên Viên tộc, các thần đang chuẩn bị lên đường chợt nghe thấy giữa trời vang lên mấy tiếng chim kêu lảnh lót, dường như có người tới gõ cửa, phá vỡ bầu không khí yên tĩnh của Ngọc sơn.

Vương Mẫu tắt hẳn nụ cười. Đã mấy ngàn năm nay, chẳng thần tiên yêu quỷ nào không mời mà dám đến gõ cửa nơi này cả, “Kẻ nào dám tự tiện xông vào cấm địa Ngọc sơn?” Giọng nói uy nghiêm của Vương Mẫu vang lên tận mây xanh rồi lại từ mây xanh dội xuống, ầm ầm rền vang như sấm, chấn động cả đất trời.

Đám nô bộc các tộc chịu không nổi, bưng tai đau đớn lăn lộn dưới đất, bấy giờ mọi người mới thật hiểu sự đáng sợ của Ngọc sơn.

“Vãn bối Cao Tân Thiếu Hạo, mạo muội cầu kiến Ngọc sơn Vương Mẫu.”

Giọng nói trong trẻo như phượng hót vang lên tự nhiên mà êm ái như gió cuốn mây trôi, mưa tưới sen hồng, thoạt nghe ôn hòa nhã nhặn, cả đám nô bộc đang lăn lộn dưới đất bỗng thấy tim đập chậm lại, mọi đau đớn thoắt tan đi hết.

Một ngàn chín trăm năm trước, Thiếu Hạo một mình bức lui mười vạn đại quân Thần Nông, công thành lại rũ áo ra đi, chẳng cậy công, không kiêu ngạo, thế nên bấy nhiêu năm đằng đẵng, dù Nhân tộc chỉ còn mang máng nhớ nhưng cả Thần tộc chẳng ai không biết tới y.

Hai tiếng “Thiếu Hạo” có một ma lực mãnh liệt, cả Ngọc sơn tức thời im phăng phắc, mấy cỗ xe đang lăn bánh trên sườn núi cũng dừng cả lại, ai nấy đều muốn chiêm ngưỡng phong thái của y.

Vương Mẫu hơi dịu giọng, “Ngọc sơn không can dự vào chuyện phân tranh của thế gian, không biết ngươi có chuyện gì đây?”

“Vị hôn thê của vãn bối là Hiên Viên Bạt bị giam tại đây, vãn bối vì nàng mà tới.” Hai đại tộc Cao Tân và Hiên Viên đặt cạnh nhau quả nhiên uy thế không vừa, khắp trên dưới Ngọc sơn bỗng xôn xao cả lên, người trong Thần tộc ai ai cũng xì xào to nhỏ.

Vương Mẫu cau mày đáp: “Mời vào.”

“Đa tạ.”

Ngón tay Tây Lăng Hành nắm chặt song cửa đến trắng bệch ra, nàng tì người vào cửa sổ, chăm chắm nhìn lên không trung không chớp mắt.

Đương lúc bình minh, mặt trời vừa ló rạng, ánh dương rực rỡ muôn màu bao trùm cả Ngọc sơn, nam tử bạch y[2] cưỡi trên lưng Huyền điểu đen tuyền, từ vầng sáng rạng ngời tỏa ngợp cả bầu không kia băng mây lướt gió bay lại, đáp xuống thềm ngọc ngay trước đại điện.

[2] Ân Thương tự xưng là Tuấn Đế, cũng tức là hậu nhân của Thiếu Hạo. Nhà Thương coi chim là vật tổ, tôn sùng Huyền điểu, coi màu trắng là tôn quý nhất. Theo sách Hoài Nam Tử: “Lễ nghi thời nhà Ân, linh vị thổ thần là đá, thờ cúng môn thần, trước mộ người chết trồng tùng, lễ nhạc dùng cho tế tự là ‘Đại hoạch’ và ‘Thần lộ’, quần áo dùng toàn màu trắng.” Đoạn văn này lý giải tín ngưỡng của người Ân, bởi vậy, trong tác phẩm này Thiếu Hạo mới mặc áo trắng
.

Ánh dương lấp loáng chói mắt làm mờ cả gương mặt y, chỉ thấy một tà áo trắng bay bay theo gió.

Y thong dong tiến về phía Vương Mẫu, tay áo bay bay, phong thái thoát tục, ánh mắt tươi tắn lướt qua khắp lượt các vị thần tiên, tựa như chào hỏi tất cả, lại tựa như chẳng nhìn thấy ai cả.

Vương Mẫu chăm chú quan sát Thiếu Hạo, thầm sửng sốt. Người ta thường nói thưởng núi phải lên Bắc, ngắm sông phải xuôi Nam, nước Nam non Bắc là những thắng cảnh khác hẳn nhau, nhưng nam tử trước mặt đây vừa lạnh lùng hờ hững như dải núi phía Bắc gió tuyết liên miên, lại vừa ôn hòa nho nhã tựa dòng nước Giang Nam mênh mông mưa khói, lẽ nào trên đời có kẻ hội đủ thần thái của non cao nước biếc thế này ư?

Thiếu Hạo tới trước mặt Vương Mẫu thi lễ, “Hôm nay vãn bối đến là muốn đón vị hôn thê Hiên Viên Bạt xuống núi.”

Vương Mẫu nén kinh ngạc, cười nhạt, “Hẳn ngươi biết rõ nguyên do ta giam lỏng nàng ta, nếu ngươi muốn đón thì sáu mươi năm nữa hãy tới.”

“Đúng là Hiên Viên Bạt đã sai, mạo phạm tôn nghiêm của Ngọc sơn, nhưng biết đâu nàng ta chỉ ham rong chơi, nửa đêm dạo tới Dao trì, xui xẻo đụng phải chuyện này thì sao? Dám hỏi Vương Mẫu có từng bắt được tang vật chứng minh Hiên Viên Bạt ăn trộm bảo bối hay chưa? Kẻo không một khi sự thật phơi bày, Ngọc sơn đã giam oan Hiên Viên Bạt một trăm hai mươi năm, e rằng khó tránh tổn hại đến uy danh Ngọc sơn!”

Thiếu Hạo nói năng từ tốn nhưng lời lẽ sắc sảo, câu nào câu nấy đều nhằm trúng chỗ hiểm khiến Vương Mẫu nhất thời cứng họng. Chẳng để Vương Mẫu kịp nổi giận, y đã cung kính hành lễ, “Nói sao đi nữa cũng là tại Hiên Viên Bạt đã mạo phạm Ngọc sơn trước, Vương Mẫu phạt nàng ta đương nhiên có lý do. Hôm nay vãn bối tới đây thỉnh tội với Vương Mẫu, tuy vãn bối chưa thành hôn với Hiên Viên Bạt nhưng phu thê đồng thể, cái sai của nàng cũng là cái sai của vãn bối, hơn nữa vãn bối thân là nam nhi lại chưa làm tròn trách nhiệm chăm lo cho thê tử, khiến nàng phải chịu khổ, tội còn nặng hơn một bậc.”

Vương Mẫu nghe y nói đến váng đầu hoa mắt, giận dữ cười nhạt, “À? Ra ngươi muốn ta trừng phạt ngươi chứ gì?”

“Vãn bối chỉ có hai đề nghị.”

“Nói.”

“Xin Người giam vãn bối lại để vãn bối chịu thay Hiên Viên Bạt ba mươi năm.”

“Còn đề nghị kia?” “Xin Vương Mẫu lập tức thả Hiên Viên Bạt, nếu sau này chứng minh được báu vật đúng là do nàng lấy đi, vãn bối thề sẽ trả nó lại cho chủ cũ, hơn nữa còn làm một việc cho Ngọc sơn vô điều kiện, xem như đền bù.”

Người trong Thần tộc nghe nói đều thầm kinh ngạc, dù báu vật bị mất quý giá đến đâu chăng nữa, chỉ cần một lời thề này của Cao Tân Thiếu Hạo cũng đủ đền bù, hơn nữa chẳng đủ chứng cứ, lại đã trừng phạt sáu mươi năm, Thiếu Hạo còn khẩn khoản nài xin như vậy, Vương Mẫu không chịu thả Hiên Viên Bạt thì quả có phần quá đáng.

Vẻ mặt Vương Mẫu vẫn lạnh băng, “Nếu ta không chấp thuận cả hai thì sao?”

Thiếu Hạo cười đáp, “Vậy vãn bối đành ở lại đây bầu bạn với Hiên Viên Bạt tới khi nào nàng được xuống núi thôi.”

Câu này của Thiếu Hạo rất cung kính nhưng lại ép cho Vương Mẫu không còn đường chọn lựa, nếu không chấp thuận, bà sẽ mang tiếng là con người không thông tình lý. Vương Mẫu giận đến nỗi tay run bần bật, ai chẳng biết Ngọc sơn không chứa chấp nam tử, nếu đổi lại là cao thủ nào khác của Thần tộc, hẳn bà đã đá bay xuống núi từ lâu, nhưng đây lại là Cao Tân Thiếu Hạo, cánh chim hồng vừa xuất hiện đã vang danh suốt ngàn năm nên bà cũng không nắm chắc phần thắng.

Vương Mẫu đưa mắt nhìn xa xăm, yên lặng ngẫm nghĩ. Thiếu Hạo cũng không vội, cứ làm thinh đứng đợi.

Suy tính kỹ càng hồi lâu, Vương Mẫu dịu nét mặt cười nói: “Ngươi nói cũng có lý, nếu Hiên Viên Bạt chỉ vô tình mạo phạm thì giam cầm sáu mươi năm là đủ rồi, còn nếu nàng ta cố ý, sau này ta sẽ tìm tới ngươi đó.” Đoạn bà ngoảnh lại bảo thị nữ, “Mau đi mời Hiên Viên Bạt, nói rằng nàng ta có thể xuống núi được rồi, dặn nàng ta mang theo hành lý đến luôn thể.”

Thiếu Hạo vội mỉm cười thi lễ, “Đa tạ Vương Mẫu.”

Ngồi trong xe, Tây Lăng Hành sững người. Một chuyện ầm ĩ như vậy mà Thiếu Hạo chỉ dăm câu ba điều đã giải quyết ổn thỏa ư?

Trước khi Vương Mẫu phát hiện thấy nàng mất tích, nhất định nàng phải thoát khỏi đây mới được.

Nàng vô tình nhìn về phía bóng áo đỏ, nào ngờ Xi Vưu cũng đang chòng chọc nhìn mình, ánh mắt lạnh buốt đầy những kinh ngạc, nghi ngờ, căm giận, thậm chí còn thấp thoáng một tia hy vọng, như mong mỏi nàng lên tiếng thanh minh rằng mình không phải Hiên Viên Bạt mà chỉ là Tây Lăng Hành.

Chẳng hiểu sao lòng Tây Lăng Hành chợt nhói đau, nàng định tìm lời giải thích nhưng mấp máy môi mấy lần đều bất lực, đành hổ thẹn cúi gằm mặt xuống.

Tây Lăng Hành vừa đưa tay toan vén rèm lên thì xoạch một tiếng, sợi dây leo xanh mướt đã kéo sập rèm lại, hai tay nàng bị dây leo quấn chặt, càng cố giằng ra thì càng bị siết chặt hơn, không sao thoát nổi.

Nhưng Tây Lăng Hành nhất định phải thoát khỏi đây trước khi thị nữ quay lại, nàng vừa gắng sức rút tay ra, vừa ngẩng đầu nhìn Xi Vưu cầu khẩn. Mặt Xi Vưu trắng bệch, cả người cứng đờ nhưng vẻ mặt vẫn trơ trơ như gỗ đá, chỉ có đôi mắt chằm chặp nhìn nàng.

Tây Lăng Hành cắn môi gắng rút tay ra nhưng mấy sợi dây leo càng trói càng chặt, thấy thời gian cứ vùn vụt trôi đi, nàng đành nghiến răng lấy chưởng làm đao chặt đứt dây leo, nhảy xuống xe, chạy về phía Thiếu Hạo.

Trông thấy nàng, Thiếu Hạo mỉm cười, vừa rảo bước tiến lại, vừa dịu dàng giới thiệu: “A Hành, ta là Thiếu Hạo.”

Trông thấy Thiếu Hạo xuất chúng ngời ngời, nàng vô cùng mừng rỡ, nhưng dường như trái tim nàng đã bị những sợi dây leo kia quấn chặt, chỉ trong thoáng chốc, lại bị chúng siết cho đau nhói. Nàng vội nói với Thiếu Hạo: “Chúng ta xuống núi thôi.”

“Ừ!” Thiếu Hạo lẹ làng chìa tay ra, nàng thoáng do dự rồi nắm chặt lấy tay y. Thiếu Hạo kéo nàng nhảy lên lưng Huyền điểu, lập tức Huyền điểu vỗ cánh bay lên, y đứng giữa chừng không chắp tay hành lễ cùng Vương Mẫu: “Đa tạ Vương Mẫu giúp đỡ, vãn bối xin cáo từ.”

Huyền điểu dang cánh bay đi, Tây Lăng Hành ngoảnh lại thấy Xi Vưu đang đứng bất động dưới gốc đào hoa rơi lả tả, ngẩng đầu nhìn mình đăm đắm, khóe môi mím chặt, ánh mắt lạnh lùng.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 1-12-2013 11:09 PM
Chương 6


Rừng vắng riêng mình ta vò võ


6.3


Huyền điểu càng bay càng xa, nhưng tà áo đỏ kia vẫn đứng yên tại chỗ, đỏ đến nhức nhối cả mắt.

Mong rằng Xi Vưu sẽ hiểu cho nỗi khổ tâm của nàng mà đừng oán đừng giận, nhưng nếu hắn không hiểu thì sao? Có lẽ bọn họ chẳng nên dây dưa với nhau nữa, dù sao thì tên thật của nàng cũng là Hiên Viên Bạt.

Chẳng biết bao lâu sau, A Hành mới sực nhớ đến người đang đứng cạnh, cũng là vị hôn phu của nàng, Cao Tân Thiếu Hạo.

Nàng chẳng dám ngẩng lên, chỉ liếc thấy tà áo trắng của y bay phần phật trong gió, khiến nàng rối bời cả ruột gan.

Từ khi hiểu chuyện, nàng đã bao lần băn khoăn không biết Thiếu Hạo dáng vẻ ra sao, mỗi lần thấy thế Tứ ca lại cười cười an ủi nàng, nói tất cả đàn ông trong thiên hạ đều phải tự thẹn vì không bằng Thiếu Hạo. Nghe vậy nàng cứ cho là Tứ ca thổi phồng, mãi đến giờ mới biết, Tứ ca chẳng phóng đại chút nào.

A Hành im lặng, Thiếu Hạo cũng làm thinh.

Bầu không khí yên lặng kéo dài khiến A Hành lúng túng, nàng định cảm ơn y một tiếng, bèn lấy can đảm ngẩng đầu lên, nào ngờ đập vào mắt nàng là một gương mặt nhợt nhạt, còn chưa kịp cất lời, thân mình Thiếu Hạo đã rớt khỏi lưng Huyền điểu mà rơi xuống, Huyền điểu ré lên một tiếng thảm thiết, lập tức nhao theo cứu chủ, A Hành cũng vận linh lực, vô số sợi tơ từ áo nàng bay ra, níu lấy Thiếu Hạo.

Huyền điểu chở hai người đỗ xuống một khe núi không biết tên, A Hành phẩy tay gọt phẳng một phiến đá thành chiếc giường rồi đặt Thiếu Hạo lên đó.

Thiếu Hạo mạch tượng rối loạn, rõ ràng vừa bị thương. A Hành chỉ biết từ từ truyền linh lực của mình cho y để ổn định lại mạch tượng.

Mãi đến chập tối, mạch đập của y bình ổn lại, nàng mới dám thở phào nhẹ nhõm, lau mồ hôi trán.

Hèn chi nàng vừa nói đi là Thiếu Hạo đi ngay, té ra y sợ Vương Mẫu nhận ra mình bị thương. Nhưng trên đời này còn ai đủ bản lĩnh đả thương Thiếu Hạo đây? A Hành lo lắng nghĩ, hay tay ôm lấy chân, tì cằm lên đầu gối, chăm chú nhìn y.

Thiếu Hạo dung mạo thanh nhã, duy chỉ có đôi mày nghiêm nghị như ngọn núi sừng sững vạn thước bên trời Bắc, cô đơn ngạo nghễ, lạnh lẽo thâm trầm.

A Hành chợt nảy dạ tò mò, cặp mắt y phải thế nào mới trấn áp được dải núi nguy nga sừng sững đó nhỉ?

Đúng lúc nàng đang muốn nhìn, Thiếu Hạo bỗng mở bừng mắt, chỉ thấy hai mắt y tựa đôi dòng sông trong veo lặng sóng, sâu thăm thẳm như dải nước xanh ngàn dặm phương Nam, có thần thái tiêu dao của hải âu sải cánh giữa biển mây, vẻ lãng đãng khi ngắm ráng chiều mà nghe trống dồn tiêu vắng, cái êm ái của lông vũ mướt xanh hay của vạt áo mỹ nhân đỏ thắm, giữa muôn trùng sóng nước mênh mang ấy, cả dãy núi chót vót vạn thước kia cũng uyển chuyển mà đắm mình hòa lẫn vào nhau.

Bị Thiếu Hạo bắt quả tang đang ngắm y, A Hành đỏ bừng mặt, vội ngoảnh đầu quay đi.

Thiếu Hạo chẳng màng tới thương thế bản thân, còn quan tâm hỏi: “Làm nàng giật mình ư?”

Tây Lăng Hành khẽ đáp: “Đâu có.”

“Ta gọi nàng là A Hành như mấy vị ca ca nàng được chứ?” “Vâng.” A Hành ngập ngừng giây lát rồi hỏi, “Ai đả thương chàng thế?”

Thiếu Hạo trở mình ngồi dậy, “Là Thanh Dương.”

A Hành kinh ngạc nhìn y, “Gì cơ? Là Đại ca thiếp ư?”

Thiếu Hạo gượng cười, “Đại ca nàng đánh cuộc với ta, ai thua phải tới Ngọc sơn đón nàng.”

A Hành dở khóc dở cười, té ra màn anh hùng cứu mỹ nhân đó đâu có phải vì người đẹp, hơn nữa chẳng để cho nàng ăn dưa bở, y đã phải vội vã thanh minh ngay.

“Nàng bị giam cầm bao nhiêu năm như thế, có oán trách Đại ca không đoái hoài gì tới mình chăng?”

A Hành làm thinh không đáp, quả thật sáu mươi năm nay, nàng đã vô số lần thầm oán Đại ca.

“Biết nàng bị Vương Mẫu giam lỏng, mẫu hậu nàng giận tím mặt, viết thư nói với phụ vương nàng rằng nếu ngài không phái thuộc hạ đi đón nàng, bà sẽ đích thân lên Ngọc sơn đòi người, Thanh Dương phải giải thích rõ ngọn ngành, còn hứa sau sáu mươi năm nhất định sẽ đưa nàng về, mới xoa dịu được cơn giận của bà.”

A Hành xưa nay cứ ngỡ mẹ mình nghiêm khắc bảo thủ, nào ngờ bà lại nuông chiều nàng đến thế, bất giác cay cay khóe mắt.

Thiếu Hạo cười, “Thanh Dương để nàng ở lại Ngọc sơn sáu mươi năm đâu phải vì sợ Vương Mẫu mà chính vì thương thế của nàng đấy chứ. Lần trước nàng bị thương rất nặng, thủy linh của Quy khư chỉ giữ được mạng chứ không trị dứt được vết thương, ta đã phải cùng Thanh Dương đi khắp nơi lùng tìm linh đan diệu dược, nào ngờ cơ duyên xảo hợp, Vương Mẫu lại giam cầm nàng, Thanh Dương bèn quyết định tát nước theo mưa luôn. Ngọc sơn là thánh địa từ thời thượng cổ, linh khí rất hợp với nữ giới, trên núi lại có đào tiên ngàn tuổi, ngọc tùy vạn năm, vừa khéo điều dưỡng được thân thể của nàng.”

Hóa ra là vậy! Hẳn Xi Vưu cũng vì thế mà sáu mươi năm sau mới tới đón nàng xuống núi. Nghĩ tới đây, nàng sững sờ chẳng thốt nên lời, lòng ngổn ngang trăm mối.

Thiếu Hạo cười nói: “Nếu không vì thế, Tứ ca nàng đâu có chịu khoanh tay ngồi nhìn. Tuy Xương Ý tính nết ôn hòa nhưng rất mực cưng chiều em gái, dù Thanh Dương không ra tay, y cũng tự xoay xở nghĩ cách, chẳng hiểu sẽ gây ra những chuyện gì nữa.”

A Hành nhoẻn miệng cười tươi rói, “Tứ ca hiền lắm, chẳng bao giờ gây chuyện đâu.”

Thiếu Hạo lắc đầu cười, “Nàng chưa thấy Xương Ý nổi giận đấy thôi.”

“Chàng thấy rồi ư? Sao Tứ ca lại nổi giận?” Tây Lăng Hành kinh ngạc hỏi.

Thiếu Hạo đáp quấy quá: “Ta cũng chưa thấy, chỉ nghe nói thôi.”

A Hành hỏi: “Bây giờ Đại ca thiếp đâu?”

Thiếu Hạo cười đắc ý: “Hắn đánh ta bị thương thế này, ta đời nào để yên cho hắn? Hắn bị thương còn nặng hơn ta, chẳng cưỡi nổi tọa kỵ nữa, lại sợ bị phụ vương nàng phát hiện nên lấy cớ đi thăm mẫu hậu, chuồn về núi Hiên Viên dưỡng thương rồi.”

A Hành hỏi: “Chàng bị thương thế này, sao ban sáng còn dám nói cứng với Vương Mẫu thế?”

Ánh mắt Thiếu Hạo lóe lên ranh mãnh, “Việc binh chẳng nề gian trá, mà nói vậy cũng đâu phải là gạt Vương Mẫu! Nếu Vương Mẫu ra tay thật thì ta đánh bài chuồn, dù sao bà ta cũng chẳng thể xuống núi, không bắt được ta đâu!” A Hành ngớ người ra rồi phá lên cười. Thiếu Hạo vang danh thiên hạ hóa ra lại láu cá thế này ư!

Những ngượng ngùng giữa đôi bên cũng theo tiếng cười mà tan đi cả. Đương lúc đêm hè tháng Sáu, muôn ngàn ánh sao nhấp nháy trên nền trời đen thăm thẳm như đứa nhỏ mê mải chơi trốn tìm, loài hoa dại không tên nở đầy sơn cốc, bông xanh bông vàng chen nhau, thỉnh thoảng trong rừng vang lên tiếng cú rúc thê lương khiến màn đêm đượm phần rùng rợn, gió đưa hương cỏ cây ngan ngát khắp nơi làm người ta nhẹ nhõm vô cùng.

Thiếu Hạo đứng dậy định giục A Hành lên đường, nào ngờ nàng đã ngước lên khẽ năn nỉ: “Nán ngồi thêm lát nữa hãy đi được không? Sáu mươi năm nay thiếp mới lại được trông thấy quang cảnh này đó.”

Thiếu Hạo không đáp, chỉ lặng thinh ngồi xuống, rút bầu rượu ra vừa ngắm sao vừa uống.

A Hành chun chun mũi ngửi, nhắm nghiền mắt nói: “Đây là Điền tửu đất Điền.”

Bình sinh Thiếu Hạo có ba tuyệt kỹ – rèn sắt, ủ rượu, gảy đàn, thấy A Hành ngửi hương đoán rượu, y liền nhận ra ngay đồng đạo, “Không sai, hơn hai trăm năm trước ta mất bao công sức mới moi được bí quyết này từ một người dân Điền đấy.”

A Hành phụ họa: “Chín mươi năm trước thiếp qua đất Điền, lập tức mê tít rượu ở đó, nán lại cả năm trời vẫn chưa đã thèm, hùng tửu thì nồng đượm, thư tửu thì thanh khiết, uống riêng đã ngon, uống chung càng ngon hơn.”

Thiếu Hạo ngẩn người, ngạc nhiên hỏi: “Hùng tửu? Thư tửu? Sao ta chưa từng nghe rượu cũng chia ra thư hùng[3] nhỉ?”
[3] Hùng, thư: chỉ giống đực và giống cái.


A Hành cười đáp: “Thiếp tới đất Điền mới hay rượu cũng phân thư hùng đấy. Một cô gái rất giỏi nghề ủ rượu kể với thiếp rằng tổ tiên cô ấy vốn chỉ là một tiều phu đốn củi trong núi, tính mê rượu nhưng nhà nghèo chẳng có tiền mua nên cứ đau đáu nghĩ cách cất rượu từ cây cỏ hoa trái trên núi. Có chí thì nên, một hôm ông ta nằm mơ thấy cách cất rượu, cất được loại rượu ngon, chẳng những đậm đà thơm ngát mà còn bổ thân dưỡng thể. Ông ta dâng rượu lên Điền vương, được Điền vương hết lòng sủng ái. Nào ngờ long ân dồi dào lại khiến cho người ngoài ghen ghét, chúng dùng đủ cách đoạt lấy bí quyết cất rượu nhưng ông ta vẫn giữ kín như bưng. Về sau ông ta gặp một cô bán rượu, cũng rất giỏi nấu rượu, đôi bên kết thành vợ chồng ân ân ái ái, mấy năm sau sinh được một trai một gái. Ông ta tiết lộ cho vợ cách nấu rượu, bà vợ dựa theo đó nấu ra một loại rượu khác, hai loại rượu cùng một xuất xứ nhưng một cương một nhu, một nồng đượm một thanh khiết, vợ chồng họ nhờ rượu mà quen nhau, nhờ rượu mà thành hôn, lại cũng nhờ rượu mà khăng khít bền lâu. Đương lúc họ hạnh phúc vẹn tròn thì có kẻ dâng lên đại vương thứ rượu hệt như của họ nên dần dần họ bị thất sủng, còn bị người ta hãm hại, cả nhà rơi vào hiểm cảnh.

Ông chồng nghi ngờ bà vợ phản bội mình, bà ta không sao biện bạch, đành tự vẫn ngay trước vò rượu đang ủ, lấy cái chết tỏ lòng mình, máu biếc bắn đầy lên vò khiến đất vàng bịt miệng vò bị nhuộm đỏ thắm. Hạn dâng rượu lên đại vương đã cận kề, ông ta chẳng kịp ủ vò rượu mới, đành đem vò rượu đó dâng lên, nào ngờ đại vương uống xong vô cùng thích thú, nhờ đó mà bảo toàn được tính mệnh cả nhà, nhưng chẳng ai biết được vợ ông ta có tiết lộ bí quyết hay không nữa. Trải qua chuyện này, ông ta nguội lòng nản chí, bèn ẩn cư nơi hoang dã, cả đời không tục huyền, nhưng cũng không cho phép mai táng vợ trong phần mộ của gia tộc. Lúc thiếp gặp cô gái ủ rượu kia tại một quán rượu nơi thôn dã, câu chuyện đó đã trôi qua cả trăm năm, theo lời cô ấy, trước lúc lâm chung, bà cô ta vẫn khăng khăng với con gái rằng: ‘Không phải mẹ làm đâu.’ Vì bà cô ta, mẹ cô ta đã phải tủi hổ suốt đời trong dòng tộc, bị nhà chồng ruồng rẫy, nhưng vẫn ra sức giữ bí quyết mà mẹ mình truyền lại, bởi bà ta hiểu bí quyết cất rượu chính là kết tinh tâm huyết cả đời của người ủ rượu.”

Thiếu Hạo chăm chú lắng nghe, ánh mắt thoáng vẻ bi ai. A Hành kể tiếp: “Thiếp nghe cô ta thuật lại chuyện đó bèn nảy dạ tò mò, dùng linh lực tra xét khắp nơi, cuối cùng tìm được hậu nhân một nhà khác cũng có bí quyết kia.”

“Nàng tra được chân tướng rồi sao?” “Quả không phải người đàn bà thông tuệ khéo tay kia tiết lộ, mà là đứa con nhỏ lanh lợi của nhà đó. Lúc vợ chồng họ ủ rượu, cho rằng đứa con nhỏ dại chưa hiểu chuyện nên chẳng hề giấu giếm, nào ngờ thằng nhỏ rất giỏi bắt chước, lại theo nòi cha mẹ, lúc những trẻ khác còn vầy đất nghịch cát, nó đã biết lấy vò lấy lọ đựng cây cỏ học theo cha mẹ cất rượu. Tuy nó chỉ nghịch chơi nhưng lọt vào mắt một tay cất rượu nhà nghề, hắn chỉ cần đào sâu nghiên cứu là tìm ra bí quyết đó ngay. Sau khi bà ta tự vẫn, tuy tay cất rượu kia được vinh hoa phú quý cả đời nhưng lúc nào cũng thấp thỏm không yên, trước lúc lâm chung bèn thuật lại chuyện này cho con cháu.”

Thiếu Hạo thở dài hỏi: “Về sau thì sao?”

“Cô gái kia cảm kích thiếp giải giúp mối oan bèn tặng lại bí quyết đó cho thiếp,có điều thiếp chỉ biết uống chứ nào biết cất rượu, có cũng vô ích, để thiếp chép cho chàng.”

“Ta không hỏi cái đó, ta hỏi thi hài của người phụ nữ kia cơ? Chẳng phải nàng nói bà ta bị chôn ngoài đồng hoang đấy sao?”

A Hành liếc nhìn Thiếu Hạo, chợt thấy ấm lòng, y mê rượu nhường ấy mà vẫn lo tới người phụ nữ kia, không hề chăm chăm nghĩ tới bí quyết ủ rượu, bèn đáp: “Bọn họ đã tới bái tế trước phần mộ tổ tiên, kể rõ đầu đuôi câu chuyện rồi dời hài cốt bà ta vào phần mộ tổ tiên, kể rõ đầu đuôi câu chuyện rồi dời hài cốt bà ta vào phần mộ dòng họ, tuy nhiên không hợp táng cùng chồng mà chôn bên cạnh con trai con gái mình.”

Thiếu Hạo gật đầu rồi lại dốc bầu tu một hớp, “Chắc đây là hùng tửu?”

“Vâng. Dòng họ đó lấy làm hổ thẹn vì người phụ nữ kia nên không cất thư tửu, bởi vậy chẳng ai hay trên đời từng có một người phụ nữ ủ được thứ rượu ngon tuyệt trần, may mà con gái bà ta vẫn lén giữ lại được bí quyết này. Có điều nếu hiện giờ chàng qua đất Điền, có thể được nếm thư tửu rồi.”

Thiếu Hạo nghiêng bầu rót rượu xuống đất rồi nói với hư không: “Cùng nghề cất rượu, xin được kính cô nương một chén từ xa, cảm tạ cô đã để lại thư tửu đất Điền cho gã tửu khách như ta.” Y lại trao bầu rượu cho A Hành, “Cũng cảm tạ nàng đã để gã tửu khách là ta có cơ hội được nếm rượu của cô ấy.”

A Hành chẳng nề tiểu tiết, mỉm cười nhận lấy, hào sảng ngửa cổ tu một hớp, rồi trả lại cho Thiếu Hạo, “Rượu ngon, có điều ít quá.”

“Nhìn bầu rượu bé thế thôi, bên trong không ít đâu, bảo đảm đủ cho nàng say.”

A Hành liền giật bầu rượu lại, “Vậy thiếp chẳng khách sáo nữa đâu.” Nói rồi nàng tu liền ba ngụm, lim dim mắt rồi từ từ thở ra một hơi, mặt đỏ bừng ngây ngất.

Thiếu Hạo nhìn A Hành, ánh mắt thấp thoáng nét cười, “Tiếc rằng ta đi vội quá, quên đem đàn theo mất rồi.”

A Hành cười nói: “Mượn nhạc bồi rượu dĩ nhiên là thú vị, nhưng thiếp còn biết một cách khác, hay hơn cả đàn sáo nhã nhạc và người đẹp ca múa cơ.”
“Cách gì thế?”

“Kể chuyện. Chàng đã bao giờ vừa nghe chuyện vừa uống rượu chưa? Bôn ba mệt mỏi suốt dặm trường, được ôm bầu rượu ngon ngồi bên đống lửa giữa đồng hoang hay trên thuyền nhỏ cạnh bến sông, vừa uống vừa nghe mấy kẻ qua đường khề khà kể chuyện, bất kể là truyền kỳ ma quái hay là yên hận nhân gian, qua miệng họ đều thành ra vừa hấp dẫn vừa ấm cúng.”

Thiếu Hạo bật cười, chừng như cảm động vì câu nói của A Hành, ánh mắt y chợt trở nên chứa chan hoài niệm, “Hơn hai ngàn năm trước, có lần ta lạc tới tận vùng cực Bắc, ngàn dặm tuyết bay, vạn tầng băng phủ, giá lạnh thấu xương, tối đến trên trời không một đốm sao, dưới đất cũng chẳng thấy ánh đèn, bốn bề tối đen như mực, ta một mình dẫn bước, đột nhiên lòng dâng lên một cảm giác lạ lùng, không phải sợ hãi, mà là… Dường như cả đất trời chỉ còn lại mình ta, tựa hồ gió tuyết sẽ gầm rít mãi chẳng ngừng, con đường này đi hoài đi mãi cũng không tới đích. Đương lúc ta lầm lũi lê bước, chợt trông thấy xa xa thấp thoáng ánh đèn, ta dõi mắt nhìn theo, liền trông thấy…”

Thiếu Hạo nhìn A Hành, nuốt lại cái tên đã thốt ra tới miệng, kể tiếp, “Thấy một người thợ săn cáo tuyết đang trú trong căn lều băng được dựng vội vàng, vừa sưởi ấm vừa uống rượu. Được anh ta mời, ta liền bước vào ngồi xuống bên đống lửa, cùng anh ta uống thứ rượu dở tệ, nghe anh ta kể chuyện đi săn. Về sau mỗi khi ai đó hỏi ta thấy thứ rượu nào ngon nhất, chẳng hiểu sao ta đều nhớ tới bữa rượu đêm ấy.”

A Hành cười nói: “Chuyện của chàng hay đấy, đáng để chúng ta cạn ba chung lớn.” Nàng uống liền ba hớp rồi lại đưa bầu rượu cho Thiếu Hạo.

Tới lượt A Hành kể chuyện: “Năm đó, ta xuống núi chơi…”

Dưới trời sao lấp lánh, Thiếu Hạo và A Hành sánh vai ngồi trên phiến đá, người này một ngụm, người kia một hớp, cùng thưởng thức hùng tửu đất Điền nồng đượm, kể cho nhau nghe hết chuyện này sang chuyện khác, Thiếu Hạo từng trải lịch lãm, A Hành tinh tế thông minh, đôi bên khi cười nói, lúc lại làm thinh ngắm sao trời, chớp mắt đã qua một đêm.

Khi ánh bình minh rọi vào mắt hai người, A Hành nhoẻn miệng cười với tia nắng đầu ngày mỏng tựa cánh ve, thật khó tin rằng nàng lại cùng Thiếu Hạo chuyện gẫu thâu đêm, nhưng thực tình nàng thấy vui vẻ sáng khoái vô cùng. Bao năm nay, A Hành đã đặt bao kỳ vọng cùng âu lo vào hai chữ Thiếu Hạo, hơn nữa còn giấu kín không cho người khác biết, mỗi khi có ai nhắc tới nàng đều ra vẻ không màng, vậy mà sao bao nhiêu năm, hết thảy âu lo kỳ vọng ấy cuối cùng hóa thành một nỗi êm đềm từ sâu thẳm đáy lòng.

Khác với nàng, giữa ánh nắng đầu ngày rực rỡ, cặp mắt Thiếu Hạo bỗng trầm xuống như vừa tỉnh mộng, nét cười trong mắt tắt lịm, nhưng khóe miệng lại tươi cười.

Y mỉm cười đứng dậy, “Chúng ta lên đường thôi.”

A Hành chăm chú nhìn y, cảm thấy con người này khác hẳn nam tử cùng mình uống rượu chuyện trò đêm trước. Thiếu Hạo đêm qua hệt như kẻ hiệp khách ngang tàng, ngẫu nhiên gặp gỡ bên bờ dương liễu, có thể cùng chuốc chén, nói cười, thù tạc, nhưng sáng nay dưới ánh mặt trời, y lại giống bậc vương giả cô đơn sải bước trên con đường trước điện, đầy ẩn nhẫn, lạnh lùng và thâm trầm.

Nàng đành lặng lẽ theo sau y, đang định đặt chân lên lưng Huyền điểu, bỗng Thiếu Hạo ngước nhìn lên vách núi, cao giọng nói: “Các hạ quanh quẩn ở đó cả nửa đêm không đi, dám hỏi có chuyện gì đây?”

Là Xi Vưu ư? Tim nàng nhảy thót lên tới cổ họng, vội rảo bước chen lên trước, nào ngờ kẻ từ trong núi đi ra lại là Vân Tang.

A Hành kinh ngạc hỏi: “Sao tỷ lại ở đây?”

Vân Tang cười đáp: “Ta có mấy câu muốn hỏi Thiếu Hạo điện hạ, ai ngờ mải nghe hai người trò chuyện, chẳng nỡ nào quấy nhiễu.”

Thấy Thiếu Hạo nghi hoặc nhìn mình, A Hành vội giới thiệu: “Vị này là Đại vương cơ Vân Tang của Thần Nông.”

Thiếu Hạo tươi cười hành lễ, “Chẳng hay vương cơ muốn hỏi chuyện gì?”

Vân Tang đáp lễ nhưng do dự mãi chẳng thốt nên lời, dáng vẻ vô cùng bối rối. Thấy vậy, Thiếu Hạo động viên, “Vương cơ yên tâm, chuyện này nàng nói ta nghe, rời khỏi đây ta sẽ quên đi ngay.”

Vân Tang vội đáp, “Phụ vương rất hiếm khi khen ngợi ai, nhưng lại hết lời ca tụng điện hạ cùng Thanh Dương. Không phải tôi không tin điện hạ, chỉ là chuyện này nói ra quả có chút thất lễ.”

“Xin vương cơ cứ nói.”

“Trên Ngọc sơn, tôi có nghe nói điện hạ đã giam cầm Nặc Nại, chẳng rõ vì nguyên cớ gì? Nếu liên quan tới quốc sự Cao Tân thì xem như tôi chưa hỏi, nhưng nếu là việc riêng thì xin điện hạ cho tôi hay, biết đâu bên trong có chút hiểu lầm mà tôi giải quyết được chăng?”

Thiếu Hạo liền đáp: “Thật không dám giấu, quả là việc riêng.”

“A…” A Hành kinh ngạc bưng miệng nhìn Vân Tang rồi lại nhìn sang Thiếu Hạo. Lẽ nào y đã biết “vương cơ Hiên Viên” cùng Nặc Nại…

Thiếu Hạo nói tiếp: “Ta và Nặc Nại quen nhau từ nhỏ. Dù Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt nhưng y dung mạo tuấn tú, khó ngăn được các cô nương trẻ trung nhiệt tình đem lòng ngưỡng mộ, có điều y vẫn giữ đúng phép tắc, chưa từng vượt qua quy củ. Chẳng hiểu sao mấy năm gần đây lại thay đổi tâm tính, phong lưu đa tình, gây ra không ít điều tiếng. Tình cảm nam nữ là việc riêng tư, đáng ra chẳng nên hỏi tới, nhưng nghĩ tình thân thiết nên thường cũng bóng gió nhắc nhở, khuyên nhủ đôi câu, tiếc rằng càng nói y càng phóng túng hơn. Nặc Nại xuất thân từ Hy Hòa bộ, một trong Cao Tân tứ bộ[4], rất nhiều nhà quyền quý muốn gả con gái cho y, ấy vậy mà trong một lần say rượu, y lại hồ đồ đáp ứng việc chung thân.”

[4] Theo sách vở ghi lại thì bộ tộc của Thiếu Hạo chia ra làm bốn bộ: bộ Thanh Dương, bộ Hy Hòa, bộ Bạch Hổ, bộ Thường Hy, trong sách này đổi bộ Thanh Dương thành bộ Thanh Long, nguyên do thì sau này sẽ rõ
.

“Gì cơ? Y đã đính ước rồi ư?” Sắc mặt Vân Tang thoắt chốc tái nhợt.

“Đâu chỉ là đính ước, mà còn sắp tới ngày cưới nữa kia. Nghe nói vương cơ học rộng hiểu nhiều, hẳn cũng biết quy củ hôn phối của Cao Tân rất nghiêm ngặt, tuy Nặc Nại say rượu hứa bừa nhưng hôn nhân đại sự chẳng phải chuyện chơi, y không thể nuốt lời được. Bởi thế hằng ngày y cứ vùi đầu trong rượu, say tràn cung mây, mặc cho người ta sắp xếp, thậm chí còn lè nhè cười khuyên ta nên sớm thành thân, dặn ta nhớ chăm lo cho thê tử thật tốt, có điều ta thấy thực lòng y không muốn cưới đối phương, đành phải gán đại cho y một tội danh, đem nhốt vào thiên lao, ít ra cũng hoãn được hôn sự của y lại.”

Ánh mắt Vân Tang lộ rõ vẻ hoảng hốt, vội gượng gạo hỏi: “Cô gái đó là ai vậy?”

“Chuyện liên quan tới danh dự của cô ấy, càng ít người hay càng tốt nên không tiện nói rõ, mong vương cơ bỏ quá cho.”

A Hành tức tối hỏi: “Sao lại thế được? Nặc Nại hồ đồ, lẽ nào gia đình kia cũng hồ đồ nốt, coi lời nói lúc say của y là thật ư? Vân Tang tỷ tỷ, chúng ta đi Cao Tân nói rõ với bọn họ!”

Thiếu Hạo liếc A Hành, làm thinh không nói. Vân Tang gượng cười, nhưng nhìn còn thảm hơn cả khóc, “Đâu có hồ đồ, gia đình họ quá khôn ngoan ấy chứ! Nặc Nại là tướng quân của Hy Hòa bộ mà họ cũng dám ‘bức hôn’, e rằng cô gái kia lai lịch chẳng phải tầm thường, không ở Thường Hy bộ thì ở Bạch Hổ bộ.” Nàng lại quay sang bảo Thiếu Hạo: “Điện hạ trì hoãn hôn sự, hẳn không chỉ vì nhận thấy y không muốn thành thân.”

Thiếu Hạo mỉm cười, cũng không phủ nhận, “Xưa nay nghe đồn Đại vương cơ Thần Nông huệ chất lan tâm, thông minh cao khiết, quả nhiên danh bất hư truyền.”

“Điện hạ có nắm chắc không?”

“Lễ giáo quy củ của Cao Tân tích lũy từ cả vạn năm nay, quả thực ta chẳng lấy gì làm chắc cả, đành được đến đâu hay đến đó mà thôi.”

“Hai người nói gì thế?” A Hành nghe cả hai nói chuyện cứ như vịt nghe sấm.

Vân Tang từ biệt Thiếu Hạo, gọi tọa kỵ Bạch Thước[5] của mình tới, đoạn mỉm cười kéo tay A Hành, quay sang nói với Thiếu Hạo: “Tôi có chút chuyện riêng muốn nói với vương cơ.”

[5] Bạch Thước, thời cổ còn gọi là bạch vũ thước (chim khách lông trắng), là loài chim lành, dáng vẻ đẹp đẽ, tính tình cao khiết, lông trắng muốt như tuyết.


Thiếu Hạo khoát tay tỏ ý cứ tự nhiên rồi chủ động lánh đi.

Còn lại hai người, Vân Tang dặn A Hành: “Muội đừng lo cho tỷ, chừng nào về Triêu Vân phong, nhớ thay tỷ hỏi thăm vương hậu nương nương.”

“Tỷ tỷ…” A Hành lo lắng nhìn nàng.

Từ nhỏ Vân Tang đã quen làm vẻ thản nhiên để che giấu nỗi buồn thương nên dù đau khổ thắt lòng, nàng vẫn bình tĩnh cười nói: “Ta không sao thật mà.” Nói rồi, nàng lại nhìn bóng Thiếu Hạo đằng xa, nói nhỏ: “Đừng cho Thiếu Hạo biết chuyện của ta và Nặc Nại nhé.”

“Sao thế tỷ? Muội sợ Thiếu Hạo…”

“Không đâu, Thiếu Hạo rất tốt, tốt vô cùng, có điều ta e rằng y quá tốt với muội thì phải! Muội nên để ý mọi chuyện một chút, câu gì có thể không nói thì đừng nói ra. Phải nhớ rằng sống trong vương tộc, rất nhiều chuyện thoạt nhìn có vẻ đơn giản, thật ra chẳng đơn giản chút nào đâu.”

A Hành nghe hiểu láng máng, thoáng ngẩn người ra rồi khẽ hỏi: “Tỷ tỷ, Xi Vưu đã về Thần Nông chưa?”

“Ta không biết. Lúc ấy ta canh cánh chuyện kia trong lòng nên cũng chẳng lưu ý, muội hỏi ta mới nhớ, tính nết Xi Vưu xưa nay nói dễ nghe thì là lãnh đạm, nói khó nghe thì là tàn nhẫn, chẳng màng tới chuyện gì, vậy mà hôm qua đột nhiên lại hỏi ta đủ chuyện về muội và Thiếu Hạo, nào là đính ước khi nào, tình cảm ra sao…” Vân Tang chăm chú nhìn A Hành, “Giờ đến lượt muội hỏi thăm hắn, không lẽ muội và hắn… có chuyện gì à? Ta còn không biết hai người quen nhau từ bao giờ nữa đó.”

A Hành thở dài, “Nói ra thì dài lắm, trước đâu giấu giếm là vì sợ tỷ phạt hắn đấy thôi. Sau này từ từ muội sẽ kể với tỷ.”

“Ta phạt hắn ư?” Vân Tang hừ một tiếng, cười khổ: “Tính hắn như thế, trời không ràng đất không buộc nổi, ai mà dám chọc vào? Hắn đừng làm phiền tới ta là ta đã tạ trời tạ đất rồi.” Dứt lời, Vân Tang bước lên lưng Bạch Tước, “Ta đi đây, ngày sau sẽ khảo tiếp chuyện của muội cùng tên ma đầu kia, nhưng ta nói muội nghe, gã Xi Vưu ấy không trêu vào được đâu, tốt nhất muội nên tránh xa hắn ra.” Nàng cười với A Hành rồi tha thướt bay lên.

“A Hành, chúng ta cũng lên đường thôi.” Thiếu Hạo tươi cười chìa tay mời nàng ngồi lên lưng Huyền điểu, nhưng nụ cười ôn hòa mà khách sáo ấy lại khiến nàng thấy xa cách vô cùng, tựa vầng trăng trên trời vậy, dù sáng tới đâu cũng chẳng có nổi chút hơi ấm. A Hành bắt đầu cảm thấy mọi chuyện tối qua như một giấc mơ, Thiếu Hạo cùng nàng uống chung bầu rượu, nói cười tán gẫu thâu đêm dưới trời sao lấp lánh hình như cũng chỉ là tưởng tượng của nàng thôi.

Dọc đường, cả hai đều yên lặng, mãi tới rạng sáng, khi về đến Hiên Viên sơn, Thiếu Hạo mới quay sang nói với nàng: “Ta chẳng có việc gì cầu kiến nên không tiện lên núi, chỉ đưa được nàng tới đây thôi.”

A Hành khẽ đáp: “Đa tạ chàng.”

Thiếu Hạo cười: “Cảm ơn nàng đã tặng ta bí quyết ủ rượu, lần sau có dịp, ta sẽ mời nàng uống thư tửu ta tự cất.” Nói rồi y ngẩng đầu nhìn lên núi: “Người hầu tới đón nàng rồi kìa, gặp lại sau nhé.” Vừa nói, y vừa cưỡi Huyền điểu bay vút đi.

Xe mây đã đỗ xuống bên cạnh, đám thị nữ quỳ xuống mời vương cơ lên xe.

A Hành cứ ngơ ngẩn như không nghe thấy, ngẩng đầu đăm đắm trông theo tà áo trắng càng lúc càng bay xa giữa ánh tà dương đỏ rực, dần dần chỉ còn lại một đốm trắng, rồi đốm trắng đó cũng tan vào ráng chiều rực rỡ, nhưng phong thái tựa nước Nam non Bắc của y vẫn như còn rành rành trước mắt nàng.

Hết chương 6.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 2-12-2013 10:51 AM
Chương 7


Một đời đẹp nhất khắc này thôi.


7.1


Xi Vưu đăm đăm nhìn nàng khẽ nói, như thầm thì, như than thở: “A Hành, ta không để cô lấy Thiếu Hạo đâu!” Nói rồi hắn nhoẻn miệng cười mãn nguyện, hệt như đứa trẻ giành được cây kẹo mình ao ước bấy lâu chẳng màng gì đến hậu quả sẽ bị sâu răng, cứ thế mà ngất đi trong lòng A Hành, nụ cười vẫn còn đọng trên môi


Hiên Viên sơn gồm bốn đỉnh Đông Tây Nam Bắc. Chính thất của Hoàng Đế là Luy Tổ, Nhị phi Ngôn Luy thị, Tam phi Đổng Ngư thị, Tứ phi Mô Mẫu thị mỗi người ngụ trên một đỉnh. Cao nhất là Triêu Vân phong ở phía Đông, nơi ở của Luy Tổ, đỉnh nút chót vót vươn tận mây xanh, cũng là nơi đầu tiên ở Hiên Viên được đón mặt trời lên.

A Hành chưa bước xuống xe mây đã thấy Tứ ca Xương Ý đứng đón trước điện Triêu Vân, cứ ngong ngóng nhìn xuống núi. Sự quan tâm và trông đợi y dành cho nàng còn ấm áp hơn cả ánh mặt trời ban sớm.

Chẳng đợi xe dừng hẳn, A Hành đã nhảy phóc xuống, lớn tiếng gọi “Tứ ca” rồi nhào vào lòng y.

Xương Ý tươi cười vỗ vỗ lưng em gái, “Ta tưởng muội được Vương Mẫu rèn cặp, hẳn đã phải điềm đạm hơn rồi, sao vẫn lanh chanh thế?”

A Hành cười hỏi: “Đại ca đâu? Mẹ đâu rồi?”

“Mẹ đang quay xa trong điện còn Đại ca chẳng hiểu sao hôm trước vừa mới tới đã giam mình trong rừng dâu sau núi, không cho ai quấy rầy.”

A Hành cười thầm, vừa theo Tứ ca vào điện vừa khẽ rỉ tai y: “Đại ca bị thương đó.”

“Gì cơ?” Xương Ý kinh ngạc hỏi.

“Để nhờ Thiếu Hạo đi cứu muội, chẳng hiểu Đại ca đã đánh cược gì với y khiến cả hai bên đều bị thương, tuy Đại ca thắng nhưng thương thế còn nặng hơn y nữa.”

Nghe nói vậy, nét mặt Xương Ý mới giãn ra, y lắc đầu cười: “Hai bọn họ kẻ khôn khéo, người điềm đạm, thế mà mỗi lần gặp nhau cứ đánh lộn như con nít, đánh suốt mấy ngàn năm nay vẫn chưa chịu thôi.”

Chính điện rộng thênh thang ngập tràn ánh sáng nhưng lặng ngắt như tờ. Tiếng chân hai người cứ vang vang trong điện khiến cả hai phải thu bớt khí tức, bước đi thật khẽ.

Băng qua chính điện là tới thiên điện tranh tối tranh sáng, duy có song cửa rực nắng mai, một bà lão tóc bạc trắng đang ngồi đó quay xa dệt lụa, ánh nắng càng làm lộ rõ vẻ già nua.

Nhìn mẹ rồi lại nhớ tới Vương Mẫu phơi phới múa giữa rừng đào, A Hành chợt thấy xót xa vô hạn, liền quỳ xuống cất tiếng: “Mẹ, con về rồi đây.”

Luy Tổ dệt xong tấm vải, gác lại xa quay bảy sắc, đoạn ngẩng lên nhìn con gái. A Hành đột ngột lê gối lại bên bà, khẽ gọi: “Mẹ.”

Luy Tổ thản nhiên hỏi: “Ta dệt cho con mấy bộ đồ để trong phòng con ấy, mấy hôm nữa chừng nào xuống núi nhớ đem theo.”

“Cảm ơn mẹ.” A Hành cúi đầu nghĩ ngợi rồi nói: “Lần này con chưa định xuống núi, con định ở lại đây mấy năm.”

Luy Tổ hỏi: “Sao thế?”

“Con thấy mệt mỏi, muốn ở lại trên núi mấy năm.” Từ nhỏ tới lớn, lúc nào A Hành cũng nghĩ cách chuồn xuống núi, nhưng sống trên Ngọc sơn sáu mươi năm, nàng chợt nhận ra Triêu Vân phong cũng vắng vẻ quạnh hiu chẳng khác gì Ngọc sơn, một mình Luy Tổ sống ở đây hẳn rất cô độc, nên muốn ở lại bầu bạn bên bà.

Luy Tổ quay sang bảo Xương Ý: “Con đi pha trà giùm ta.”

Xương Ý thi lễ lui xuống.

Luy Tổ đứng dậy bước ra ngoài điện. A Hành lặng lẽ theo sau.

Phía sau Triêu Vân phong trồng đầy những dâu, cành lá xum xuê tươi tốt, dưới ánh nắng chói chang càng căng tràn nhựa sống, thoạt nhìn đã thấy tâm tình khoan khoái.

Đột nhiên, Luy Tổ lên tiếng hỏi: “Suốt mấy trăm năm ta chưa từng tức giận, vậy mà sáu mươi năm trước lại nổi trận lôi đình, đến nỗi định xông lên Ngọc sơn đòi Vương Mẫu thả con ra, con có hiểu tại sao ta giận bà ta đến thế không?”

A Hành đáp: “Vì người tin con không lấy thần binh của Vương Mẫu.”

Gương mặt lạnh băng của Luy Tổ thoáng hiện nụ cười: “Không phải, đấy là Thanh Dương tưởng thế thôi, nó nói tầm mắt của con đời nào trộm được thần binh, giỏi lắm chỉ ăn cắp mấy quả đào là cùng.”

A Hành đoán chắc hẳn mẹ mình có thù oán gì đó với Vương Mẫu, nhưng chẳng dám nói ra miệng, chỉ lễ phép đáp: “Thế thì con chịu.”

Luy Tổ dừng bước, ngoảnh đầu trông về phía điện Triêu Vân, “Con là vương cơ Hiên Viên, sớm muộn gì cũng có ngày phải dọn tới sống trong một tòa cung điện thế kia, nhưng trước đó, ta muốn con được tận hưởng hết mọi tự do dưới gầm trời này cái đã. Ấy vậy mà Vương Mẫu lại ngang nhiên đoạt đi một trăm hai mươi năm quý giá nhất của con. Bà ta ở cái xó Ngọc sơn quỷ quái đó mấy ngàn năm nay, còn hiểu rõ hơn ta thứ trân quý nhất trên đời này là gì. Chính là niềm vui và tự do trong suốt một trăm hai mươi năm! Trên đời này có báu vật nào đổi lại được không? Hơn ai hết, bà ta thừa biết hình phạt đó tàn khốc thế nào, rành rành đã cướp đi thứ quý giá nhất của con, vậy mà còn làm bộ làm tịch nói là nể mặt ta.”

Triêu Vân điện lầu son gác tía, bệ ngọc thềm lan, đẹp như tranh vẽ chìm giữa một vùng khói mây bảng lảng, nhưng A Hành nhìn mãi nhìn mãi lại thấy mắt cay cay.

Luy Tổ quay sang nhìn con gái: “A Hành, nhân lúc tuổi còn trẻ; con hãy mau xuống núi mà thỏa sức cười khóc, làm ẩu làm càn, tận hưởng cuộc sống đi. Sau này con còn nhiều thời gian giam mình trong cung điện, những ngày tháng được rong ruổi bên ngoài sẽ chẳng có bao nhiêu, chớ nên phí hoài chúng trong điện Triêu Vân nữa. Ta không cần con ở bên bầu bạn, ta chỉ cần con sống thật vui vẻ thôi. Có thể bây giờ con chưa hiểu được điều này, nhưng một khi làm mẹ, con sẽ hiểu ra rằng chỉ cần các con hạnh phúc thì người mẹ đã đủ mãn nguyện rồi.”

Giờ đây rốt cuộc A Hành đã hiểu tại sao mỗi lần nàng chuồn xuống núi mẹ đều không biết, vậy mà nàng còn hả hê cho rằng mình rất thông minh; tại sao nàng có thể trốn nhà trót lọt mà phụ vương cùng Đại ca chẳng phái thị vệ đuổi theo; tại sao nàng có thể tự do rong ruổi khắp đại hoang, khác hẳn những vương cơ khác.

“Mẹ.” Nàng nghẹn ngào thốt lên. Xương Ý bưng trà tới, kính cẩn dâng lên Luy Tổ. Luy Tổ khoan thai uống cạn chén trà rồi lạnh nhạt ra lệnh: “A Hành, sáng mai con xuống núi, thích đi đâu thì đi, miễn đừng để ta thấy mặt con là được.” Nói rồi bà đặt chén trà xuống đi thẳng.

Thấy A Hành rơm rớm nước mắt, Xương Ý tươi cười véo mũi nàng rồi nắm tay kéo đi hệt như hồi nhỏ: “Đi nào, mình đi tìm Đại ca.”

Xương Ý và A Hành rón rén lẻn vào sâu trong rừng dâu, đang đi, bỗng hai người đụng phải cấm chế chặn đường, có điều cấm chế này chỉ là chuyện vặt với bọn họ, cả hai ung dung xuyên qua cấm chế, liền trông thấy một cảnh tượng lạ lùng.

Dâu trong rừng chỉ cao chừng ba thước nhưng đều là giống hiếm gặp, từ gốc đến ngọn xanh mướt như tạc bằng ngọc thạch. Trên những cành dâu ngọc ngà san sát so le nhau, từng đóa mẫu đơn trắng muốt to bằng miệng bát do băng tuyết ngưng tụ thành đang khoe sắc, còn thanh khiết hơn cả hoa thật.

Rừng dâu long lanh ngà ngọc, mẫu đơn băng lấp lánh trong suốt, đằng sau cấm chế là cả một thế giới thuần khiết như thiên đường bằng thủy tinh, chẳng nhiễm bụi trần.

Ngay chính giữa thiên đường thủy tinh đó, trong bầu không từng đóa mẫu đơn trắng muốt bừng nở, chồng chất lên nhau tầng tầng lớp lớp tạo thành một tòa tháp mẫu đơn bảy tầng. Phía sau tòa tháp thấp thoáng bóng một nam tử không rõ diện mạo, chỉ thấy một tà áo lam không ra đậm không ra nhạt, toát lên vẻ ấm áp thanh khiết vô cùng, đồng thời cũng lạnh lùng xa cách khôn tả, tựa bầu trời xanh nhạt trên đỉnh núi tuyết ngàn xưa, dù băng tuyết buốt giá đến đâu vẫn luôn luôn ấm áp, nhưng cũng vĩnh viễn xa vời không sao với tới, xa vời hơn cả băng tuyết.

A Hành cùng Xương Ý nhìn nhau rồi dừng bước cách đó xa xa, mỗi người đặt tay lên một gốc dâu, khai mở mệnh môn để linh lực cuồn cuộn chảy vào thân cây, giúp Đại ca trị thương. Thoắt chốc, gốc dâu bỗng xanh biếc lên như thể sắp phát sáng, mẫu đơn trắng trong lưu ly giới càng nở càng nhiều, hàn khí cũng mỗi lúc một thêm lạnh buốt.

Tiếc rằng Thanh Dương chẳng những không tiếp nhận ý tốt của hai em mà còn trách bọn họ lắm chuyện, mấy đóa mẫu đơn đột ngột bay vút lên, đập thẳng vào mặt A Hành cùng Xương Ý, khiến hai người chưa kịp trở tay đã bị đông cứng, biến thành hai trụ băng.

Bỗng nhiên, tất cả mẫu đơn trắng đều bay lên vây quanh bóng áo lam đó, đồng thời ngàn vạn đóa mẫu đơn to bằng miệng bát cũng đua nhau bừng nở giữa bầu không, liên miên bất tuyệt, rực rỡ vô ngần khiến cả đất trời như hóa thành lưu ly hoa giới, đẹp đến ngỡ ngàng.

Hồi lâu Thanh Dương mới từ từ mở mắt, những đóa mẫu đơn trắng kia cũng tan đi hết, hóa thành bông tuyết lả tả rơi xuống, trắng xóa cả đất trời.

Thanh Dương chắp tay đứng dậy, ngẩng đầu ngắm tuyết bay đầy trời, y đứng hồi lâu mà cả người chẳng bám một bông tuyết, trong khi Xương Ý và A Hành đã bị tuyết đóng trắng toát mày mi.

Ngắm tuyết chán chê, Thanh Dương mới ung dung tiến lại giải khai pháp thuật cho hai em, lập tức băng tuyết trên mình Xương Ý và A Hành tan biến. Xương Ý đã lạnh đến tím tái, A Hành cũng răng đập lập cập, phải liên tục nhảy lên cho đỡ rét. Thanh Dương lạnh lùng nhìn nàng: “Muội ở Ngọc sơn sáu mươi năm mà chẳng khá lên chút nào, đến lợn mang lên đó chăn lâu như vậy cũng phải tu thành nội đan rồi chứ.”

Mắng A Hành xong, Thanh Dương quay sang nhìn Xương Ý, khiến y vội cúi gằm mặt xuống.

A Hành không dám cãi, chỉ biết luồn ra sau lưng Thanh Dương tay đấm chân đá với bóng lưng y một hồi, vừa đánh vừa mắng không ra tiếng. Thình lình Thanh Dương ngoảnh phắt lại trừng mắt nhìn A Hành, nàng lập tức làm bộ vận động thân thể, vung tay duỗi chân, vờ vịt nói: “Tay chân muội đông cứng cả rồi, phải vận động một chút kẻo thành tật thì gay.”

Nói rồi nàng nhảy tới bên cạnh Xương Ý: “Hiếm lắm mới được một lần trời đổ tuyết vào tháng Sáu, mình đi bắt hươu về nướng để trục hàn đi.” Đoạn nắm tay Xương Ý định kéo đi.

Xương Ý gọi to: “Đại ca, đi cùng bọn đệ đi!

Khó khăn lắm huynh muội mới tụ họp thế này, mai phải chia tay rồi, biết bao giờ lại tề tựu nữa?”

Thanh Dương chỉ lạnh nhạt buông một câu: “Ta còn công chuyện phải xử lý.” Vừa dứt lời, y đã bay vụt lên cao cả trượng.

Xương Ý lặng lẽ nhìn theo bóng Đại ca, ánh mắt vừa nể phục, vừa âm thầm xót xa.

A Hành giật giật tay áo Tứ ca: “Thôi, Đại ca lúc nào mà chẳng thế, mình cứ đi chơi đi. Đại ca đi cùng lại mắng muội lười tu tập rồi quay sang chỉ trích huynh chẳng tạo dựng được thành tích gì trên đất phong, mất hết cả hứng.”

Xương Ý mở miệng như thể định nói gì đó nhưng lại nén xuống.

A Hành cùng Xương Ý lấy cung tên hồi nhỏ quen dùng, đi sâu vào núi săn hươu. Hai người giao hẹn không được dùng linh lực ra soát mà phải tự mình lần theo dấu vết để săn tìm.

Sục sạo suốt mấy canh giờ chẳng thấy tăm tích hươu nai đâu cả, cả hai không lấy thế làm điều, cứ vừa tìm quanh quẩn vừa trò chuyện.

Xương Ý dò hỏi: “Muội thấy Thiếu Hạo thế nào?”

A Hành nhìn quanh, thuận miệng đáp: “Còn thế nào nữa? Chẳng phải cũng có một cái mũi hai con mắt sao? Có điều muội cứ thắc mắc hoài, nếu có bảng xếp hạng anh hùng thiên hạ thì Đại ca đứng hàng thứ mấy nhỉ? Ở trên Ngọc sơn muội mới biết Đại ca cũng từng tham dự tiệc Bàn Đào, thật chẳng giống tính tình huynh ấy gì cả!”

Xương Ý cười nói: “Chuyện này còn có ẩn tình, dạo đó Nhị vương tử Yến Long của Cao Tân nắm được thuật Âm Tập, có thể hủy hoại thiên quân vạn mã trong chốc lát, đừng nói Cao Tân mà khắp đại hoang đều sùng bái trọng nể y, cho tới một lần Đại ca đột nhiên tới dự tiệc Bàn Đào, đánh cho Yến Long thảm bại, từ đó cả đại hoang bắt đầu tôn kính e sợ cái tên Hiên Viên Thanh Dương.”

“Đánh bại là được rồi, sao còn phải đánh cho thảm bại? Yến Long đắc tội với Đại ca ư?”

“Ta không biết nữa, Đại ca có bao giờ tâm sự chuyện của mình đâu. Theo ta đoán, chắc hẳn chuyện có liên quan tới Thiếu Hạo. Có lần ta đi sứ sang Cao Tân, thấy Yến Long đang lên như diều gặp gió, lại được Tuấn Đế sủng ái, dám ngang nhiên sỉ nhục Thiếu Hạo ngay trước mặt bá quan văn võ mà Thiếu Hạo vẫn làm thinh cam chịu, thật chẳng hiểu y nghĩ cái gì nữa. Lúc về Đại ca hỏi han những điều tai nghe mắt thấy ở đó, ta bèn thật thà kể lại chuyện bất hòa giữa Thiếu Hạo và Yến Long, bấy giờ Đại ca chẳng tỏ vẻ gì, nhưng năm sau liền đi dự tiệc Bàn Đào, khiến Yến Long bị một phen bẽ mặt trước cả đại hoang. Giải thưởng năm đó là một cây ngũ huyền cầm làm từ xương phượng hoàng. Đại ca đoạt được bảo cầm liền trao cho sứ giả Cao Tân ngay trước mặt mọi người trong Thần tộc, nhờ chuyển tới Thiếu Hạo, nói rằng mình từng bại dưới tay Thiếu Hạo, đã hứa sẽ tặng y một cây danh cầm.”

A Hành chép miệng, “Vậy chẳng phải tuyên cáo toàn thiên hạ rằng Yến Long không đáng xách dép cho Thiếu Hạo sao?”

Xương Ý phụ họa: “Chứ còn gì nữa!”

A Hành rầu rĩ: “Sao Đại ca thân thiết với Thiếu Hạo thế nhỉ?”

“Lúc Đại ca quen y, phụ vương mới là tộc trưởng một tộc nhỏ trong Thần tộc, Đại ca chỉ là một thiếu niên Thần tộc bình thường, mà Thiếu Hạo cũng chỉ là một gã thợ rèn lành nghề thôi.” Xương Ý thở dài, “Có lẽ tình bạn khi đó mới là tình bạn thuần túy nhất, giống như trong truyền thuyết vậy, một lời đã hứa là phó thác cả sống chết.”

A Hành tiếp lời: “Nghe hay quá, Tứ ca kể tiếp đi.”

“Bọn họ quen nhau mấy trăm năm ta mới ra đời nên chỉ biết đến thế thôi, sau này muội thử hỏi Thiếu Hạo mà xem, hy vọng y cởi mở hơn Đại ca.”

Sực nhớ lời Vân Tang kể, A Hành liền hỏi: “Tứ ca, huynh có quen Nặc Nại không?”

“Ở Cao Tân ta thân với Nặc Nại nhất, y thạo bố trí cơ quan, chế tạo binh khí rất độc đáo, giỏi vẽ tranh sơn thủy viên lâm, thường đem những họa đồ mình tâm đắc ra trao đổi cùng ta. Nghe Đại ca nói y sắp thành thân, ta cũng đã chuẩn bị xong quà mừng thì lại thấy Đại ca bảo hãy khoan đừng tặng vội.”

“Sao thế?”

“Quân đội Cao Tân chia ra năm chi, trong đó bốn chi là Thanh Long bộ, Hy Hòa bộ, Bạch Hổ bộ và Thường Hy bộ, còn lại một chi tập hợp hết tinh anh năm tộc, tên là Ngũ Thần quân, chỉ Tuấn Đế mới có thể điều động. Mẫu thân Thiếu Hạo xuất thân từ Thanh Long bộ nên đó cũng xem như là phe cánh của y. Tuấn Hậu hiện thời là người Thường Hy bộ, bởi thế bọn Yến Long, Trung Dung, mấy huynh đệ chung một mẹ nắm giữ hai bộ Thường Hy, Bạch Hổ, Hy Hòa bộ giữ thế trung lập nên cả Thiếu Hạo và Yến Long đều đang ra sức tranh giành, mà Nặc Nại lại là đại tướng quân của bộ này. Nghe Đại ca nói, vợ sắp cưới của y thuộc Thường Hy bộ, hình như còn có họ hàng với Yến Long, điều này rất bất lợi cho Thiếu Hạo, bởi vậy cuộc hôn nhân này có thành được hay không kể cũng khó nói…” Xương Ý sực nhận ra mình đã nhiều lời bèn cười cười vỗ đầu em gái, “Nghe lằng nhằng quá nhỉ? Thôi, không nói mấy chuyện chán ngắt đó nữa.”

Hóa ra là vậy, hèn chi Vân Tang nói chuyện nội bộ vương tộc rất phức tạp. A Hành chỉ thấy lòng nặng trĩu, trên tiệc Bàn Đào, Đại ca ra tay đánh bại Yến Long, thoạt nhìn có vẻ nghĩa khí, giành lại công bằng cho Thiếu Hạo, nhưng Hiên Viên thông gia cùng Thiếu Hạo, chung hưởng vinh nhục, biết đâu thứ mà Thanh Dương bảo vệ chính là lợi ích bản thân?

Thấy A Hành trầm ngâm hồi lâu, Xương Ý cười xoa dịu: “Mấy chuyện vớ vẩn đó muội nghe cho vui thôi, nghĩ nhiều mà làm gì.”

A Hành cũng cười theo, hỏi lảng sang chuyện khác: “Tứ ca, huynh đã để ý cô nào chưa?”

Xương Ý làm thinh không đáp nhưng mặt bỗng đỏ bừng lên rất đáng nghi.

Nhìn bộ dạng y, A Hành liền vỗ tay cười khanh khách khiến chim chóc trong rừng hoảng hốt bay lên rào rào.

“Người ta trông thế nào? Huynh đã thổ lộ với người ta chưa? Người ta có thích huynh không?”

Xương Ý nghiêm mặt mắng: “Con gái con đứa đừng có suốt ngày leo lẻo cái miệng nói thích với không thích.”

A Hành cười ngặt nghẽo, nhảy chân sáo mấy bước rồi khum tay làm loa, hô vang với cả núi rừng: “Ca ca ta có người trong mộng rồi!” Dứt lời nàng vội chạy vụt đi.

Tiếng vọng trong sơn cốc cứ vẳng đi vẳng lại, có người trong mộng rồi, có người trong mộng rồi… A Hành vừa cười khoái chí vừa nhăn mặt hề trêu Xương Ý, huynh không cho nói thì muội cứ nói đấy, huynh làm gì được nào?

Xương Ý không nỡ mắng, càng chẳng nỡ đánh em gái, đành nghiêm mặt đi thẳng.

A Hành chắp tay sau lưng, nghiêng đầu ngoẹo cổ cười hì hì bám theo sau Xương Ý, thấy y đã nguôi giận mới sán lại kéo tay áo nũng nịu: “Người ta trông thế nào? Liệu người ta có thích muội không?”

Xương Ý cười hiền, “Nhất định nàng sẽ thích muội. Nàng thường hỏi han sở thích của muội và Đại ca, cứ lo lắng chẳng biết hai người có ưa nàng không?”

A Hành níu lấy tay Xương Ý cười: “Miễn là huynh thích người ta thì muội cũng thích, muội sẽ kính yêu người ta như tỷ tỷ vậy.”

Xương Ý không đáp, chỉ giơ tay xoa đầu em gái, vò cho tóc nàng rối tung rồi chẳng đợi A Hành kịp phản ứng, y cười phá lên, chuồn thẳng.

A Hành chỉ biết tức tối vừa réo gọi vừa đuổi theo y.

Lang thang trong núi suốt một ngày trời chẳng bắt được con hươu nào, A Hành cùng Xương Ý vẫn hớn hở quay về, cười cười nói nói, người này xô kẻ kia đẩy, ầm ĩ cả lên.

Luy Tổ đang dùng trà cùng Thanh Dương trong Triêu Vân điện, chợt tiếng cười nói xôn xao của hai người từ xa đưa lại, phá vỡ cả bầu không khí yên lặng. Thấy Thanh Dương ngẩng lên nhìn mình, A Hành liền làm mặt hề với y rồi sán lại ngồi bên Luy Tổ, nũng nịu gọi “mẹ”, như thể ngầm ra vẻ: muội có mẹ bênh vực, không thèm sợ huynh!

Nàng vừa cười vừa mách: “Mẹ, nghe con kể bí mật này nè.”

Xương Ý lập tức đỏ mặt tía tai, “A Hành, không được nói!”

A Hành lờ tịt đi, “Mẹ, Tứ ca có…”

Xương Ý cuống quýt nhào tới toan bịt miệng nàng lại, A Hành vừa chạy vòng vòng quanh mẹ và Đại ca vừa cười khanh khách, mấy lần mở miệng đều bị Xương Ý đuổi đánh, linh lực nàng không bì được với y, rượt đuổi một hồi mệt lả cả người liền giở trò rúc ngay vào lòng mẹ trốn: “Mẹ, mẹ giúp con với, Tứ ca ỷ lớn ăn hiếp con.”

Luy Tổ vốn lạnh lùng nghiêm khắc cũng phải bật cười ôm con gái vào lòng mắng yêu: “Hai đứa bay nghịch như quỷ, vừa đến đã làm loạn cả điện Triêu Vân lên rồi.”

A Hành rúc vào lòng mẹ cười khúc khích, hai tay ôm lấy cổ bà, thì thầm nói nhỏ vào tai, vừa nói vừa lườm Xương Ý, mẹ nàng cũng nghiêng đầu vừa nghe vừa tủm tỉm cười.

Thấy mẹ lộ vẻ tươi cười, Xương Ý quên khuấy cả bắt A Hành, lúc này đây ánh mắt Luy Tổ chỉ chan hòa những vui mừng, chẳng bợn một tia u ám. Bất giác y ngoảnh sang nhìn Đại ca, thấy Thanh Dương cũng đang chăm chú nhìn mẹ và em gái, mặt thấp thoáng nét cười.

Xương Ý cốc cho A Hành một cái đau điếng: “Đồ hớt lẻo nhà muội, về sau đừng hòng ta kể cho nghe chuyện gì nữa nhé.”

A Hành lè lưỡi với Xương Ý, chẳng chút sợ hãi, trong khi Luy Tổ tươi cười nhìn con trai, “Con lựa lúc nào thích hợp dắt cô ấy đến gặp ta.” Nghĩ ngợi một lát, bà lại nói, “Như vậy không ổn, chúng ta là đằng trai, có lẽ nên tới thăm trước để tỏ ý tôn trọng nhà gái thì hơn, con xem chừng nào thích hợp để ta đích thân đi Nhược Thủy một chuyến, tới thăm cha mẹ cô ấy. Con trở về nhớ lưu tâm xem cha mẹ cô ấy thích ăn gì rồi viết thư cho ta biết để chuẩn bị cho tốt.”

Nhược Thủy là đất phong của Xương Ý, non xanh nước biếc, người dân thuần phác, người trong mộng của Xương Ý cũng là một cô gái Nhược Thủy tộc.

Xương Ý nghe nói liền đỏ mặt tía tai cúi đầu thấp khẽ đáp: “Bây giờ con và cô ấy mới chỉ là bạn bè bình thường thôi.”

Luy Tổ lắc đầu cười: “Con là đàn ông con trai, lẽ nào còn đợi cô nương nhà người ta thổ lộ trước ư? Đã có lòng với cô ấy thì mọi chuyện phải nghĩ cho cô ấy nhiều hơn nữa, đừng để lỡ làng tình cảm của người ta.”

“Dạ, con hiểu rồi.”

A Hành rúc trong lòng mẹ cười toe toét: “May mà mẹ nhắc nhở, bằng không cứ cái tính lề dề của Tứ ca, không làm cô nương nhà người ta sốt ruột đến chết thì cũng khiến tẩu tẩu tương lai của con phải đêm đêm thao thức dứt cánh hoa bói xem rốt cuộc Tứ ca có ý tứ gì với mình hay không!” Nói rồi A Hành vẫy tay, một đóa hoa trong bình bay tới, nàng bắt đầu làm bộ dứt cánh hoa bói, “Có tình ý, không có tình ý, có tình ý, không có tình ý…”

Xương Ý tức tối lại định cốc nàng, “Mẹ cũng phải bảo ban A Hành để nó biết tôn kính các ca ca chứ.”

Luy Tổ ôm con gái trong tay, nhìn Xương Ý rồi lại nhìn sang Thanh Dương, lòng mãn nguyện khôn xiết, bèn tươi cười quay sang bảo thị nữ: “Đem rượu cùng dâu lạnh mới hái ban ngày tới đây. Xương Ý và A Hành thích ăn thứ đó, nhớ mang nhiều vào, còn nữa, trong vò có bánh băng trà, đừng đem tới một lượt, cứ ăn hết rồi lại lấy thêm, Thanh Dương thích ăn đồ mới lấy ra kia.”

Đám thị nữ mau mắn dạ ran rồi thoăn thoắt đi lấy, chỉ trong chốc lát đã bưng tới.

A Hành ngồi tựa vào lòng mẹ tươi cười nhìn các anh, đoạn bốc một vốc dâu lạnh đưa lên miệng, thấy vị ngọt mát thấm vào tận ruột gan, nàng tủm tỉm cười thầm nghĩ, mình nhầm to rồi, điện Triêu Vân đâu có như trên Ngọc sơn!

Bốn mẹ con vừa uống rượu vừa nói chuyện nhà đến tận hết giờ Tý.

Thanh Dương sai Xương Ý đưa Luy Tổ về phòng còn mình phụ trách A Hành. Về tới cửa, A Hành cười tiễn khách: “Muội đi nghỉ đây, Đại ca cũng nghỉ ngơi đi.”

Nào ngờ Thanh Dương theo chân nàng vào phòng rồi xoay tay đóng cửa lại, như thể có chuyện cần nói.

A Hành than thầm trong bụng nhưng không dám lộ ra ngoài mặt, đành xốc lại tinh thần chuẩn bị nghe giáo huấn.

Thanh Dương thản nhiên hỏi: “Từ Ngọc sơn về, theo lý thì hôm qua đã đến rồi, sao sáng nay muội mới về tới?”

“Thiếu Hạo bị thương nên bọn muội về chậm mấy canh giờ.”

Đối diện ánh mắt lạnh lùng sắc sảo của Đại ca, A Hành biết mình không dối gạt nổi, đành nói tiếp: “Sau đó bọn muội cũng chưa lên đường ngay, còn chuyện phiếm một hồi nữa.” “Một hồi ư?”

“Một đêm ạ.”

Thanh Dương chợt bước tới bên song, nhìn ra rừng dâu ngoài cửa sổ, “Muội thấy Thiếu Hạo thế nào?”

Hồi sáng Tứ ca cũng đã hỏi qua nàng chuyện này, nhưng giờ nàng không thể trả lời Đại ca qua quýt như với Tứ ca được, đành trầm ngâm nghĩ cách đáp lại, tiếc rằng càng nghĩ càng bối rối.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 2-12-2013 11:10 AM
Chương 7


Một đời đẹp nhất khắc này thôi.


7.2


Thanh Dương đợi mãi không thấy em gái trả lời, có điều, như vậy cũng là một đáp án. Y khẽ cười, “Thiếu Hạo rất tốt, chỉ cần y muốn thì chẳng cô gái nào trên đời nỡ từ chối y đâu.” Mặt A Hành dần đỏ ửng lên, đột nhiên Thanh Dương quay lại nhìn nàng, nói tiếp, “Nhưng muội sẽ là người duy nhất trên đời phải từ chối y, muội không thể thích y được.”

A Hành quá đỗi ngạc nhiên, buột miệng hỏi: “Sao lại thế? Chẳng phải hai người là bạn thân ư?”

“Thanh Dương và Thiếu Hạo là bạn thân nhưng Hiên Viên Thanh Dương và Cao Tân Thiếu Hạo thì chưa chắc. Hẳn muội cũng biết phụ vương luôn ôm mộng thống nhất Trung nguyên, thậm chí là thống nhất cả thiên hạ, nói không chừng một ngày nào đó ta và Thiếu Hạo sẽ gặp nhau trên chiến trường, đôi bên đều phải dốc hết tinh lực dồn đối phương vào tử địa.” Thanh Dương vừa nói vừa mỉm cười hờ hững, tựa hồ đang kể một mẩu chuyện vu vơ kiểu “Ôi, e rằng mai thời tiết xấu” vậy.

Sắc hồng trên mặt A Hành tan dần, chuyển thành tái nhợt, “Nhưng muội vẫn phải lấy y, bởi vì muội là Hiên Viên Bạt, còn y là Cao Tân Thiếu Hạo.”

“Đúng, muội vẫn phải lấy y, thế nên điều duy nhất muội có thể làm là đừng động lòng trước y.” Thanh Dương hừ mũi, ánh mắt chợt lạnh buốt, “Ta ngỡ rằng Thiếu Hạo sẽ nể mặt ta mà hạ thủ lưu tình, nào ngờ y lại hao phí tâm tư cả một đêm vì muội.”

A Hành cúi đầu khẽ thanh minh: “Không liên quan tới y, là muội muốn hiểu y hơn nên chủ động làm thân thôi, biết y mê rượu, muội mới dốc sức mượn rượu để khơi gợi hứng thú trò chuyện của y.”

Thanh Dương bước đến gần nâng cằm em gái lên, nhìn sâu vào mắt nàng, nghiêm trang nói: “Muội ngàn vạn lần đừng làm chuyện dại dột như vậy nữa! Y là Cao Tân Thiếu Hạo, là Thiếu Hạo mà ngay cả ta còn phải kiêng dè! Chẳng phải lúc nào y cũng nể giao tình giữa ta và y mà nhân từ nhắc nhở bản thân không biến muội thành con cờ trong tay y đâu…”

A Hành bắt đầu rơm rớm nước mắt nhưng vẫn quật cường cắn môi nén khóc.

Thanh Dương nói tiếp: “Trong lòng ta và Thiếu Hạo đều có quá nhiều thứ, ví như nước nhà, thiên hạ, trách nhiệm, quyền lực… chẳng biết phải xếp phụ nữ vào đâu nữa. Thế nên, vì chính bản thân mình, muội cứ coi y như người dưng là tốt nhất.”

A Hành lạnh lùng giễu cợt: “Đúng là phải cảm tạ Đại ca đã nghĩ chu toàn cho muội đến vậy. Chẳng hay rốt cuộc huynh lo Thiếu Hạo biến muội thành quân cờ hay lo rằng muội không thể làm quân cờ cho huynh và phụ vương?”

Thanh Dương trầm ngâm hồi lâu mới đáp: “Dù muội có chấp nhận hay không thì đây cũng là sự thật, ai bảo muội mang họ Hiên Viên chứ?” Nói rồi y xô cửa đi thẳng.

A Hành uể oải tựa vào thành giường, lòng ngập những bi thương. Mẹ và Tứ ca luôn giữ nàng tránh xa mọi đấu tranh đen tối, chỉ mong sao nàng mãi mãi là một Tây Lăng Hành tự do tự tại, nhưng Đại ca lại không ngừng nhắc nhở từng giây từng phút rằng nàng họ Hiên Viên, tên Bạt, là vương cơ của Hiên Viên.

A Hành mệt nhoài dựa vào giường rồi mơ mơ màng màng thiếp đi, chẳng buồn cởi bỏ y phục, mãi đến khi những tiếng động bên ngoài khiến nàng bừng tỉnh, vội mở cửa hỏi thị nữ: “Sao ồn ào thế?”

“Bẩm vương cơ, nửa đêm có trộm lẻn vào điện Triêu Vân.” Thị nữ đáp mà vẻ mặt vẫn ngỡ ngàng như đang mê ngủ, tựa hồ còn chưa dám tin.

A Hành cũng vô cùng kinh ngạc, “Tên trộm này xui thật, ngày nào không tới, lại tới đúng hôm nay để dâng đầu dưới kiếm Đại ca, đúng là tự tìm đường chết mà!”

Thị nữ gật đầu, vẻ mặt đầy ngạc nhiên, “Phải ạ, đi ăn trộm cũng chẳng nên thân, sao hắn lại chọn đúng ngày thế chứ? Quả là gan to bằng trời!”

Gan to bằng trời ư? A Hành bỗng giật thót mình, vội hỏi, “Trông tên trộm đó thế nào?” “Tâu vương cơ, hắn đeo mặt nạ gỗ nên không trông rõ dung mạo.”

“Hắn đang ở đâu?”

“Ở Tả Sương điện, chỗ Đại điện hạ và Tứ điện hạ.”

Thấy A Hành tức tốc chạy ngay tới đó, thị nữ cuống quýt gọi với theo, “Xin vương cơ chậm lại một chút, điện hạ đã dặn bọn nô tỳ phải bảo vệ vương cơ.”

A Hành chạy thẳng một mạch tới Tả Sương điện, túm lấy một tên thị vệ hỏi thăm: “Kẻ trộm đâu rồi?”

Tên thị vệ vội đáp: “Tên trộm đó xông vào phòng của Tứ điện hạ, bắt giữ Tứ điện hạ.”

A Hành giận dữ mắng, “Đúng là khốn kiếp!”

Nghe nàng mắng mỏ, gã thị vệ liền quỳ xuống hốt hoảng van xin: “Thuộc hạ biết tội.”

Thấy vậy, A Hành mệt mỏi xua tay: “Không phải ta nói ngươi đâu.”

A Hành xông thẳng vào, thấy chỉ có mình Thanh Dương đứng khoanh tay giữa Tả Sương điện, vẻ mặt bình thản, nghe tiếng chân nàng, y liền nạt: “Ai cho muội vào? Ra ngay!”

A Hành liếc về phía phòng Tứ ca, thấy cửa đóng im ỉm, nàng toan dùng linh thức dò xét xem sao, có điều linh lực của nàng quá yếu, không vượt qua nổi cấm chế.

Thanh Dương đứng ngay trước cửa, chậm rãi rút trường kiếm, “Ta đếm đến ba, nếu ngươi tự mình bước ra, ta sẽ để ngươi chết toàn thây.”

Trong phòng liền vọng ra tiếng cười biếng nhác, “Ta đếm đến ba, nếu ngươi dám xông vào thì là đồ ba ba, nếu ngươi không dám xông vào thì là đồ rùa đen.”

Trên đời còn ai dám nói cái giọng đó với Hiên Viên Thanh Dương nữa? Tuy Xi Vưu đã thay đổi giọng nói nhưng khẩu khí này trừ hắn ra chẳng còn kẻ thứ hai nào cả. A Hành cắn môi nhìn Đại ca, thấy Thanh Dương vẫn bình thản, mặt không đổi sắc, hắn nhẹ nhàng vung kiếm lên, chẳng gây ra bất cứ tiếng động nào nhưng căn phòng trước mắt cứ nứt ra từng mảng rồi tan rã hệt như gỗ mục, chỉ trong nháy mắt, trước mặt Thanh Dương đã chẳng còn phòng ốc, chỉ còn trơ lại một mảnh đất trống.

Mặt đất phủ đầy cây cối vâm váp xanh um, lan mãi vào tận rừng dâu. Xương Ý bị treo lủng lẳng trên cành giữa lưng chừng trời, đầu gục xuống, cả người bê bết máu, tử khí tràn ngập xung quanh, chẳng chút sinh cơ.

“Tứ ca…” A Hành tan nát cả cõi lòng, thét lên một tiếng nhào tới.

Kiếm của Thanh Dương cũng run lên, tuy chỉ thoáng run rẩy nhưng Xi Vưu nấp sau đám cây đã chớp ngay được thời cơ ngàn năm có một đó, hắn dốc toàn lực nhảy bật lên, tay nắm chặt thanh đao đẫm máu, cười ha hả nói, “Thanh đao này đã giết chết đệ đệ ngươi đấy.”

Thanh Dương nổi giận vung kiếm, chỉ trong nháy mắt, cả đất trời phủ rợp kiếm quang loang loáng. Sau mười mấy chiêu, kiếm của Thanh Dương đã đâm vào ngực Xi Vưu, sát khí chạy thẳng vào tim, đúng lúc Xi Vưu sắp mất mạng, Thanh Dương chợt ngừng tay lại, truyền mấy tia linh lực vào tim Xi Vưu, khiến cả người hắn run bắn lên vì đau đớn.

Sắc mặt Xi Vưu tái nhợt nhưng chẳng hề tỏ vẻ sợ hãi, trái lại hắn còn gật đầu cười, “Thật không hổ là Hiên Viên Thanh Dương! Ta đã bố trí hết mê chướng này đến mê chướng khác nhằm chọc giận ngươi, chỉ mong ngươi nổi giận để lộ sơ hở, nào ngờ hết thảy đều vô ích, ngược lại còn mắc mưu ngươi, vừa nãy ngươi run tay là để gạt ta, để ta ngỡ rằng mình có cơ hội mà tự chui đầu vào miệng cọp chứ gì!”

Thanh Dương mỉm cười lạnh nhạt thốt: “Sao lại vô ích? Ta không giết ngươi đâu, để ngươi sống mà ăn năn.”

Xi Vưu nhếch miệng cười, mặt nạ gỗ chỉ che được nửa trên mặt, vừa cười đã lộ ra hàm răng trắng bóng, hắn nhơn nhơn nói, như thể kẻ ngực bị kiếm đâm, tim bị kiếm khí bóp nghẹt kia chẳng liên quan gì tới mình, “Vậy chắc ngươi đã phạm phải sai lầm lớn rồi.”

Đột nhiên hắn vung đao lên dụng lực chém một đao, ngọn đao mang theo lực đạo sấm sét, lấp loáng như sao băng chém xuống, nhưng mục tiêu chẳng phải Thanh Dương mà lại là chính bản thân hắn.

Thanh Dương thoáng sững người, tới chừng y kịp định thần lại thì đã muộn, lưỡi đao đã chém vào ngực Xi Vưu, chặt gãy thanh kiếm của y, đổi lại Xi Vưu cũng phải trả giá đắt, từ một vết kiếm thương trên ngực giờ lại thành một vành trăng non kéo dài từ ngực xuống bụng, máu phun như suối.

Trong tiếng cười khanh khách, Xi Vưu tung mình nhảy vào rừng dâu, nhanh chóng khuất sau ngàn dâu xanh ngắt.

Thanh Dương cầm thanh kiếm gãy đuổi theo, nhưng trong rừng cây lá dập dờn, khuất trời rợp đất, chẳng nhìn thấy gì cả, y đành dừng bước cao giọng nói, “Nể tình ngươi gan dạ như vậy, ta sẽ chôn cất ngươi tử tế.”

Chẳng nghe tiếng đáp, chỉ có lá dâu rợp trời xào xạc.

Thanh Dương giơ thanh kiếm gãy lên soi dưới ánh trăng vằng vặc, thanh kiếm này đã theo y cả ngàn năm, nào ngờ đêm nay lại bị hủy. Thanh Dương thu kiếm quay lại, trông thấy A Hành đang ngồi bệt dưới đất, ôm trong tay tấm thân bất động bê bết máu của Xương Ý.

A Hành kinh hoàng trân trân nhìn về phía trước, tròng mắt đờ dại.

Thanh Dương vội bước lại ngồi xuống bên cạnh, vỗ về nàng, “Không sao cả, muội đừng sợ, Xương Ý không bị thương thật đâu, đó chỉ là mê chướng mà tên trộm tạo ra để chọc giận ta thôi.” Thanh Dương chỉ phẩy tay qua người Xương Ý, lập tức máu me trên mình y đều biến mất.

Bấy giờ máu huyết trong người A Hành dường như mới lưu thông trở lại, nàng buột miệng “A, a…” mấy tiếng, cả người run bần bật, không cất nổi thành lời, nước mắt lã chã, thình lình nàng vung tay đấm Thanh Dương một quyền.

Thanh Dương không hề tránh né, vừa nãy y biết rõ Xương Ý còn sống nhưng vẫn để mặc A Hành đau đớn chết cả cõi lòng, chẳng khác nào gián tiếp lợi dụng nàng dẫn dụ kẻ địch.

Xương Ý mơ màng mở mắt hỏi, “Sao thế?”

Thanh Dương chạy thẳng vào rừng dâu, nói vọng lại, “Xương Ý, đệ đưa A Hành về Hữu Sương điện nghỉ ngơi. Tên trộm kia bị thương rất nặng, hắn đã liều chết phá cấm chế ở Triêu Vân điệu bỏ chạy rồi, nhưng ta vẫn phải đi kiểm tra một vòng xem sao.” Vừa dứt lời, y đã mất dạng.

Thấy A Hành vẫn khóc lóc thảm thiết, Xương Ý chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì, chỉ biết ôm lấy muội muội dỗ dành: “Không sao đâu, đừng khóc, nín đi. Không sao mà, muội ngoan nào…”

A Hành cứ khóc hoài khóc mãi, đột nhiên ngẩng lên hỏi: “Vừa rồi đại ca nói gì thế?”

Xương Ý đáp: “Đại ca bảo phải tra xét một vòng xem sao.”

Nghe vậy A Hành lập tức đứng phắt dậy, vén quần định chạy, Xương Ý vội đuổi theo sau: “Muội định làm gì?”

A Hành khựng lại, cúi đầu nghĩ ngợi rồi lên tiếng: “Chúng ta về nghỉ ngơi đi.”

Xương Ý lẩm bẩm một mình: “Tên trộm này cả gan xông vào tận Triêu Vân điện, vậy mà lại thoát được tay Đại ca, hẳn chẳng phải phường vô danh tiểu tốt, nhưng kẻ nào làm ra chuyện này mới được chứ? Trên Triêu Vân phong đâu có báu vật gì đâu.” Về tới phòng mình, A Hành rút Trụ Nhan hoa ra, biến thành một cành đào cắm vào bình. Đoạn nàng để nguyên quần áo nằm xuống giường ngủ tiếp.

Chỉ lát sau đã nghe thấy tiếng cửa sổ lạch cạch rồi một bóng người lần tới bên giường. A Hành bật ngay dậy, chủy thủ trên tay kề vào cổ kẻ đột nhập.

Xi Vưu gỡ mặt nạ ra, để lộ gương mặt tái nhợt, nụ cười nhơn nhơn vẫn nguyên vẹn trên môi.

A Hành căm hận vẻ nhơn nhơn này của hắn khôn xiết, bèn ấn chủy thủ vào thêm mấy phân để lưỡi dao đâm vào da thịt hắn, máu ri rỉ ứa ra, “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì đây?”

“Ta tới gặp cô mà!”

A Hành đâm sâu thêm một phân, máu tươi nhỏ xuống, “Sao không đàng hoàng cầu kiến mà nửa đêm nửa hôm lại xông vào Triêu Vân điện?”

“Nếu ta trực tiếp cầu kiến Hiên Viên Bạt, liệu Hiên Viên Bạt có chịu gặp ta không? Mẫu hậu của Hiên Viên Bạt chịu cho phép ta lên núi sao? Hơn nữa, người ta muốn gặp là Tây Lăng Hành chứ không phải Hiên Viên Bạt.” Xi Vưu nắm lấy bàn tay cầm chủy thủ của nàng, “Cô muốn làm Tây Lăng Hành hơn phải không?”

A Hành không đáp, chỉ có bàn tay từ từ lỏng ra, thanh chủy thủ rơi xuống chân Xi Vưu, hắn cười cười liếc nàng, “Thế này càng hay, ta chẳng những xông vào Triêu Vân điện mà còn xông cả vào khuê phòng của cô nữa. Vợ yêu, nếu cô chịu để ta ôm cô nằm xuống giường một lát, coi như ta đi không uổng chuyến này.”

A Hành giận đến nỗi chỉ muốn đập chết hắn, nghiến răng nghiến lợi đáp: “Cũng phải xem ngươi còn mạng mà nằm không!”

Đột nhiên bên ngoài vang lên tiếng trò chuyện, là giọng của Xương Ý: “Đại ca, huynh tìm thấy rồi à?”

A Hành hốt hoảng đẩy Xi Vưu vào giường, buông màn xuống rồi trùm chăn che kín người hắn đoạn áp mình vào khe rèm, dỏng tai nghe ngóng, căng thẳng nhìn chằm chằm cánh cửa.

“Chưa thấy. Tên trộm này hình như từng lớn lên giữa núi rừng như dã thú, hoặc đã được huấn luyện đặc biệt như dã thú nên rất giỏi che giấu tung tích, có điều ta luôn cảm thấy hắn chỉ ở quanh đây chứ chưa chạy xa được, đệ mau dẫn thị vệ lục soát kỹ Triêu Vân điện một lần xem. Phải tra xét tất cả phòng ốc.”

Chỉ nghe Xương Ý đáp “dạ”, sau đó tiếng trò chuyện ngưng bặt.

Tim A Hành nhảy thót lên tới cổ họng bấy giờ mới trôi trở xuống, nàng vừa ôm ngực quay lại đã thấy Xi Vưu gối bằng gối của mình, ôm chăn của mình, toe toét cười còn đắc ý hơn cả cáo bắt được gà.

A Hành chỉ muốn cho Xi Vưu một bạt tai để hắn dẹp nụ cười đó đi.

Xi Vưu chớt nhả: “Giường cũng nằm rồi, chỉ thiếu chưa ôm được cô thôi.”

A Hành cười nhạt: “Ngươi đừng mơ!”

“Mơ á?” Xi Vưu cười toe toét, chớp chớp mắt nhìn A Hành khiến nàng sởn cả gai ốc, đang định nghiêm khắc cảnh cáo hắn không được làm bậy thì nghe thấy tiếng chân gấp gáp bên ngoài, rồi tiếng đập cửa ầm ầm của Xương Ý: “A Hành, A Hành…”

A Hành vội lên tiếng: “Sao thế? Muội ở đây!”

Xương Ý hỏi: “Huynh cảm thấy trong phòng muội có một luồng linh khí lạ, muội không sao chứ?”

“Muội có sao đâu.”

Xương Ý đời nào chịu tin, đột ngột đẩy cửa xông vào, A Hành thấy vậy lập tức chui ngay vào chăn, tiện tay ấn luôn đầu Xi Vưu xuống, hắn liền thừa cơ ôm chầm lấy nàng.

A Hành nào dám vùng vẫy, chỉ biết rủa thầm trong bụng, nàng vén màn lên, làm bộ ngái ngủ nhìn Xương Ý: “Tứ ca, rốt cuộc làm sao thế?”

Xương Ý nhắm nghiền mắt, dùng linh thức rà soát kỹ một hồi rồi nghi hoặc lắc đầu, “Không sao, có lẽ cảm giác của ta nhầm.”

A Hành vừa thở phào nhẹ nhõm đã bị Xương Ý nhìn chằm chằm, hỏi: “Mọi khi muội thích góp vui lắm kia mà, sao hôm nay lại ngoan ngoãn hiền hòa thế?” A

Hành cười trừ, cố giữ vẻ thản nhiên đáp, “Muội mệt quá đó mà! Tứ ca, hay là huynh ngồi đây với muội một lát đi?”

Nàng ngỡ rằng Tứ ca nhận lệnh của Đại ca, nhất định sẽ nôn nóng hoàn thành nhiệm vụ, nào ngờ Xương Ý lại ngồi xuống thật, còn vẫy tay ra hiệu cho thị vệ lui ra.

Y cứ lặng lẽ nhìn A Hành, dần dần khiến nàng tắt hẳn nụ cười.

Xương Ý khẽ hỏi: “Muội muốn ta ở lại đây với muội thật sao?”

A Hành cắn môi lắc đầu.

“Muội có hiểu mình đang làm gì không đấy?”

A Hành nghĩ ngợi rồi gật đầu.

Xương Ý thở dài, “Ta lục soát hết Triêu Vân điện sẽ dẫn tất cả thị vệ tập trung lục soát trong rừng dâu.”

Thấy Xương Ý đứng dậy toan cất bước, A Hành vội phân trần, “Tứ ca, muội chỉ là… hắn không có ý xấu, cũng không muốn đả thương huynh đâu…”

Xương Ý ngoảnh lại nhìn nàng, “Ta biết. Dù muội làm gì đi nữa, ta cũng sẽ giúp đỡ muội, ai bảo muội là muội muội của ta chứ?” Dứt lời y liền bước ra ngoài, còn cẩn thận khép cửa phòng lại.

Chỉ đợi có vậy, A Hành lập tức tung chăn nhảy xuống giường, Xi Vưu cười hì hì nhìn nàng, vẻ mặt đầy đắc ý.

Lúc này đây A Hành chẳng hơi đâu mà nổi giận với hắn nữa, nàng chỉ muốn tống khứ tên ôn thần không biết sống chết này đi cho mau.

Nàng vừa gói ghém tay nải vừa dặn: “Chúng ta đợi đám thị vệ vào rừng rồi xuống núi, có Tứ ca yểm trợ, tốt nhất là ngươi đừng sinh sự nữa, may mà vừa nãy là Tứ ca ta, nếu là Đại ca thì ngươi chỉ còn đường chết thôi!”

A Hành gói ghém xong tay nải bèn viết vội một bức thư để lại cho mẹ, thưa rằng mình nhân lúc tối trời đã xuống núi luôn. Nàng cũng không dám chắc sẽ qua mặt được vị Đại ca tinh minh mẫn tiệp của mình, chi bằng chuồn trước để giữ mạng còn hơn.

Thấy mọi sự đã sẵn sàng, nàng quay sang hỏi gã Xi Vưu đang nằm ườn trên giường: “Chúng ta đi thôi, linh lực của ngươi còn đủ chứ? Liệu có che giấu được khí tức của mình không?”

Xi Vưu gật đầu: “Chỉ cần cách Đại ca cô hơn ba trượng và thời gian không quá lâu thì không vấn đề gì.” A

Hành đáp: “Vậy ngươi đành cầu trời phù hộ thôi!”

Tuy cấm chế ngoài Triêu Vân điện rất lợi hại nhưng chẳng có tác dụng gì với A Hành, nàng dẫn Xi Vưu ra khỏi điện êm thấm, hai người men theo đường mòn mà chỉ mình nàng cùng Tứ ca biết để xuống núi.

Đi được nửa đường, đột nhiên một con thú lớn đen trùi trũi ở đâu xông ra, lao thẳng về phía A Hành, nàng giật thót mình, đang định nấp thì nhận ra A Tệ, bèn mừng rỡ ôm lấy nó hôn chùn chụt mấy cái, “A Tệ, mày đến đúng lúc quá, chở chúng ta xuống núi đi.”

A Tệ cọ cọ vào má A Hành, khẽ gừ gừ hớn hở.

Liệt Dương ngạo nghễ đậu trên cành nhìn xuống, thấy A Tệ nũng nịu như trẻ nhỏ, không giấu vẻ khinh miệt.

Liệt Dương bay trước dẫn đường, A Tệ cõng hai người bay xa khỏi Hiên Viên sơn.

Xi Vưu đắc ý bảo A Hành: “A Hành, rốt cuộc cô vẫn xuống núi cùng ta.”

Nàng lạnh lùng đáp: “Nể tình ngươi bị thương nên ta tiễn ngươi một đoạn thôi, sáng sớm mai chúng ta đường ai nấy đi.”

Bỗng nhiên nàng có cảm giác không ổn, thấy linh lực của Xi Vưu đột ngột tiết ra ngoài, nàng vội túm lấy tay hắn: “Ngươi đừng giấu nữa, nói thật cho ta nghe vết thương của ngươi sao rồi? Thua trong tay Hiên Viên Thanh Dương có gì mà mất mặt, cả đám cao thủ Thần tộc trên đại hoang chắc chỉ mình ngươi có thể thoát chết dưới kiếm của Đại ca thôi.”

Xi Vưu đăm đăm nhìn nàng khẽ nói, như thầm thì, như than thở: “A Hành, ta không để cô lấy Thiếu Hạo đâu!” Nói rồi hắn nhoẻn miệng cười mãn nguyện, hệt như đứa trẻ giành được cây kẹo mình ao ước bấy lâu chẳng màng gì đến hậu quả sẽ bị sâu răng, cứ thế mà ngất đi trong lòng A Hành, nụ cười vẫn còn đọng trên môi.

Lúc hôn mê, trông Xi Vưu chẳng còn vẻ ngông nghênh tùy tiện hôm qua nữa, thay vào đó là nụ cười thực sự mãn nguyện, nụ cười ấy hầu như rất hiếm thấy ở những nam tử thành niên, bởi con người ta càng trưởng thành thì càng nhiều ham muốn, chỉ có những đứa trẻ thuần khiết thẳng thắn mới dễ dàng thỏa mãn mà thôi.

Trời khuya tối đen như mực, chỉ có vầng trăng tròn vành vạnh dịu dàng lơ lửng giữa tầng không, cả đất trời nhuốm đầy vẻ mỹ lệ mà tĩnh lặng, đôi cánh rộng của A Tệ dập dờn lặng lẽ, tư thế bay vô cùng ưu nhã, hệt như một con hồ ly lớn đang vờn múa dưới ánh trăng. A Tệ chở theo Xi Vưu và A Hành băng qua mây mù, vượt trên sao sáng bay về phía cuối trời, trong khi đó, A Hành vẫn đang hoang mang bối rối, chẳng biết bọn họ nên đi đâu về đâu.

Hết chương 7.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 2-12-2013 11:28 AM
Chương 8


Cây cao mây quấn mãi chẳng rời.


8.1


Chẳng hiểu sao hình bóng Xi Vưu lại hiện ra trước mắt nàng, hắn đã lớn lên giữa một vùng non nước thế này ư? Liệu hắn có biết đánh cá không? Hắn cũng biết hát những khúc sơn ca lanh lảnh mà tình tứ như vậy sao? Hắn đã từng hát cho ai nghe chưa nhỉ…  


Suốt đêm A Hành không sao chợp mắt, mãi đến gần sáng mới mệt quá ngủ thiếp đi, khi tỉnh dậy, nàng thấy mặt trời ngả về Tây, A Tệ đã đỗ xuống một sơn cốc tự lúc nào.

Nàng trở mình ngồi dậy, giơ tay chạm vào Xi Vưu bên cạnh, thấy người hắn nóng hầm hập, vết thương đã trở nên nặng thêm.

Nhìn quanh bốn bề đều là núi đồi trùng trùng điệp điệp xanh mướt một màu, A Hành ngỡ ngàng hỏi Liệt Dương đang đậu trên cành: “Xi Vưu có nói với mày là đi đâu không? Hay là mày lạc đường?”

Bị A Hành vặn hỏi, Liệt Dương vô cùng bực bội, bèn giơ một cánh lên hùng hổ ra hiệu với nàng rồi quay ngoắt đi.

A Hành lòng như lửa đốt, nàng không biết y thuật nên nhất định phải tìm một người hiểu y thuật để chẩn trị cho Xi Vưu, đột nhiên nghe loáng thoáng đằng xa có tiếng động, nàng bèn lại đó xem sao.

A Hành đi trước, A Tệ cõng Xi Vưu theo sau, còn Liệt Dương nghênh ngang đậu trên đầu A Tệ.

Vòng qua một khe núi, đột nhiên trước mắt nàng bừng sáng.

Một dòng sông rộng từ sơn cốc uốn mình chảy ra, đôi dải núi xanh bên bờ trải dài bất tận, ráng chiều rơi rớt chênh chếch rọi lại từ sườn núi thấp bên kia, nhuộm đỏ ối ngọn núi đối diện. Gió thổi xào xạc lá cây, cả ngọn núi đều lấp lánh ánh vàng.

Mặt nước mênh mông ngập đầy ráng chiều lấp loáng, mấy người dân chài đang chống thuyền giữa dòng đánh cá, vung mạnh tay tung tấm lưới lấp lánh ánh bạc lên cao, tấm lưới từ từ buông xuống dòng sông, rõ ràng chỉ là tấm lưới gai thông thường, vậy mà lúc này lung linh ánh bạc hòa cùng ráng vàng lấp loáng trên mặt sông, khiến người khác trông vào mà hoa cả mắt, còn đẹp hơn cả tơ Nguyệt Quang mà mẹ nàng dệt nữa.

Đám dân chài hô vang một tiếng, vừa hò dô vừa chung tay kéo lưới lên, cá trong lưới đua nhau búng khỏi mặt nước, quẫy đuôi uốn mình trên không làm nước bắn tung tóe, ráng chiều phản chiếu khiến cả mặt sông lung linh bảy sắc cầu vồng.

Vất vả bận bịu đến thế, mà cũng tràn đầy sức sống, sôi động nhường kia.

A Hành dừng sững lại, ngây người ra nhìn.

Nhìn bầy cá nhảy tanh tách, đám dân chài thảy đều mừng rỡ, một gã thanh niên vừa ra sức kéo lưới vừa cao giọng hát vang, tiếng ca ồm ồm mà phóng khoáng lan đi thật xa trong sơn cốc.

“Ơ… Trời ngả bóng, cá đầy khoang,

Ca vang ướm ý cô nàng xem sao?

Non cao nước đổ rì rào,

Cây cao tán rộng lao xao ong về.

Này cô em hái dâu kia,

Đeo gùi hái khắp bốn bề núi non,

Em yêu ơi có biết không,

Nhớ em ta những héo hon dạ này…”


Gã đánh cá còn chưa dứt lời đã nghe một giọng nữ lanh lảnh từ trên núi đưa sang.

“Chàng là cây lớn đỉnh non,

Em dây mây vấn vít sườn núi xanh,

Chàng cao em thấp vẫn tình,

Níu chân quấn quýt quanh mình chàng ơi,

Chừng nào chàng mệt rã rời,

Thời em đây mới buông lơi cho chàng…”


Núi rừng cách trở nên không trông thấy cô gái đâu cả, nhưng tình cảm nồng nàn như lửa mà cô giấu trong giọng hát đã lan theo tiếng ca trên núi đưa xuống, làm rạo rực cả mặt sông.

Đám dân chài cười rộ lên, gã trai vừa cất tiếng đắc ý khoái trá ra mặt.

“Chàng cao em thấp vẫn tình, níu chân quấn quýt quanh mình chàng ơi, chừng nào chàng mệt rã rời, thời em đây mới buông lơi cho chàng…” A Hành nghĩ một lát mới hiểu ra ẩn ý trong lời ca, liền đỏ mặt tía tai vì ngượng, đây là lần đầu tiên nàng thấy người ta ngang nhiên bày tỏ chuyện nam nữ thế này.

Thấy dân tình nguyên sơ thuần phác lại nhiệt tình thẳng thắn như vậy, nàng đã lờ mờ đoán ra mình đang ở đâu. Nghe đồn có một dải man hoang không theo giáo hóa, người trên đại hoang vẫn gọi là Cửu Lê, núi non ở đó rất cao, sông nước rất đẹp, thanh niên nơi đó đều cường tráng như non cao, thiếu nữ lại mỹ lệ như nước mát.

A Hành quay sang dặn A Tệ mấy câu để nó cõng Xi Vưu lánh đi, còn nàng men theo con đường mòn lên núi trong tiếng ca lảnh lót.

Trên sườn núi lúp xúp những nếp nhà sàn, lưng tựa vào núi, mặt quay ra sông, tầng trệt để lùa gia súc vào trú mưa tránh gió, còn tầng hai làm chỗ ở, có cả sân thượng nhô ra để trồng hoa cỏ hay phơi lưới. Bây giờ đang là lúc mọi người về nhà sau một ngày làm việc, khói bếp bắt đầu lững lờ bốc lên trên những nếp nhà.

Thấy A Hành ăn vận khác hẳn mọi người, ông lão dắt trâu nheo mắt cười quan sát nàng, chú nhỏ lấy rau lợn cũng cười hì hì liếc trộm nàng.

Ông lão râu bạc vai vác cuốc, tay dắt trâu còn cười cười hỏi nàng: “Cô nương là người nơi khác đến phải không?”

A Hành cũng gật đầu cười hỏi: “Nơi đây là Cửu Lê ư?”

Ông lão cười ha hả, “Đây là nơi ông bà tổ tiên ta đã sống hết đời này sang đời khác, bản này tên gọi Đứa Ngõa, có điều nghe nói người ngoài gọi chung cả trăm ngọn núi ở đây là Cửu Di hay Cửu Lê gì đó, cô nương tới đây là để…”

“Cháu nghe nói trong vùng rừng núi Cửu Lê có rất nhiều loại thảo dược nên tới đây tìm hái vài thứ đấy thôi.” Vùng man hoang này rất hiếm dấu chân người lai vãng, A Hành không muốn gây chú ý, đành giả làm người hái thuốc, thân phận tốt nhất dành cho những kẻ lãng du đây đó.

Ông lão nhiệt tình nói, “Cô nương chưa tìm được chỗ nghỉ ư? Con trai cùng cháu nội lão vào núi đi săn rồi, trong nhà có phòng trống, nếu cần cô cứ ghé nhà lão nghỉ chân.”

A Hành cười đáp lễ: “Tốt quá rồi, cảm ơn… cụ ạ.”

Ông lão nào hay A Hành đã sống mấy trăm năm, nghe nàng lễ phép xưng hô liền tươi cười lộ vẻ hài lòng, dắt nàng về nhà. “Đây là Mễ Đóa, cháu gái lão, năm nay mới mười mấy tuổi thôi, không biết hai người ai nhiều tuổi hơn ai?” Ông lão ngồi xổm bên bếp lửa, vừa đun nước vừa cười cười quan sát nàng cùng Mễ Đóa.

A Hành vội đáp: “Cháu lớn hơn, cháu lớn hơn.”

Mễ Đóa đã nấu cơm xong lại thấy có khách đến nhà, liền vội vã đi ra ngoài, chỉ lát sau đã xách một chú cá tươi rói trở về.

A Hành cười cười, lựa lời hỏi thăm ông lão: “Chẳng hay ai quản lý việc trong cả bản? Có ai biết chữa bệnh không cụ?”

“Các bản đều chọn ra trưởng bản, muốn chữa bệnh thì đi cầu Vu sư, cả trăm sơn bản chúng ta ở đây mà các người gọi là Cửu Lê đó, đều mời Vu sư đến xem bệnh, thường thường muốn biết khi nào nên gieo hạt, lúc nào nên đi săn, chừng nào phải tế trời, trưởng bản đều đi hỏi Vu sư.”

“Thế ai chữa bệnh mát tay nhất?”

“Dĩ nhiên là Vu vương tinh thông bách nghệ chứ còn ai.” Ông lão vừa nói vừa đặt tay lên ngực, cúi đầu thật thấp, vô cùng cung kính và thành khẩn.

“Cháu muốn gặp Vu vương có được không?”

Nghe nàng hỏi, ông lão lộ vẻ áy náy: “E rằng không được đâu, nhưng lão có thể đi hỏi giùm cô.”

“Cụ biết Vu vương ở đâu ư?”

“Thường ngày Vu vương sống ở một bản khác, gọi là bản Xi Vưu, trong bản Xi Vưu có Tế Thiên đài, Vu vương phải bảo vệ thánh địa của chúng ta.”

“Bản Xi Vưu ư?”

Ông lão bật cười, vẻ mặt đầy kiêu hãnh: “Xi Vưu là đại anh hùng của tộc ta, nghe nói mấy trăm năm trước ngài đã cứu tất cả người trong tộc, thế nên bản vốn mang tên khác đã đổi thành bản Xi Vưu để tưởng niệm ngài.”

A Hành lại hỏi tiếp: “Bản Xi Vưu ở đâu thế ạ?”

Nghe nàng hỏi, ông lão liền cầm que cời lò vừa vẽ lên mặt đất vừa miêu tả bản Xi Vưu nằm trên ngọn núi nào.

A Hành nghe xong bèn tươi cười đứng dậy từ biệt ông lão.

Như đoán được ý định của nàng, ông lão bèn khuyên giải: “Lão nói cô nghe, bản Xi Vưu ở xa lắm, phải băng qua mấy ngọn núi nữa kia, cô cứ ăn uống rồi ngủ một giấc, sáng mai chúng ta dậy sớm chuẩn bị lương khô, lão sẽ dẫn cô đi.”

Mễ Đóa đứng ở cửa bếp vừa chùi tay vào áo vừa nhìn A Hành, có thể thấp thoáng thấy đồ ăn thịnh soạn bày đầy trong bếp, đối với một gia đình miền núi, thế này đã là dốc cả nhà cả cửa ra thết đãi rồi.

A Hành vội phân trần: “Thật không dám giấu, cháu có việc gấp phải đi một lát, mọi người cứ ăn trước đi, để phần cơm cho cháu là được, tối nay nhất định cháu sẽ về ăn cơm Mễ Đóa muội muội làm.”

Ông lão cười nói: “Vậy được, lão sẽ hâm mấy vò Ca tửu[1] đợi cô về.”

[1] Người Miêu tôn tộc Cửu Di của Xi Vưu là tổ tiên. Mỗi năm vào tháng Bảy Âm lịch, các phụ nữ trong bản người Miêu đều hái bảy loại thảo dược mà tổ tiên truyền lại đem ủ trong những chiếc cối giã gạo đặc biệt cho lên men, đến khoảng mùng chín tháng Chín lại dùng nếp trắng và nếp đen cất thành rượu, tiếng Miêu gọi là Ca tửu.


A Hành gật đầu tỏ ý cảm tạ.

Vừa ra khỏi nhà ông lão, nàng đã thấy Liệt Dương bay vù đến như chớp, luôn miệng kêu quang quác. A Hành cả kinh, nếu không có chuyện gì, Liệt Dương ắt chẳng thể cuống cuồng như thế, nghĩ vậy, nàng vội theo Liệt Dương bay đi.

Thoạt trông thấy nàng, A Tệ cũng cuống quýt chạy lại. A Hành đỡ Xi Vưu dậy, thấy mặt hắn tím tái, cả người lạnh ngắt, trong không khí thoang thoảng mùi hương kỳ dị. Nàng bèn vạch áo hắn ra, thấy vết thương đã đen bầm lại, mùi hương càng nồng nặc hơn.

Dẫu mù mờ về y thuật thế nào, A Hành cũng biết vết thương không thể bám đen, càng không thể tỏa hương nức mũi như vậy. Triệu chứng này chỉ có thể là trúng độc.

Vận linh lực thăm dò mạch tượng của Xi Vưu, A Hành lại phát hiện linh thể của hắn cũng đã bị ảnh hưởng, nàng hốt hoảng đến nỗi ngã sụp xuống đất.

Không thể là Đại ca hạ độc, tuy Đại ca tàn nhẫn nhưng tính rất kiêu ngạo, không đời nào thèm dùng tới cách này. Kẻ có thể hạ độc Xi Vưu chỉ có thể là người bên cạnh hắn. Nghe Vân Tang nói mấy chục năm nay, Viêm Đế rất coi trọng Xi Vưu, chuyện lớn chuyện nhỏ gì cũng cho hắn tham dự, lần này lên Ngọc sơn cũng vậy, rõ ràng Vân Tang ở đó nhưng lại để Xi Vưu xử lý chính sự, đương nhiên hắn sẽ bị rơi vào thế một vai gánh lấy sơn hà. Tuy A Hành tâm tính đơn thuần nhưng từ nhỏ lớn lên trong vương tộc, nàng thừa hiểu nếu cứ tiếp diễn như vậy, tính tình quật cường của Xi Vưu nhất định sẽ đe dọa tới quyền thế lợi ích của kẻ khác, vì xung đột quyền lợi dẫn tới hãm hại ám sát là chuyện thường.

Kẻ nào muốn diệt trừ Xi Vưu nhỉ? Là Chúc Dung ư? Hay Du Võng? Cộng Công… Hay tất cả bọn họ đều góp phần?

A Hành chẳng dám nghĩ tiếp nữa, lời cảnh cáo của Đại ca vẫn còn văng vẳng bên tai, phụ vương luôn muốn xưng bá Trung nguyên, nàng tuyệt đối không thể bị cuốn vào cuộc đấu tranh nội bộ của Thần Nông tộc.

Nghĩ vậy, nàng đành ôm lấy Xi Vưu ngồi lên lưng A Tệ, “Chúng ta đi thôi.”

Nhá nhem tối, nàng tới bản Xi Vưu.

Vừa bước vào bản, nàng đã hiểu tại sao nơi đây được chọn để đặt Tế Thiên đài, nếu coi hơn trăm ngọn núi của tộc Cửu Lê như những đốt sống của một con rồng thì chỗ này chính là đầu rồng, nơi hội tụ linh khí.

Chẳng cần phí công hỏi thăm chỗ ở của Vu vương, A Hành đã thấy một căn nhà xây toàn bằng đá trắng nổi bật giữa tất cả nhà sàn bằng tre nứa trong bản, hệt như một thành trì trấn giữ đỉnh núi dồi dào linh khí bậc nhất này.

Nàng bèn đi thẳng tới trước cửa căn nhà bằng đá trắng.

Mấy thiếu niên đang tíu tít trong sân đều để trần cánh tay, bên dưới mặc quần ống rộng, đi chân đất. Trông thấy A Hành, họ tò mò dán mắt vào nàng, chẳng hề e ngại bản thân ăn mặc lôi thôi.

Một gã thanh niên chừng hơn hai mươi tuổi bước ra, “Cô hỏi ai?”

A Hành hành lễ với hắn, “Ta tới xin gặp Vu vương.”

Gã thanh niên nhìn nàng, thầm cảnh giác, “Vu vương không gặp người ngoài đâu.”

“Ta tới xin chữa bệnh.”

Gã trai bật cười, “Những kẻ từ nơi khác đến như các người, hễ nhắc tới chúng ta chỉ gọi là dã nhân, còn chẳng buồn kêu cái tên Cửu Di hàm ý khinh miệt kia nữa, đám dã nhân chúng ta ở đây làm sao biết y thuật gì được? Mời cô về đi thôi!”

A Hành biết các Vu sư ở đây khác hẳn những người dân cả đời quẩn quanh trong bản, rất có thể họ đã từng đi ra ngoài nên hiểu chuyện, chính vì hiểu lại càng đề phòng hơn.

Nàng bất đắc dĩ nói, “Ta nhất định phải gặp Vu vương, đành mạo phạm vậy!” Nói rồi, A Hành lướt qua gã thanh niên kia hệt như một con chạch, xông thẳng vào sân, chẳng đợi bọn họ kịp phản ứng, nàng đã cắm đầu chạy dọc theo con đường lát đá trắng.

“Bắt cô ta, mau bắt cô ta lại.”

Mặc cho cả đám người đuổi sau lưng, lại thêm bao nhiêu kẻ từ trong nhà ùn ùn xông ra chặn đường, A Hành vẫn nhanh nhẹn như một chú hươu non, né được hết mọi sự truy bắt, chạy thẳng tới hậu sơn, tại đây nàng trông thấy một đài tế trắng toát đứng sừng sững mộc mạc mà trang nghiêm.

A Hành chạy thẳng một mạch lên đài tế rồi nhoẻn cười ngoảnh lại nhìn, thấy tất cả Vu sư đều dừng lại không dám bước lên đài. Đây là thánh địa để tế trời đất, ngay đến Vu sư cũng chưa chắc đủ tư cách tiến vào.

Mặc bọn họ giận dữ trừng mắt nhìn mình, A Hành chỉ khoanh tay tủm tỉm hỏi: “Liệu bây giờ Vu vương có chịu gặp ta không đây?”

Một lão già râu tóc bạc phơ chống gậy bước tới, ánh mắt toát lên vẻ kiên định mà thông tuệ, “Cô nương, chúng ta kính sợ trời đất không phải vì ngu muội dốt nát, mà bởi chúng ta tin rằng con người phải có lòng biết ơn và kính sợ thì mới có thể hòa hợp với đất trời vạn vật được.”

A Hành đáp: “Vu vương, ta tới đây để tìm gặp ngài, chứ không phải để lăng nhục các người. Giờ thì ta yên tâm rồi, có chuyện này ta muốn cậy nhờ ngài, ngài bảo những người khác lui ra được không?”

“Đây đều là người trong tộc của ta, cô có chuyện gì cứ nói thẳng ra, đừng ngại.”

Nghe lão nói vậy, A Hành đành thở dài, ngoảnh mặt về phía núi huýt gọi một tiếng. Theo tiếng huýt của nàng, một bóng trắng bỗng xẹt ngang bầu trời như sao, rồi đỗ xuống đài tế. Đó là một con chim toàn thân trắng muốt, cao hơn một thước, cặp mắt ngạo nghễ màu lục bích lướt qua cả đám Vu sư như đánh giá.

Đám Vu sư thấy thế càng thêm tức giận, mấy Đại vu sư được quyền bước lên đài tế chỉ muốn xông tới bắt lấy A Hành, nhưng Vu vương lại giơ tay ngăn cản, tỏ ý bảo bọn họ hãy nghe kỹ đã.

Chẳng biết gió từ đâu bỗng nổi lên khiến những chiếc chuông gió bằng xương thú treo trên đài tế kêu leng keng, ban đầu chỉ là ngân nga khe khẽ, dần dà, tiếng chuông càng lúc càng to hơn, hòa cùng thế gió mỗi lúc một mạnh.

Trong tiếng lanh canh điên cuồng của chuông gió, giữa không trung bỗng hiện ra một bóng đen khổng lồ, là một con hồ ly to lớn, diễm lệ lạ thường, không ngừng bay vòng vòng xung quanh, cuốn theo cuồng phong cuồn cuộn thốc lên, bao bọc cả đài tế.

Giữa lúc đám Vu sư đang há hốc miệng kinh ngạc nhìn hồ ly bay, con chim trắng kia còn sợ họ chưa chịu đủ chấn động, liền há mỏ khạc ra lửa, lửa đỏ, lửa lam, lửa vàng… Từng cuộn lửa bảy sắc bùng lên giữa trời đêm như những đóa hoa tuyệt đẹp, tỏa ánh sáng rực khiến cả đài tế toát lên vẻ mỹ lệ trang nghiêm như cung điện của thần tiên, mà thiếu nữ áo xanh lại đứng ngay giữa khung cảnh kỳ ảo ấy.

Thấy vậy Vu vương bèn căn dặn mấy câu, lập tức đám người vây quanh đài tế tản cả ra, chỉ còn lại mấy Vu sư lớn tuổi.

Vu vương nghiêm trang hỏi: “Cô nương đến từ Thần tộc ư? Chẳng hay cô tới đây có chuyện gì vậy?”

A Tệ đỗ xuống bên cạnh A Hành, nàng liền đỡ Xi Vưu trên lưng nó xuống, hỏi ngược lại: “Không biết Vu vương có nhận ra hắn hay không?”

Trông rõ diện mạo Xi Vưu, Vu vương biến hẳn sắc mặt, lập tức quỳ sụp xuống đất, cả người run lên vì kích động, “Sao lão có thể không nhận ra kia chứ, Vu sư các đời mỗi khi bái sư, trước tiên phải quỳ lạy tượng gỗ của ngài, lập lời thề sẽ bảo vệ bình yên và tự do cho dải nước non này, có điều, có điều… lão thật sự chẳng dám mơ kiếp này mình lại được gặp Xi Vưu đại nhân.”

A Hành nói tiếp: “Hắn bị thương rồi.”

Vu vương vội lê bằng đầu gối tới cạnh Xi Vưu thăm khám vết thương, thận trọng rút một đoạn kiếm gãy ra khỏi người hắn, lại kiểm tra kỹ lưỡng tình trạng trúng độc, vẻ mặt càng lúc càng khó coi.

A Hành nghiêng mình ngồi lên lưng A Tệ định rời đi. Nhận ra nàng lai lịch không tầm thường, Vu vương vội giữ nàng lại, khẩn thiết vật nài: “Cầu xin cô nương ra tay cứu giúp Xi Vưu đại nhân, vết thương của đại nhân nặng lắm, kiếm khí ngưng tụ trên kiếm này lại rất đặc biệt. Lão chưa từng thấy kiếm khí lợi hại như vậy bao giờ, còn tẩm cả độc nữa…”

A Hành cầm đoạn kiếm gãy lên xem, thấy trên rìa kiếm chạm nổi hoa văn Huyền điểu, chính là biểu tượng của vương thất Cao Tân, sực nhớ tới thân phận mình, nàng lạnh buốt cả cõi lòng, đưa mắt nhìn Vu vương: “Lão muốn ta giúp hắn ư? Lần đầu tiên giúp hắn, ta bị giam cầm sáu mươi năm, lần thứ hai, ta phải phản bội Đại ca mình.”

Nói rồi nàng giơ đoạn kiếm gãy lên, “Thanh kiếm này do vị hôn phu của ta rèn ra, tay nghề rèn kiếm của y rất cao, hẳn vết thương của Xi Vưu khó mà lành được, đây cũng là bội kiếm bên mình Đại ca ta, chính Đại ca đã tự tay đâm kiếm vào ngực Xi Vưu đấy.”

Thấy Vu vương tái mặt, sững sờ nhìn mình, A Hành hỏi tiếp: “Giờ lão còn muốn ta cứu hắn nữa không?”

Vu vương lắc đầu quầy quậy, nàng buông một câu: “Tốt lắm,” rồi vỗ vỗ lên mình A Tệ, A Tệ liền cất cánh cõng nàng bay lên, khiến những chiếc chuông gió quanh đài tế lại được dịp rung lên leng keng một tràng.

Nghe tiếng chuông gió leng keng, A Hành thoáng ngẩn người, thuở còn ở Ngọc sơn, nàng cũng treo dưới hiên nhà một chiếc chuông gió như thế này, giờ đây hồi tưởng lại, dường như những bức thư của Xi Vưu chính là sắc màu duy nhất suốt sáu mươi năm đằng đẵng ấy.

Nhớ tới chuyện cũ, nàng vừa vuốt đầu A Tệ, vừa hỏi: “Ta không hiểu y thuật, ở lại cũng chẳng giúp được gì nhỉ. Người trên đại hoang vẫn lén gọi Vu vương của Cửu Lê tộc là Độc vương, nhất định lão sẽ cứu được Xi Vưu, mày bảo có phải không, A Tệ?”

Chẳng một ai đáp lời nàng, có điều, nàng cũng chỉ muốn thuyết phục bản thân mình mà thôi.

Lúc nàng về tới bản Đức Ngõa, ông lão Đức Ngõa và Mễ Đóa mới ăn xong cơm chưa lâu.

A Hành lên tiếng chào hỏi: “Cháu về ăn cơm rồi đây.”

Thấy nàng trở về, Mễ Đóa vui vẻ đi hâm lại thức ăn, trong khi ông lão cười khà bảo: “Sáng mai lão nói với trưởng bản một tiếng rồi sẽ đưa cô tới bản Xi Vưu.”

“Không cần đâu, cháu đã giải quyết xong việc rồi, khỏi cần tới bản Xi Vưu nữa.”

“À, thế thì hay quá.”

Người Cửu Lê nấu rượu rất ngon, Ca tửu của họ nồng nàn ngọt lịm khiến A Hành vừa uống đã mê, thấy nàng thích thú, ông lão càng thêm vui vẻ, cười đến rung cả râu.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 2-12-2013 11:46 AM
Chương 8


Cây cao mây quấn mãi chẳng rời.


8.2


Trước sự thết đãi nhiệt tình của ông lão và Mễ Đóa, A Hành đã được ăn một bữa tối cực kỳ thịnh soạn.

Trong lúc chuyện trò, A Hành biết được Mễ Đóa tuổi đã lớn, đáng lẽ phải lấy chồng từ lâu nhưng con dâu của ông lão ốm nặng, nằm liệt giường, quanh năm mọi chuyện lớn nhỏ ở nhà đều trông vào Mễ Đóa, bởi thế mà cô lần lữa chưa chịu gả đi.

Phòng của Mễ Đóa là gian phòng đẹp nhất trong nhà, cô nhường lại cho A Hành.

Người Cửu Lê luôn dành cho khách những gì tốt đẹp nhất, đây là đạo đãi khách của họ, cảm nhận được điều đó, A Hành chẳng còn cách nào khác hơn là tiếp nhận.

Rửa mặt xong xuôi, nàng bèn ra ngồi trước bàn trúc hong tóc. Vành trăng non nhạt nhòa treo giữa nền trời đen thẫm, gió đêm từ trên núi đưa xuống mang theo hương thơm cây cỏ, khe suối gần đó róc rách chảy như đang ngân nga một khúc nhạc đồng quê.

Một người đàn ông từ dưới núi đi lên, ngồi xuống tảng đá lớn bên bờ suối thổi sáo.

Bỗng cửa nhà cót két hé ra, Mễ Đóa nhanh như sóc chạy về phía con suối, thoáng chốc, A Hành trông thấy hai bóng người ôm chầm lấy nhau.

Loáng thoáng nghe thấy tiếng chuyện trò.

“Khách ăn cá ta bắt có thích không?”

“Thích lắm, luôn miệng khen ngon.”

“Đó là tại muội nấu ăn ngon.”

Hai người cứ thế dìu nhau mà lên núi.

A Hành chợt nhoẻn cười, đưa mắt trông về phía núi xa, thầm nghĩ, chàng như cây lớn, thiếp tựa dây mây, cây lớn che chở cho dây mây, dây mây quấn quýt quanh cây lớn, gió táp mưa sa vẫn chẳng rời, mãi mãi bên nhau hoài khăng khít.

Phòng bên chợt vang lên tiếng ho sù sụ, cùng tiếng uống nước ừng ực.

Ông lão đã tỉnh rồi, liệu lão có biết cháu gái mình lén lút hẹn hò với bạn tình không nhỉ?

A Hành thấy hơi thắc mắc, nhưng cũng chẳng lấy thế làm lo lắng. Nam hoan nữ ái vốn là chuyện tự nhiên trong trời đất, chỉ là ở vùng này, nó vẫn giữ nguyên những nét ban sơ thuần phác mà thôi.

Chẳng hiểu sao hình bóng Xi Vưu lại hiện ra trước mắt nàng, hắn đã lớn lên giữa một vùng non nước thế này ư? Liệu hắn có biết đánh cá không? Hắn cũng biết hát những khúc sơn ca lanh lảnh mà tình tứ như vậy sao? Hắn đã từng hát cho ai nghe chưa nhỉ…

Đêm đó A Hành gối đầu lên những gió mát trăng trong giữa núi rừng, chìm vào giấc mộng thơm ngây ngất.

Sáng hôm sau, tiếng gà trống gáy le te đánh thức nàng dậy.

Bình minh ở đây chẳng hề đượm vẻ tịch mịch chết chóc như trên Ngọc sơn, cũng không có loan kêu phượng hót líu lo êm tai như tại Triêu Vân phong.

Sáng sớm ra mọi người gặp nhau đều niềm nở hỏi chào, tiếng mấy cô thiếu nữ lao xao hẹn nhau đi hái dâu, tiếng đám đàn ông lấy công cụ loảng xoảng, tiếng các bà mẹ cao giọng mắng con, tiếng đám trẻ khóc lóc ầm ĩ hòa cùng tiếng bò rống ò ò, dê kêu be be và gà mái cục ta cục tác…

Rất ồn ào! Nhưng…

A Hành mỉm cười, nhưng cũng đầy sức sống!

Nàng còn gặp cả mẹ của Mễ Đóa, bà đau ốm quanh năm, bị bệnh tật giày vò đến nỗi chỉ còn da bọc xương, chẳng nói nổi một câu hoàn chỉnh.

A Hành cũng biết người yêu của Mễ Đóa tên là Kim Đan, hai hôm nay không ở trong bản, theo lời Mễ Đóa thì y sang bản khác tìm vợ. Nghe vậy A Hành kinh ngạc, “Chẳng phải hai người là… Cô không giận sao?”

Mễ Đóa cười khổ lắc đầu, “Mẹ tôi nằm liệt giường, em trai còn nhỏ dại, giờ đây tôi là người phụ nữ duy nhất trong gia đình, cả nhà không thể không có tôi được, y đã đợi tôi bốn năm rồi, chẳng thể đợi thêm nữa đâu.”

“Vậy hai người phải chia tay sao?”

“Ừm, sau này y phải đối tốt với người con gái khác thôi.” Mễ Đóa lộ vẻ buồn rầu nhưng vẫn gượng cười đáp.

“Cô biết hai người phải chia tay mà đêm đến vẫn… vẫn lén lút hẹn gặp y ư?” A Hành thắc mắc.

Mễ Đóa vô cùng kinh ngạc, cô ta cũng không sao hiểu nổi A Hành, “Chính vì chúng tôi phải chia tay nên mới nắm lấy mọi cơ hội được ở bên nhau, gắng hết sức mà gặp gỡ.”

A Hành không nói rõ được quan điểm của Mễ Đóa đúng ở chỗ nào, nhưng cũng không biết là sai ở đâu cả. Có lẽ, tại vùng rừng núi cách xa thế tục này thì quan điểm đó đúng, còn ở chốn phồn hoa đầy những phép tắc lễ nghi thì quan điểm đó lại sai.

Nàng không muốn Kim Đan rời xa Mễ Đóa nhưng cách duy nhất để Mễ Đóa có thể lấy Kim Đan là trong nhà phải có thêm một người phụ nữ cáng đáng gia đình.

Nàng đề nghị Mễ Đóa tìm Vu sư đến xem bệnh cho bà mẹ nhưng Mễ Đóa nói năm ngoái Kim Đan cùng mấy gã trai trong bản đã khiêng mẹ mình tới bản Xi Vưu, tiếc rằng Đại vu sư nói bệnh này sức người chẳng thể chữa nổi, đành phó mặc cho ý trời.

Nàng biết trên đời này có những căn bệnh không cách nào trị nổi, ngay cả Viêm Đế y thuật đứng đầu thiên hạ cũng đâu cứu được con gái Dao Cơ của mình.

Lòng đầy bực bội, nàng bèn chạy thẳng tới đỉnh núi vắng vẻ thăm A Tệ cùng Liệt Dương, trông thấy hai bọn chúng đang vờn nghịch chiếc tay nải lộn xộn cả lên, hại nàng phải sắp xếp lại. Đột nhiên giữa đống đồ đạc linh tinh, A Hành nhìn thấy một túi đào khô.

Đây là đào tiên mà nàng hái trên Ngọc sơn, đem phơi khô để A Tệ và Liệt Dương ăn vặt, nhưng chúng ăn suốt mấy chục năm đã chán ngấy, chẳng buồn đụng đến nữa.

A Hành liền cầm một miếng lên, tiện tay bỏ vào miệng nhai rồi nhảy dựng lên chạy xuống núi.

Nàng định dùng đào tiên để cứu mẹ Mễ Đóa nhưng đã có tiền lệ của A Tệ, nàng không dám trực tiếp cho bà ta ăn mà ngâm một miếng vào nước rồi cho bà uống thứ nước đó.

Ngày đầu tiên, A Hành vừa chữa vừa nơm nớp lo sợ, may sao mẹ Mễ Đóa chẳng xảy ra chuyện gì, đến ngày thứ hai, bà bắt đầu thấy đói muốn ăn cơm khiến Mễ Đóa kinh ngạc, nửa mừng nửa tủi bởi đã bốn năm nay, mẹ cô chưa hề chủ động đòi ăn cơm bao giờ.

Thấy có vẻ hiệu quả, A Hành lại tiếp tục ngâm đào khô với nước.

Sau ba ngày uống nước đào khô, mẹ Mễ Đóa dần ăn uống được, tuy vẫn chưa thể ngồi dậy nhưng rõ ràng bệnh tình đã có chuyển biến tốt, chỉ cần từ từ điều dưỡng, sớm muộn sẽ xuống đất đi lại được.

Trở về bản, nghe nói bệnh tình mẹ Mễ Đóa đã đỡ, Kim Đan liền khiêng ngay con dê béo nhất trong nhà hăm hở sải bước tới nhà Mễ Đóa, ngắc ngứ nói không nên lời, chỉ biết ấn con dê béo múp vào lòng A Hành.

A Hành hoảng hốt vội nhảy tót lên bàn gọi Mễ Đóa kêu cứu, nàng vừa trợn mắt vừa nhìn con dê vừa hú vía nhủ thầm: may mà không phải một con trâu.

Mễ Đóa từ trong phòng mẹ mình chạy ra, trông thấy Kim Đan, cô sững người rồi bưng mặt ngồi thụp xuống đất khóc òa lên, ông nội cô ngồi bên bếp lửa cũng phải quay đi, lấy tay che mặt lén lau nước mắt.

A Hành thấy vậy liền tụt xuống bàn, vỗ vỗ lưng Mễ Đóa an ủi, “Đừng khóc, đừng khóc mà, sao lúc Kim Đan ca ca của cô đi cô không khóc mà giờ y quay về lại khóc lóc thế này?”

Tin A Hành trị khỏi bệnh cho mẹ Mễ Đóa đã lan khắp bản, người bệnh trong bản bắt đầu lũ lượt kéo tới nhờ xem bệnh khiến nàng kinh hồn bạt vía, nhưng đã lỡ ăn cơm và uống Ca tửu khắp các nhà trong bản nên chẳng thể từ chối được, đành sao y bản chính, tiếp tục dùng nước ngâm đào khô mà chữa bệnh thôi. Vừa ngâm đào vào nước, nàng vừa thầm khấn Vương Mẫu, chỉ mong rằng mấy trái đào ngàn năm nở hoa, ngàn năm nữa mới ra quả này của bà thật sự lợi hại như người đại hoang vẫn đồn đại.

Trong lúc A Hành nơm nớp lo sợ, những người dùng nước của nàng dẫu bệnh chẳng lui thì cũng đỡ hẳn đau đớn, ít nhất có thể bình tĩnh thản nhiên mà chờ chết.

Mọi người mừng rỡ bèn mượn lời ca tiếng hát để tỏ lòng cảm kích đối với nàng, theo tiếng ca lanh lảnh, tiếng thơm về y thuật của A Hành cũng từ từ lan ra khắp trăm thôn bản lớn nhỏ của Cửu Lê tộc. Người mang bệnh nặng đều ấp ủ một tia hy vọng, tới cầu khẩn A Hành. Bọn họ trèo đèo lội suối, băng rừng vượt sông mà tới, dắt theo những con trâu đầu cơ nghiệp, những con gà mái mắn đẻ nhất trong nhà, thành khẩn quỳ xuống trước A Hành, gương mặt sạm đen vì sương gió đầy vẻ mong mỏi và van xin.

A Hành không sao cự tuyệt nổi, đành phải nhận lấy. Thực lòng nàng vẫn luôn muốn ra đi, nhưng chẳng rõ vì sao, hễ tới lúc định đi nàng lại lần lữa, nhủ lòng nấn ná thêm một ngày. Nàng cũng không rõ rốt cuộc thứ gì đã níu chân mình lại nữa, có lẽ là cảnh nước non hùng vĩ mỹ lệ của Cửu Lê, có lẽ là những gương mặt chất phác nhiệt tình của người dân bản Đức Ngõa, có lẽ là khúc ca phóng khoáng mà nồng nàn hay vò Ca tửu đậm đà sóng sánh, có lẽ là những quả dại ngọt lành mà các cô gái âm thầm để lại trước cửa nhà, có lẽ là những bàn tay trẻ nít nhỏ bé đen sạm nắm lấy chéo áo nàng, cũng có lẽ chỉ là tiếng hò trâu kéo cày ngoài ruộng cũng nên.

Bởi vô vàn lý do không sao nói rõ ấy, nàng cứ thế ở lại nơi này hết ngày này sang ngày khác.

Sáng sớm ra, A Hành vừa mở mắt đã bắt đầu đấu tranh tư tưởng, không biết hôm nay có nên đi hay không?

Nàng cứ một lát nghĩ lý do nên đi lại một lát nghĩ lý do nên ở, cuối cùng quên hết sạch mọi lý do, chỉ băn khoăn không biết bệnh tình Xi Vưu rốt cuộc ra sao, chẳng hiểu Vu vương đã giải được độc cho hắn hay chưa nữa? Liệu có phải hắn đã quay về Thần Nông sơn rồi không nhỉ?

Trằn trọc mãi, đột nhiên nàng cảm thấy buổi sáng hôm nay rất lạ, chẳng nghe thấy tiếng đàn ông gọi nhau đi làm, cũng không nghe thấy tiếng phụ nữ mắng con, tiếng trẻ nhỏ khóc lóc… cả bản đều im phăng phắc như tờ.

Nàng vội vã chạy xuống thang, liền trông thấy Vu vương đang quỳ trước cửa nhà, dập đầu sát đất, lưng cong tựa cánh cung, hệt như một bức tượng người thành tâm cầu khẩn.

Cả bản lặng phắc, mọi người đều lấp ló đằng xa, hoang mang nghi hoặc nhìn lại bên này, không hiểu sao vị Vu vương vĩ đại của họ lại quỳ sụp trước mặt A Hành.

A Hành vội cúi xuống đỡ lão dậy, hoảng hốt hỏi: “Xi Vưu vẫn chưa giải được độc ư?”

Thấy Vu vương lắc đầu, nàng nói ngay: “Chúng ta tới bản Xi Vưu đi.” Đại vu sư dắt A Hành lên đài tế, trông thấy Xi Vưu đang nằm giữa đài, nàng bèn quỳ xuống xem xét vết thương của hắn.

Vu vương nói: “Tuy vết kiếm thương lợi hại thật, nhưng được linh khí núi sông Cửu Lê bảo hộ, vết thương của Xi Vưu đại nhân có thể từ từ lành lại.”

A Hành vội hỏi: “Vậy vấn đề trí mạng là chất độc kia ư?”

Vu vương gật đầu, “Tộc Cửu Lê rất giỏi sai sử độc vật, nổi tiếng khắp đại hoang về dùng độc, nhưng chúng ta thiên về trùng độc, còn đây lại là độc dược, lão nghĩ nát óc cũng không giải nổi.”

“Lão biết Xi Vưu bị Đại ca ta đả thương mà còn dám xin ta cứu hắn ư? Lão không sợ độc này là do chúng ta hạ à?” “Lão sống trên đời đã chín mươi hai năm, chuyện khác có lẽ chẳng biết được bao nhiêu, nhưng lòng người thì đã thấy nhiều rồi,” Vu vương vuốt đoạn kiếm gãy trong tay, trầm giọng nói: “Kiếm là do thợ rèn dốc hết tâm huyết tạo nên, nếu lòng kẻ rèn kiếm không coi trời đất vào đâu thì chẳng thể rèn nổi thanh kiếm có khí thế nuốt trời diệt đất, kẻ rèn ra được thanh kiếm thế này nhất định sẽ không trao nó cho người tùy tiện dùng độc, xem thường kiếm hồn đâu.”

A Hành ngước mắt nhìn Vu vương, im lặng.

Vu vương lại nói tiếp: “Kẻ hạ độc này vô cùng tàn nhẫn, chất độc đã tiềm phục trong người Xi Vưu đại nhân từ lâu, ít ra cũng phải mấy chục năm rồi, hàng ngày chẳng có gì khác lạ, chỉ tới khi ngài bị thương nặng, phải vận linh lực trị thương thì mới phát tác. Độc tính sẽ theo linh lực vận hành mà lan đi khắp cơ thể, khiến đại nhân chẳng những không thể dùng linh lực trị thương mà còn chẳng thể vận linh lực bức độc nữa, chỉ đành bó tay chờ chết. Linh thể của Xi Vưu đại nhân đã không chống chọi nổi nữa rồi…” Sắc mặt Vu vương vô cùng buồn bã.

“Các Đại vu sư đề nghị lão tới Thần Nông sơn cầu cứu, nhưng lão đã khước từ.”

“Tại sao thế?”

“Nghe sư phụ nói Xi Vưu đại nhân lớn lên ở nơi hoang dã, nắm rõ mọi thứ độc trùng độc thảo, tuy lão được tôn làm Vu vương của Cửu Lê, lại nhờ giỏi dùng độc mà được người đại hoang gọi là Độc vương, ngay cao thủ Thần tộc cũng phải nhường nhịn ba phần, nhưng lão chẳng cách nào hạ độc dược đại nhân, vậy kẻ có bản lĩnh hạ độc làm hại Xi Vưu đại nhân chỉ có thể là cao thủ Thần tộc am hiểu dược tính mà thôi. Trên đời này, Thần Nông vương tộc thông thạo y thuật nhất, kẻ hạ độc này có lẽ cũng xuất thân từ đó, làm sao lão dám đi cầu cứu bọn họ đây? Nếu Xi Vưu đại nhân phải chết, lão mong rằng ngài có thể yên nghỉ ở dải non nước Cửu Lê này.”

Nghe lão nói vậy, A Hành càng thêm phần kính trọng lão nhân cơ trí trước mặt.

Nhưng giờ phải làm sao đây? Không thể cầu cứu Thần Nông, không thể cầu cứu Cao Tân, càng không thể cầu cứu Hiên Viên được. Nghĩ đi nghĩ lại, A Hành cảm thấy mình đã cùng đường, chẳng có ai để trông chờ cả.

Thấy A Hành lộ vẻ lo lắng, Vu vương có phần bứt rứt, “Tây Lăng cô nương đừng quá tự trách mình. Tộc Cửu Lê chúng ta sùng bái trời đất, xem trọng hiện tại trước mắt, chỉ theo đuổi lạc thú tức thời, chuyện sống chết giao cả cho trời đất quyết định. Dù phải chết như thế này, lão nghĩ Xi Vưu đại nhân cũng chẳng có gì ân hận đâu.”

A Hành sầm mặt: “Xi Vưu nhất định không muốn chết tức tưởi thế này, dù có chết hắn cũng phải khiến tất cả những kẻ căm hận mình khốn đốn mới cam.” Nói rồi A Hành thoáng lộ nụ cười.

Vu vương không kìm được cũng cười theo, “Yêu bằng cả sinh mệnh, lại dùng cái chết mà trả hận, đó mới chính là người Cửu Lê, kẻ khác thấy chúng ta man rợ hung ác, thực ra chỉ chúng ta mới hiểu rõ sự trân quý của mạng sống, chúng ta sợ chết nhưng không khiếp nhược trước cái chết, bởi thế lão có thể dốc hết sức chữa trị cho Xi Vưu đại nhân, nhưng cũng có thể bình thản nhìn ngài ra đi.”

A Hành nói: “Cảm ơn lão đã giảng giải, có điều Xi Vưu còn nợ ơn cứu mạng của ta hai lần, ta chưa đòi lại, hắn đừng mơ quỵt nợ dễ dàng như vậy!”

A Hành ngẩng đầu huýt dài một tiếng, theo tiếng huýt, Liệt Dương và A Tệ từ trời bay xuống, đậu trên đài tế. Nàng xoa đầu A Tệ dỗ dành, “Xi Vưu bị bệnh, ta muốn xin ít máu của mày được không?” A Tệ lớn lên ở Ngọc sơn, ăn đào tiên uống ngọc tủy nên cơ thể cũng ngưng tụ linh khí đất trời của Ngọc sơn.

A Tệ nghe nói liền cúi đầu dịu dàng cọ cọ vào người A Hành như an ủi. A Hành lại quay sang bảo Vu vương: “Làm phiền ngài rồi.”

Vu vương cầm bát ngọc cùng dao bạc vẫn dùng khi cúng tế bước tới bên A Tệ, A Tệ hiểu ý liền giơ chân trước lên để lão kề dao cắt một nhát, máu tươi trào ra, mùi hương lạ lùng cũng bốc lên sực nức.

A Hành quay lưng lại phía bọn họ, tự cắt cổ tay mình và Xi Vưu, đưa tay nắm lấy tay hắn để máu độc trong người Xi Vưu chảy sang cơ thể mình.

Thấy Vu vương bưng bát máu sóng sánh lại gần, A Hành liền bảo lão cho Xi Vưu uống, “Máu này không giải được độc nhưng cũng có thể trì hoãn độc tính khỏi lan ra, hàng ngày lão cắt một bát máu trên người A Tệ cho hắn uống, ta phải đi một thời gian, mấy ngày nữa sẽ cho Liệt Dương mang thuốc giải về.”

Dứt lời A Hành quay gót bỏ đi nhưng vừa đi được mấy bước, nàng bỗng thấy gấu váy bị thứ gì đó níu lại, không đi được, bèn ngoảnh lại nhìn, phát hiện Xi Vưu đang nắm chặt lấy gấu váy mình.

Vu vương nói: “Xi Vưu đại nhân không muốn để cô nương đi.”

A Hành đành dùng linh lực gỡ tay hắn ra rồi ghé tai nói nhỏ: “Ta không để ngươi chết đâu.” Nói rồi nàng rảo chân bước xuống đài tế.

Không có A Tệ để cưỡi, A Hành không đi nhanh được, lại thêm Liệt Dương cứ lởn vởn bay lòng vòng trên đầu nàng, chẳng hề có vẻ sốt ruột như hôm qua. A Hành dốc hết sức vận linh lực, vừa để đi lại cho nhanh, vừa để độc tính lan khắp toàn thân. Một người một chim đi suốt một ngày đường, xa khỏi Cửu Lê tộc.

Đến chập tối, khi mặt trời đã nhuốm sắc hoàng hôn lên khắp đất trời, sắc mặt A Hành bắt đầu tái dần, tim đập chậm lại, từ từ cảm thấy nghẹt thở. Nàng đành ngồi xuống dưới gốc cây nghỉ chân.

Liệt Dương đậu xuống trước mặt, lo lắng nhìn nàng rồi kêu lên quang quác khiến tất cả chim chóc trong rừng đều rớt cả xuống đất.

A Hành xé một mảnh tay áo buộc vào chân Liệt Dương, ra lệnh, “Tới Thần Nông sơn, tìm Vân Tang đi.” Nàng thở hổn hển, không sao nói tiếp được nữa, đành dựa vào thân cây, đưa tay chỉ lên trời.

Liệt Dương lại ngẩng đầu kêu quác quác, gọi tất cả chim chóc xung quanh run rẩy bay đến, con trước con sau tự động vây quanh A Hành. Nhanh như chớp, Liệt Dương dang cánh bay vút lên, thoáng chốc đã mất hút.

Nơi này đã nằm trong địa phận Thần Nông, với đà bay của Liệt Dương, ắt chẳng bao lâu sẽ đến nơi. Dẫu kẻ khác có trông thấy mảnh tay áo đó cũng chẳng hiểu là ý gì, càng không thể phát hiện tính mạng Xi Vưu chỉ còn trong sớm tối, nhưng Vân Tang đã theo mẹ nàng học nghệ mười năm, rất dễ nhận ra vải vóc do bà dệt thành, hễ nhìn qua là biết nàng đang cầu cứu, chắc hẳn sẽ đến ngay.

A Hành không gắng gượng nổi nữa, từ từ nhắm mắt lại.

Dưới bóng chiều tà, giữa nơi rừng vắng, bầy chim bị Liệt Dương uy hiếp từng con từng con lần lượt nằm xuống thành một tấm bình phong sặc sỡ đủ màu, bao bọc A Hành ở giữa.

A Hành lờ mờ thấy ánh vàng lấp lánh trước mắt mình, hình ảnh Xi Vưu hết lần này sang lần khác cứ hiện lên trong lòng, lại thêm cả những bức thư trao đi gửi lại suốt sáu mươi năm, thì ra, trí nhớ của nàng tốt đến mức chính nàng cũng kinh ngạc, bao nhiêu thư từ như thế mà vẫn nhớ rõ mồn một.

“Ngang qua Khâu Thương, hoa đào nở đỏ rực hai bên bờ, thấy cô gái giặt lụa bên suối, ta lại nhớ cô.”

A Hành chợt nhoẻn miệng cười, mùa hoa năm nay đã qua rồi, để sang năm đi, sang năm nàng muốn ngắm hoa đào ở nhân gian, ắt hẳn còn đẹp hơn hoa đào trên Ngọc sơn nhiều. Thật ra nàng vẫn luôn muốn hỏi Xi Vưu tại sao là “lại nhớ”, lẽ nào ngươi thường nhớ tới ta ư?

A Hành từ từ mất đi ý thức nhưng khóe miệng vẫn giữ nụ cười, trong lòng còn đọng lại cảnh tượng bình yên mà tươi đẹp sau cùng: dải nước biếc Khâu Thương uốn lượn như một chiếc đai bích ngọc, Xi Vưu vận tấm áo đỏ rực đứng trước mũi thuyền thả trôi theo dòng, khắp vài dặm ven bờ hoa đào nở rộ, ngào ngạt hương đưa, đẹp tươi rạng rỡ.

A Hành tha thiết mong Vân Tang đến nhưng nàng không biết rằng bấy giờ Vân Tang không ở Thần Nông.

Sau khi từ biệt Thiếu Hạo và A Hành tại hẻm núi hoang, Vân Tang liền cải trang đi thẳng tới Cao Tân.

Trước nay nàng chỉ trăn trở với những âu lo của mình mà chẳng hề để tâm tới cảm nhận của Nặc Nại, y là thần tử, cũng là bạn của Thiếu Hạo nhưng đêm hôm mưa gió lại ôm ấp thê tử Thiếu Hạo suốt đêm, Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt, Nặc Nại tính tình thanh cao, sau đêm đó, y đã bất lực, hoảng hốt, nhục nhã, hổ thẹn đến nhường nào?

Bất lực vì mình không kiềm chế nổi tình cảm, hoảng hốt sợ chuốc lấy đại họa cho gia tộc vì dám giành vợ của vương tử, nhục nhã vì sự đê hèn bỉ ổi của bản thân, hổ thẹn vì đã phản bội bạn bè. Có lẽ chỉ vùi đầu vào sa đọa suốt ngày, tự chà đạp bản thân, y mới có thể đối mặt với Thiếu Hạo, nhưng Thiếu Hạo lại chẳng hay chẳng biết, còn lo lắng quan tâm, khuyên nhủ y giữ mình trong sạch, hẳn mỗi sự quan tâm chân thành đó cũng chính là một lần lăng trì giày vò y, khiến y càng thêm căm ghét khinh bỉ bản thân mình.

Khi gặp gỡ trên Ngọc sơn, Vân Tang chỉ nhất thời xúc động mà thăm dò, nào ngờ có ngày sự vô tâm của nàng lại bị bè lũ Yến Long lợi dụng, đẩy Nặc Nại cùng cả gia tộc, thậm chí cả ngôi vị tương lai của Thiếu Hạo vào vòng nguy hiểm.

Vân Tang vô cùng căm hận bản thân, sống trong vương tộc, từ nhỏ tới lớn nàng chưa từng làm sai điều gì, vậy mà hôm đó giữa chốn núi cao sông sâu tình cờ gặp gỡ, nước như gương soi, lòng vừa xao xuyến, chợt giận chợt mừng khiến nàng quên bẵng thân phận của mình, ngỡ rằng có thể như một thiếu nữ bình thường, có rung động mãnh liệt, có thấp thỏm không yên, tự cho phép mình thăm dò, tiếp cận.

Một thân một mình đến Cao Tân thế này, nàng cũng không biết liệu mình có gặp được Nặc Nại đang bị giam trong thiên lao hay không, càng không biết nếu nói rõ thân phận với y, y sẽ đối xử với mình ra sao nữa, chắc hẳn, y không đời nào chịu tha thứ cho nàng.

Nhưng nàng nhất định phải gặp được y.

Giữa màn đêm thăm thẳm, muôn ngàn vì sao sáng như bảo thạch giăng khắp bầu trời, lấp lánh mỹ lệ khôn xiết, dù nơi đồng không mông quạnh hay chốn cung điện nguy nga, dù ở Thần Nông, Cao Tân hay nơi nào đi nữa cũng là một màn đêm như thế, một bầu trời sao như thế.

Đồng hoang tĩnh lặng, sao sáng đầy trời, A Hành thiêm thiếp ngủ giữa vòng vây bảo hộ của muôn chim, khóe môi còn ẩn hiện nụ cười, sinh mệnh của nàng cũng cứ thế vùn vụt trôi qua trong cơn mê ngủ.

Giữa phủ đệ nguy nga rường chạm cột khắc, Thiếu Hạo uể oải đặt văn thư trong tay xuống, bước tới bên song, cầm vò rượu lên thong thả uống, đột nhiên như sực nhớ điều gì, y bèn rút một mảnh khăn lụa trong ngực ra, bên trên là bí quyết nấu rượu mà A Hành chép lại cho mình. Y cúi đầu xem một lượt rồi ngẩng lên nhìn trời, thấy muôn sao lấp lánh tựa ngàn vạn ngọn đèn trong các gia đình ở nhân gian, chẳng rõ giờ này A Hành đang ngồi nghe chuyện dưới ngọn đèn nào, bất giác khóe môi Thiếu Hạo thấp thoáng nụ cười.

Kiếm vàng thương bạc, canh giữ nghiêm ngặt, bên ngoài thiên lao, Vân Tang đeo mặt nạ lên, cải trang thành một thiếu nữ dung mạo rất bình thường, mặt nạ này dùng tơ Nhân Diện dệt thành, mỏng như cánh ve, vì không dùng linh lực để thay đổi gương mặt nên dù đụng phải thần tiên linh lực cao hơn hẳn mình, nàng cũng không sợ bị lộ thân phận. Vân Tang ngẩng đầu nhìn trời vừa lúc một vì sao băng xẹt ngang qua, nàng lặng lẽ trông theo vệt sao khuất cuối chân trời, âm thầm cầu khấn.

Vân Tang định thần lại, tay trái xách một bình Triển Ti Ngọc Liên đựng đầy nước, tay phải cầm trường kiếm. Nàng đã bỏ viên thuốc mà Viêm Đế cho mình để chạy thoát phòng khi gặp nguy vào bình nước, từng làn khói xanh có công dụng mê hoặc tâm thần phơ phất bốc lên từ chiếc bình Ngọc Liên nơi tay trái, vấn vít quanh mình nàng, Vân Tang xách bình cầm kiếm bay vút vào thiên lao.

Núi cao sừng sững, gió mát hây hẩy, những chiếc chuông gió bằng xương thú treo quanh đài tế cũng ngân lên leng keng không dứt, dịu dàng như một khúc ca dao ru người vào giấc ngủ.

Xi Vưu nằm giữa đài tế say ngủ, còn Vu vương và A Tệ ngồi canh bên dưới.

Vu vương tựa lưng vào tường ngủ gà ngủ gật, A Tệ dường như cũng đang ngủ, có điều đôi tai hồ ly nhòn nhọn vẫn dỏng lên nghe ngóng, đầy cảnh giác. Rất lâu rất lâu sau, Xi Vưu bỗng từ từ mở mắt, chăm chú nhìn bầu trời sao trên đầu rồi chầm chậm đưa tay lên, nhìn vết dao cắt nơi tay, hắn dần dần hiểu ra ngọn nguồn mọi chuyện, bèn hít vào một hơi, trở mình ngồi dậy. Ngay lập tức, A Tệ cũng đứng lên.

“A Tệ, chúng ta đi Thần Nông sơn.” Xi Vưu cưỡi lên lưng A Tệ, Vu vương bấy giờ mới sực tỉnh, vội nắm lấy vạt áo hắn. “Chất độc của ngài còn chưa giải, không thể cưỡi tọa kỵ bay đi thế này được.”

“Ngươi là Vu vương đời thứ mấy hả? Ngươi dám dạy ta phải làm thế nào sao?” Trước ánh mắt tàn nhẫn vô tình như dã thú, tựa hồ chẳng còn chút nhân tính của Xi Vưu, Vu vương đành sợ sệt quỳ xuống, không dám ngẩng đầu lên.

Xi Vưu vỗ vỗ lên mình A Tệ, lập tức A Tệ vỗ cánh bay lên, một người một thú biến mất giữa bầu trời đêm thăm thẳm.

Hết chương 8.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 4-12-2013 02:51 PM
Chương 9


Chữa vạn người, riêng mình khó chữa.


9.1


A Hành đứng dậy ngoảnh đầu lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên lề con đường mòn ngẩng đầu nhìn mình, ánh mắt hiền hòa mà kiên định, tựa hồ nàng có nấn ná lại đó bao lâu, hắn cũng sẵn lòng chờ đợi.

Dường như hắn là điểm sáng duy nhất giữa một vùng dào dạt những bi thương biêng biếc.

Thần Nông sơn nằm giữa Trung Nguyên, phong cảnh đẹp đẽ, khí thế hào hùng, cả thảy gồm chín núi hai sông hai mươi tám đỉnh, phía Bắc thông với đầu mối giao thông Trạch Châu, phía Nam trông ra bình nguyên Yên Xuyên phì nhiêu, Đông có tấm bình phong thiên nhiên Nguyệt Hà che chắn, Tây là Chỉ Ấp, đô thành phồn hoa nhất thiên hạ. Trông thấy Thần Nông sơn, người ta mới hiểu thế nào là khí thế vương giả, thế nào là Trung Nguyên trù phú, cũng như biết nguyên nhân vì sao Thần Nông tộc lại đông đúc nhất trong Tam đại Thần tộc.

Lúc A Hành mơ màng tỉnh lại, nàng đã thấy mình ở dưới Thần Nông sơn. A Hành nhìn Xi Vưu rồi lại nhìn sang Liệt Dương và A Tệ, ngỡ ngàng, “Ngươi, ngươi… ta, sao ta lại ở đây? Vân Tang tỷ tỷ đâu rồi?”

Xi Vưu sáp lại bên nàng cợt nhả: “Vợ yêu, thì ra cô lấy mạng đổi mạng để cứu ta à?”

“Nói bậy! Thứ chuyên rước vạ vào thân như ngươi, ta chỉ mong chết sớm đi cho đỡ chật đất!”

Nghe thấy vậy Xi Vưu liền vạch tay nàng ra chỉ vết thương còn chưa khép miệng, “Chỉ cần được Vân Tang đưa lên núi, nhất định Viêm Đế sẽ cứu cô, nhưng thuốc giải chỉ có một, nếu cô lén đổi thuốc để Liệt Dương mang tới cho ta thì bản thân cô phải tính sao?

Bị vạch trần mọi toan tính, A Hành thẹn quá hóa giận bèn vùng khỏi tay Xi Vưu, “Ngươi đừng tưởng bở, dù có mười Xi Vưu chết đi ta vẫn sống phây phây!”

Xi Vưu cười tít mắt tiếp: “Vậy mới phải! Về sau cô tuyệt đối đừng ngốc như thế nữa, chỉ cần lúc ta còn sống, cô đối tốt với ta là được. Một khi ta chết rồi, cứ việc quăng xác ta vào núi cho dã thú tới chén sạch, như thể ta chưa từng tồn tại trên đời, cô cũng nên quên luôn đi mà vui vẻ sống tiếp cuộc đời mình.”

Tuy Xi Vưu tỏ vẻ cợt nhả nhưng lời nói ra lại rất nghiêm túc, thật chẳng hiểu rốt cuộc hắn đã phải trải qua những gì, mới có thể nhìn thấy sinh tử như vậy nữa. Nghe hắn nói, A Hành tái mặt, “Đừng nói vớ vẩn, tuy chúng ta được uống máu A Tệ nhưng cũng chẳng cầm cự được lâu đâu, không hiểu trấn giữ Thần Nông sơn là kẻ nào nữa, chúng ta phải mau nghĩ cách gặp Viêm Đế đi.”

Xi Vưu đáp: “Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ.”

Chúc Dung được tôn xưng là đệ nhất cao thủ Thần Nông tộc, Cộng Công được gọi là Thủy thần, Hậu Thổ là anh tài mới nổi mấy năm gần đây, thanh danh trong thần tộc chẳng kém gì Xi Vưu. A Hành sầm mặt, “Vậy đâu phải là trấn giữ Thần Nông sơn? Rõ ràng là có mưu đồ khác mà. Rốt cuộc kẻ nào đã hạ độc hại người? Có bạn bè nào tin cậy được để tìm cách đưa tin cho Viêm Đế không?”

Ánh mắt Xi Vưu lóe lên vẻ tàn độc, lạnh lùng đáp: “Lòng người khó lường, đến lúc sống chết trước mắt, trừ bản thân ra chẳng thể tin ai cả!”

Bộ dạng đa nghi thận trọng hiện giờ của Xi Vưu khác hẳn giáng vẻ cười cợt nói năng xem nhẹ sống chết vừa nãy, đột nhiên A Hành nảy dạ tò mò về quá khứ của hắn, chẳng rõ hắn đã trải qua những chuyện gì mới tạo nên tính cách phức tạp thế này?

Thấy Xi Vưu trầm tư nhìn về phía Thần Nông sơn như thể nghĩ cách đối phó, A Hành lòng dạ ngổn ngang, bất chấp hậu quả bị phụ vương cùng Đại ca hay biết, nhanh nhảu lên tiếng, “Ta sẽ lấy danh nghĩa vương cơ Hiên Viên xin gặp Viêm Đế.”

Xi Vưu vội giữ nàng lại, “Ta không đồng ý! Tây Lăng Hành!”

Hắn giơ tay vuốt ve Trụ Nhan hoa trên tóc nàng, “Đào là tinh hoa của năm loài cây, ngọc là linh hồn của đá, Trụ Nhan hoa là kỳ bảo do mộc linh của cây đào cùng ngọc linh trên Ngọc sơn hội tụ mười mấy vạn năm mới ngưng tụ thành, ý nghĩa thật sự của hai chữ “trụ nhan” chính là giữ lại cho cô bất kỳ dung mạo nào mà cô muốn, chứ không chỉ đơn giản là trẻ mãi không già đâu. Nghĩ xem mình thích biến thành hình dạng thế nào, một lúc sau, cô sẽ biến thành thế ấy, tới chừng đó, cô chẳng thể nhận mình là Hiên Viên Bạt được nữa rồi.”

Chẳng để A Hành kịp hiểu ý mình, hắn đã cười hì hì quay sang bảo Liệt Dương: “Mày ở Ngọc Sơn bao nhiêu năm như thế hẳn linh lực đã tăng cao, này, nhìn thấy tòa thành kia không? Mau qua đó luyện tập Phượng Hoàng huyền hỏa của mày đi, thấy thứ gì gai mắt cứ việc cho nó một mồi lửa.”

Liệt Dương trước giờ chỉ sợ thiên hạ không loạn, vừa nghe nói liền phấn chấn tinh thần dang cánh bay đi ngay, A Hành không sao ngăn lại được, bèn hoảng hốt quay sang túm lấy Xi Vưu: “Đó là thủ phủ của Thần Nông tộc mà! Ngươi điên rồi sao, sao lại sai Liệt Dương phóng hỏa đốt thành?”

Xi Vưu ngỡ ngàng đáp: “Ta đâu có phóng hỏa đốt thủ phủ Hiên Viên tộc, cô lo cái gì?”

“Ta lo cái gì ư? Đó là kinh đô một nước đấy! Nếu người ta biết được ta là chủ của Liệt Dương, Thần Nông tộc sẽ lập tức phát binh đánh dẹp Hiên Viên tộc ngay!”

Nói đến đây A Hành đã thấy cửa Đông thành Chỉ Ấp cháy phừng phừng, nàng chỉ biết ôm mặt lẩm bẩm: “Đáng lẽ ta không nên dây dưa với kẻ điên rồ như ngươi, sao ta lại mau quên thế nhỉ?”

Xi Vưu lạnh lùng nhìn Chỉ Ấp từ từ biến thành biển lửa rồi ngẩng lên trời, thấy Chúc Dung cưỡi tọa kỵ Tất Phương điểu đang vội vã bay về phía Chỉ Ấp. Tuy Chúc Dung được xưng tụng là Hỏa thần nắm giữ tất cả lửa trong thiên hạ nhưng Xi Vưu biết hắn còn thiếu Phượng Hoàng huyền hỏa, tiếc rằng Phượng Hoàng là giống chim lành, lại là vua của muôn chim nên Chúc Dung không dám nảy lòng tham, nào ngờ hôm nay lại có Phượng Hoàng huyền hỏa từ trên trời rơi xuống, nhất định hắn sẽ rời khỏi Thần Nông sơn đuổi theo.

Xi Vưu vỗ về A Tệ ra ý bảo nó chở hai người lên đỉnh Tử Kim cao nhất Thần Nông sơn.

Thấy vậy A Hành chẳng buồn nổi giận nữa, chỉ xoa xoa má căng thẳng hỏi: “Lỡ như gặp phải thần tiên linh lực cao cường hơn mình nhiều, liệu ta có bị phát hiện không?”

“Cô đâu có dựa vào linh lực để biến hình, dù tu vi bọn họ có cao thế nào đi nữa cũng không bì nổi với thiên địa tạo hóa đâu, chỉ cần cô cẩn thận thì chẳng ai nhận ra được cả.”

A Hành nghe vậy liên thở phào nhẹ nhõm, rồi lại hồi hộp hỏi tiếp: “Xung quanh đều có binh lính canh gác, rốt cuộc ngươi định làm gì đây?”

Xi Vưu danh tay cười đáp: “Sợ rồi à? Vợ yêu, ta lúc nào cũng dang rộng vòng tay che chở cho cô mà.”

A Hành hít một hơi thật sâu, cố nhịn không cho hắn một đá.

Thị vệ từ hai bên sườn núi ló ra, cao giọng: “Viêm Đế đang bế quan luyện thuốc, xin quý khách về cho!”

Xi Vưu lệnh cho A Tệ đỗ xuống sơn cốc, trong khi A Hành cẩn thận đề phòng, hắn ngồi xổm xuống bên A Tệ, khẽ hỏi: “Mày thích A Hành lắm ư?”

A Tệ nghe hỏi liền vẫy đuôi thật lực, nhếch mép cười hớn hở rồi ngả đầu vào người A Hành. Đang lúc căng thẳng, A Hành chẳng để ý gì đến nó, chỉ thì thào với Xi Vưu: “Chúng ta bị bao vây rồi.”

Xi Vưu phớt lờ nàng, cứ vuốt ve A Tệ hỏi, “Nhưng sau này A Hành sẽ lấy chồng, chồng nàng chưa chắc đã thích mày, nói không chừng còn ghét mày nữa đấy.”

A Tệ nghe xong bèn đờ cả mặt ra, cặp mắt tròn xoe trợn trừng, đuôi dựng đứng, hai bên mép đang nhếch từ từ hạ xuống.

Xi Vưu lại bồi thêm: “A Hành lấy chồng rồi sẽ sinh con, đến lúc đó nàng ta yêu thương con mình, nhất định sẽ bỏ rơi mày. Mày còn nhớ chuyện cha dượng mà ta kể dọc đường lên Hiên Viên sơn không? Mấy gã cha dượng đó đều sẽ tìm trăm phương ngàn kế tống khứ đứa nhỏ trước mặt mình đi!”

A Tệ run lên bần bật, cụp ngay đuôi lại, hai bên mép bắt đầu trễ xuống, nước mắt ngân ngấn.

A Hành đang căng thẳng nghe thấy vậy liền nối giận, “Ngươi kể cho nó chuyện cha dượng bạc đãi trẻ con làm gì?”

Nói rồi nàng vội vỗ về A Tệ, “Mày đừng nghe tên vô lại ấy nói bậy, hắn cố ý dọa mày đó.”

Xi Vưu vẫn chăm chú nhìn A Tệ, nghiêm túc nói tiếp: “Mày nghĩ mà xem, đến lúc đó A Hành có con của mình, không cần mày nữa, Liệt Dương cũng không cần mày nữa, tội nghiệp quá!”

Nghe Xi Vưu nói, A Tệ òa lên khóc nức nở. Từ lúc sinh ra nó đã coi A Hành như mẹ, cho rằng mình sẽ mãi mãi ở bên nàng nên hết sức yên tâm, về sau có thêm Liệt Dương ngày ngày vui đùa cùng nhau, lại càng vô tư vô lự, mãi đến giờ nó mới nhận ra tất cả mọi thứ mình có đều có thể biến mất trong nháy mắt, lần đầu tiên, A Tệ hiểu thế nào là “mất mát”.

A Hành lấy làm lạ trừng mắt nhìn Xi Vưu, “Bây giờ là lúc nào rồi hả? Ngươi còn rảnh rỗi đi bắt nạt trẻ con nữa, đúng là điên!”

Nàng dịu giọng dỗ dành A Tệ, nhưng cứ nghĩ tới có ngày mất đi một A Hành yêu thương mình nhường này, A Tệ lại càng thêm buồn bã, càng lúc càng khóc lóc thảm thiết hơn, hệt như cái ngày đau khổ đó đã đến vậy.

Sơn cốc mà Xi Vưu quyết định đỗ lại được gọi là Hồi Âm cốc, nằm trên con đường bắt buộc phải đi qua để lên đỉnh Tử Kim, thị vệ canh giữ nơi này đều được tuyển chọn kỹ càng trong đám anh tài tinh nhuệ của Thần tộc.

Hồi Âm cốc có địa thế đặc thù, chỉ cầm một thanh âm nhỏ cũng có thể bị khuếch đại lên thành tiếng vọng lan đi, Viêm Đế đời đó đã lợi dụng địa thế thiên nhiên này, bố trí thị vệ ở các nơi đặc biệt của vách âm, hễ có người nào lẻn vào, đám thị vệ sẽ chú ý ngay, bởi vậy hơn vạn năm nay chưa một ai dám liều mạng đi qua Hồi Âm cốc.

Nhờ hiệu ứng tiếng vọng ở đây, tiếng nức nở của A Tệ được khuếch đại lên như thể có cả trăm A Tệ đang than khóc, tiếng khóc bi ai ầm ầm lan đi như sấm động ngày xuân. Tiếng kêu của hồ ly có thể mê hoặc lòng người, tệ tệ lại là loài có tiếng kêu êm tai nhất trong Hồ tộc, A Tệ ăn đào tiên, uống ngọc tủy, linh khí dồi dào, lúc này tiếng khóc than cất lên từ đáy lòng nó quả khiên nước non ảm đạm, cây cối ủ ê, cả đất trời cũng phải đổi sắc.

Đám thị vệ đang bao vây hai người không kiềm chế nổi trước tiếng khóc của A Tệ, thoạt đầu họ còn vận linh lực chống lại, nhưng ai chẳng có nỗi đau mất mát trong quá khứ, tiếng than khóc của A Tệ khơi gợi lại những nỗi niềm chôn sâu nơi đáy lòng họ, chuyện xưa dồn dập hiện ra, bao nhiêu ly biệt trong đời đan kết lại, đau khổ chất chứa thành sông thành biển, bi thương trào ra không sao nén nổi, cả đám thị vệ đều khóc òa lên.

Khắp Hồi Âm cốc bỗng chốc vang lên khúc ly ca khiến đất trời cũng phải rầu lòng, ngay Hậu Thổ cùng Cộng Công thần lực cao cường cũng không dám manh động, đành chia nhau ra mỗi người giữ lấy một đỉnh núi, trừng mắt nhìn Xi Vưu.

Xi Vưu ngồi trên tảng đá vẫy tay với Cộng Công và Hậu Thổ, hai người kia chần chừ một thoáng rồi cưỡi tọa kỵ bay xuống trước mặt hắn. Xi Vưu đưa mắt nhìn đám thị vệ đang nức nở xung quanh, cười nói: “Hồi Âm cốc hệt như một trận đồ âm thanh thiên nhiên, các thị vệ lại vô tình vận linh lực khởi động trận pháp, họ càng đau buồn thì càng khóc lóc, càng khóc lóc sẽ càng đau buồn, cứ thế đến khi cạn kiệt tinh huyết mà chết.”

Cộng Công và Hậu Thổ tái mặt, hơn trăm thị vệ này là lực lượng tinh nhuệ bảo vệ Thần Nông sơn, nếu mất bọn họ thì hậu quả thật khó lường.

Cộng Công đành thi lễ với Xi Vưu, “Chức trách của chúng ta là phụng mệnh canh giữ Thần Nông sơn, mong ngươi nể tình nhẹ tay cho.”

Xi Vưu nói, “Ta muốn gặp Viêm Đế.”

Cộng Công bối rối đáp, “Chuyện này ta phải xin ý kiến Chúc Dung đại nhân đã.”

Xi Vưu cười, “Đáng lẽ Chúc Dung phải giao cho ngươi toàn quyền phụ trách mọi chuyện trên Thần Nông sơn rồi chứ, nếu ngươi muốn xin ý kiến thì cứ đi đi, dù sao ta cũng chẳng hề hấn gì, muốn đợi bao lâu thì đợi, nhưng những thị vệ này liệu có đợi nổi không? Lẽ nào ngươi định trơ mắt nhìn bọn họ khóc đến chết ư?”

Cộng Công phân vân không sao quyết định, bèn nhìn sang Hậu Thổ, Hậu Thổ trông thanh tú như nữ tử, lời lẽ cũng vô cùng nhã nhặn, “Mọi việc xin nghe theo Cộng Công sắp xếp.” Ngừng một lát, gã lại nói thêm, “Viêm Đế đã dặn không gặp ai cả, nhưng Xi Vưu là đồ đệ duy nhất của ngài kia mà.”

Nhìn đám thị vệ đang khóc than tuyệt vọng xung quanh, Cộng Công đành thở dài bảo Xi Vưu, “Ta chỉ có thể đưa ngươi lên đỉnh Tử Kim xin gặp Viêm Đế, còn hôm nay Viêm Đế có gặp ngươi hay không, ta không đảm bảo được đâu.”

Xi Vưu vội chắp tay cảm tạ, “Một lời của Cộng Công đáng giá ngàn vàng!” Nói rồi hắn nắm tai A Tệ thì thào mấy câu, lập tức hai mắt A Tệ sáng lên, tiếng khóc nín bặt. Thấy A Tệ nghiêng đầu nhìn mình, Xi Vưu trang trọng bồi thêm: “Ta bảo đảm đấy!”

Nghe vậy A Tệ liền nhếch mép lên thành một nụ cười vui vẻ, cong cong tựa vành trăng non.

A Hành nắm lấy tai kia của A Tệ buồn bã nói: “Sao mày ngốc thế? Hắn bảo gì mày cũng tin à?”

A Tệ khẽ gừ gừ, dụi đầu vào người A Hành, cái đuôi xù vẫy qua vẫy lại, phẩy cả vào mặt A Hành, hai mắt như cũng cười tít lên thành hai vành trăng nhỏ cong cong.

A Hành chỉ biết lắc đầu ngao ngán.

A Tệ ngưng khóc, mắt xích của trận pháp cũng mất đi, Cộng Công vận linh lực gầm lên mấy tiếng khí thế nuốt chửng sơn hà, âm vang lan đi khắp Hồi Âm cốc, tất cả thị vệ nghe thấy đều giật nảy mình, nín bặt.

Nghe tiếng gầm của Cộng Công, A Hành ngấm ngầm kinh sợ, bắt đầu quan sát viên tướng được đặt ngang với Chúc Dung nhưng lại luôn đứng khuất sau cái bóng của Chúc Dung này, giờ đây nàng mới hiểu nguồn cơn câu nói của Xi Vưu, “Một lời của Cộng Công đáng giá ngàn vàng.”

Cộng Công cùng Hậu Thổ đưa Xi Vưu và A Hành lên tới đỉnh Tử Kim, đang định vào cầu kiến thì ông lão râu bạc quét tước trước điện đã ngẩng lên lạnh lùng bảo, “Viêm Đế lệnh cho Cộng Công và Hậu Thổ ở lại, còn Xi Vưu tới đỉnh Tiểu Nguyệt gặp ngài.”

Mặc cho hai người Cộng Công, Hậu Thổ tái mặt, Xi Vưu vội chắp tay từ biệt bọn họ.

A Hành thấy đã cách xa khỏi bọn họ mới khẽ lên tiếng hỏi: “Đỉnh Tiểu Nguyệt có gì khác lạ ư?” Ánh mắt Xi Vưu đầy vẻ trầm tư, “Điểm đặc biệt duy nhất của đỉnh Tiểu Nguyệt…”

Đang nói đột nhiên hắn ho lên mấy tiếng, đoạn phun ra một búng máu, tuy nãy giờ chẳng dùng tới chút sức lực nào nhưng để giữ được khí thế trước mặt Cộng Công và Hậu Thổ, hắn đã phải gắng gượng lắm rồi, “Chính là chúng ta chưa một ai đặt chân lên đó.”

A Hành khẽ nói: “Ngươi nghỉ một lát đi đã.”

Xi Vưu cười mệt mỏi, ngả đầu vào vai A Hành, nàng giơ tay định đẩy hắn ra nhưng rồi lại rút tay về, chỉ lặng lẽ ngồi yên cho hắn dựa.

Chẳng bao lâu, hai người đã tới Tiểu Nguyệt đỉnh.

Đó là một ngọn núi bất thường, không có cung điện, không có thị vệ, chẳng có gì hết, duy chỉ có cây cối um tùm. Một chú hươu sao đứng dưới gốc tùng đầu núi nhìn ra, vừa trông thấy hai người, nó liền tác lên mấy tiếng để đón khách.

A Tệ cũng cao hứng hú lên hòa với tiếng tác của hươu sao, trong thoáng chốc dường như cả vùng núi sông đều tươi tắn hẳn.

Chú hươu sao ngẩng cao đầu, tác lên một tiếng thật dài rồi nhảy nhót dẫn đường, như muốn nói: “Các vị, mời theo tôi!”

Hai người bám gót hươu sao men theo con đường nhỏ trong núi, xuyên hoa rẽ liễu mà đi, băng qua khe núi, họ tiến vào một sơn cốc.

Bỗng chốc, ánh lam dập dờn rọi vào mắt khiến ai nấy đều ngỡ như vừa đặt chân lên nền trời xanh biếc.

Cả sơn cốc phủ đầy các loài hoa xanh lam như đỗ quyên, bách hợp, mộc lan, phù dung, tường vi… chẳng hề lẫn chút tạp sắc. Sắc xanh biêng biếc hòa cùng màn sương mịt mù khiến cả sơn cốc toát lên vẻ mờ mờ ảo ảo như một nỗi tương tư đằng đẵng khôn nguôi, tựa hồ Giang Nam mỗi độ đầu xuân, thời tiết chợt ấm chợt lạnh, mưa bụi lất phất bay nhưng bầu trời vẫn xanh thăm thẳm, thậm chí còn điểm xuyết vài tia nằng nhạt, có điều hơi lạnh se se vẫn giăng mắc khắp cảnh vật cũng như trong lòng người.

Phóng tầm mắt ra xa chỉ thấy ba ngôi mộ trên sườn núi, bình lặng an nghỉ giữa biển xanh hoa biếc.

A Hành không bám theo hươu sao nữa mà trèo lên sườn núi tới trước mấy ngôi mộ, rẽ những nhành hoa sơn trà xanh biếc cao tới thắt lưng ra, thấy trên bia mộ lần lượt đề:

Mộ ái thê Thần Nông Thính Yêu,chồng là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.

Mộ con gái Thần Nông Nữ Oa, cha là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.

Mộ con gái Thần Nông Dao Cơ, cha là Thần Nông Thạch Niên đau buồn lập nên.[1]

[1] Theo Sơn Hải kinh và Thái Bình Ngự Lãm chép lại, Viêm Đế có ba con gái, một người là Dao Cơ, từ nhỏ đã yếu đuối bệnh tật, qua đời giữa lúc đang trẻ tuổi, sau khi chết hóa thành giọt sương trên cỏ. Một người nữa là Nữ Oa, không may chết đuối hóa thành chim Tinh Vệ, ngày ngày lấp biển.


Thần Nông thị nếm trăm loài cây cỏ để cứu thiên hạ nhưng lại không cứu nổi con gái mình.

Đây là lần đầu A Hành biết được Viêm Đế Thần Nông nếm cả trăm loài cây cỏ tên thật là Thạch Niên. Chạm vào những con chữ trên bia, nàng nhận ra chúng không phải được khắc lên mà được trực tiếp dùng tinh huyết trong tim viết thành, mỗi tấm bia là vô số giọt tinh huyết quý giá kết tụ, người viết đã dùng cả mạng sống của mình để tưởng nhớ kẻ nằm dưới mộ.

Viêm Đế chỉ cưới duy nhất một người vợ. Hơn ngàn năm trước, Viêm Hậu qua đời. Từ đó đến nay, vì đủ thứ mục đích, các tộc dâng lên không biết bao nữ tử xinh đẹp hiền đức nhưng đều bị Viêm Đế từ chối. Người đời đồn đoán rất nhiều lý do, trong đó đáng tin nhất là nếu Viêm Hậu khác được lập lên, ắt một tộc nào đó sẽ tha hồ bành trướng, mà Viêm Đế không muốn phá vỡ thế cân bằng hiện nay giữa các tộc nên đành bỏ trống ngôi Viêm Hậu.

Nhưng lúc này đây, nhìn dòng chữ trên bia mộ, A Hành lại nghĩ thầm: Có lẽ mọi người đều đoán sai cả, Viêm Đế bỏ trống ngôi Viêm Hậu chỉ vì một nguyên nhân rất đơn giản mà thôi.

Không thấy hai người theo sau, hươu sao nghi hoặc tác lên như giục giã. A Hành đứng dậy ngoảnh đầu lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên lề con đường mòn ngẩng đầu nhìn mình, ánh mắt hiền hòa mà kiên định, tựa hồ nàng có nấn ná lại đó bao lâu, hắn cũng sẵn lòng chờ đợi.

Dường như hắn là điểm sáng duy nhất giữa một vùng dào dạt những bi thương biêng biếc.

Tim A Hành bỗng nhiên đập mạnh, nàng chăm chú nhìn Xi Vưu rồi tung người nhảy xuống khỏi sườn núi. Thấy vậy Xi Vưu chỉ nhoẻn cười, dịu dàng nhắc nhở: “Cô từ từ thôi kẻo ngã.”

Hươu sao dắt bọn họ băng qua sơn cốc tới một khu đất rộng được phủ kín muôn hồng nghìn tía, mỗi thửa đất ở đây đều trông đủ các loại dược thảo khác nhau.

Một ông lão mặc quần vải thô xắn gấu đang miệt mài cuốc đất, nghe tiếng chân hươu sao, lão mới đứng thẳng dậy, dừng tay, ngoảnh lại cười với họ.

Nhìn ông lão trước mắt dung mạo bình thường, ăn vận giản dị nhưng để ý kỹ lại thấy toát lên khí thế như non xanh nước biếc, thiên địa tự nhiên, A Hành ngấm ngầm kinh hãi, liền hiểu ngay đây chính là Viêm Đế, người đứng đầu Tam Đế.

Viêm Đế lên tiếng, “Thật không ngờ Xi Vưu lại đưa cả khách tới.”

Xi Vưu vào thẳng vấn đề: “Cần thuốc giải, hai liều!” Chưa nói hết câu hắn đã kiệt sức tàn hơi, ngã phịch xuống bờ ruộng, miệng ứa máu đen.

Viêm Đế đưa cho Xi Vưu một viên thuốc giải, “Thứ độc này chỉ có một liều nên cũng chỉ chuẩn bị một liều thuốc giải thôi.”

Nói rồi ông quay sang bảo A Hành: “Tiểu cô nương, để ta khám cho cô nào.”

A Hành đưa tay ra, Viêm Đế vừa xem mạch đã cười hỏi: “Sao cô lại dẫn chất độc vào người mình?”

A Hành trừng mắt nhìn Xi Vưu, trả lời: “Không phải nguyên nhân như ngài nghĩ đâu, chỉ vì hắn còn nợ tôi thôi.” Thấy Xi Vưu bẻ đôi viên thuốc trong tay, nuốt một nửa còn một nửa đưa cho A Hành, Viêm Đế nói: “Dù ngươi có dị bẩm trời sinh nhưng gắng gượng được đến giờ đã là cực hạn rồi, mau uống hết thuốc giải của mình đi.”
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 4-12-2013 03:05 PM
Chương 9


Chữa vạn người, riêng mình khó chữa.


9.2


Xi Vưu không đếm xỉa gì tới Viêm Đế, chỉ chăm chú nhìn A Hành.

Thấy vậy mắt Viêm Đế thoáng vẻ ngạc nhiên, bèn quay sang nhìn kỹ A Hành, “Chất độc trong người tiểu cô nương tạm thời không sao, ta sẽ phối chế thuốc giải cho cô ngay.”

Xi Vưu nghĩ đi nghĩ lại rồi bỏ nốt nửa viên thuốc giải kia vào miệng.

Một chú chim đỏ rực đầu xuống vai Viêm Đế, Viêm Đế gỡ tấm thẻ ngọc khỏi chân nó, đọc xong ông gượng cười hỏi: “Ngươi phóng hỏa đốt Chỉ Ấp ư?”

Xi Vưu nhắm mắt không đáp, hai tay sục sâu vào lòng đất, sắc mặt hắn từ từ khá lên, trong khi đó, mặt đất cùng hết thảy kì hoa dị thảo trông trên núi đều nhợt nhạt hẳn đi, như thể Xi Vưu đã hấp thụ hết sức sống của cả vùng đất này.

Thấy A Hành tròn mắt nhìn đầy kinh hãi, Viêm Đế giải thích: “Hắn tự ngộ được đạo trời, công pháp đi theo một con đường riêng, chúng ta không hiểu được đâu.”

A Hành lúng túng hỏi thêm: “Con lang điểu đó bị bắt rồi ư?”

Viêm Đế vuốt ve con chim đỏ rực trên vai, nó liền sải cánh bay đi, “Ta đã truyền lệnh sai Du Võng trông nom nó rồi, không để Chúc Dung động tới nó đâu.”

Nghe vậy A Hành mới nhẹ lòng, “Đa tạ ngài.”

Viêm Đế thở dài: “Chúc Dung ghét cay ghét đắng Xi Vưu, nếu hắn có mặt, nhất định Xi Vưu không thể lên núi thuận lợi như vậy, có điều hắn vừa nảy lòng tham đã bị Xi Vưu lợi dụng ngay.”

A Hành càng lúc càng bối rối, lẽ nào không phải kẻ hạ độc cố ngăn trở Xi Vưu gặp Viêm Đế ư? Sao nghe như thể Viêm Đế cố ý sai người trấn giữ Thần Nông sơn thế nhỉ?

“Khi nào ông mới chịu chế thuốc giải cho A Hành đây?” Xi Vưu đứng trước mặt hai người, ánh mắt sáng rực, hiển nhiên vết thương đã bắt đầu lành.

Viêm Đế quay lưng đi về phía căn nhà trúc, “Mai mới chế được thuốc giải, hôm nay hai ngươi ở lại đây đi.”

A Hành cùng Xi Vưu nối gót Viêm Đế bước vào căn nhà trúc, Xi Vưu bó gối ngồi xuống bên cửa sổ, Viêm Đế lấy bộ đồ trà ra pha, nhưng A Hành không nỡ để ông làm, bèn giành lấy, “Để tôi, lúc ở nhà tôi thường pha trà cho mẹ.”

Viêm Đế gật đầu cười, đưa cây quạt hương bồ cho A Hành rồi ngồi xuống đối diện với Xi Vưu, trầm ngâm không nói.

Đột nhiên Xi Vưu lên tiếng: “Ta nghi ngờ Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ, thậm chí nghi ngờ cả Du Võng và Vân Tang nhưng vẫn một mực tin rằng ông không biết gì cả. Mãi đến khi tới Thần Nông sơn ta mới phát hiện ra, kẻ có khả năng hạ độc nhất chính là ông, chỉ Thần Nông thị nến trăm loại thảo dược, am hiểu dược tính mới có thể chế được độc chất lợi hại thế này. Tại sao vậy? Sư phụ!”

Tiếng “sư phụ” của Xi Vưu gọi nghe lạnh buốt, khiến cả căn phòng tựa hồ đông cứng lại. A Hành nín thở lén liếc Xi Vưu nhưng hắn đã ngoảnh ra cửa sổ, không sao thấy được sắc mặt.

Viêm Đế im lặng nhìn Xi Vưu, nhất thời không khí trong phòng yên tĩnh đến nghẹt thở.

Tiếng nước sôi sùng sục phá vỡ bầu không khí nặng nề, A Hành lóng ngóng pha trà rồi hấp tấp bưng lên bàn, đoạn kiếm cớ tránh đi, “Tôi ra ngoài xem hươu sao và A Tệ đang làm gì.”

Nào ngờ Xi Vưu bỗng ấn nàng ngồi xuống bên cạnh, “Cô có quyền được biết nguyên nhân mình trúng độc.”

Cặp mắt hắn vẫn nhìn chằm chằm Viêm Đế đầy khiêu khích, “Sư phụ, ông đã muốn giết ta, sao còn thu nhận ta?” Viêm Đế mỉm cười quay sang hỏi A Hành: “Cô có biết Xi Vưu trở thành đồ đệ duy nhất của ta thế nào không?”

A Hành lắc đầu.

Viêm Đế bưng tách trà lên, ngoảnh nhỉn ra cửa sổ, “Mấy trăm năm trước, trong một buổi chầu, quan viên quản lý sự vụ Tây Nam tấu rằng đám tiện dân Cửu Di đã làm phản, còn giết hại mấy trăm quan viên Nhân tộc cùng một quan viên Thần tộc, lúc đó ta đang rối bời vì bệnh tình của Dao Cơ, bèn sai Du Võng lo liệu việc này. Hơn trăm năm sau, Chúc Dung dâng sớ vạch tội Du Võng, thì ra mối họa Cửu Di bắt nguồn từ một con yêu thú không rõ lai lịch, tự ngộ được đạo trời, có khả năng hiệu lệnh muông thú nên được tộc Cửu Di tôn xưng làm Thú vương, nhưng thực ra, nó còn hung tàn ác độc hơn hổ báo. Du Võng thương xót đám tiện dân Cửu Di, không nỡ xuống tay giết hại nó, có điều con yêu thú ấy ngu xuẩn hồ đồ, đã đả thương mười mấy đại tướng của ta. Vì chuyện này mà Du Võng cùng Chúc Dung xung đột liên miên, không sao dàn xếp nổi, ta tra rõ sát nghiệp yêu thú phạm phải rồi khiển trách Du Võng, đồng thời chấp nhận cho Chúc Dung đi tiêu diệt Thú vương của Cửu Di.”

A Hành sớm đã đoán ra con dã thú ấy chính là Xi Vưu, tuy chuyện đã qua lâu nhưng tưởng tượng vẫn thấy kinh hồn bạt vía, Xi Vưu từng bị đám cao thủ Thần tộc truy sát cả trăm năm nay, hèn chi lúc hắn lẩn trốn, đến Đại ca thần lực cao cường cũng tìm không nổi. Viêm Đế nhấp ngụm trà, ngừng một lát mới kể tiếp: “Ta cứ ngỡ rằng thế là xong, nào ngờ một đêm Du Võng đột ngột cầu kiến, nói Cửu Di tộc đã đầu hàng, cam nguyện đời đời kiếp kiếp làm tiện dân, chỉ đưa ra một điều kiện duy nhất là xin tha cho Thú vương của họ. Du Võng vật nài ta triệu Chúc Dung về khiến ta không khỏi nảy dạ tò mò với con dã thú ấy, ngay đêm đó bèn tới Cửu Di. Lúc ta tìm thấy họ trong đầm lầy, tình cảnh bấy giờ vừa nguy hiểm vừa tức cười, dã thú tự đem thân làm mồi, nhử gã Chúc Dung kiêu căng nôn nóng vào vùng đầm lầy thi độc, độc trùng trong đó muôn hình vạn trạng, mấy thần tướng thảy đều trúng độc, còn Chúc Dung rõ ràng có thể phóng một mồi lửa thiêu chết con yêu thú đó, nhưng một khi phát hỏa sẽ làm nổ tung khí ứ tích tụ trong đầm lầy mấy vạn năm nay, dù hắn có hỏa linh hộ thể, quá lắm cũng chỉ bị thương nhẹ nhưng các thần tướng kia thì chết chắc. Bấy giờ Chúc Dung chửi bới ầm ĩ, quyết lột da xẻ thịt dã thú, dã thú cũng chưa sõi tiếng người, chỉ nghiến răng nghiến lợi gầm gừ đồng thời vỗ ngực liên tục, như thế nói, tới đây, tới đây đốt chết ông mày đi!”

Viêm Đế thuật lại rồi bật cười nhìn Xi Vưu, đoạn quay sang bảo A Hành, “Lúc đó ta vô cùng kinh ngạc, dã thú sinh trưởng nơi rừng núi biết cách lợi dụng trùng độc chướng khí cũng chẳng lấy gì làm lạ, chính cái địa điểm nó chọn để cùng chết với kẻ thù hết sức thông minh, đầm lầy vốn là một chỗ kỳ lạ, lẫn lộn cả đất và nước, cả hai đều có thể khắc chế hỏa linh, thêm vào đó nơi này nồng đặc khí ứ, chỉ cần một đốm lửa là nổ tung, Chúc Dung rơi vào đây chắc chắn sẽ mất hết khả năng khống chế mọi thứ. Xem ra con dã thú nói không sõi tiếng người này còn nắm vững cách vận dụng thiên thời địa lời hơn nhiều cao thủ Thần tộc.”

Nghĩ tới trận pháp tiếng vọng khi nãy, A Hành cũng gật đầu tán đồng, Viêm Đế lại kể tiếp: “Ta nhận ra con dã thú đó vốn không phải thú mà là một kẻ không cha không mẹ được muông thú nuôi lớn, bèn lệnh cho Chúc Dung im miệng rồi từ từ bắt quen với nó, mặc cho nó đối với ta đầy thù địch, vừa ra vẻ lắng nghe ta nói lại vừa xảo trá điều khiển độc trùng độc thú đánh lén ta, thăm dò nhược điểm của ta, tiếc rằng nó không biết ta thông thạo dược tính, mấy thứ độc đó vốn không thể làm hại ta được. Càng quan sát ta càng kinh ngạc trước thiên tư của nó, đồng thời cũng càng thêm sợ hãi, thiên tư cao như thế, lại hung tàn hiếu sát như thế, phút chốc ta vừa mừng rỡ vì tìm ra một kẻ có tư chất trời sinh, vừa cảm thấy nên giết hắn ngay lập tức.”

Rõ ràng đây cũng là lần đầu Xi Vưu biết được sự sống chết của mình chỉ phụ thuộc vào một ý nghĩ của Viêm Đế, hắn ngoảnh lại nhìn Viêm Đế vẻ thờ ơ, chẳng biết trong lòng đang nghĩ gì. “

Giữa lúc đương phân vân chưa quyết, bỗng một đóa hoa rụng từ đâu bay lại, con khỉ hung tàn xảo trá đó liền bắt ngay lấy ngắm nghía thật kỹ, bốn bề xung quanh đều bẩn thỉu hôi hám, dường như nó sợ làm bẩn đóa hoa nên đã cẩn thận cài luôn lên đầu. Trông đầu nó lông tóc bù xù lại cài một đóa hoa dại, bộ dạng rất tức cười, còn trợn trừng hai mắt nhìn ta, ta nhịn không được cười phá lên, cũng chẳng định giết nó nữa, bèn lệnh cho bọn Chúc Dung lui cả ra, để lại mình ta với nó trong đầm lầy suốt mười ngày mười đêm, cuối cùng cũng giành được lòng tin của nó, đưa nó rời khỏi đó. Ban đầu ta ra điều kiện rằng sẽ chữa khỏi vết thương và cái chân cho nó, đổi lại nó phải theo ta về Thần Nông sơn, nhưng bị nó từ chối. Dần dà ta nhận ra tuy nó bạo ngược nhưng cũng rất ngây thơ, cách duy nhất để kết bạn với nó là phải thật lòng đối đãi, bèn nói thẳng ra rằng ta thấy nó thông minh đĩnh ngộ, đánh bầy cũng muông thú thì thật đáng tiếc nên muốn nó trở thành một người như ta đây, nghe vậy, nó liền đồng ý tới Thần Nông sơn.”

Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành, ánh mắt trong trẻo sáng rõ tựa vầng trăng trong vắt đêm xuân, lại như đóa hoa dại đơn sơ bên khe núi, khiến A Hành vừa hoang mang vừa bối rối, vội ngoảnh đi tránh ánh nhìn của hắn, “Con dã thú đó sau này đã trở thành đồ đệ của ngài, mang tên ‘Xi Vưu’?”

Viêm Đế gượng cười: “Sau khi về Thần Nông sơn, ta cũng mất bao công sức mới thuyết phục được hắn chịu làm đồ đệ đấy. Thoạt đầu phải giải thích mãi cho hắn hiểu sư phụ và đồ đệ nghĩa là gì, hiểu được rồi hắn liền lắc đầu quầy quậy, cho rằng mình bị thiệt, ta đành hứa sẽ xóa bỏ tiện danh Cửu Di, ban tên mới là Cửu Lê, lại đem trứng cá côn ở Bắc Minh ra trao đổi, nói với hắn chỉ cần ấp cho trứng nở thì tương lai có thể bay lên trời, hắn mới chịu miễn cưỡng nhận lời.”

A Hành rất hiểu nụ cười gượng gạo của Viêm Đế, e rằng tất cả thiếu niên trong thiên hạ đều mơ được làm đồ đệ Viêm Đế, vậy mà để thu nhận gã Xi Vưu này, Viêm Đế lại phải vừa lừa vừa nhử.

Viêm Đế nhìn tên đồ đệ của mình, ánh mắt vô cùng phức tạp, “Thiên tư của ngươi vượt xa người thường, ngày tiến ngàn dặm khiến ta vừa mừng vừa sợ. Từ khi quyết định nhận ngươi làm đồ đệ, trong lòng ta đã coi ngươi là người thân nhất, cũng giống như Vân Tang, Du Võng, Mộc Cận vậy, ta vui mừng theo từng bước tiến bộ của ngươi, nhưng ta vẫn là vua một nước, thân làm Viêm Đế, ta không thể không e sợ ngươi. Ta sợ rằng một ngày nào đó, Chúc Dung hay ai đó kích động khiến cuồng tính của ngươi phát tác, ngươi sẽ đem hết sở học của mình ra đối phó với trăm họ Thần Nông nên đành phải hạ độc ngươi.” Dẫu Chúc Dung nóng nảy tham lam thế nào, Hậu Thổ ẩn nhẫn âm trầm ra sao cũng vẫn còn nhược điểm và ràng buộc, chỉ có Xi Vưu không cha không mẹ, không gì níu kéo, tính tình lại cuồng vọng bất kham, trời không ràng đất không buộc nổi mà thôi.

Xi Vưu sốt ruột cất tiếng, “Thôi được rồi, ta không muốn nghe ông dông dài, cũng chẳng buồn tính sổ chuyện ông hạ độc đâu, ông mau giải độc cho A Hành đi, ta mãi mãi không quay lại nữa là xong chứ gì.” Viêm Đế cười nhìn Xi Vưu, nét mặt thoáng vẻ hiền hòa, “Một trăm tám mươi năm trước ngươi nổi giận rời khỏi Thần Nông sơn, ta đã ngỡ rằng ngươi chẳng bao giờ hồi tâm chuyển ý nữa, vậy mà nửa đêm Du Võng lại đuổi theo kéo ngươi về. Khi đó ta biết mình đã nhìn lầm ngươi, nhưng chần chừ trong phút chốc, cuối cùng vẫn không giải độc cho ngươi. Ta vốn định đợi ngươi dự tiệc Bàn Đào trở về. Lệnh cho bọn Chúc Dung trấn giữ Thần Nông sơn, cấm tất cả mọi người lên núi, không phải là để ngăn trở ngươi mà bởi ta đã bị trúng độc, sắp chết tới nơi rồi.” Câu nói sau cùng của Viêm Đế quá kỳ quái, khiến người ta còn tưởng mình nghe lầm, nhưng Viêm Đế lại lặp lại rành rọt, “Xi Vưu, ta đã trúng độc, chẳng sống được bao lâu nữa đâu.”

Xi Vưu vội nắm lấy cổ tay Viêm Đế, Viêm Đế không hề phòng bị, mặc cho hắn khống chế mệnh môn, “Hiên Viên có Thanh Dương, Cao Tân có Thiếu Hạo, còn Thần Nông lại chẳng có kẻ kế nhiệm nào đủ sức đảm đương cả, Du Võng tâm địa thiện lương nhưng năng lực tầm thường, Chúc Dung quá tham lam tàn nhẫn, dã tâm còn cao hơn năng lực, Cộng Công lại cứng nhắc câu nệ hết sức, không biết biến báo, Hậu Thổ tuy có tài, có thể bồi dưỡng được nhưng bề ngoài hiền hòa khiêm tốn mà tâm địa gian trá, nhẫn nhục dè dặt quá mức, đám vô lại không có tiền đồ đó chẳng ai chịu ai, e rằng ta vừa nằm xuống chúng đã đấu đá tranh đoạt lẫn nhau đến long trời lở đất, Du Võng chẳng trấn áp nổi đâu.”

Viêm Đế không nguôi trăn trở, “Hiên Viên Hoàng Đế đã sẵn sàng gươm giáo, nhẫn nhịn cả ngàn năm rồi, giờ đây tin ta chết sẽ thay ông ta rúc hồi kèn giục đại quân Đông tiến. Cao Tân và Thần Nông lại đấu đá suốt mấy vạn năm nay, giữa lúc then chốt để Tuấn Đế hiện thời kế vị, phụ vương ta đã phái mười vạn đại quân áp sát, nếu không có Thiếu Hạo ra sức ngăn cản e rằng Tuấn Đế đã thành đống xương khô từ lâu, thù này há có thể bỏ qua sao?”

Giữa đôi mày Viêm Đế trùng trùng những lo âu, hệt như từng trái từng trái núi sắp đổ sụp xuống khiến A Hành trông mà lạnh toát cả người, tim đập thình thịnh, tựa hồ đã thấy thiên quân vạn mã đang sầm sập kéo đến, vậy mà Xi Vưu dường như chẳng để những lời đó vào tai, chỉ chăm chú dùng linh lực tra xét thân thể Viêm Đế.

Giọng Viêm Đế đượm vẻ bất lực mà thê lương, “Sự yên ổn hòa bình mấy vạn năm nay trên đại hoang kết thúc tới nơi rồi, chúng sinh thiên hạ lại sắp rơi vào vòng chiến loạn liên miên không dứt.”

Thấy Xi Vưu lặng lẽ buông tay ra, Viêm Đế liền chăm chú nhìn hắn, “Nể tình ta chẳng còn sống được bao lâu, ngươi tha thứ cho lão già này được không?”

Xi Vưu lạnh lùng đáp: “Ông đâu đã chết.” Tuy giọng điệu vẫn đầy vẻ vô tình nhưng hắn không nhắc tới chuyện ra đi nữa.

Viêm Đế cười nói: “Ta định trước khi chết sẽ phong ngươi làm Đốc Quân Đại tướng quân, không chỉ thống lĩnh toàn bộ quân đội Thần Nông quốc mà còn có quyền bác bỏ những quyết định của Viêm Đế. Có điều quân đội Thần Nông chia làm sáu, một phần là tùy tùng của Viêm Đế, chỉ Viêm Đế mới có quyền điều động, còn năm phần kia…” Viêm Đế thở dài, “Trên thực tế, ngươi có điều động nổi toàn bộ quân đội hay không, thì phải trông vào bản lĩnh của ngươi thôi.” Nói rồi Viêm Đế đứng dậy, “Ta đi chế thuốc giải cho A Hành.”

Viêm Đế vừa ra ngoài, A Hành đã tóm chặt lấy tay Xi Vưu lắp bắp hỏi: “Viêm Đế… Viêm Đế nói có… có thật không? Viêm Đế là Thần Nông thị y thuật đứng đầu thiên hạ, sao có thể không chữa được cho mình chứ?”

Xi Vưu thản nhiên nói: “Để trị bệnh cứu người, ông ta phải nghiên cứu dược tính, nếm qua quá nhiều chất độc, nhiều loại thuốc hỗn tạp tích tụ trong cơ thể ông ta, cứ thế bào mòn sức khỏe, hai năm nay, hẳn ông ta lại nếm những loài cây cỏ độc không tên, tuy đã giải trừ chất độc vốn có của chúng, nhưng cỏ độc lại khơi dậy độc tố tích tụ trong người suốt mấy ngàn năm, giờ đây vạn độc cùng phát, chẳng thuốc nào trị nổi.”

“Vậy cũng phải có cách gì chứ?”

Xi Vưu cúi đầu nhìn A Hành, khẽ vuốt tóc nàng rồi lặng lẽ lắc đầu.

A Hành đột ngột buông tay Xi Vưu, chạy ra khỏi phòng, nàng ngẩng đầu nhìn trời, ra sức hít vào thật sâu nhưng vẫn thấy tức thở.

Bao năm nay ba nước kết thành thế chân vạc , trăm họ được thái bình yên ổn là nhờ Viêm Đế đức cao vọng trọng, quy tụ được lòng người thiên hạ, dù hùng tài đại lược như phụ vương cũng không dám làm trái ý trời, nhưng nếu Viêm Đế chết đi rồi… A Hành chẳng dám nghĩ tiếp nữa.

Trên sườn núi xa xa, ánh tịch dương đã nhuộm vàng những cánh rừng trùng điệp, A Tệ đang nô đùa với hươu sao, một bên rượt một bên chạy, một bên trốn một bên nấp, tiếng kêu vui vẻ vang khắp núi rừng.

A Hành ngơ ngẩn lần theo dấu chân chúng tới sơn cốc xanh biếc thì mất dấu, chẳng rõ A Tệ và hươu sao đã đi đâu.

Nàng ngồi trên triền núi, dõi mắt nhìn về phía trời Tây đỏ rực ráng chiều.

Ánh tịch dương đang từ từ lịm tắt, bây giờ là thời khắc bình yên đẹp đẽ sau cùng.

Nàng tiện tay ngắt hai chiếc lá đặt lên môi làm kèn thổi, tiếng kèn réo rắt truyền đi trong sơn cốc.

Có người lần theo tiếng kèn tới ngồi cách đó không xa, nhưng A Hành chẳng hề để ý, chỉ mê mải thổi kèn.

Thổi hết một khúc, nàng mới ngoảnh lại, nhận ra Viêm Đế đang lặng lẽ ngồi bên mấy nấm mộ.

Gió chiều lồng lộng, cả biển hoa xanh biêng biếc dập dờn lay động như những ngọn sóng nhấp nhô, bóng dáng Viêm Đế cũng lúc mờ lúc tỏ.

A Hành bước tới ngồi xuống bên cạnh Viêm Đế.

Viêm Đế dõi mắt ngắm tà dương, mỉm cười: “Cô hơi giống một người bạn của ta, không phải giống ở dung mạo, mà giống ở một vài cử chỉ.”

A Hành im lặng, mê mải ngắm hoàng hôn. “

Bà ta tên Tây Lăng Luy, tuy bây giờ rất ít người biết cái tên đó, nhưng hơn ba ngàn năm trước, bà ta là nữ tử nổi tiếng nhất đại hoang, được xưng tụng là Tây Lăng kỳ nữ, phụ vương ta từng sai huynh trưởng ta tới cầu hôn.”

A Hành hỏi: “Bà ấy có nhận lời không?”

Viêm Đế lắc đầu: “Không, nếu bà ta nhận lời thì có lẽ huynh trưởng ta đã trở thành Viêm Đế.” A Hành lại hỏi: “Vậy vợ ngài là người như thế nào?”

Nghe nàng hỏi, Viêm Đế chỉ cười buồn: “Cô thật rất giống bà ta. Rất nhiều năm về trước, A Luy cũng từng hỏi ta câu này, trước bà ấy chưa ai quan tâm tới chuyện đó, sau bà ấy lại chẳng ai dám hỏi chuyện đó nữa, cô là người thứ hai hỏi ta câu này đấy.”

Viêm Đế dịu dàng đặt tay lên mộ vợ, vẻ mặt chan chứa tương tư đằng đẵng, “Ta từ nhỏ linh lực thấp kém, pháp thuật không cao, tướng mạo lại chẳng lấy gì làm xuất chúng nên không được phụ vương xem trọng, các anh em không mấy khi chơi cùng, ta cũng chỉ thích loay hoay trồng hoa trồng cỏ một mình. Ngoài thành Chỉ Ấp có một dòng sông tên Tể Hà, hai bên bờ sông là nơi ở của những người linh lực thấp kém trong Thần tộc, bọn họ không có khả năng làm quan, cũng chẳng hề tòng quân, đành trông vào chút linh lực đó mà buôn bán nhì nhằng để kiếm sống thôi, trong số những người ấy có một cô gái bán hoa rất thích dùng linh lực trồng ra các loài hoa xanh biếc, có mẫu đơn xanh, phù dung xanh, phong tín tử xanh…”

Viêm Đế khẽ vuốt ve đóa sơn trà xanh bên cạnh, “Lần đầu tiên ta gặp nàng là vào một buổi mai ẩm thấp, ta ra bờ sông hái thảo dược còn nàng đi múc nước, trên mình còn vận một chiếc váy dài nền trắng hoa xanh, bên tóc mai còn cài một đóa hoa sơn trà biêng biếc. Lúc đó ngoài bờ sông rất vắng người, hai ta mỗi người đứng ở một bên bờ trông sang nhau, đột nhiên nàng hé miệng cười khiến ta hoảng hốt chẳng dám nhìn lâu, hấp tấp cầm cuốc lên cuốc đất, kết quả cuốc phải chân mình, làm nàng bật cười khúc khích. Ta phải nằm trên giường tĩnh dưỡng suốt một tháng, cũng chẳng hiểu sao vết thương vừa khỏi, ta liền tính toán lựa đúng lúc nàng đi múc nước để ta bờ sông, thoạt đầu mấy tháng một lần, sau dần dà mấy ngày lại ra một lần, sau nữa thì ngày ngày ta đều ra hái thảo dược, nhưng chẳng dám bắt chuyện với nàng. Hồi còn niên thiếu ta vốn rất nhút nhát hướng nội, hễ trông thấy nàng là tim đập chân run, đến nhìn cũng chẳng dám nhìn nhiều, chúng ta cứ thể ở hai bên bờ trông sang nhau mà chẳng trao đổi câu nào cả. Ba năm sau phụ vương lệnh cho ta theo anh trai tới Tây Lăng gia cầu hôn, vì A Luy rất giỏi nuôi tằm, mà ta lại trồng được một gốc dâu bích ngọc, phụ vương cho rằng ta có thể giúp anh lấy lòng A Luy, bèn sai ta đi cùng. Lần cầu hôn đó thất bại thảm hại, anh trai ta bị A Luy xoay cho khóc dở mếu dở, nhưng ta với bà ấy lại thành bạn thân, A Luy còn rủ ta cùng tới đại hoang chơi, đương nhiên ta liền nhận lời ngay, sau này chúng ta quen thêm cả A Mi hát hay múa dẻo, ba người kết thành huynh muội. Trong ba người ta lớn tuổi nhất, nhưng A Luy lại táo tợn nhất, luôn đầu têu nhưng việc ta chẳng bao giờ dám nghĩ đến.”

Viêm Đế lắc đầu cười, vẻ phóng khoáng lồng lộng trên vầng trán rộng, phấn chấn kể tiếp, “Đó là những tháng năm sôi nổi nhất đời ta, đến ta cũng chẳng dám tin mình có thể rượu say gây sự, ẩu đả đánh nhau như thế nữa. Ba người chúng ta còn hẹn ‘sẽ mãi mãi ở bên nhau, mãi mãi vui vẻ như hiện thời’. A Luy cao giọng nói nếu ai vi phạm bà ấy sẽ phạt người đó. Nhưng khi bà ấy gặp gã thiếu niên rạng rỡ như mặt trời đó, chính bà ấy lại vi phạm đầu tiên. Hôm bà ấy đi, chúng ta cùng ngồi trên triền núi ngắm tà dương như thế này, ta thổi một khúc, A Luy hát còn A Mi múa. Ta chưa thổi hết bài, A Mi cũng chưa múa hết điệu thì A Luy đột ngột nói và ấy phải đi, phải đi tìm gã thiếu niên rạng rỡ như mặt trời đó. A Mi vô cùng giận dữ, đùng đùng bỏ đi. Ta tiễn A Luy, bà ta hỏi ta đã phải lòng cô nương nào chưa, đã có người mà mình muốn ở bên suốt đời hay chưa, khiến ta sực nhớ tới nữ tử áo xanh bên bờ Tề Hà kia. A Luy nói với ta, ‘Nếu huynh thích nàng thì nên bày tỏ lòng mình ngay đi, lẽ nào huynh không sợ nàng sẽ lấy người khác ư?’ Nghe bà ta nói, ta đột nhiên phát hoảng lên, lập tức quay về, chẳng kịp từ biệt A Mi nữa.”

Tuy biết sau cùng hai người kết thành chồng vợ nhưng A Hành vẫn hồi hộp hỏi, “Ngài có tìm được bà ấy không? Bà ấy vẫn ở bên bờ Tể Hà chứ?”

“Nửa đêm ta về tới bờ sông, chờ mãi đến bình minh mà chẳng gặp được nàng. Đóa hoa xanh biếc bên bờ vẫn bừng nở trong gió nhưng nữ tử cài hoa chẳng biết đã đi đâu. Ta vừa thất vọng vừa buồn bã, ngơ ngẩn ngồi bên sông suốt từ sáng đến tối như kẻ mất hồn, mãi tới khi đêm buông tối mịt, ta ngoảnh lại mới nhận ra nàng đang đứng phía sau, đóa hoa tang xanh biếc cài bên mái tóc, rưng rưng nước mắt nhìn ta. Thấy vậy, ta ngỡ người nhà nàng qua đời, lòng như lửa đốt, quên khuấy mất chúng ta chẳng quen biết gì nhau, thế nên câu đầu tiên ta nói với nàng là ‘cô đừng quá đau buồn, sau này ta sẽ chăm sóc cho cô.’ Nàng nhoẻn cười gỡ đóa hoa tang ném xuống sông, ‘hai mươi năm nay chẳng thấy ngươi xuất hiện, ta cứ tưởng ngươi đã xảy ra chuyện rồi.’ Bấy giờ ta mới hiểu thì ra nàng cài hoa để tang ta.”

“Sau đó thì sao?”

“Sau đó dĩ nhiên chúng ta còn phải trải qua rất nhiều sóng gió, phụ vương ta nhất quyết không đồng ý, viện cớ thân phận nàng quá thấp hèn, may có Xích Thủy thị giúp đỡ, ghi tên Thính Yêu vào tộc phả, nhờ đó nàng mới được gả cho ta dưới thân phận Xích Thủy thị.” Viếm Đế mìm cười vuốt ve tấm bia mộ.

“Thính Yêu giống như những đóa hoa dại trên triền núi này vậy, thoạt nhìn yếu ớt mong manh nhưng mưa to gió lớn đến mấy cũng chẳng vùi dập nổi, tiếc rằng chính ta lại hại chết nàng. Thể trạng Thính Yêu không tiện mang thai sinh nở nhưng ta thân làm Viêm Đế, nhất định phải có con nối dõi, thế nên nàng vì ta mà mang thai hết lần này sang lần khác, lúc sinh được Du Võng thì thân thể không chống chọi nổi nữa.” Viêm Đế ngả đầu vào bia mộ vợ, khẽ thì thầm: “Người người đều ca tụng ta y thuật quán tuyệt thiên hạ nhưng ta không cứu nổi nàng, chẳng cứu sống được Nữ Oa, cũng chẳng chữa khỏi cho Dao Cơ, một thầy thuốc vô dụng như ta chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn họ từng người từng người chế đi trước mắt mình, A Luy, muội nói xem liệu Thính Yêu có oán trách ta không?”

A Hành biết tinh thần Viêm Đế đang rối loạn nên mới lầm lẫn giữa mình và mẹ, nàng đành nín thinh không dám lên tiếng, sợ Viêm Đế bị kích động.

Chỉ nghe Viêm Đế lẩm bẩm nói: “A Luy, ta là kẻ ích kỷ vô cùng! Đã biết sau khi ta chết sẽ có rất nhiều người đau khổ nhưng lại thầm mong mình chết cho mau, lúc Dao Cơ chết đi, ta chỉ muốn theo con bé quách cho rồi, có vậy ta mới được đoàn tụ cùng Thính Yêu. Người trong thiên hạ cứ ngỡ Viêm Đế đau buồn thành bệnh chỉ là nói phóng đại, có ai biết từ sau khi Thính Yêu ra đi, ta đã đổ bệnh, bệnh hơn ngàn năm nay rồi.”

Viêm Đế nắm lấy tay A Hành, “Từ khi ta lên làm Viêm Đế, chúng ta chẳng còn thư từ qua lại gì, nhưng lúc Dao Cơ ra đi muội lại gửi thư khuyên ta đừng đau buồn quá độ, phải biết rằng ta không chỉ là chồng của một người phụ nữ, cha của ba đứa con gái mà còn là Viêm Đế của toàn thiên hạ! Điều này sao ta không hiểu chứ? Nếu không hiểu, năm xưa ta sẽ không phản lại lời thề với Thính Yêu trong đêm tân hôn mà lên ngôi kế vị trở thành Viêm Đế, cũng sẽ không thể gắng gượng hết năm này sang năm khác tới tận hôm nay. Nhưng ta mệt lắm rồi, A Luy ạ! Lần này độc phát, ta đã nghĩ: vậy là muội không thể lấy đạo lý ra khuyên nhủ ta được nữa, ta nhất định phải chết rồi! A Luy, ta với muội tình như anh em, nhưng vì ta là Viêm Đế nên muốn gửi một bức thư cũng phải tránh tránh né né, Thính Yêu cũng vì ta là Viêm Đế mà mất sớm. Đời ta từ khi đăng cơ tới nay, tính kỹ lại những ngày vui vẻ chẳng được bao năm, sinh mệnh dài đằng đẵng mà niềm vui lại hiếm hoi, ta mệt lắm rồi, chỉ muốn nghỉ ngơi mà thôi, ta ích kỷ nên chỉ muốn nghỉ ngơi thôi…”

A Hành ròng ròng nước mắt, khẽ an ủi: “Ngài đừng ngại, cứ nghỉ ngơi đi, ngài đã gắng gượng vì muôn dân Thần Nông bao nhiêu năm nay rồi, chẳng ai nỡ trách ngài ích kỷ đâu.”

Đột nhiên nàng trông thấy Xi Vưu đang chạy như bay tới, người chưa đến mà linh lực đã đến trước, vây quanh bảo vệ cho Viêm Đế, vô số đóa hoa trắng li ti bỗng xuất hiện bao phủ lấy người đứng đầu Thần Nông quốc, linh thức của Viêm Đế cũng theo đó mà từ từ bình ổn, ông ngủ thiếp đi.

Xi Vưu vặn hỏi nàng: “Cô nói gì với ông ta thế? Bây giờ ông ta không chịu được kích động mạnh đâu.”

A Hành buồn rầu đáp: “Ta không nên tò mò hỏi những chuyện liên quan tới Viêm Hậu mới phải.”

Xi Vưu chăm chú nhìn nàng: “Sao cô lại để lộ dung mạo thật ra rồi?”

A Hành nghe nói mới sờ lên mặt, “Vừa nãy Viêm Đế nhắc tới mẹ ta khiến ta bất giác nghĩ tới hình ảnh mẹ mình lúc trẻ, chắc bởi thế nên Trụ Nhan hoa mới biến gương mặt ta trở lại như cũ.” Hèn chi tâm trạng Viêm Đế kích động như vậy, hóa ra đã lầm A Hành là mẹ của nàng.

Hết chương 9

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 4-12-2013 03:28 PM
Chương 10


Dưới cội hoa đào cùng thề hứa.


10.1


“Tháng tư hàng năm, khi hoa đào nở đầy trên sườn núi là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê tộc, mọi người đều tụ tập dưới gốc đào hát tình ca tìm người thương. Từ sang năm trở đi, cứ đến tháng Tư, ta sẽ chờ cô dưới cội hoa đào ở Cửu Lê, không gặp không về.”


A Hành trằn trọc suốt đêm không chợp mắt. Trời vừa hửng sáng nàng đã trở dậy, thấy người mệt mỏi vô cùng, nhưng tinh thần lại rất tỉnh táo, không hề buồn ngủ chút nào.

Thấy Viêm Đế đang ngồi dưới hành lang đẽo tượng gỗ, nàng bèn bước lại ngồi đối diện với ông, nhìn ông lão hiền từ trước mặt, nàng không sao chấp nhận nổi việc con người đang gìn giữ sự yên bình cho địa hoang này lại sắp từ giã cõi đời.

Viêm Đế lên tiếng: “Tối qua ra thất thố trước mặt tiểu cô nương, khiến cô phải chê cười rồi.”

A Hành gỡ Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, phân trần, “Bá bá, con là con gái của Tây Lăng Luy, tên thật là Hành, mẹ con gọi con là Hành nhi.”

Viêm Đế chăm chú nhìn A Hành hồi lâu rồi từ từ dời mắt nhìn sang Trụ Nhan hoa trong tay nàng, A Hành nhoẻn miệng cười, gài lại đóa hoa lên búi tóc, “Cái này con thắng được bên chỗ dì Mi đó.”

Viêm Đế phì cười, “Nghe nói Tây Vương Mẫu giam con suốt sáu mươi năm, thật không ngờ A Mi về già lại đâm ra khó tính, động tí là cáu kỉnh.” Nói rồi Viêm Đế ngẩn người ra, tắt hẳn nụ cười, “Lần cuối ta gặp A Mi là hôm ta thành hôn, nào ngờ một lần chia tay đã hơn hai ngàn năm rồi, bà ấy có khỏe không?”

A Hành nghĩ ngợi giây lát rồi đáp: “Khỏe lắm ạ, bà ấy thường đứng một mình bên vách núi ngắm hoàng hôn, a, phải rồi, bà ấy rất thích làm người gỗ, tạo ra rất nhiều cung nữ gỗ.”

Viêm Đế chăm chú đẽo một con chim gỗ, “Là ta và mẹ con dạy A Mi làm người gỗ đó, bà ấy thích một con chim gỗ biết hót líu lo nhưng lúc ấy không đủ linh lực để tạo ra nó, cứ năn nỉ đòi ta và A Luy làm hộ mình.”

Sợ khơi lại chuyện xưa, A Hành chẳng dám hỏi tiếp, vội chuyển chủ đề: “Xi Vưu đâu rồi ạ?”

Viêm Đế đáp: “Hắn vẫn đang lăng xăng trên mấy chóp núi bày bố trận pháp gì đó,ta đoán hắn định dựa vào khí đất thế trời để kéo dài mạng sống cho ta. Tuy Xi Vưu chẳng học gì về trận pháp nhưng trời sinh hắn đã nhạy cảm với ngũ hành linh khí, tự có cách bày binh bố trận riêng của mình.”

Đang nói chuyên thì Xi Vưu trở về, thấy thứ Viêm Đế cầm trong tay, hắn cau mày: “Định làm người gỗ à? Ông còn có linh lực hao phí vào những trò này nữa sao?

Để ta giúp ông một tay.”

Viêm Đế khước từ: “Ta muốn tự tay làm lấy.”

Xi Vưu lại nói: “Trên đỉnh Tử Kim dồi dào linh khí hơn đỉnh Tiểu Nguyệt, ông nên chuyển lên đó ở thì hơn.”

“Ta muốn ở lại đây.”

Xi Vưu cười phá lên, “Lão già này đến lúc sắp chết mới khá được một chút, trước đây chưa bao giờ nghe ông nói mình muốn cái gì, lúc nào cũng lải nhải là muôn dân nào là trăm họ! Ông xem, nói ra điều mình muốn có gì khó khăn đâu, có phải là thoải mái hơn suốt ngày cứ canh cánh lo cho thiên hạ không?”

Viêm Đế cũng bật cười vỗ đầu Xi Vưu: “Con khỉ nhà ngươi! Thuốc của A Hành để trong nhà kìa, đi sắc đi.”

“Ta nói bao nhiêu lần rồi? Đừng có vỗ đầu!” Xi Vưu vừa cau nhàu vừa vào phòng lấy thuốc ra, ngồi chồm hỗm bên khe suối sắc thuốc.

Các vị thuốc phải được bỏ vào sắc theo phân lượng và trình tự nghiêm ngặt, Xi Vưu thường ngày vẫn qua loa đại khái, ấy vậy mà giờ đây lại hết sức chăm chú cẩn thận.

A Hành nhìn hắn loay hoay, lòng vừa cảm động vừa e sợ.

Viêm Đế cười hỏi nàng: “Con đang nghĩ gì đó?”

“Có gì đâu ạ.”A Hành cúi đầu đáp.

Viêm Đế lại nói: “Xi Vưu thích con, con thấy sao?”

A Hành hốt hoảng ngẩng lên, chối bay chối biến: “Xi Vưu đùa đấy mà, hắn nhất thời ham vui thích lạ thôi.”

Viêm Đế nhìn Xi Vưu, vẻ hiền từ mà lo lắng hệt như cha già nhìn đứa con trai, “Con nhầm rồi, hắn là kẻ thành thật nhất trên đời này đấy, tình cảm của hắn xuất phát từ đáy lòng, không bợn chút tạp niệm, đó là tình cảm chân thành tha thiết không gì sánh nổi đâu.” Vừa khéo một đôi chim én bay ngang đầu họ, Viêm Đế chỉ tay nói tiếp: “Nhìn đôi én kia có vẻ rất hời hợt, chỉ ngày ngày nô giỡn, chưa từng hứa hẹn suốt đời suốt kiếp bên nhau nhưng chúng vẫn khăng khít cả đời không chia lìa, còn cha con tổ chức đám cưới linh đình đón mẹ con về, thề thốt trọn đời kết tóc, nhưng bao năm nay ông ta đối với bà ấy ra sao?”

A Hành ngây người nhìn đôi én bay xa dần, hồi lâu mới nói nhỏ: “Con sống ở Cửu Lê tộc một thời gian, phát hiện tín điều của họ là ‘con người chỉ sống ở hiện tại’, họ quan niệm chỉ cần vui vẻ trước mắt là được, dù mai này có chết ngay cũng chẳng sao, nhưng từ nhỏ tới lớn, cha lại dạy chúng con phải suy nghĩ kỹ rồi mới hành động, làm bất kỳ việc gì đều phải tính đến lợi ích lâu dài, không được ham vui cái trước mắt, vậy rốt cuộc thế nào mới là đúng đây?” Viêm Đế nghĩ ngợi một hồi đoạn đáp: “Cha con nói cũng không sai, ở vào vị trí của mình, ông ấy buộc phải như vậy. Có điều bao năm nay ta vẫn luôn hối hận vì mình không gần gũi Thính Yêu nhiều hơn nữa, ta luôn cho rằng sau này còn rất nhiều thời gian để bù đắp cho nàng, nhưng chuyện trên đời ai mà lường nổi chứ, chúng ta chỉ có thể nắm giữ được hiện tại mà thôi, dù là thần tiên cũng chẳng biết sau này sẽ xảy ra chuyện gì đâu.”

A Hành trầm ngâm suy nghĩ.

“Cô uống thuốc đi.” Xi Vưu bưng thuốc lại cho nàng.

A Hành uống hết thuốc liền nhoẻn miệng cười ngọt lịm: “Cảm ơn ngươi.”

Hiếm hoi lắm mới thấy A Hành dịu dàng vui vẻ với mình, Xi Vưu kinh ngạc đến đờ cả người ra.

Một con chim đỏ rực bay tới đậu lên vui Viêm Đế, Viêm Đế nói: “Du Võng và Mộc Cận đang lên núi, Xi Vưu, ngươi đưa A Hành vào trong núi đi, bọn chúng chưa biết bệnh tình của ta, ta muốn ngồi đợi chúng một mình.”

A Hành hỏi nhỏ: “Mộc Cận là ai thế?”

Đối với những chuyện này Xi Vưu rất hờ hững, chỉ trả lời ngắn gọn: “Con gái nuôi của Viêm Đế.”

“A, vậy cũng là vương cơ của Thần Nông, hèn chi nghe nói Thần Nông có bốn vị vương cơ, ta còn tưởng là lời đồn nhảm.”

Xi Vưu dắt A Hành lên đỉnh Bạch Tùng.

Đỉnh Bạch Tùng rất đẹp, thông trắng mọc đầy trên vách núi, hình dáng đủ vẻ, trong lúc rong chơi, cứ đi một bước lại thấy một khung cảnh khác nhau, đẹp không bút nào tả xiết.

Nhưng như vậy cũng chẳng có gì là lạ, điều khiến người ta kinh ngạc nhất chính là Xi Vưu, dường như hắn được trời ban cho khả năng thông thuộc núi rừng, chỗ nào có suối nước để uống, chỗ nào có quả dại để ăn, chỗ nào có thể gặp phải gấu… hắn đều biết hết, tựa như hắn là hóa thân của ngọn núi này vậy.

Đi mãi, hai người khát khô cả cổ, Xi Vưu bèn dắt nàng tới bên suối.

A Hành cúi xuống uống mấy ngụm nước, rửa qua mặt mũi rồi quay lại nhìn Xi Vưu, ánh mặt trời chính ngọ xuyên qua tán lá rừng rọi xuống khiến thảm rêu biếc bên bờ suối rực lên xanh ngời. Xi Vưu ngồi chồm hỗm trên tảng đá, tư thế vô cùng bất nhã nhưng lại toát lên vẻ thoải mái và uy nghiêm rất riêng của mãnh thú. Hắn nhoẻn miệng cười với A Hành, ánh mắt sáng rỡ khiến tim nàng bất giác đập rộn lên, không dám nhìn thẳng vào hắn, đành ngoảnh đầu đi, tiện tay cởi giày nhúng chân xuống suối, hai chân vung qua vẩy lại nghịch nước.

Xi Vưu nhảy đến ngồi bên cạnh, cùng vung vẩy chân nghịch nước với nàng.

Ánh mặt trời xuyên qua kẽ lá chiếu xuống dòng suối thành những vệt nắng lung linh, Xi Vưu mải mê vung chân đá những đốm nắng trên mặt nước hệt như một đứa trẻ, mỗi lần đá trúng lại phá lên cười sung sướng, tựa hồ những buồn lo về việc Viêm Đế bệnh nặng sắp qua đời chẳng hề ảnh hưởng gì tới hắn.

Nỗi mệt mỏi và sợ hãi trào lên từ tận đáy lòng A Hành, nàng vô tình ngả người dựa vào vai Xi Vưu.

Xi Vưu khẽ hỏi: “Sao thế?” A Hành hỏi lại hắn: “Viêm Đế còn được bao lâu nữa?”

“Bệnh của ông ấy càng về cuối sẽ càng đau đớn, vạn độc xâu xé bên trong, nhức nhối đến tận xương tủy, khó mà chịu đựng được, càng đi sớm thì càng đỡ chịu khổ, nhưng nhìn bề ngoài ông ta có vẻ thấu triệt tất cả, thật ra lại chẳng bỏ được gì cả, nhất định sẽ vì con dân của mình mà gượng sống đến khi nào không gắng nổi nữa mới thôi.” “Vậy rốt cuộc có thể gắng gượng bao lâu?”

“Chẳng biết nữa, có lẽ là ba năm, có lẽ là năm năm, nhưng dù chúng ta dùng linh lực kéo dài mạng sống cho ông ấy thì cũng không được quá mười năm đâu.”

“Xi Vưu, ta thấy mệt mỏi lắm, ta rất sợ.” Có lẽ non nước nơi này quá đỗi hữu tình, cũng có thể bờ vai Xi Vưu quá vững chãi nên lần đầu tiên, A Hành mới thổ lộ tâm tư của mình. Một khi chiến tranh bắt đầu, những kẻ đầu tiên bị cuốn vào chính là đám con cháu vương tộc như họ.

Xi Vưu áp mặt vào tóc nàng: “Nếu có mệt thì cứ tựa vào vai ta mà nghỉ ngơi, nếu cô sợ thì cứ núp vào lòng ta, để ta bảo vệ cho cô.”

Cảm nhận được hơi thở ấm áp của Xi Vưu, nàng chợt thấy lòng bình yên lạ, “Nếu ta dựa lâu quá, liệu ngươi có mệt không, có bực mình không?” Dường như bờ môi Xi Vưu lướt nhẹ trên tóc nàng rồi kề sát vào tai nàng nói nhỏ, “Không đâu, A Hành, lẽ nào đến giờ cô vẫn không hiểu ư? Ta cam lòng làm bất cứ chuyện gì vì cô.”

Như được vầng dương rạng ngời ấm áp rọi vào tận đáy lòng, cả người A Hành nóng bừng lên, bao nhiêu năm mệt mỏi lo âu đều tan biến cả. Suốt đêm thao thức, cơn buồn ngủ bây giờ mới dâng lên, nàng như con mèo nhỏ, ngáp một cái thật dài, “Buồn ngủ quá.” Nói rồi nàng ngả người nằm xuống phiến đá, Xi Vưu cũng nằm xuống theo. Hai người nằm cách nhau một quãng, giữ khoảng cách thân thiết mà không thân mật. A Hành nghe lòng bình yên lạ lùng, dường như mọi hiểm nguy gian khổ đều đã có Xi Vưu che chắn, lúc này đây, dù trời long đất lở, cũng có một người ở bên bảo vệ cho nàng.

Gió núi hây hẩy, tiếng suối reo róc rách theo gió đưa lại, càng làm nổi rõ sự yên ắng của núi rừng, ánh nắng được lọc qua tán lá, rạng rỡ mà không hề lóa mắt, đem hơi ấm gieo sâu vào đáy lòng bọn họ. Tựa hồ chỉ cần khép mi mắt lại, có thể nghe thấy cả tiếng năm tháng chuyển vần, Xi Vưu cùng A Hành đều nhắm mắt nằm nghỉ như thể cùng cảm nhận cái tĩnh lặng của thời gian cùng sự bình yên của hiện tại.

Khi mặt trời đã khuất hẳn về Tây, A Hành mới chậm rãi mở mắt ra, chỉ thấy trước mặt một dải non xanh nước biếc, rừng rậm um tùm, khói mây đỏ rực bảng lảng khắp nơi tạo thành những hoa văn thiên nhiên, cả bầu trời như biến thành một tấm gấm bảy màu tinh xảo, cánh én chao nghiêng bay lượn giữa tầng mây rực rỡ. A Hành nhìn ngắm đến ngây người hoa mắt. Trong lúc mơ mơ màng màng, nàng nghiêng đầu, vừa khéo bắt gặp một cặp mắt ranh mãnh đen thăm thẳm như trời đêm, mênh mông hun hút, long lanh mà nguy hiểm, A Hành chỉ biết ngẩn ngơ nhìn vào đôi mắt đó, quên hết thảy mình đang ở đâu, đêm nay là đêm nao.

Xi Vưu lặng lẽ sáp lại gần A Hành, bờ môi vừa chạm đến nàng, đột nhiên trong rừng vang lên tiếng quạ kêu quang quác. A Hành sực tỉnh ngồi phắt dậy, đỏ mặt tía tai, tim đập thình thịch nhưng vẫn cố lấy vẻ bình tĩnh nói: “Chúng ta về thôi.”

Xi Vưu thoáng sững ra rồi giận dữ ngửa cổ nhìn trời, gầm lên như dã thú, chỉ giây lát sau, đám chim thú trong rừng đều cuống cuồng bỏ chạy trối chết, chẳng bao lâu đã không còn bóng dáng, cả khu rừng lặng phắc như tờ, đến tiếng dế kêu cũng nín bặt.

Xi Vưu ngồi dậy đăm đăm nhìn A Hành, A Hành cũng vội né tránh ánh mắt hắn, rảo bước quay về Tiểu Nguyệt đỉnh, “Đi nào!”

Xi Vưu lặng lẽ theo sau nàng, đi một lúc lâu, thình lình hắn lên tiếng hỏi: “Bộ đồ đang mặc trên người ta là cô tự tay may đúng không?”

A Hành thoáng khựng lại, nàng không phủ định cũng không khẳng định, chỉ càng rảo bước nhanh hơn.

Xi Vưu cười toe toét, rảo chân đuổi kịp nàng rồi đắc ý nói: “Cô vừa chăm tằm vừa dệt lụa, vất vả hơn hai mươi năm, trên Ngọc sơn bao nhiêu cung nữ, ai mà chẳng biết. Ta đã hỏi rõ ràng từ lâu rồi.”

A Hành thẹn quá hóa giận, bực bội đáp: “Có gì to tát đâu? Chỉ là một chiếc áo thôi mà?” Dứt lời nàng chạy vụt đi, chảng thèm ngó đến Xi Vưu nữa.

Xi Vưu vội đuổi theo sau nàng, vừa đuổi vừa nói: “Ta sẽ mặc nó mãi mãi.”

Nghe vậy A Hành không nhịn nổi nhoẻn miệng cười, lại càng không dám nhìn mặt hắn, càng lúc càng chạy nhanh hơn.

A Hành thoăn thoắt băng qua cánh rừng như một chú hươu nhanh nhẹn, xông thẳng lên đỉnh Tiểu Nguyệt hệt một ngọn gió, vì chạy giữa đám cây cối um tùm, nàng sơ ý va phải một người, lập tức loạng choạng trượt ngã, suýt nữa thì trẹo chân, may sao đối phương kịp thời đỡ lấy.

A Hành ngẩng lên cười, “Cảm…”

Thấy người đứng trước mặt là Thiếu Hạo, tim nàng bỗng đập thình thịch, cả người nhũn ra, đỏ mặt tía tai ngây người tại chỗ.

Thiếu Hạo áy náy hỏi: “Cô nương không bị thương chứ?”

Nói rồi y nhìn ra sau lưng nàng, mỉm cười gật đầu. Nụ cười của Xi Vưu lập tức tắt lịm. Xi Vưu rảo bước tiến lại, một tay đỡ lấy A Hành, tay kia đẩy Thiếu Hạo ra, “Sao vương tử điện hạ lại tới Thần Nông sơn vậy?”

Thiếu Hạo chưa kịp đáp thì Du Võng cùng một thiếu nữ áo đỏ đã sánh vai nhau bước đến, A Hành đoán cô nương kia chính là Mộc Cận[1], con gái nuôi của Viêm Đế, quả là rực rỡ đẹp tươi như đóa hoa dâm bụt, hèn chi lấy tên là Mộc Cận.
[1] Mộc Cận có nghĩ là hoa dâm bụt.


Mộc Cận cười với Xi Vưu: “Vân Tang tỷ tỷ bị thương, may sao gặp được Thiếu Hạo điện hạ, điện hạ liền hộ tống Vân Tang tỷ tỷ về.” Chợt thấy Xi Vưu đang đỡ A Hành, nàng ta tắt hẳn nụ cười.

A Hành nhất thời sốt ruột, vội hỏi ngay: “Vân Tang thế nào rồi?”

Mộc Cận chòng chọc nhìn nàng, ánh mắt thấp thoáng địch ý: “Tên của vương cơ để cho ngươi gọi thẳng ra ư?”

Xi Vưu lạnh lùng xen ngang: “Tên vốn dùng để gọi.”

Mộc Cận bị bất ngờ liền nhìn chằm chằm Xi Vưu, rõ ràng rất ngạc nhiên vì gã Xi Vưu luôn thờ ơ trước mọi chuyện lại lên tiếng bênh vực A Hành, lệ từ từ dâng lên trong mắt nhưng vẫn bướng bỉnh cắn môi không khóc.

Du Võng chăm chú quan sát A Hành rồi từ tốn trả lời nàng: “Dọc đường gặp phải mấy tên Yêu tộc làm càn, vết thương cũng không có gì đáng ngại, chỉ cần nghỉ ngơi mấy tháng là khỏi thôi. Cô nương quen tỷ tỷ ta sao?”

A Hành gật đầu, lòng thầm thắc mắc, sao Vân Tang lại tới Cao Tân nhỉ? Mà sao lại vừa khéo gặp được Thiếu Hạo?

Một con chim đỏ rực bay tới đậu lên vai Du Võng, y bèn quay sang cười bảo mọi người: “Bữa tối đã chuẩn bị xong, phụ vương kêu chúng ta về.”

Trong phòng bày một bàn thức ăn đơn giản, Viêm Đế ngồi ghế đầu, bọn họ lần lượt thi lễ với Viêm Đế, Viêm Đế cũng chăm chú nhìn bọn họ, tâm tình có phần phức tạp. Hôm nay khéo sao bọn hậu sinh vãn bối nắm giữ cục thế thiên hạ tương lại lại tập họp trong căn nhà tranh vách nứa đơn sơ này, chẳng biết liệu mấy trăm năm nữa họ còn nhớ được ngày này hay không?

A Hành hỏi ngay: “Viêm Đế, con không đói, con muốn đi thăm Đại vương cơ được không ạ?”

Viêm Đế liếc Thiếu Hạo rồi đáp: “Con đi đi. Con nha đầu đó lớn rồi, rất nhiều chuyện nó không chịu nói với ta nữa. Con đi chuyện trò hỏi han nó cũng hay.” Rõ ràng ông đã nhận ra chuyện Vân Tang bị yêu quái đả thương chỉ là bịa đặt.

A Hành thi lễ rồi lui ra. Đợi nàng ra khỏi cửa, Mộc Cận không dằn lòng được vội hỏi: “Phụ vương, cô ấy là ai thế ạ?”

Viêm Đế nhìn Xi Vưu rồi lại nhìn sang Thiếu Hạo, đoạn giải thích với Du Võng và Mộc Cận: “Là con gái em kết nghĩa của ta, từ khi muội ấy lấy chồng, vì thân phận của mình, ta phải giữ giới hạn, chúng ta rất ít khi qua lại nên các con chưa từng gặp cô ấy.” Vẻ mặt Viêm Đế vô cùng cảm khái, hiển nhiên là lời thật lòng, ngay cả Thiếu Hạo suy nghĩ kín kẽ cũng phải tin tưởng, không hoài nghi thân phận A Hành nữa.

A Hành khẽ khàng bước vào phòng, trông thấy Vân Tang đang ngồi ủ rũ, ngơ ngẩn nhìn ra cửa sổ.

“Tỷ tỷ.” A Hành gỡ Trụ Nhan hoa ra, ngồi xuống bên cạnh Vân Tang.

Vân Tang bị bất ngờ tròn xoe mắt nhìn nàng, thoạt đầu còn bực bội không hiểu sao A Hành lại ở đây, nhưng thấy đóa hoa đào đẹp đẽ tươi mởn trong tay nàng, Vân Tang liền cầm lấy ngắm nghía một hồi, đoạn thở dài than: “Thì ra Xi Vưu đoạt lấy nó là để tặng muội.” Dứt lời lại gài hoa lên mái tóc nàng, “Thiếu Hạo đang ở trên núi, muội phải cẩn thận, đừng để lộ chân tướng.”

“Muội cũng vừa gặp y rồi.” Cả Trụ Nhan hoa cùng A Hành đều biến hình đổi dạng, “Tỷ tỷ, Thiếu Hạo cứu tỷ thế nào?”

“Ta gặp Nặc Nại rồi.”

“Chẳng phải y ở trong thiên lao ư?” A Hành kinh ngạc rồi sực hiểu ra, “Tỷ lên vào thiên lao của Cao Tân à?”

“Ừ.”

“Vậy tỷ gặp y rồi chứ?”

Vân Tang gật đầu.

“Tỷ nói cho y biết tỷ là ai chưa?” Vân Tang gật đầu.

“Y nói sao?”

Vân Tang ngân ngấn nước mắt, chỉ chực òa lên, “Lúc mới trông thấy ta, y tỏ vẻ thờ ơ, luôn miệng giục ta mau trở ra, nhưng ta thấy rõ ràng y vừa ngạc nhiên lại vừa mừng rỡ. Ta bèn cố lấy can đảm nói thật với y rằng mình không phải Hiên Viên vương cơ Hiên Viên Bạt mà là Vân Tang, Thần Nông vương cơ. Vẻ mặt y…”

Vân Tang ròng ròng nước mắt, “Y không nói một lời, nhưng vẻ mặt y, vẻ mặt y… chuyển từ ngỡ ngàng đến kinh ngạc, từ kinh ngạc sang giận dữ, rồi từ giận dữ dần dần trở thành bi thương. Y trừng trừng nhìn ta, ánh mắt bi thương trống rỗng đó như nói lên rằng trái tim y đang chết dần chết mòn, lúc y nổi giận, ta vô cùng kinh hoàng sợ hãi, nhưng khi y bi ai nhìn ta như thế, ta lại thấy thà rằng y giận dữ, thà rằng ý cứ đánh ta chửi ta đi…”

A Hành hỏi: “Sau đó y nói sao?”

Vân Tang nức nở lắc đầu, “Chẳng nói sao cả, y từ đầu đến cuối không hé răng nửa lời, sau đó đám lính trong thiên lao đuổi kịp bao vây ta, giữa lúc sống chết cách nhau gang tấc, ta van xin y dù ghét ta hận ta thì cũng nói với ta một lời nhưng y dứt khoát ngoảnh đi quay mặt vào tường, như đang nhập định vậy. Ta vừa đánh nhau với binh lính vừa khẩn cầu y: ‘Nếu hôm nay ngươi không lên tiếng thì ra cứ ở lì tại đây’, về sau, về sau… y cuối cùng cũng nói một câu…”

A Hành nhẹ cả người, “Y nói gì?”

“Cút! Y bảo ta cút!”

Vân Tang khóc không ra tiếng, nghẹn ngào kể tiếp: “Lúc đó ta cũng nổi điên lên hét vào mặt y, ‘Ngươi đuổi ta cút, ta cứ không cút đấy.’ Có điều tuy ta có linh dược của phụ vương bảo hộ nhưng vẫn bị thương, cuối cùng bị quân lính bắt được. Khi ấy ta vô cùng hoảng hốt, nếu để Tuấn Đế biết được thân phận thật của ta, nhất định sẽ nổi lên một trận sóng gió to lớn, nhưng ta chẳng hề hối hận! May sao Thiên Hạo tới kịp, y rất nhanh trí, liền hạ lệnh cho tất cả thị vệ lui ra rồi hỏi ta rốt cuộc là ai, thấy ta không chịu hé răng, y nói, ‘Tuy ta không nhìn ta dung mạo thật của ngươi, nhưng ta nhận ra ngươi đeo mặt nạ Nhân Diện Tâm, trên đời này, chỉ có Luy Tổ trên Hiên Viên sơn mới dệt được thứ mặt nạ tinh xảo nhường này từ tơ Nhân Diện Tâm mà thôi, nghe nói bà ta cũng chỉ làm ra bốn chiếc, chia cho bốn người con, mặt nạ ngươi đang đeo lại là của nữ, hẳn là do Hiên Viên Bạt tặng cho.’ Ta càng nghe càng căng thẳng, đánh liều nghĩ, dù sao y cũng không thể lột mặt nạ ta ra được, chỉ cần ta không thừa nhận thì y đừng hòng biết được thân phận của ta, nào ngờ lúc đó Thiếu Hạo nói ra một câu khiến ta vô cùng cảm động.”

Vân Tang ngẩng lên nhìn A Hành, “Y nói rằng, ‘Hiên Viên Bạt là vị hôn thê của ta, bạn bè của nàng cũng là bạn bè của ta, ngươi đã không muốn người khác biết thân phận thì khỏi cần nói với ta, chỉ cần ngươi bảo nơi nào an toàn, ta sẽ phái người thân tín đưa ngươi đến đó.’”

A Hành thấy ngực cuộn lên, lại nghe Vân Tang khẽ thở dài, “Y quân tử như vậy, sao ta có thể ngờ vực được nữa? Thế nên ta nói y đưa ta về Thần Nông sơn, y nhận ra thân phận của ta ngay, trầm ngâm một lát rồi nói, chuyện này càng ít người hay càng tốt, y sẽ đích thân đưa ta về. Dọc đường y chẳng hề hỏi ta sao nửa đêm lại xông vào thiên lao của Cao Tân, về tới Thần nông cũng không nhắc gì đến nguyên nhân thật sự làm ta bị thương, tuy cha biết ta nói dối nhưng ông vẫn luôn yên tâm về ta nên chẳng hỏi nhiều, lỡ như ông biết ta đã làm gì, nhất định sẽ…”

Vân Tang cúi đầu, lấy khăn chậm nước mắt.

A Hành lặng thinh hồi lâu mới nói: “Tỷ tỷ, thật ta Nặc Nại vẫn quan tâm tỷ lắm đó.”

Vân Tang cười ảo não, “Ta tự làm tự chịu, muội khỏi cần an ủi.”

“Y chửi tỷ, bảo tỷ cút, thật ra là đang bảo vệ tỷ, cũng như lúc mới gặp luôn miệng giục tỷ đi mau đó thôi.”

Vân Tang còn thấy hiểu nhân tình thế thái hơn A Hành nhiều, nhưng vì lo nghĩ quá đâm ra rối loạn, lúc này nghe A Hành nói vậy, Vân Tang vẫn nửa tin nửa ngờ, đồng thời một ý nghĩ khác lại trỗi lên càng lúc càng rõ rệt. Nửa đêm có kẻ xông vào thiên lao tuy là chuyện nghiêm trọng nhưng cũng chẳng đến nỗi kinh động tới Thiếu Hạo, vậy mà y tức tốc kéo tới như thế, nhất định là vì Nặc Nại. Hẳn y đã nhận ra quan hệ giữa nàng và Nặc Nại không bình thường nên ngay từ đầu đã rất lễ độ khách sáo. Y bao che cho nàng không chỉ bởi nể mặt Hiên Viên Bạt, mà quan trọng hơn là vì Nặc Nại và Hy Hòa bộ sau lưng Nặc Nại nữa kia.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 4-12-2013 03:49 PM
Chương 10


Dưới cội hoa đào cùng thề hứa.


10.2


Vân Tang cúi đầu ngồi lặng, nhưng nét mặt dần dần tươi lên, A Hành chăm chú nhìn nàng, lòng thầm buồn bã, Vân Tang cẫn chưa biết bệnh trạng của Viêm Đế, đợi đến khi nàng biết được chẳng rõ còn đau khổ tới nhường nào.

Đột nhiên Vân Tang ngẩng lên, buồn buồn hỏi: “Muội sao thế? Sao trông muội âu sầu vậy?”

A Hành đứng dậy, “Muội ra xem bọn họ thế nào, chắc Thiếu Hạo sắp cáo từ xuống núi rồi.”

Vân Tang siết chặt tay nàng, “Thay ta cảm tạ Thiếu Hạo nhé.”

A Hành gật đầu, Vân Tang dường như định nói thêm gì đó nhưng trầm ngâm một hồi lại thôi, chỉ thở dài buông tay A Hành ra.

A Hành thả bước lững thững đi về phía sườn núi, bỗng Liệt Dương từ đâu bay lại lượn vòng vòng quanh nàng rồi lặng lẽ đầu xuống vai, tựa hồ cũng nhận ta tâm tình nàng đang trĩu nặng.

A Hành vỗ về nó: “Sớm muộn gì Vân Tang cũng biết bệnh tình của Viêm Đế thôi, lúc Dao Cơ tỷ tỷ chết đi, có lẽ Vân Tang ngỡ rằng mọi chuyện đã kết thúc rồi, bao nhiêu đau đớn đều trút ra bằng hết, nào ngờ… Bây giờ là lúc Vân Tang cần được Nặc Nại thông cảm và bỏ qua nhất, chỉ cần trong lòng y vẫn quan tâm tới Vân Tang, nhất định sẽ không nỡ để tỷ ấy phải cùng lúc gánh chịu hai nỗi đau, ắt hắn sẽ tới thăm tỷ ấy.”

Thấy Liệt Dương nghiêng đầu nhìn mình, A Hành bèn rút thẻ ngọc ra, dùng linh lực viết thư cho Nặc Nại, vừa viết được mấy chữ “Viêm Đế bệnh nặng…” sực nhớ tới lời Vân Tang từng nói, “Chuyện trong vương tộc lúc nào cũng phức tạp”, nàng liền khựng lại, trầm ngâm nghĩ ngợi.

Bệnh tình của Viêm Đế liên quan tới cục diện thiên hạ, lại dính dáng cả tới việc kế thừa đế vị ở Thần Nông nên đó là bí mật tối cao, đừng nói tới nước khác mà ngay cả những trọng thần trong nước như Chúc Dung, Hậu Thổ cũng không được biết. E rằng chính Vân Tang cũng chẳng thể nói với Nặc Nại về tình trạng của cha mình, A Hành sao dám tự tiện tiết lộ chuyện đó cho một viên tướng Cao Tân nắm giữ binh quyền kia chứ?

A Hành lặng cả người. Nếu là người thường, vào lúc đau khổ nhất khi cha lâm bệnh nặng, hẳn luôn khao khát có người yêu ở bên mình san sẻ, nhưng Vân Tang còn chẳng có quyền được tâm sự với Nặc Nại. Dù đau buồn đến đâu chăng nữa, Vân Tang vẫn phải vờ như không có chuyện gì, Nặc Nại cũng sẽ không thể nào hiểu được nỗi đau mà Vân Tang sắp phải gánh chịu.

A Hành đứng lặng hồi lâu đoạn xóa hết những câu liên quan tới Viêm Đế, chỉ nói chuyện hiểu lầm bắt nguồn từ lúc Nặc Nại nhận nhầm Vân Tang ở Ao Đột quán, giải thích cặn kẽ mọi việc đều là do Vân Tang nhất thời quá xúc động nên vô tình sơ suất, tuyệt đối không có ý lừa gạt. Khẩn cầu Nặc Nại bỏ qua cho Vân Tang.

Viêm Đế cảm tạ Thiếu Hạo lần nữa rồi sai Du Võng và Xi Vưu tiễn khách, Du Võng cùng Thiếu Hạo sánh vai nhau vừa đi vừa cười nói, Xi Vưu tụt lại phía sau mấy bước đã thấy Mộc Cận tung tăng bám theo, cứ ríu ra ríu rít níu lấy Xi Vưu hỏi chuyện trên tiệc Bàn Đào. Thấy Xi Vưu chẳng nói chẳng rằng, nàng ta cũng đã quen, bèn tự hỏi tự đáp tự tiêu khiển một mình.

Mọi người ra khỏi sơn cốc, bắt gặp A Hành đứng bên sườn núi lặng lẽ nhìn về phía xa xăm, Lang điểu trắng phau đậu trên vai nàng. Nghe thấy tiếng cười nói của bọn họ, nàng liền ngoảnh lại, giữa sắc chiều mênh mông, khói núi man mác, sương mù mờ mịt, dung mạo nàng khi tỏ khi mờ, nhưng nỗi bi thương thấp thoáng vẫn còn vương trên tay áo phất phơ.

Thiếu Hạo chợt nghe lòng rung động, cảm thấy cảnh tượng này quen quen nhưng nghĩ mãi không ra đã từng gặp ở đâu.

Xi Vưu rảo bước lại gần, Liệt Dương quác một tiếng bay tới đậu lên vai hắn. Mộc Cận chưa từng gặp qua con chim nào đẹp đẽ oai nghiêm như thế bèn giờ tay định vuốt ve, nào ngờ bị Lang điểu hung hăng mổ cho một nhát, may sao Mộc Vận rụt tay kịp nên không chảy máu, có điều vẫn rất đau. Thấy nàng nổi giận định đánh Liệt Dương,

Xi Vưu liền lên tiếng cảnh cáo: “Đừng động vào nó.” Mộc Cận uất ức: “Xi Vưu!”

Du Võng cùng Thiếu Hạo hành lễ từ biệt nhau, A Hành cũng bước tới nói với Thiếu Hạo: “Vương cơ nhà tôi chuyển lời cảm ơn tới ngài. Điện hạ, tôi nói với ngài mấy lời được không?”

Du Võng biết ý tránh sang bên, Xi Vưu chăm chú nhìn A Hành nhưng nàng lờ đi như không thấy, chỉ đưa cho Thiếu Hạo một tấm thẻ ngọc, khẽ nói: “Phiền điện hạ giao bức thư này cho Nặc Nại tướng quân.”

Thiếu Hạo giơ tay đón lấy, “Cô nương yên tâm, ta sẽ tự tay đưa nó cho Nặc Nại.”

A Hành thi lễ cảm tạ, Thiếu Hạo đăm đăm nhìn nàng hổi lâu, lắc đầu, “Lạ thật, ta cứ cảm giác từng gặp cô ở đâu rồi.”

Nghe y nói, A Hành giật thót mình, may sao Thiếu Hạo chẳng truy cứu thêm, chỉ mỉm cười bước lên lưng Huyền điểu, chắp tay chào tất cả, “Các vị, hẹn ngày gặp lại.”

Dõi mắt nhìn theo Huyền điểu khuất sau tầng mây, Du Võng cảm phục thốt lên, “Hèn chi cả phụ vương cũng hết lời khen ngợi Thiếu Hạo Thanh Dương, mấy trăm năm trước gặp Thanh Dương, ta từng nghĩ trên đời này làm gì có vị thần nào sánh được với y. Hôm nay gặp Thiếu Hạo, ta mới thật sự tin rằng, Cao Tân và Hiên Viên có được bọn họ quả là may mắn!”

Mộc Cận khinh khỉnh nói: “Thần Nông chúng ta cũng có Xi Vưu!”

Du Võng thở dài, lời lẽ có phần thất vọng nhưng kỳ thực lại âm thầm vui sướng: “Tiếc rằng Xi Vưu không giống họ!”

“Không giống chỗ nào? Xi Vưu…” Mộc Cận ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu đang đứng bên A Hành, vừa trò chuyện vừa đánh lộn với Lang điểu, lửa đỏ cuộn lên giữa những kẽ tay, rõ ràng chẳng buồn nghe Du Võng và nàng nói gì.

Mộc Cận tức tối giậm chân hét: “Xi Vưu, phụ vương dặn chúng ta tiễn Thiếu Hạo xong phải về ngay, Người còn có việc quan trọng dặn dò.”

A Hành buồn bã cáo từ Du Võng, “Điện hạ, tôi không tiện…”

Du Võng thân thiết nói: “Phụ vương dặn ta mời cả cô cùng về. Ngài nói cô là con gái của cô cô, hai ta cũng xem như anh em, ta phải gọi cô là gì đây?”

“Tôi tên A Hành.” “Hành muội muội, muội cứ kêu ra bằng Du Võng, hoặc gọi ca ca cũng được.”

Lúc A Hành cùng bọn Du Võng về tới nơi, Viêm Đế đang ngồi một mình bên đống lửa, trông thấy họ bèn vẫy họ lại đó ngồi.

Viêm Đế bảo Du Võng cùng Mộc Cận: “Ta vốn định nói với Vân Tang cả thể, nhưng giờ nó đang bị thương nên đành tạm giấu một thời gian. Hai người các con phải nhớ, chuyện này liên quan tới an nguy của Thần Nông, chưa được phép của ta nhất định không được cho bất kỳ ai biết, Mộc Cận, con đã rõ chưa?”

Mộc Cận nghiêm mặt lại, cũng phảng phất mấy phần phong thái trầm ổn của Vân Tang, “Con chơi chung với Hậu Thổ từ nhỏ, tình cảm khăng khít nên phụ vương lo rằng con sẽ tiết lộ với y chứ gì. Xin phụ vương cứ yên tâm, tuy hằng ngày con có phần ngang ngạnh nhưng chẳng phải kẻ không biết nặng nhẹ đâu.”

Viêm Đế gật đầu, hiền từ nhìn Du Võng và Mộc Cận rồi nghiêm trang nói: “Ta trúng độc rồi, có lẽ chỉ sống được chừng dăm năm nữa thôi.”

Du Võng cùng Mộc Cận kinh hoàng tròn mắt nhìn Viêm Đế, như không tin nổi tai mình, nhưng họ hiểu Viêm Đế xưa nay chưa từng nói giỡn, trong mắt dần dần lộ vẻ kinh khiếp.

Viêm Đế chẳng nói thêm nữa, chỉ mỉm cười nhìn hai người như đợi cho bọn họ từ từ tiếp nhận sự thực đó.

Một lúc lâu sau, Mộc Cận bật cười khan, “Phụ vương, y thuật của người đứng đầu thiên hạ, làm gì có thứ độc nào người không giải nổi chứ?” Dứt lời nàng đưa mắt nhìn Xi Vưu như đợi hắn phụ họa với mình.

Xi Vưu chỉ lạnh lùng nói: “Sư phụ không còn được lâu nữa đâu.”

Mộc Cận sững người, nước mắt trào ra.

Du Võng gầm lên giận dữ, xông tới toan đánh Xi Vưu, “Người nói láo!”

“Du Võng!” Viêm Đế trầm giọng quát. Du Võng túm lấy cổ áo Xi Vưu, Xi Vưu vẫn giữ vẻ thờ ơ nhưng ánh mắt kiên nghị lại đăm đăm nhìn y như muốn nói, bây giờ là lúc Viêm Đế cần tới sự kiên cường của Du Võng nhất. Qua một hồi, Du Võng từ từ bình tĩnh lại, buông Xi Vưu ra rồi quỳ xuống trước mặt Viêm Đế khẽ gọi “Phụ vương.” Cả người y run lên lẩy bẩy vì phải kìm nén bi thương khiến A Hành cũng cúi đầu xuống không nỡ nhìn.

Tuy Mộc Cận vẫn chưa nén nổi bi thương nhưng thấy mọi người đều nghiêm trang chăm chú, tiếng nức nở của nàng cũng lịm dần, A Hành khẽ khàng dúi cho nàng một chiếc khăn tay.

Viêm Đế bảo Du Võng: “Thần lực của con thấp kém, lòng dạ lại quá yếu mềm, không quyết đoán, khó mà lãnh đạo nổi một tộc. Trước đây ta đã mấy lần định truyền ngôi cho người khác, nhưng lại e còn dẫn tới sóng gió lớn hơn. Dù sao con vẫn là trữ quân[2] danh chính ngôn thuận, dẫu dám Chúc Dung không phục cũng chẳng dám tùy tiện khởi binh tạo phản, nhưng nếu đổi thành người khác, có thể sẽ khiến Thần Nông quốc chia năm xẻ bảy ngay.”

[2] Hoàng đế tương lai, thường dùng để chỉ thái tử.


Du Võng hổ thẹn đáp: “Con hiểu, tại con quá vô dụng, làm phụ vương phải lo nghĩ.”

Viêm Đế mỉm cười vỗ vai Du Võng, “Mẹ con còn không nỡ làm đau một bông hoa cọng cỏ, lúc bà ấy mang thai con, chúng ta thường nói chẳng hiểu con sẽ ra sao, mẹ con bảo ‘thiếp chẳng cần con thần lực cao cường, cũng chẳng cần con ưu tú xuất sắc, chỉ mong con nó ôn hòa lương thiện, cả đời bình yên là được rồi.’”

Du Võng rúng động toàn thân, ngẩn ngơ nhìn Viêm Đế như không tin nổi tai mình. Viêm Đế nói tiếp: “Ta vui lắm, mẹ con chắc hẳn còn vui hơn, con trai đã không phụ kỳ vọng của chúng ta, chẳng những ôn hòa lương thiện mà còn rộng lượng bao dung nữa.”

Khóe mắt Du Võng long lanh ánh lệ, y vội cúi đầu nghẹn ngào nói, “Con cứ tưởng, cứ tưởng phụ vương rất thất vọng về con.”

Viêm Đế lắc đầu, “Xưa nay ta chưa từng thất vọng về con, là ta không phải với con, buộc con phải làm con trai Viêm Đế, nếu con sinh ra trong một gia đình Thần tộc bình thường, hẳn sẽ hạnh phúc hơn bây giờ nhiều, có thể làm bất kỳ việc gì con muốn. Ta có lỗi với con, càng có lỗi với các tỷ tỷ con, tại ta khiến mẹ các con phải gánh vác trọng trách mà đáng lẽ bà ấy không nên gánh vác, cũng tại ta mà Vân Tang không thể làm những việc nó muốn, buộc phải làm Đại vương cơ Thần Nông. Có lẽ ta không phải một vị vua bất tài, nhưng ta lại chẳng thể làm một người chồng tốt, càng không thể làm người cha tốt.”

Du Võng không nén nổi nước mắt chan hòa, “Phụ vương, Người đừng nói thế, mẹ và chúng con đâu bao giờ oán trách Người.” “Giờ đây ta lại sắp giao vận mệnh của cả Thần Nông tộc vào tay con, bắt con phải gánh trách nhiệm mà con không muốn gánh.”

Du Võng dập đầu, “Con nguyện sẽ dốc hết sức mình.”

Viêm Đế đặt cả hai tay lên vai y, ánh mắt ngập những âu lo, nhưng cuối cùng chỉ ra sức đè vào vai y như thể muốn ấn cho y nẳm rạp xuống, Du Võng gắng gượng ưỡn thẳng lưng, bất luận ra sao cũng không chịu khuất phục, tựa hồ trong lúc một người ra sức ấn xuống, một kẻ ra sức chống lại, đã tiếp nhận thứ gì đó.

Hồi lâu Viêm Đế lại nói tiếp: “Ta muốn phong cho Xi Vưu là Đốc Quốc đại tướng quân, con thấy sao?”

Du Võng liền đáp:”Xin nghe theo phụ vương sắp xếp.”

Viêm Đế chỉ Xi Vưu, bảo Du Võng, “Con mau dập đầu với hắn ba cái, thề rằng sẽ tin tưởng hắn suốt đời, không bao giờ ngờ vực, xin hắn thề cả đời này phò trợ cho con.”

Du Võng quỳ xuống trước mặt Xi Vưu, một tay chỉ lên trời, một tay hướng xuống đất thề: “Phụ vương ta ngồi đây, mẹ ta chôn cất ở đây, có cha mẹ chứng kiến, Thần Nông Du Võng ta xin thề vời trờ đất dù xảy ra bất kỳ chuyện gì, ta cũng sẽ suốt đời tin cậy Xi Vưu, không ngờ không vực, nếu trái lời thề thì cha mẹ không tha, trời đất đều trừng trị.” Nói rồi y liền dập đầu binh binh ba cái.

Xi Vưu chỉ thờ ơ nói, “Ta nhận lời, sẽ dốc hết sức giúp đỡ ngươi.”

Xi Vưu thề đơn giản đến nỗi chẳng giống thề thốt chút nào, nhưng Viêm Đế lại thở phảo nhẹ nhõm như vừa trút được gánh nặng, ông tươi cười một tay kéo Du Võng, tay kia kéo Xi Vưu, đặt bàn tay hai người vào nhau, “Thần Nông tộc phải trông cậy vào các con rồi.”

Du Võng nắm chặt lấy tay Xi Vưu, rưng rưng nước mắt nhìn hắn cười. Xi Vưu cũng cười tươi siết chặt tay y, dùng sức lắc lắc, Du Võng bèn thụi hắn một quả, “Sau này ta nhờ ngươi làm gì, ngươi đừng có bắt ta đi trộm rượu nữa nhé.” Lần này mới thật sự là lời thề giữa đôi bên, một khi đã siết tay thề, về sau dù núi đao biển lửa, huynh đệ cũng phải sát cánh bên nhau.

Viêm Đế mừng rỡ cười lớn, “Hôm nay chẳng cần hai con khỉ các ngươi đi ăn trộm, Mộc Cận, con vào nhà đem hết rượu ra đây.”

Đột nhiên Vân Tang sắc mặt tái xanh từ góc tối bước ra, mỉm cười lên tiếng, “Đừng quên phần con một chén chứ.” Rõ ràng những lời Viêm Đế nói vừa rồi nàng đã nghe thấy cả.

A Hành lập tức đứng dậy đỡ Vân Tang, lo âu nhìn nàng, Vân Tang bấm tay A Hành, tỏ ý rằng mình không sao, vẫn có thể chịu đựng được.

Ảnh hưởng thái độ thờ ơ của Xi Vưu cùng vẻ điềm tĩnh của Vân Tang nên tuy tâm trạng rất nặng nề, Du Võng và Mộc Cận vẫn giữ được vẻ bình thảnh, chuốc hết chén này sang chén khác, cười nói với Viêm Đế, tạm quên đi bệnh tình của ông.

Viêm Đế bước tới bảo A Hành: “Hành nhi, con đi với ta một quãng nhé, cho tỉnh rượu ấy mà.”

A Hành hiểu Viêm Đế có lời muốn nói, vội đứng dậy đỡ Viêm Đế đi về phía sơn cốc.

Từ khi nhận ra Xi Vưu thích A Hành, Viêm Đế luôn vô tình hoặc cố ý muốn tác hợp cho hai người, dù đứng trên địa vị của bậc cha chú hay vì lòng riêng của đấng quân vương thì mối duyên giữa Hiên Viên và Cao Tân đối với Thần Nông cũng vô cùng bất lợi, có điều cả ngày vui vầy cùng con cái, lòng tư lợi của đế vương đã nhạt đi nhiều, thậm chí, Viêm Đế còn có phần áy náy với A Hành.

Viêm Đế rút ra một cuộn thẻ ngọc đưa cho nàng: “Cái này tặng con, hy vọng một ngày nào đó nó có thể giúp được con.”

A Hành dùng linh thức xem qua, trông thấy mấy chữ lớn ngay trên đầu: “Thần Nông bản thảo kinh?”

“Đây là tâm huyết cả đời ta, coi như quà gặp mặt bá bá tặng con đi.”

“Sao bá bá không truyền cho Vân Tang tỷ tỷ?”

“Vân Tang không có thiên bẩm về mặt này, dù sao y dược cũng liên quan mật thiết tới sống chết, mà trong lòng Vân Tang lại luôn chống đối những điều đó. Hơn nữa đây chẳng phải vật tốt lành gì, bao nhiêu người nhăm nhe muốn đoạt lấy nó, nếu để lại cho Vân Tan, e rằng sẽ dẫn tới mối họa sát nhân.”

Vẻ mặt A Hành nghiêm trang hẳn, nàng hiểu mình đang nắm trong tay tâm huyết cả đời của nhân vật đứng đầu thiên hạ, có thể lấy mạng tuyệt đại anh hùng dễ như trở bàn tay, cũng có thể dựa vào y thuật thần thông mà thao túng thiên hạ, bèn nhắc nhở Viêm Đế: “Nhưng con là con gái Hiên Viên Hoàng Đế!”

Viêm Đế mỉm cười: “Con cũng là con gái nghĩa muội Tây Lăng Luy của ta!”

A Hành thoáng do dự rồi nhận lấy cuộn thẻ ngọc: “Con tạ ơn bá bá!”

Viêm Đế nói: “Con đừng tạ ơn, còn chưa biết được là phúc hay họa đâu!”

A Hành quỳ xuống dập đầu với Viêm Đế, “Bá bá, con định sẽ rời khỏi đây ngay. Trên đời chẳng bức tường nào không thông gió, một khi thân phận con bị phát hiện, e rằng sẽ khơi dậy sóng to gió lớn, khiến Thần Nông tộc đang lúc rối ren này phải gánh thêm đại họa, lại khiến Xi Vưu gặp nguy hiểm, dù là vì bá bá hay vì Xi Vưu, con cũng nên đi sớm là hơn.”

Viêm Đế trầm ngâm nghĩ ngợi, A Hành bị cuốn vào vòng xoáy này một phần là do ông gây nên, vậy mà nàng vẫn luôn nghĩ cho ông, khiến Viêm Đế càng thêm thương xót nàng, nhưng cũng chỉ có thể thương xót mà thôi.

A Hành lại hỏi: “Bá bá có lời gì muốn nhắn với mẹ con không ạ?”

Viêm Đế đăm đăm nhìn về phía cuối trời, thần sắc như đang quay về những ngày tháng vui vẻ mấy ngàn năm trước, dẫu nét băn khoăn vẫn vấn vương trong mắt nhưng nụ cười đã trở nên phóng khoáng hào sảng, phảng phất dáng vẻ thời trai tráng, “Không cần đâu, những lời ta muốn nói bà ấy đều hiểu cả rồi.”

A Hành liền đứng dậy, “Bá Bá, vậy con đi đây, Xi Vưu vẫn còn ở đó, làm phiền bá bá từ biệt hắn giùm con.”  Hành bước tới bên vách núi, cất tiếng gọi Liệt Dương và A Tệ.

“Cô định không từ mà biệt thật đấy à?”

A Hành ngoảnh lại, trông thấy Xi Vưu đứng dưới một trời sao lấp lánh, như bình thản, lại như đang bừng bừng lửa giận.

Nàng lặng người đi. Bỗng có tiếng ho sù sụ vang lên, Vân Tang cưỡi hươu sao chạy tới, hổn hển bảo Xi Vưu: “Nếu ngươi thật lòng quan tâm A Hành thì nên để muội ấy đi đi. Thế lực của bọn Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ hết sức vững mạnh, bệnh tình phụ vương e rằng không giấu được bao lâu, trước đây bọn chúng cho rằng phải vài ngàn năm nữa mới xảy ra chuyện tranh quyền đoạt vị, nên dù dã tâm dã tâm lớn đến đâu cũng cố kìm nén, bây giờ mọi chuyện đột ngột thay đổi, nhất định chúng sẽ rối cả lên, tuy có thể nhất thời chưa dám ra tay với Du Võng, nhưng chúng chẳng kiêng nể gì ngươi đâu.”

Thấy Xi Vưu tỏ vẻ coi thường, Vân Tang nói tiếp: “Một mình ngươi đương nhiên không sợ nhưng hiện giờ trong tay ngươi chẳng có lấy một binh một tốt, ngươi không sợ kẻ nào đó muốn nhổ cỏ tận gốc, làm tổn thương tới A Hành ư?”

Xi Vưu làm thinh không nói.

Biết mình đã chạn tới điểm yếu của Xi Vưu, Vân Tang cũng chẳng nói thêm, chỉ vỗ vỗ lên mình hươu sao, hươu sao liền cõng nàng rời khỏi đó. Nghe tiếng ho khe khẽ vẳng lại, A Hành gọi với theo: “Vân Tang tỷ, tỷ nhớ… phải bảo trọng.”

Vân Tang ngoái lại cười nói: “Yên tâm, tỷ không sao, muội… cũng phải tự chăm sóc lấy mình.” Đôi bên đều rưng rưng nước mắt nhìn nhau, A Hành gật gật đầu cười, Vân Tang cũng cười rồi khuất bóng sau cánh rừng rậm rạp.

Xi Vưu bước tới bên A Hành hỏi nhỏ: “Cô dự định thế nào? Rời khỏi Thần Nông sơn định đi đâu đây?”

A Hành mỉm cười, “Mẹ không cho ta về Hiên Viên sơn nữa, nhân lúc thiên hạ thái bình, ta muốn đi rong chơi khắp nơi như khi xưa vậy.”

Nhớ lại chuyện xưa, khóe miệng Xi Vưu cũng thấp thoáng nụ cười, “Cô đáp ứng ta một chuyện được không?”

“Chuyện gì cơ?”

“Mỗi năm để ta gặp cô một lần.”

“Làm sao gặp được? Bệnh tình Viêm Đế càng nặng thêm, lệnh giới nghiêm của Thần Nông quốc sẽ càng lúc càng nghiêm ngặt, e rằng muốn ra vào cũng rất khó khăn.”

“Tháng Tư hàng năm, khi hoa đào nở đầy trên sườn núi là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê tộc, mọi người đều tụ tập dưới gốc đào hát tình ca, tìm người thương. Từ sang năm trở đi, cứ đến tháng Tư, ta sẽ chờ cô dưới cội đào ở Cửu Lê, không gặp không về.”

Nhớ tới miền đào nguyên ngoài cõi thế tươi đẹp tự do Cửu Lê, A Hành chợt thấy ấm áp ngập lòng, từng cảnh tượng như hiện ra rõ rành rành trước mắt nàng, cuộc hẹn hò dưới trăng của Mê Đóa và Kim Đan, bát Ca tửu sóng sánh đậm đà, khúc tình ca nồng nàn phóng khoáng… Câu nói của Viêm Đế vẫn còn văng vẳng bên tai, nàng muốn như đôi én nhỏ chao liệng giữa núi rừng, ríu rít bên nhau tới bạc đầu hay muốn tháng lại năm qua một mình tựa bóng giữa cung điện nguy nga lộng lẫy đến hết đời giống mẹ?

A Hành nghĩ ngợi miên man hồi lâu không đáp. “Tây Lăng Hành, cô không đồng ý ư?” Xi Vưu nắm chặt lấy nàng, nét mặt lạnh lùng chẳng giấu nổi vẻ thiết tha lo lắng thô bạo uy hiếp bùng lên trong mắt, A Hành không nhịn được phì cười, định mở miện toan nói nhưng lời vừa đến miệng, hai má đã đỏ bừng.

Nàng ngoảnh mặt đi, không dám nhìn Xi Vưu nhưng ngón tay lại khẽ ngoắc lấy tay hắn, nói nhỏ, “Nếu hàng năm ngươi đều mặc áo ta may thì năm nào ta cũng sẽ tới gặp ngươi.”

Nhận ra ý tứ trong lời nói của nàng, Xi Vưu đắm đuối ngắm A Hành đang ngượng đỏ cả tai, mừng rỡ hỏi lại: “Nếu ta mặc suốt đời, cô cũng sẽ đến suốt đời chứ?”

Mặt A Hành đỏ dừ như tôm luộc, nói khẽ đến cơ hồ không nghe thấy: “Nếu ngươi mặc thì ta sẽ tới.”

Xi Vưu cười phá lên ôm chặt lấy nàng, A Hành cúi đầu e thẹn làm thinh, chỉ nghe hoảng loạn và ngọt ngào hòa quyện vào nhau, tim đập thình thịch, cũng chẳng hiểu đó là tiếng tim mình hay tim đối phương nữa.

Qua một hồi lâu, A Hành mới lên tiếng: “Viêm Đế và Du Võng đang đợi ngươi, ta phải đi đây.”

Xi Vưu dặn dò Liệt Dương đang lượn vòng vòng quanh đó: “Ta giao cả A Hành và A Tệ cho mày đấy!”

Liệt Dương lần đầu tiên được giao phó trọng trách, mà kẻ nhờ cậy lại là người nó miễn cưỡng có thể xem trọng, nhưng nó vẫn tỏ vẻ trịnh trọng hiếm thấy, bay tới đậu lên vai A Hành, giơ một cánh tay vỗ vỗ ngực như thể nỏi: “Có ta đây rồi, không phải lo!”

A Hành cùng A Tệ phá lên cười lăn lộn, Liệt Dương thấy vậy bực bội bay đến đậu lên đầu A Tệ, hung hăng giáo huấn A Tệ.

A Tệ quyến luyến kêu một tiếng như từ biệt hươu sao rồi cất cánh bay lên, Xi Vưu vẫn nắm lấy tay A Hành không buông, nhưng A Hành đang từ từ bay lên cao, hắn đành phải lơi dần ra, đúng vào khoảnh khắc khi hai bàn tay sắp rời nhau, A Hành đột nhiên siết chặt tay hắn, dặn: “Ngươi là con nợ của ta, trên đời này chỉ mình ta mới có quyền lấy mạng ngươi, ngươi không được phép bị thương trong tay bọn Chúc Dung đâu đấy!”

Xi Vưu cười rạng rỡ siết chặt tay nàng rồi buông ra, “Ta đồng ý trừ cô ra, bất kỳ ai cũng không đả thương được ta đâu!”

Bóng A Hành và A Tệ xa dần xa dần sau màn mây.

Hươu sao ngẩng mặt nhìn trời, cổ họng bật lên một tiếng kêu bi thương nghẹn ngào. Xi Vưu ngồi thụp xuống, nắm lấy hai tai hươu sao, nói nhỏ, “Đừng buồn, sớm muộn sẽ có ngày ta quang minh chính đại đưa họ quay về đây.”

Hêt chương 10.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 6-12-2013 03:26 PM
Chương 11


Chàng đừng quên, hẹn nặng tây non[1].


11.1


Trích trong bài “Kim Lũ khúc – Tặng Lương Phần” của Nạp Lan Tinh Đức (1655-1685), từ nhân đời Thanh.


Vương Mẫu vẫn khe khẽ hát khúc đồng dao, say sưa nhảy múa như thể đang tiếp tục điệu múa dang dở từ ngàn năm trước, như thể muốn Viêm Đế trông rõ những lời mà ngàn năm trước bà chưa kịp nói ra.

Chờ đợi cả ngàn năm, cứ ngỡ rằng thế nào cũng được một cơ hội, chỉ cần một cơ hội mà thôi, nhưng cuối cùng… cuối cùng điệu múa này vẫn chẳng thể nào múa hết.  

Sau sáu mươi năm bị Vương Mẫu giam cầm. A Hành mới lại được một mình rong ruổi khắp đại hoang, nhưng giờ đây nàng không còn là Tây Lăng Hành to gan làm loạn nữa, mà đã trở thành Tây Lăng công tử trị bệnh cứu người.

Tây Lăng công tử chữa bệnh cứu người không lấy một xu, chỉ yêu cầu cả nhà người bệnh hàng ngày sớm tối đều hướng về phía Thần Nông sơn thành tâm cầu chúc.

Nghe nói vạn vật đều có linh tính, chỉ cần có lòng thành, thành ý của vạn người trong thiên hạ có thể dung hợp với linh khí đất trời, giảm thiểu đau khổ của thế gian, đây chính là nguyên nhân tại sao thời loạn thường xuất hiện anh hùng, bởi người đời mong có một vị anh hùng để dẹp yên mọi chuyện, anh hùng cũng theo lẽ trời mà sinh ra.

Mỗi lần đi tới đâu, Tây Lăng công tử đều lập trường mở lớp, phàm là người yêu thích y thuật, bất kể thân phận cao thấp địa vị sang hèn đều có thể tới nghe giảng.

Theo bước chân rong chơi khắp cõi đại hoang, y thuật của Tây Lăng công tử cũng càng lúc càng tiến bộ.

Rất nhiều thầy thuốc nổi danh sùng bái Tây Lăng công tử, họ cho rằng trò chuyện với Tây Lăng công tử một lần có thể thông hiểu bao điều, y thuật bước lên một tầng cao mới. Nhưng cũng có người nghi ngờ Tây Lăng công tử, bởi nghe nói có lúc hỏi một số vấn đề đơn giản, công tử lại bỗng nhiên ấp úng không trả lời được.

Dù cho y thuật cao hay thấp, trên con đường rong ruổi của mình, Tây Lăng công tử cũng đã giúp đỡ rất nhiều người, khiến bao kẻ phải đội ơn.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, chớp mắt đã sáu năm.

Hôm đó Tây Lăng công tử tới Vân Châu thành của Cao Tân quốc, như thường lệ, sáng sớm công tử luận bàn y thuật với các thầy thuốc, đến chiều thì chọn một nơi thoáng đãng ở ngoại thành tiếp người bệnh các phương đồ đến khám bệnh.  

Nơi khám của Tây Lăng công tử rất đơn sơ, chỉ có một manh chiếu cô, công tử ngồi trên chiếu, xung quanh là những người tới nhờ chẩn trị.

Mộ danh tiếng lẫy lừng của Tây Lăng công tử, người ta đổ xô tới xin khám bệnh chật kín cả cánh đồng, từ kẻ ăn mày manh áo chẳng đủ che thân đến danh môn khuê tú ngồi đợi trong kiệu. May sao, các thầy thuốc hồi sáng nghe Tây Lăng công tử thuyết giảng cũng khảng khái ra tay giúp đỡ, họ học theo công tử, trải một tấm chiếu khám bệnh cho người.

Tuy người đông nghẹt nhưng cũng rất yên tĩnh, không ai chen lấn hay náo loạn, mọi người đều trật tự xếp hàng đợi, khiến cả vùng đồng hoang mênh mông bỗng trở nên trang nghiêm trầm mặc.

Thành chủ Vân Châu thành dẫn Nhị vương tử Yến Long của Cao Tân tới bên sườn núi, trông thấy đám người đông nghìn nghịt, Yến Long than thở: “Tây Lăng công tử này nổi tiếng thật.”

Thành chủ cười phụ họa: “Thuộc hạ cũng nghĩ vậy, thế nên nghe tin điện hạ đi ngang bèn mời ngài tới đây.”

“Sao?”

“Thuộc hạ nghĩ nếu điện hạ có thể thu y về dưới trướng, hắn vô cùng có lợi cho uy tín của mình.” Thiếu Hạo rất được lòng trăm họ, bởi thế Yến Long cũng cần những trợ thủ có thể nâng cao danh tiếng cho mình.

Tháy Yến Long gật đầu, thành chủ lại bồi thêm, “Y họ Tây Lăng, nói không chừng là con cháu của Tây Lăng thế gia, mấy ngàn năm nay Tây Lăng thế gia suy vi, con cháu chẳng làm nên công trạng gì, có điều con sâu trăm chân, chết cũng không ngã, dù sa sút nhưng họ có dây mơ rễ má với ba thế gia kia, vẫn là một nguồn lực không nhỏ.”

Yến Long cười hờ hững, “Để ta đi gặp vị Tây Lăng công tử kia.”

Thành chủ định sai thuộc hạ dẹp đường, Yến Long đã ngăn lại, trách: “Bao nhiêu người đang khám bệnh thế kia, đừng quấy rầy bọn họ, ta sẽ tự tới đó.”

“Vâng, là thuộc hạ lo việc không chu đáo.”

Yến Long thong thả nhập vào đoàn người, vừa đi vừa để ý nghe mọi người xung quanh bàn tán về Tây Lăng công tử. Y ăn vận sang trọng, tướng mạo xuất chúng, đám đông đương nhiên tách ra nhường đường cho y.

Tây Lăng công tử nhìn cũng khá trẻ, mặc một bộ áo xanh, ngồi ngay ngắn dưới gốc đa, dung mạo bình thường nhưng thần thái điềm đạm cử chỉ ôn hòa, khiến người ta vừa gặp đã nảy sinh thiện cảm.

Tây Lăng công tử ngước lên trông thấy Yến Long liền ngẩn ra, Yến Long là Nhị vương tử cao quý của Cao Tân, trong cung đầy rẫy thầy thuốc, đường nhiên không tìm tới nơi đây để khám bệnh.

Yến Long chỉ mỉm cười, hơi khom lưng hành lễ với Tây Lăng công tử.

Tây Lăng công tử cũng khom người đáp lễ, nhưng trả lễ xong liền quay qua tiếp đãi bệnh nhân, chẳng để ý gì tới y nữa.

Mãi tới tối mịt, đám người buộc phải tản đi, Tây Lăng công tử mới thôi khám bệnh.

Yến Long cũng rất nhẫn nại, cứ lặng lẽ ngồi bên đợi, thấy người đã tản đi hết mới bước lại nói: “Tại hạ họ Thường, vô cùng kính phục cao nghĩa của công tử, muốn mời công tử dùng mấy chén rượu, nói đôi câu chuyện phiếm giang hồ.”

Tây Lăng công tử khách sáo từ chối, “Tôi vất cả cả ngày rồi, mai lại phải tới nhà người ta thăm bệnh, tối nay cần nghỉ ngơi sớm.”

Yến Long rất khiêm tốn lễ độ, cũng không nài ép, “Vậy tại hạ đợi công tử hết đợt khám bệnh sẽ lại đến mời.”

Liền ba ngày Yến Long đều đến từ sớm, ngồi đợi một bên, chẳng những không làm phiền Tây Lăng công tử, ngược lại còn giúp được rất nhiều việc như chia bệnh nhân thành từng nhóm, bệnh gì thì giao cho thầy thuốc chuyên về bệnh đó, nhờ Yến Long tổ chức có hiệu quả mà năng suất chữa bệnh nâng lên cao vọt.

Sau ba ngày, đợt khám bệnh kết thúc, Yến Long lại tới mời, “Tối nay là tết Phóng Đăng[2] của Cao Tân, tại hạ đã bày sẵn rượu và đồ nhắm, hy vọng công tử có thể đại giá quang lâm, cùng ngắm đèn trôi trên sông.”

[2] Tết thả đèn.


Tây Lăng công tử còn chưa kịp đáp, mấy tên thầy thuốc tới giúp đỡ vốn sẵn thiện cảm với Yến Long đã hùa thêm vào, “Công tử nhận lời đi, vất vả mấy ngày nay cũng nên nghỉ ngơi một chút.”

Thịnh tình khó chối, Tây Lăng công tử đành nhận lời với Yến Long.

Yến Long đưa Tây Lăng công tử lên một con thuyền bày biện trang nhã, hầu cận trên đó đều là thiếu nữ đương thì, ngay đến thuyền nương chèo thuyền cũng mặt hoa da phấn, dáng dấp yêu kiều. Các món ăn trên đó lại càng cầu kỳ hơn, nào là quế hoa viên tử nhưỡng, tùng thử ngư, bích hải minh nguyệt thang[3]…

[3] Bánh trôi chưng rượu quế hoa, cá xốt, canh trứng nấu với rau.


Thiếu nữ răng trắng muốt mắt nhung huyền vận chiếc quần lụa phương Nam, giới thiệu từng món ăn bằng giọng miền Nam ngọt ngào êm ái, quả có một phong vị tình tứ riêng.

Tây Lăng công tử cười khen: “Quả nhiên chưa tới phương Nam chưa biết thế nào là phong lưu.” Kỳ thực trong lòng thầm cảnh giác, ăn chẳng thấy ngon.

Vốn dĩ Tây Lăng chẳng hiểu gì về Yến Long, nhưng qua Vân Tang và Nặc Nại cũng nắm được chút chút chuyện tranh quyền đoạt vị giữa Yến Long và Thiếu Hạo, biết rằng Yến Long là nhân vật không dễ đối phó. Bởi vậy, Yến Long càng lịch thiệp thì Tây Lăng càng căng thẳng.

Ngắm làn sóng biển dập dờn trước mắt, Tây Lăng không khỏi nhớ tới Vân Tang và Nặc Nại, hai kẻ gặp nhau bên bờ nước, chẳng hiểu bây giờ bọn họ ra sao. Tây Lăng đã viết thư hỏi Vân Tang có muốn mình tới Cao Tân thăm Nặc Nại giùm không, Vân Tang đáp rằng hiện giờ thế cuộc phức tạp, chẳng còn lòng dạ nào nghĩ tới chuyện đó. Tây Lăng hiểu ý Vân Tang, đang lúc thay triều đổi đại này, hễ sơ sểnh sẽ nổ ra đại loạn, Vân Tang vừa phải chăm lo cho bệnh tình Viêm Đế lại vừa phải phò trợ một Du Võng nhu nhược, e rằng bốn chữ “dốc cạn tâm sức” cũng không đủ hình dung tình cảnh nàng.

Yến Long thấy Tây Lăng công tử vẻ mặt căng thẳng, tâm thần hoảng hốt bèn rút ra một cây đàn bằng gỗ ngô đồng, cười nói: “Công tử biết chữa bệnh cứu người còn nghề đàn của tại hạ chỉ có thể giải khuây cho người, nay xin gảy một khúc, hy vọng có thể giúp công tử xua tan mệt mỏi.” Yến Long tự phụ ngón đàn của mình là thiên hạ vô song, thường ngày không tùy tiện gảy đàn, đừng nói tới đánh đàn tấu nhạc vì ai bao giờ, có điều lần này hắn muốn chiêu dụ Tây Lăng công tử nên không tiếc hạ mình mà thôi.

Tây Lăng công tử vội thi lễ cảm tạ.

Tay đàn của Yến Long cao diệu vô chừng, quả không hổ là thiên hạ đệ nhất. Thoạt đầu tiếng đàn dịu dàng cất lên tựa làn gió xuân xua tan hết đau khổ trần gian, khiến tâm hồn lâng lâng, bất giác quên hết mọi chuyện phiền não, sau đó tiếng đàn lại hòa vào cùng cảnh vật xung quanh, tiếng trôi giữa cảnh, cảnh hiện theo tiếng, Tây Lăng công tử cũng thả hồn theo tiếng đàn để thưởng thức hết phong cảnh bốn bề.

Người tới thả đèn cầu năm mới bình yên đông nghịt hai bên sông, ai nấy lũ lượt thả đèn xuống nước. Từng chiếc đèn rực rỡ theo dòng nước dập dềnh trôi mãi về nơi xa.

Con thuyền của họ lặng lẽ lướt trên mặt sông như đang đi giữa muôn ngàn ánh sao lấp lánh. Giờ đây Giang Nam đương độ cỏ xanh oanh vàng, hoa hồng liễu biếc, hai bên bờ trăm hoa đua nở, rực rỡ thắm tươi, gió đêm hây hẩy đưa hương, cỏ hoa phất phơ đón gió, đẹp không bút nào tả xiết.

Thầm nghĩ chỉ còn một tháng nữa hoa đào trong núi Cửu Lê nở rộ, mình lại có thể gặp Xi Vưu, Tây Lăng không khỏi bồi hồi trong dạ. Hàng năm, bọn họ đều y hẹn gặp nhau dưới cội hoa đào, tuy sum họp thật ngắn ngủi nhưng vẫn miên man hạnh phúc.

Đột nhiên, mấy tiếng khèn ồ ồ không ra khúc điệu gì chợt vang lên, cắt ngang dòng suy tưởng của Tây Lăng công tử, đồng thời cũng làm loạn tiếng đàn của Yến Long, tinh một tiếng, dây đàn đứt phựt. Yến Long biến sắc, đành trông lên bờ nói: “Hay chúng ta lên bờ đi dạo?”

Tây Lăng công tử gật đầu cười: “Cũng được.”

Thuyền nương cho thuyền cập vào bờ, ánh đèn trên sông càng lúc càng rõ mồn một, Yến Long vừa đi vừa luôn miệng giới thiệu các loại hoa đăng khác nhau với Tây Lăng công tử.

Liên Hoa đăng ngụ ý cát tường an khang, Đào Hoa đăng mong được nhân duyên tốt đẹp, Táo Hoa đăng cầu sớm sinh quý tử.

Tịnh Đế Liên đăng hy vọng mãi mãi bên nhau, Quy Giáp đăng[4] cầu chúc cho cha mẹ sống lâu…

[4] Đèn hoa sen, đèn hoa đào, đèn hoa táo, đèn hoa sen tịnh đế, đèn mai rùa  


Tây Lăng công tử thoạt đầu chỉ ham xem náo nhiệt, sau nghe Yến Long giải thích dần dần cũng hiểu ra trong mỗi chiếc đèn đều chứa đựng lời cầu khẩn chân thành của một người, mỗi ngọn đèn là một tâm nguyện thiết tha.

Mấy đứa trẻ giơ cao đèn hoa chạy xộc tới, trong lúc chạy sơ ý để ngọn đèn bén lửa bùng cháy, ngay lập tức, cả đám đông nhốn nháo lên lo tránh lửa.

Tây Lăng công tử đảo mắt, nhân lúc mọi người đang hỗn loạn, vờ như bị lạc khỏi Yến Long rồi thừa cơ chuồn thẳng. Dụng ý của Yến Long khi nhiệt tình khoản đãi mình lẽ nào Tây Lăng không hiểu, nhưng nàng không thể nào đáp ứng, đã vậy chi bằng chuồn sớm cho xong.

Chạy tới chỗ vắng người, không thấy bóng dáng Yến Long đâu nữa, Tây Lăng công tử khoái chí cười khì, nào ngờ trong rừng đào bỗng vang lên một tràng cười khanh khách.

Tây Lăng sững sờ, “Ai đó?”

Nàng vội ngẩng đầu lên, trông thấy một nam tử áo trắng thần thái phiêu dật đang vắt vẻo ngồi trên cây mận, tay cầm bầu rượu, dáng vẻ tiêu sái như thần tiên say vùi giữa ngàn hoa, những bông hoa mận đầy cành càng tôn lên vẻ phóng khoáng thanh cao, phi phàm xuất chúng của y.

Hóa ra là Thiếu Hạo, hèn chi có thể làm rối loạn tiếng đàn của Yến Long, Tây Lăng lập tức ngẩn người.

Thiếu Hạo cười hỏi: “Công tử tới ngắm hoa đăng trên sông sao?”

“Phải.”

“Thật ra địa điểm tốt nhất để ngắm hoa đăng không phải ở trên sông đâu.”

“Vậy ở đâu?”

Một con Huyền điểu đen tuyền sà xuống trước mặt hai người, Thiếu Hạo chỉ lên trời cười, “Ngắm sao trời phải đứng ở dưới đất, vậy ngắm ánh sao trên mặt đất đương nhiên phải bay lên trời rồi.”

Nói rồi y mời Tây Lăng công tử leo lên Huyền điểu, Tây Lăng thoáng do dự rồi cũng bước lên. Huyền điểu cất cánh bay lên, Tây Lăng công tử sánh vai đứng bên Thiếu Hạo, cùng nhìn xuống mặt đất.

Cao Tân quốc ao hồ đầy rẫy, sông ngòi nhan nhản. Tết Phóng Đăng là ngày hội lớn nhất trong năm của Cao Tân, nhà nào nhà nấy đều làm đèn đem thả, khi nãy ngồi trên thuyền chỉ có thể ngắm đèn trôi trên một dòng sông, còn giờ đây từ trên cao nhìn xuống mới nhận ra tất cả hồ ao sông ngòi đều tràn ngập ánh đèn, lung linh rực rỡ, mênh mang vời vợi như vô vàn ánh sao trên mặt đất, những ánh sao này tụ lại thành muôn ngàn dòng sông sao, hoặc quanh co uốn khúc hoặc bát ngát bao la, mỹ lệ lộng lẫy hơn nhiều bầu trời sao trên không kia.

Tây Lăng tròn mắt ra nhìn, lẩm bẩm: “Đúng là tiên cảnh giữa trần gian, chằng biết mình đang ở trên trời hay dưới đất nữa.”

Thiếu Hạo chăm chú ngăm dải đất Cao Tân lấp lánh ngàn sao, mỉm cười phụ họa: “Hàng năm ta đều thưởng thức cảnh tượng này, vậy mà năm nào cũng rung động tận tâm can.”

Tây Lăng lại hỏi: “Chẳng hay truyền thuyết về tết Phóng Đăng bắt nguồn từ đâu?”

“Từ lâu lắm rồi, truyền thuyết thì nhiều lắm. Có truyền thuyết kể rằng, người yêu của một thiếu nữ xinh đẹp phải đi đánh giặc nơi xa, mãi chẳng thấy về, thiếu nữ đau buồn bèn thắp những ngọn đèn thả xuống sông để dẫn lối cho chàng ta về nhà, chàng dũng sĩ chỉ còn thoi thóp chút hơn tàn, nhờ ngọn đèn đưa đường cuối cùng cũng tìm được đường về, đoàn tụ cùng thiếu nữ. Còn có truyền thuyết kể rằng: trong ngôi làng tươi đẹp bình yên đột nhiên xuất hiện một con thủy quái lớn, để cứu mọi người trong làng, một thiếu niên dũng cảm đã chiến đấu ác liệt với thủy quái rồi hy sinh, mẹ cậu ta hết sức đau lòng, ngày đêm cứ quanh quẩn ngoài bờ sông gọi tên con, để an ủi người mẹ tội nghiệp đó, dân làng bèn thắp những ngọn đèn thả trôi trên sông.”

“Ngươi tin vào truyền thuyết nào?”

Thiếu Hạo đáp: “Ta tin rằng những ngọn đèn đó chính là những ánh sao.”

“Sao ư?”

Thiếu Hạo ngượng nghịu cười, “Mẹ ta qua đời trong lúc sinh ra ta. Vú già nuôi nấng ta thường trỏ những vì sao trên trời an ủi rằng mẹ vẫn ở bên ta, bà đã hóa thành sao trên trời, mãi mãi bảo vệ cho ta. Thoạt đầu ta rất tin lời vú, bất kể lúc vui hay lúc buồn đều cung kính thổ lộ hết với những vì sao đó, ngỡ rằng mẹ ta trên trời có thể nghe thấy mọi điều. Cho tới một lần ta gặp chuyện vô cùng oan ức, đệ đệ có mẹ chở che còn ta chẳng có ai cả, đành chịu bị người ta lăng nhục, ta ấm ức về bảo vú già: “Ta không tin mấy chuyện nhảm nhí của vú nữa, trên đời làm gì có ngôi sao bảo hộ chứ!” Vú già hết sức buồn rầu, bèn dắt ta ra ngoài xem người ta thả đèn, cả dải đất Cao Tân tựa hồ đều biến thành một bầu trời lấp lánh ánh sao, y như đêm nay vậy, vú già nói: “Trông thấy chưa? Đó đều là những ngôi sao bảo hộ đó!”

Tây Lăng chăm chú nhìn những vì sao bên dưới, bấy giờ mới hiểu ý Thiếu Hạo, những ngọn đèn kia là do vô số thiếu nữ, vô số dũng sĩ, vô số người mẹ, vô số đứa con thắp lên, ánh đèn cũng là tấm lòng muốn bảo vệ cho người thân của họ, thế nên gọi là những ngôi sao bảo hộ.

Thiếu Hạo mỉm cười nhìn Tây Lăng công tử, “Tại hạ Cao Tân Thiếu Hạo.”

Đó là cái tên khiến cả đại hoang chấn động, Tây Lăng thật không ngờ Thiếu Hạo lại đột nhiên tiết lộ thân phận của mình, mặt trân trân nhìn y.

“Ta nghĩ người chuyên cần học y ắt hẳn trong lòng có thứ gì đó muốn bảo vệ, chẳng hay điều Tây Lăng công tử muốn bảo vệ nhất là gì đây?”

Tây Lăng công tử trầm ngâm, tuy Tây Lăng chưa để lộ thân phận nhưng đã bị Thiếu Hạo nhìn thấu tâm tư mất rồi. Trước uy phong cùng sức mạnh của phụ vương và Đại ca, rõ ràng Tây Lăng vô cùng nhỏ bé. Chính vì không muốn một ngày kia mình trở thành kẻ vô dụng trước hai người đó nên Tây Lăng phải nỗ lực nghiên cứu y thuật.

Thiếu Hạo cũng không gặng tiếp, chỉ mỉm cười nói: “Y thuật của Tây Lăng công tử chẳng khác nào ngọn lửa, có thể thắp lên ngọn đèn giùm những thiếu nữ và những người mẹ kia, để bọn họ được hạnh phúc. Thay mặt tất cả những thiếu nữ và những người mẹ trên toàn Cao Tân này, ta xin công tử hãy ở lại, cùng ta bảo vệ bức họa tiên cảnh nhân gian ấy.”

Gương mặt Thiếu Hạo ánh lên vẻ kiên quyết vững vàng tựa ngọn núi cao ngàn thước không gì lay chuyển nổi, khiến Tây Lăng chợt thấy tim đập thình thịch, mơ hồ có cảm giác vừa tôn kính lại vừa sờ sợ.

Thiếu Hạo cười nói: “Ta biết đây là quyết định lớn nên công tử không cần phải vội, dù sao công tử vẫn còn ở lại Cao Tân rong chơi, cứ suy nghĩ thật kĩ rồi nói lại với ta. Dù công tử bằng lòng hay không, ta cũng rất biết ơn công tử đã tới Cao Tân, càng hoan nghênh công tử tới Cao Tân lần nữa.”

Tây Lăng công tử chỉ biết gật đầu.

Huyền điểu chở bọn họ đỗ xuống một mảnh sân nhỏ, Tây Lăng công tử đang định chối từ thì Thiếu Hạo đã tươi cười đẩy mở cửa phòng, chỉ thấy trên bàn bày đầy sách vở, “Đây là sách thuốc ta thu thập suốt bao năm nay, hy vọng có thể giúp ích cho công tử.”

Tây Lăng công tử không khỏi động tâm, bước tới cầm một cuốn lật xem, Thiếu Hạo khẽ khàng khép cửa lại, đợi đến khi Tây Lăng công tử ngẩng đầu lên đã không thấy y đâu nữa.

Tây Lăng công tử vốn định từ biệt, nhưng tiếc rẻ đống sách thuốc ở đây nên lại ngồi xuống đọc tiếp.

Suốt mấy ngày Tây Lăng công tử chỉ chúi mũi vào đống sách vở mà Thiếu Hạo thu thập được. Thiếu Hạo chẳng hề tới làm phiền Tây Lăng, thậm chí Tây Lăng còn không có cảm giác y cũng sống dưới cùng một mái nhà. Chỉ thi thoảng thấy mùi rượu thơm lừng đưa lại, Tây Lăng mới nhận ra kẻ đó đang ở gần đây.

Hôm đó đang đọc dở cuốn sách, Tây Lăng lại ngửi thấy mùi rượu, có điều lần này là thư tửu đất Điền, Tây Lăng không nhịn nổi đành mở toang cửa ra, nhưng trước sau nào thấy bóng người.

Đương lúc bực bội, trên nóc nhà chợt vang lên tiếng nói: “Đọc hết sách rồi sao?”

Tây Lăng lùi lại ngẩng lên, trông thấy Thiếu Hạo đang nghiêng mình nằm trên nóc nhà, một tay chống cằm, tay kia ôm hồ lô rượu, sau lưng là vầng trăng vằng vặc, dưới ánh sáng trong vắt mênh mang, trông y chẳng khác nào một vị tiên say khướt giữa vũng trăng.

“Sắp hết rồi, ngài uống rượu gì thế?”

“Thư tửu đất Điền, công tử muốn nếm thử không?” Thiếu Hạo ném hồ lô rượu cho Tây Lăng công tử.

Tây Lăng hớp một hớp, làm bộ không chịu nổi tửu lực, ném trả lại y, “Sao rượu còn phân ra thư hùng?”

Thiếu Hạo mỉm cười ngẩng đầu nhìn trời như đang hồi tưởng lại chuyện gì đó, “Đó là một người bạn cũng rất mê rượu nói cho ta nghe, quả thật rượu cũng chia ra thư hùng.”

Tây Lăng nín thở ngồi xuống chiếc bàn đá trong sân, ra vẻ tò mò hỏi: “Phải là người thế nào mới có thể làm bạn rượu của Thiếu Hạo nổi danh thiên hạ đây?”

Thiếu Hạo hớp một ngụm rượu, khóe môi ẩn hiện nụ cười, y lặng thinh không đáp, hồi lâu mới nói: “Nàng ấy rất thú vị.” Nói rồi y ngoảnh đầu nhìn về phía Tây, “Chẳng biết bây giờ nàng ấy đang vừa uống rượu vừa nghe người ta kể chuyện ở nơi nào nữa.”

Thấy Tây Lăng im lặng, Thiếu Hạo lại lắc lắc hồ lô rượu hỏi: “Muốn nếm nữa không?”

Tây Lăng cười: “Muốn!”

Thiếu Hạo ném hồ lô rượu qua. Hai người kẻ ngồi nơi bàn đá kẻ nằm trên nóc nhà, vừa uống rượu vừa trò chuyện.

Tây Lăng biết Thiếu Hạo cũng toan tính giống Yến Long, thoạt đầu y cố tình phá hỏng kế hoạch của Yến Long, sau đó từng bước lấy lòng khiến mình không sao chối từ ý tốt của y, tuy nhiên cùng là chiêu dụ, Thiếu Hạo lại thực hiện rất tự nhiên chân thành. Chợt nghĩ, nếu mình thật sự là Tây Lăng công tử, e rằng đã sớm quy phục Thiếu Hạo, cam lòng phục vụ cho y rồi.

Hai người trò chuyện đến nửa đêm, Tây Lăng sợ rượu vào lời ra lại lộ tẩy nên không dám uống nữa, đành vờ say liêu xiêu về phòng nằm nghỉ.

Sáng sớm ra, Tây Lăng đang rửa mặt chợt trông thấy vô số tằm bay vào phòng, xếp thành hai chữ to tướng: “Về ngay.”

Tây Lăng đánh rơi cả khăn xuống đất, mặt tái nhợt. Đợi tâm trạng trấn tĩnh lại, Tây Lăng bước ra khỏi phòng, phát hiện Thiếu Hạo đang đứng trong sân dõi mắt trông theo bóng Huyền điểu truyền tin vừa bay đi, vẻ mặt nghiêm trọng lạ thường.

Rốt cuộc là chuyện gì mà đồng loạt kinh động cả Hiên Viên cùng Cao Tân thế này? Tây Lăng thầm suy đoán, tâm trạng càng thêm nặng nề.

Thiếu Hạo lên tiếng: “Ta vốn định cùng công tử ngao du khắp Cao Tân, nhưng hiện giờ ở nhà có việc gọi ta về, đành phải đi trước vậy, thật ngại quá! Công tử muốn đi đâu, để ta phái thuộc hạ hộ tống.”

Tây Lăng đáp: “Không cần đâu, tôi cũng có chút việc phải giải quyết, đang định từ giã điện hạ.”

Thiếu Hạo gật đầu cười, “Vậy công tử bảo trọng, ta rất mong sau này còn có dịp gặp lại nhau.”

Tây Lăng áy náy cười nói, “Nhất định sẽ gặp lại mà.” Thiếu Hạo cũng chẳng nấn ná thêm, liền cưỡi Huyền điểu vội vã đi thẳng.

Tây Lăng đợi y đi khỏi cũng lập tức triệu hồi A Tệ và Liệt Dương, vội vàng quay về Hiên Viên sơn. Trước mắt chỉ có tin Viêm Đế bệnh nặng mới có thể đồng thời kinh động cả mẹ cùng Tuấn Đế, để hai người phải lập tức hạ lệnh gọi bọn họ về nhà. Xem ra khả năng dò thám tin tức của Cao Tân và Hiên Viên cũng một chín một mười
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 6-12-2013 03:43 PM
Chương 11


Chàng đừng quên, hẹn nặng tây non[1].


11.2


Tây Lăng đau đáu trông về phía Thần Nông sơn, chẳng hiểu Xi Vưu có ổn không?

A Hành còn đang ở giữa chừng không đã thấy Thanh Dương đứng trước điện Triêu Vân đợi.

Nàng vội nhảy từ lưng A Tệ xuống, bước đến trước mặt Thanh Dương, cung kính hành lễ, “Đại ca.”

Thanh Dương chỉ gật đầu, rảo bước đi trước dẫn đường, A Hành lặng lẽ theo sau y. Bước vào chính điện, A Hành chợt trông thấy phụ vương, người đã mấy trăm nay chưa hề đặt chân đến đây đây.

Cha mẹ nàng đang ngồi bên bàn, đối diện nhau uống trà.

Cha nàng thân khoác vương bào, khí độ ung dung, oai phong lẫm liệt, còn mẹ nàng đã bạc trắng mái đầu, mặt sạm gió sương, già nua héo úa. Nếu không biết thân phận của hai người, e rằng chẳng ai dám tin họ lại là vợ chồng.

Đợi Thanh Dương hành lễ xong đứng sang một bên, A Hành liền quỳ xuống dập đầu, “Phụ vương, mẫu hậu, Hành nhi về rồi đây.”

Hoàng Đế cười nói, “Tới ngồi cạnh phụ vương nào, con cứ rong chơi bên ngoài suốt, chẳng chịu tới thăm phụ vương gì cả.”

A Hành ngồi xuống bên cha, tự tay châm trà hầu cha mẹ.

Nàng níu tay cha vừa nũng nịu vừa hỏi dò, “Phụ vương, sao người lại tới đây? Dạo này phụ vương không bận công việc ư?”

Hoàng Đế cười đáp: “Có bận rộn mấy đi nữa cũng phải lo việc chung thân đại sự cho con chứ!”

Tim A Hành đập rộn lên, nàng đưa mắt lên thắc mắc nhìn mẹ. Luy Tổ liền lên tiếng: “Phụ vương con đang định chọn ngày, gấp rút cho con thành hôn cùng Thiếu Hạo.”

A Hành đột nhiên thấy trước mặt tối sầm, phải ráng định thần, cất giọng năn nỉ: “Phụ vương, con chưa muốn lấy chồng đâu!”

Hoàng Đế vẫn thản nhiên uống trà, tay không hề khựng lại, như chẳng nghe thấy lời nàng.

Thanh Dương cúi đầu vừa châm trà vừa lạnh lùng hỏi: “Muội không muốn lấy chồng hay không muốn lấy Thiếu Hạo?”

Nhìn vẻ mặt thờ ơ của Đại ca, A Hành thấy lòng lạnh buốt: “Muội chỉ muốn rong chơi thêm mấy năm nữa thôi, sao đột nhiên bắt muội lấy chồng gấp rút thế?”

Thanh Dương đáp: “Nếu như bình thường, muội muốn chơi thì cứ việc chơi cho thoả sức, nhưng tình thế bây giờ không cho phép muội tuỳ hứng nữa rồi.”

“Tình thế bây giờ làm sao?”

“Người thiên hạ chỉ biết Viêm Đế đang bế quan luyện thuốc, nhưng chúng ta lại được tin báo Viêm Đế đang lâm trọng bệnh, e rằng Thần Nông tộc sắp thay thủ lĩnh mới rồi.”

A Hành siết chặt hai tay, dẫu đã đoán trước bệnh tình Viêm Đế chuyển biến xấu nhưng chính tai nghe thấy điều đó, nàng vẫn thấy khó mà chịu nổi.

Thanh Dương nói tiếp: “Thuộc địa của chúng ta và Thần Nông tiếp giáp nhau, mấy ngàn năm nay hai tộc Hiên Viên và Thần Nông vẫn tranh chấp liên miên, họ đã bất mãn với chúng ta từ lâu, sớm muộn gì Viêm Đế mới kế vị cũng sẽ cất quân đánh ta. Thần Nông quốc nằm giữa Trung Nguyên, đất đai phì nhiêu, sản vật phong phú, dân chúng đông đúc, thực lực mạnh hơn ta nhiều, hơn nữa nền móng của chúng ta không bì được với những Thần tộc thượng cổ kia, nếu Thần Nông liên minh cùng Cao Tân, hẳn Hiên Viên sẽ đứng trước mối hoạ diệt tộc, bởi vậy muội phải thành hôn với Thiếu Hạo càng sớm càng tốt.”

A Hành trừng mắt nhìn Thanh Dương, “Huynh cứ luôn miệng nói nào Hiên Viên nào Thần Nông, vậy còn muội thì sao?”

Thanh Dương thản nhiên nói lạnh băng: “Muội là vương cơ của Hiên Viên, đây là trách nhiệm muội buộc phải gánh vác.”

A Hành lại quay sang cầu khẩn Hoàng Đế: “Phụ vương, xưa nay người thương con nhất mà, con chưa muốn lấy chồng đâu, cho con ở nhà hầu hạ người và mẫu hậu thêm mấy năm nữa nhé.”

Hoàng Đế nghiêm mặt: “Không phải phụ vương không muốn giữ con lại, có điều ta và Tuấn Đế đã trao đổi với nhau, qua ngày mai Thiếu Hạo sẽ đích thân tới Hiên Viên chọn ngày, những chuyện khác đều có thể chiều theo con nhưng hôn sự này nhất định phải nghe lời cha mẹ.”

A Hành vùng vằng hất hết chén đĩa mâm quả trên bàn xuống đất, bỏ chạy ra ngoài, “Muốn lấy thì các người tự đi mà lấy, con không lấy!”

Thấy vậy, Hoàng Đế giận dữ quay sang trách Luy Tổ: “Nhìn xem, nàng chiều chuộng nó thành cái gì rồi! Trong mắt nó còn coi ta là phụ vương không đây? Nếu lần này nó lại lén trốn xuống núi, ta nhất định sẽ nghiêm trị!” Dứt lời, Hoàng Đế phẩy tay áo đùng đùng đứng lên. Dưới sự hộ tống của đám thị vệ, cả đoàn người rầm rộ rời khỏi Triêu Vân phong.

Trong sân trồng đầy những gốc phượng hoàng cao ngất nở hoa rực rỡ, mỗi khi có gió, từng trận hoa rụng rơi lả tả, nhấn chìm cả khoảnh sân giữa màn mưa hồng phấp phới, khiến cảnh sắc nhuốm màu diễm lệ.

A Hành ngước mắt nhìn trời, cảm thấy hít thở cũng khó khăn.

Sau lưng nàng chợt vang lên giọng nói của Luy Tổ: “Sao con không muốn lấy Thiếu Hạo? Tuy ta chưa từng gặp Thiếu Hạo nhưng Thanh Dương và Xương Ý đều hết lời ca tụng y, chắc hẳn cũng rất khá. Lẽ nào con đã có người trong mộng rồi ư?”

A Hành đang chần chừ định nói, chợt trông thấy Thanh Dương đứng sau mẫu hậu trừng mắt nhìn mình, ánh mắt lạnh buốt, còn thấp thoáng vài phần sát khí, trước mắt nàng liền hiện ra cảnh tượng Đại ca vung kiếm đâm vào tim Xi Vưu ngày đó, bất giác ớn lạnh tận đáy lòng, đành nuốt hết những lời toan nói. “Con… con chẳng thích ai cả, chỉ là muốn tự do tự tại thêm mấy năm nữa, chưa muốn lấy chồng.”

Luy Tổ dịu giọng dỗ dành: “Nữ tử nào cũng phải xuất giá thành hôn thôi, con là vương cơ Hiên Viên, rất nhiều việc đã được định sẵn từ khi sinh ra rồi. Đừng sợ, biết đâu sau khi lấy chồng, con lại hối hận sao không thành hôn sớm hơn đấy. Hai hôm nữa Thiếu Hạo tới, mẹ sẽ tìm cách để hai đứa ở riêng bên nhau vài ngày, may ra con hiều được lời mẹ nói chăng.”

A Hành gật đầu khẽ vâng dạ, ánh mắt vẫn trừng trừng nhìn Đại ca.

Đêm đã buông xuống, A Hành thấy toàn thân rời rã nhưng chẳng buồn ngủ chút nào.

Nàng đứng bên song ngắm từng cánh hoa phượng hoàng đỏ rực bay qua trước mắt, bây giờ đương độ hoa đào nở rộ trong núi Cửu Lê, ngày mai chính là tết Khiêu Hoa, Xi Vưu sẽ đợi nàng dưới cội hoa đào, không gặp không về.

A Hành nghe lòng vừa ngọt ngào vừa chua xót, nàng gỡ Trụ Nhan hoa xuống, vờn nghịch trên tay.

Đợi mọi người đều đã say giấc nồng, nàng bắt đầu rón rén ra khỏi cung tìm A Tệ và Liệt Dương.

Nghe tiếng chân nàng, A Tệ và Liệt Dương lập tức tỉnh ngay.

A Hành ra dấu cho chúng im lặng rồi lén lút trèo lên lưng A Tệ nói nhỏ: “Đi Cửu Lê.”

A Tệ và Liệt Dương cất cánh bay lên, không gây ra một tiếng động, nhưng vừa bay lên cao, chuẩn bị dốc sức tăng tốc, A Hành chợt trông thấy Thanh Dương cưỡi trên Trùng Minh điểu[5] ngũ sắc, lạnh lùng nhìn nàng.

[5] Thập Di ký của Tấn Vương gia chép: “Trùng Minh điểu còn tên khác là Song Tinh, mỗi bên mắt có hai con ngươi. Hình dáng như gà, tiếng kêu tựa phượng. Mỗi khi dang cánh có thể đánh đuổi mãnh thú hổ lang, quét sạch yêu ma quỷ quái.”


“Muội định đi đâu thế?”

A Hành không trả lời, chỉ nói: “Huynh đừng quản chuyện còn muội, tránh ra đi!” Nói rồi nàng thúc A Tệ vượt lên, toan cướp đường chuồn đi.

Thanh Dương khoanh tay yên lặng đứng nhìn nhưng linh lực của y đã vây lấy A Tệ, khiến nó không sao bay nổi.

A Hành gỡ Trụ Nhan hoa khỏi búi tóc, Trụ Nhan hoa lập tức nở phồng ra, vô số cánh đào biến thành muôn ngàn lưỡi dao bay về phía Thanh Dương. Lúc này Thanh Dương mới vung một tay lên, toàn bộ những cánh đào bị linh lực của y dồn nén xoắn lại thành một sợi dây đỏ thắm, quấn lấy A Hành.

A Hành vừa điều khiển A Tệ lánh trái né phải vừa vây Trụ Nhan hoa toan gỡ sợi dây ra, nhưng sợi dây vẫn linh hoạt uốn éo như rắn, không chỉ tránh được hết các đòn tấn công mà còn vây chặt lấy nàng.

Để giải vây cho A Hành, Liệt Dương bèn phun ra một chuỗi lửa đỏ lôi kéo sự chú ý của Thanh Dương, nhân lúc y lơ là, A Tệ liền thừa cơ lén cắn đứt dây.

Thấy sợi dây quấn quanh A Hành sắp tuột ra, Thanh Dương nổi cáu quát Liệt Dương: “Súc sinh, còn không mau tránh ra!”

Liệt Dương tức thì phun ra một đám lửa khổng lồ cao đến ba trượng vây lấy Thanh Dương. Trông thấy Phượng Hoàng huyền hỏa, Thanh Dương vô cùng kinh ngạc, hóa ra con chim này còn biết giả ngu giấu nghề, lừa cho kẻ địch coi thường mình rồi bất ngờ tập kích nữa.

Trùng Minh điểu tọa kỵ của y tuy là mãnh cầm hàng đầu trên đại hoang, đấu ngang tay được với cọp beo nhưng muôn chim trời sinh đều kính sợ phượng hoàng, trông thấy Phượng Hoàng huyền hỏa, nghe tiếng phượng gáy thành thót, nó chẳng dám đối kháng trực diện cùng Liệt Dương nữa, động tác cũng chậm chạp đi nhiều.

A Hành vội thừa cơ vùng khỏi dây trói, vươn mình nhảy lên lưng A Tệ bay vút đi, “Liệt Dương, chạy mau!”

Nào ngờ Liệt Dương sẵn tính nóng như lửa, vừa nãy bị Thanh Dương chửi mắng, đời nào chịu nghe lời A Hành mà bỏ chạy, ngược lại còn liều mạng sấn tới tấn công Thanh Dương.

Thấy vậy, Thanh Dương bèn nổi sát tâm, nếu không giết con chim này đi, ắt tọa kỵ Trùng Minh điểu của y còn run rẩy sợ hãi, dù thúc ép thế nào nó cũng chẳng dám dốc toàn lực truy đuổi A Hành. Y ép buộc Trùng Minh điểu bay về phía Liệt Dương, thản nhiên xông qua Phượng Hoàng huyền hỏa đang cháy rừng rực, bàn tay chợt biến thành trắng xóa như tuyết, tấn công Liệt Dương.

A Hành quay đầu trông thấy, hồn phi phách tán, chẳng kịp gọi A Tệ, lập tức bổ nhào trở lại, trong nháy mắt nàng đã dung linh lực chật vật giằng được Liệt Dương ra, nhưng thân mình đang lơ lửng giữa không trung, không tránh nổi chưởng lực của Thanh Dương, liền bị đánh trúng.

Thấy thân hình nàng rơi nhanh xuống dưới, Thanh Dương tái mặt vội nhảy khỏi tọa kỵ, ôm chầm lấy nàng.

Hết thảy mọi việc chỉ diễn ra trong chớp mắt, lúc này A Tệ mới kịp bay ngược trở lại, túm được cả Thanh Dương và A Hành.

Thấy A Hành đỡ một chưởng cho mình, Liệt Dương phẫn nộ kêu lên quang quác, toàn thân bốc lửa rừng rực, biến thành một cuộn lửa đen điên cuồng đâm bổ vào Thanh Dương.

Thanh Dương một tay ôm lấy A Hành, tay kia giơ lên toan giết luôn con Lang điểu tự chuốc tai vạ.

“Đại ca!” A Hành níu chặt lấy tay Thanh Dương cầu khần, nhưng vừa mở miệng nàng đã phun ra một búng máu, bắn hết lên ngực Thanh Dương.

Thanh Dương thu tay lại, chỉ dùng tơ Thiên Tằm biến ra một tấm lưới lớn, quấn chặt lấy Liệt Dương. Tơ Thiên Tằm vốn chẳng chịu được Phượng Hoàng huyền hỏa, nhưng mấy sợi tơ Thiên Tằm này lấy từ tấm áo bảo mà Luy Tổ dệt cho Thanh Dương, lại có linh lực của Thanh Dương bảo hộ nên Liệt Dương không sao đốt cháy nổi.

Thanh Dương tranh thủ khám qua thương thế của em gái, thấy cũng không có gì nghiêm trọng, may mà y chỉ dùng có bốn thành linh lực, y phục trên người A Hành lại do chính tay Luy Tổ dệt nên đã hóa giải mất ba thành.

A Hành ngoan ngoãn dựa vào lòng Đại ca như thể đã từ bỏ ý định chạy trốn vì vết thương, nhưng khi Thanh Dương vừa định trị thương cho nàng, A Hành bất ngờ khống chế mệnh môn y, lại dùng đào hoa chưởng độc của Trụ Nhan hoa phong bế không cho linh khí của y vận hành, giữ chặt Thanh Dương lại.

Nàng cười hì hì nhảy lên lưng A Tệ, ngoái đầu nói với Thanh Dương, “Đại ca, huynh cứ ở đây hóng gió ngắm sao một lát đi, đào hoa chưởng độc này tuy lợi hại nhưng huynh là Hiên Viên Thanh Dương cơ mà, chút độc này có nhằm nhò gì đâu.”

Thanh Dương trừng mắt nhìn nàng: “Muội cũng biết ta là Hiên Viên Thanh Dương, khắp đại hoang này chẳng thần tiên hay yêu quái nào có thể dễ dàng đả thương ta như thế, chẳng qua ta không đề phòng muội muội mình nên muội mới đắc thủ đó thôi! Vì một gã đàn ông khác mà muội dám xuống tay đả thương Đại ca mình, có đáng không?”

A Hành thầm áy náy trong lòng, chỉ nói: “Đại ca, muội không muốn đả thương huynh, chỉ là muội quả thật không muốn lấy Thiếu Hạo.”

Thanh Dương nói: “Muội tưởng muội chạy thoát được ư? Đừng quên phụ vương đã từng nói, nếu phát hiện ra muội trốn xuống núi, Người nhất định sẽ nghiêm trị!”

A Hành nghiến răng thúc A Tệ bay về hướng Cửu Lê, “Đại ca, tha lỗi cho muội.” Nàng đã hứa với Xi Vưu, dù thế nào nàng cũng phải đi gặp hắn.

Chập tối hôm sau, A Hành đã tới sơn trại Cửu Lê tộc.

Hoa đào trong núi Cửu Lê rực rỡ như lửa như tranh, bạt ngàn sơn dã phủ đầy một màu đỏ thắm, xán lạn tựa ráng chiều. A Hành đã quen đường, cứ men theo tiếng ca đi sâu vào trong.

Trong sơn cốc chẳng có đài tế cũng chẳng có lễ vật cúng tế, chỉ thấy từng đống lửa cháy rừng rực. Thanh niên thiếu nữ vây quanh đống lửa ca múa, ăn vận rất giản dị, lời ca cũng rất giản đơn nhưng giọng hát vẫn ngân lên lảnh lót, điệu múa vẫn sôi động, tiếng cười vẫn say đắm lòng người.

Ánh lửa bập bùng khiến gương mặt họ hồng rực lên đầy khỏe khoắn và hạnh phúc.

“Lúa trên nương chẳng cần tro Đã yêu ta chẳng cần dò mối mai Chẳng cần dê béo lợn bầy Hát vang một khúc đón ngay em về” …

Tiếng ca bên đống lửa ngân lên lanh lảnh nhưng A Hành chẳng để lọt tai một chữ. Nàng cứ ngẩn người đứng dưới cội hoa đào năm ngoái vò võ đợi Xi Vưu.

Từ nhỏ tới lớn, A Hành chưa khi nào bơ vơ như bây giờ. Thuở bé nàng luôn được cha cưng chiều, được mẹ bao bọc, muốn thứ gì thì cha cho thứ nấy, có chuyện gì cũng được mẹ chở che. Mãi đến giờ nàng mới hiểu, cha chiểu chuộng mình bởi những thứ nàng muốn chẳng ảnh hưởng tới lợi ích của ông, còn mẹ lại càng không đủ năng lực bảo vệ nàng trước mọi biến cố như nàng tưởng.

Đó vẫn là gia đình nàng, nhưng bỗng chốc hết thảy đều đã đổi thay, khiến nàng vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, chỉ khi nhớ tới Xi Vưu nàng mới thấy bình yên lạ thường, như có một nguồn sức mạnh diệu kỳ ẩn sâu trong lòng vậy. Thật ra nàng chẳng cần Xi Vưu phải làm gì, chỉ mong có thể dựa vào vai hắn, được nghe hắn dỗ dành “Dù gì cô vẫn còn có ta”, chỉ cần một người sẵn sàng làm chỗ dựa mỗi khi nàng mệt mỏi hay kinh hãi, như vậy là đủ tiếp thêm dũng khí để nàng bước tiếp rồi.

Tiếng hát vẫn lanh lảnh vang lên, hết bài này sang bài khác mà Xi Vưu vẫn chưa thấy tới. A Hành ngong ngóng trông chờ, bồi hồi mong đợi, lòng ngổn ngang bao điều muốn tâm sự với Xi Vưu. Nàng không muốn gả cho Thiếu Hạo, bởi thế, bao năm nay nàng đã dốc sức học y, chỉ mong đến một ngày có thể thưa với phụ vương một tiếng: “Con không bằng lòng”, hôm nay, rốt cuộc nàng đã thẳng thắn nói với phụ vương: “Con không bằng lòng” rồi.

Dần dà tiếng ca trong vắt cũng bặt hẳn đi, đám thiếu nữ đều đã tìm thấy người mình mong nhớ, chỉ có Xi Vưu là chưa tới.

Thoạt đầu A Hành còn cố giữ vẻ bình tĩnh, nhưng càng về sau nàng càng sốt ruột, cứ đăm đăm ngước mắt nhìn trời, khắc khoải mong Xi Vưu sẽ đột nhiên hiện ra, cưỡi trên lưng đại bang từ từ đáp xuống.

Ánh lửa càng lúc càng leo lét, trời mỗi lúc một tối dần, đám người xúm quanh đống lửa dần dần tản mác hết, nhưng Xi Vưu vẫn chưa thấy tới.  

A Hành ngẩng đầu nhìn trời, ánh mắt đượm phần buồn bã nhưng vẫn không ngừng tìm lý do biện hộ cho Xi Vưu, có lẽ hắn vướng bận một chút, có lẽ hắn đang trên đường đi… nhất định hắn sẽ tới mà!

Vừa nghĩ ra đủ thứ lý do, nàng vừa mong Xi Vưu sẽ đột ngột hiện ra ngay sau đó.

A Hành đợi mãi đợi mãi, thời gian cứ thế dài ra lê thê rồi dần trở thành một nỗi giày vò, nhưng trong lúc nàng chịu giày vò, thời gian vẫn chầm chậm trôi đi.

Đêm ngả về khuya, đống lửa đã tàn hẳn, cả sơn cốc trở nên tĩnh lặng như tờ.

A Hành vẫn đau đáu trông về phía Thần Nông sơn, một lòng mong mỏi lát nữa thôi Xi Vưu sẽ khoác chiếc áo đỏ rực rẽ khói băng mây mà tới, nét cười hờ hững còn vương vấn trên môi, thoạt trông thấy nàng, nụ cười ấy sẽ đổi thành rạng rỡ, hắn sẽ nhảy phắt từ trên lưng đại bàng xuống bên nàng.

Chỉ cần gặp được hắn, bấy nhiêu khổ đau trong khi chờ đợi đều chẳng là gì cả. Dù trong lòng vô cùng vui sướng, nàng vẫn sẽ vờ giận dỗi không thèm ngó đến hắn, để hắn phải rối rít nhận lỗi xin tha.

Đợi mãi đợi mãi, lòng A Hành đầy những bi thương và phẫn nộ, vừa giận Xi Vưu không giữ đúng lời lại vừa thầm cầu khẩn ông trời cho hắn mau đến! Miễn là hắn tới, nàng sẽ bỏ qua chuyện hắn đến muộn.

Nhưng hắn chẳng hề tới!

Chân trời phía Đông bắt đầu bàng bạc sáng lên, sắp đến bình minh, A Hành đã đợi dưới cội đào suốt cả một đêm. Nếu có thể hạnh phúc ngủ thiếp đi thì một đêm chẳng lấy gì làm dài, chỉ nhắm mắt mở mắt là hết, nhưng nếu vò võ đợi chờ thì một đêm dài dằng dặc như cả ngàn vạn năm, đủ để bãi bể hóa nương dâu, hy vọng thành tuyệt vọng, khiến trái tim chứa chan tình ý chết lặng rồi héo khô.

A Hành không tin Xi Vưu lại có thể nuốt lời. Trời còn chưa sáng, hắn nhất định sẽ tới! Hắn đã hứa dù xảy ra chuyện gì cũng sẽ tới, không gặp không về, hơn nữa giờ đang là lúc nàng cần hắn nhất!

Trên đầu trên vai A Hành phủ đầy cánh hoa, dưới ánh nắng mai trong trẻo, gương mặt nàng bỗng đỏ bừng lên, đỏ hơn cả những đóa hoa, toàn thân nàng rời rã, phải ôm lấy cội đào để cố giữ cho mình đứng vững, ngón tay liên tục rạch vào thân cây, Xi Vưu, Xi Vưu, Xi Vưu… từng vệt từng vệt móng tay nham nhở hằn lên gốc cây, như trái tim tan nát của nàng bây giờ vậy.

Thanh Dương thong thả bước lại gần, vạt áo lam bay phần phật trước gió, toát lên vẻ hững hờ của kẻ đã nhìn thấu tình đời, “Có đáng không? Muội bất chấp tất cả, chống đối phụ vương, đả thương Đại ca, mạo hiểm tới gặp hắn, nhưng còn hắn thì sao?”

Y đứng trước mặt A Hành, thay nàng phủi đi những cánh hoa vương trên vai trên tóc, “Có lẽ hắn bận việc gấp nên chậm trễ, nhưng còn lời hứa của hắn với muội thì sao? Chẳng lẽ chỉ khi nào hắn rảnh rỗi mới giữ lời hứa, còn khi có việc thì muội sẽ bị đẩy lại phía sau ư? Sinh mệnh của thần tiên rất dài, một đời có bao nhiêu là việc gấp, nếu muội chỉ có thể xếp sau những việc gấp đó thì muội giữ lời hứa tới gặp hắn làm gì?”

Nói rồi Thanh Dương kéo tay A Hành, “Theo ta về nhà đi!” A Hành ra sức vùng khỏi tay y, ánh mắt vẫn cố chấp dõi về phía cuối trời Đông, Xi Vưu nói không gặp không về kia mà!

Thấy vậy Thanh Dương đành bất lực lắc đầu, y cũng không nổi giận, chỉ tựa lưng vào một gốc đào đợi cùng A Hành.

Vầng dương dần dần nhô lên, từ một hình bán nguyệt biến thành một chiếc đĩa tròn vành vạnh, tỏa ánh nắng rực rỡ khắp rừng đào. A Hành bị chói không mở nổi mắt, chỉ nghe Thanh Dương nói: “Muội còn muốn đợi bao lâu nữa đây? Theo ta về nhà đi, hắn không tới đâu!”

A Hành nước mắt lưng tròng nhưng vẫn không chịu đi theo Thanh Dương, bọn muội đã hẹn không gặp không về mà! Hắn biết muội đang đợi hắn, nhất định hắn sẽ đến thôi!

Có điều trong lòng nàng chợt vang lên một giọng nói phụ họa với Thanh Dương, hắn không tới đâu, hắn không tới nữa rồi…

Giọng nói đó cứ ong ong bên tai nàng như sấm sét, càng lúc càng vang vọng, A Hành chỉ thấy mắt nổ đom đóm, thân mình xiêu đi rồi ngất lịm.

Thanh Dương vội đỡ lấy A Hành, bấy giờ y mới nhận ra tuy A Hành chỉ phải chịu một thành linh lực từ phát chưởng khi trước của mình, nhưng do gấp rút lên đường, chẳng kịp điều tức, lại đứng đợi suốt đêm, cộng thêm niềm bi thương vô hạn, thương thế đã xâm nhập vào đến tâm mạch nàng.

Thanh Dương vừa giận vừa thương em gái, bèn ôm lấy nàng cưỡi lên Trùng Minh điểu, tức tốc trở về Hiên Viên sơn.

Vừa về đến Hiên Viên sơn, Thanh Dương đã thấy Ly Chu dẫn theo thị vệ chặn đường, Ly Chu là khai quốc công thần của Hiên Viên, Thanh Dương cũng chẳng dám vô lễ, vội bảo Trùng Minh điểu dừng lại.

Ly Chu hành lễ với y rồi cung kính thưa: “Bệ hạ sai thần trói vương cơ đưa đến cung Thượng Viên chờ xử lý.”

Thanh Dương khách sáo: “Tiểu muội bị thương, mong đại nhân để ta đi cùng muội ấy.” Ly Chu thấy A Hành đã hôn mê bất tỉnh, đành nói: “Làm phiền điện hạ vậy.”

Dưới sự áp giải của đám thị vệ, Thanh Dương đưa A hành tới cung Thượng Viên yết kiến Hoàng Đế. Thấy A Hành mê man, Hoàng Đế bèn sai thầy thuốc cứu tỉnh nàng
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 6-12-2013 04:03 PM
Chương 11


Chàng đừng quên, hẹn nặng tây non[1].


11.3


A Hành tỉnh lại, thấy mình đã nằm trong kim điện, phụ vương đang ngồi tít trên cao. Nàng liền lặng lẽ quỳ phục xuống thềm.

Hoàng Đế hỏi: “Con biết tội chưa?”

A Hành giương mắt quật cường nhìn Hoàng Đế, không đáp. Hoàng Đế lại hỏi tiếp: “Con có bằng lòng lấy Thiếu Hạo không?”

“Con không bằng lòng! Nếu phụ vương muốn trói con lại đưa đến vương cung Cao Tân thì cứ tùy ý!” Tuy giọng nàng yếu ớt nhưng trong kim điện lặng phắc như tờ lại nghe rất rõ ràng.

Thanh Dương lập tức quỳ xuống dập đầu, “Phụ vương, tiểu muội nhất thời còn chưa nghĩ thông, để con khuyên nhủ thêm, nhất định muội ấy sẽ…”

Hoàng Đế ra hiệu cho y im lặng rồi đưa mắt nhìn A Hành, “Bao năm nay ta đã chiều theo ý mẫu hậu con, mặc con muốn gì làm nấy mà lơ là quản giáo, khiến con quên rằng vương tộc cũng có quy củ của vương tộc.” Nói rồi ông quay sang bảo Ly Chu, “Nhốt vương cơ vào Ly Hỏa trận, khi nào nó nghĩ thông thì hãy tới bẩm với ta.”

Thanh Dương nghe truyền tái mặt, thể chất của A Hành là mộc linh, bị nhốt vào Ly Hỏa trận thì khác nào gỗ bị lửa thiêu đốt, đau đớn vô cùng, y liền dập đầu lia lịa, luôn miệng van xin, “Phụ vương, tiểu muội thần lực thấp kém, không chịu nổi giày vò trong Ly Hỏa trận đâu, xin người khai ân.”

Mặc cho Thanh Dương cầu xin, A Hành đứng phắt dậy lạnh lùng hỏi Ly Chu: “Ly Hỏa trận ở đâu? Chúng ta đi!”

Xưa nay Ly Chu vẫn cho rằng nhờ được Luy Tổ bao bọc nên A Hành rất ngây thơ trong sáng, nào ngờ nàng vương cơ hiền hòa này lại cương cường đến thế, không khỏi nảy sinh vài phần ngưỡng mộ, bèn cung kính đáp: “Xin vương cơ đi theo thuộc hạ.”

Thấy A Hành nghênh ngang bỏ đi còn Thanh Dương vẫn quỳ mọp dưới thềm năn nỉ, Hoàng Đế lạnh lùng nói: “Hôn nhân giữa Cao Tân và Hiên Viên là việc trọng đại, nếu con vì cảm xúc nhất thời định rat ay giúp A Hành, ta sẽ phạt cả con luôn đó.”

“Tượng Võng, tới Triêu Vân…” Hoàng Đế toan hạ lệnh đã thấy Tri Mạt, kẻ được xưng tụng là Đế sư bước lên hành lễ: “Xin bệ hạ phái thần đi Triêu Vân phong, thần sẽ khuyên giải vương hậu nương nương, ngăn nương nương đi cứu vương cơ.”

Hoàng Đế nhìn Tri Mạt giây lát rồi phán, “Ta định sai Tượng Võng đi nhưng ngươi đã chủ động đứng ra xin, vậy ngươi đi đi.”

Tri Mạt nhận lệnh quay mình lui ra, lúc ngang qua Thanh Dương lão còn đưa mắt nhìn y ra ý khuyên nhủ, Thanh Dương rùng mình, lấy lại bình tĩnh, dập đầu cung kính thưa với Hoàng Đế: “Nhi thần đã hiểu, đúng là nên giáo huấn tiểu muội một chút.”

Hoàng Đế xua tay cho Thanh Dương lui ra. Ra khỏi cung Thượng Viên, Thanh Dương lạnh lùng cho tùy tùng lui ra, một mình tản bộ.

Trên đường vàng rực nắng, người qua kẻ lại vô cùng náo nhiệt nhưng hướng y đi càng lúc càng vắng vẻ, dẫn tới một con hẻm tồi tàn. Trong hẻm có tiệm giặt giũ, có lò mổ lênh láng máu me và nước thải tràn ra đường, còn cả một quán rượu nho nhỏ, chuyên bán rượu cho thường dân. Giữa ban ngày nên quán vắng tanh vắng ngắt, Thanh Dương đi thẳng vào, ngồi xuống một góc: “Ông chủ, cho một cần rượu.”

“Có ngay!” Chủ quán vừa đáp vừa bưng rượu tới trước mặt Thanh Dương.

Thanh Dương cứ thế lặng lẽ uống từ khi trời đang sáng tới tận tối mịt, rồi say túy lúy gục xuống mặt bàn bẩn thỉu cũ nát ngủ thiếp đi.

Ông chủ cũng để mặc Thanh Dương, chỉ lo làm việc của mình. Lúc mới lên sáu bảy tuổi, hắn trông thấy Thanh Dương lần đầu, đến khi ngoài ba mươi tuổi lại gặp lần thứ hai, hắn đã kinh hoàng trợn mắt nhìn Thanh Dương la lớn: “Yêu quái”, liền bị cha cho một bạt tai, cha hắn nói khi ông tổ của ông nội của ông nội còn bán rượu đã thấy gã đàn ông này rồi, bao năm nay y vẫn như vậy, chẳng biết là thần hay là yêu, dù sao cũng không phải người xấu, mỗi lần tới y chỉ uống rượu, còn thanh toán tiền rượu rất đầy đủ.

Chập tối hôm sau, một nam tử bạch y bước vào quán, đưa cho chủ quán một bầu rượu, “Rót cho một cân rượu.”

“Có ngay!” Chủ quán nhanh nhẹn rót rượu.

Nam tử bạch y đón lấy bầu rượu bước đến cạnh Thanh Dương, đặt một tay lên vai y, tay kia cầm bầu rượu ngửa cổ tu liền mấy hớp.

Thanh Dương ngẩng lên nhìn, nét mặt trở nên mơ màng, mất hẳn vẻ lạnh lùng cố hữu, “Ngươi tới rồi ư?”

Thiếu Hạo hỏi: “Liệu A Hành chịu đựng được bao lâu trong Ly Hỏa trận?”

“Ngươi biết hết rồi sao?”

“A hoàn của ngươi tìm ngươi khắp nơi không thấy, vừa gặp ta nó liền tông tốc kể ra hết, nên ta đoán chắc hẳn ngươi lại tới đây uống rượu.”

“Tâm mạch của A Hành đang bị tổn thương, hằng ngày nó lại rất nhõng nhẽo, chẳng bao giờ chịu chăm chỉ luyện công, ta thật không hiểu sao nó có thể gắng gượng được đến giờ.”

Thiếu Hạo thầm than, anh em ngươi quật cường hệt như nhau, năm xưa ngươi cũng chịu cực hình giày vò của Hoàng Đế suốt nửa năm không hé răng cầu khẩn đấy thôi. Y ngẫm nghĩ: “Trước mặt Hoàng Đế không được nôn nóng, đầu tiên ngươi phải tìm cách đưa ta vào Ly Hoả trận bảo vệ cho A Hành đã, sau đó chúng ta sẽ từ từ nghĩ biện pháp cứu nàng.”

Hai người bước ra khỏi quán, ra tới cửa Thiếu Hạo còn ngoảnh lại giơ bầu rượu lên nói với chủ quán: “Rượu ông cất ngon hơn cả cụ tổ nhà ông, người đầu tiên bán rượu ở đây ấy, nhưng tính tình không trung thực bằng, ông không nên thấy ta nói giọng nơi khác mà đong thiếu cho ta một lạng chứ, bớt một đền mười nhé.”

Vừa dứt lời, chủ quán chợt thấy rượu trong chiếc vò trước mặt bỗng ùng ục mấy tiếng rồi biến mất, kinh hãi đến há hốc cả miệng, tới khi định thần ngẩng lên thì trước cửa đã vắng hoe.

Trong Ly Hỏa trận, dường như ngoài lửa ra chẳng còn gì hết.

Từng đám lửa đỏ bay qua bay lại như sao băng, thiêu rụi mọi thứ trong trận. Bởi thể chất của A Hành là mộc linh nên khi bị lửa hun đốt, nàng chịu đau đớn hơn những thần tiên khác gấp bội.

A Hành nghiến chặt răng, đã mấy lần đau đến ngất đi cũng chừng đó lần bị trận pháp hun cho tỉnh lại, liên tục vật vã trong đau đớn vô bờ.

Càng về sau nỗi đau càng tăng thêm, như thế có vô số ngọn lửa chạy rần rật trong cơ thể khiến A Hành không sao chịu nổi, nàng đau đến nỗi co rúm người lại lăn lộn trong trận pháp.

Tuy Ly Chu là đại thần tâm phúc của Hoàng Đế nhưng lại tận mắt chứng kiến A Hành từ nhỏ lớn lên, thấy nàng vật vã khổ sở lão cũng chẳng đành lòng, bèn cất lời khuyên nhủ: “Vương cơ nhận lỗi với bệ hạ đi, bệ hạ rất thương vương cơ, nhất định sẽ thả vương cơ ra ngay.”

A Hành đau đến nỗi lên cơn co giật nhưng vẫn làm thinh không nói.

Sau cùng nàng cũng chằng còn sức mà lăn lộn nữa, chỉ nằm toi thóp trên mặt đất, có điều Ly Hỏa trận là trận pháp dùng để trừng phạt thần tiên, bởi vậy những đau đớn về thể xác của nàng không hề được giảm nhẹ mà vẫn tiếp tục đẽo xương rứt tủy giày vò nàng.

Rất lâu rất lâu nữa, lâu đến nỗi A Hành cảm thấy trời tàn đất tận, thân thể nàng đột nhiên mát lạnh như nắng hạn gặp mưa rào, bao nhiêu đau đớn đều tan biến cả. Nàng lờ đờ hé mắt ra liền trông thấy nước lửa đan xen, ánh sáng chói lòa, Thiếu Hạo đứng giữa trận pháp như câu ngọc đón gió, chẳng vương chút bụi trần, vô số thủy linh vui vẻ bơi qua lượn lại quanh mình y, đám lửa đỏ rực trời đều bị nước ngăn lại phía ngoài. Thiếu Hạo chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt phức tạp, y đỡ nàng dậy đút nước cho nàng rồi hỏi nhỏ: “Lẽ nào gả cho ta còn đau đớn hơn bị lửa thiêu đốt toàn thân ư?”

A Hành mở miệng toan nói, tiếc rằng cổ họng đã bị lửa hun khô rang, không cất nổi nên lời, chỉ biết lắc đầu.

Thiếu Hạo đặt Quy khư thủy ngọc vân mang bên mình vào miệng nàng, hạ giọng thì thầm: “Lén ngậm nó rồi vờ như nàng rất đau đớn.”

Dứt lời Thiếu Hạo đặt A Hành xuống, rời khỏi Ly Hỏa trận. Hỏa linh nghiêng trời lệch đất lập tức ập đến quanh nàng, cuộn lên từng bước y đi, nhưng lục phủ ngũ tạng A Hành vẫn mát mẻ, chỉ có da dẻ hơi phồng rộp lên, so với nỗi đau đớn ban đầu thì chẳng thấm vào đâu cả.

Theo ý chỉ của Tuấn Đế, Thiếu Hạo ngàn dặn xa xôi tới bái kiến Hoàng Đế xin chọn ngày thành hôn, Hoàng Đế bèn đặt tiệc trong cung Thượng Viên khoản đãi y.

Thiếu Hạo khiêm tốn lễ độ, học thức uyên bác, mấy chuyện tầm phào được y thao thao kể ra, còn trích dẫn điển tích nghe sinh động thú vị hẳn lên, cả đại điện râm ran tiếng cười nói như được tắm trong làn gió mát.

Nghe Hoàng Đế ướm hỏi Tuấn Đế định sắp xếp hôn sự ra sao, Thiếu Hạo liền thưa: “Cao Tân đã chuẩn bị xong xuôi mọi thứ rồi. Cứ theo ý phụ vương con thì càng nhanh càng tốt.”

Các triều thần đua nhau chúc mừng, Hoàng Đế cũng gật đầu cười hài lòng. Thiếu Hạo lại ngượng nghịu nói tiếp: “Theo lễ nghi Cao Tân, sau khi chính thức định ngày, con và vương cơ sẽ không được gặp nhau cho tới hôn lễ. Lần này con mang theo vài món đồ chơi cho vương cơ, ngày mai muốn, muốn… tự tay đưa tặng vương cơ, xin bệ hạ chuẩn y.”

Mọi người hiểu ra đều phá lên cười, đưa tặng quà chỉ là cái cớ, mục đích là muốn gặp mặt nhau. Hoàng Đế cũng mỉm cười nói: “Dĩ nhiên là được.”

Nói rồi ông đưa mắt nhìn tâm phúc bên mình, đoạn căn dặn Thanh Dương: “Con đi báo với Hành nhi một tiếng, dặn nó tối nay nhớ nghỉ ngơi sớm, ngày mai trang điểm lộng lẫy đi gặp Thiếu Hạo, đừng để thất lễ.”

“Nhi thần hiểu.” Thanh Dương nhận lệnh lui khỏi đại điện.

Lúc Thanh Dương tới Ly Hỏa trận, tâm phúc của Hoàng Đế đã lệnh cho Ly Chu giải trừ trận pháp. Nhìn A Hành thương tích khắp người, chỉ còn thoi thóp, Thanh Dương chẳng dám để Luy Tổ trông thấy, đành đưa nàng về phủ mình.

Thanh Dương tu tập thủy linh, lại thêm Quy khư thủy ngọc vạn năm của Thiếu Hạo hỗ trợ nên vết thương bên ngoài của A Hành lành lại rất nhanh.

Thanh Dương xót xa nhìn em gái, “Bị thương đến thế này, muội vẫn không chịu để gả cho Thiếu Hạo ư?”

A Hành quật cường mím môi không đáp. Thanh Dương đột ngột nổi giận: “Là Xi Vưu của Thần Nông phải không? Muội có tin ta đi giết phăng thằng nhãi Cửu Lê đó không?”

A Hành trừng mắt nhìn y, lộ vẻ cố chấp không sợ trời chẳng sợ đất.

Thanh Dương xả giận xong lại nghĩ, tuy bốn anh em mỗi người một tính nhưng nết quật cường thì hệt như nhau, tất phải tìm cách khác.

Y trầm ngâm như nghĩ ngợi xem nên nói từ đâu, hồi lâu mới hỏi: “Muội có biết người được phụ vương sủng ái nhất là ai không?”

A Hành đáp ngay chẳng cần nghĩ, giọng khàn khan: “Tam phi Đồng Ngư thị.” Chuyện này thần tiên nào của Hiên Viên mà không biết chứ.

“Theo tính tình của mẹ, muội nghĩ Người có chịu cầu xin lòng sủng ái của phụ vương không?”

“Dĩ nhiên không rồi!” A Hành ngỡ ngàng, chẳng hiểu Thanh Dương hỏi vậy là có ý gì. Tính khí của mẹ nàng rất kiên cường cứng rắn, lại chẳng chịu giữ gìn dung nhan trẻ đẹp nên từ khi hiểu chuyện, nàng chưa từng thấy phụ vương nghỉ tại Triêu Vân điện bao giờ.

“Hơn năm trăm năm trước, Đồng Ngư thị từng rắp tâm muốn dọn vào Triêu Vân điện.”

A Hành ngẫm nghĩ, bấy giờ mới hiểu ra ý tứ của câu nói này, liền kinh ngạc ngẩng lên: “Ý huynh là… bà ta muốn phụ vương phế hậu ư?”

Thanh Dương lạnh lùng gật đầu.

“Sao muội chả biết gì cả?”

“Xương Ý không muốn cho muội biết những chuyện này, nó xin ta đừng kể lại với muội. Xương Ý và mẹ đều muốn bảo vệ muội, để muội được sống những tháng ngày vô tư vô lự, nhưng muội sớm muộn gì cũng phải trưởng thành, có rất nhiều việc không thể trốn tránh được.”

A Hành sững người nhìn Thanh Dương, trong lòng chỉ canh cánh nghĩ tới việc phế hậu. Thanh Dương cười nhạt hỏi: “A Hành, lẽ nào muội tưởng rằng gia đình ta toàn cha hiền con hiếu, anh em khăng khít sao?”

A Hành chẳng thốt nên lời, tuy nàng biết các anh vẫn ngấm ngầm tranh chấp với nhau, nhưng có lẽ Đại ca quá dũng mãnh nên nàng chưa từng trăn trở về việc này.

Thanh Dương lại hỏi: “Muội có biết tại sao Đồng Ngư thị thôi không lải nhải bên tai phụ vương rằng bà ta thích phong cảnh ở Triêu Vân điện nữa không?”

“Vì huynh sao?”

Thanh Dương cười khẩy lắc đầu, “Nếu vì ta thì bà ta càng muốn tiến vào Triêu Vân điện, có vậy con trai bà ta mới có thể trở thành con đích, mới có thể danh chính ngôn thuận tranh đoạt vương vị với ta.”

“Vậy là vì…”

A Hành chẳng nghĩ ra được nguyên nhân nào nữa cả.

“Vì muội đấy.”

“Vì muội ư?” A Hành tròn mắt kinh ngạc, khi đó nàng vẫn là đứa trẻ ngây ngô, có thể giúp được gì chứ?

“Vì muội có hôn ước cùng Thiếu Hạo, mà Thiếu Hạo rất có khả năng sẽ trở thành Tuấn Đế, phụ vương đông con trai nhưng chỉ có mình muội là con gái. Cao Tân vô cùng coi trọng dòng dõi xuất thân, để muội có thể thuận lợi trở thành vương hậu Cao Tân, phụ vương không thể cướp đoạt thân phận tôn quý của muội.”

A Hành lộ vẻ kinh hãi.

Thanh Dương nói tiếp: “A Hành, mẹ đã dốc hết sức để muội có được năm trăm năm thoải mái vô lo, trong vương tộc điều đó quý giá nhường nào, muội biết không? Muội thấy bây giờ mẹ ra sao rồi đấy, muội hiểu những gì người phải bỏ ra vì chúng ta không? Muội đành lòng để mẹ bị đám phi tử kia làm nhục ư?”

Thấy A Hành cắn môi không đáp, Thanh Dương lại nói tiếp: “Từ nhỏ tới lớn Xương Ý đều che chở cho muội, muội có nghĩ hành động của mình sẽ làm tổn hại đến nó không? Nếu muội hủy hôn với Thiếu Hạo, rất có thể mẹ sẽ phải rời khỏi Triêu Vân điện, e rằng Xương Ý cũng bị phụ vương biếm đi, đến chừng đó, hết thảy mọi đả kích liền trút xuống, theo tính tình của Xương Ý, muội nói nó có ứng phó nổi không?”

A Hành rưng rưng nước mắt, nàng ngỡ rằng từ hôn chỉ là việc riêng của mình, dù bị phụ vương trừng phạt nàng cũng không sợ, ngờ đâu hôn sự của nàng lại liên quan mật thiết tới tính mạng mẹ và anh trai như vậy.

“Nếu vì một gã đàn ông mà muội đành lòng vứt bỏ cả mẹ và Xương Ý, ta cũng không sao ngăn được! Nhưng muội tưởng vứt bỏ mẹ và ca ca thì có thể giành được những gì mình muốn ư?”

A Hành chỉ ngây thơ thuần phác chứ chẳng phải hạng ngu dốt, nghe Đại ca giảng giải nàng đã hiểu cả, bất giác lã chã hai hàng nước mắt. Thấy vậy Thanh Dương lại tiếp tục dồn ép, như thể muốn xóa sạch chút tàn dư hy vọng còn sót lại trong lòng nàng, “Muội cãi lời phụ vương, phá hỏng mối liên minh giữa Hiên Viên và Cao Tân, có lẽ phụ vương không nỡ giết muội nhưng nhất định sẽ lấy mạng Xi Vưu! Vả lại Cao Tân là Thần tộc từ thời thượng cổ, lễ giáo nghiêm ngặt nhất trong các Thần tộc, dù Thiếu Hạo khoan dung đại lượng chẳng tính toán với muội thì vương thất Cao Tân cũng không nuốt trôi nỗi nhục mà Xi Vưu đem lại, ắt hẳn sẽ phái binh ám sát hắn! Theo ta được biết Xi Vưu và Chúc Dung rất căm ghét nhau, biết đâu y chẳng đục nước béo cò mà giết chết Xi Vưu? A Hành, muội định đẩy Xi Vưu vào vòng truy sát của Tam đại Thần tộc ư? Đến chừng đó, dù thiên hạ rộng lớn thật đấy, nhưng bọn muội liệu còn chốn dung thân không?”

A Hành tái mặt đổ gục xuống như thể bị rút hết xương cốt. Thanh Dương chẳng những đã phá nát giấc mộng thiếu nữ của nàng mà còn đạp đổ tất cả những gì tốt đẹp mấy trăm năm nay mẹ và Xương Ý dựng lên cho nàng.

Thanh Dương lại hỏi: “Tri Mạt bá bá đang ở Triêu Vân phong, mẹ vẫn chưa biết chuyện muội bị trừng phạt, muội có muốn cho mẹ biết không?”

A Hành nước mắt như mưa nhưng vẫn cương quyết lắc đầu.

“Vậy được, chúng ta xem như chưa có gì xảy ra, muội nghỉ ngơi một đêm cho khỏe, sáng mai chúng ta quay về Triêu Vân điện, muội hãy nói với phụ vương và mẫu hậu rằng mình bằng lòng gả cho Thiếu Hạo.”

A Hành không đáp, chỉ vùi mặt vào gối, hai mắt nhắm nghiền, chan hòa nước mắt.

Nửa đêm, Xi Vưu đang định cưỡi đại bàng đến Cửu Lê gặp A Hành như đã hẹn, hắn còn toan tới sớm trước tết Khiêu Hoa để chuẩn bị cho nàng một bất ngờ.

Đột nhiên một luồng sáng đỏ rực bốc lên từ đỉnh Tiểu Nguyệt. Trong chớp mắt Xi Vưu biến hẳn sắc mặt, hắn thoáng chần chừ trông về phía Cửu Lê xa tít cuối trời rồi lệnh cho đại bàng quay lại Thần Nông sơn.

Vừa nhảy xuống khỏi lưng đại bàng, hắn đã thấy Vân Tang hớt hải chạy tới đón, sắc mặt tái nhợt, “Phụ vương đã hoàn toàn hôn mê rồi, Du Võng hiện đang ở bên cạnh Người, trước khi Du Võng chính thức lên ngôi, phải phong tỏa tất cả tin tức, bằng không Hiên Viên và Cao Tân biết được sẽ bất ngờ dấy binh, giặc ngoài tất dẫn tới loạn trong, khó mà thu xếp được. Ta đã lấy danh nghĩa phụ vương triệu kiến Chúc Dung, Cộng Công và Hậu Thổ, bọn chúng vẫn chưa biết tình hình, đợi chúng tới ta sẽ lập tức phái trọng binh canh giữ, không cho chúng rời khỏi Thần Nông sơn, ngươi cũng phải hết sức cẩn thận đấy.”

Vân Tang lại quay sang dặn dò thống lĩnh thị vệ Hình Thiên bên cạnh: “Mau khởi động trận pháp, giới nghiêm toàn bộ hai mươi tám đỉnh của Thần Nông sơn, từ giờ trở đi chỉ có vào không có ra. Không được để bất kỳ tin tức nào truyền ra ngoài, kẻ nào nhất mực đòi đi chém ngay tức khắc!”

Đám tinh nhuệ trên Thần Nông sơn mấy đời tận trung với Viêm Đế thảy đều dạ ran, Phong Sơn trận pháp mấy ngàn năm mới khởi động một lần lại được khởi động lần nữa. Phong Sơn trận do Viêm Đế các đời dốc hết tâm huyết tạo nên, trừ phi có tinh huyết trích trong tim Viêm Đế hộ thân, bằng không dù một con ruồi cũng khó mà bay lọt khỏi Thần Nông sơn.

Xi Vưu rảo bước vội vã tới đại điện nhưng chốc chốc lại ngoảnh đầu nhìn về phía Cửu Lê, lòng đầy đau thương buồn bực, chẳng rõ là lo lắng cho Viêm Đế trong điện Tiểu Nguyệt hay lưu luyến A Hành trên Cửu Lê sơn.

Du Võng, Vân Tang và Mộc Cận vây quanh giường bệnh của Viêm Đế suốt đêm, mãi đến gần sáng Viêm Đế mới đột nhiên tỉnh lại.

Thấy vậy, Du Võng cùng Vân Tang vô cùng mừng rỡ, nhưng Viêm Đế đã chẳng thể nói năng gì, chỉ đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm. Trong lúc Vân Tang còn ngơ ngác, Du Võng vội quay ra gọi: “Xi Vưu, mau vào đi, phụ vương muốn gặp ngươi.”

Đám Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ chầu chực bên ngoài nghe Du Võng gọi, mỗi người tỏ một thái độ khác nhau nhưng hết thảy đều đổ dồn ánh mắt về phía Xi Vưu. Thấy Xi Vưu vội vã bước vào, Viêm Đế mỉm cười, nét mặt héo úa tiều tụy vì bệnh tật giày vò.

Xi Vưu chợt hồi tưởng lại ông lão gầy gò đầu đội nón tre lưng đeo gùi thuốc mấy trăm năm trước bước vào đầm lầy xoa bụng cười nói: “Ai da, sao ngươi dạy được đám khỉ hái quả cho mình hay vậy? Cho ta một quả với!”

Mấy trăm năm nay, chính là ông lão thoạt nhìn hòa nhã thật thà mà trong bụng gian trá giảo hoạt này dạy hắn tiếng người, dạy hắn biết đọc biết viết, còn lải nhải giảng cho hắn về lễ tiết nhân gian, vắt óc tìm cách mài mòn dã tính trong hắn.

Xi Vưu thấy cay cay sống mũi, liền quỳ sụp xuống bên giường Viêm Đế: “Sư phụ, ta nhất định sẽ giữ lời thề.”

Viêm Đế thở phào nhẹ nhõm, ánh mắt đầy vẻ an ủi, đoạn lại nhìn sang Mộc Cận, Mộc Cận vội dập đầu: “Nếu không có phụ vương thu dưỡng, con đã chết từ lâu rồi. Ơn dưỡng dục của Người thật chẳng biết lấy gì báo đáp, con biết phụ vương vẫn canh cánh lo cho trăm họ Thần Nông, tuy con là phận gái nhưng cũng xin dốc hết sức mình thay Người bảo vệ cho dân chúng Thần Nông.”

Viêm Đế mấp máy môi nhưng chẳng thốt ra nổi một tiếng, lại nhìn sang bên gối.

Vân Tang thấy bên gối đặt một chiếc hộp gỗ bèn mở ra xem, thấy bên trong có hai con chim đẽo bằng gỗ, nàng ngơ ngác không hiểu là thứ gì, có điều nhìn biểu hiện dường như Viêm Đế muốn cầm, bèn đặt hai con chim đó vào tay Viêm Đế.

Viêm Đế chăm chú nhìn đôi chim một lượt rồi nhìn sang Vân Tang, bờ môi mấp máy chẳng thốt nổi nên lời, bấy giờ Vân Tang mới sực hiểu ra, vội ôm chậu sơn trà xanh biếc vẫn đặt trong phòng ngủ vào lòng, nghẹn ngào nói: “Con sẽ, sẽ trồng chúng trên… mộ cha mẹ, cha yên tâm!”

Viêm Đế đăm đăm ngắm những đóa sơn trà, ánh sáng trong mắt nhạt dần nhưng nụ cười trên môi càng lúc càng tươi tắn, sau cùng, đôi mắt Viêm Đế trở nên bạc phếch, nụ cười vẫn ngưng đọng trên môi.

Mộc Cận phủ phục bên giường Viêm Đế khóc lóc thảm thiết, thoạt đầu nàng còn ráng nén tiếng khóc, dần dần không sao nén nổi, tiếng nức nở cứ to dần.

Vân Tang quỳ thẳng đơ không khóc lóc cũng chẳng động đậy, rồi đột nhiên ngã lăn ra đất ngất lịm.

Đám Chúc Dung nghe tiếng khóc xông vào, thấy Viêm Đế đã qua đời, ai nấy đều thấy lòng buồn vô hạn, quỳ xuống đất khóc rống lên.

Vào đúng lúc Viêm Đế tắt thở, đôi chim gỗ trong tay Viêm Đế thình lình cử động, cất cánh bay lên, lượn quanh thi thể một vòng rồi bay ra ngoài cửa sổ.

Đôi chim đỏ rực từ Tiểu Nguyệt đỉnh Thần Nông sơn bay ra, vượt qua Phong Sơn trận pháp, một con bay tới Triêu Vân phong ở Hiên Viên sơn, con kia bay đến Ngọc sơn.

Sáng hôm sau.

Vương Mẫu vừa trang điểm xong, đang ngồi trước đài trang lần lữa chưa buồn đứng dậy, bà ngơ ngẩn ngắm mình trong gương, thấy dung nhan vẫn là thiếu nữ vừa tròn đôi tám, hệt như năm ấy.

Bất giác bà chợt chạnh lòng nhớ tới một khúc điệu vô cùng quen thuộc, trong tiếng nhạc du dương, bà như thấy lại tất cả: mặt trời xế bóng, những đóa hoa rực rỡ nở khắp núi đồi, và bản thân mình đang phơi phới múa.

Sau phút mơ màng, bà bỗng phát hiện ra khúc nhạc đó không chỉ vang lên trong lòng mình, mà còn từ bên ngoài vẳng lại.

Vương Mẫu đứng phắt dậy, mặc cho hộp trang điểm, gương soi, ghế ngồi đổ lỏng chỏng, bà điên cuồng chạy thẳng khỏi đại điện, liền trông thấy một con chim gỗ đỏ rực đang đỗ trên cành đào véo von cất giọng.

Khúc nhạc quen thuộc, nhưng chim gỗ hót lên lại chứa chan những ân hận và xa cách.

Vương Mẫu đờ người, sắc mặt tái nhợt, nước mắt cứ thế trào ra, chảy tràn xuống hai gò má không sao kiềm chế nổi.

Nghe mãi nghe mãi, Vương Mẫu bắt đầu múa theo tiếng chim, vừa múa vừa khóc, vừa múa vừa cười, bà đợi suốt ngàn năm cuối cùng cũng đợi được khúc nhạc này! Nào ai ngờ một khi tới lại là vĩnh biệt!

Khúc nhạc hoàn tất, chim gỗ cũng tan thành tro bụi.

Vương Mẫu vẫn khe khẽ hát khúc đồng dao, say sưa nhảy múa như thể đang tiếp tục điệu múa dang dở từ ngàn năm trước bà chưa kịp nói ra.

Chờ đợi cả ngàn năm, cứ ngỡ rằng thế nào cũng được một cơ hội, chỉ cần một cơ hội mà thôi, nhưng cuối cùng… cuối cùng điệu múa này vẫn chẳng thể nào múa hết.

Tất cả cung nữ đều luống cuống chỉ biết tròn mắt kinh ngạc nhìn Vương Mẫu vừa cười vừa hát, vừa khóc vừa múa.

Trong lúc Vương Mẫu vung tay áo phơi phới múa, mấy bông tuyết lấp lánh lạnh buốt đột nhiên từ trời cao phất phơ bay xuống.

Đám cung nữ chìa tay ra hứng, bàng hoàng không dám tin rằng đó là băng tuyết, nơi này là thánh địa Ngọc sơn quanh năm ấm áp như mùa xuân kia mà!

Từng bông từng bông tuyết lả tả trút xuống, càng lúc càng to, ngàn vạn gốc đào trên Ngọc sơn cũng theo nhau tàn lụi.

Cùng với điệu múa của Vương Mẫu, dung nhan bà cũng từ từ già đi, đám cung nữ ré lên kinh hãi: “Vương Mẫu, Người, mặt của Người!” Vương Mẫu chỉ dịu dàng cười, mặc cho những nếp nhăn lờ mờ lan ra từ khóe miệng, dần dà phủ đầy cả gương mặt.

Tuyết càng rơi càng lớn, cả Ngọc sơn bị băng tuyết bao phủ, nhuộm một màu trắng xóa.

Núi biếc chưa già, lại vì chàng mà bạc cả mái đầu.

Lúc chính ngọ là thời điểm Triêu Vân điện tràn ngập dương quang, Luy Tổ cũng rất thích ngồi bên song dệt vải dưới ánh nắng vàng rực rỡ.

Đột nhiên Luy Tổ vô tình ngẩng lên, trông thấy một cánh chim đỏ rực bay ngang trời rồi chấp chới khuất sau rừng dâu, sắc mặt bỗng tái nhợt, bà quăng thoi xuống chạy ra khỏi Triêu Vân điện.

Con chim đỏ rực đậu xuống cành dâu, véo von cất giọng hót với bà.

Luy Tổ lắng nghe, chợt mỉm cười!

Hơn ba ngàn năm trước, lúc bà dứt áo ra đi, bọn họ đã ngồi trên sườn núi xanh ngắt cỏ non hát khúc ca này đây.

Hoàng hôn hôm ấy đẹp đẽ vô ngần, khúc nhạc của Thạch Niên trầm bổng du dương nhường ấy, điệu múa của A Mi cũng say đắm lòng người như vậy, chỉ có bà là hát qua quýt cho xong, bởi trong lòng còn mải nghĩ đến gã thiếu niên anh tuấn hào sảng dưới Hiên Viên sơn.

Bà bất ngờ hạ quyết tâm đi tìm gã thiếu niên đó, bởi thế Thạch Niên chưa kịp thổi hết khúc nhạc đó, A Mi cũng chưa múa xong điệu múa đó.

Bà đâu có ngờ, khúc nhạc ấy phải hơn ba ngàn năm sau mới thổi hết.

Nếu năm đó bà biết rằng dù sinh mệnh có dài đằng đẵng, dù trong đời còn vô vàn buổi chiều tà, cũng không thể tìm lại được một chiều hoàng hôn mỹ lệ dịu dàng soi sáng cho ba người bọn họ như thế nữa, có lẽ bà đã chẳng nôn nóng bỏ đi như vậy mà sẽ trân trọng nâng niu từng khoảnh khắc, dẫu rằng chia tay là tất yếu, bà cũng muốn tha thiết hát cho hết khúc ca ấy dưới ánh hoàng hôn.

Chim gỗ hót hết khúc nhạc liền tan thành tro bụi, như thông báo rằng Viêm Đế, người chế tạo ra nó, đã vĩnh viễn khuất bóng trên thế giới này.

“Muội xin lỗi!”

Luy Tổ cố nén nhưng đau thương đã trào ra khóe mắt, hóa thành hai hàng lệ lã chã rơi, khóc cho một niềm ân hận đã ba ngàn năm chưa nguôi ngoai.

Dù xin lỗi cả trăm ngàn lần, cũng có được gì đâu? Trong đời bà sẽ vĩnh viễn chẳng thể tìm lại buổi hoàng hôn mỹ lệ, dịu dàng chiếu sáng cho ba người bọn họ như thế nữa.

Bảy ngày sau, Thần Nông quốc tuyên bố Viêm Đế đời thứ bảy đã qua đời. Tin này lập tức lan truyền khắp thiên hạ, ngũ hồ tứ hải, lục hợp bát hoang, ai nấy đều đau xót. Vương tử Du Võng kế vị, trở thành Viêm Đế đời thứ tám, đồng thời tuyên đọc di chiếu của Viêm Đế đời trước, phong cho Xi Vưu làm Đốc Quốc Đại tướng quân, nắm giữ tất cả binh mã Thần Nông quốc.

Mười ngày sau, hai tộc Cao Tân và Hiên Viên đồng thời tuyên bố đã chọn được một ngày thành hôn, Cao Tân Thiếu Hạo sẽ cưới Hiên Viên Bạt trong một ngày gần đây, hai đại Thần tộc chính thức kết mối liên minh, cả đại hoang đều khấp khởi mong đợi một hôn lễ long trọng chưa từng thấy suốt ngàn năm nay.

Hết chương 11.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 6-12-2013 04:23 PM
Chương 12


Đa tình chỉ chuốc lấy hao mòn[1].


12.1


[1] Trích trong bài từ theo điệu Ngu mỹ nhân của Nạp Lan Tinh Đức, nhan đề Chiều thu tản bộ.


Thiếu Hạo miên man nghĩ ngợi rồi bất chợt phá lên cười. Y không cần vợ mà cần ngôi báu, người phụ nữ đứng bên ngôi báu cũng chẳng thể là vợ, bởi ngôi báu quá nhỏ hẹp, không chứa nổi hai người sánh vai đứng cạnh nhau.  

Mồng năm tháng Năm là tết Tháng Năm của Cao Tân, cũng là ngày đại cát để thành hôn. Hôn lễ của Cao Tân Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt được cử hành vào hôm đó.

Trăm họ Hiên Viên đều thích tài hoa, trọng anh hùng, Cao Tân Thiếu Hạo là nam nhi xuất chúng nhất trong thiên hạ, là tấm chồng hoàn mỹ mà thiếu nữ nào cũng tha thiết ước mong, thấy vương cơ duy nhất của mình được gả cho Thiếu Hạo, bọn họ hết sức vui mừng. Muôn dân Cao Tân lại ưa huyết thống, trọng dòng dõi, Hiên Viên Bạt là con gái Chính phi Luy Tổ của Hoàng Đế, tuy huyết thống của Hiên Viên Hoàng Đế hơi kém nhưng Luy Tổ xuất thân từ nhà Tây Lăng danh gia vọng tộc, mang huyết thống tôn quý, trong tộc từng có một vị Viêm Hậu nên Hiên Viên Bạt gả cho Đại vương tử của họ cũng xứng đôi.

Tuy phong tục mỗi nơi mỗi khác nhưng chẳng nghi ngờ gì nữa, cả hai bên đều rất vừa lòng với cuộc hôn nhân này. Hôn sự của Cao Tân Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt đã trở thành việc mừng của mọi nhà. Từ sau khi rời khỏi Hiên Viên sơn, đoàn đưa dâu của Hiên Viên đi tới đâu cũng được dân chúng nhiệt tình đón mừng và chúc phúc.

Xương Ý gõ gõ vào xe loan, phấn chấn khoe với Hiên Viên Bạt ngồi trong: “Muội thấy chưa? Đi đến đâu cũng được người ta múa hát chúc mừng!”

Hiên Viên Bạt ngồi ngay ngắn trong xe khẽ đáp: “Vâng, muội nghe thấy cả.”

Xương Ý nói: “Trước mặt là sông Tương, đoàn rước dâu của Thiếu Hạo đang chờ ở bờ bên kia, theo nghi thức ta chỉ có thể đưa muội đến bờ sông mà thôi, hay là nghỉ lại đây một lát?”

“Vâng.”

Xương Ý tựa vào thành xe khẽ nói: “Rõ ràng ta nên vui mới phải, nhưng ta lại vừa vui vừa buồn, chỉ mong vĩnh viễn đừng đi tới sông Tương.”

Hiên Viên Bạt cũng tựa đầu vào thành xe, như thể đang dựa vào Tứ ca: “Huynh đừng lo, Thiếu Hạo là bạn thân của Đại ca, nhất định sẽ đối tốt với muội, vả lại muội gả tới Cao Tân, huynh vẫn có thể tới thăm kia mà.”

Xương Ý cười: “Ừ, ta cũng nghĩ thế đấy. Nhược Thủy, đất phong của ta rất gần Cao Tân mà.”

Hiên Viên Bạt lại hỏi: “Khi nào huynh cưới chị dâu tương lai?”

“Sắp rồi, tới chừng đó coi như cũng có cớ để muội về nhà đoàn tụ với cả gia đình.”

“Tứ ca, sau này huynh nhớ săn sóc cho mẹ nhé.”

“Được, ta sẽ chăm lo thật tốt cho Người, muội khỏi lo.”

Vừa nói tới đó đã nghe lễ quan phụ trách giờ giấc nghi thức giục giã: “Điện hạ, nếu còn chùng chình sẽ lỡ giờ lành đó, đoàn rước dâu của Cao Tân đã đến bờ sông rồi kìa.”

Xương Ý khẽ thở dài rồi lệnh cho cả đoàn tiếp tục lên đường.

Chỉ lát sau đã đến bờ sông Tương.

Đoàn rước dâu và đưa dâu đứng hai bên bờ trông sang nhau, tiếng kèn trống réo rắt vô cùng nào nhiệt, lại thêm dân chúng đôi bờ reo hò mừng rỡ khiến cả đất trời tràn ngập niềm vui.

Hiên Viên Bạt được Xương Ý đỡ xuống xe loan, theo lề lối Cao Tân coi màu trắng là tôn quý nhất, nàng mặc một bộ đồ trắng tinh tha thướt, Thiếu Hạo bên kia cũng áo bào mũ ngọc, phong nhã hào hoa. Cả hai đứng ở đôi bờ nhìn nhau, người tóc xanh phơi phới, thanh lệ vô song, kẻ vạt áo tung bay, phong tư trác nguyệt, khiến dân chúng tới xem lễ đông nghẹt hai bên bờ mở cờ trong bụng, thầm ca tụng tân lang tân nương quả là trời sinh một cặp, như ngọc như ngà.

Tiếng kèn trống réo rắt chợt im bặt, lễ quan tiến lên dâng lời chúc phúc, sau đó là thỉnh chuông, gõ khánh.

Trong tiếng chuông khánh ngân vang văng vẳng, một trăm đồng nam đồng nữ Cao Tân mình vận lễ phục bắt đầu ca khúc rước dâu.

“Tổ kia thước ở sẵn sàng

Chim cưu bay đến đậu quàng vào trong

Bây giờ nàng ấy lấy chồng

Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu

Tổ kia thước ở đã lâu

Cưu đâu bay đến tranh nhau ở bừa

Bây giờ nàng lấy con vua

Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng

Tổ kia thước ở rõ ràng

Chim cưu kéo đến cả đàn ở tranh

Nàng kia cưới đúng giờ lành

Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng[2].”


[2] Bài thơ Thước sáo trích trong Kinh Thi.


Trong tiếng nhạc nhã tưng bừng của Cao Tân, gắn ngàn cánh Huyền điểu mỹ lệ bay tới bắc thành nhịp cầu nối đôi bờ sông Tương, đây là nghi thức rước dâu long trọng nhất của Cao Tân, hơn vạn năm nay, tuy đã có vô số đám cưới trong vương tộc nhưng chỉ có chính phi của Tuấn Đế mới được dùng nghi thức này.

Dân chúng đôi bờ chưa từng chứng kiến cảnh tượng lạ lùng đẹp đẽ như vậy, không hẹn mà cùng rộ lên tiếng hoan hô kinh ngạc.

Thiếu Hạo được chim thước dẫn đường, đi qua cầu Huyền điểu tiến về Hiên Viên Bạt, gió lay vạt áo, phong độ đường hoàng.

Xương Ý tươi cười lùi lại mấy bước, nói nhỏ với A Hành: “Muội đi đi! Chú rể của muội đang đợi phía trước kìa.” Chứng kiến nghi thức rước dâu long trọng của Cao Tân, cuối cùng y cũng có thể yên tâm tiễn em gái sang sông lấy chồng.

Trong tiếng hát du dương mà long trọng, dưới sự dẫn đường của chim thước, Hiên Viên Bạt bước lên cầu Nhân Duyên do Huyền điểu kết thành.

Ánh dương rực rỡ, gió mát hiu hiu, lau lách trắng xóa đôi bờ sông Tương, trên sông sóng biếc lăn tăn, không một bóng thuyền, chiếc cầu Huyền điểu cong cong tựa cầu vồng bắc ngang sông, rạch ngang cả hư không, nối liền hai bên bờ.

Theo đúng nghi thức, Thiếu Hạo cùng Hiên Viên Bạt thong thả bước lên cầu.

Tất cả mọi người đều hồi hộp đổ dồn mắt vào bọn họ, chờ đợi phút giây họ gặp nhau giữa cầu, tay nắm lấy tay.

Đột nhiên giữa không trung vang lên tiếng thét đầy giận dữ như xuyên mây phá núi vọng tới: “Tây Lăng Hành!”

Khúc hát rước dâu được cả trăm đồng nam đồng nữ Cao Tân đồng thanh ca vang cũng chẳng át nổi tiếng thét bi phẫn từ trời cao vọng xuống kia. Nhưng Hiên Viên Bạt như không nghe thấy, vẫn tiến về phía Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo liếc nhìn trời, chân vẫn bước về phía Hiên Viên Bạt như chẳng nghe thấy gì, nhưng ngón tay ngầm kết lại thành linh ấn khiến gió nổi lên lồng lộng, sương khói phủ mờ mặt sông, hơi nước nghi ngút, che khuất tầm nhìn của đám người hai bên bờ.

Khi hai người bước đến giữa cầu, sương khói đã giăng mờ sông Tương, Thiếu Hạo đưa tay về phía Hiên Viên Bạt, nàng cũng đang định đặt tay vào tay y, đột nhiên giữa biển mây cuồn cuộn một nam tử vận hồng bào đỏ rực như máu, chân đạp trên lưng đại bàng đen từ trời bay xuống, cặp mắt đầy giận dữ và bi phẫn, thét gọi nàng: “Tây Lăng Hành, cô quên lời hẹn giữa chúng ta rồi sao?”

Hiên Viên Bạt trấn tĩnh tinh thần, đoạn ngoảnh đầu lại, nào ngờ vừa quay lại nàng đã thấy tròng mắt nhói lên, sắc đỏ rực đó như xói vào mắt nàng, hắn đang mặc trên người tấm áo do chính tay nàng chăn tằm dệt vải may thành.

“Cô quên lời thề của mình rồi sao? Cô đã thề hàng năm sẽ gặp ta dưới cội hoa đào, vậy mà bây giờ lại bằng lòng gả cho y?”

Xi Vưu bay tới bên cạnh họ, phẫn nộ chất vấn.

A Hành chỉ cười nhạt nói: “Ta chẳng hiểu ngươi nói gì cả, xin ngươi đi ngay cho.”

“A Hành, đi với ta đi!”

Xi Vưu đưa tay cho Hiên Viên Bạt, vẻ mặt quật cường kiên nghị nhưng ánh mắt lại thấp thoáng khẩn cầu, “Là cha cô, Đại ca cô ép buộc cô ư?”

Hiên Viên Bạt đăm đăm nhìn Xi Vưu, lòng dạ rối bời, hắn dám công nhiên tới cướp dâu thế này tức là liều mạng thách thức cả thiên hạ, đến lúc đó dù Du Võng muốn bao che cho hắn cũng không thể lấp liếm nổi.

“Từ nhỏ ta đã có hôn ước với Thiếu Hạo, gả cho chàng là đương nhiên, cần gì phải ép buộc?” Nàng vừa nói vừa nhìn về phía Thiếu Hạo. Từ đầu đến cuối Thiếu Hạo vẫn bình tĩnh ung dung, dường như mọi chuyện trước mắt chẳng liên quan gì tới y.

Hiên Viên Bạt đặt tay mình vào tay Thiếu Hạo, Thiếu Hạo tươi cười, nắm lấy tay nàng.

Thấy vậy Xi Vưu lập tức ra tay toan giành lấy Hiên Viên Bạt từ Thiếu Hạo, Thiếu Hạo một tay nắm lấy Hiên Viên Bạt, tay kia giơ ra đỡ lấy đòn như sấm sét của Xi Vưu.

Kẻ đánh người đỡ, tay hai người bắt vào nhau, Xi Vưu bừng bừng lửa giận, Thiếu Hạo lại bình thản như nước.

Thiếu Hạo là đệ nhất cao thủ Thần tộc nổi danh cả ngàn năm nay, thực lực thâm sâu khó dò, chỉ trong một sát na, Xi Vưu đã hiểu mình hoàn toàn không phải là đối thủ của y, nhưng hắn vẫn bất chấp hết thảy, liên tiếp ra đòn, lăm le muốn giành lại A Hành từ tay Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo vừa hóa giải chiêu thức của Xi Vưu vừa ôn hòa lễ độ thuyết phục: “Xi Vưu Đại tướng quân, hôm nay là hôn lễ của hai nước Hiên Viên và Cao Tân, mời ngài theo thị nữ lên Quan Lễ đài dự lễ.”

Xi Vưu chẳng nói chẳng rằng, chỉ tấn công như điên như dại, tuy Thiếu Hạo đã giăng kết giới phong tỏa tất cả, dân chúng hai bên bờ hoàn toàn không nghe thấy được mọi chuyện đang diễn ra, nhưng dây dưa quá lâu nhất định sẽ khiến họ sinh nghi.

Chẳng thể lằng nhằng với Xi Vưu mãi, y đành nói nhỏ: “Xin đắc tội!” Dứt lời năm ngón tay y liền biến thành năm con thủy long trắng xóa, ngẩng đầu há miệng lao về phía Xi Vưu. Sóng cuộn ngập trời, bị năm con rồng đồng loạt công kích, Xi Vưu không sao chống đỡ nổi, rớt khỏi lưng đại bàng rơi xuống sông, đại bàng kêu lên một tiếng bi thương rồi vội vã lao xuống cứu chủ.

Một bàn tay Thiếu Hạo trước sau vẫn nắm chặt lấy tay Hiên Viên Bạt, y nhìn nàng như dò hỏi, thấy Hiên Viên Bạt gật đầu, y liền dắt nàng bước tiếp.

Vừa đi được một quãng, bỗng Xi Vưu đột ngột từ dưới nước lao lên, thúc đại bàng chặn trước mặt hai người, hắn đã bị thương, cả người ướt sũng, trông vô cùng nhếch nhác nhưng gương mặt vẫn đầy vẻ kiệt ngạo ngông cuồng, chẳng hề sợ hãi, cũng chẳng buồn để tâm rằng mình không phải đối thủ của Thiếu Hạo, hai bên bờ lại có quân tinh nhuệ của Cao Tân và Hiên Viên, chỉ cần Thiếu Hạo ra lệnh, hắn sẽ bị giết ngay tại chỗ.

Hai bàn tay Xi Vưu chợt đỏ rực lên như máu, chuẩn bị ra tay, lần này Thiếu Hạo cũng không dám khinh địch đành buông Hiên Viên Bạt ra, chậm rãi giơ tay trái lên. Thấy vậy Hiên Viên Bạt hoảng hốt chạy tới chắn trước mặt Thiếu Hạo, cao giọng mắng Xi Vưu: “Quân càn rỡ không hiểu lễ giáo kia, muốn cướp dâu cũng phải xem mình có xứng không chứ, Thiếu Hạo thân phận tôn quý, thần lực cao cường, dung mạo tuấn tú, ngươi có chỗ nào sánh được với chàng? Lẽ nào ta lại bỏ trân châu đi vớt mắt cá ư? Ngươi biết thân biết phận chút đi, đừng làm chuyện không tự lượng sức nữa!”

Xi Vưu sững sờ nhìn A Hành như không tin vào tai mình, niềm căm uất trào dâng, bi thương và phẫn nộ cuộn lên trong lòng khiến lồng ngực hắn phập phồng dữ dội, “Ta không tin đây là lời nói của Tây Lăng Hành mà ta quen.”

“Ngươi tự mình kêu Tây Lăng Hành đấy chứ, ta nói ngươi hay, từ đầu chí cuối chỉ có Hiên Viên Bạt mà thôi.”

Cặp mắt Xi Vưu vụt tối sầm, hắn không giận mà còn cười vang, gật gật đầu, “Té ra ta có mắt như mù, đã đặt tình cảm nhầm chỗ!” Nói rồi hắn vừa cười thê thiết vừa cởi áo ném trả A Hành.

Đại bàng sải cánh đưa hắn bay đi mất, trong nháy mắt cả người cả chim đều khuất sau màn khói mây mờ mịt, chỉ còn manh áo bào đỏ rực phất phơ rơi xuống trước mặt Hiên Viên Bạt.

Tổ kia thước ở sẵn sàng

Chim cưu bay đến đậu quàng vào trong

Bây giờ nàng ấy lấy chồng

Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu


Gió nổi lên xua tan hết mây mù, dân chúng đôi bờ lại nhìn rõ cảnh tượng trên sông, thấy Thiếu Hạo đã đứng bên Tây Lăng Hành, họ xôn xao mừng rỡ rồi hòa giọng với đội lễ nhạc Cao Tân ca vang khúc rước dâu:

Tổ kia thước ở đã lâu

Chim cưu bay đến tranh nhau ở bừa

Bây giờ nàng lấy con vua

Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng

Tổ kia thước ở rõ ràng

Chim cưu kéo đến cả đàn ở tranh

Nàng kia cưới đúng giờ lành

Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng.


Trong tiếng hát rước dâu rộn rã, trước sự mong đợi hân hoan của dân chúng hai bên bờ, Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt nhìn nhau, chẳng hẹn mà cùng đưa tay ra nắm chặt lấy tay người kia.

Tức thời dân chúng đôi bờ đều đồng loạt hoan hô vang trời dậy đất, tiếng reo hò lan đi khắp nơi, chấn động cả mây xanh.

Nghe tiếng reo mừng vẳng lại, Xi Vưu đang ngồi trên lưng đại bàng vận linh lực trị thương lập tức rối loạn khí tức, máu tươi trào lên tận cổ họng nhưng hắn cương cường nghiến răng nuốt xuống.

Thiếu Hạo nhìn tấm áo đỏ rực dưới chân chần chừ chưa dám bước lên, trái lại Hiên Viên Bạt lờ đi như không thấy, dẫm thẳng lên hồng bào, nhờ Huyền điểu dẫn đường, hai người lại đi tiếp.

Từng bước từng bước băng qua cầu Huyền điểu theo đúng lễ nghi, bước lên mảnh đất thuộc Cao Tân quốc.

Hàng ngàn cánh Huyền điểu chao liệng trên không, muôn vàn đóa hoa rợp trời khoe sắc, vô số dân chúng reo hò nhảy múa.

Bây giờ nàng ấy lấy chồng

Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu

Bây giờ nàng lấy con vua

Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng

Nàng kia cưới đúng giờ lành

Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng.


Men theo con đường rực rỡ sắc hoa, Thiếu Hạo nắm tay Hiên Viên Bạt tới trước cỗ xe ngọc chạm trổ rồng bay phượng múa, Hiên Viên Bạt vén áo bước lên nhưng bất giác vẫn ngoái đầu ngóng sang bờ bên kia, nơi đó là cố quốc nơi nàng sinh ra và lớn lên, có những người thân yêu ruột thịt của nàng.

Như có cảm ứng tâm linh, Xương Ý cũng lập tức giơ tay, vừa chạy dọc bờ sông, vừa vẫy vẫy tay với nàng.

Hiên Viên Bạt mỉm cười, quay mình bước lên xe ngồi cạnh Thiếu Hạo, nhưng đúng lúc xe ngọc bay lên, nàng không khỏi ngoảnh đầu dõi mắt trông về xa tít cuối trời.

Giờ hắn thế nào rồi!?

Cao Tân Thiếu Hạo dùng nghi lễ long trọng nhất cưới Hiên Viên Bạt về làm vợ, Tuấn Đế cũng vô cùng sủng ái nàng dâu vừa vào cửa, ban cho nàng ở Thừa Hoa điện- cung điện lớn thứ hai trong Ngũ Thần sơn[3], các ân điển khác cũng khó mà kể xiết.


[3] Ngũ Thần sơn: ở Quy khư, nơi ngàn vạn dòng nước cùng đổ về có năm ngọn núi, vì là nơi ở của thần tiên nên được tôn xưng là Ngũ Thần sơn. Theo Sơn Hải kinh ghi chép về nơi ở của Thần hệ Tuấn Đế, Viên Kha tiên sinh cho rằng dòng dõi Tuấn Đế cai quản cả Ngũ Thần sơn. Theo sách Liệt Tử, phần Thang Vấn chép: “Đi về phía Đông Bột Hải chẳng biết bao nhiêu dặm có cùng biển lớn, sâu thẳm không đáy, tên gọi Quy khư. Nơi đó có năm ngọn núi, tên gọi lần lượt là Đại Dư, Vân Kiều, Phương Hồ, Tiệm Châu, Bồng Lai, chu vi toàn bộ ba vạn dặm, cao tới chín ngàn dặm.”


Cả Cao Tân đều chúc phúc cho Đại vương tử, nhưng Thừa Hoa điện nơi ở của vương tử phi lại tĩnh lặng như tờ. Các cung nhân vốn hầu hạ ở đó chưa biết tính tình vị chủ nhân mới ra sao nên luôn dè dặt cẩn thận, chẳng dám nhiều lời, còn đám thị nữ tới đây cùng Hiên Viên Bạt lại do Hoàng Đế đích thân tuyển chọn, ai nấy đều là kẻ thận trọng kín tiếng, không tùy tiện nói năng, bởi vậy toàn cung điện mênh mông nhường ấy, người hầu kẻ hạ hàng đàn nhưng ai ai cũng đi nhẹ nói khẽ như hồn ma bóng quỷ, chẳng gây ra tiếng động nào.

A Hành lặng lẽ ngồi trong phòng thẫn thờ như tượng, cảnh tượng lúc ban ngày cứ trở đi trở lại trong đầu, lúc đó nàng chỉ lo cho an nguy của Xi Vưu, sợ Thiếu Hạo sẽ nổi giận hạ sát thủ nên phải tức tốc đuổi hắn đi, vậy mà giờ đây, hình ảnh Xi Vưu bi phẫn cởi áo ném trả rồi quày quả bỏ đi lại hiện ra rành rành trước mắt nàng.

Liệt Dương đột ngột bay vào cửa sổ, đập phá một trận trong phòng, hất đồ đạc, đánh vỡ cả dạ minh châu khiến căn phòng tối om, đám thị nữ phải vừa nhớn nhác xua chim vừa cuống quýt thu dọn mọi thứ. A Tệ lẳng lặng lẻn đến bên A Hành, dúi cho nàng manh hồng bào đã vấy bẩn kia.

Lúc đám thị nữ đem dạ minh châu tới thắp sáng lại căn phòng vẫn thấy A Hành ngồi ngay ngắn ở đó. Sợ động chạm đến Đại vương tử phi, họ chẳng dám mắng chửi Liệt Dương, luôn miệng nhận tội về mình. Liệt Dương đậu trên ngọn cây thấy vậy đắc ý cười sằng sặc đến rung cả người.

Đã qua canh một, Bán Hạ, thị nữ được gả theo nàng tới đây bước vào khẽ thưa: “Xin vương tử phi đi nghỉ trước đi, xem tình hình chắc đêm nay điện hạ không tới đâu.”

“Cứ đợi đi.”

Hiên Viên Bạt tin chắc đêm nay Thiếu Hạo sẽ tới, bởi nàng biết nhất cử nhất động ở đây sẽ được trình báo ngay tới Tuấn Đế, hơn nữa y cũng biết Hoàng Đế nắm rõ y có đối tốt với vương cơ của Hiên Viên hay không. Y nhất định không thể khiến Hoàng Đế hiểu lầm mình được. Đến canh hai, bên ngoài mới nghe tiếng lao xao: “Điện hạ tới, điện hạ tới rồi.”

Vừa nghe nói đã thấy Thiếu Hạo loạng choạng bước vào, người nồng nặc mùi rượu nhưng vẫn khá tỉnh táo, dưới sự chỉ dẫn của hỷ bà, y gắng gượng cạn ba chung rượu hợp hoan cùng A Hành.

Đám thị nữ cởi áo ngoài cho Thiếu Hạo rồi lục tục lui ra.

Thiếu Hạo chếnh choáng hành lễ với A Hành: “Trên tiệc có nhiều huynh đệ chúc rượu quá, ta khó khăn lắm mới thoát được, để nàng phải đợi lâu rồi.”

A Hành khẽ nói: “Có gì đâu chàng.” Đoạn nàng leo lên giường nhắm mắt nằm in trước. Chỉ lát sau, Thiếu Hạo cũng nằm xuống bên nàng, trong phòng lập tức tối om.

A Hành cứng người lại, nín thở khép chặt vạt áo, tim đập thình thịch như muốn vọt ra ngoài, nhưng Thiếu Hạo vừa đặt mình xuống đã thiếp đi, nàng đợi hồi lâu chẳng thấy y có động tĩnh gì bèn lấy ngón tay khẽ khều khều, chắc chắn y đã ngủ mê mệt mới dám thở phào nhẹ nhõm.

A Hành trở mình quay lưng về phía Thiếu Hạo, lòng ngổn ngang trăm mối, tránh được đêm nay, còn sau này thì sao?

Sáng tinh mơ, nàng chợt nghe Thiếu Hạo khe khẽ gọi: “A Hành, hôm nay chúng ta phải dậy sớm tới bái kiến phụ vương và mẫu hậu theo quy củ.”

A Hành giật nảy mình, ngồi phắt dậy, trông thấy Thiếu Hạo đã y phục chỉnh tề ngồi cạnh đợi nàng tỉnh giấc.

Thấy A Hành đỏ bừng mặt ngượng ngùng, Thiếu Hạo bèn tiện tay cầm một cuốn sách lên vờ chăm chú lật xem. Mấy thị nữ bưng hộp nữ trang vừa lén liếc hai người vừa cười trộm, trong mắt người ngoài, cả hai vẫn là một đôi vợ chồng mới cưới ân ái mặn nồng.

A Hành được các thị nữ hầu hạ trang điểm lộng lẫy rồi cùng Thiếu Hạo tới khấu đầu thỉnh an Tuấn Đế cùng Tuấn Hậu.

Hôm qua là quốc lễ, cả cung điện đông nghịt bề tôi nên A Hành không sao nhìn rõ mặt Tuấn Đế, mãi tới khi thi hành gia lễ hôm nay, nàng mới được tận mắt trông thấy ông, cũng hiểu ra tại sao Vương Mẫu lại khen Tuấn Đế nho nhã phong lưu.

Tuy Tam Đế được xếp ngang hàng với nhau nhưng trên đại hoang chẳng mấy thần tiên may mắn được gặp cả ba vị đế vương, bởi thế A Hành không khỏi thầm so sánh ba người.

Viêm Đế chẳng hề để tâm tới bề ngoài của mình, lúc A Hành gặp Viêm Đế, Viêm Đế đang vận áo ngắn quần thô, chân đi giày cỏ, bàn chân lấm đầy bùn đất hệt như một ông lão gầy gò tiều tụy, mặt đầy nếp nhăn, nếu không biết thân phận của ông, nhất định không thể tin ông già đó lại là Viêm Đế Thần Nông thị được cả thiên hạ quy thuận.

Hoàng Đế cũng chẳng chú trọng dung mạo, chỉ quan tâm tới tôn nghiêm uy thế của bậc đế vương, Theo Hoàng Đế, diện mạo không nên quá già nua, nhìn rất suy nhược, cũng không nên quá trẻ trung, nhìn thiếu chững chạc, thế nên bao giờ trông Hoàng Đế cũng chỉ ngoại tứ tuần, nhất cử nhất động đều trầm tĩnh oai nghiêm khiến người khác phải kính phục, rất phù hợp với hình ảnh Hoàng Đế Hiên Viên thị uy chấn thiên hạ trong tưởng tượng của mọi người.

Khác với hai người kia, Tuấn Đế lại vô cùng chăm chút diện mạo của mình, gương mặt vẫn giữ nguyên nét trẻ trung tuổi hai mươi, cũng chẳng khoác vương bào, chỉ mặc một bộ y phục bình thường, nhìn giản dị nhưng thực chất lại được dệt từ tơ Ngọc tằm quý hiếm. Nét mặt Tuấn Đế giống Thiếu Hạo tới bảy tám phần, có điều Thiếu Hạo gom đủ vẻ hào hùng của núi lẫn tình tứ của sông, còn Tuấn Đế chỉ có nước mà thiếu non, cặp mắt dịu dàng đa tình, toàn thân toát lên khí chất của người đọc sách, thoạt nhìn giống hệt một vị công tử ngao du giữa hồng trần.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 6-12-2013 04:41 PM
Chương 12


Đa tình chỉ chuốc lấy hao mòn[1].


12.2


Lúc A Hành bước vào, Tuấn Đế đang ngồi đọc sách, vừa xem vừa gật đầu vẻ hài lòng, ngón trỏ còn vô thức vẽ trong không trung như phác lại những điều ghi trong sách. Thấy thị nữ định thông báo, Thiếu Hạo vội ra dấu ngăn lại rồi lặng lẽ đứng đợi cùng A Hành.

Nhìn Tuấn Đế, A Hành không khỏi nhớ tới Xương Ý, Tứ ca của nàng cũng ham mê sách vở y như vậy, so ra y còn thích ca phú thư họa hơn công văn tấu sở nhiều. Nàng bỗng nảy dạ tò mò, liền lén liếc trộm xem Tuấn Đế đang đọc sách gì, vừa trông thấy, nàng đã phải mím môi nén cười.

Tuấn Đế ngước mắt lên, bắt gặp A Hành đang mím môi nín cười, bèn gập sách lại hỏi: “Con cười gì thế?”

Thiếu Hạo thấy vậy giật thót mình, còn Tuấn Hậu chỉ nửa cười nửa không, ngồi yên quan sát.

A Hành vội quỳ xuống tâu: “Quyển sách phụ vương xem là do một người bạn con viết ra, thấy phụ vương thích thú như vậy, con chợt cao hứng thay cho y nên không khỏi thất lễ.”

Tuấn Đế mừng rỡ hỏi: “Con quen người viết ra những bài ca phú này thật ư? Ta từng phái người đi dò hỏi về y nhưng chẳng thu được tin tức gì cả.”

A Hành thưa: “Người nhà y không thích y chú tâm vào việc đó nên y chỉ dám lén lút viết chơi vậy thôi, có điều y chẳng chịu nổi tịch mịch, lại hận rằng khó tìm được tri âm, bèn ngấm ngầm lưu truyền những sách vở đó ra ngoài. Giờ đây có được người tri âm thưởng thức là y mãn nguyện lắm rồi, chẳng cần người ta biết tới thành danh làm gì.”

Tuấn Đế gật đầu vẻ vô cùng thấu hiểu, cũng không gạn hỏi thêm nữa, “Đọc những gì y viết, có thể hiểu được y chẳng màng áo vàng đại ngọc trước cung điện mà chỉ khát cầu một vành trăng trong giữa bóng tùng, thôi, con đứng lên đi.”

Bây giờ A Hành mới chính thức hành lễ với Tuấn Đế và Tuấn Hậu.

Tuấn Hậu lại ban thưởng cho nàng vô số vật phẩm, người hầu đứng bên cao giọng xướng tên các món quà cáp. Xưa nay Hiên Viên vương thất sống rất giản dị nên A Hành từ nhỏ đã chẳng để tâm tới mấy thứ ngọc ngà châu báu đó, càng không biết thật giả tốt xấu ra sao, nhưng nhìn thái độ đám thị nữ xung quanh, nàng cũng hiểu được mình được sủng hạnh vô vàn. Có điều vị Tuấn Hậu này xuất thân từ Thường Hy bộ trong Cao Tân tứ bộ, cũng là mẹ đẻ của Nhị vương tử Yến Long, từ khi gả cho Tuấn Đế đã sinh liền sáu con trai. Em gái Tuấn Hậu cũng nhập cung cùng lúc với chị, đứng đầu tất cả phi tần, sinh được bốn con trai, ba con gái, ba con gái đều gả cho Bạch Hổ bộ, nên Bạch Hổ bộ luôn kề vai sát cánh với bọn Yến Long và Trung Dung. Trong triều, thế lực của hai chị em Thường Hy thị vô cùng hùng mạnh, bởi vậy Tuấn Hậu càng tươi cười hóa nhã, A Hành lại càng không dám lơ là cảnh giác.

Cao Tân là Thần tộc từ thời thượng cổ, lễ giáo rất nghiêm, A Hành ra mắt toàn bộ vương hậu, vương phi, vương tử, vương tử phi, vương cơ xong, lại nhất nhất đem chuyện ở nhà kể ra một lượt, sau cùng mới có thể cáo từ ra về. Rời khỏi đại điện, A Hành mới thấy quai hàm mình đã cứng đơ lại vì cười.

Thiếu Hạo cùng ngự xe mây xuống núi với A Hành, ngồi trong xe, y khẽ nói: “Người bạn mà nàng nói có phải Xương Ý chăng?”

A Hành kinh ngạc đáp: “ Vâng, là Tứ ca. Nhưng chàng giữ kín giùm, đừng nói lại với Đại ca nhé, bằng không huynh ấy lại khiển trách Tứ ca.”

Thiếu Hạo nói: “Thật ra, Thanh Dương…” Thấy A Hành chăm chú nhìn mình, y lại lắc đầu: “Không có gì, ta sẽ giữ kín.”

Thiếu Hạo có việc phải giải quyết nên sau khi đưa nàng về Thừa Hoa điện, y lập tức đi ngay.

A Hành vừa đổi sang thường phục mặc trong nhà đã thấy Bán Hạ tới bẩm: “Nặc Nại tướng quân đến dâng lễ vật lên điện hạ, vì lễ vật quý giá mà điện hạ lại đi vắng nên y nhất định đòi vương tử phi phải xem qua.”

A Hành liền nói: “Dù sao cũng rảnh rỗi, ta sẽ tới xem sao.”

Nghe tiếng chân người, Nặc Nại vội đứng lên, trông thấy A Hành, y liền mỉm cười hành lễ, nụ cười đượm vẻ chua xót.

A Hành sai tất cả thị nữ lui ra ngoài đợi lệnh, dù sao cửa sổ cũng mở toang, nhìn qua là thấy hết cảnh tượng trong phòng nên chẳng coi là trái lẽ được.

Nàng vừa hàn huyên với Nặc Nại vừa âm thầm dùng Trụ Nhan hoa giăng kết giới, đề phòng đám thị nữ nghe lén được lại phiền phức. Đây là phép thuật Đại ca dạy riêng cho nàng trước lúc lên đường sang Cao Tân, sau khi y đã xem xét Trụ Nhan hoa một lượt.

Nàng áy náy xin lỗi Nặc Nại: “Hôm đó trên Ngọc sơn ta nhất thời làm bậy, giả xưng là Tây Lăng Hành, nào ngờ về sau lại kéo theo nhiều chuyện như vậy, thật có lỗi với tướng quân.”

“Ai mà ngờ đường đường Hiên Viên vương cơ lại trêu chọc tại hạ như thế chứ? Không phải ta ngu ngốc, là ta hồ đồ nên bị lừa đó thôi.”

Nặc Nại chẳng thể cung kính dạ vâng với vương tử phi, trái lại còn trả lời với giọng điệu đầy vẻ bực bội tự trào, càng để lộ thái độ thoải mái mà chân thành. Thấy vậy A Hành không khỏi thầm khen ngợi y, chẳng trách Thiếu Hạo và Vân Tang lại xem trọng người này đến thế. “Mấy năm trước ta từng nhờ Thiếu Hạo chuyển cho ngươi một phong thư, sau đó ngươi có đi gặp Vân Tang không?”

“Chẳng giấu gì vương tử phi, hôm đó sau khi đọc xong thư, tại hạ nhất thời vẫn chưa thể nghĩ thông được. Thật ra tại hạ nào phải kẻ hẹp hòi, chỉ là quá xem trọng nên không chấp nhận được dối gian đó thôi. Sau này bình tĩnh lại mới hiểu rằng hết thảy chỉ là cơ duyên xảo hợp mà lầm, rồi lầm lại thêm lầm, nhưng bây giờ tại hạ đã có hôn ước, cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp lại nàng, mà gặp rồi biết nói cái gì đây? Tại hạ đành cương quyết từ hôn trước đã, may nhờ điện hạ giúp cho chu toàn, nhân lúc nhà gái phạm chút lỗi lầm điện hạ bèn bức Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước. Chuyện này kể ra chỉ dăm câu ba điều là xong, nhưng lúc đó phải giằng co hơn ba năm mới ổn thỏa. Sau khi từ hôn, tại hạ mừng rỡ cho rằng cuối cùng cũng có thể quang minh lỗi lạc tới gặp Vân Tang, nào ngờ lúc đến Thần Nông sơn xin Viêm Đế cho gặp Đại vương cơ của Thần Nông, lại…”

Nặc Nại buồn bã, trầm mặc hồi lâu mới kể tiếp: “Đám thị vệ Thần Nông rất hung hãn, tại hạ cứ tưởng gặp được nàng là ổn, nhưng nàng cũng hết sức lạnh nhạt, thậm chí không cho tại hạ lên núi. Dọc đường đi tại hạ còn hào hứng định ướm ý nàng, nếu tại hạ đến hỏi Viên Đế xin cầu hôn, liệu nàng có bằng lòng chăng. Nào ngờ tới khi gặp mặt nàng chỉ lạnh nhạt thờ ơ, đứng dưới núi nói vắn tắt vài câu với tại hạ rồi vội vã từ biệt, khiến bao nhiệt tình trong lòng tại hạ đóng băng hết thảy, đành ủ rũ quay về Cao Tân.”

A Hành dịu giọng hỏi: “Giờ ngươi đã hiểu lý do tại sao khi đó Vân Tang lại như vậy chưa?”

Nặc Nại gật đầu, “Có lẽ khi đó bệnh tình Viêm Đế đã nặng lắm rồi, nhớ lại lúc gặp nhau, tuy Vân Tang làm bộ lạnh lùng nhưng ánh mắt cứ tránh tránh né né, hẳn không muốn tại hạ nhận ra nỗi bi thương trong lòng nàng. Nàng luôn miệng giục tại hạ về vì không muốn tại hạ phát hiện Viêm Đế đang bệnh nặng.”

Ánh mắt Nặc Nại khó giấu nổi thương tâm, “Nàng xem thường tại hạ quá! Đến một chút tin tưởng cũng không!”

A Hành vội giải thích, “Ngươi nhầm rồi, không phải Vân Tang tỷ tỷ không tin ngươi, mà là không muốn ngươi khó xử đó thôi. Viêm Đế bệnh nặng là tin tức hết sức quan trọng, liên quan tới cục thế thiên hạ cũng như an nguy của Cao Tân, nếu để ngươi biết được, thân là tướng lĩnh của Cao Tân, là bạn thân của Thiếu Hạo, ngươi sẽ trung thành với Cao Tân, với Thiếu Hạo, hay sẽ bảo vệ Vân Tang?”

Nặc Nại sửng sốt, nín lặng hồi lâu chẳng biết đáp sao cho phải, A Hành lại nói tiếp: “Vân Tang thà một mình gánh vác tất cả còn hơn để ngươi phải dằn vặt khó xử không biết chọn bên nào. Như vậy ngươi khỏi phải phụ lòng Vân Tang, cũng khỏi phải phản bội Thiếu Hạo.”

Nghe A Hành giảng giải, Nặc Nại liền đứng dậy hành lễ với nàng, “Đa tạ vương phi thức tỉnh tại hạ khỏi cơn mê, tại hạ xin cáo từ.”

“Ngươi định đi đâu?”

Nặc Nại đi thẳng không ngoảnh lại: “Thần Nông sơn.”

A Hành mỉm cười nhìn theo bóng Nặc Nại tất tả bước đi, thầm mừng cho Vân Tang, ít nhất Vân Tang cũng còn một vòng tay vững vàng ấm áp để vùi đầu vào khóc lóc, trút hết mọi đau đớn và uất ức trong lòng. Chợt nghĩ tới mình, nàng không khỏi âu sầu buồn bã.

Tối đến, A Hành vội đi ngủ thật sớm, chẳng đợi Thiếu Hạo trở về, theo tính toán của nàng, với tính tình Thiếu Hạo, hẳn sẽ không đánh thức nàng dậy. Quả nhiên Thiếu Hạo về đến thấy nàng đã ngủ say, cũng rón rén leo lên giường ngủ, chẳng hề làm phiền nàng.

Sớm hôm sau khi nàng trở dậy, Thiếu Hạo đã đi khỏi, trước lúc đi còn cẩn thận dặn nhà bếp làm mấy món điểm tâm kiểu Hiên Viên cho nàng.

Hơn nửa tháng trời, hết lý do này tới nguyên nhân khác, Thiếu Hạo và A Hành vẫn chưa thực sự thành thân.

Mỗi lúc tối đến A Hành đều nơm nớp lo sợ, ngủ không an giấc, chẳng mấy chốc mà gầy rộc đi. Hàng ngày, để tránh né Thiếu Hạo, nàng toàn lấy cớ không hợp thủy thổ để lên giường ngủ thật sớm.

Từ khi bàn bạc chọn ngày thành hôn tới nay đã tròn một tháng chưa được ngủ yên, A Hành mơ màng thế nào lại ngủ thiếp đi. Lúc Thiếu Hạo bước vào phòng, đập vào mắt là cảnh tượng nửa ống tơ nằm lăn lóc trên sàn, mái tóc đen dài của A Hành xõa xuống giường, y chỉ biết lắc đầu cười, nhẹ nhàng quấn lại tóc cho A Hành đoạn giơ tay toan sửa chăn giùm nàng, nào ngờ vừa chạm tới vai, A Hành đã giật mình tỉnh dậy, tiện tay rút dao găm dưới gối đâm y.

Vừa thấy hàn quang lấp loáng, mu bàn tay Thiếu Hạo đã bị rạch một đường, máu chảy ròng ròng, A Hành co rúm trên giường, tay nắm chặt dao, mắt không rời Thiếu Hạo, đôi mắt vừa to vừa sáng nổi bật trên gương mặt võ vàng nhợt nhạt của nàng, càng lộ rõ vẻ tiều tụy.

Thiếu Hạo vừa lấy khăn lau vết thương, vừa nói: “Bỏ dao xuống đi, nếu ta thật sự muốn ép buộc thì con dao đó của nàng chẳng ăn thua gì đâu.”

“Không phải thiếp muốn đả thương chàng, chỉ là, chỉ là…” A Hành không sao nói tiếp được, đành quẳng dao xuống dưới chân Thiếu Hạo.

Cứ tiếp tục thế này cũng chẳng phải là cách, Thiếu Hạo quyết định nói cho rõ ràng, bèn ngồi ghé xuống bên giường, “Hai ta đều biết mục đích thật sự của cuộc hôn nhân này là gì, rất nhiều việc chúng ta không thể tự làm chủ được. Mặc kệ phụ vương chúng ta nghĩ gì, cứ xuất phát từ lợi ích bản thân của hai ta thôi nhé, nàng cần ta giúp đỡ, ta cũng cần nàng hỗ trợ, chúng ta chẳng ai rời được ai cả. Bất kể trước đây nàng nghĩ thế nào, bất kể giữa nàng với người đàn ông khác từng có những gì, bây giờ nàng đã được gả cho ta, ta mong rằng từ nay về sau nàng có thể thật sự trở thành Đại vương tử phi.”

“Là vương tử phi, hay là vợ của chàng?”

Thiếu Hạo ngớ người, “Có gì khác nhau sao?”

A Hành đáp: “Vợ tức là người phụ nữ duy nhất trong đời, như Viêm Đế với Viêm Hậu vậy. Chàng có thể mãi mãi ở bên thiếp, sống chết có nhau, bất kể được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy chìm nổi cũng không bao giờ rời xa, sẵn lòng tin tưởng, yêu thương trân trọng thiếp suốt đời chăng?”

Thiếu Hạo chẳng ngờ A Hành lại chất vấn mình như vậy, vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi, năm lần bảy lượt mở miệng mà chẳng sao hứa hẹn được với nàng. Tuy Cao Tân và Hiên Viên hiện tại là đồng minh, nhưng tương lai thì sao? Giữa y và A Hành còn muôn dân hai nước, còn cả sinh tử tồn vong của hai bên gia tộc, sao có thể không ngờ vực đề phòng đây?

Hồi lâu y mới cất tiếng hỏi: “Vậy vương tử phi thì sao?”

“Vương tử phi sẽ giống như Tuấn Hậu vậy, Tuấn Hậu cùng phụ vương chàng chia ngọt sẻ bùi, lợi dụng lẫn nhau, đồng thời đề phòng lẫn nhau, đôi bên chỉ là đồng minh cùng chung lợi ích, bởi thế dù Tuấn Đế có bao nhiêu phi tần, Tuấn Hậu cũng chẳng đau lòng, còn đích thân chọn ra những mỹ nữ hát hay múa dẻo để làm vui lòng Tuấn Đế. Tuấn Hậu xưa nay không hề coi Tuấn Đế là người chồng sống chết có nhau của mình, cũng chưa từng toàn tâm toàn ý tin tưởng yêu thương Tuấn Đế. Còn chàng, chàng nói cần thiếp hỗ trợ, thật ra là hỗ trợ gì đây? Giúp chàng lên ngôi ư?”

Thiếu Hạo chăm chú nhìn nàng A Hành lạ lẫm trước mặt mình, thật khó tin rằng cách đây không lâu nàng vẫn còn là một cô bé ngây thơ thuần phác dưới khung trời đầy sao, “Thiếu Hạo, nếu chàng chỉ muốn một vị vương tử phi có thể giúp chàng đăng cơ thì chúng ta kết thành liên minh đi, hai ta không làm vợ chồng, mà làm bạn bè.”

Thiếu Hạo trấn tĩnh nói, “Nàng giải thích rõ hơn đi.”

“Nhị vương tử Yến Long hành xử lịch thiệp, tài mạo phong lưu, đã chiêu mộ được không ít nhân tài chí sĩ, cũng rất được lòng quan lại trong triều, còn được rất nhiều huynh đệ khác dốc lòng ủng hộ, lại có mẹ ruột là Tuấn Hậu cai quản hậu cung, tuy mẹ chàng là vợ kết tóc xe tơ của Tuấn Đế nhưng bà đã mất sau khi sinh chàng, chàng chẳng có thế lực gì ở hậu cung cả. Bên trong chàng phải đối mặt với hậu cung trùng trùng mưu toan, bên ngoài lại có đám huynh đệ như hổ đói rình rập, tự đáy lòng chàng cũng biết phụ vương chàng có thể tạm thời tin cậy chàng, nhưng về lâu về dài thì khó nói lắm. Để tự bảo vệ mình, chàng đành rong ruổi khắp nhân gian, gửi gắm tình cảm vào non xanh nước biếc. Mấy chục năm trước, nhân lúc thiên hạ thái bình, chàng định chấn chỉnh quân đội đề phòng sau này có biến nhưng Yến Long sợ chàng thừa cơ nắm lấy quân đội, bèn ra tay cản trở hết lần này sang lần khác. Chàng tưởng mình sẽ được Tuấn Đế ủng hộ, nào ngờ danh tiếng của chàng ở đại hoang quá tốt, khiến phụ vương chàng cũng phải kiêng dè, bởi vậy chàng đành gắng gượng kiềm chế nhẫn nhịn. Có điều bọn Yến Long chẳng chịu buông tha, còn toan kết mối hôn nhân với Nặc Nại nhằm thao túng Hy Hòa bộ đang nghiêng về phía chàng. Tuy chàng ngầm giúp Nặc Nại hủy bỏ hôn ước nhưng Tuấn Đế vì thế từ yêu thích đổi sang bất mãn với y, chàng cũng coi như đại tổn nguyên khí.”

Thiếu Hạo hỏi, “Những chuyện này Thanh Dương nói cho nàng biết ư?”

A Hành đáp: “Ai nói với thiếp không quan trọng, quan trọng là thiếp quả thật có thể giúp chàng. Thiếp có thể làm một Đại vương tử phi hoàn mỹ, mượn lực lượng của Hiên Viên tộc khiến bọn Yến Long không thể tranh đoạt vương vị với chàng nữa, sau này chàng có thể tùy ý điều động tướng sĩ Cao Tân tới trấn giữ các nơi nhằm bảo vệ mảnh đất tươi đẹp này, bảo vệ những con người cần cù lao động trên mảnh đất này.”

Thiếu Hạo càng lúc càng thêm sửng sốt.

Y chẳng lạ gì việc Hiên Viên Bạt nhìn thấu những nguy cơ trùng trùng ẩn sau vầng hào quang rực rỡ của Đại vương tử mà chỉ ngạc nhiên vì nàng biết được chí hướng của y. Trước kia y vốn xem nàng như em gái của Thanh Dương, cho rằng nàng chỉ là một thiếu nữ thuần phác ngây thơ, quật cường sôi nổi, nhưng giờ đây y chợt nhận ra mình đã nhìn lầm.

Thấy Thiếu Hạo chăm chú nhìn mình, A Hành ngỡ y không đồng ý bèn đột ngột thay đổi dung mạo, bắt chước giọng điệu của y, “Ngắm sao trời phải đứng dưới mặt đất, còn ngắm sao trên mặt đất đương nhiên phải bay lên trời! Xin hỏi công tử có bằng lòng cùng ta bảo vệ bức họa đồ tiên cảnh nhân gian này chăng?”

“Nàng là Tây Lăng công tử ư?” Thiếu Hạo kinh ngạc đến nỗi nói chẳng nên lời.

A Hành gật đầu, “Chính phải, tại hạ đã nói chúng ta nhất định còn gặp lại kia mà.”

“Sau khi Viêm Đế qua đời, cả đại hoang đồn rằng Tây Lăng công tử là đệ tử cuối cùng của Viêm Đế, nắm giữ Thần Nông bản thảo kinh, nàng có biết khắp thiên hạ bây giờ có bao nhiêu thần tiên và yêu quái đang lùng sục mình không hả?”

“Thiếp biết chứ, chính thiếp phao tin đó ra mà. Vân Tang đã đau khổ lắm rồi, thiếp chẳng muốn bọn chúng tới quấy rầy tỷ ấy nữa, vả lại đó cũng không phải lời đồn nhảm, Thần Nông bản thảo kinh quả thực đang nằm trong tay thiếp.”

Thiếu Hạo ngạc nhiên buông lời cảm thán, “Sao Viêm Đế lại giao Thần Nông bản thảo kinh cho nàng chứ? Nàng là con gái Hiên Viên Hoàng Đế mà!”

Có điều sự thật rành rành trước mắt, y không tin cũng chẳng được.

“Bây giờ chàng có bằng lòng liên minh với thiếp hay không?”

Thiếu Hạo thận trọng hỏi: “Đã kết liên minh thì đôi bên cùng có lợi, điều kiện của nàng là gì đây?”

“Điều thứ nhất, chúng ta chung giường nhưng không…” A Hành cắn môi đưa mắt nhìn vết thương trên tay Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo vốn chẳng phải kẻ háo sắc, y gượng cười đáp ngay: “Đồng ý, còn điều thứ hai?”

“Nếu một mai chàng trở thành Tuấn Đế, đừng phong thiếp làm vương hậu.”

Thiếu Hạo nhìn A Hành, “Đồng ý!”

“Thứ ba, sau khi chàng trở thành Tuấn Đế, xin chàng dùng uy quyền đế vương ban cho thiếp được tự do lựa chọn một lần, để thiếp được tự mình quyết định nên đi hay ở.” Đôi mắt A Hành long lanh lệ, từ khi sinh ra, nàng đã bị định sẵn rằng không thể tự mình lựa chọn, nhưng nàng vẫn muốn được tự do quyết định một lần.

Đây là lần đầu Thiếu Hạo hiểu được chút ít về con người A Hành, dường như có phần cảm động trước nàng, y gật đầu trang trọng hứa, “Ta đồng ý!”

A Hành nghiêm trang chìa tay cho y, “Từ nay về sau, chúng ta kết thành đồng minh đôi bên cùng có lợi, muốn nghi kị, lợi dụng hay đề phòng lẫn nhau gì cũng chẳng sao, miễn là tuân thủ đúng lời hứa!”

Thiếu Hạo lập tức hạ quyết tâm, “Được! Làm đồng minh, không làm vợ chồng!”

Y cùng A Hành đập tay ba lần, kết thành đồng minh.

A Hành như được giải thoát liền ngáp dài một cái, díp cả mắt vì buồn ngủ, “Cuối cùng thiếp cũng có thể yên tâm ngủ rồi.” Nàng nằm phịch xuống ngủ thiếp đi, chẳng bao lâu đã nghe tiếng ngáy khe khẽ.

Ánh trăng vằng vặc bên ngoài len qua rèm lụa tràn vào phòng khiến mặt đất long lanh như phủ một lớp sương ngà ngọc. Thiếu Hạo ngả mình nằm xuống, có lẽ sống trong cung đình Cao Tân, y đã quen lối nói vòng vo bóng gió, lâu lắm mới thẳng thắn đối thoại thế này nên chẳng thấy buồn ngủ nữa. Y cứ miên man nghĩ mãi câu nói khi nãy của A Hành: “Vợ tức là người phụ nữ duy nhất trong đời, dù được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy chìm nổi cũng không bao giờ rời xa, sống chết có nhau, chàng làm được chăng?” Vậy còn người chồng thì sao? Chồng cũng là người đàn ông duy nhất trong đời của vợ, dù được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy chìm nổi, người vợ vẫn sẽ tin tưởng y, yêu y, không rời xa y, cùng sống chết với y.

Thiếu Hạo bất chợt miên man nghĩ ngợi rồi bất chợt phá lên cười. Y không cần vợ mà cần ngôi báu, người phụ nữ đứng bên ngôi báu cũng chẳng thể là vợ, bởi ngôi báu quá nhỏ hẹp, không chứa nổi hai người sánh vai đứng cạnh nhau.

Sáng hôm sau, Thiếu Hạo đánh thức A Hành, “Dậy đi, nàng có biết phụ vương của hai ta muốn thấy gì không?”

A Hành thoáng ngẩn ra, dụi mắt rồi gật đầu lia lịa.

Dưới sự hầu hạ của các thị nữ, hai người cùng trở dậy, A Hành tươi cười ngồi xuống trước đài trang chải tóc.

Thiếu Hạo ngồi ngay bên cạnh vừa đọc sách vừa chuyện phiếm với nàng.

Đợi đám thị nữ trang điểm chải chuốt cho A Hành xong, Thiếu Hạo liền ngắt một đóa hải đường trong sân cài lên búi tóc nàng. A Hành thẹn thùng nói nhỏ: “Chàng đi giải quyết công việc đi thôi.”

Thiếu Hạo gật đầu nắm lấy tay nàng, ra đến cửa mới bịn rịn chia tay.

Đám thị nữ Hiên Viên và Cao Tân đều lén nhìn trộm hai người, mím môi cười vụng. A Hành mỉm cười quan sát bọn họ, lòng thầm thở dài.

Bán Hạ bưng trà đặt trước mặt A Hành, ngập ngừng nhìn nàng như có điều muốn nói. A Hành biết Bán Hạ thực tế là thuộc hạ của Đại ca, cũng đoán được cô ta định nói điều gì, bèn vờ như không thấy, cầm sách lên lật xem.

Tối hôm đó Thiếu Hạo về sớm dùng cơm với A Hành, sau bữa ăn lại cùng nhau đi dạo trong vườn. A Hành vui miệng thổ lộ rằng mình yêu hoa, thích một vườn hoa rộng thật rộng, hay nhất là quanh năm bốn mùa đều có hoa tươi. Nào ngờ Thiếu Hạo lập tức gọi tùy tùng tới sai họ tìm ngay bản thiết kế phủ đệ đưa đến phủ Nặc Nại, yêu cầu Nặc Nại thiết kế lại, kiến tạo một vườn hoa thật rộng cho vương tử phi, để nàng mở cửa liền thấy hoa, đóng cửa còn thơm ngát.

Xưa nay Thiếu Hạo vốn giản đơn tùy tiện, đây là lần đầu y xa hoa phô trương như vậy, khó trách đám người trong vương thất xì xầm không ngớt miệng.

Chẳng phụ tấm lòng Thiếu Hạo cùng công sức thiết kế của Nặc Nại, A Hành đã chăm sóc cho cả khu vườn nức tiếng xa gần, thêm vào đó, Tuấn Đế cũng ưa thích kì hoa dị thảo, cho rằng có thể tu dưỡng tính tình nên hết thảy hậu cung phi tần, danh gia vọng tộc đều đua nhau noi theo Tuấn Đế, vừa học phong nhã vừa lấy lòng đế vương. Hay tin Đại vương tử phi giỏi trồng hoa xén cỏ, họ bèn nườm nượp kéo tới học hỏi, thậm chí mấy phu nhân, tiểu thư bên Thường Hy bộ vốn bất hòa với Thiếu Hạo cũng đến gõ cửa xin gặp.

Sau khi ăn tối cùng nhau, Thiếu Hạo thường ngồi dưới đèn phê duyệt công văn các nơi gửi đến còn A Hành nghiêng mình nằm trên giường đọc sách y thuật. Mỗi lúc hoàng hôn, bọn họ lại sánh vai ngồi bên cửa sổ, Thiếu Hạo gảy đàn, A Hành chăm chú lắng nghe. Hễ cao hứng cả hai còn hái phù dung trong vườn ủ thành rượu Phù Dung dâng lên Tuấn Hậu.

Thiếu Hạo thích ủ rượu còn A Hành giỏi bình rượu, nàng có thể chỉ rõ điểm khác nhau giữa các loại rượu mà người khác không tài nào phân biệt được. Bát vương tử Quý Ly cũng vô cùng mê rượu, có lần Quý Ly bày tiệc tại phủ, cố ý để lẫn rượu Thiếu Hạo cất bao năm nay vào giữa đám rượu ngon thu thập khắp nơi trên đại hoang rồi mời Đại vương tử phi bình phẩm nhằm làm khó hai người, nào ngờ A Hành bịt mắt lại vẫn vạch rõ lai lịch từng loại một, đáng kinh ngạc hơn là nàng còn chỉ ra khuyết điểm trong từng loại rượu mà Thiếu Hạo ủ nên, khiến Thiếu Hạo xưa nay vẫn ung dung trấn tĩnh phải ngạc nhiên ra mặt,Quý Ly lại càng phục sát đất, mọi người cũng không ngớt trầm trồ.

Trong mắt mọi người ở Cao Tân, Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt quả là một đôi giai ngẫu trời sinh, ngay Yến Long cũng phải ao ước, “Những thứ khác chẳng nói làm gì, có điều vận số Đại ca may quá, toàn vơ được chuyện hay ho, vốn chỉ là hôn nhân chính trị giữa hai vương tộc, không lạnh nhạt thờ ơ với nhau đã là giỏi lắm rồi, vậy mà y lại tìm được kẻ tâm đầu ý hợp nữa chứ.”

Có lần quần thần nghị sự trong đại điện đến tối muộn, Tuấn Đế vừa lệnh cho mọi người giải tán, Thiếu Hạo đã xăm xăm bước ra cửa, Tuấn Đế gọi y, y cũng chẳng nghe thấy, mãi tới khi bị thị vệ gọi lại y mới giật mình hoảng hốt, Tuấn Đế bèn hỏi: “Con mải nghĩ gì thế?”

Thiếu Hạo khẽ thưa: “Mấy hôm trước A Hành làm món dưa muối như ở quê nàng, hôm nay bắt đầu mở vại dưa. Ban sáng trước khi đi con đã dặn nàng chờ con về rồi cùng ăn, nào ngờ hôm nay nghị sự muộn thế này, e rằng nàng đợi cơm lại đói.”

Tuấn Đế không lấy thế làm điều, trái lại còn bật cười nói với chúng thần: “Các người xem, khi trước thằng bé này chẳng bao giờ sai sót mảy may nào, từ hồi lấy vợ mới bắt đầu có điểm giống người thường.”

Cả triều đình rộ lên cười, mọi người còn truyền tai nhau như câu chuyện vui, từ đó, Thiếu Hạo nổi tiếng khắp nơi trong triều ngoài nội là yêu vợ, cả đại hoang đều biết Thiếu Hạo cùng Hiên Viên Bạt ân ái mặn nồng.

Những chuyện rủ rỉ phòng khuê đó truyền đến Thần Nông đương nhiên Xi Vưu đều nghe không sót một lời, từng câu từng chữ như từng lưỡi kiếm nhọn hoắt rạch vào tim hắn, máu chảy đầm đìa. A Hành vốn chỉ định đóng kịch nhằm qua mặt phụ vương tinh minh của mình, nào ngờ những điều vụn vặt đó lại làm Xi Vưu tổn thương sâu sắc, khoét sâu thêm hiểu lầm giữa hai người.

Hết chương 12.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 5-5-2014 07:43 AM
Chương 13


Gió thu se sắt lùa biên ải [1].


13.1


Y đặt mảnh sọ còn sót lại của Vân Trạch xuống trước mặt mẹ. Luy Tổ chẳng hề khóc lóc kêu gào, chỉ đờ đẫn nâng mảnh sọ lên ôm vào lòng, luôn tay ve vuốt, miệng mấp máy, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bà đang hát ru, “À ơi, thỏ chạy tung tăng, ngựa phi lộp cộp, ơi con cưng của mẹ, không đau đâu mà…”

Nóng lui lạnh tới, vắng thỏ bặt chim, chớp mắt đã cuối thu.

Như thường lệ, sau khi cùng dùng bữa tối, A Hành và Thiếu Hạo ở chung một phòng, ai làm việc nấy.


A Hành đang đọc sách y, chợt ngẩng lên thấy Thiếu Hạo chăm chú nhìn mình, bèn gập sách lại hỏi, “Sao thế? Chàng muốn đi nghỉ rồi à?”

Thiếu Hạo đáp: “Du Võng đang tập kết đại quân, e rằng sắp tới sẽ tấn công Hiên Viên. Theo thám tử Cao Tân báo về thì Du Võng muốn đòi lại vùng đất khi xưa bị Hiên Viên lừa gạt chiếm mất. Nàng thấy sao?”

“Sao lại muốn nghe ý kiến của thiếp? Thiếp đâu có dẫn quân tác chiến!”

“Trên bàn cờ gió mây vần vũ, hai người chúng ta chỉ là những con cờ bị lợi dụng mà thôi, nếu không cam lòng làm con cờ thì phải cố gắng vươn lên, hơn nữa, để được ta xem trọng, nàng buộc phải có năng lực khiến ta nể vì.”

A Hành lập tức ngồi thẳng dậy, ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi: “Sao Du Võng vội vã động binh với Hiên Viên thế? Y vừa đăng cơ được mấy tháng, vương vị còn ngồi chưa vững kia mà.”

Thiếu Hạo đáp: “Chính vì ngồi chưa vững nên y mới buộc phải động binh.”

A Hành ngạc nhiên, liền khiêm nhường thỉnh giáo: “Xin rửa tai lắng nghe.”

“Hiên Viên tộc sau khi lập quốc đất đai cằn cỗi nên vẫn luôn khuếch trương về phía Đông, xâm lấn không ít lãnh địa của Thần Nông, Vương tộc Thần Nông nằm giữa Trung nguyên, Hiên Viên chẳng xâm phạm được đến lợi ích của họ nhưng các nước chư hầu của Thần Nông phải gánh thiệt hại nặng nề, đem lòng căm hận Hiên Viên đã lâu. Chẳng qua khi xưa họ e ngại Viêm Đế đời trước đức cao vọng trọng, không dám gây chiến, còn bây giờ họ có sợ gì Du Võng, ắt hẳn đã liên kết với nhau xin phát binh, lại được mấy đại tướng nắm giữ binh quyền như Chúc Dung, Cộng Công đứng bên thêm dầu vào lửa, tát nước theo mưa nữa. Nếu thua trận, bọn Chúc Dung sẽ tha hồ đổ tại Du Võng dốt nát vô dụng còn nếu thắng, chúng vừa được lòng quân sĩ, lại được cả sự hỗ trợ từ các chư hầu. Lúc này Du Võng chưa ngồi vững trên vương vị, lại thêm bản tính thiếu quyết đoán, dưới sự ép buộc của quần thần, đành chịu để họ thao túng thôi.”

A Hành thở dài, “ Mọi người đều cho rằng đế vương muốn gì làm nấy, mấy ai biết được đế vương cũng luôn luôn bị kìm hãm, nhưng mà…”

“Nhưng mà làm sao?”

Để thăm dò tin tức về Xi Vưu, A Hành đành nghiến răng làm bộ bình thản nói: “Nhưng bên cạnh Du Võng còn có Xi Vưu hỗ trợ, bằng vào tính tình Xi Vưu, hắn chẳng chịu để kẻ khác thao túng cắt đặt đâu.”

Thiếu Hạo thản nhiên đáp, giọng điệu vẫn điềm đạm như cũ: “Nàng nói phải, có điều bây giờ không đến lượt hắn làm chủ.”

Nghĩ đến Xi Vưu hiện giờ chỉ có một chức quan hữu danh vô thực, chẳng thể khống chế cục diện triều đình, A Hành không khỏi than thầm.

Thiếu Hạo nói tiếp: “Du Võng hiện giờ chỉ giống được Viêm Đế đời trước ở lòng nhân đức, chứ mưu trí và quyết đoán thì thua xa, hầu như cả đại hoang đều cho rằng Viêm Đế phong Xi Vưu làm Đốc Quốc Đại tướng quân là để bổ sung cho khiếm khuyết của Du Võng, nhưng ta lại thấy Viêm Đế còn có dụng ý sâu xa hơn kia.”

“Dụng ý sâu xa hơn ư?”

“Mấy vạn năm trước, thực lực Cao Tân vốn vượt xa Thần Nông, Viêm Đế đời thứ ba của Thần Nông là người nhìn ra trông rộng, lại vô cùng quyết đoán, đã bỏ lệ phong đất cho những người trong họ tộc, mà thi hành luật mới, bất kể có phải người trong vương thất hay không, cũng chẳng cần câu nệ là thần hay người, miễn lập công cho Thần Nông thì sẽ được phong vương, được toàn quyền thu thuế trên đất phong của mình. Nhờ cải cách đó mà lớp lớp anh hùng xuất hiện ở Thần Nông, vận nước càng lúc càng hưng thịnh, dần dần áp đảo cả Cao Tân. Nhưng về lâu về dài, chế độ phong vương cho người khác họ dần dà để lộ nhược điểm, các nước chư hầu cha truyền con nối rồi kết mối thông gia với nhau, thế lực cũng đan cài vào nhau, khó tránh chỉ tin dùng người thân của mình, con em các nhà quý tộc rất dễ trở thành tướng quân hay quan lớn, còn những kẻ xuất thân bần hàn thì khó mà cất mặt lên được. Kẻ tài hoa tuyệt thế thường ẩn giữa đám tiện dân, nhưng vì thể chế hủ hậu nên chẳng những không có cơ hội thi thố tài năng mà còn bị đám con cháu quý tộc làm nhục, trong lòng họ hẳn đã dồn nén rất nhiều uất ức, một khi bị kích động sẽ trở nên vô cùng đáng sợ.”

Nghe tới đây A Hành dần hiểu ý Thiếu Hạo, bèn tiếp lời: “Xi Vưu xuất thân tiện dân, không có huyết thống quý tộc nhưng hắn chính là niềm hy vọng lập công dựng nghiệp, thi thố tài năng của những người tài xuất thân hèn kém, họ sẽ tự động tụ họp lại dưới cờ của hắn, để cho hắn dẫn dắt. Nhờ luồng sinh khí mới này, Thần Nông quốc mới có thể tìm lại được phong quang thuở trước, đây là dụng ý thật sự của Viêm Đế!”

Thiếu Hạo gật đầu cười, chẳng hiểu là tán thưởng A Hành nhìn thấu sự việc hay khâm phục tầm nhìn của Viêm Đế, “Xi Vưu tính tình ngông cuồng phóng túng, xem thường quy tắc thế tục nhưng lại rất trọng tình trọng nghĩa, anh dũng mưu trí, chính là bậc minh chủ của những con người nghèo khổ ấy, sớm muộn sẽ có ngày bọn họ liều mạng vì hắn. Chừng đó hắn mới có thể trở thành Đốc Quốc Đại tướng quân thật sự, vung kiếm chỉ huy thiên quân vạn mã.”

A Hành nghe đến chấn động cả tâm thần, vừa mừng vừa lo nói: “Thần Nông nằm giữa Trung nguyên, đất đai màu mỡ, sản vật phong phú, dân chúng đông đảo, nếu lại thêm một minh quân biết khai thác triệt để sản vật cũng như tận dụng mọi khả năng của người tài thì chẳng kẻ địch nào dám động vào nữa cả.”

Thiếu Hạo nghiêm mặt, “Dân số Thần Nông gấp đôi Cao Tân, lại sẵn địa hình hiểm trở, đâu đâu cũng là cửa ải dễ thủ khó công, trong khi Cao Tân toàn đồng bằng bát ngát, chỉ có sông nước là bức bình phong thiên nhiên bao quanh che chở, một khi Thần Nông tộc vượt sông thì ngày vong quốc của Cao Tân đã điểm.”

Tâm trạng A Hành cũng trở nên nặng nề. Hiên Viên tuy địa hình phức tạp, khí hậu đa dạng, cũng có nhiều quan ải để chống giặc, nhưng tiếc rằng đất đai cằn cỗi, sản vật nghèo nàn, dù bao năm nay phụ vương nàng dốc sức bù trì, sửa đê khai khẩn nhưng vẫn chẳng bì được với mảnh đất Trung nguyên một năm hai vụ mùa.

Thiếu Hạo khẽ thở dài, “Thật ra những khuyết điểm đó đều khắc phục được cả, điểm yếu chí mạng của Cao Tân chính là thể chế cứng nhắc đến bất di bất dịch ngàn vạn năm nay, chỉ coi trọng dòng dõi và huyết thống, nghiêm cấm kết hôn giữa những người không cùng giai cấp, triều chính thì bị con em vương tộc cùng bốn bộ Thanh Long, Thường Hy, Hy Hòa, Bạch Hổ lũng đoạn, khiến bao kẻ có tài trong Thần tộc, Nhân tộc hay Yêu tộc phải ôm hận bỏ đi. Tri Mạt, đệ nhất công thần của phụ vương nàng vốn thuộc Yêu tộc Cao Tân, vì xuất thân thấp kém nên bị người Cao Tân phỉ nhổ, ấy vậy mà y lại có thể theo phò tá phụ vương nàng dựng nên hùng đồ bá nghiệp tại Hiên Viên, được tôn xưng làm Đế sư.”

Nghĩ tới vận mệnh tương lai của hai đất nước, A Hành và Thiếu Hạo đều nghe lòng ngổn ngang trăm mối.

A Hành chợt hỏi: “Nếu bây giờ Thần Nông tuyên chiến với Hiên Viên, liệu Cao Tân có tham chiến không?”

Thiếu Hạo bình thản đáp: “Không đâu! Ta rất muốn biết lực lượng tích lũy suốt mấy ngàn năm nay của Hiên Viên ra sao, giờ đã có Thần Nông xung phong do thám hộ, Cao Tân đương nhiên sẽ khoanh tay đứng nhìn. Dù Hoàng Đế tới thuyết phục phụ vương tham chiến, ta cũng nhất định khuyên can!”

A Hành gượng cười: “Chàng có cần thẳng thắn đến thế không?”

“Khi nào cần dối gạt, ta sẵn sàng nói dối không chớp mắt, nhưng chuyện này không cần phải thế, dù sao nàng cũng nhận ra ngay ấy mà!”

A Hành chợt hiểu vì sao Đại ca và Thiếu Hạo có thể thành bạn thân, hai người bọn họ đều có thái độ thẳng thắn đến gần như tàn khốc. Nàng liếc đồng hồ nước rồi đứng dậy gom sách vở lại, “Chúng ta đi nghỉ thôi!”

Thiếu Hạo cùng A Hành nằm song song trên giường, cách nhau ít nhất hai thước.

A Hành bỗng lên tiếng: “Sáng mai thiếp định tới gặp phụ vương và mẫu hậu, xin hai người cho phép xuất cung. Chàng nói giúp thiếp mấy lời được chăng?”

“E rằng khó đấy. Cao Tân là Thần tộc từ thượng cổ, được xưng là dân tộc có lễ giáo, phong tục cổ hủ, phép tắc nghiêm ngặt, đừng nói là vương tử phi, ngay đến vương hậu cũng không thể tùy tiện ra ngoài.”

“Phụ vương cho thiếp mang theo ba ngàn tằm giống, nghe nói vì không hợp thủy thổ nên đã chết mất một nửa. Thiếp định nói rõ với phụ vương xin xuất cung khảo sát thủy thổ dân tình các nơi, chọn ra giống tằm Cao Tân phù hợp.”

Thiếu Hạo nghĩ ngợi một hồi đoạn nói: “Phụ vương tính tình nho nhã, chỉ thích thư họa ca múa, lại rất dịu dàng chiều chuộng phụ nữ nên chủ yếu khó khăn về phía vương hậu thôi, phụ vương đâu có để tâm chuyện hậu cung. Có điều vải vóc của Cao Tân đều trông cả vào đó, nếu sản lượng thấp sẽ khiến chất lượng vải kém đi, mặc lên người không thoải mái. Nguyên liệu dệt nên tơ lụa cho vương thất quý tộc Cao Tân mấy ngàn năm nay đều phải mua từ Hiên Viên, đây là khoản chi phí rất lớn, chúng ta cứ vin vào đó mà thỉnh cầu, hẳn phụ vương sẽ ủng hộ nàng, vương hậu cũng chẳng thể không nhượng bộ.’

“Cảm ơn chàng!”

Trong bóng tối, cả hai người đều làm thinh, qua một hồi lâu, Thiếu Hạo mới nói khẽ: “Cảm ơn nàng chịu dạy dân chúng Cao Tân chăn tằm dệt vải!”

“Chàng đừng quên chúng ta là đồng minh, hiện giờ thiếp đang là Đại vương tử phi của Cao Tân, đây cũng là việc nên làm thôi mà.”

A Hành trở mình quay lưng về phía Thiếu Hạo, Thiếu Hạo cũng trở mình, quay lưng lại phía A Hành.

Nhờ Thiếu Hạo giúp đỡ, A Hành đã được Tuấn Đế cho phép ra vào Ngũ Thần sơn, tuy nhiên phải có thị nữ và thị vệ đi cùng. Dù hiện tại chẳng được tự do như lúc ở Hiên Viên, nhưng nàng cũng hài lòng với kết qủa này lắm rồi.

Ngày tháng thấm thoắt trôi đi sau vẻ ngoài yên ả.

Cuối năm đó, Viêm Đế Du Võng phái sứ giả tới yết kiến Hoàng Đế, đòi Hoàng Đế trả lại phần đất đã xâm lấn của Thần Nông, bị Hoàng Đế cự tuyệt yêu cầu.

Trước trăm quan Thần Nông trên đỉnh Tử Kim, Viêm Đế tuyên bố chính thức khai chiến với Hiên Viên, giành lại lãnh thổ đã bị Hiên Viên lừa gạt chiếm giữ.

Cả triều đường sục sôi hào khí, các chiến sĩ trẻ chỉ mong được lấy máu mình rửa nhục cho tổ tiên, dưới thời Viêm Đế đời thứ bảy, nguyện vọng này không sao thực hiện được, nhưng đến thời Viêm Đế đời thứ tám, cuối cùng cũng đã đạt thành.

Chúc Dung được phong làm Chinh Tây Tường quân, dẫn năm trăm chiến binh Thần tộc, ba ngàn chiến binh Yêu tộc cùng năm vạn chiến binh Nhân tộc tiến đánh Hiên Viên, giành lại lãnh thổ bị xâm lấn.

Trận đầu tiên là mấu chốt để củng cố sĩ khí toàn quốc gia, có thể nói chỉ được thắng, không được bại nên A Hành đoán rằng phụ vương sẽ phái Đại ca Thanh Dương thống lĩnh ba quân chặn địch, nào ngờ Đại tướng quân chỉ huy quân đội Hiên Viên lại là Tam ca Hiên Viên Huy.

Hiên Viên Huy là con trai Tam phi Đổng Ngư thị, A Hành rất hiếm khi gặp vị ca ca này, cũng chẳng biết gì về năng lực của y.

Nàng liền đem thắc mắc hỏi Thiếu Hạo: “Sao phụ vương không phái Đại ca nhỉ? Chúc Dung hiệu là Hỏa thần, chuyên điều khiển lửa, tới lúc then chốt nhất định sẽ bày Hỏa trận, lấy lửa đánh thành, mà băng tuyết của Đại ca lại vừa khéo khắc chế được lửa của hắn.”

Đang đánh đàn chợt nghe A Hành hỏi vậy, Thiếu Hạo vừa gảy tiếp vừa đáp: “Nếu bây giờ Thần Nông tấn công Cao Tân, phụ vương cũng chẳng phái ta đi nghênh địch đâu.”

A Hành nghĩ ngợi một lát rồi nói, vẻ không muốn tin: “Sao phụ vương lại nghi kị Đại ca chứ? Đại ca là do phụ vương một tay dạy dỗ kia mà!”

Thiếu Hạo thản nhiên: “Khi con cái còn nhỏ, vẫn đang là con mình, Hoàng Đế thân làm cha đương nhiên sẽ dốc tâm huyết dạy dỗ nên một đứa con tài giỏi, nhưng dần dần con cái sẽ lớn lên, trở thành bề tôi, Hoàng Đế thân làm đế vương, hiển nhiên không thể để một bề tôi thâu tóm tất cả được, ông ta vẫn làm những việc nên làm ở từng địa vị khác nhau đấy chứ.”

A Hành dễ dàng chấp nhận việc Tuấn Đế nghi kỵ Thiếu Hạo nhưng lại khó mà chịu được cảnh phụ vương kiêng dè Đại ca, xem ra người ta chỉ có thể bình tĩnh trước những sự việc không can hệ tới mình thôi.

Tựa hồ rất hiểu cảm giác của nàng, Thiếu Hạo chỉ chăm chú gảy đàn, mặc A Hành ngây người ngồi đó.

Một hồi lâu sau, A Hành mới khó nhọc cất tiếng: “Chàng và Đại ca thật không hổ là bạn bè đồng cảnh ngộ, người ngoài đều kính trọng hai người như tuyệt thế anh hùng đời nay, còn người nhà lại chỉ chăm chăm đề phòng các vị hệt loạn thần tặc tử!”

Thiếu Hạo ngừng tay đàn, ngẫm lại lời A Hành vừa nói rồi bật cười: “Thật ra Thanh Dương còn khổ sở hơn ta.” Thấy A Hành ngơ ngơ ngác ngác, y nói tiếp: “Sau này từ từ nàng sẽ hiểu.”

Chúc Dung chia quân làm hai ngả tấn công biên giới phía Tây của Hiên Viên, bao vây ải Đồng Nhĩ, Hiên Viên Huy nhớ kỹ lời Hoàng Đế dặn dò, cứ giữ chặt trong thành không ra ngoài.

Ải Đồng Nhĩ dễ thủ khó công, Hiên Viên huy lại một mực cố thủ trong thành câu giờ, cứ theo tính khí nóng nảy của Chúc Dung thì sớm muộn gì cũng sơ sảy, chỉ cần hắn sơ sảy, Hiên Viên sẽ lập tức phản công.

Giữ thành thoạt nhìn có vẻ dễ dàng nhưng trải qua bao triều đại, danh tướng thạo công thành thì nhiều chứ giỏi giữ thành thì chẳng có mấy ai. Thủ thành thực ra là tâm lý chiến, thời gian kéo dài, quân Thần Nông từ xa tới sốt ruột đã đành, ngay cả quân Hiên Viên cũng thấy mệt mỏi. Để ép Hiên Viên động binh nghênh chiến, quân Thần Nông đã giở ra đủ mọi thủ đoạn. Trước sự khiêu khích của Thần Nông, binh sĩ Hiên Viên, hầu hết đều là những trang nam nhi bừng bừng nhiệt huyết, chỉ hận không thể xông ra quyết một trận sống mái với Thần Nông nhưng Hiên Viên Huy cứ lần lữa chẳng chịu nghênh chiến, dần dà khiến lòng quân oán thán.

Ba quân bắt đầu nảy sinh lời ong tiếng ve, nói Hiên Viên Huy hèn nhát, chỉ giỏi làm rùa rút đầu trong thành, nếu đổi lại là Đại điện hạ Thanh Dương hẳn đã đánh cho Chúc Dung tan tác từ lâu.

Hiên Viên Huy vốn đã mất hết kiên nhẫn lại nghe được những lời xì xầm của thuộc hạ, nhớ tới lời mẹ tha thiết dặn dò trước khi ra trận, lòng càng hoảng loạn hơn.

Trước lúc ra đi, Đổng Ngư thị mẹ y đã gọi y cùng Cửu đệ Di Bành lại bảo, “Có vài chuyện xưa nay mẹ vẫn giấu các con, giờ đây hai đứa đã lớn cả, cũng nên cho các con được biết. Ta và người đàn bà trên Triêu Vân phong kia sớm muộn gì cũng có ngày phải sống mái với nhau, bà ta không chết thì ta chết. Nếu Thanh Dương kế thừa vương vị thì ba mẹ con ta chỉ có đường tự tử thôi.”

Di Bành bất lực khuyên nhủ, “Mẹ à, mấy chuyện đó qua lâu rồi mà. Bây giờ Đại ca tốt với chúng con lắm, mẹ cứ canh cánh bên lòng chuyện cũ làm gì?”

“Tốt lắm ư?” Đổng Ngư thị giáng cho Di Bành một bạt tai, “Ta bảo con phải đề phòng nó bao nhiêu lần rồi kia mà? Con cứ hồ đồ như thế, sớm muộn cũng có ngày chết về tay nó cho xem! Nó đã thò lưỡi rắn vào miệng con mà con vẫn coi nó là anh em tốt à? Nếu con giúp Tam ca con một tay thì Thanh Dương đâu thể bành trướng thế lực như bây giờ?”

Dường như đã hoàn toàn thất vọng với Di Bành, Đổng Ngư thị quay sang buồn bã nhìn Hiên Viên Huy, “Huy nhi, lần này con ra quân nhất định phải thắng lợi! Đây là thời cơ ngàn năm có một của mẹ con ta, chỉ thắng trận con mới có thể được phụ vương trọng dụng, con nhớ nhé, nhất định phải chứng minh năng lực của con không kém gì Thanh Dương, phải thể hiện với phụ vương rằng con mới là đứa con trai ưu tú nhất của Người.”

Hiên Viên Huy chẳng biết đáp sao cho phải, đành quỳ xuống dập đầu, “Xin mẹ yên tâm, con nhất định sẽ dốc hết toàn lực.”

Lời hứa với mẹ vẫn đè nặng trong lòng, từng giờ từng phút nhắc nhở y. Chuyện này liên quan tới sự sống chết của ba mẹ con y nên y nhất định phải thắng, nhất định thế!

Hai tên thuộc hạ nôn nóng lập công đã nhận ra tâm tình xáo trộn của Hiên Viên Huy, liền xúi y mở cổng thành nghênh chiến, “Chúc Dung bôn ba đường xa tới đây, lại giằng co bao lâu nay, hẳn người ngựa đều mệt nhoài cả rồi, chúng ta lấy nhàn chống mệt, nhân sĩ khí bây giờ đang vượng, thừa lúc đêm khuya đánh úp một mẻ nhất định sẽ lập được công lớn.”

Hiên Viên Huy đang cần lập công lớn để khẳng định bản thân, vừa nghe đến “nhất định sẽ lập được công lớn” đã thấy nhiệt huyết trào lên, vội hạ quyết tâm ngay.

Y liền triệu tập các tướng lại bàn kế nửa đêm đánh úp Chúc Dung, tướng lĩnh thảy đều đồng tình, duy chỉ có quan chủ quản vận lương là Ứng Long kiên quyết phản đối, nhưng Hiên Viên Huy chẳng để vào tai, còn khiển trách Ứng Long: “Ngươi chỉ là một tên Yêu tộc nhãi nhép, lấy tư cách gì nói càn trước mặt các đại tướng Thần tộc bọn ta?”

Hết thảy tướng lĩnh Thần tộc trong phòng đều cười rộ lên, Ứng Long thấy vậy đành cúi đầu im lặng.

Nửa đêm Hiên Viên Huy đích thân dẫn theo tinh anh Thần tộc đánh úp Chúc Dung, còn bố trí mấy vạn đại quân Nhân tộc vây bủa bên ngoài sẵn sàng truy quét quân Thần Nông trốn chạy.

Mọi chuyện đều nằm trong dự liệu của Hiên Viên, đại quân Chúc Dung hầu như không hề đề phòng, vừa đánh đã bỏ chạy tán loạn.

Thấy ngọn cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm của Chúc Dung chạy về hướng Bắc, nơi chỉ có một dải đồng bằng bao la, hoàn toàn không thể phòng thủ, Hiên Viên Huy mừng rỡ khôn cùng, thầm nghĩ nếu giết được Chúc Dung, hẳn sáng mai thôi là mình nổi danh khắp đại hoang, rồi y lại lan man nghĩ tới Hiên Viên Thanh Dương, nghĩ tới phụ vương, nghĩ tới mẹ… Vì quá hăng hái, y quên khuấy cả thận trọng, chỉ lo tập trung tất cả quân đội Thần tộc đuổi giết Chúc Dung.

Bọn Hiên Viên Huy vừa đuổi tới nơi, đột nhiên lá cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm phân ra thành năm ngọn lửa, bập bùng vờn quanh. Hiên Viên Huy cười nhạt, biết Chúc Dung chuyên dùng hỏa công, y đã có chuẩn bị sẵn, bèn lệnh cho quân đội Hiên Viên bày trận hô mưa.

Chúc Dung cưỡi trên Tất Phương điểu lắc đầu cười, mỗi trận pháp không chỉ dựa vào tinh lực của Thần tộc mà còn phải biết cách vận dụng linh hoạt, hiện giờ đang giữa tháng Chạp đông giá, vùng này lại khô hạn lâu ngày, rõ ràng là địa điểm tốt để bày trận hỏa công, chứ hô mưa làm sao nổi.

Thần Nông thoạt nhìn như thể đang bỏ chạy tán loạn nhưng thực tế ai nấy đều đã ổn định vị trí đâu vào đó, Chúc Dung ngồi giữa trận thúc động linh lực, chỉ trong chớp mắt, ngọn lửa bắt đầu rần rật khắp vùng.

Hiên Viên Huy cũng lệnh cho các tướng sĩ hô mưa, nhưng thế trận của Hiên Viên bị vây giữa thế trận của Chúc Dung, linh khí trời đất ở đây lại hợp hỏa chứ không hợp thủy, dần dà, mưa của họ càng lúc càng nhỏ lại, trong khi lửa của Chúc Dung mỗi lúc một lớn, như muốn nuốt chửng quân địch.

Hiên Viên Huy bắt đầu hoảng sợ.

Hai bên giao tranh, bên nào dũng cảm hơn thì thắng! Chủ tướng vừa hoảng hốt, lòng quân lập tức hoang mang, binh lính bỏ chạy tán loạn, trận pháp liền tan vỡ. Quân Hiên Viên bỏ chạy càng lúc càng đông, nhưng trên trời dưới đất đâu đâu cũng có binh lính Thần Nông trấn giữ, thấy kẻ nào giết kẻ nấy.

Nhận ra mình đang bị lửa đỏ bao vây, Hiên Viên Huy toan cưỡi tọa kỵ bỏ trốn, nào ngờ Chúc Dung đã giáng Lôi Đình hỏa ép y phải đáp xuống đất.

Thế lửa càng lúc càng mạnh, tọa kỵ của Hiên Viên Huy thất kinh, giằng cương chạy trốn, chẳng buồn nghe lệnh y nữa.

Mất đi tọa kỵ, Hiên Viên Huy chỉ biết chạy tới chạy lui giữa hỏa trận, vận linh lực xua tan từng luồng hơi nóng, có điều hảo trận này do năm trăm Thần binh của Thần Nông chung sức tạo thành, lại được Hỏa thần Chúc Dung dốc toàn lực điều khiển, linh lực của Hiên Viên Huy làm sao chống nổi.

Dần dà y cạn kiệt linh lực, bị U Minh hỏa xâm nhập thân thể, thiêu đốt ruột gan, khắp người từ trong ra ngoài đều đỏ rực lên, phải gào thảm xin tha.

Chúc Dung đứng trên Tất Phương điểu nhìn xuống thấy hết mọi chuyện, đắc ý cười ha hả.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 5-5-2014 07:49 AM
Chương 13


Gió thu se sắt lùa biên ải [1].


13.2


Từ xa trông lại, thấy ánh lửa đỏ rực trời, Ứng Long biết đại cuộc đã hết cách cứu vãn, lập tức lệnh cho một đội quân Yêu tộc thông thuộc địa hình dẫn theo đại quân Nhân tộc rút lui. Còn y cùng hai ngàn quân Yêu tộc đóng ở hai bên sườn núi, vừa bắn tên yểm trợ đại quân Nhân tộc vừa lợi dụng dòng sông trong sơn cốc bố trí một trận thủy nhỏ, ngăn cản quân Thần Nông truy sát.

Chém giết suốt một đêm, đến nỗi trời đất cũng thành ra u ám, binh lính phơi thây đầy nội.

Trời vừa sáng, tin ải Đồng Nhĩ thất thủ đã truyền về Hiên Viên thành.

Toàn bộ tướng sĩ Thần tộc do Hiên Viên Huy dẫn đầu đều bị tiêu diệt, Yêu tộc thương vong nặng nề, Nhân tộc nhờ trốn vào núi sâu nên chẳng tổn thương một binh một tốt, quả là kỳ tích.

Hoàng Đế nghe trình tấu mà run rẩy cả người, ngồi phịch xuống ghế, không nói nổi một lời, hồi lâu mới trầm giọng ra lệnh: “Lập tức lôi tên Ứng Long lâm trận bỏ chạy xử tử, tất cả lính đào ngũ đều biến làm nô lệ, bắt làm lao dịch trong quân.”

Thanh Dương biết Hoàng Đế vì mất con mà đau lòng quá độ, sinh ra căm phẫn nên chẳng dám khuyên giải, chỉ đỡ lời: “Ứng Long chết không đủ đền tội, có điều hắn đã tận mắt chứng kiến trận chiến, lời nói ra là đáng tin nhất, chi bằng giải hắn về đây hỏi rõ tình hình quân địch rồi xử tử cũng chẳng muộn.”

Hoàng Đế chẳng còn sức mà lên tiếng nữa, chỉ xua tay tỏ ý Thanh Dương cứ toàn quyền quyết xử lý.

Thanh Dương nhận lệnh bước ra, bảo thị nữ Chu Du: “Ngươi lập tức tới biên giới cùng các quan viên áp giải Ứng Long về đây, nhớ chăm sóc cho hắn tử tế, dọc đường nhất định phải tôn trọng hắn, tuyệt đối không được thất lễ.”

Chu Du ngỡ ngàng, “Tại sao phải thế ạ? Chẳng phải hắn chết đến nơi rồi sao?”

Thanh Dương giải thích: “Chúc Dung thần lực cao cường, được tôn làm Hỏa thần. Ứng Long chỉ có hai ngàn quân Yêu tộc mà dám giao tranh với Chúc Dung, lợi dụng địa thế bảo toàn được tướng sĩ Nhân tộc, để cho Yêu tộc thương vong nặng nề, có thể nói là một viên tướng tài hiếm thấy, hội tụ đủ cả nhân, trí, dũng, tuy hiện giờ phụ vương đau lòng quá độ thành ra sơ suất nhưng khi bình tĩnh lại nhất định sẽ nghĩ thông mà trọng dụng hắn.”

Đang nói chợt y trông thấy Tam phi Đổng Ngư thị tóc tai rũ rượi nhào xuống khỏi xe loan, hai chân xỏ hai chiếc hài cọc cạch, hiển nhiên vừa nghe tin đã chạy đến đây xác nhận ngay, chẳng kịp rửa mặt chải đầu.

Đồng Ngư thị vừa chạy vừa gào lên thảm thiết, “Bệ hạ, bọn chúng nói láo, bọn chúng phao tin đồn nhảm…” Trông thấy Thanh Dương, bà ta liền trợn tròn mắt, căm hận nói, “Ngươi, nhất định là ngươi. Có phải là qủy kế của ngươi không? Ta biết ngươi muốn hại chết chúng từ lâu rồi, ngươi muốn báo thù cho Vân Trạch, là ngươi hại chết Huy nhi…” Bà ta vừa kêu khóc vừa lao tới đánh Thanh Dương, đám thị nữ phải cản lại.

Chu Du tái mặt sợ hãi nhưng Thanh Dương chẳng lấy đó làm điều, chỉ cung kính hành lễ với Đổng Ngư thị rồi lập tức bỏ đi.

Tiếng khóc thảm thiết của Đổng Ngư thị còn văng vẳng sau lưng y, “Huy nhi không việc gì, Huy nhi sẽ không việc gì đâu…”

Những lời này sao nghe quen đến thế…

Hơn ngàn năm trước, mẹ y cũng từng tái mét mặt khi đứng trước mặt y, luôn miệng lẩm bẩm: “Vân Trạch không việc gì, Vân Trạch sẽ không việc gì đâu…”

Bà tuyệt vọng nắm chặt lấy tay y, như thể cầu xin y khẳng định với mình “Vân Trạch không việc gì đâu”.

Y cũng muốn an ủi mẹ bằng câu “Mẹ yên lòng, Vân Trạch không sao đâu” biết bao, nhưng chẳng làm sao cất nổi lời, chỉ biết lặng lẽ quỳ trước mặt bà dập đầu thật mạnh, ra sức dập đầu.

Mẹ y nhũn người ra như bị rút hết gân cốt, ngồi phệt xuống đất.

Y đặt mảnh sọ còn sót lại của Vân Trạch xuống trước mặt mẹ.

Luy Tổ chẳng hề khóc lóc kêu gào, chỉ đờ đẫn nâng mảnh sọ lên ôm vào lòng, luôn tay ve vuốt, miệng mấp máy, lắng tai nghe kỹ mới nhận ra bà đang hát ru, “À ơi, thỏ chạy tung tăng, ngựa phi lộp cộp, ơi con cưng của mẹ, không đau đâu mà…”

Thanh Dương còn nhớ thuở nhỏ Vân Trạch rất sợ đau, hễ trượt chân hay vấp ngã là khóc òa lên, lần nào như lần nấy mẹ đều ôm Vân Trạch vào lòng khe khẽ ru hời, Vân Trạch sợ đau như vậy mà lại bị thiêu sống đến chết.

Ánh mắt Thanh Dương buốt lạnh, khóe miệng càng lúc càng mím chặt.

Tin đại quân Hiên Viên bị tiêu diệt, một vị vương tử bỏ mình truyền đến Cao Tân, khiến triều đình nhốn nháo cả lên.

Quan viên trong triều kẻ chủ trương phái binh chi viện Hiên Viên kẻo một khi Thần Nông đánh bại Hiên Viên thì Cao Tân sẽ trở thành mục tiêu kế tiếp, kẻ lại phản đối, nói Hiên Viên chẳng qua mới thua một trận, Cao Tân nên nghe ngóng tình hình thêm đã, còn có kẻ đề nghị nên tặng mỹ nữ và lễ vật cho Thần Nông để bày tỏ thiện ý, nếu kết nối thông gia được với Thần Nông là hay nhất.

A Hành đang ở ngoài thành dạy đám phụ nữ quay tơ dệt vải, nghe tin này lập tức quay về Ngũ Thần sơn.

Về tới nơi, nàng cũng không dám xông vào giữa triều đường làm phiền các quan bàn luận, đành phải đứng ngoài đợi.

Hai vị vương tử Quý Ly và Tam Thân đều chủ trương chi viện Hiên Viên, sát cánh cùng nhau chống lại Thần Nông, còn mười mấy vị vương tử Yến Long, Trung Dung, Hắc Xi, vân vân… lại cho rằng không nên giúp Hiên Viên, ai nấy đều khăng khăng theo ý mình, tranh cãi rất găng.

Tuấn Đế bảo bọn họ yên lặng rồi hỏi Thiếu Hạo, “Con thấy thế nào?”

Yến Long và Trung Dung cười nhạt, Thiếu Hạo là rể Hiên Viên, cần gì phải hỏi nữa.

Vậy mà Thiếu Hạo chỉ đáp gọn: “Nhi thần nghĩ chúng ta nên án binh bất động.”

Tuấn Đế liền phán: “Vậy cứ thế đi, ta cũng mệt rồi, bãi triều!”

Thấy Thiếu Hạo phản đối xuất quân chi viện, Bán Hạ lén liếc A Hành nhưng nàng chẳng phản ứng gì, chỉ lặng lẽ đứng dưới thềm vắng đợi.

Thiếu Hạo bước ra khỏi đại điện cùng Quý Ly, đang đi chợt y dừng bước, nhường Quý Ly đi trước còn mình băng qua dãy hành lang trùng trùng, bước tới trước mặt A Hành, chủ động nắm lấy tay nàng, “Hai ta đi dạo một chút rồi hẵng về cung nhé.”

Bán Hạ cùng các thị nữ biết ý lui cả xuống dưới.

Thiếu Hạo lên tiếng hỏi: “Nàng nghe thấy ta nói gì rồi ư?”

“Vâng.”

“Nàng giận sao?”

A Hành đáp: “Thoạt đầu nghe nói cái gì toàn quân bị diệt, thiếp vô cùng lo sợ, vội sấp sấp ngửa ngửa chạy về, nhưng nghe chàng nói lại thấy yên lòng. Nhất định chàng nhận thấy Hiên Viên chưa bị tổn thương nguyên khí nên mới ung dung không xuất quân như thế, chứ nếu tình hình Hiên Viên nguy cấp, hẳn chàng đã phải nôn nóng từ lâu.”

Thiếu Hạo khẽ cười, tiếng cười lồng lộng trong gió, toát lên vẻ thích thú, “Trận chiến này e rằng chẳng thể kết thúc ngay trong một sớm một chiều, Cao Tân quả thật không cần phải vội.”

Nói đến đây Thiếu Hạo chợt ngừng lời, đưa mắt nhìn A Hành như thể đang đố nàng.

A Hành chẳng chịu lép vế, ngẫm nghĩ một hồi rồi đáp: “Bản thân Du Võng vốn không muốn gây chiến, phái Chúc Dung ra trận là việc cực chẳng đã mà thôi. Chúc Dung cũng chỉ muốn lấy lòng tướng sĩ và lôi kéo chư hầu chứ đâu có định đánh thật, giờ y đã thắng một trận vẻ vang, giết được một vị vương tử Hiên Viên, có thể nói là lập công lớn rồi, nếu đánh nữa sẽ phải tiến sâu vào lãnh thổ Hiên Viên khổ chiến, một kẻ không chịu tiêu hao binh lực của mình như Chúc Dung nhất định không chịu tiến sâu thêm đâu, nếu có quan viên nào xúi giục tiếp tục đánh, y cũng sẽ đứng về phía Du Võng vì lợi ích bản thân cho xem.”

Thiếu Hạo gật đầu, “Thật chẳng hổ là muội muội của Thanh Dương, tiến bộ rất nhanh, có lẽ chẳng bao lâu nữa nàng có thể cầm quân ra trận rồi.”

A Hành chắp tay thi lễ với Thiếu Hạo, “Đó là nhờ thiếp được thầy giỏi chỉ bảo, ngày ngày đều cùng chàng bàn luận những chuyện này, chỉ cần không phải gỗ mục thì nhất định phải có tiến bộ chứ, có điều…”

“Có điều làm sao?”

“Thiếp rất ít khi tiếp xúc với Tam ca, gần như chẳng có ấn tượng gì, nói thật, nghe tin huynh ấy chết trận, thiếp kinh ngạc nhiều hơn là đau buồn, nhưng huynh ấy là con trai của người phụ nữ mà phụ vương sủng ái nhất, e rằng bây giờ phụ vương thiếp đang đau lòng khôn xiết, dù Chúc Dung không tiến đánh Hiên Viên nữa, phụ vương thiếp cũng chưa chắc chịu bỏ qua cho y.”

Thiếu Hạo phân tích: “Luận về tài tình phẩm mạo phụ vương ta đều đứng đầu, chỉ phải cái tai thính quá, hơi một tí gió lay cỏ động là nơm nớp đề phòng mấy đứa con trai, nhưng nếu có đứa con nào bị giết hại, nhất định Người sẽ lập tức xuất quân báo thù cho chúng ta không tiếc bất cứ thứ gì, còn phụ vương nàng thì khác, Hoàng Đế chỉ đau lòng trong chốc lát mà thôi, qua cơn đau xót sẽ lại lấy đại cuộc làm trọng.”

Nghe Thiếu Hạo nói, A Hành thấy lạnh buốt cả cõi lòng.

Nghĩ tới Thanh Dương, ánh mắt Thiếu Hạo chợt thấp thoáng lo âu, “A Hành, nàng có biết mình còn một ca ca nữa không?”

“Thiếp cũng có nghe loáng thoáng, luận vai vế huynh ấy đáng ra là Nhị ca, có điều qua đời quá sớm nên mọi người cũng không nhắc tới.”

“Nàng biết y chết thế nào không?”

“Tứ ca kể với thiếp là huynh ấy mắc bệnh mà chết, thiếp sợ mẹ đau lòng nên xưa nay chẳng dám hỏi tới, kể ra thì tên huynh ấy là gì thiếp cũng không biết nữa. Sao đột nhiên chàng lại hỏi chuyện này?”

“Có sao đâu, đột nhiên ta nghĩ tới thì hỏi thôi.”

A Hành buồn bã, “Cứ nói tuổi thọ của Thần tộc lâu dài nhưng chín ca ca của thiếp nay chỉ còn bảy. Chúng ta luôn ỷ tuổi thọ dài lâu, chẳng để tâm tới việc gì cả, lại cho rằng dù thế nào cũng còn rất nhiều thời gian, mà đâu biết thực ra rất nhiều thứ chỉ vụt qua trong chớp mắt, sinh mệnh đằng đẵng càng khiến cho nỗi đau dài ra vô tận mà thôi.”

Thiếu Hạo đưa mắt nhìn nàng rồi hỏi: “Thư tửu và hùng tửu ta cất đều ngon cả, nàng có muốn thử uống hai loại cùng lúc không?”

“Hay lắm!”

Quả thật phải uống một trận say khướt mới hóa giải được nỗi buồn vì toàn quân bị diệt, nỗi đau vì mất đi một người anh trai chôn sâu trong lòng A Hành.

Thiếu Hạo ngẩng lên trời huýt một tiếng lanh lảnh, triệu gọi Huyền điểu tọa kỵ đỗ xuống. Y nắm tay A Hành bước lên lưng Huyền điểu, mặc đám thị nữ thị vệ cuống quýt chạy theo hỏi: “Điện hạ, vương tử phi, hai vị đi đâu thế?”

A Hành bực bội cau mày với Thiếu Hạo, đoạn ngoảnh lại đổi sang vẻ mặt tươi cười, tựa vào lòng Thiếu Hạo, lấy giọng nhõng nhẽo trả lời bọn họ: “Vợ chồng ta đi làm chuyện vợ chồng, các ngươi cũng muốn theo nhìn ư?”

Đám thị nữ Hiên Viên còn đỡ, nhưng hết thảy thị nữ thị vệ Cao Tân đều kinh hãi khựng lại, không dám tin rằng đường đường vương tử phi lại dám thốt ra những lời dâm loạn đến thế.

A Hành nháy mắt với Thiếu Hạo, Thiếu Hạo lắc đầu cười lớn, lệnh cho Huyền điểu bay vút đi.

Đúng như Thiếu Hạo và A Hành phân tích, sau khi khao thưởng Chúc Dung thật hậu hĩnh, Du Võng chẳng mấy mặn mà với những lời đề nghị tiếp tục thừa thắng truy kích, Chúc Dung cũng lấy cớ quân sĩ không hợp thủy thổ, phát sinh bệnh tả để từ chối tiến sâu vào lãnh thổ Hiên Viên.

Về phía Hiên Viên, Hoàng Đế cũng phong thưởng Ứng Long thuộc Yêu tộc, khen ngợi y đã bảo tồn được binh lực Nhân tộc quý báu cho Hiên Viên.

Trước sự ưu ái của Hoàng Đế, Ứng Long chỉ biết khấu tạ liên hồi.

Đợi Ứng Long cùng các quan viên khác lui ra, trong đại điện chỉ còn lại Hoàng Đế và Thanh Dương, Hoàng Đế mới quay sang bảo: “Lần này con làm rất tốt, nếu không có con, ta chẳng những đã giết lầm một viên tướng tài hiếm có mà còn làm mất lòng Yêu tộc. Không có lương thảo, không có binh khí, thậm chí không có lãnh thổ đều có thể nghĩ cách, nhưng để mất lòng dân thì chẳng cách nào cứu vãn được cả. Con cũng phải nhớ lấy, trên đời này thứ đáng quý nhất chính là lòng dân, nhất định không được để mất lòng dân.”

Thanh Dương cung kính: “Nhi thần sẽ nhớ kỹ lời phụ vương dạy bảo.”

Hoàng Đế lại hỏi: “Chuyện Chúc Dung con thấy thế nào?”

Thanh Dương đáp: “Chúc Dung giết chết Tam đệ, đương nhiên chẳng thể bỏ qua, con xin được dẫn quân thảo phạt hắn, nhất định đem đầu hắn về gặp phụ vương.”

Hoàng Đế lắc đầu: “Không thể giết Chúc Dung được! Mẹ và bà hắn đều xuất thân tôn quý, có thế lực hùng hậu ở Thần Nông, nếu giết chết Chúc Dung chẳng khác nào bức mấy bộ lạc lớn kia tử chiến với chúng ta. Dân số Thần Nông đông gấp ba Hiên Viên, nếu họ quyết tử chiến với ta, dù quân ta có kiêu dũng mấy chăng nữa cũng không chống nổi đâu.”

Thanh Dương nghĩ ngợi một lát rồi nói: “Nhi thần ngu ngốc không hiểu ý Người, xin phụ vương giảng giải thêm cho.”

Hoàng Đế giải thích: “Cách hay nhất không phải là giết chết Chúc Dung, mà là khiến hắn quy thuận chúng ta, để thế lực của hắn thu về dưới trướng Hiên Viên.”

“Sao có thể được? Chúc Dung là người Thần Nông chính gốc mà!”

Hoàng Đế nhướng mày, ánh mắt sắc như dao, vặn lại: “Sao không được chứ? Thủy tổ của Thần Nông khi xưa chẳng phải cũng là thuộc hạ Bàn Cổ sao?”

Thanh Dương vội chữa lại: “Phụ vương nói rất có lý, Chúc Dung lòng tham không đáy, tự coi mình là kẻ có thần lực cao cường nhất trong Thần Nông tộc, đời nào cam lòng đứng dưới một Du Võng bất tài vô dụng. Chỉ cần đem món lợi lớn ra nhử hắn, hắn nhất định sẽ động lòng.”

Hoàng Đế gật đầu cười, “Có điều Chúc Dung cũng chỉ là một con chó hoang thôi, thoạt đầu phải lấy gậy đánh cho nhụt hết nhuệ khí để nó biết sợ rồi mới đem thỏ béo ra dụ dỗ, dần dà thuần hóa nó thành chó nhà.”

“Nhi thần hiểu rồi.”

“Chuyện này giao cả cho con, ta biết con có cài thám tử vào Thần Nông quốc, cứ sai chúng phao tin đồn nhảm để Du Võng cùng quan lại trong triều đinh ninh rằng Chúc Dung sớm muộn sẽ tạo phản, đợi khi nào Chúc Dung nhận ra cả triều đình đều nghĩ mình sắp làm phản, chừng đó hắn muốn không phản cũng không được.”

Thanh Dương quỳ xuống dập đầu, “Vâng.” Y hiểu những lời này của Hoàng Đế vừa là giao nhiệm vụ, cũng vừa là cảnh cáo ngầm, con làm gì ta đều biết hết.

Hoàng Đế cúi đầu lật lật công văn, “Con lui xuống đi.”

Thanh Dương đứng dậy hỏi, “Tam đệ vừa qua đời, hôn sự của Xương Ý có phải lùi lại không ạ?”

Hoàng Đế nghĩ ngợi rồi đáp, “Không cần, cũng đâu phải bậc bề trên qua đời, khỏi cần giữ quy củ chịu tang. Hơn nữa mùa xuân sang năm mới tới hôn lễ của Xương Ý, còn hơn một năm nữa, cứ cử hành đúng hạn đi! Giờ đang là lúc Hiên Viên cần dùng người, Xương Ý lại kết hôn với nữ tộc trưởng tương lai của Nhược Thủy, sau này chiêu mộ quân lính từ Nhược Thủy tộc cũng thuận tiện hơn nhiều.”

Chẳng rõ đang nhớ tới chuyện gì, Hoàng Đế chợt ngẩn ra, hồi lâu mới nói, “Tuy hôn sự có mẹ các con lo liệu nhưng mấy năm nay tinh thần bà ấy không được tốt, con nên đỡ đần thêm cho bà ấy, nhất định hôn lễ phải tổ chức thật trọng thể, mời hết khách khứa bốn phương để Nhược Thủy tộc thấy rằng chúng ta hết sức tôn trọng họ. Nhược Thủy tộc kiêu dũng thiện chiến nhưng tâm tư rất thuần phác, chúng ta càng tỏ lòng tôn trọng họ, họ sẽ càng trung thành với chúng ta.”

Lúc Thanh Dương còn nhỏ, Hoàng Đế chưa lập nên Hiên Viên quốc, Luy Tổ cũng chưa trở thành vương hậu nên chưa có danh xưng mẫu hậu, giờ đây Hoàng Đế bỗng vô tình dùng lại cách xưng hô ngày cũ ân cần dặn dò khiến Thanh Dương nghe mà chợt xót xa, chỉ biết cúi đầu thành tâm vâng dạ, đợi Hoàng Đế căn dặn xong xuôi, y bèn cáo từ lui ra.

Thấy Thanh Dương bước ra khỏi đại điện, Chu Du liền rảo bước theo sau, vừa đi vừa nói: “Tên khốn Ứng Long kia thật tệ, hôm nay nô tỳ trông thấy y bèn lên tiếng chào hỏi, chúc mừng y thăng quan tiến chức, nào ngờ y lạnh như tiền, chẳng hề tỏ vẻ biết ơn, cũng chẳng thèm nghĩ xem nếu không nhờ điện hạ, y đã phải bỏ mạng từ lâu rồi!”

Thanh Dương lườm Chu Du, chế giễu: “Ngươi đã ở bên ta hơn ngàn năm, cũng tu thành hình người mấy trăm năm nay rồi, sao vẫn dốt đặc cán mai như khúc gỗ thế?”

Chu Du ấm ức ra mặt nhưng chẳng dám phản bác, chỉ biết lẩm bẩm trong lòng, nô tỳ vốn là khúc gỗ mà!

Thanh Dương bèn nhẫn nại cắt nghĩa, “Ta cứu y là bởi phẩm chất và mưu trí của y, muốn cho y một cơ hội thi thố tài năng, nếu y tỏ vẻ thân thiết với chúng ta, ngược lại chính là phụ lòng ta, khiến ta thất vọng vì đã cứu y đó.”

“Thế là thế nào?” Chu Du vẫn ngơ ngác không hiểu. Thanh Dương hết cả kiên nhẫn, lạnh lùng nói: “Nếu y quá thân cận với ta thì phụ vương sẽ đắn đo khi dùng y, vậy há chẳng phải phụ tâm ý ta cứu y ư?”

“À! Té ra là thế, xem chừng nô tỳ trách oan y rồi! Nô tỳ đã nói Yêu tộc của nô tỳ luôn uống nước nhớ nguồn mà!”

Thanh Dương lắc đầu ngán ngẩm nhìn Chu Du, vừa đi vừa dặn: “Nhược Thủy tộc sùng bái nhược mộc[1],nhưng nhược mộc rời khỏi Nhược Thủy thì không sao sống nổi, ngươi nghĩ cách trồng cho được nhược mộc ở Hiên Viên đi, khi nào Xương Ý thành hôn cùng Trọc Sơn Xương Phó, ta muốn nhược mộc nở hoa dọc hai bên đường đón dâu.”

[1] Theo Sơn Hải kinh: ở Nam Hải, nơi hai dòng nước trong đục giao hòa vào nhau, có một loài cây tên nhược mộc, là khởi nguồn của Nhược Thủy. (ND)

Chu Du cười hì hì, “Việc này cứ giao cho nô tỳ, nô tỳ sẽ đi nài nỉ ông tổ của nhược mộc, lão ta còn nợ nô tỳ, cảm phiền con cháu lão nở hoa một lần chỉ là chuyện nhỏ.”

“Còn nữa, nhớ thúc cho đám dâu trên Triêu Vân phong chín sớm lên đấy.”

“Biết rồi biết rồi, Tứ điện hạ và vương cơ đều thích ăn dâu lạnh, chừng nào họ tới điện hạ nhớ làm một trận tuyết, nhân đó hái luôn dâu lạnh tươi rói, ngon hơn dâu ướp lạnh trong hầm băng nhiều.”

Thanh Dương nghe vậy lạnh lùng trừng mắt nhìn Chu Du khiến ả giật nảy mình vội cúi gằm mặt xuống than thầm, người ta ngốc thì lườm, người ta thông minh thì trừng, thế là sao đây!

Hết chương 13.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 5-5-2014 07:52 AM
Chương 14


ắm chặt tay, bên nhau mãi mãi[1] .


14.1


[1] Trích trong Kinh Thi, bài Kích cổ. (ND)

Ngẩng đầu nhìn tàng cây rợp những hoa, năm năm tháng tháng hóa như cũ, hoa có cười chê người đổi lòng? Nói cái gì hẹn biển thề non, chớp mắt đã tan theo bọt nước.


Gần mười người đàn bà xúm xít quanh một cái nong lớn, trong nong là mười mấy nắm tằm giống màu sắc khác nhau, A Hành lần lượt nhặt từng loại lên giảng giải.


“Những giống tằm phổ biến nhất ở đại hoang là tằm dâu, tằm tạc, tằm thầu dầu, tằm sắn, tằm dâu ngựa, tằm long não, tằm dẻ, tằm xư, tằm ô cựu, tằm liễu, tằm hổ phách… Đa phần chỉ cần nghe tên là biết thức ăn chủ yếu của giống tằm đó là gì. Các giống tằm khác nhau cũng có công dụng khác nhau, ví như tằm thầu dầu không ươm được tơ nhưng có thể kéo lụa sống, còn loại màu vàng kim này là tằm hổ phách, chuyên ăn lá cây kim, tơ dai mà lóng lánh như hổ phách, có điều sản lượng rất thấp nên chỉ dùng dệt vải vóc thượng đẳng thôi…”

Đám đàn bà nhặt tằm giống lên vừa phân biệt thật kỹ, vừa rì rầm trao đổi.

A Hành bước tới manh chiếu trúc trải cạnh đó, khoanh chân ngồi xuống sàng lọc những giống tằm láo nháo mà người làng thu thập được, đương lúc trời nóng bức, nàng lại hao tâm tổn sức phân loại nên chẳng mấy chốc đã đổ mồ hôi đầy đầu. A Hành đưa tay quệt mồ hôi trán, đang định kiếm miếng nước uống chợt thấy một cốc nước đưa tới trước mặt.

Ngỡ rằng ai đó trong số đàn bà kia đem đến cho mình, nàng thuận tay đón lấy uống một hơi cạn sạch rồi cười nói: “Cảm ơn.” Nghiêng người đưa trả chiếc cốc mới nhận ra là Thiếu Hạo.

Y đang ngồi xổm một bên tò mò nhìn nàng lựa tằm giống, còn đám người trong sân chẳng biết đã tản đi tự lúc nào.

“Chàng tới khi nào vậy? Sao chẳng gọi thiếp?” A Hành hết sức bất ngờ.

“Hôm nay trong triều chẳng có việc gì nên ta ra mấy thôn làng bên ngoài đi dạo nghe nói nhà nào nhà nấy đều có thể tới nhận tằm giống miễn phí, vừa khéo tiện đường, ta liền tới thăm nàng, thấy nàng đang giảng giải cho mấy phụ nữ kia có vẻ rất thú vị, ta bèn đứng ngoài lắng tai nghe, thật chẳng ngờ con tằm giống bé xíu mà cũng chứa nhiều kiến thức đến thế.”

A Hành nhoẻn cười, cúi xuống tiếp tục sàng lọc.

Thiếu Hạo hỏi: “Nàng lấy đâu ra nhiều tiền thế?”

“Chàng quên những thứ phụ vương và vương hậu thưởng cho thiếp rồi sao? Những vật dụng chuyên dùng trong vương thất thiếp đều sai Bán Hạ cất đi, còn các thứ khác chất đống trong kho cũng chỉ tổ bám bụi, chi bằng đem ra mướn người thu thập những loại tằm láo nháo về gây nên tằm giống.”

“Hèn chi dân tình mười dặm tám làng quanh đây đều hết lời ca ngợi phụ vương, té ra là vì chuyện này.”

“Thiếp dùng những thứ phụ vương ban thưởng nên đương nhiên ân trạch này thuộc về phụ vương rồi.”

Thiếu Hạo khẽ nói: “Cảm ơn nàng.”

A Hành thấy sắc mặt Thiếu Hạo u ám, tựa hồ vừa xảy ra chuyện gì đó không vui, nhưng y đã không nói, nàng cũng chẳng tiện gặng hỏi, bèn trỏ mấy con tằm giống trước mặt bảo, “Chàng giúp thiếp lựa giống tằm đi, cứ dùng linh lực kiểm tra, nếu thấy trứng tằm tốt, nở đều thì giữ lại, nếu thấy không tốt tức là không thể gây giống được, thì để thả lại ra đồng hoang.”

Thiếu Hạo khoanh chân ngồi xuống cạnh A Hành, bắt đầu sàng lọc. Y sẵn có linh lực cao cường nên tằm giống vừa qua tay đã tự động chia thành hai loại, chẳng hề mất công nhọc sức. Ỷ lại Thiếu Hạo, A Hành trốn việc không làm nữa, chỉ ngồi một bên vừa hóng mát vừa xem y làm.

Thiếu Hạo lại hỏi nàng: “Hôn lễ của Xương Ý đã định vào mùa xuân sang năm, Thanh Dương phái sứ giả tới xin phép phụ vương để sang năm đón nàng về Hiên Viên dự lễ cưới Xương Ý đó.”

A Hành mừng rỡ, “Thế phụ vương nói sao?”

“Phụ vương nhận lời rồi, còn bảo ta về cùng với nàng để bái kiến nhạc phụ nhạc mẫu.”

Nghĩ tới hôn lễ của Tứ ca, lại nghĩ tới việc mình được về nhà, A Hành vô cùng vui sướng, nheo nheo mắt ngắm vầng dương rực rỡ trên đầu ngọn cây.

Hai người làm thinh chẳng ai nói gì nên nghe rất rõ những âm thanh trong làng đưa lại, nào là tiếng trâu kéo cày, tiếng trẻ con đùa giỡn đuổi nhau… A Hành lại chạnh lòng nhớ tới Cửu Lê, giờ đang là tiết hoa đào nở rộ trong núi Cửu Lê, Mễ Đóa và Kim Đan đã con đàn cháu đống rồi chăng? Họ vẫn ca vang khúc sơn ca tỏ lòng mình với đối phương trong bóng hoàng hôn loang rực mặt sông kia chứ?

Thiếu Hạo cất tiếng hỏi: “Nàng đang nghĩ gì thế?”

A Hành khẽ đáp: “Nếu vĩnh viễn không có chiến tranh, cứ bình yên thế này mãi thì hay quá.”

Thiếu Hạo dịu giọng an ủi, “Sẽ như thế, nhất định sẽ như thế mà.”

A Hành vờ bình thản hỏi: “Gần đây phía Thần Nông sao rồi?”

Thật ra điều nàng muốn biết là Xi Vưu dạo này ra sao. Từ khi gả tới Cao Tân, hết bị thám tử của Tuấn Đế dòm ngó lại bị thị nữ do Hoàng Đế phái tới vây quanh, A Hành gần như bị cách ly với thế giới, chẳng nhận được chút tin tức nào từ bên ngoài.

“Thú vị lắm.”

“Sao cơ?”

“Nhân lúc Chúc Dung bận đi đánh ải Đồng Nhĩ, Xi Vưu đã tạo dựng một đội quân, thoạt đầu chỉ có mấy chục người, toàn là đàn ông Cửu Lê tộc, Xi Vưu bèn đăng bảng chiêu mộ dũng sĩ trên khắp Thần Nông, bất kể xuất thân sang hèn, địa vị cao thấp, chỉ trong mấy tháng đã tuyển được năm trăm người. Chúc Dung ngồi không vững ở ải Đồng Nhĩ nhưng Du Võng lại sai hắn giữ ải, ngoài miệng nói là để thưởng cho hắn, bảo vệ chiến công của hắn, thực tế là ngăn không cho hắn quay về cản trở việc của Xi Vưu, hiện giờ Chúc Dung đang khốn đốn mà chẳng biết kêu ai.”

A Hành không nhịn được cười: “Thật chẳng khác nào đem Chúc Dung đày ra biên ải, chiêu hiểm thế này không giống chủ ý của Du Võng, ắt là ý của Xi Vưu đây.”

Vẻ mặt Thiếu Hạo nặng nề như chất chứa trùng trùng tâm sự, hồi lâu y mới nói khẽ: “Vừa nãy ta bị phụ vương quở mắng trên đại điện.”

“Sao thế?”

“Nói ra thì dài dòng lắm, một lời không hết được.”

“Chàng cứ thong thả kể đi, thiếp rảnh rỗi mà.”

“Thần Nông và Cao Tân đều là Thần tộc thượng cổ, duy trì dòng dõi rất khắt khe, mấy vạn năm nay để giữ gìn lợi ích cho tộc mình, họ nghiêm cấm những kẻ không cùng đẳng cấp kết hôn với nhau. Viêm Đế đời trước muốn cưới Viêm Hậu xuất thân thấp kém cũng chật vật muôn vàn, sau cùng phải nói thác rằng Viêm Hậu thuộc chi thứ của Xích Thủy thị mới có thể miễn cưỡng kết hôn. Bởi đã nếm mùi đau khổ nên suốt thời gian tại vị, Viêm Đế luôn nỗ lực phá bỏ quy định khắt khe về dòng dõi, có điều muốn cải cách một tập tục đã mấy vạn năm nhất định phải máu chảy đầu rơi, mà Viêm Đế lại là người nhân hậu, không nỡ lòng nào, bởi thế dù ông ta cố gắng đến mấy đi chăng nữa cũng chỉ thay đổi được bề ngoài chứ không sao chạm tới gốc rễ. Nhưng Xi Vưu thì khác, để đạt được mục đích, hắn chẳng ngại gì thây phơi đầy nội, dưới tay hắn, ắt hẳn Thần Nông sẽ thay da đổi thịt. Hiên Viên vốn khác hẳn hai nước chúng ta, nên khỏi cần nhắc tới.”

“Phải, Hiên Viên không giống với hai nước kia.” Giọng điệu A Hành toát lên vẻ kiêu ngạo, “Thiếp phát hiện phụ nữ Cao Tân khi bình phẩm về đàn ông chẳng thèm đếm xỉa gì tới phẩm cách tài hoa của họ mà đầu tiên phải quan tâm tới dòng dõi huyết thống trước đã, như thế chỉ những kẻ con nhà dòng dõi, mang huyết thống cao quý mới đáng để kết hôn vậy, những lời đó thoạt nghe chỉ là chuyện vãn khuê phòng, nhưng lại phản ánh rất nhiều điều. Người Hiên Viên bọn thiếp tuy không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi hai đại Thần tộc, nhưng phụ vương thiếp từng nói: “Thần tiên, con người hay yêu quái trừ chủng tộc bất đồng còn lại đều bình đẳng, chẳng có gì là cao quý hay đê tiện cả, thật hoang đường hết sức.” Dù là người hay yêu quái, sự sang hèn của bản thân chỉ phụ thuộc vào chính những hành động của mình mà thôi. Ở Hiên Viên, bất kể chàng thuộc Thần tộc, Nhân tộc hay Yêu tộc, bất kể chàng sinh ra trong nhà quyền quý hay nghèo hèn, chỉ cần có tài, chàng sẽ được mọi người kính trọng.”

Thiếu Hạo nói: “Đến giờ Cao Tân vẫn chìm trong niềm tự mãn của một Thần tộc thượng cổ chứ nào chịu nhìn nhận sự cổ hủ của mình, ngay phụ vương cũng đâu có nhận ra Thần Nông đang chuyển mình mạnh mẽ, họ chỉ coi chuyện tranh đấu giữa Chúc Dung và Xi Vưu như một cuộc chiến giành quyền lực mà thôi. Hôm nay trên triều ta tâu rằng cuộc tranh đấu giữa Xi Vưu và Chúc Dung thật ra là cuộc xung đột giữa hai giai tầng rồi thử đề xuất một vài cải cách nhưng phụ vương rất không vui, nói lễ nghi tôn ti là gốc để lập quốc, vậy mà ta lại dám nói càn đòi thay đổi.”

Những chuyện này A Hành chẳng làm sao tháo gỡ giùm y được, nàng đành lựa lời khuyên giải: “Chàng cứ từ từ, có những chuyện không thể nóng vội được đâu.”

Thiếu Hạo thở dài: “Chỉ mong có thể khuyên phụ vương để ngài dần hiểu ra thôi! Nếu Cao Tân cứ khư khư bảo thủ thế này thì sớm muộn sẽ mất nước. Có lúc ta cũng thực ngưỡng mộ Xi Vưu, hắn muốn gì làm nấy, chẳng ngại gì cả.”

A Hành lặng thinh, đăm đắm trông vời xa xăm.

Lựa giống tằm xong, Thiếu Hạo quay sang hành lễ với A Hành, “Vương tử phi nương nương, ta làm xong rồi, chúng ta về nhà được chưa?”

A Hành cười đáp: “Về thôi.”

Cùng Thiếu Hạo cưỡi Huyền điểu quay về, thầm nghĩ tới đám cưới sắp tới của Tứ ca, A Hành sực nhớ ra phải chuẩn bị quà gặp mặt cho chị dâu tương lai.

Thấy nàng lặng yên không nói, Thiếu Hạo bèn hỏi: “Đang nghĩ gì thế?”

“Thiếp đang nghĩ xem nên tặng quà gì cho Tứ tẩu.”

“Nàng đã nghe ngóng xem Tứ tẩu thích gì chưa?”

“Thiếp chẳng biết gì hết, tại cái tính của Tứ ca đó! Hỏi mười câu huynh ấy chỉ đáp nửa câu, thiếp lải nhải bên tai huynh ấy cả ngày chỉ moi được mỗi chuyện chị ấy là con nhà vọng tộc ở đó, họ Trọc Sơn.”

“Thần Nông có Cửu Lê, Hiên Viên có Nhược Thủy, đều là những vùng dân tình thuần phác mà dũng mãnh, chỉ nể trọng những kẻ anh hùng kiêu dũng, Tứ tẩu này của nàng chẳng những xuất thân từ vọng tộc Trọc Sơn thị mà còn là nữ tộc trưởng tương lai của Nhược Thủy nữa đó.”

“Hả? Tứ ca định cưới nữ tộc trưởng Nhược Thủy?” A Hành trợn tròn mắt, “Thiếp cứ ngỡ Tứ ca sẽ cưới một cô gái dịu dàng hiền thục kia, ai dè huynh ấy lại thích nữ trung hào kiệt!”

Thiếu Hạo bật cười, “Nàng định tặng gì cho nữ anh hùng nào?”

A Hành nghĩ ngợi một thoáng, chợt sáng mắt lên, nghiêng đầu nhìn THiếu Hạo cười ranh mãnh: “Xưa nay anh hùng chuộng danh khí! Món quà thích hợp nhất phải làm phiền Thiếu Hạo điện hạ vang danh thiên hạ về nghề rèn rồi, có điều nghe nói xưa nay y không rèn binh khí, chẳng hiểu y có chịu ra tay giúp đỡ hay chăng?”

“Không phải y không chịu, nhưng…”

A Hành hồi hộp hỏi: “Nhưng sao?”

Thiếu Hạo ngẩng đầu nhìn trời, làm bộ nghĩ ngợi một hồi, “Cũng chẳng có nhưng gì cả, năm xưa lấy không bí quyết nấu Thư tửu của nàng, xem như là trả lễ vậy! Có điều hơi gấp gáp, thời gian một năm thì chỉ rèn được chủy thủ tùy thân thôi.”

A Hành thở phào nhẹ nhõm, nàng xúc động lắc lắc cánh tay Thiếu Hạo, mừng rỡ hơn cả khi y làm lợi cho mình: “Cảm ơn chàng, cảm ơn chàng, cảm ơn…”

Thiếu Hạo cười, “Huynh muội nàng y hệt nhau, lúc nào cũng chỉ chăm chăm muốn dâng cho đối phương những thứ tốt nhất trên đời.”

A Hành chẳng hề phủ nhận mà còn nhoẻn cười gật đầu, “Tứ ca là ca ca tốt nhất trên đời đó.”

“Thế còn Thanh Dương?”

A Hành tắt hẳn nụ cười, khẽ nói: “Đại ca giống phụ vương, đều lấy đại cuộc làm trọng.”

Thiếu Hạo định nói gì đó nhưng sau cùng chỉ gượng cười làm thinh.

Tối đến A Hành ngồi ở giường, tấm áo đỏ rực đã gập vuông vắn đặt trên đầu gối. Nàng vừa vuốt ve tấm áo vừa nhớ lại năm xưa trên Thần Nông sơn, Xi Vưu bắt nàng hứa rằng mồng tám tháng Tư hàng năm sẽ gặp nhau dưới cội hoa đào, nàng đã nói với hắn, miễn là năm nào hắn cũng mặc áo nàng may thì nàng sẽ tới gặp. Trong lời nói đã có ý hẹn ước cả đời, Xi Vưu hiểu ý nàng nên mừng rỡ khôn cùng .

Lúc sắp thành hôn với Thiếu Hạo, bên cạnh nàng luôn có thị nữ giám sát, còn chỗ Xi Vưu hắn cũng trùng trùng nguy cơ, bởi thế nàng không dám báo tin cho hắn, lỡ bị phát hiện chẳng những sẽ liên lụy tới mẹ và Tứ ca mà còn có thể đẩy Xi Vưu vào đường cùng nữa.

Có lẽ giờ đây nàng và Thiếu Hạo thành hôn đã lâu, lại thêm tin tức bay về đều khiến Hoàng Đế yên lòng nên ông dần nới lỏng vòng kiềm tỏa, đám thị nữ cũng quen với việc nàng bận bịu chạy đi chạy lại, chẳng còn cảnh giác như xưa.

Sáng mai nàng định tới thôn trại Nhân tộc xem tằm, chắc có thể tìm cơ hội sai A Tệ lén đem áo rời khỏi Cao Tân, đưa đến cho Xi Vưu, trông thấy áo, ắt Xi Vưu sẽ hiểu nàng muốn nói gì. Dù xui xẻo rơi vào tay kẻ xấu đi nữa, chúng cũng chỉ thấy một manh áo mà thôi.

Hai ngày sau, A Hành dâng thư lên Tuấn Đế xin tới miền Bắc cực Cao Tân dạy dân chăn tằm dệt lụa, vì đường sá xa xôi nên không thể ngày đi tối về Ngũ Thần sơn được.

Thời gian này, Tuấn Đế luôn để ý mọi hành vi của Hiên Viên Bạt trong dân gian, đương nhiên cũng nghe thấy hết những lời tán tụng của muôn dân đối với mình, so với một Thiếu Hạo thâm trầm tinh minh, ông còn thích nàng dâu khéo trồng hoa nhổ cỏ, bình phẩm thư họa này hơn, liền vui vẻ chuẩn y ngay.

Đám thị vệ và thị nữ Cao Tân tộc theo Hiên Viên Bạt đi đi lại lại vô số làng mạc, chưa từng có điều gì sơ suất, chỉ thấy vương tử phi hết lòng lo toan cho trăm họ Cao Tân, đương nhiên cũng dần lơi lỏng cảnh giác.

Chập tối, A Hành tạo ra một người gỗ thế vai mình đi ngủ thật sớm. Còn bản thân nàng lại cùng A Tệ lẻn tới Cửu Lê, ngôi làng này rất gần Thần Nông quốc, trăng vừa lên đến ngọn cây, nàng đã tới nơi.

Hoa đào trên sườn núi rực rỡ đua tươi, ánh lửa trong sơn cốc sáng lòa cả mắt. Thanh niên thiếu nữ đều quây quần dưới gốc đào, bên đống lửa, cao giọng hát những khúc tình ca say lòng người.

A Hành đứng dưới cội đào lặng lẽ đợi.

Đợi mãi đến khi trăng tà bóng ngả vẫn chưa thấy Xi Vưu tới.

A Hành ôm lấy A Tệ hỏi nhỏ: “A Tệ, mày đem áo đưa cho hắn rồi chứ?”

“Gừ…” A Tệ gật đầu lia lịa, nhớn nhác ngóng trông.

Thấy vậy A Hành xoa đầu nó an ủi, “Đừng nôn nóng, hắn sẽ tới mà.” Nhưng thực tế lòng nàng còn chênh chao nôn nóng hơn ai hết.

Tựa vào A Tệ, A Hành vừa lẳng lặng nghe đám thanh niên thiếu nữ hát sơn ca, vừa đợi Xi Vưu.

Ngọn lửa dần lụi tắt, khúc ca dần bặt tiếng, chỉ có ngàn cội hoa đào trong sơn cốc vẫn rực rỡ huy hoàng, âm thầm mà nở rộ.

Xi Vưu vẫn không thấy tới.

A Hành ôm lấy A Tệ, lòng đau như xé. Cao Tân cung đình quy củ ngặt nghèo, lần này để tới gặp Xi Vưu, nàng đã phải chuẩn bị từ hơn nửa năm trước, mượn cớ dạy muôn dân trồng dâu nuôi tằm xin Tuấn Đế đồng ý cho nàng xuất cung, rồi lại giữ bổn phận từng ly từng tí nhằm đổi được lòng tin của Tuấn Đế, vất vả cả nửa năm mới đổi được tự do một đêm, vậy mà Xi Vưu lại một lần nữa thất hẹn.

Nàng đã chuẩn bị bao điều để nói với hắn, nỗi bất lực của nàng, cơn giận của nàng, cơn giận vì năm ngoái hắn đã thất hẹn, giận vì hắn không chịu tin nàng, và mà hết thảy dự định ngọt ngào đều uổng phí, bao lời gan ruột chẳng biết thổ lộ cùng ai.

Lại là bi thương, lại là phẫn nộ, nước mắt cứ thế lã chã rơi.

Đột nhiên Liệt Dương hoan hỉ kêu quang quác, A Tệ vừa mừng rối rít vừa nhảy cẫng lên. A Hành ngẩng đầu trông, liền thấy một bóng áo đỏ trong mây đang phấp phới bay đến. Nàng vội nín khóc nhoẻn miệng cười, vừa cuống quýt lau nước mắt vừa sửa lại búi tóc, quần áo, còn thấp thỏm hỏi A Tệ: “Thế này đã được chưa? Có rối không?”

Cánh đại bàng xẹt ngang trời như sao băng rồi đâm bổ xuống, nàng hồi hộp đứng lặng, A Tệ mừng rỡ nhào đến, toan nhảy xổ vào lòng Xi Vưu như mọi bận, đột nhiên nó khựng lại, hoang mang nhìn đại bàng.

Trên lưng đại bàng chẳng có một ai, nó chỉ lượn quanh cội đào một vòng, thả manh áo đỏ ngậm trong miệng xuống rồi đập cánh bay vút đi.

“Hu…u…u…” A Tệ kêu lên ai oán, bối rối vòng đi vòng lại quanh tấm áo.

Mặt A Hành trắng bệch, nàng đã hứa chỉ cần hắn hàng năm đều mặc tấm áo này, nàng sẽ tới gặp hắn, lần này nàng cố ý đưa áo tới nhưng hắn lại sai đại bàng ngậm hồng bào quăng xuống dưới cội hoa đào, tỏ rõ rằng hắn sẽ không bao giờ mặc nữa.

A Hành loạng choạng chạy tới nhặt tấm áo lên, thất thần ôm vào lòng, đờ đẫn.

Cánh đào rơi lả tả như mưa, chẳng mấy chốc, đầu nàng, vai nàng đỏ rực những hoa.

Nghe Liệt Dương kêu lên quang quác, A Hành mới sực tỉnh, nhìn dáng vẻ lo lắng của A Tệ và Liệt Dương, oan giận và bi thương đan xen dâng ngập lòng, nàng liệng phắt tấm áo xuống đất ngươi đã chẳng cần, ta còn cần làm chi!

Nhưng tình cảm đã trao đi nào phải muốn quăng là quăng được, dù giận hắn oán hắn, hắn vẫn mãi ở trong tim nàng.

Ngẩng đầu nhìn tàng cây rợp những hoa, năm năm tháng tháng hoa như cũ, hoa có cười chê người đổi lòng? Nói cái gì hẹn biển thề non, chớp mắt đã tan theo bọt nước.


Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 5-5-2014 07:59 AM
Chương 14


Gió thu se sắt lùa biên ải [1].


14.2


Hành phẫn nộ đập một chưởng vào thân cây, lập tức hoa đào trên cành rào rào rụng xuống như mưa, ngón tay nàng vẫn sờ thấy vô số chữ “Xi Vưu” vạch lên thân cây năm ngoái, nếu hắn thấy những chữ này, lẽ nào chẳng hiểu cho lòng nàng, tiếc rằng ngay cả đến đây, hắn cũng không buồn đến nữa.

Nàng rút trâm ngọc, vạch bên cạnh mấy trăm chữ Xi Vưu kia một câu hoi đầy căm giận, “Đã chẳng giữ lời, sao còn hứa hẹn?” Chưa viết hết câu, ngọc trâm đã gãy đôi. A Hành cưỡi lên lưng A Tệ, chẳng nói chẳng rằng, chỉ vỗ vỗ vào người nó, A Tệ hiểu ý nàng, lặng lẽ bay về Cao Tân.

Bấy giờ Xi Vưu đang đứng chơi vơi trên sườn dốc chót vót gần Cửu Lê, tựa hồ chỉ cần một cơn gió là rớt xuống. Hắn không khoác áo ngoài mà chỉ vận áo lót, rõ ràng vừa cởi ra chưa lâu.

Khe núi dưới chân hắn lô chô đá nhọn, um tùm cây cối, lại thêm một dòng suối róc rách men theo sườn núi hai bên, quãng rộng quãng hẹp, nước suối lúc xiết lúc chậm, sau cùng tụ lại thành đầm nước trong leo lẻo. Đang giữa mùa hoa đào nở rộ, đôi bên khe núi đỏ rực những hoa, dưới ánh trăng bát ngát hệt ráng chiều, như gấm lụa, đẹp tựa cõi mơ, gió vừa thổi qua, muôn ngàn cánh hoa đã lả tả đổ xuống sơn cốc, phất phơ như tuyết.

Xi Vưu lặng lẽ ngắm nhìn cảnh tượng dưới chân, hồi lâu chẳng hề động đậy.

Đột nhiên hắn như bừng tỉnh giấc mộng, vội ngoảnh đầu trông về phía Cửu Lê, thảng thốt. Nàng đến rồi ư? Nàng đang đợi hắn ư? Nàng ân ái mặn nồng với Thiếu Hạo như thế, sao còn vất vả giữ lời hẹn hoa đào gì nữa chứ?

Phân vân do dự một hồi, Xi Vưu cao giọng gọi: “Tiêu Dao!”

Đại bàng vừa đỗ xuống hắn đã vội vàng nhảy ngay lên, bay vụt về phía Cửu Lê.

Ánh trăng tịch mịch rọi xuống khe núi rực sắc đào, gió đêm lành lạnh, dưới cội đào nào thấy bóng ai, chỉ còn một manh áo đỏ tươi như máu bị quăng dưới đất, cánh hoa rụng phủ dày, hiển nhiên nằm dưới đất đã lâu, xem ra từ lúc Tiêu Dao quăng xuống cũng chẳng ai động tới.

Xi Vưu nhặt áo lên, ngước nhìn tàng hao cười nhạt, mấy lần nhấc tay định ném đi nhưng lại chẳng đành lòng.

Lát sau hắn ngửa mặt cười dài, nhảy lên lưng đại bàng bỏ đi thẳng.

Tháng Tư năm sau, khi sắc đào nhuộm đỏ khắp núi rừng, A Hành và Thiếu Hạo cùng về Hiên Viên dự hôn lễ của Xương Ý.

Trước khi kết hôn, A Hành hầu như chẳng có cảm giác gì với ba chữ Hiên Viên tộc, nhưng từ sau đám cưới, dù đi tới đâu, mọi người nhìn vào nàng, nhận xét đầu tiên là người của Hiên Viên tộc, vì xuất thân Hiên Viên, có những kẻ thuộc Thần tộc coi thường nàng, cũng có những kẻ Yêu tộc kính trọng nàng, bấy giờ nàng mới thực sự hiểu ra ý nghĩa mà một dòng họ đại diện.

Nàng đã rời nhà rồi lại quay về vô số lần, nhưng trước giờ chưa bao giờ mừng rỡ vì được về nhà thế này.

A Hành vừa vào đến lãnh thổ Hiên Viên, nàng đã tươi cười reo lên: “Về tới nhà rồi!”

Thấy nàng tươi tỉnh, A Tệ và Liệt Dương cũng vui lây, A Tệ vừa bay vừa kêu líu ríu rất êm tai, khiến Huyền điểu tọa kỵ của Thiếu Hạo phải hoan hỷ cất tiếng hót theo.

Thiếu Hạo rớt lại sau mấy trượng, âm thầm nhìn theo A Hành đang hào hứng hoa chân múa tay. Từ ngày gả tới Cao Tân, nàng luôn dè dặt thận trọng, từng cử chỉ hành vi lời ăn tiếng nói đều nhất nhất tuân theo nghi lễ Cao Tân, chưa từng được thoải mái tự do như hiện giờ.

A Tệ càng bay càng nhanh, thẳng một mạch đến Hiên Viên sơn, còn sớm hơn bọn họ dự tính nửa ngày.

A Hành định cho cả nhà một bất ngờ, ai dè Thanh Dương tựa hồ cảm giác thấy bọn họ về đến, đã đứng trước điện chờ sẵn. Trái lại, đám cung nữa quét tước trước điện kinh ngạc khôn xiết, vội chạy như bay vào trong bẩm báo: “Vương cơ về rồi! Vương cơ về rồi!”

Thiếu Hạo vừa bước xuống tọa kỵ, đã lên tiếng ghẹo Thanh Dương: “Mấy chục năm không gặp, nom tiểu đệ Thanh Dương vẫn như xưa.”

Thanh Dương thản nhiên cười: “Ở đây là Hiên Viên sơn, ngươi lại là con rể đến chơi, phải đổi cách xưng hô, gọi ta là Đại ca.”

Thiếu Hạo liếc A Hành cười nói: “Đợi chừng nào ngươi thắng được ta rồi tính!”

Thanh Dương đáp ngay: “Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày!” Nói rồi chỉ vào rừng dâu, làm động tác mời.

“Được!” Thiếu Hạo thẳng thắn nhận lời, theo Thanh Dương về rừng dâu.

Chu Du hấp tấp đuổi theo, càu nhàu, “Hai vị công tử đã đánh suốt ngàn năm nay rồi, cứ gì mỗi lần gặp lại lôi nhau ra phân thắng bại chứ!”

Thiếu Hạo ngoảnh lại nhìn Chu Du, “Ngươi cứ chê khúc gỗ này ngu ngốc, nhưng ta thấy khá đấy chứ.”

Thanh Dương thoáng nét cười, “Ngốc lắm, rèn giũa mấy trăm năm vẫn ngốc đến kinh ngạc.”

Chu Du tức điên mà không dám lên tiếng, đành siết chặt tay lầm bầm: “Nô tì nghe thấy đấy, nô tỳ nghe thấy đấy…”

Thanh Dương và Thiếu Hạo vừa cười nói vừa giăng cấm chế. Bàn tay Thanh Dương trắng xóa những tuyết, từng đóa băng mẫu đơn ngưng kết quanh mình, cả rừng dâu bỗng trở nên lạnh buốt. Thiếu Hạo cười cười đứng đó, vạt áo không gió mà bay, nước từ dưới đất phụt lên quanh người, từng đóa hoa nước bắn tung như những bông lan nở rộ.

Chu Du can ngăn không nổi đành quay sang cầu viện A Hành, “Vương cơ nói giùm một câu đi.”

Trông thấy mẹ và Tứ ca, A Hành lè lưỡi với Chu Du tỏ vẻ lực bất tòng tâm rồi chạy vụt về phía Luy Tổ, nhào vào lòng bà, “Mẹ!”

Luy Tổ tươi cười ôm lấy nàng, A Hành tựa vào lòng mẹ, soi Xương Ý từ trên xuống dưới, “Trông Tứ ca ra dáng chú rể ghê, chúc mừng huynh!”

Nhìn Xương Ý đỏ mặt tía tai, A Hành phá lên cười khanh khách, đang định ghẹo thêm thì Luy Tổ đã vỗ vỗ lưng nàng, “Hôm nay là ngày lành của Tứ ca con, đừng bắt nạt nó nữa.”

A Hành nũng nịu, “Mẹ thiên vị quá, Tứ ca đã có Tứ tẩu chiều chuộng rồi mà mẹ vẫn thiên vị huynh ấy!”

Xương ý lườm nàng, “Lẽ nào Thiếu Hạo không chiều muội? Mọi người nghe được bao nhiêu chuyện về hai người rồi đó.”

A Hành gục mặt vào vai mẹ, gương mặt tắt hẳn nụ cười nhưng giọng nói vẫn nhí nhảnh, “Mẹ, Tứ ca bắt nạt con, mẹ giúp con với!”

Đột nhiên, những bông tuyết trắng xóa như lông ngỗng âm thầm trút xuống khiến Xương Ý ngơ ngác ngẩng lên.

A Hành trỏ vào rừng dâu, “Đại ca đang giao đấu với Thiếu Hạo, hy vọng cả hai đừng ai bị thương quá nặng.”

Luy Tổ mỉm cười đưa tay hứng tuyết, đoạn quay sang dặn thị nữ theo sau: “Tuyết rơi đúng lúc lắm, đợi lát nữa các ngươi đi hái ít dâu lạnh đi.”

Chu Du lẩm bẩm than, “Thật không biết là muốn thắng Thiếu Hạo hay muốn mượn lý do chính đáng để làm tuyết rơi nữa.”

Thiếu Hạo cùng Thanh Dương ra khỏi rừng dâu, sắc mặt Thiếu Hạo tái nhợt, khóe môi Thanh Dương ứa máu, hiển nhiên cả hai đều bị thương không nhẹ.

Chu Du cuống quýt móc đơn dược trong người ra đưa cho Thanh Dương nhưng y chỉ xua tay lạnh lùng, “Tục Mệnh đan của ngươi chẳng có tác dụng gì với ta đâu, cứ giữ lại cho mình đi!”

Xương Ý liền trêu: “Xem ra vẫn là Thiếu Hạo ca ca… à, Thiếu Hạo muội phu thắng rồi!” Hiếm lắm mới có khi chòng ghẹo bắt nạt được Thiếu Hạo, Xương Ý chưa nói dứt câu đã cười phá lên.

Thiếu Hạo nghe nói cười cười, chẳng thừa nhận cũng chẳng phủ nhận, tiến lên mấy bước quỳ xuống trước mặt Luy Tổ hành đại lễ, đổi giọng gọi bà là mẫu hậu.

Luy Tổ nhận ba lạy của y rồi ra hiệu cho Xương Ý đỡ y dậy.

Xương Ý nói với Thiếu Hạo: “Hồi nhỏ lần đầu tiên gọi Thiếu Hạo ca ca, ta đã ước giá mà Thiếu Hạo là ca ca của mình thật, ngờ đâu hôm nay chúng ta lại thành người một nhà thật rồi!”

Thiếu Hạo vẫn tươi cười như thường, nhưng ánh mắt thoáng vẻ hoảng hốt.

Luy Tổ một tay dắt A Hành, một tay dắt Xương Ý bước vào tẩm điện, Thanh Dương và Thiếu Hạo sánh vai đi sau.

A Hành cùng Xương Ý vẫn chứng nào tật nấy, vừa đi vừa nói, vừa nói vừa cười, râm ran cả lên. Xương Ý đấu võ mồm không lại A Hành còn định quay lại kêu Thiếu Hạo đòi phân xử.

Thiếu Hạo chỉ cười không nói gì, nụ cười từ khóe môi lan dần lên ánh mắt. Cung đình Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt, y không có mẹ, cũng chẳng có huynh đệ ruột rà, trong trí nhớ, từ nhỏ y đã phải để ý lời ăn tiếng nói từng chút một, luôn luôn đề phòng để khỏi bị người ta hãm hại, xưa nay chưa bao giờ làm con của một người mẹ, cũng chưa bao giờ làm huynh trưởng của các em. Y cứ ngỡ rằng vương tộc chính là như vậy, nhưng lần này y mới cảm nhận được, thì ra anh chị em với nhau có thể thoải mái nói cười, thuận hòa vui vẻ thế này đây.

Đến giữa Ngọ, nghe kẻ hầu vào bẩm đoàn đưa dâu đã tiếp cận Hiên Viên sơn, Xương Ý cuống quýt lên, chân tay như thừa thãi cả, vừa đội mũ mặc áo vừa luôn miệng hỏi Thiếu Hạo, “Hôm đó lúc đón A Hành về, đệ nói những gì?” Chẳng đợi Thiếu Hạo trả lời, y lại nói tiếp: “Hôm đó hai người suôn sẻ hết mọi bề, lỡ hôm nay có sự cố gì, ta phải làm sao đây?”

A Hành và Thiếu Hạo đưa mắt nhìn nhau, Thiếu Hạo mỉm cười làm thinh còn A Hành cười đáp: “Tứ ca yên tâm đi, nếu huynh không xử lý được thì Tứ tẩu sẽ xử lý!”

Xương Ý lườm A Hành rồi ngẩng lên trời lẩm nhẩm cầu khẩn: “Lạy trời cho mọi bề suôn sẻ, mọi bề suôn sẻ!” Khấn xong vẫn chần chừ bất động, lại quay sang Thanh Dương, “Đại ca, huynh cùng xuống núi với đệ nhé?” Gương mặt y đầy vẻ nài nỉ, tội nghiệp vô cùng, hệt như hồi nhỏ mỗi khi có chuyện gì rắc rối lại đi tìm Đại ca nhờ vả.

Thanh Dương chịu hết nổi bèn đẩy thẳng Xương Ý vào xe mây, sốt ruột mắng, “Đệ đi rước dâu chứ đâu phải đi đánh lộn, ta đi theo làm gì? Mau đi nghênh đón cô dâu đi!”

Xương Ý vẫn bấu chặt tay áo Thanh Dương, căng thẳng nài nỉ: “Đại ca, huynh đợi đã, đệ còn muốn hỏi…”

“Hỏi cái gì mà hỏi? Ta đã lấy vợ đâu mà biết!” Thanh Dương giật tay ra, một chưởng quét qua lưng chim loan kéo xe mây, chim loan liền hót vang bay thẳng xuống núi.

Xe mây tròng trành nghiêng ngả rồi biến mất giữa biển mây, tiếng gọi của Xương Ý vẫn văng vẳng lại: “Đại ca, Đại ca…” Thanh Dương bực bội cau mày.

A Hành cười lăn cười bò với Thiếu Hạo: “Trong mắt Tứ ca, Đại ca cái gì cũng biết, cái gì cũng giỏi, việc gì cũng phải tìm Đại ca.”

Thiếu Hạo cười cười không đáp. Trên danh nghĩa, y có hơn hai mươi người em trai, nhưng chẳng đứa nào coi y là Đại ca cả, y chỉ là hòn đá ngáng đường chúng bước lên vương vị mà thôi. Nhìn Thanh Dương bực bội như vậy, nhưng kỳ thực trong lòng hắn rất sung sướng. Cả hai đều hiểu, ở vị trí của mình không thể tin tưởng bất kỳ ai, cũng chẳng có ai dám tin tưởng hai người bọn họ, có được một người toàn tâm toàn ý tin cậy là chuyện chỉ có thể gặp chứ chẳng thể cầu.

Đợi đoàn xe rước dâu của Xương Ý đi xa, Thanh Dương, Thiếu Hạo và A Hành mới thong thả xuống núi.

Thấy hai bên đường là hai hàng cây cao vút, thân đỏ sẫm, lá xanh biếc, A Hành tò mò hỏi: “Cây gì thế này?”

Chu Du đắc ý cười khoe: “Trừ giống phù tang ở Thang cốc[2], trên đại hoang còn ba loại thần mộc khác là nhược mộc, tầm mộc và kiến mộc. Đây chính là nhược mộc nổi tiếng khắp nơi. Nhược mộc rời khỏi Nhược Thủy thì không thể ra hoa, nhưng nô tỳ đã khiến bọn chúng nở hoa vào hôm nay đó.”

[2] Thang cốc hay còn gọi là Dương cốc, theo truyền thuyết là nơi mặt trời mọc. Theo Sơn Hải kinh, ở Thang cốc có loài cây phù tang, là như lá dâu, còn gọi là phù mộc. (ND)

Dọc hai bên đường bọn họ đi qua, nhược mộc nở hoa rực rỡ từ chân núi lên tận đỉnh, từng đóa từng đóa hoa to bằng miệng chén đỏ chói, nhuộm thắm cả đất trời.

A Hành ngây ra trước sắc đỏ rạng rỡ ấy, dưới biển hoa đở thắm kia, nàng nhìn thấy nổi lên một bóng áo đỏ rực còn chói mắt hơn.

Đặt cạnh vóc dáng cao lớn, khoác tấm áo đỏ rực như máu của Xi Vưu, những cây nhược mộc chót vót đều nhạt nhòa hẳn đi. Hắn chăm chú nhìn A Hành, vẻ mặt lạnh lùng xa cách nhưng cặp mắt lại rực lên nóng bỏng, bao ánh nhìn là bấy nhiêu khổ đau và khát vọng. A Hành cũng ngơ ngẩn nhìn hắn, nghe đau đớn quặn lên trong lòng.

Xe mây đỗ lại, Thanh Dương và Thiếu Hạo bước tới trước mặt Xi Vưu nói lời cảm tạ bọn họ không quản đường sá xa xôi tới tham dự hôn lễ. A Hành sững sờ nhận ra đây chẳng phải là ảo ảnh, Xi Vưu quả thật đang đứng dưới gốc nhược mộc.

Chẳng ngờ lần này lại gặp Xi Vưu ở đây, A Hành hoảng hốt, không dám nhìn về phía hắn, cũng chẳng dám tiến lại, đành vờ chăm chú ngắm nhược mộc hoa.

Thấy Thanh Dương gọi nàng qua bên đó, A Hành biết mình trốn không nổi, đành cố định thần, tươi cười bước tới trước mặt bọn họ.

Có đông đủ mọi người, Vân Tang không muốn vồn vã với A Hành nên chỉ trao đổi xã giao mấy câu, giữ đúng lễ tiết vương tộc gặp nhau. A Hành cũng biết Vân Tang nhiều mối lo âu, giờ đây nàng mới dần dà hiểu được giữa vương tộc với nhau có bao nhiêu phức tạp. Chẳng phải Đại ca nàng và Thiếu Hạo trước mặt mọi người vẫn khách sáo xã giao với nhau đó thôi, nghĩ vậy, nàng cũng bày ra một nụ cười giả tạo che mắt quan khách.

Nào ngờ gã Hậu Thổ lạ hoắc vừa gặp A Hành đã tỏ vẻ thân thiết vô cùng, khác hẳn thái độ nhã nhặn kín đáo thường ngày, còn kéo cả Mộc Cận tới hành lễ với A Hành, luôn miệng gọi “vương tử phi”, trái lại, Xi Vưu chỉ hờ hững vái một cái: “Vương cơ dạo này ổn chứ?”

Mộc Cận ngỡ Xi Vưu không hiểu lễ nghi nên lỡ lời, bèn nhắc khẽ: “Nữ tử đã thành hôn sẽ xưng hô theo vai vế bên chồng, phải gọi là vương tử phi.”

Thanh Dương và Thiếu Hạo hình như đều không nghe thấy gì, A Hành rung động, lo âu cùng vui mừng dâng ngập cả lòng, nỗi oán hận đã vơi đi quá nửa, liền đáp: “Mọi chuyện ổn cả.”

Xi Vưu cười hỏi tiếp: “Chẳng biết những lúc vương cơ ân ái mặn nồng cùng Thiếu Hạo, có khi nào chạnh lòng nhớ tới người xưa chăng?”

Mọi người nghe nói đều tái mặt, may sao đúng lúc đó đoàn đưa dâu Nhược Thủy đến nơi, hỷ nhạc rộ lên rộn rã, át cả câu hỏi của Xi Vưu.

Hai ả thị nữ vén rèm xe, nữ tử áo đỏ rực ngồi ngay ngắn bên trong, dung mạo thanh tú, mày mắt đoan trang, áo cưới nàng vận cũng chiết eo hẹp tay hệt như phục trang cưỡi ngựa bắn cung, càng làm nổi bật vẻ hiên ngang hào sảng.

Hỷ nương đặt một đầu dải lụa hồng vào tay tân nương, đầu kia do Xương Ý cầm, ra hiệu cho tân nương đi theo Xương Ý. Chỉ cần xuống khỏi xe đưa dâu theo Xương Ý lên xe loan, nàng đã trở thành con dâu của Hiên Viên.

Nào ngờ tân nương nắm lấy dải lụa nhưng chẳng hề bước xuống, trái lại còn đứng lên càng xe, ngạo nghễ đưa mắt nhìn chúng nhân bên dưới. Bị khí thế của nàng chấn nhiếp, tiếng nói cười xôn xao chợt ngưng bặt.

Xương Ý đang căng thẳng lo lắng nên vẫn chưa phát hiện ra, chỉ nắm chặt lấy dải lụa hồng cắm cúi đi, đột nhiên dải lụa căng ra khiến y suýt chút ngã lăn quay, bèn quay phắt lại, trông thấy tân nương đang ngạo nghễ đứng trên xe, toàn thân hỷ phục rực rỡ lóa mắt.

Trọc Sơn Xương Phó giơ tay làm hiệu, lập tức đoàn đưa dâu phía sau ngưng tấu nhạc, cả đám người dũng mãnh như hổ báo đều ngẩng đầu ưỡn ngực, đứng thẳng tắp nghiêm trang.

Đoàn rước dâu của Hiên Viên thấy đối phương như vậy cũng từ từ ngưng tấu nhạc, một trời rộn rã tiếng kèn sáo chợt trở nên tĩnh lặng trang nghiêm lạ thường.

Trọc Sơn Xương Phó cao giọng: “Hôm nay, Trọc Sơn Xương Phó của Nhược Thủy tộc ta được gả cho Hiên Viên Xương Ý của Hiên Viên tộc, cảm ơn các vị chẳng quản đường sá xa xôi tới tham dự hôn lễ, xin các vị làm chứng cho chúng ta.”

Khách khứa khắp nơi đều dồn mắt về phía Trọc Sơn Xương Phó, không đoán ra nàng định làm gì.

Xương Phó nhìn thẳng vào mắt Xương Ý, “Nữ nhi Nhược Thủy tộc bọn thiếp suốt đời chung thủy với một chồng, đời này kiếp này thiếp nguyện theo chàng đến răng long đầu bạc, chàng có bằng lòng cả đời chỉ có mình thiếp là vợ không?”

Thế này là muốn Xương Ý thề không nạp phi trước bàn dân thiên hạ, Thanh Dương biến hẳn sắc mặt, định bước ra lên tiếng nhưng A Hành đã níu lấy tay y, ánh mắt lộ vẻ khẩn cầu: “Đại ca!”

Thanh Dương giật mạnh tay A Hành ra, bước tới trước mặt Xương Phó định lên tiếng, nào ngờ Xương Ý đã định thần lại, chẳng chút do dự đáp ngay: “Ta bằng lòng!”

Tiếng xôn xao rộ lên khắp nơi, Thanh Dương giận tím mặt, trừng mắt nhìn Xương Ý, ánh mắt vô cùng phức tạp.

Xương Phó lại hỏi tiếp: “Tương lai thiếp trở thành tộc trưởng Nhược Thủy, người trong tộc sẽ liều mình chiến đấu đến người cuối cùng vì thiếp, thiếp cũng phải bảo vệ bọn họ đến hơi thở cuối cùng, nếu lấy thiếp, chàng phải cùng thiếp bảo vệ cho nhược mộc của Nhược Thủy năm năm đều nở hoa, chàng có bằng lòng không?”

Xương Ý mỉm cười bình thản đáp: “Ta chỉ biết rằng từ nay về sau ta là phu quân của nàng, ta sẽ dùng tính mạng mình để bảo vệ cho nàng.”

Xương Phó nhoẻn miệng cười tươi tắn, hạnh phúc càng khiến nhan sắc của nàng thêm rạng rỡ, còn đẹp hơn cả những đóa nhược mộc hoa đỏ thắm rợp trời kia. Nàng nắm chặt dải lụa hồng bước xuống xe, chạy vụt tới trước mặt Xương Ý, tươi cười tuyên bố với tộc nhân: “Từ nay về sau, Xương Phó sẽ chung họa phúc, cùng sống chết với Xương Ý.”

Sau lưng nàng, tất cả phụ nữ Nhược Thủy đều rộ lên hoan hô vang trời dậy đất. Còn Hiên Viên tộc bên này thì ngượng ngùng im lặng, mọi người đều nhìn về phía Thanh Dương, chẳng biết nên phản ứng ra sao.

Thấy A Hành tươi cười cất tiếng hoan hô, Chu Du liếc trộm Thanh Dương đang tái mặt vì giận rồi cũng ra sức vỗ tay, vừa vỗ tay vừa hoan hô theo A Hành, Hiên Viên tộc thấy vương cơ như vậy mới rộ lên hoan hô cười nói, chẳng chút e dè.

Nam nhi Nhược Thủy thổi kèn, nữ nhi rung chuông Nhược Mộc Hoa, vừa ca hát vừa nhảy múa, lại khiêng ra từng vò lớn rượu ngon, rót cho mỗi vị khách một bát thật lớn. Mọi người cũng vui lây cùng những nàng con gái Nhược Thủy chân thành thẳng thắn, tất cả nghi lễ ban đầu loạn hết lên, đành hùa theo bọn họ nâng chén chúc mừng.

Xương Ý dắt Xương Phó lại trước mặt Thanh Dương và A Hành, giới thiệu: “Đây là Đại ca ta, đây là tiểu muội của ta, còn đây là muội phu Thiếu Hạo.”

Vừa nãy trước bao nhiêu khách khứa đại hoang, Xương Phó hào sảng hiên ngang, dõng dạc thẳng thắn nhường ấy, vậy mà lúc này lại đỏ mặt thẹn thùng, hồi hộp hành lễ chào hỏi Thanh Dương, như sợ Thanh Dương ghét bỏ mình.

Thật lòng A Hành rất thích vị Tứ tẩu này, vội rút ngay lễ vật đã chuẩn bị sẵn, hai tay đưa cho Xương Phó, “Tẩu tẩu, thanh chủy thủ này là muội và Thiếu Hạo rèn cho tẩu đấy.” A Hành vẽ kiểu, Thiếu Hạo dùng sắt Hàn sơn, nước Thang cốc, lửa mặt trời, rèn suốt một năm mới xong.

“Là binh khí do Cao Tân Thiếu Hạo rèn ư?” Đây quả là món quà mà mọi kẻ học võ đều khao khát, Xương Phó không nén nổi kinh ngạc, liền nhận lấy xem thật kỹ. Chuôi và vỏ đều bằng gỗ phù tang, bên trên khắc hoa văn nhược mộc hoa, Xương Phó từ từ rút chủy thủ ra, thấy lưỡi dao lấp loáng như nước, soi gương được. Nàng thích thú không rời tay, vội cảm ơn A Hành và Thiếu Hạo.

Để đáp lễ, nàng tháo chiếc vòng bằng nhược mộc trên tay xuống, đeo vào tay A Hành, “Chiếc vòng này chỉ làm bằng gỗ thường, nhưng có khắc lời thề của nhi nữ Nhược Thủy chúng ta trên đó, bất kể lúc nào muội có gặp khó khăn, nhi nữ Nhược Thủy chúng ta sẽ đeo cung tên che chắn cho muội.”

A Hành ung dung hành lễ, “Đa tạ tẩu tẩu.”

Xương Ý đăm đăm nhìn thê tử, ánh mắt ngập tràn niềm vui cùng hạnh phúc khiến Xương Phó đỏ mặt cúi đầu, chẳng dám ngẩng lên.

Thấy tình cảnh đó, Thanh Dương chỉ biết than thầm, bất lực bảo Xương Ý: “Nghi lễ loạn hết lên rồi, thôi hai người lên núi luôn đi, phụ vương và mẫu hậu đang ở Triêu Vân điện chờ bọn đệ tới dập đầu hành lễ đó.”

Chu Du vội gọi xe ngọc lại.

A Hành tiễn hai người lên xe rồi ngơ ngẩn trông theo, cỗ xe đã khuất sau làn mây mà vẫn chưa định thần lại được.

Bên tai chợt vang lên tiếng Xi Vưu, “Cô rõ những ân ân ái ái như của bọn họ lắm nhỉ? Duyên mới đã là châu là ngọc, tình xưa chỉ là mắt cá, còn đoái hoài tới làm gì, sai A Tệ đến đưa áo làm chi?”

A Hành giật thót người, vội lách mình né ra mấy bước mới kịp trấn tĩnh quay lại đáp: “Ta cùng Thiếu Hạo tình đầu ý hợp, đầm ấm hạnh phúc, chẳng hiểu Đại tướng quân đang nói gì nữa.”

Căm hận và bất lực ngập đầy trong mắt Xi Vưu, hắn đau đớn thốt, “Cô không hiểu ta coi cô là gì thật ư? Cô đúng là đồ ong bướm lả lơi, nhu nhược hèn nhát, ích kỷ tàn nhẫn, vậy mà ta vẫn không sao quên nổi.”

Thấy Thanh Dương và Thiếu Hạo đều đang nhìn mình, A Hành sầm mặt, “Có lẽ trước đây ta đã làm gì đó khiến Đại tướng quân hiểu lầm, nhưng giờ ta đã là vương tử phi của Cao Tân, xin ngài hãy tự trọng.” Dứt lời, nàng đi thẳng về phía Thiếu Hạo, đứng bên cạnh y, bấy giờ Thanh Dương mới dời mắt đi nơi khác.

Xi Vưu phá lên cười ha hả, vừa cười vừa bưng bát rượu lên tu ừng ực uống cạn.

A Hành nghe lòng lạnh buốt, đành ráng giữ nụ cười trên môi, đờ đẫn nhìn thẳng phía trước.

Thiếu nữ Nhược Thủy bưng vò rượu tới chúc mừng, Thiếu Hạo liền đưa A Hành một bát, “Nhược tửu của Nhược Thủy rất có phong vị riêng, nàng nếm thử xem.”

A Hành mỉm cười bưng lên uống, chỉ thấy đắng chát trong miệng, “Ừm, ngon lắm.”

Hậu Thổ bưng hai bát rượu tiến lại, A Hành ngỡ gã định kính rượu trò chuyện với Thiếu Hạo nên khéo léo tránh đi, nào ngờ gã bước tới đưa một bát cho nàng, chăm chú nhìn nàng cười cười không nói, A Hành đành ngượng nghịu cười đáp lễ, “Đa tạ Tướng quân” rồi ngửa cổ dốc cạn bát rượu.

Ánh mắt Hậu Thổ không giấu nổi thất vọng, “Vương tử phi không nhận ra tôi ư?”

A Hành sững người, mấy năm nay, Hậu Thổ nổi danh ngang với Xi Vưu, đều là anh tài mới nổi xuất sắc nhất Thần Nông tộc gần đây, đương nhiên nàng đã nghe tiếng từ lâu nhưng mới chỉ gặp mặt một lần duy nhất lúc cùng Xi Vưu lên Thần Nông sơn tìm Viêm Đế xin thuốc giải, đúng lúc gã phụng mệnh trấn giữ Thần Nông sơn. Lần đó nàng lại dùng Trụ Nhan hoa thay đổi dung mạo nên nói đúng ra A Hành đã gặp Hậu Thổ nhưng Hậu Thổ chưa từng gặp A Hành. Có điều, vẻ thất vọng hằn rõ trong mắt gã khiến A Hành hơi cảm động, toan hỏi rõ tại sao thì Xích điểu đã đậu xuống vai Hậu Thổ, thả tấm thẻ ngọc nho nhỏ vào tay gã, Hậu Thổ liền nghiêm mặt, nhìn A Hành định nói gì đó nhưng lại thôi, sau cùng chỉ hành lễ rồi vội vã đi khỏi.

Lòng A Hành trăm mối ngổn ngang, lại chẳng bụng dạ nào mà nghĩ ngợi nhiều, bèn tìm một góc yên tĩnh, ừng ực nốc Nhược tửu như uống nước.

Vân Tang lặng lẽ tới gần nhưng thấy Chu Du đứng hầu bên A Hành, nàng chỉ cười nói mấy lời khách sáo rồi quay mình định đi, nào ngờ A Hành bỗng níu lại, “Không sao đâu, Chu Du là thị nữ của Đại ca muội, có thể tin được.” Đoạn quay sang nửa năn nỉ, nửa ra lệnh cho Chu Du: “Tỷ tỷ tốt bụng ơi, muội muốn nói riêng với Vân Tang mấy câu, tỷ canh chừng giùm bọn muội với.”

Trước khi đi, Thanh Dương chỉ dặn Chu Du chông trừng A Hành, không được để A Hành cùng Xi Vưu gặp riêng nhau chứ không dặn không cho A Hành cùng Vân Tang nói chuyện riêng, nên Chu Du mau mắn nhận lời, bước sang một bên canh chừng.

Vân Tang ngồi xuống cạnh A Hành, chăm chú nhìn nàng, “Nghe nói muội cùng Thiếu Hạo ân ái mặn nồng, keo sơn khăng khít?”

A Hành gượng cười, ngửa cổ ừng ực dốc cạn bát rượu.

Vân Tang hiểu rõ ngọn ngành, chỉ biết thở dài, “Xương Phó thật đáng ngưỡng mộ! Có thể tự do thoải mái, muốn yêu thì yêu, không chịu chung chồng cùng kẻ khác liền buộc Tứ ca muội lập lời thề trước mặt mọi người. Tứ ca muội cũng rất chân thành, biết rõ phụ vương muội sẽ nổi giận, vậy mà vẫn lập lời thề không chút do dự.”

A Hành liếc nàng, “Tỷ cần gì phải ngưỡng mộ người khác? Viêm Đế Du Võng là em trai tỷ, đâu thể ép buộc được tỷ, nếu tỷ chịu hạ giá[3] thì Nặc Nại cũng chẳng ngần ngại lập lời thề, suốt đời suốt kiếp ở bên tỷ.”

[3] Hạ giá: chỉ việc công chúa (trong tác phẩm này là “vương cơ”) kết hôn với người có địa vị thấp hơn mình, ví như tướng quân, quan lại…

“Nha đầu chết tiệt, ăn nói càng lúc càng không ra thể thống gì cả.” Vân Tang đỏ bừng mặt, trong vẻ ngượng ngùng lại toát lên bao ngọt ngào êm dịu không lời.

Trông bộ dạng Vân Tang, A Hành bật cười, xem ra lần trước Nặc Nại lên Thần Nông sơn cũng chẳng uổng công, mọi hiềm khích giữa đôi bên đã hóa giải cả rồi, “Chừng nào đến tỷ và Nặc Nại?”

“Chừng nào cái gì?” Vân Tang giả vờ không hiểu.

“Chừng nào thành hôn đó! Tỷ là Trưởng vương cơ của Thần Nông, hạ giá lấy Nặc Nại cũng có phần thiệt thòi, có điều đèn nhà ai nhà nấy rạng, cần gì quan tâm kẻ khác nói gì, chỉ cần Nặc Nại kiên trì nhẫn nại, nhất định Thiếu Hạo sẽ giúp y.”

Vân Tang gật đầu, “Nặc Nại chẳng nhẫn nại thận trọng được thế đâu, y chưa từng coi ta là vương cơ, chỉ cần ta đồng ý, y sẽ chính thức lên đỉnh Tử Kim cầu hôn.”

“Vậy tại sao…”

“Du Võng là đệ đệ ngoan của ta, chuyện gì nó cũng nghĩ cho ta, lẽ nào ta có thể ích kỷ không nghĩ cho nó ư? Tính tình Du Võng muội biết rồi đấy, ngai vị này nó ngồi chật vật vô cùng, bọn Chúc Dung lúc nào cũng chòng chọc nhìn vào nó, hiện giờ Xi Vưu chưa đủ lông đủ cánh, chỉ có ta mới miễn cưỡng trấn áp được chúng đôi phần, nếu bây giờ ta thành hôn, lại gả cho một tướng quân ngoại tộc thì sẽ rất bất lợi cho Du Võng, nên ta đành nói Nặc Nại đợi ta hai trăm năm. Hai trăm năm nữa, Xi Vưu đủ khả năng nắm giữ quân đội Thần Nông, có hắn phụ tá Du Võng, ta mới có thể yên tâm xuất giá.” Vân Tang cười, đoạn thở phào nhẹ nhõm, “Lúc đó ta cũng có thể thật sự từ bỏ thân phận Trưởng vương cơ, làm một người phụ nữ bình thường, kiến thức nông cạn, bụng dạ hẹp hòi, chỉ lo toan về gạo dầu mắm muối, ngày ngày nấu canh bồi bổ cho chồng.”

A Hành vui vẻ nói, “Chúc mừng tỷ tỷ! Bao năm nay tỷ đã phải nghĩ cho cha, cho muội muội đệ đệ, cũng đến lúc nên nghĩ cho chính mình rồi.”

Vâng Tang cười hỏi lại: “Thế còn muội? Từ nhỏ muội đã ngang ngược quật cường, ta chẳng tin muội chịu nghe phụ vương muội sắp xếp đâu.”

“Muội tự có tính toán của mình.” A Hành rót hai bát rượu, đưa một bát cho Vân Tang, “Tỷ thấy hôm nay Tứ ca muội hạnh phúc nhường nào rồi đấy, thuở nhỏ, bất kể chuyện gì Tứ ca cũng nhường nhịn muội, bảo vệ cho muội, bây giờ muội cũng nên nhường Tứ ca, bảo vệ Tứ ca để Tứ ca có thể yên ổn ở bên người Tứ ca thật lòng yêu thương. Chỉ cần mẹ và Tứ ca được bình yên, dù có thiệt thòi đến mấy muội cũng vẫn vui vẻ.”

Vân Tang lắc đầu cảm thán, “A Hành, muội lớn thật rồi!” Nhưng tự đáy lòng, Vân Tang lại mong mỏi A Hành có thể mãi mãi như khi trước xiết bao.

“Cạn!” A Hành chạm bát với Vân Tang, Vân Tang vốn không thích uống rượu nhưng hôm nay bất luận ra sao, nàng cũng phải uống cùng A Hành.

Hai người cứ thế chuốc hết bát này sang bát khác, chẳng bao lâu Vân Tang đã say lăn ra không biết trời trăng gì, để lại một mình A Hành tự rót tự uống, mãi đến lúc mê man mất hết ý thức.

Hết chương 14.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 12-6-2014 01:49 PM
Chương 15


Ngỡ vô tình, thực vẫn hữu tình[1] .


15.1


[1] Trích trong bài thơ Trúc chi từ kỳ thập của Lưu Vũ Tích (772 – 842). (ND)



Từ lâu y đã quen với cảm giác từ từ bị bóng đêm nhấn chìm thế này rồi, bởi từ nhỏ đến lớn, mỗi ngày của y đều là như vậy. Hết lần này đến lần khác, y đã quen bình thản nhìn từng kẻ thân bằng quyến thuộc vứt bỏ mình chẳng hề do dự, đến nỗi y cảm thấy như vậy mới là bình thường.


Bên dưới Hiên Viên sơn vẫn tưng bừng hỷ khí nhưng tình hình trên núi lại vô cùng căng thẳng. Thiếu Hạo, Thanh Dương, Xi Vưu, Hậu Thổ trước sau đều nhận được một tin giống nhau.

Hà Đồ Lạc Thư xuất hiện tại Ngu uyên.

Theo truyền thuyết, Hà Đồ Lạc Thư là địa đồ do Bàn Cổ đại đế tạo ra, không chỉ ghi lại hình thế núi sông khắp đại hoang mà còn chép cả những thay đổi khí hậu ở từng địa phương, nếu có được bức địa đồ đó, chẳng những nắm được địa lý các nơi mà còn có thể lợi dụng đặc điểm khí hậu để bày trận, là bảo bối binh gia hằng tranh đoạt.

Sau khi Bàn Cổ đại đế qua đời, Hà Đồ Lạc Thư cũng biến mất, nghe đồn Bàn Cổ đại đế đã giấu nó vào một quả trứng ngọc, giao cho gà vàng trông coi, gà vàng liền biến thành một ngọn núi. Mấy vạn năm nay, vô số kẻ trong Thần tộc đã đạp nát núi non trên đại hoang để tìm Hà Đồ Lạc Thư nhưng chẳng thấy tăm tích, vậy mà hôm nay lại có trinh thám của Thần tộc trông thấy gà vàng trong truyền thuyết xuất hiện gần Ngu uyên.

Đừng nói Thiếu Hạo, Thanh Dương, Hậu Thổ thảy đều biến sắc mà ngay cả kẻ luôn hờ hững trước mọi việc là Xi Vưu cũng chuẩn bị khởi hành đến Ngu uyên.

Tỉnh lại, A Hành phát hiện mình đang nằm trong Chỉ Nguyệt điện, nơi ở của Tam phi Đồng Ngư thị, còn phụ vương khoác áo bào đen đang ngồi lặng bên song, vầng trăng vằng vặc nửa ẩn nửa hiện sau làn mây như chiếc lưỡi câu ngọc ngà móc vào khung cửa, tựa hồ chính vầng trăng đã kéo cửa sổ mở ra.

Phụ vương nàng ngắm trăng đến ngơ ngẩn xuất thần như đang nhớ lại chuyện gì đó xa xưa lắm, vẻ dịu dàng hoang mang khôn tả còn đọng trên gương mặt chưa phai nét tuấn tú.

Chưa bao giờ thấy phụ vương kỳ lạ như thế này, A Hành chỉ biết nín thở, âm thầm quan sát.

Chợt Hoàng đế nhìn ánh trăng cả cười, vẻ ôn nhu lập tức biến mất: “Tỉnh rồi thì lại đây”.

A Hành vội lại gần quỳ xuống bên gối ông, “Sao phụ vương còn chưa ngủ?”

Hoàng đế cười nhìn nàng, “Thiếu Hạo đối tốt với con chứ?”

A Hành cúi đầu, “Tốt lắm, thưa phụ vương!”

“Ta đang mong được bế cháu ngoại đấy nhé!”

A Hành lí nhí, “Con biết, nhưng chuyện này không gấp được đâu ạ.”

“Các con đều thuộc dòng dõi Thần tộc chính thống, Thiếu Hạo linh lực cao cường, hai đứa lại ân ái mặn nồng như thế, theo lý mà nói…” Hoàng đế cau mày. “Lẽ nào còn có ẩn tình? Nhân lúc còn đang ở nhà chưa về bên ấy, để thầy thuốc khám thử xem sao.”

Một luồng hơi lạnh buốt chạy dọc từ chân lên khiến A Hành nhũn cả người, lát sau mới nhận ra phụ vương đang hoài nghi Thiếu Hạo lén giở thủ đoạn chứ không phải ngờ vực mình.

Hoàng Đế lại nói: “Phải rồi! Vừa nãy nhận được tin báo nói Hà Đồ Lạc Thư đã xuất hiện tại Ngu uyên. Con cũng biết đấy, Tây Lăng tộc của mẹ con tuy không dành được thiên hạ nhưng vẫn có địa vị ngang ngửa với Thần Nông và Cao Tân, đều là trọng thần dưới trướng Bàn Cổ đại đế. Mẹ con từng kể với ta rằng trong tộc có truyền thuyết nói Hà Đồ Lạc Thư không chỉ là một tấm địa đồ mà còn ẩn giấu bí mật trọng đại sánh ngang với Bàn Cổ khai thiên lập địa, ta nghĩ đây cũng là nguyên nhân khiến Thần Nông và Cao Tân huy động nhân lực rầm rộ như vậy, tuy ta chẳng tin mấy chuyện vu vơ đó nhưng quyết không thể để Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay hai phe kia được.”

“Mấy vạn năm nay, có biết bao tin đồn nhảm về Hà Đồ Lạc Thư rồi, chắc gì lần này đã là thật?”

“Bất kể thật hay giả chúng ta cũng nhất định phải tranh lấy, nếu để Thần Nông tộc dành được nó thì ngày tàn của Hiên Viên đã cận kề rồi đó. Thanh Dương đã dẫn thủ hạ tới Ngu uyên, nhưng Thiếu Hạo, Yến Long, Trung Dung của Cao Tân, Xi Vưu, Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ của Thần Nông cũng lũ lượt đổ về đó, để một mình Thanh Dương đi ta không yên tâm, muốn cử Xương Ý tới giúp đỡ.”

A Hành thấy lòng chùng hẳn xuống, nếu phụ vương thật sự muốn cử Tứ ca đi, sao còn giữ nàng lại Chỉ Nguyệt điện, dùng Tỉnh Tửu thạch làm nàng tỉnh rượu làm gì?

“Xin phụ vương cử con đi thay, đêm nay là tân hôn của Tứ ca, là đêm tân hôn đầu tiên và cũng là duy nhất của Tứ ca mà.”

Thấy Hoàng Đế yên lặng nhìn mình, A Hành quỳ xuống thưa: “Tuy linh lực của con không bằng Tứ ca nhưng con và Thiếu Hạo là vợ chồng, hơn nữa chuyện này đến cuối cùng là đấu trí chứ đâu phải là đấu dũng.”

Nghe nàng trình bày, Hoàng Đế cũng gật đầu ưng thuận, “Con nhớ lấy, nếu chúng ta không dành được thì thà hủy nó đi, quyết không để rơi vào tay kẻ khác.”

A Hành đập đầu thi lễ rồi đứng dậy toan đi.

“Hành nhi.”

A Hành nghe tiếng ngoảnh lại, Hoàng Đế liền đứng dậy, đặt hai tay lên vai nàng, “An nguy của cả Hiên Viên đều đặt lên vai con đó.”

Trước uy thế của phụ vương, A Hành cơ hồ nghẹt thở, chỉ biết gật đầu.

Đợi Hoàng Đế buông tay, nàng vội cúi đầu lui ra, đột nhiên, nàng ngẩng lên trông thấy Đồng Ngư thị đang đứng gần đó, cặp mắt sáng rực hệt như mắt mèo chòng chọc dán vào nàng.

A Hành giật thót mình, sực nhớ ra Đồng Ngư thị vừa mất con trai, nàng cũng lờ mờ hiểu được đôi phần, bèn bước lại hành lễ với bà ta, nhưng Đồng Ngư thị chẳng nói chẳng rằng, chỉ nghiến răng nghiến lợi nhìn nàng chằm chằm khiến A Hành lạnh cả người, vội cáo từ lui ra.

Giọng bà ta âm u vẳng lại sau lưng nàng: “Các người đừng vội đắc ý, ta nhất định phải khiến con đàn bà lòng dạ rắn rết Tây Lăng Luy nếm đủ mùi đau khổ!”

A Hành giận sôi gan, quay phắt lại.

Đồng Ngư thị chỉ mặt nàng cười sằng sặc: “Đại ca ngươi hại chết Huy nhi, nó đã muốn thiêu sống Huy nhi từ lâu rồi, nó hận Huy nhi thiêu chết Vân…”

Vừa nói đến đó Di Bành đã xông đến bịt miệng bà ta lại rồi quay qua cười xòa với nàng: “Mẹ ta bị kích động quá mức nên ăn nói linh tinh, muội đừng chấp nhé.”

“Cửu ca.” A Hành nguôi giận tươi cười tiến đế nhưng Di Bành đã kéo mẹ mình lùi lại, ánh mắt đầy cảnh giác.

Thấy vậy nàng khựng lại, lòng buồn mênh mang, Di Bành và nàng chỉ hơn kém nhau vài tuổi, lại học chung một thầy, thuở nhỏ vẫn ngày ngày chơi đùa cùng nhau, thân mật khăng khít, vậy mà sau này lớn lên, chẳng hiểu sao càng lúc càng xa lạ.

“Cửu ca, muội về đây.” Nàng gượng cười, rảo bước ra khỏi điện.

Ra khỏi Chỉ Nguyệt điện, A Hành liền kêu A Tệ bay thẳng tới Ngu uyên.

Gương mặt Đồng Ngư thị cứ chập chờn trong đầu nàng, lẽ nào Tam ca thật sự bị Đại ca hại chết ư? Sao lại thế? Vì Tam ca cản trở việc Đại ca kế thừa vương vị chăng?

Đột nhiên nàng giật thót mình, phụ vương thường ở lại Chỉ Nguyệt điện, lẽ nào không nghe thấy những lời linh tinh của bà ta? Nàng không muốn nghĩ xấu cho phụ vương, nhưng phụ vương trước dùng Tứ ca buộc nàng phải xung phong đi Ngu uyên, sau đó Đồng Ngư thị lại xuất hiện đúng lúc như thế khiến nàng không khỏi liên tưởng liệu đây có phải một lời cảnh cáo của phụ vương chăng? Cảnh cáo nếu nàng không đạt được Hà Đồ Lạc Thư thì mẹ nàng sẽ bị đẩy vào hiểm cảnh?

A Hành chợt thấy lạnh từ trong lạnh ra, cả người run lẩy bẩy, bèn rạp mình ôm chặt lấy A Tệ.

A Tệ cũng cảm nhận được, liền ngoảnh lại cọ cọ vào má nàng như an ủi.

Ngu uyên là nơi mặt trời lặn, nằm ở đầu cuối đại hoang, vùng cực Tây hoang vu không một bóng người, cũng là một trong năm thánh địa lớn từ thời thượng cổ, nhưng người trên đại hoang không ai hiểu vì sao nó lại được tôn làm thánh địa sánh ngang với Thang cốc nơi mặt trời mọc lên, Quy khư nơi đầu nguồn con nước, Ngọc sơn nơi ngọc linh quy tụ và Nam Bắc minh nơi hai cực hợp lại làm một. Ngu uyên sở hữu nguồn sức mạnh có thể nhấn chìm mọi thứ, chẳng sinh vật nào sống nổi ở đó, gọi là thánh địa, chi bằng gọi là ma vực còn đúng hơn, bởi vậy dần dà người đại hoang bèn gọi Ngu uyên là ma vực.

Lúc A Hành tới nơi là chính Ngọ, cũng là thời điểm sức mạnh của Ngu uyên suy yếu nhất trong ngày, khói đen vần vũ trên vùng trời Ngu uyên cơ hồ đã nhạt đi nhiều, nhưng chẳng có thần tiên hay yêu quái nào dám xông vào làn khói cuồn cuộn đó.

Liệt Dương sẵn tính nóng nảy chẳng đợi A Hành lên tiếng đã xông thẳng vào màn khói đen, lập tức khói đen quấn quanh mình nó kéo xuống, nhìn bên dưới cũng chỉ thấy mịt mù khói đen, chẳng trông rõ vật gì, càng xuống dưới, khói đen càng dày đặc như một thứ dầu đen kịt, Liệt Dương hơi sờ sợ vội lật mình bay vút lên, đỗ xuống vai A Hành.

A Hành nhìn qua con lạch không mọc nổi một ngọn cỏ, mắt trông về phía Tây chỉ thấy khói đen cuồn cuộn ngút mắt trào lên như sóng, lại tựa như mặt biển đen mênh mông chẳng thấy bến bờ, chẳng ai biết nó rộng bao nhiêu, cũng chẳng ai biết nó sâu chừng nào.

Nàng quay sang hỏi Chu Du: “Mọi chuyện thế nào rồi? Có phải là Hà Đồ Lạc Thư thật không đó?”

“Điện hạ đã dùng linh lực tra xét rồi, có vẻ lần này là thật đó.” Ả chỉ tay về phía vách núi ngoài cùng của Ngu uyên. Lúc này đây phân nửa vách núi vẫn chìm trong màn khói đen, chỉ có phân nửa lộ ra dưới ánh mặt trời, nửa đen nửa vàng, càng toát lên vẻ đẹp đầy quỷ dị.

“Nghe nói gà vàng chui vào sơn động, điện hạ đã đuổi theo hơn một canh giờ rồi.” Chu Du ngẩng đầu nhìn vầng dương đã bắt đầu ngả về Tây, thấp thỏm: “Mặt trời càng ngả về Tây thì sức mạnh nhấn chìm vạn vật của Ngu uyên càng mạnh lên, sau cùng còn hút luôn cả mặt trời vào, thần lực mạnh thế nào cũng không thoát nổi.”

Nàng liền giao A Tệ và Liệt Dương lại cho Chu Du, “Ngươi trông nom chúng giùm ta, đừng để chúng xông vào đó. Ta đi xem Đại ca thế nào.”

“Vương cơ phải cẩn thận đó! Nhớ ra khỏi Ngu uyên trước khi mặt trời lặn nhé!”

A Hành quăng tơ Thiên Tằm bám vào vách núi rồi xông thẳng vào cửa động.

Bên trong tối đen như mực, chẳng nhìn thấy bất cứ thứ gì, A Hành cầm mộc khúc mê cốc[2] soi đường, thận trọng tiến vào.

[2] Mê cốc: một loài thực vật được nhắc tới trong phần Nam Sơn kinh của Sơn Hải kinh, có thể phát sáng soi đường, đề phòng bị lạc. Theo Sơn Hải kinh chép lại: “Núi Chiêu Diêu có một loài cây, hình dạng như kẻ, màu đen, phát sáng, tên gọi mê cốc, đeo vào sẽ không bị lạc đường.”

Đi một lúc ước chừng một tuần trà, nàng trông thấy Thanh Dương. Y đang ngồi xếp bằng trên mặt đất, mặt tái nhợt, vạt áo lấm tấm máu, hiển nhiên đã bị trọng thương.

Trông thấy A Hành, y đùng đùng nổi giận, “Sao muội lại đến đây?”

“Huynh đến được, sao muội lại không thể?” Nàng tiến lại xem xét vết thương của y, “Là âm thương, Yến Long đả thương huynh sao?”

Nói rồi nàng dúi cho Đại ca một viên đan dược, “Thuốc này không trị được thương, nhưng có thể giúp huynh điều hòa nội tức.”

Thanh Dương chẳng buồn hỏi lại, nhận lấy uống ngay, “Nói chính xác là Yến Long và Thiếu Hạo cùng đả thương ta, sáng hôm qua tỷ thí với Thiếu Hạo đã bị thương nên hôm nay Yến Long mới thừa nước đục thả câu.”

“Phát hiện Hà Đồ Lạc Thư chưa?”

“Chỉ cần tìm thấy gà vàng, moi trứng ngọc trong bụng nó ra là được, tìm được gà vàng không khó, cái khó là làm sao đối phó được với đám cao thủ Thần tộc cũng đang lăm le giành Hà Đồ Lạc Thư kia.”

“Chúng đâu cả rồi?”

Thiếu Hạo đang bị Hậu Thổ cầm chân, y cũng đã thụ thương, hơn nữa thổ linh của Hậu Thổ lại khắc chế thủy linh của Thiếu Hạo, nếu như bình thường thì chẳng có gì đáng ngại, nhưng Ngu uyên là nơi vạn linh giai không, có mỗi thổ linh nên linh lực của Thiếu Hạo khó mà thi triển được, chỉ có thể đánh ngang tay với Hậu Thổ thôi. Chúc Dung và Cộng Công đụng phải Yến Long, đôi bên cũng đang giao tranh ác liệt. Trung Dung và Xi Vưu đuổi theo gà vàng cả rồi. Ta vừa tiến vào sơn động chưa bao lâu đã bị Yến Long đánh lén nên định tránh sang một bên, để chúng quần nhau chán đi đã.”

Cảm nhận được tình hình mới qua lưới tơ tằm giăng sẵn, Thanh Dương chợt rùng mình, “Xi Vưu đả thương Chúc Dung, bắt được gà vàng rồi…” Cả sơn động nhoáng lên một luồng sáng xanh biếc dịu dàng, chẳng cần Thanh Dương phải nói, A Hành cũng đoán ra, “Xi Vưu giành được Hà Đồ Lạc Thư rồi.”

Thanh Dương lập tức đứng dậy, “Thiếu Hạo đột nhiên biến mất trong thổ trận của Hậu Thổ, ắt hẳn là đuổi theo Xi Vưu rồi.”

A Hành kéo y lại, “Đại ca, để muội đi.”

Thanh Dương đưa mắt nhìn nàng, A Hành gấp gáp nói: “Hiện giờ chúng ta đuổi theo cũng chẳng kịp nữa rồi, chi bằng cứ đón lõng trên đường rút lui của chúng, huynh ở trong tối, muội ở ngoài sáng. Huynh ra cửa động đợi muội, lấy nhàn cự mệt, để muội đi dụ địch, đến lúc đó hai ta kẻ trong tối người ngoài sáng cùng phối hợp, nhất định sẽ có cơ hội đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư.”

Thanh Dương hành sự quả quyết, liền gật đầu, lẩn vào trong bóng tối.

A Hành vận linh lực lên tay, thận trọng tiến vào.

Vào sâu trong động, nàng mới thật sự cảm nhận được sự đáng sợ của Ngu uyên, mỗi bước đi, linh lực lại vơi đi một chút, hơn nữa, mặt trời càng ngả xuống gần Ngu uyên, mức độ tiêu hao càng tăng dần.

Đột nhiên, một lưỡi thổ đao từ dưới đất chỉa lên, nàng vừa tránh khỏi đã thấy vách động đâm ra tua tủa thổ kiếm, cứ chặt gãy lại thấy cái mới mọc lên, bốn bề đều là đất, những lưỡi kiếm cứ đâm ra liên miên không dứt.

Vách động sau lưng nàng như hóa thành một cánh cung, bắn ra từng loạt từng loạt thổ kiếm dày đặc như mưa, A Hành tránh né đến phờ cả người, chợt thấy một thanh thổ kiếm từ đằng trước đâm thẳng tới, nàng tự biết không sao tránh nổi, đành hét toáng lên, giương mắt trơ trơ nhìn thanh kiếm đâm vào ngực mình.

Hậu Thổ ẩn thân giữa đám đất đá nghe nàng hét vội thu kiếm lại, thanh kiếm dừng sựng trước ngực nàng, gã cũng theo đó mà hiện thân, ngạc nhiên gọi: “Bạt tỷ tỷ? Sao tỷ lại ở đây?”

A Hành còn chưa kịp hoàn hồn, nàng không sao tưởng tượng được gã Hậu Thổ tuấn tú nhã nhặn trước mặt chính là kẻ bừng bừng sát khí, suýt lấy mạng mình vừa nãy. Nàng bên khom lưng thi lễ: Đa tạ Tướng quân nương tay.”

Hậu Thổ vội đỡ lấy nàng, vừa thất vọng vừa hoảng hốt hỏi: “Nếu nói cảm tạ thì đệ cảm tạ tỷ tỷ mới phải, tỷ vẫn chưa nhớ ra đệ ư?”

A Hành giơ mê cốc soi vào mặt gã, nhìn thật kỹ. Thuở nhỏ nàng có tới Thần Nông một lần, nếu từng gặp gã thì hẳn là từ hồi đó, tiếc rằng chuyện xưa nàng đã quên gần hết, chỉ nhớ có lần mình đánh cho mấy tên vương tôn công tử vỡ đầu chảy máu, để xoa dịu cơn giận của họ, Đại ca phạt nàng phải bưng tảng đá nặng trịch đứng suốt đêm, nhưng tại sao lại đánh nhau nhỉ? À, hình như là bởi chúng ăn hiếp một đứa bé, tuy đứa nhỏ đó là hậu duệ vương tộc nhưng mẹ nó lại là người thuộc Yêu tộc, thân phận thấp kém nên luôn bị những đứa trẻ khác khinh miệt. Đứa nhỏ đó có đôi mắt nai dịu dàng vô hạn, tròng mắt nâu ngơ ngác, lông mi dài thật dài, lại rất mau nước mắt, mỗi khi bị đám trẻ kia làm nhục, nó chẳng hề phản kháng kêu la, chỉ rúc mình trong xó âm thầm khóc. Lúc nàng bị phạt đứng, nó lén lút tới thăm, còn hỏi nhỏ: “Có nặng không?”

Nàng lắc đầu cười còn nó lại bật khóc nức nở như thể chính mình bị phạt vậy, thoạt đầu nàng dịu giọng dỗ dành, nhưng càng dỗ nó càng khóc tợn, nước mắt lã chã như mưa, y hệt con gái, khiến nàng phát bực, bèn mắng cho mấy câu. Thằng nhỏ bị nàng mắng chỉ biết ngây ra nhìn nàng đến quên cả khóc.

A Hành nhìn vào mắt Hậu Thổ, lắp bắp, “Đệ… đệ là… đứa bé mau nước mắt đó ư?”

Vị anh hùng nổi danh khắp thiên hạ như Hậu Thổ không ngờ lại đỏ bừng mặt, “Là đệ đây, có điều mấy trăm năm nay đệ không khóc nữa. Đệ còn nhớ tỷ tỷ từng mắng rằng nam tử hán chỉ đổ máu chứ không rơi lệ mà!”

A Hành ngượng ngùng cười, buông lời cảm khái: “Giờ đệ đã trở thành nam tử hán chân chính rồi!”

Hậu Thổ vẫn bịn rịn chưa muốn đi khỏi, nhưng nơi này chẳng phải chỗ ôn lại chuyện xưa, đành nói: “Tỷ tỷ mau đi đi, thể chất của tỷ là mộc linh, mà Ngu uyên lại là nơi cây cỏ không mọc nổi, mặt trời càng ngả về Tây thì linh khí của tỷ sẽ càng bị khắc chế nhiều hơn, sau cùng e rằng chẳng còn sức mà rời khỏi đây nữa đâu.”

A Hành cười tán thành: “Vậy ta đi đây, à phải, đệ có gặp Thiếu Hạo không?”

Hậu Thổ ngượng ngập đáp: “Bọn đệ vừa giao thủ khi nãy, Thiếu Hạo thật không hổ là Thiếu Hạo, nơi này toàn thổ linh, y hình như lại đang bị thương, vậy mà đệ vẫn chỉ đấu ngang tay với y, có điều…”

“Sao cơ?”

Hậu Thổ áy náy nói: “Có điều về sau y nôn nóng xông ra khỏi thổ kiếm trận của đệ nên bị thương nhẹ. Nếu tỷ tỷ tới tìm y thì mau đi đi, giờ y bị thương nên lại thêm thương, nấn ná ở đây không tiện đâu.”

“Đa tạ đệ.”

Hậu Thổ vội nói: “Tỷ tỷ đừng khách khí với đệ như thế. Đệ nói rồi mà, kẻ nên cảm tạ là đệ mới phải. Có lẽ chuyện xưa đối với tỷ chẳng đáng gì nhưng đối với một đứa nhỏ bơ vơ cô độc, tự ti yếu đuối như đệ thì…” Hậu Thổ nghẹn lời, ánh mắt sẫm lại, lát sau mới bình tĩnh nói tiếp: “Nhờ có tỷ mà đứa nhỏ ngày xưa mới có thể trở thành Hậu Thổ hôm nay.”

A Hành biết từng câu chữ của gã đều xuất phát tự đáy lòng, bèn hào sảng nói: “Được! Từ nay về sau ta sẽ coi đệ như đệ đệ mình, không khách khí nữa.”

Hậu Thổ mừng rỡ nhoẻn cười.

Nhớ đến Xi Vưu cùng Thiếu Hạo, nàng lại càng sợ họ vì Hà Đồ Lạc Thư mà giao tranh, vội nhớn nhác toan đi, Hậu Thổ thấy vậy bèn trao cho nàng một quả cầu bằng đất vàng, “Nơi đây ngoài thổ linh thì vạn linh giai không, món pháp bảo này do đệ luyện ra, chỉ cần tỷ nắm nó trong tay, đi đến bất cứ nơi nào có đất cũng có thể ẩn thân, hòa mình vào đất, lúc nguy cấp quăng nó ra còn có thể điều khiển thổ linh trong vòng ba trượng xung quanh, nhưng không kéo dài được lâu đâu.”

A Hành toan mở miệng cảm ơn nhưng rồi lại lè lưỡi cười cười nhận lấy quả cầu gã đưa
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 12-6-2014 01:52 PM
Chương 15


Ngỡ vô tình, thực vẫn hữu tình[1] .


15.2


Mặc Hậu Thổ ba lần bảy lượt dặn dò nàng rời khỏi Ngu uyên cho mau, A Hành vẫn chạy thẳng vào trong, có điều càng lúc nàng càng thấy áp lực đè nặng lên mình như thể bị một bàn tay khổng lồ trì kéo xuống vậy.

Ngửi mùi máu tanh thoang thoảng trong không khí, nàng ngỡ Xi Vưu và Thiếu Hạo đã giao tranh với nhau, vội cuống cuồng chạy đến, tim cơ hồ nhảy thót ra khỏi lồng ngực, chẳng biết rốt cuộc là ai bị thương.

Lần theo mùi máu, nàng tìm tới nơi giao đấu nhưng chẳng gặp Xi Vưu, chỉ thấy Yến Long và Thiếu Hạo. A Hành nắm pháp bảo của Hậu Thổ trong tay, nín thở dán mình sau vách động âm thầm nghe ngóng.

Thiếu Hạo ngồi xếp bằng trên mặt đất, bao quanh là một bong bóng nước màu lam khổng lồ, Yến Long ôm đàn đi vòng quanh Thiếu Hạo, vừa đi vừa gảy, không nghe thấy tiếng đàn nhưng hễ y gảy là bong bóng nước quanh Thiếu Hạo lại co vào một chút, chẳng khác nào một trái tim đang khổ sở vùng vẫy.

Chẳng hiểu Thiếu Hạo bị thương ở đâu, chỉ thấy bạch bào trên người y vấy đầy máu.

Yến Long càng cười càng đắc ý, khí thế gảy đàn cũng càng lúc càng tiêu sái tự nhiên. Bóng nước bao quanh Thiếu Hạo càng lúc càng co lại.

Thiếu Hạo cất tiếng: “Ngươi thật không biết nặng nhẹ! Dù muốn giết ta cũng không nên đánh lén lúc ta giao thủ với Xi Vưu! Để Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay Xi Vưu, ngươi có từng nghĩ tới hậu quả chưa?”

Yến Long cười đáp: “Đừng lo, ta xử lý ngươi xong sẽ hỏi đến hắn. Hà Đồ Lạc Thư đương nhiên khó tìm, nhưng cơ hội để giết ngươi còn khó kiếm hơn, ta đợi hơn hai ngàn năm mới có ngày hôm nay đó. Hai tên đần độn Chúc Dung và Cộng Công tưởng rằng dựa vào năng lực của chúng mà cầm chân được ta ư, ha ha, ta chẳng qua chỉ vờ giết thời gian với chúng, để hai kẻ lợi hại thực sự là Hậu Thổ và Xi Vưu lại cho ngươi, sẵn tiện tiêu hao linh lực của ngươi thôi, chỉ tiếc ngươi quá vô dụng, đệ nhất cao thủ Thần tộc quái gì mà lại bị Hậu Thổ và Xi Vưu đả thương đến nông nỗi này.”

Vết máu trên áo Thiếu Hạo càng lúc càng nhiều, bong bóng nước cũng mỏng dần đi, thu nhỏ lại.

Yến Long vừa cười vừa lắc đầu, thưởng thức cảnh tượng Thiếu Hạo bất lực tránh né. Từ lúc sinh ra, Thiếu Hạo vẫn luôn là kẻ địch của y. Từ nhỏ đến lớn, y làm gì cũng bị đem ra so sánh với Thiếu Hạo, dù nỗ lực cỡ nào, làm tốt tới đâu, chỉ cần thua kém Thiếu Hạo thì đều thành công cốc. Từ nhỏ tới lớn, y cũng được coi là thiên tư siêu quần, thông tuệ xuất chúng, năng nổ giỏi giang, nhưng hễ đụng phải Thiếu Hạo là lại thất bại, đến nỗi y lấy làm thắc mắc, ông trời đã sinh ra Thiếu Hạo, sao còn sinh ra y? Lẽ nào y chỉ dùng để làm nền cho Thiếu Hạo thôi ư?

Đây là lần đầu tiên y trông thấy hy vọng thắng lợi, miễn là Thiếu Hạo không còn, y sẽ có thể trở thành Yến Long chứ không phải là Nhị vương tử Cao Tân thua kém Thiếu Hạo về mọi mặt nữa.

Yến Long dụng lực gảy liên tiếp ba lần khiến bóng nước choang một tiếng vỡ tan tành, Thiếu Hạo đổ gục xuống, máu từ tai rỉ ra.

Yến Long phá lên cười, bước lại gần Thiếu Hạo, nghe Thiếu Hạo thều thào nói: “Đừng lãng phí linh lực với ta nữa, ta không còn sức rời khỏi Ngu uyên đâu, ngươi mau đi đoạt lại Hà Đồ Lạc Thư đi.”

Yến Long tàn nhẫn bồi thêm cho Thiếu Hạo mấy cú đá, “Đừng làm bộ làm tịch như Cao Tân là của riêng ngươi nữa, lẽ nào chỉ mình ngươi biết lo cho dân cho nước còn ta thì không ư? Từ nay trở đi, ta chính là Đại vương tử của Cao Tân, việc của Cao Tân sẽ do ta lo liệu.”

Nói rồi y vận linh lực trên tay, toan hạ một chưởng lấy mạng Thiếu Hạo, đột nhiên Hậu Thổ từ đâu cười ha hả xông ra, lập tức hang động vặn vẹo biến hình, thổ đao từ dưới đất chỉa lên, khói bụi mù mịt khắp nơi, chẳng nhìn thấy gì hết.

Ngu uyên là lãnh địa của thổ linh, tại đây, thần lực của Hậu Thổ có thể tăng gấp bội, Yến Long lại không giỏi cận chiến, y giật thót mình, vội chăm chú tránh né thổ kiếm thổ đao, đồng thời cao giọng: “Hà Đồ Lạc Thư rơi vào tay Xi Vưu rồi.”

Giọng Hậu Thổ từ đâu đó vẳng lại, nghe chữ được chữ mất, “Thật không?”

Yến Long cười nhạt, “Ta gạt ngươi làm gì?”

“Vậy được, cáo từ!”

Chỉ lát sau khói bụi mịt mù đều tan đi, để lại mặt đất trống trơn, xem ra Thiếu Hạo nhân lúc hỗn loạn đã chuồn mất. Yến Long điên tiết bèn ngưng tụ linh lực toan đuổi theo, chợt y khựng lại nghĩ thầm, chẳng rõ vừa nãy Hậu Thổ nhìn trộm được bao nhiêu, lỡ như Tuấn Đế biết y ra tay giết Thiếu Hạo thì dù có lòng thiên vị, phụ vương cũng sẽ trừng phạt y thật nặng.

Sức mạnh của Ngu uyên càng lúc càng tăng, không thể nấn ná ở đây thêm nữa, Thiếu Hạo bị thương nặng như vậy ắt chẳng thể rời khỏi nơi này, chi bằng để Ngu uyên kết liễu Thiếu Hạo, sau này dù Hậu Thổ nói gì đi nữa y cũng có thể hùng hồn bẩm lại với phụ vương rằng Thiếu Hạo bị Hậu Thổ và Xi Vưu vây đánh, không may bị thương nặng, linh lực cạn kiệt, không kịp thoát khỏi Ngu uyên nên bỏ mạng, vậy là kín kẽ như áo trời chẳng thấy đường may.

Yến Long đắn đo một hồi rồi vội vã chạy thẳng ra ngoài.

Đợi y khuất dạng, Thiếu Hạo và A Hành nấp gần đó mới dám thở phào nhẹ nhõm.

“Cảm ơn nàng.” Thiếu Hạo không vướng bụi trần lúc xưa, giờ chẳng những bê bết máu me mà còn lấm lem mặt mũi, nhưng khí độ ung dung vẫn y hệt thuở nào.

“Cần gì khách khí thế? Muốn cảm tạ thì phải cảm tạ chàng hàng ngày tận tình dạy dỗ thiếp. Nếu chàng không kể với thiếp rằng phụ vương hiền từ nhân hậu thì thiếp cũng chẳng dám tin đóng giả Hậu Thổ lại có thể dọa Yến Long sợ không dám đuổi theo đâu.”

Thiếu Hạo lại hỏi: “Trụ Nhan hoa của nàng có thể thay đổi dung mạo, nhưng sao nàng lại khống chế được thổ linh khiến cho Yến Long tin nàng là Hậu Thổ?”

“Nói ra thì dài dòng lắm, dù sao lần này cũng phải cảm ơn Hậu Thổ.” A Hành cõng Thiếu Hạo dậy. “Chúng ta mau rời khỏi đây thôi, sức mạnh của Ngu uyên càng lúc càng tăng kìa.”

Vừa nãy nàng một thân một mình xông ra đã tiêu hao kha khá sức lực, giờ đây lại cõng theo Thiếu Hạo nên tốc độ càng lúc càng chậm.

Đi mãi đi mãi vẫn chưa ra được khỏi động, trong khi đó áp lực cứ ngày một tăng thêm, chân nàng nặng trịch như sắp dính vào mặt đất, lại thêm sức nặng của Thiếu Hạo trên lưng, mỗi lần cất bước, A Hành đều phải vận hết linh lực.

Thấy nàng càng đi càng chậm, Thiếu Hạo hiểu ngay rằng nàng không đủ linh lực, giỏi lắm cũng chỉ có thể tự mình rời khỏi mà thôi.

“A Hành, bỏ ta xuống, nhân lúc mặt trời chưa lặn hẳn nàng mau đi đi, thà thoát được một người còn hơn cả hai cùng chết.”

Trong lòng A Hành đang giằng xé kịch liệt, nàng đâu phải không hiểu đạo lý mà Thiếu Hạo nói. Vừa khó nhọc lê bước vừa cân nhắc thiệt hơn, chợt nhớ tới mẹ và Tứ ca, nàng đột nhiên khựng lại mà nhủ thầm, mình không thể chết được.

Thiếu Hạo thấy là hiểu, liền nhúc ngắc toan tuột xuống.

A Hành đặt y ngồi tựa vào tường, cúi gằm mặt không dám nhìn vào mắt y: “Xin lỗi chàng.”

Thiếu Hạo cười, “Khỏi cần xin lỗi, nếu đổi lại là ta hẳn đã không mạo hiểm ra tay cứu người trước mặt Yến Long rồi, nàng mau đi đi!”

A Hành nghiến răng, vận linh lực chạy vụt ra ngoài.

Nàng cắm đầu cắm cổ chạy trong đêm tối, nhưng chạy thế nào cũng không thoát được bóng đêm. Nụ cười của Thiếu Hạo còn rành rành trước mắt nàng, cứ chạy thêm một bước, gương mặt ấy lại rõ thêm một phần, tất cả tháng ngày từ khi quen biết tới nay đều biến thành muôn mặt nụ cười, cười hờ hững, cười vui vẻ, cười khanh khách… Lần đầu tiên nàng nhận ra rằng, bất kể lúc nào, Thiếu Hạo cũng mỉm cười. Kể cả khi nãy y cũng vẫn tươi cười.

Nàng dừng phắt lại, nghiến răng chạy ngược trở về.

Bốn bề tối đen như mực, lại im phăng phắc, Thiếu Hạo đang nhắm mắt chờ chết đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân chậm chạp mà nặng nhọc, nhưng y chẳng buồn mở mắt ra.

Mãi tới khi tiếng bước chân dừng trước mặt mình, y mới từ từ mở mắt, đăm đăm nhìn A Hành, chẳng nói một lời.

A Hành cũng chẳng nói chẳng rằng dụng lực cõng y lên, thân thể Thiếu Hạo dưới lực hút của Ngu uyên đã nặng tựa ngàn cân, nàng chỉ có thể lê từng bước từng bước một.

Thiếu Hạo lặng thinh, hai tay rũ trên vai A Hành.

A Hành vừa thở hổn hển vừa bấu víu vào những mẩu đá gồ lên trong động, dùng sức dịch chuyển về phía trước.

Nhiệt độ trong động càng lúc càng tăng, lực hút cũng mỗi lúc một mạnh, A Hành cơ hồ không nhích nổi một bước nhưng vẫn nghiến chặt răng, bám vào mẩu đá lết tới trước, hai tay xước xát hết cả.

Hai người lê lết bằng tốc độ của ốc sên, nhích được một chút là phải trả giá bằng bao nhiêu máu chảy.

Bỗng Thiếu Hạo gắng gượng giơ tay lên bám lấy mẩu đá, gắng hết sức nhích thân thể mình và A Hành lên phía trước, máu của hai người hòa lẫn vào nhau trên vách động.

Đi thêm được chừng mười trượng thì A Hành không nhấc nổi chân lên nữa, nàng ra sức đá chân ra nhưng bàn chân cứ dính chặt lấy mặt đất, như thể mọc lên từ đó vậy.

Nàng gắng gượng nhấc, gắng sức nhấc, gắng hết sức nhấc chân lên…

Thân hình nàng ngả ngả nghiêng nghiêng rồi ngả phịch xuống đất, kéo theo cả Thiếu Hạo.

A Hành vùng vẫy toan bò dậy nhưng cả người nàng đã dính chặt vào mặt đất, không sao dậy nổi, Thiếu Hạo bên cạnh dường như đoán trước được kết quả này, chỉ một mực nằm im, chẳng buồn nhúc nhích.

A Hành nằm đè lên cánh tay Thiếu Hạo cười khúc khích, “Thiếp ngốc thật đấy! Chẳng cứu được chàng mà chính mình còn chết chùm theo, sao khi nãy chàng không khuyên thiếp thêm mấy câu nữa hả? Cứ tỏ vẻ một lòng muốn chết, không cần thiếp nhiều chuyện có phải đỡ không?”

Thiếu Hạo nhắm nghiền mắt làm thinh, lát sau mới lên tiếng: “Vì ta cũng sợ chết lắm.”

Khi nãy sau khi A Hành đi khỏi, y chẳng hề thấy sợ hãi, chỉ ngồi yên bình tĩnh cảm nhận sức mạnh của Ngu uyên đang tăng lên từng chút một, cũng từng chút từng chút nuốt lấy mình. Từ lâu y đã quen với cảm giác từ từ bị bóng đêm nhấn chìm thế này rồi, bởi từ nhỏ đến lớn, mỗi ngày của y đều là như vậy. Y từng coi phụ vương là chỗ dựa vững chắc nhất nhưng lại quên khuấy rằng phụ vương là phụ vương duy nhất của y, nhưng y không phải con trai duy nhất của phụ vương, y từng ngỡ rằng vú già thương mình nhất, nhưng suốt mấy trăm năm ngày nào bà ta cũng bỏ độc vào đồ ăn của y, từng cho rằng có thể tin tưởng muội muội nhưng cô ta lại đem hết thảy lời ăn tiếng nói của y mách với Tuấn Hậu không sót một chữ, từng tưởng rằng… Hết lần này đến lần khác, y đã quen bình thản nhìn từng kẻ thân bằng quyến thuộc vứt bỏ mình chẳng hề do dự, đến nỗi y cảm thấy vậy mới là bình thường.

Vậy mà khi nghe tiếng chân A Hành trở lại, sự bình thản của y chợt vỡ vụn, tim bỗng đập liên hồi, như đang âm thầm khát khao một điều gì đó. Đối mặt với mười vạn đại quân Thần Nông, y vẫn có thể cười nói như thường, nhưng trong khoảnh khắc đó, y thậm chí còn chẳng có can đảm mở mắt ra nhìn nữa.

A Hành thở dài, “Thiếp cũng sợ chết.” Nhớ tới Xi Vưu, nàng thật không cam tâm bỏ mạng ở đây!

Thiếu Hạo lặng thinh không nói, chỉ chăm chăm nhìn vào bóng đêm, lạ thay, tuy hiện giờ lực hút lớn đến nỗi không sao ngồi dậy nổi nhưng y lại chẳng hề có cảm giác bị màn đêm nhấn chìm như lúc trước, có lẽ không phải y sợ chết, mà sợ phải chết đi trong cô độc. Bóng tối của Ngu uyên thật ra không đáng sợ, cái đáng sợ là bóng đêm thăm thẳm khi bị hết thảy mọi người ruồng bỏ.

Thiếu Hạo đột ngột lên tiếng, “A Hành, nếu như, ta chỉ nói là nếu thôi nhé, nếu có kiếp sau, ta không còn là Cao Tân Thiếu Hạo, nàng cũng chẳng còn là Hiên Viên Bạt nữa, bất kể nàng trở thành người như thế nào, ta cũng muốn được làm chồng nàng, suốt đời không xa rời.”

A Hành khẽ cười, “Kiếp này trói buộc nhau chưa đủ hay sao mà còn muốn dằng dai sang tận kiếp sau? Nếu thật sự có kiếp sau, thiếp chỉ muốn sống thanh thanh bạch bạch một đời.”

Thiếu Hạo bật cười theo, “Nàng nói phải lắm.”

“A Hành, A Hành…”

Tiếng gọi lo âu chẳng biết từ đâu truyền tới, văng vẳng trong sơn động tối om.

A Hành cùng Thiếu Hạo dỏng tai nghe ngóng một thoáng, đoạn nàng la toáng lên: “Đại ca, muội ở đây, muội ở đây này!”

A Hành run giọng mừng rỡ bảo Thiếu Hạo: “Đại ca tới tìm thiếp! Đại ca thiếp tới tìm thiếp, chúng ta được cứu rồi! Hai ta không chết đâu!”

Thiếu Hạo chỉ chăm chú nhìn nàng, cười không nói.

Bị sức mạnh của Ngu uyên quấy nhiễu, Thanh Dương lại chịu thêm một vết thương. Y vận linh lực không tìm được A Hành, chỉ có thể lần theo tiếng đáp của nàng mà tìm đến, trông thấy cả Thiếu Hạo trọng thương nằm dưới đất, y hết sức bất ngờ, nhất thời cứ yên lặng nhìn cả hai, vẻ mặt nặng nề, hồi lâu không lên tiếng.

A Hành hiểu ngay rằng Đại ca thân mang trọng thương, lực hút của Ngu uyên lại quá mạnh, y chỉ có thể cứu một trong hai người mà thôi.

Thiếu Hạo hờ hững cười, “Đừng lề mề nữa đi, ta chỉ hận rằng chúng ta vẫn chưa phân thắng bại.”

Thấy Thanh Dương bế A Hành lên, Thiếu Hạo cũng ngừng lời, mỉm cười nhắm nghiền mắt lại.

Thanh Dương nhìn y lần cuối rồi rảo bước chạy như bay ra ngoài. A Hành ôm lấy cổ Đại ca, mở to mắt nhìn lại phía sau, thấy bóng áo trắng của Thiếu Hạo càng lúc càng nhỏ dần, tựa hồ đang từ từ bị bóng tối nhấn chìm. Nàng gục đầu vào cổ Đại ca, nước mắt tuôn lã chã. Lần cuối cùng đưa mắt nhìn nàng, Thiếu Hạo còn mỉm cười như thể an ủi nàng, không sao đâu! Nhưng rõ ràng y đã nói y sợ chết kia mà!

Gương mặt Thanh Dương sắt lại như đá, chỉ chăm chăm cắm cúi chạy thẳng ra ngoài, nhưng hai bên thái dương cứ phập phồng liên hồi, gân xanh cũng nổi đầy cả hai tay.

“Quác quác, quác quác.”

A Hành ngẩng phắt lên gọi lớn, “Liệt Dương, A Tệ!”

Trong tiếng quang quác điếc tai, Liệt Dương nhào đến đậu trên tay A Hành, A Tệ theo sau, luôn miệng kêu “kiu kíu”, mừng rỡ nhìn nàng. Chẳng hiều chúng gặp phải chuyện gì mà con xác xơ lông lá, con kia sém cả bộ lông, dường như đã giao tranh với ai đó.

Thanh Dương kinh ngạc nhìn hai con vật trước mặt. Thú vật có linh cảm vô cùng nhạy bén, thường thường còn linh mẫn hơn cả những tay cao thủ Thần tộc linh lực cao cường, bởi thế khi mặt trời vừa ngả xuống gần Ngu uyên, tất cả tọa kỵ đều lui lại phía sau, tránh xa khỏi đó. Không phải chúng không trung thành với chủ nhân mà đó chính là bản năng sinh tồn của muông thú, vậy mà hai con vật này lại dám xông vào tìm A Hành, vượt qua cả nỗi sợ bản năng.

Trông thấy A Tệ, A Hành phá lên cười rồi mừng mừng tủi tủi trỏ vào trong, “Mau đi cứu Thiên Hạo ra, mau lên!”

A Tệ tung người xông thẳng vào trong, Thanh Dương lập tức đặt A Hành xuống đất chạy ngược trở lại.

A Hành nằm dài trên mặt đất, ôm chặt lấy Liệt Dương, cười khúc khích. Liệt Dương bực bội lắc lắc mình, vừa lắc vừa mổ mổ nàng nhưng A Hành chẳng những không né mà còn siết chặt hơn nữa, Liệt Dương bị siết đến hết cả giận, đành ngẩng đầu chịu đựng.

Lát sau A Tệ đã cõng Thiếu Hạo chạy tới, Thanh Dương bế xốc A Hành lên, tất cả liều mạng xông ra, chẳng ai nói với ai một lời.

Mọi người vừa xông ra khỏi cửa động thì mặt trời lặn xuống Ngu uyên, làn khói đen phía trên Ngu uyên dày thêm, đen đặc như mực, chẳng trông thấy bất cứ thứ gì.

“Điện hạ!” Chu Du mừng rỡ gọi lớn, ả ôm chặt lấy Trùng Minh điểu, mặt mũi tay chân chi chít vết thương, nhếch nhác đứng trên vách núi, thấy khói đen lan đến chân mình, ả tái mét mặt, thân người ngả nghiêng chực ngã nhưng chẳng hề xê dịch nửa bước.

Thanh Dương khẽ huýt một tiếng, lập tức Trùng Minh điểu run rẩy bay đến, y nhảy lên tọa kỵ, bay thẳng ra khỏi Ngu uyên.

Mãi tới khi rời khỏi Ngu uyên, mọi người mới lếch thếch đậu xuống, ngoảnh đầu trông lại cả vùng trời Tây đều vần vũ khói đen, mặt trời đang lặn xuống Ngu uyên từng chút từng chút một.

Thanh Dương giận dữ hỏi Chu Du, “Sao ngươi còn đứng ngây ra ở Ngu uyên thế, định chờ chết đấy à?” Y giận ả có gan chờ chết mà chẳng xông vào trợ giúp.

Chu Du hùng hồn đáp, “Chẳng phải điện hạ bảo nô tỳ đứng đợi ư? Đương nhiên nô tỳ cứ phải đứng đó đợi chứ sao.”

Thanh Dương sững sờ còn Thiếu Hạo đang nằm phục trên lưng A Tệ nghe vậy cười không ra tiếng.

Chu Du quỳ xuống tạ tội với A Hành, “Vương cơ sai nô tỳ trông nom A Tệ và Liệt Dương, nhưng thấy mặt trời đã kề sát Ngu uyên mà vương cơ vẫn chưa ra, chúng liền liều mạng xông vào trong, nô tỳ giữ thế nào cũng không được.”

A Hành ngẩn người, đành nói: “Chẳng sao đâu, may mà ngươi không giữ được chúng.” Đứng trên vách núi chờ chết và chờ chết trong sơn động có gì khác nhau đâu? Ả Chu Du này… quả nhiên là đầu gỗ mà.

Lúc này mọi người mới hiểu những vết cào xước trên người Chu Du từ đâu mà có, A Tệ và Liệt Dương sao lại tả tơi lông lá. Thiếu Hạo phá lên cười ngặt nghẽo, vừa ho sù sụ vừa bảo Thanh Dương: “Ngươi nói khúc gỗ này rốt cuộc có đầu óc hay không?”

Thanh Dương cau mày nhìn ra đỉnh núi phía xa, chẳng buồn để ý kẻ khác nói gì.

A Hành chỉ bị thương ngoài da chứ không thương tổn linh lực, vừa rời khỏi Ngu uyên, nàng đã hồi phục nhanh chóng, bèn lại bên hồ nước rửa bùn đất máu me dính trên mặt trên tay.

A Tệ bám theo nàng tới bên hồ, Thiếu Hạo rớt khỏi lưng nó, ùm một tiếng lăn tõm xuống hồ, may sao A Hành nhanh tay nhanh mắt giữ được y lại.

Thiếu Hạo cười: “Ta tu luyện thủy tinh mà, lần này cảm ơn nàng giúp đỡ.”

Bấy giờ A Hành mới sực hiểu ra hồ nước là nơi trị thương của y. Nước là gốc rễ của vạn vật, thần tiên tu tập thủy tinh dù bị thương nặng tới đâu cũng mau hồi phục hơn hẳn kẻ khác.

A Hành nhoẻn cười thả tay ra để Thiếu Hạo từ từ chìm xuống đáy nước.

Thanh Dương bước tới bên nàng, hai chân giẫm thẳng lên mặt nước, lập tức cả hồ nước bắt đầu đóng băng.

Y dặn dò: “Ta và Thiếu Hạo đều bị thương nên trước khi tiến vào Ngu uyên, để đề phòng bất trắc, hai ta đã hợp lực giăng một trận pháp bên ngoài Ngu uyên, hiện giờ Xi Vưu đang khốn đốn trong đó, trước khi Thiếu Hạo kịp hồi phục vết thương, nhất định chúng ta phải đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư từ tay Xi Vưu.”

A Hành tròn mắt kinh ngạc: “Hai người ai nấy dẫn theo thuộc hạ tới Ngu uyên, còn chẳng có cơ hội gặp nhau, sao có thể hợp lực bày trận vậy?”

Thanh Dương thản nhiên đáp, “Chừng nào muội giao du với một kẻ suốt mấy ngàn năm sẽ biết rằng có những chuyện chẳng cần phải nói ra.”

Nhìn hồ nước đã đóng băng toàn bộ, A Hành nửa đùa nửa cợt nói: “Hẳn y cũng hiểu được ý đồ của huynh khi ngăn trở y trị thương lúc này.”

Chu Du vừa biến mất đã lại ló ra từ đâu đó, gơ tay chỉ chỉ cho Thanh Dương một hồ nước nhỏ ở xa, đó chính là hồ nước đầu tiên mà bọn họ bắt gặp từ khi thoát khỏi Ngu uyên.

Thanh Dương giậm mạnh lên mặt hồ đóng băng bên dưới, lập tức lớp băng lách cách nứt ra, y cũng theo đó chìm xuống dưới.

A Hành còn đang ngơ ngác đã thấy Thanh Dương cầm tượng gỗ nhảy ra khỏi hồ, quăng pho tượng xuống dưới chân nàng rồi nhảy lên lưng Trùng Minh điểu bay vút về phía hồ nước Chu Du chỉ.

A Hành nhặt pho tượng lên, nhận ra nó được chạm khắc vô cùng sống động, hệt như Thiếu Hạo thu nhỏ vây, nơi trái tim còn điểm một chấm máu tươi trích từ tim Thiếu Hạo. Thì ra vừa rời khỏi Ngu uyên, y đã dùng Khôi Lôi thuật hoán đổi bản thân, kẻ dọc đường cười nói đùa cợt với họ chỉ là một con rối gỗ mà thôi.

Nghĩ đến Thiếu Hạo vừa cảm kích tạ ơn mình chỉ là một con rối gỗ, A Hành lạnh cả sống lưng.

Thấy A Hành ngẩn người, Chu Du ngỡ rằng nàng không hiểu sao mình lại tìm được Thiếu Hạo, bèn trỏ mấy cây thù du nói, “Trước khi tiến vào Ngu uyên, điện hạ dặn nô tỳ phải lưu ý tất cả mọi nơi có nước, nô tỳ bèn lén trồng bên mỗi hồ nước một cây thù du[3], nếu không e rằng đã bị Thiếu Hạo qua mặt rồi.”

[3] Thù du: một loài cây rụng lá, ra hoa li ti màu vàng, quả có hình oval, màu đỏ, vị chua, có thể dùng làm thuốc. (ND)

Lúc A Hành cùng A Tệ đuổi đến nơi, cả hồ nước đã đông cứng lại thành băng, Thanh Dương đang nhắm mắt ngồi xếp bằng trên mặt băng.

A Hành cất tiếng, “Xin lỗi Đại ca.”

Thanh Dương dặn, “Ta cầm chân Thiếu Hạo ở đây, muội đem Chu Du cùng…” Thanh Dương quan sát A Tệ và Liệt Dương, cũng chẳng coi chúng là súc vật nữa, “Cùng bọn chúng đi đoạt lấy Hà Đồ Lạc Thư về. Nhớ đừng ra tay vội, để Yến Long và Xi Vưu đánh đến nỗi hai bên đều thương tích, bấy giờ hẵng lợi dụng trận pháp đoạt Hà Đồ Lạc Thư, có điều muội cũng đừng chần chừ chậm trễ, linh khí địa thế nơi này rất có lợi cho Thiếu Hạo, ta chẳng nắm chắc sẽ giữ chân y được bao lâu đâu!”

A Hành đang định đi chợt nghe Thanh Dương nói tiếp: “Muội nhớ đừng để Yến Long chết, y là con cờ hay nhất để kiềm chế Thiếu Hạo đấy.”

“Muội hiểu rồi.”

“Còn gì nữa không?”

A Hành vụt hỏi: “Tam ca là do huynh giết ư?”

Thanh Dương cười nhạt đáp: “Là Chúc Dung giết, muội nghe đâu được mấy câu tầm xàm ba láp này thế?”

“Hôm nọ muội nghe được ở chỗ phụ vương đấy. Tuy phụ vương chẳng nói rõ ra nhưng Đồng Ngư thị lẩm bẩm nói với muội, có lẽ phụ vương cũng đem lòng hoài nghi.”

Thanh Dương nhếch môi cười, “Mấy chuyện này không cần muội lo, đi đoạt Hà Đồ Lạc Thư đi.”

“Đại ca, huynh đừng vì dã tâm của mình mà đẩy mẹ và Tứ ca vào vòng nguy hiểm, bằng không, muội nhất định sẽ không tha thứ cho huynh đâu!”

Dứt lời nàng nhảy lên lưng A Tệ, bay vút lên trời.

Hết chương 15.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 12-6-2014 01:59 PM
Chương 16


Cảnh ấy đêm này thoắt trôi nhanh[1] .


16.1


[1] Trích trong bài từ theo điệu Dương Quan khúc, nhan đề Trăng trung thu của Tô Thức. (ND)


Bấy giờ Xi Vưu mới như sực tỉnh, vội bước tới trước mặt A Hành, toan đặt miện hoa lên đầu nàng, nào ngờ A Hành nghiêng đầu né tránh, “Ta không cần vương miện, chỉ cần đóa hoa đào tượng trưng cho tấm lòng của ngươi là đủ.”


Theo lời Đại ca, A Hành chỉ khoanh tay đứng ngoài quan sát.

Dựa trên phương vị ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ, Thanh Dương đã bố trí một tấm gương băng năm mặt, hễ đứng trước gương là có thể thu hết tình hình trong trận pháp vào tầm mắt.

Hậu Thổ, Chúc Dung, Trung Dung đều đang bị vây trong trận pháp. Hậu Thổ hành sự cẩn trọng, không nôn nóng vội vàng mà bình tĩnh thăm dò xung quanh, trong khi Chúc Dung tính tình nóng nảy đã tả xung hữu đột khắp nơi, phóng hỏa thiêu núi, trông biển lửa phừng phừng như vậy nhưng thực tế những thứ hắn đốt chỉ là ảo ảnh, còn Trung Dung lại cưỡi Huyền điểu bay mãi bay mãi, có điều thật ra y vẫn bay vòng tại chỗ.

Yến Long vốn chẳng coi trận pháp vào đâu, chỉ ngồi trên đầu nũi gảy đàn, vẻ mặt bình thản, phong thái nhàn nhã, tiếng đàn khi vang vang mạnh mẽ như sóng to gió lớn, lúc lại thê thiết triền miên tựa người đẹp khóc than.

Theo tiếng đàn của Yến Long, những tảng đá trong sơn cốc lần lượt vỡ nát, mấy lần suýt đánh trúng Xi Vưu khiến hắn phải nhảy lên nhảy xuống, tránh trái né phải liên hồi, tuy ỷ vào thân pháp linh hoạt như dã thú cũng gắng gượng duy trì được ít lâu, nhưng càng lúc hắn càng kiệt sức, quần áo tóc tai đều lấm lem bùn đất.

Thấy Xi Vưu sắp bại, Liệt Dương hể hả vô cùng, nó đập cánh phành phạch, ngửa cổ kêu quang quác, trái lại A Tệ thấy Xi Vưu bị Yến Long bức hiếp thì vô cùng lo lắng, cứ lấy đầu hích hích A Hành, ngỡ ngàng không hiểu sao nàng chỉ khoanh tay đứng nhìn.

Chu Du lè lưỡi than, “Yến Long đã thành danh cả ngàn năm, còn tên Xi Vưu này chẳng qua chỉ mới tu hành năm sáu trăm năm là cùng, vậy mà có thể cầm cự với Yến Long bao lâu, hèn chi Đại điện hạ lại để tâm tới gã này đến thế.” Thông qua những ngọn cỏ dưới chân, ả vươn dài linh thức của mình ra, lặng lẽ cảm nhận một hồi rồi tiếp tục than thở: “Tiếc ghê, sát khí của Yến Long nặng quá, chắc Xi Vưu sắp chết rồi!”

Ả vừa dứt lời, tiếng đàn của Yến Long chợt trở nên dịu dàng hết mực, hệt như gió mát trăng trong, suối reo róc rách, tiếng đá nứt lách tách cũng ngừng bặt, cả sơn cốc chìm trong tĩnh lặng, vậy mà trông Xi Vưu vô cùng căng thẳng, lập tức ngồi xuống xếp bằng vận toàn bộ linh lực kháng cự, từ bốn phía vươn lên những nhánh dây leo bao lấy hắn vào giữa.

Chu Du thở dài thườn thượt, lại sinh lòng trắc ẩn với Xi Vưu, “Ái dà! Đây mới là Mị Hoặc Tâm Âm đáng sợ nhất trong Âm Tập chi thuật[2], có thể tiêu diệt thiên quân vạn mã chỉ trong nháy mắt đó!”

[2] Âm Tập chi thuật: thuật sử dụng âm thanh để tấn công người khác. (ND)

Cái gọi là Mị Hoặc Tâm Âm chính là lợi dụng sức mạnh âm thanh để khống chế tình cảm trong lòng, có thể là vui mừng, đau thương hoặc phẫn nộ… Dù là Thần tộc, Yêu tộc hay Nhân tộc, chỉ cần có trí tuệ ắt sẽ có thất tình lục dục, cảm xúc buồn vui, một khi bị Yến Long nắm được sơ hở, lợi dụng tiếng đàn tấn công vào nhược điểm trong tình cảm, sớm muộn gì cũng phải sụp đổ bởi tâm tình cực đoan của chính mình.

Lần trước Xi Vưu từng lợi dụng tiếng kêu mê hoặc của A Tệ khiến cả đám tinh nhuệ trên Thần Nông sơn khốn đốn, chưa đánh đã thua, công lực của Yến Long còn hơn A Tệ gấp trăm lần, uy lực đương nhiên chẳng phải nghĩ bàn, thêm vào đó Xi Vưu yêu hận đều vô cùng quyết liệt, tính tình cực đoan nên càng dễ bị thao túng trong mắt Chu Du và Yến Long, Xi Vưu coi như cầm chắc cái chết.

Theo tiếng đàn nỉ non của Yến Long, những dây leo xanh biếc bao bọc quanh Xi Vưu dần dần ngả vàng, cây lá trong rừng cũng lần lượt úa vàng như thể trời đã vào thu, vạn vật sắp đến hồi điêu linh phiêu tán.

Yến Long khẽ mỉm cười, đợi chừng nào tất cả lá cây rụng xuống thì Xi Vưu cũng cạn kiệt linh lực mà chết! Nghĩ vậy y lại vận thêm linh lực vào mười đầu ngón tay.

Đúng lúc này trong rừng chợt vang lên tiếng hổ gầm, làm rối loạn khúc nhạc của Yến Long.

Y ráng định thần lại, tiếp tục gảy đàn, tiếc rằng trong rừng càng lúc càng nhốn nháo.

Hổ gầm, sói tru, vượn hú, ngựa hí, chim kêu, trùng gáy… dường như tất cả các loài động vật đều thức dậy, đây con này kêu, kia con nọ hót theo tiếng đàn của Yến Long. Tiếng kêu của một hai con thú chẳng đáng gì nhưng cả trăm ngàn con họp lại cùng gầm rú lên thì thật vô cùng đáng sợ.

Khác với con người, dã thú chẳng có giận hờn yêu hận nên chẳng thể bị tiếng đàn chi phối tâm tình. Nếu chỉ có tiếng sói tru chẳng hạn, Yến Long có thể mượn tiếng đàn mô phỏng tiếng hổ gầm để bầy sói biết sợ mà lui, nhưng cả ngàn con thú gầm rống ầm ĩ thế này, y chẳng làm sao dọa nổi chúng, ngược lại toàn bộ sức mạnh gửi vào tiếng đàn đều bị chúng làm loạn cả lên.

Chu Du như mở cờ trong bụng, vỗ tay reo, “Xi Vưu giỏi quá! Chiêu thế này mà hắn cũng nghĩ ra để phá giải Mị Hoặc Tâm Âm được. Ngươi lợi dụng tình cảm con người để tấn công thì ta tặng ngươi một bầy dã thú vô tình, xem ngươi làm sao nào?”

Khóe môi A Hành thấp thoáng nụ cười nhưng giọng điệu vẫn thản nhiên, “Thần lực của hắn không bằng Yến Long, đành phải giở mấy trò láu cá ấy thôi!” Nói rồi nàng liếc nhìn vào gương băng, “Hậu Thổ tìm thấy cửa ra rồi kìa!”

Thấy Hậu Thổ đắp đất toan phá trận, Chu Du vội kéo A Hành lùi lại, vừa kịp lúc tấm gương băng trước mặt hai người vỡ vụn, linh lực của Thiếu Hạo và Thanh Dương biến thành mưa tuyết lả tả đầy trời.

Cùng lúc đó, Xi Vưu nắm được sơ hở trong tiếng đàn của Yến Long, liền điều khiển cây cỏ trên sườn núi nhất loạt xoay tròn đâm thẳng về phía Yến Long, từng cọng cỏ đều mảnh như sợi tóc, cứng tựa kim châm, Âm Tập chi thuật của Yến Long lại không phù hợp đánh xáp lá cà, y chỉ có thể ôm đàn tránh trái né phải, tiếng đàn cũng loạn cả lên, quần áo trên mình bị cứa rách tơi tả.

Bấy giờ Xi Vưu mới rẽ đám dây leo nhảy ra, cười ha hả, “Sau Thiên Thảo châm còn có Vạn Diệp nhận, mời vương tử từ từ thưởng thức.” Lá vàng trong rừng tựa vô số rắn vàng từ bốn phương tám hướng bay vùn vụt về phía Yến Long, khiến tròng mắt y co rút lại vì hoảng hốt, mặt mày tái dại đi, cuống quýt ngã nhào xuống đất, lăn trái tránh phải.

Xi Vưu đứng trên tảng đá, cả người đầy máu, quần áo xốc xếch nhưng vẫn đầy vẻ kiêu ngạo tự đắc hệt như chim công xòe cánh, cười khẩy nói: “Thì ra Âm Tập chi thuật nổi tiếng khắp Thần tộc cũng chỉ đến thế, nói cái gì ‘không tổn hại mảy may mà nháy mắt hạ được thiên quân vạn mã’, chẳng qua là trò láu cá vặt, tránh tránh né né không dám giao đấu trực diện mà thôi. Lần sau dùng tới Tập Âm chi thuật, vương tử nhớ kêu một trăm thần tướng vây quanh bảo vệ để ngài thong thả tấu đàn nhé.”

Yến Long thân là vương tử Cao Tân, xưa nay chưa từng bị mai mỉa như thế bao giờ, y uất đến thiếu điều sặc tiết, thoáng cái, một chiếc lá đã xẹt qua cổ tay.

“Á!” Yến Long thét lên thảm thiết, máu bắn tung tóe, một bàn tay cùng cây đàn trong tay văng ra.

Xi Vưu cười nhạt toan gia tăng linh lực kết liễu Yến Long, đột nhiên hắn thoáng trông thấy bóng thiếu nữ áo xanh từ từ xuất hiện giữa cả trời lá úa, Lang điểu trắng muốt đậu trên vai, bên cạnh còn có một con hồ ly cao lớn đen tuyền.

Nữ tử thong thả dừng bước, chú hồ ly bên cạnh nàng liền hoan hỷ chạy thẳng về phía Xi Vưu. Thấy A Tệ sắp lao vào đám lá khô nhọn sắc như dao, Xi Vưu vội thu hồi linh lực, chỉ trong nháy mắt A Tệ đã xuyên qua một trời lá rơi lả tả, nhào vào lòng hắn, vừa vẫy đuôi mừng vừa cào cào vào áo hắn, trái dụi đầu phải nhảy nhót, kêu líu kíu vui sướng.

Xi Vưu ngồi xuống vuốt vuốt lưng A Tệ nhưng cặp mắt cứ dán chặt vào bóng A Hành đứng bên sườn núi, khẽ hỏi nhỏ A Tệ, “Sao cô ta lại tới đây? Chắc cũng vì Hà Đồ Lạc Thư hả?”

A Tệ chẳng hiểu cái gì là Hà Đồ Lạc Thư, chỉ mải nhảy cỡn lên vì lại được gặp Xi Vưu mà nó quý mến.

Bây giờ trận pháp đã bị phá, ảo ảnh thảy đều tan biến cả, Trung Dung bay trên không, trông thấy Yến Long bị trọng thương, vội gọi ầm lên: “Nhị ca, Nhị ca…” rồi cuống quýt bảo Huyền điểu đỗ xuống.

Thấy Yến Long cau rúm mặt lại vì đau, Trung Dung một tay đỡ y dậy, tay kia nhặt bàn tay đứt, nhảy lên lưng Huyền điểu bay về phía Đông chuồn thẳng.

Trước lúc đi khỏi, Yến Long còn cao giọng ném lại cho Xi Vưu một câu: “Mối thù hôm nay, ngày sau ta nhất định sẽ trả!”

Xi Vưu phá lên cười, coi như gió thoảng ngoài tai.

Sau khi phá được trận pháp, Chúc Dung và Hậu Thổ lập tức lẩn vào rừng, đứng ngoài quan sát Xi Vưu cùng Yến Long giao đấu. Tuy Chúc Dung căm ghét Xi Vưu nhưng hắn còn hận Yến Long hơn nhiều bởi lần trước Yến Long đã đánh bại hắn trước mặt bao người ở hội Bàn Đào, thấy Yến Long bị Xi Vưu đánh trọng thương, Chúc Dung hả hê cười phá lên: “Ta đã bảo mà, Âm Tập chi thuật của Yến Long để làm màu thì được, chứ dùng ứng chiến có ra gì, năm xưa nếu chẳng phải ta sơ ý bị hắn chớp thời cơ thì đời nào lại bại dưới tay hắn?”

Hậu Thổ cau mày, ánh mắt thoáng âu lo, “Trước đây chúng ta giết Hiên Viên Huy đã là đắc tội với Hiên Viên tộc, nay lại đánh Yến Long trọng thương, kết oán với Cao Tân tộc, cứ thế này Thần Nông tộc sẽ ngày càng bị cô lập.”

Chúc Dung lên giọng khiển trách: “Ngươi yếu đuối chẳng khác đàn bà, nên biết rằng giết một tên thì bớt được một tên, đây mới là cách tốt nhất để đối phó kẻ địch! Yến Long chỉ biết mượn tiếng đàn tấn công kẻ khác, nay hắn đã mất một bàn tay, còn gì đáng sợ? Bây giờ điều chúng ta phải suy nghĩ là làm sao giành được Hà Đồ Lạc Thư từ tay Xi Vưu.”

Thấy Hậu Thổ lặng thinh, Chúc Dung trừng mắt nhìn gã, nói tiếp: “Ngươi chớ quên rằng Xi Vưu là dã thú, bản tính khát máu, nếu hắn thấu triệt được Hà Đồ Lạc Thư, ngươi có biết hậu quả sẽ ra sao không? Ngươi tưởng hắn sẽ để yên cho tên đần độn Du Võng làm Viêm Đế mãi ư?”

Hậu Thổ cung kính cúi đầu, giấu đi biểu cảm trong đôi mắt.

Trông thấy nữ tử áo xanh đi về phía Xi Vưu, Chúc Dung không nhận ra A Hành dùng Trụ Nhan hoa thay đổi dung mạo, bèn quay sang hỏi Hậu Thổ: “Ả kia là ai thế nhỉ?”

Hậu Thổ lờ mờ đoán ra A Hành nhưng chẳng muốn nói, chỉ trả lời qua quýt: “Chắc là bằng hữu của Xi Vưu!”

“Bằng hữu ư? Không phải tình nhân của hắn đó chứ?” Chúc Dung cười gằn, “Chẳng phải kia chính là còn Lang điểu phóng hỏa đốt Chi Ấp lần trước hay sao? Hèn chi Viêm Đế dặn ta không được đả thương nó, hóa ra lại vì Xi Vưu!”

Hậu Thổ thản nhiên nói, “Trên đời có mấy vạn con Lang điểu lận, ngài quá đa nghi rồi.”

“Hừm!” Chúc Dung phất tay áo, trừng mắt căm hận nhìn Xi Vưu, “Chúng ta qua xem xem!” Nói rồi nhảy lên Tất Phương điểu bay đi.

Hậu Thổ khẽ thở dài, thân mình cũng hòa lẫn vào một mảnh núi rừng.

Vừa tới trước mặt Xi Vưu, A Hành đã thấy hắn cười giễu cợt: “Chẳng hay cô là vương cơ của Hiên Viên tộc hay vương tử phi của Cao Tân tộc đây?”

A Hành mỉm cười hỏi lại: “Là vương cơ thì sao, mà là vương tử phi thì sao?”

Xi Vưu trỏ lên trời, “Hà Đồ Lạc Thư đang ở trong bụng Tiêu Dao, nếu là Hiên Viên vương cơ, ta sẽ niệm tình giao hảo mà cho cô ta thêm mấy ngày để cô ta tìm cách trộm lấy Hà Đồ Lạc Thư, còn nếu là Cao Tân vương tử phi thì xin lỗi, ta không quen biết người này, đành lệnh cho Tiêu Dao lập tức đem Hà Đồ Lạc Thư về cho Du Võng thôi.”

Tiêu Dao chính là đại bàng tọa kỵ của Xi Vưu. Thấy đại bàng đen cả gan bay lòng vòng ngay trên đầu mình, Liệt Dương hậm hực ngẩng đầu nhìn đại bàng quang quác mấy tiếng cảnh cáo, nào ngờ bị đại bàng lờ tịt. Lần đầu tiên Liệt Dương thấy một con chim không tuân lời mình, liền nổi cơn thịnh nộ, toan xông lên dạy cho đối phương biết thế nào là lễ độ.

A Hành vội nhăn lại: “Liệt Dương, đó không phải đại bàng thường mà là giống đại bàng do cá côn ở Bắc Minh[3] biến thành đó. Rồng đứng đầu các loài thủy tộc, phượng hoàng là vua của muôn chim nhưng dưới nước nó chẳng quy thuận rồng, trên trời cũng không xem phượng hoàng vào đâu cả, mày đừng trêu vào.” Cá côn Bắc Minh là loài dị thú thần kỳ nhất trên đại hoang, sinh tại Bắc Minh, chôn ở Nam Minh, vốn là thân cá, thường gọi là côn nhưng vừa ra khỏi trứng đã có thể biến thành chim, lúc hóa chim gọi là đại bàng, vô cùng nhanh nhẹn, nghe nói giống đại bàng do cá côn biến thành mỗi lần vỗ cánh có thể bay vút lên cao chín vạn dặm.

[3] Theo thiên Tiêu Dao Du trong Nam Hoa kinh của Trang Tử: “Bắc Minh có loài cá, tục gọi là côn. Thân mình rất lớn, chẳng biết tới mấy ngàn dặm. Hóa thành chim, tên gọi là chim bằng (đại bàng). Giang cánh bay lượn, sải cánh rộng như mây che rợp một góc trời. Thường nương sóng to gió cả mà bay thẳng tới Nam Minh.”

Tuy chưa hoàn toàn là chim nhưng mỗi lần đập cánh nó có thể bay xa mấy ngàn dặm, Xi Vưu giao Hà Đồ Lạc Thư cho nó quả vô cùng sáng suốt, bất kể thần tiên hay yêu quái cũng không sao đuổi kịp.

A Hành quay sang Xi Vưu, thẳng thắn: “Ta là Hiên Viên vương cơ, Hiên Viên Bạt.”

Xi Vưu chăm chú nhìn nàng, “Dù mang ơn cứu mạng của cô, ta cũng chỉ có thể cho cô ba ngày thôi, sau ba ngày ta sẽ giao Hà Đồ Thư Lạc cho Du Võng.”

“Được!”

Xi Vưu huýt một tiếng lanh lảnh, lập tức đại bàng đậu xuống ngay bên cạnh. Hắn nhảy lên lưng đại bàng, chìa tay cho nàng: “Muốn Hà Đồ Lạc Thư thì theo ta.”

A Hành phân vân nhìn A Tệ và Liệt Dương, chưa biết phải làm sao với chúng. Xi Vưu liền nói: “Chúng không đuổi kịp Tiêu Dao đâu, cô cứ đi với ta, chúng sẽ đến sau.”

A Hành nắm lấy tay Xi Vưu, nhảy lên lưng Tiêu Dao.

Tiêu Dao chỉ đợi có thế, liền vỗ cánh bay vút lên chín tầng mây, A Hành đứng không vững, hơi loạng choạng ngã ngửa ra sau, vừa vặn ngã vào lòng Xi Vưu, hắn bèn thừa nước đục thả câu, vòng tay siết chặt lấy nàng mặc nàng vùng vẫy, cả người hắn lắc lư lảo đảo nhưng vẫn ôm riết chẳng chịu buông, còn ghé tai nàng nói nhỏ: “Tiêu Dao bay nhanh lắm, hiện giờ ta chỉ đủ sức miễn cưỡng khống chế nó thôi, hay là cô muốn cả hai rơi xuống tan xương nát thịt hả? À mà cũng hay đấy, sống chẳng được chung chăn, chết lại chôn chung huyệt.”

Thân hình Xi Vưu chao đi, suýt nữa rớt khỏi lưng Tiêu Dao, A Hành hoảng sợ thét lên, đành để yên không dám giãy dụa nữa.

Tiêu Dao bay vùn vụt như tên bắn khiến A Hành không kịp trông rõ gì hết, chỉ thấy trắng xóa một màu, mây mù cuộn lên như từng đợt sóng đổ ập tới, quất vào mặt bỏng rát.

Xi Vưu thích thú phá lên cười khanh khách, Tiêu Dao cũng điên chẳng kém gì chủ, nghe tiếng hắn cười, nó càng cao hứng bay nhanh hơn, rồi đột ngột bổ nhào xuống dưới, mắt thấy sắp tan xác tới nơi, bỗng dưng nó lại bay vút lên không, xẹt ngang qua đỉnh núi, chớp mắt đã lên đến chín tầng mây. A Hành vừa kịp thở phào đã lại thấy Tiêu Dao bất ngờ chao nghiêng người, nàng vội hốt hoảng bám chặt lấy Xi Vưu.

Nỗi sợ hãi ban đầu tan đi, dần dà, một cảm giác khác lại len vào lòng.

Trời cao lồng lộng, đường mây thênh thang, dường như thế gian chỉ còn hai người bọn họ, chẳng có bất kỳ thứ gì đuổi kịp được hai người, cũng không còn gì trói buộc nổi họ nữa, cả đất trời trải ra bát ngát cho họ thả sức ngao du.

Xi Vưu ghé tai nàng hỏi lớn: “Cô thấy thế nào?”

A Hành lặng yên không đáp, nhưng thân thể đang căng cứng từ từ thả lỏng ra, vô tình tựa vào lòng hắn, đến linh lực cũng tiêu tán, phó mặc tất cả sống chết vào tay Xi Vưu. Ít ra trong lúc này nàng cũng có thể dựa cả vào hắn, tạm thời vứt bỏ hết mọi trách nhiệm và ràng buộc.

Cảm thấy linh lực trên người A Hành cơ hồ đều tan biến hết, Xi Vưu thoáng kinh ngạc nhưng hắn chẳng buồn nghĩ thêm nữa, chỉ ôm chặt lấy nàng, cùng nàng thả sức ngao du giữa chín tầng mây, lúc vút lên cao, khi chao xuống thấp.

Bay mãi bay mãi, chẳng rõ đã qua bao lâu, đột nhiên Tiêu Dao lại lao vút xuống khiến A Hành Thấy như thể mình sắp ngã lộn cổ, lồng ngực nàng bị lên chặt cơ hồ nghẹt thở, hai người một đại bàng cứ thế vùn vụt lao xuống, lâu thật là lâu, đương lúc nàng ngỡ sẽ rơi thế này mãi mãi thì đà lao chợt dừng sững lại, may có linh lực của Xi Vưu, bằng không hẳn nàng đã bắn văng ra.

Xi Vưu khẽ nói: “Chúng ta về tới nhà rồi.”

A Hành sững sờ, từ từ mở mắt ra, thấy hoa đào nở rực cả triền núi, như mây như ráng, lộng lẫy đẹp tươi, mấy chái nhà trúc xanh biêng biếc thấp thoáng ẩn hiện sau những cội đào đỏ thắm.

Thì ra bay suốt bao lâu, họ cuối cùng đã đến Cửu Lê.

Xi Vưu chìa tay, Tiêu Dao liền nhả ra một quả trứng ngọc to xấp xỉ quả trứng gà rồi bay vút lên, biến mất giữa trời đêm, chẳng hề kêu một tiếng.

Hắn giơ quả trứng ra lắc lắc trước mặt nàng rồi lại bỏ vào trong áo: “Hà Đồ Lạc Thư cô muốn ở đây này.” Dứt lời hắn đi thẳng về phía thôn trại.

A Hành cắn môi, rảo bước đuổi theo hắn.

Tới bản Xi Vưu trời còn chưa sáng, bốn bề yên tĩnh, Xi Vưu ngả người nằm xuống tế đài, ngửa mặt nhìn trời.

A Hành ngồi xuống bên hắn: “Ngươi định làm gì trong ba ngày này?”

Xi Vưu đặt tay lên môi ra hiệu cho nàng đừng lên tiếng rồi yên lặng ngắm bầu không. Lát sau, hắn nhắm nghiền mắt lại, chìm vào giấc ngủ.

A Hành đành lẳng lặng ngồi bên hắn, thấy màn đêm ở Cửu Lê yên bình xiết bao, nhẹ nhõm xiết bao, chẳng bao lâu sau, mí mắt nàng cũng trĩu xuống. Mấy ngày nay nàng hết về dự hôn lễ của Tứ ca lại vội vội vàng vàng đi Ngu uyên đoạt Hà Đồ Lạc Thư, tinh thần luôn căng như dây đàn, chẳng khi nào được ngơi nghỉ, lúc này vừa thả lỏng, nàng liền thấy buồn ngủ díp cả mắt, bèn dựa vào tường ngủ thiếp đi.

Sáng sớm ra, đám người Vu sư thức dậy toan quét dọn tế đài thì phát hiện trên đó có người. Một nam tử vận hồng bào rách rưới nằm ngửa trên tế đài, tay chân giang ra thành hình chữ “đại”, tuy đang say ngủ nhưng vẫn không giấu được vẻ ngông cuồng, cách đó không xa còn một nữ tử áo xanh ngồi co ro dựa vào tường mà ngủ, nụ cười vương vấn trên môi.

Đại vu sư vội vã chạy đi gọi Vu vương. Vu vương chống gậy tới nơi, trông thấy bèn cười móm mém xua tay ra hiệu mọi người lẳng lặng lui ra.

Ngủ một giấc dài thật dài, tỉnh dậy A Hành mới nhận ra mình đang đắp một tấm thảm lông thú, còn Xi Vưu đã mất dạng. Nàng vội bật dậy gọi toáng lên: “Xi Vưu!”

Liền nghe giọng hắn uể oải: “Gọi gì thế?”

A Hành ngó đầu ra, trông thấy Xi Vưu đang ngồi dưới cội đào sưởi nắng cùng Vu vương. Hắn cởi trần, bên dưới chỉ quấn một chiếc khố đen dài đến bắp chân, để lộ ra làn da nâu rám nắng khỏe khoắn.

A Hành vừa bước xuống tế đài vừa ngẩng đầu nhìn trời, thấy vầng dương đã ngả về Tây, nàng không khỏi cau mày tự trách mình ngủ say như chết.

Xi Vưu vươn vai, cố ý đãi giọng nói: “Ai da, sắp hết một ngày rồi mà còn chưa biết Hà Đồ Lạc Thư giấu ở đâu nữa!”

A Hành càng trông hắn càng ngứa mắt liền đá lật nhào cái ghế hắn đang ngồi khiến hắn ngã lăn ra đất, đá xong mới sực nhớ ra Xi Vưu là vị thần được cả Cửu Lê tôn kính, làm vậy trước mặt Vu vương chẳng khác nào sỉ nhục cả Cửu Lê, bèn quay sang cười lỏn lẻn với vị Độc vương mà Thần tộc cũng phải nhường nhịn ba phần.

Vu vương thấy vậy chỉ cười khà, khom lưng đứng dậy nói với Xi Vưu đang nằm bò dưới đất: “Hai vị khéo đến quá, tối nay là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê, hai vị nhớ tới xem náo nhiệt nhé.”

Đợi Vu vương đi khỏi, A Hành liền ngồi ngay vào chiếc ghế bập bênh của lão, vừa lắc lư vừa ngắm Xi Vưu, thầm nghĩ không biết hắn giấu Hà Đồ Lạc Thư ở chỗ nào.

Xi Vưu bật dậy vọt lại ngồi xuống ghế bập bênh, thấy A Hành chăm chú nhìn mình, ánh mắt hắn thoáng vẻ lạnh lùng, như cười mà chẳng cười nói: “Nếu cô muốn biết thì lại đây mà sờ, sờ khắp cả người ta là biết ngay!”

“Phì!” A Hành đỏ mặt lườm hắn rồi quay ngoắt đi.

Ánh mặt trời rọi qua tán lá, ấm áp mà không chói gắt khiến thân thể thư thái vô cùng, cơ hồ xương cốt đều tan chảy ra cả.

Một bên tế đài là núi lửa điệp trùng, bên kia lại là vách non dựng đứng, trên vách nở đầy hoa dại, rực rỡ như gấm lụa, ngọn thác từ đỉnh tuôn ra tựa dải lụa trắng phất phơ rào rào đổ xuống những tảng đá bên dưới, khiến hơi nước bốc lên mịt mù. Ánh mặt trời rọi qua tạo thành nửa dải cầu vồng lấp lánh thấp thoáng sau bức màn hơi nước, nghiêng nghiêng vắt ngang tế đài trắng muốt, bắc lên tận trời.

Nước từ thác đổ xuống chảy vào hồ, men theo con lạch trắng phau đá cuội, lượn vòng quanh tế đài, trên mặt nước lác đác mấy cánh hoa, thi thoảng còn thấy vài chú cá mải vờn nhị hoa nhảy vọt lên rồi lại quẫy đuôi rơi tõm xuống nước, làm bắn tung tóe vô vàn bọt nước lấp loáng ánh bạc.

A Hành ngây người ra nhìn, bất giác quên bẵng cả Hà Đồ Lạc Thư, đến nỗi cánh đào rơi đầy đầu tóc cũng chẳng hay.

Xi Vưu nghiêng đầu ngắm nàng, vẻ mặt lạnh lùng trong mắt tan dần, thay vào đó là vô vàn âu yếm.

Một người ngây ra ngắm cảnh sắc thiên nhiên biến ảo, một kẻ đắm đuối ngắm người kia, hai người cứ thế tạo nên một bức tranh phong cảnh u nhã mà êm đềm.

Mãi tới khi mặt trời xuống núi, chim mỏi về rừng, thấy một đàn chim bay ngang đầu, A Hành mới sực nhớ ra mục đích của chuyến đi này.


Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 12-6-2014 02:01 PM
Chương 16


Cảnh ấy đêm này thoắt trôi nhanh[1] .


16.2


Ánh mắt nàng chợt tối sầm, môi mím chặt, cả gương mặt toát lên vẻ kiên định, thấy vậy, cặp mắt Xi Vưu cũng trở nên lạnh buốt, hắn quay ngoắt đi trước khi nàng kịp ngoảnh lại.

A Hành quay lại trông thấy Xi Vưu đang cười ngạo nghễ, phóng mắt ngắm nhìn rừng đào tít tắp trên sườn núi.

Vừa lúc đó Vu nương sai người tới mời bọn họ dùng bữa, Xi Vưu liền đứng dậy đi thẳng, buông thõng một câu, “Tối nay ta đi chơi tết Khiêu Hoa, nếu còn nhớ mình từng hứa những gì thì cô cứ tới xem.”

A Hành ngồi lặng trên ghế bập bênh không đáp, chỉ ngẩng đầu nhìn hoa đào rợp rợp trên đầu.

Chính ngày này năm xưa, trong lúc nàng cần Xi Vưu nhất, chẳng nề đánh lén Đại ca, trốn khỏi Triêu Vân phong để đợi hắn suốt đêm dưới cội đào thì hắn lại lỡ hẹn không tới. Nếu hôm đó hắn tới đúng hẹn, chẳng rõ hiện giờ bọn họ sẽ ra sao? Cũng ngày này năm ngoái, nàng nhọc công tính toán suốt một năm mới lấy cớ dạy dân chăn tằm dệt lụa để xin Tuấn Đế xuất cung lẻn tới Cửu Lê, đợi Xi Vưu đến nửa đêm, nhưng chỉ đợi được một manh áo đỏ đứt tình đoạn nghĩa.

Năm nay ngày này lại đến, nhưng nàng chẳng rõ mình có còn dũng khí tin vào lời thề ước dưới cội hoa đào không gặp không về nữa hay chăng?

Như thường lệ, tết Khiêu Hoa chẳng có tế đài, chẳng cần Vu sư, cũng chẳng thấy vật tế, chỉ có từng đống lửa bập bùng cùng muôn ngàn đóa hoa nở khắp núi rừng, vô số đôi nam nữ ngồi bên đống lửa, dưới bóng hoa hát ca nhảy múa.

Nghe kể rằng mấy vạn năm trước, nam nữ các tộc có thể gặp gỡ hẹn hò nhau vào một ngày nhất định rồi tự ước hẹn hôn nhân, nhưng theo thời gian, tập tục này dần dần mai một chỉ còn Cửu Lê tộc vẫn theo lệ cũ, nam nữ yêu nhau không cần xin phép mẹ cha, cũng chẳng cần mối mai làm chứng, miễn là chàng có lòng em có ý thì có thể lập tức kết thành đôi.

Ánh sao ác quá đi thôi

Dụ em vào tận rừng chơi mới kỳ

Móc chân em ngã chúi đi

Đất gồ hay phẳng anh thì biết đâu

Nghe thiếu nữ mau mồm mau miệng tường thuật chuyện bực mình hôm qua, mọi người đều cười rộ, bao ánh mắt giễu cợt đổ dồn về phía tình lang của cô nàng khiến chàng ta cuống cả lên, vò đầu bứt tai nghĩ cách đối đáp lại.

Nghe lời hát A Hành vừa ngượng vừa tức cười, không nhịn được, phá lên cùng mọi người. Nàng bưng ống trúc sóng sánh Ca tửu, vừa nghe hát vừa nhắp từng ngụm nhỏ.

Tiếng hát véo von cứ dập dờn, bên đối bên đáp, đôi ba cô gái đánh đố người yêu đã thỏa lòng, bèn nhận lấy đóa hoa đào chàng tặng, cài lên mái tóc. Dân chúng đại hoang coi hoa đào là biểu tượng của tình yêu nam nữ có lẽ bắt nguồn từ tập tục cổ này đây.

A Hành gỡ Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, Trụ Nhan hoa vốn là một đóa hoa đào đỏ thắm yêu kiều, cũng là đóa hoa đào đẹp nhất trong sơn cốc. Ngắm Trụ Nhan hoa, nàng chợt nghĩ có khi nào năm đó Xi Vưu tặng nàng Trụ Nhan hoa chỉ vì thấy đó là một đóa hoa đào mỹ lệ, chứ không phải bởi nó là thần khí?

A Hành lặng ngắm Trụ Nhan hoa, lòng muôn mối tơ vò.

Đột nhiên, trong sơn cốc vút lên một tiếng ca hào sảng mà phóng khoáng, ngạo nghễ mà bộc trực, át hẳn những giọng ca khác, tựa hồ mãnh hổ hạ sơn, đầy mạnh mẽ hoang dại, lại như thông reo đỉnh núi, chân thành tha thiết, dằng dặc bi thương, dịu dàng gọi tùng bách đi xa mau trở lại.

A ối à ối a

Mắt ta mình cứ khoét ra

Để cho máu thấm đầy tà áo xanh

Ví bằng lọt được mắt mình

Máu như hoa rải đầy cành cũng cam…

A ối a ối à

Tim ta mình cứ móc ra

Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa

Ví lòng mình có bóng ta

Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi…

Nghe tiếng ca sang sảng, mọi người đều ngừng ca múa, nhìn quanh tìm kiếm người hát.

Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com

Xi Vưu vừa hát vừa bước lại khiến đám thiếu nữ Cửu Lê tộc ngỡ ngàng trước gã trai lạ mặt, thân hình rắn rỏi hơn cây thanh giang trên vách núi, ánh mắt sắc bén hơn chim ưng sải cánh giữa bầu không, khí thế oai nghiêm hơn ngọn núi cao nhất Cửu Lê, giọng ca tha thiết hơn dòng nước sâu nhất Cửu Lê.

A ối a ối à

Tim ta mình cứ móc ra

Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa

Ví lòng mình có bóng ta

Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi…

Bóng áo đỏ của hắn băng qua đám người đông nghịt, bước tới trước mặt A Hành. Chiếc áo hắn mặc trên mình là chính tay nàng dệt tặng hắn. Cuối cùng hắn vẫn đến dưới cội hoa đào chứ không nỡ vứt bỏ manh áo ấy, nghĩ vậy, nỗi oán giận trong nàng lại vơi đi, thay vào đó là cảm giác ngọt ngào thấm ra từ tận đáy lòng.

Giọng ca của hắn dần trầm xuống, cứ hát đi hát lại:

A ối à ối a

Mắt ta mình cứ khoét ra

Để cho máu thấm đầy tà áo xanh

Ví bằng lọt được mắt mình

Máu như hoa rải đầy cành cũng cam…

A ối a ối à

Tim ta mình cứ móc ra

Để đồng hoang thắm máu ta chan hòa

Ví lòng mình có bóng ta

Cam lòng tưới máu như hoa khắp đồi…

Ánh mắt Xi Vưu tràn ngập nỗi khổ tương tư cầu mà chẳng được, không biết tỏ cùng ai, chỉ có thể gửi gắm vào tiếng ca, lặp đi lặp lại cho vơi bớt nỗi lòng.

Xi Vưu cầm lấy Trụ Nhan hoa trong tay A Hành, biến thành một chiếc vương miện hoa đào, hai tay dâng đến trước mặt nàng như dâng vương miện, “Cái này không phải là vương miện nhưng nếu cô muốn có vương miện, ta sẽ tặng cô một chiếc, nhất định không kém cái Thiếu Hạo có thể tặng cô.”

A Hàng rơm rớm nước mắt, Mễ Đóa giật giật áo nàng, nhắc nhỏ: “Nhận đi, nhận lấy đi.”

Mễ Đóa giục giã, A Hành chỉ đứng dậy cúi đầu, vòng qua người Xi Vưu đi thẳng.

Vẻ nồng nhiệt trong mắt Xi Vưu dần lụi tắt, toan vứt vương miện hoa đi, chợt nghe thấy sau lưng vang lên tiếng ca rất khẽ.

Cây cao ngất ngưởng giữa non xanh

Vấn vít dây mây quấn quýt cành

Cây níu chặt mây, mây quấn quýt

Khăng khăng khít khít giữ vẹn tình…

Xi Vưu ngỡ ngàng ngoảnh lại, trông thấy A Hành đứng bên đống lửa, hai má đỏ hồng, cất tiếng hát khe khẽ đến cơ hồ nghe không rõ, nhưng nàng quả thật đang học theo phong tục Cửu Lê, mượn khúc sơn ca giãi bày tình ý với Xi Vưu trước mặt mọi người.

Chiều chiếu sớm sớm mãi bên nhau

Tháng tháng năm năm đến bạc đầu

Cây chết mây còn, còn quấn quýt

Cây còn mây chết, chẳng rời nhau…

Gió táp mưa sa sá gì đâu

Sống chết bên nhau đến bạc đầu

Mây còn cây chết còn quấn quýt

Mây chết cây còn há lìa nhau?

Xi Vưu nhìn A Hành, ánh mắt phức tạp.

Tám năm trước họ đã ước hẹn cùng nhau, hàng năm mỗi khi hoa đào nở rộ lại gặp gỡ dưới cội đào. Mỗi lần gặp, hắn hết năn nỉ lại dỗ dành rồi lừa gạt nàng hát tặng mình một khúc tình ca, nhưng lần nào lần nấy nàng đều ngượng ngùng chối đây đẩy, còn mắng yêu hắn gian manh, bởi theo phong tục dân gian ở Cửu Lê, chàng trai hát tình ca để mời gọi bạn tình, nếu cô gái cất tiếng hát đáp lại cũng có nghĩa là bằng lòng vui vầy cùng anh ta.

Trước giờ A Hành chưa từng hát tình ca tặng hắn vậy mà năm nay, trước mắt mọi người, nàng lại cất giọng hát khúc ca cho một mình hắn.

Kim Đan liền đẩy Xi Vưu, “Kìa tiểu huynh đệ, sao cậu cứ đứng ngây ra thế?”

Bấy giờ Xi Vưu mới như sực tỉnh, vội bước tới trước mặt A Hành, toan đặt vương miện hoa lên đầu nàng, nào ngờ A Hành nghiêng đầu né tránh, “Ta không cần vương miện, chỉ cần đóa hoa đào tượng trưng cho tấm lòng của ngươi là đủ.”

Lập tức hắn biến miện hoa trở lại thành Trụ Nhan hoa gài lên tóc nàng.

Mọi người ở đó không quen biết Xi Vưu, nhưng nhận ra thiếu nữ đang thẹn thùng kia chính là Vu nữ Tây Lăng Hành từng chữa trị cho vô số người ở đây, thấy Vu nữ mà bọn họ tôn kính tìm được ý trung nhân, ai nấy đều mừng rỡ hoan hô.

Xi Vưu nắm tay A Hành hỏi nhỏ, như thể vẫn còn chưa dám tin: “A Hành, cô bằng lòng thật ư?”

A Hành nắm lấy tay hắn, siết chặt.

Mấy gã thiếu niên vẫn theo Vu sư học việc cứ chòng chọc quan sát Xi Vưu rồi xì xào to nhỏ, đùn đẩy nhau mãi mới thấy một tên cả gan cao giọng hỏi Xi Vưu: “Này! Ngươi là ai mà to gan thế, dám ve vãn Tây Lăng Vu nữ của bọn ta? Ngươi có biết đây là tết Khiêu Hoa của Cửu Lê tộc không? Người ngoài muốn tham gia phải có Vu vương đồng ý mới được.”

Xi Vưu cười sảng khoái: “Ta tên Xi Vưu, hơn năm trăm năm trước từng sống trong núi Cửu Lê, đương nhiên có tư cách tham dự tết Khiêu Hoa của Cửu Lê rồi.”

Nghe hắn nói, hết thảy người ở đó đều kinh hoàng ngẩn người ra, gã thiếu niên vừa hỏi run rẩy quỳ sụp xuống, lập tức mọi người cũng lục tục quỳ theo, dập đầu với Xi Vưu.

Xi Vưu lắc đầu quay sang bảo A Hành: “Có biết cũng chẳng làm gì, thôi, mình đi đi!”

Đoạn hắn dắt tay nàng thong dong đi khỏi, thoắt chốc, mọi người ngẩng đầu lên đã thấy khuất bóng hai người.

Nước chảy róc rách, gió thổi hiu hiu. Bầu không tĩnh lặng lấp lánh muôn ngàn vì sao, tựa như đôi mắt người tình long lanh bao điều muốn nói.

A Hành ngồi trên nhà sàn giữa rừng đào, ngẩng đầu ngắm sao trời.

Xi Vưu bưng mấy vò Ca tửu từ trong nhà ra, đưa ống hút cho A Hành, nàng thuận tay nhận lấy uống liền một mạch nửa vò, bắt đầu ngà ngà say.

Xi Vưu ngồi xuống bên cạnh, quàng tay ôm eo A Hành, đoạn tranh lấy ống hút, hớp một ngụm rượu, quay sang mớm vào miệng nàng.

A Hành cười ngượng nghịu tránh né nhưng tránh không khỏi, đành mặc cho bờ môi nóng rãy của hắn in lên môi mình, nhận lấy ngụm rượu hắn mớm. Khác hẳn vẻ ranh mãnh từng trải hàng ngày, lúc này đây tay chân Xi Vưu hết sức lóng ngóng vụng về, càng thể hiện tấm tình chân thành say đắm của hắn.

Niềm khao khát bao năm nay mới trở thành hiện thực, Xi Vưu chỉ nghe thấy tiếng tim đập thình thịch, chẳng rõ là tim mình hay tim A Hành.

Tâm trạng Xi Vưu lên xuống như thủy triều, khi thì ngùn ngụt dục vọng, con dã thú bên trong lồng lộn muốn xông ra, chỉ hận chưa được tan ngay vào thân thể A Hành, lúc lại bình tĩnh mở to mắt nhìn nàng, từ đáy lòng vang lên một giọng nói buồn bực, giận dữ. Cùng với sự biến đổi đó, hắn lúc thì ngấu nghiến hôn nàng, khi lại chần chừ lưỡng lự. Trong khi đó, A Hành vẫn chủ động ôm chặt lấy hắn, nhẹ nhành hôn hắn, thổi bùng ngọn lửa dục vọng của hắn.

Toàn thân Xi Vưu nóng như lửa đốt, luôn miệng thì thầm gọi tên nàng: “A Hành, A Hành, A Hành… nàng bằng lòng thật chứ?”

A Hành không đáp, chỉ cầm tay hắn cởi dây lưng của mình, vạt áo lụa vừa hé ra đã thấy thấp thoáng trong ngọc trắng ngà, con dã thú bên trong Xi Vưu lập tức gầm rú xông ra, đè nghiến nàng xuống.

Xi Vưu vừa ngấu nghiến hôn nàng, vừa giật phăng quần nàng xuống, A Hành không ngừng thì thào tên hắn, “Xi Vưu, Xi Vưu, Xi Vưu…”, những tiếng gọi như ngọn roi của người dạy thú, khơi dậy nhu tình trong lòng Xi Vưu khiến hắn chợt e ngại làm đau nàng, động tác cũng dần dần dịu dàng hơn.

Đóa Trụ Nhan hoa cài trên đầu A Hành cũng bị những luồng linh lực đan xen mà hai người vô tình phóng thích tác động, nở bung ra vô số cánh đào đỏ thắm, phủ ngợp đất trời bằng một trận mưa hoa.

Muôn ngàn cánh đào lả tả trút xuống như mưa, dưới ánh trăng, giữa đám trúc phượng vĩ, trên lan can, hai con người quấn quýt lấy nhau, môi kề má áp, uyển chuyển triền miên.

Những ve vuốt dịu dàng của Xi Vưu tựa ngọn gió xuân tháng Ba hây hẩy lướt qua mình A Hành, mà tấm thân nàng là một đóa hoa bừng nở đón gió, nhưng khi tiến được vào trong nàng, hắn lại càng lúc càng mạnh mẽ, như biển lửa rít gào, như cuồng phong bạo vũ cuốn nàng theo, mỗi lúc A Hành ngỡ rằng sóng đã yên biển đã lặng thì ngay sau đó, một cơn sóng mới lại dấy lên, dấy lên, nhấn chìm nàng. Ý thức của nàng cũng bị cuốn theo từng cơn sóng dữ, cơn sau cao hơn cơn trước, đợt khoái cảm này vừa trào tuôn thì đợt khác lại ập tới, khiến nàng cũng kinh ngạc, chẳng hiểu sao thân thể mình có thể sản sinh ra nhiều khoái cảm đến vậy.

Theo từng cơn sướng khoái, ý thức nàng cũng càng lúc càng bâng khuâng mơ hồ, như bay bổng lên chín tầng mây rồi đột ngột bùng nổ khiến nàng không kìm được tiếng rít, cả người run lên bần bật trước niềm hoan lạc cực cùng.

Xi Vưu ôm chặt lấy nàng, vừa hôn vừa hỏi khẽ: “Thích không?”

A Hành lả người đi, nói chẳng nên lời, chỉ nhoẻn cười hạnh phúc.

Từ trong khe núi nghe văng vẳng tiếng ca vọng lại.

“Chàng là cây lớn đỉnh non, em dây mây vấn vít sườn núi xanh. Chàng cao em thấp vẫn tình, níu chân quấn quýt quanh chàng chàng ơi, chừng nào chàng mệt rã rời, thời em đây mới buông lơi cho chàng…”

Má kề má môi kề môi, ngón tay Xi Vưu vân vê nghịch mấy sợi tóc của nàng, chợt nghe tiếng ca, hắn khẽ bật cười, nụ cười đượm đầy mệt mỏi sau cơn ái ân hoan lạc, khác hẳn vẻ sắc sảo ngạo mạn hôm qua.

A Hành đỏ bừng mặt, “Chàng cười gì thế?”

“Nàng xấu hổ chuyện gì thì ta cười chuyện ấy.” Hắn đan tay vào tay nàng, nhắc lại rành rọt từng chữ: “Cây chết mây còn, còn quấn quýt. Cây còn mây chết chẳng rời nhau!”

A Hành siết chặt tay hắn, “Thật ra ta và Thiếu Hạo không phải như người ta đồn đại đâu, ta và y chỉ vờ làm bộ ân ái để che mắt phụ vương ta và Tuấn Đế thôi, y đã ứng thuận một ngày nào đó sẽ cho ta tự do rời khỏi…”

“Hừ!” Vừa nghe đến tên Thiếu Hạo, Xi Vưu đã thấy bực mình, cơn giận thường thấy ở những con đực khi sống chết quyết đấu để giữ con cái lại cho riêng mình chợt bùng lên, hắn đặt tay lên môi A Hành ngăn nàng nói tiếp, “Ba ngày này chỉ thuộc về riêng hai ta thôi, đừng nhắc tới chuyện khác nữa. Tết Khiêu Hoa sang năm, ta sẽ đợi nàng dưới cội hoa đào, nếu nàng tới gặp mặt, chúng ta sẽ bàn tính tới bước đường sau này nhé.”

A Hành gật đầu cười.

Xi Vưu hôn lên môi nàng, mặc cho cơn mưa hoa lại bắt đầu lả tả đổ xuống.

Sáng hôm sau A Hành tỉnh dậy đã chẳng còn thấy Xi Vưu bên cạnh, hồi tưởng lại cảnh tượng đêm qua, nàng vội trùm chăn kín đầu để giấu nỗi thẹn thùng, nhưng lại không khỏi nhoẻn cười ngượng nghịu. Thì ra nam nữ ái ân lại khoái lạc thích thú đến nhường ấy.

Đương lúc vừa hạnh phúc vừa ngượng ngùng, nàng chợt nghe thấy bên ngoài vang lên tràng cười rộn rã, vội mặc quần áo bước ra lan can, thấy A Tệ và Liệt Dương đã tới tự lúc nào, đang nô giỡn với Xi Vưu giữa hồ, ngay dưới thác nước.

A Tệ lúc dùng móng cào lúc lấy cánh đập Xi Vưu làm bọt nước bắn tung tóe, còn Liệt Dương bay vòng vòng trên không, vừa bay vừa khạc ra lửa thiêu đốt Xi Vưu, vậy mà hắn vẫn nhanh nhẹn tránh thoát, khiến lửa của Liệt Dương không rơi xuống nước thì lại táp phải A Tệ làm A Tệ luôn miệng rít lên ngụp xuống hồ, chỉ còn chiếc đuôi bông xù mượt như nhung ve qua vẩy lại trên mặt nước.

A Hành ngồi trên lan can vừa chải tóc vừa tươi cười xem cả ba đánh lộn.

Xi Vưu ngẩng lên gọi nàng: “Xuống ăn cơm đi, ăn xong mình sẽ vào núi chơi. Hôm qua chúng ta cùng Tiêu Dao đi trước làm hai bạn nhỏ này giận, hôm nay ta phải nhận lời dắt chúng vào núi chơi, chúng mới chịu làm lành với ta đó.”

Xi Vưu làm cơm rất ngon, đặc biệt là món thịt nướng thơm nức mũi, ngon đến nỗi A Tệ liên tục vẫy đuôi với hắn.

Ăn cơm xong, hai người dắt theo A Tệ và Liệt Dương vào núi chơi.

Thoạt đầu lúc mới khởi hành, A Tệ còn quấn quýt quanh A Hành, nhưng vừa trông thấy mấy cánh bướm rực rỡ đủ màu, nó lập tức bỏ nàng lại phía sau, tung tăng chạy khắp nơi vồ bướm. Sáng nay Liệt Dương cũng vừa được Xi Vưu chỉ dạy, lại khống chế được phượng hoàng nội đan linh hoạt hơn nên chỉ nhăm nhe thử nghiệm xem sao, bèn tập phun lửa về phía mặt hồ, nhân đó, Xi Vưu với A Hành mới dành được chút tĩnh tại bên nhau.

Xi Vưu nằm dài xuống thảm cỏ, đầu gối lên hai tay, miệng ngậm cọng cỏ, ngửa mặt nhìn trời đầy khoan khoái, A Hành ngồi bên cạnh hắn, dõi mắt nhìn theo A Tệ đang tung tăng giữa những lùm cây.

“A Hành!”

“Hở?”

“Có thật là cây chết mây còn còn quấn quýt, cây còn mây chết chẳng rời nhau không?”

A Hành đăm đăm nhìn hắn không đáp, chỉ gật gật đầu, cặp mắt trong veo chẳng gợn chút tạp niệm, hệt như mặt hồ mỹ lệ nhất giữa rừng núi Cửu Lê.

Xi Vưu rút Hà Đồ Lạc Thư ra, “Cái này nàng định thế nào đây?”

A Hành nghiêng đầu ngẫm nghĩ, “Phụ vương một lòng muốn đoạt Hà Đồ Lạc Thư nên ta nhất định phải dâng lên. Có điều nếu chàng giao nó cho ta, chỉ e bọn Chúc Dung chẳng chịu tin đâu, chúng sẽ cho rằng chàng một mình nuốt trọn đó.”

“Ta hơi đâu mà quan tâm bọn chúng nghĩ gì.”

“Lẽ nào các huynh đệ mình nghĩ gì chàng cũng không màng được ư, nghe nói hiện giờ chàng có rất nhiều huynh đệ tốt kia mà?”

Nét mặt Xi Vưu chợt phấn chấn hẳn lên, “Bọn họ đều là những dũng sĩ chân chính.”

A Hành đề nghị: “Chúng ta chia trứng ngọc ra làm hai phần, như vậy ai cũng đoạt được Hà Đồ Lạc Thư, mà ai cũng không đoạt được, ta có cái để dâng lên phụ vương, mà chàng cũng dễ bề ăn nói với Thần Nông.”

“Hay lắm!” Xi Vưu liền gọi Liệt Dương lại, “Lại đây, ta kiểm tra xem Phượng Hoàng huyền hỏa của mày đã vận dụng thành thục chưa. Mày điều khiển cho ngọn lửa mảnh hơn sợi tơ tằm rồi từ từ xẻ đôi quả trứng này ra xem.”

Liệt Dương quác lên một tiếng đầy tự phụ rồi phun ra một sợi lửa nóng rãy, mảnh hơn cả tơ tằm.

Vừa nghe mấy tiếng xì xì, thượng cổ chí bảo Hà Đồ Lạc Thư đã bị xẻ làm hai nửa. Xi Vưu đưa một nửa cho A Hành còn nửa kia nhét vào túi ngầm giấu trong giày, “Đôi giày này thoạt nhìn giản dị nhưng lại do Vu vương dày công thiết kế, nếu đụng vào mà không biết bí mật bên trong sẽ khởi động bộ phận chứa chất độc đấy.”

A Hành nín cười quan sát đôi giày, “Chàng rõ ràng là lắm mưu ma chước quỷ!”

“Thuở nhỏ ta lớn lên giữa bầy dã thú, điều đầu tiên phải học chính là làm sao cất giấu thức ăn, nếu cất không kỹ thì thức ăn mình vất vả săn được sẽ bị những con lớn hơn đoạt mất, dốc sức săn mồi mà không được ăn, rất có thể sẽ chẳng còn cơ hội bắt được con mồi nào khác nữa, sau cùng lại biến thành thức ăn cho kẻ khác.” Xi Vưu chăm chú nhìn nàng, nghiêm trang nói, “Dã thú muốn sống sót không thể chỉ dựa vào sức mạnh, mà xảo trá, nhạy bén, đa nghi, hung tàn đều phải có, không được thiếu thứ gì.”

Nhớ về thời thơ ấu hạnh phúc của mình, lại liên tưởng tới Xi Vưu, A Hành chợt thấy xót xa vô hạn, bèn nắm chặt tay hắn, “Từ nay về sau, hai ta sẽ sánh vai chiến đấu, khi nào chàng mệt mỏi muốn nghỉ ngơi, ta sẽ trông giữ thức ăn cho chàng.”

Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành, vừa cười vui vẻ, vừa siết chặt tay nàng, đoạn từ từ ngả người lại định hôn nàng, nhưng vừa chạm môi vào môi nàng, đột nhiên A Tệ nhảy phốc vào giữa hai bọn họ, quấn quýt lấy A Hành, cọ cọ vào người nàng, cũng cọ luôn bao nhiêu vết bẩn trên mình vào người nàng rồi nằm lăn xuống phơi bụng ra, huơ huơ móng vuốt, tỏ ý làm nũng đòi nàng gãi ngứa.

Xi Vưu vừa tức cười vừa bực bèn cốc cho A Tệ một cái, A Tệ nghiêng đầu ngơ ngác nhìn hắn, vẫn chưa hiểu vì sao Xi Vưu đột nhiên tức tối đánh mình, cặp mắt hồ ly long lanh tròn xoe, đáng thương hết sức.

Liệt Dương hiểu chuyện, cứ ngoác mỏ ra cười quang quác, cười lộn cổ từ trên cây xuống đất, lại lăn ra đất tiếp tục cười, vừa cười vừa khép hai cánh lại với nhau, làm điệu bộ hai người thân mật giảng giải cho A Tệ.

Hở?

A Tệ hết nghiêng đầu sang phải lại nghiêng sang trái, mãi vẫn chưa hiểu ý Liệt Dương.

Chỉ có A Hành thẹn quá hóa giận, quay lại bảo Xi Vưu: “Thay ta dạy con chim thối tha kia một bài học đi.”

Nghe vậy Liệt Dương vội chuồn thẳng, trước khi chuồn còn không quên ngoảnh về phía Xi Vưu và A Hành khạc lửa, một lùm cây đuổi theo sát sau lưng khiến nó phải nhảy vọt lên tránh trái né phải, càng trốn càng xa, chỉ thấy mấy cọng lông trắng bị xiến đứt rơi lả tả, lùm cây vẫn bám sát phía sau, không chịu buông tha.

Thấy Liệt Dương bị lùm cây đuổi sát sau lưng, A Tệ thích thú bay vút lên, đuổi theo lùm cây.

A Hành thở phào nhẹ nhõm, “Cuối cùng cũng được yên tĩnh rồi!”

Xi Vưu tiếp lời: “Cuối cùng cũng được yên tĩnh rồi, chúng ta có thể…” Xi Vưu hướng hai ngón cái về phía nhau máy máy, rồi nháy mắt với A Hành.

“Chàng học theo con chim thối tha kia làm gì? Kệ chàng đấy.” A Hành vừa mắng vừa bật dậy chạy vụt lên sườn núi.

Xi Vưu cười khanh khách đuổi theo nàng, kẻ chạy người đuổi, dần dà hắn bắt kịp nàng, liền nhào tới ôm chầm lấy A Hành vào lòng, cúi đầu hôn lên môi nàng.

A Tệ từ trên trời nhìn xuống lại ngỡ hai người đang chơi đùa gì đó, vội kêu líu kíu vui vẻ lao tới, mặc kệ lùm cây đuổi đánh Liệt Dương, nó níu cả bốn chân lên người Xi Vưu, đẩy hai người ngã vật ra, cả ba quấn lấy nhau lăn tròn trên cỏ.

Liệt Dương chẳng chịu thua thiệt, cũng nhào trở lại.

Thoát chốc, dưới vòm trời cao xanh đã rộn lên tiếng chim quang quác, hồ ly líu kíu cùng giọng A Hành cười khanh khách và Xi Vưu chửi ông ổng.

Hết chương 16.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 12-6-2014 02:39 PM
Chương 17


Trời đất bao la còn lúc hết .


17.1


“Từ khi gặp gỡ tới nay, ngươi hết theo lại đuổi, luôn miệng thề thốt chỉ cần trong mắt ta có ngươi, ngươi cam lòng máu nhuộm thẫm áo, chỉ cần trong lòng ta có ngươi, ngươi cam lòng tưới máu đẫm đồng hoang. Trong mắt ta có ngươi, trong lòng ta có ngươi rồi đó, nhưng trong mắt ngươi, trong lòng ngươi đã bao giờ thật sự có ta chưa? Ta nói ngươi hay, kể từ bây giờ hai ta đoạn tuyệt ân tình, ta sẽ quên tất cả mọi chuyện về ngươi, nếu trong mắt ta còn bóng hình ngươi, ta sẽ móc mắt mình ra, nếu trong lòng ta còn nghĩ tới ngươi, ta sẽ bóp nát trái tim mình!”


Sáng hôm sau, A Hành tỉnh dậy trong vòng tay Xi Vưu.

Nàng khẽ nói: “Đại ca đang loanh quanh gần Ngu uyên đợi ta, ta phải đi đây.”

Xi Vưu cảm thán: “Vậy là đã ba ngày rồi.” Thời gian trôi qua thực quá nhanh.

A Hành ôm chặt lấy Xi Vưu, quyến luyến chẳng rời.

Hai người quấn quýt hồi lâu, mãi tới khi Tiêu Dao từ trên không đáp xuống, xẹt qua cửa sổ rồi lại bay vút lên trời, như thúc giục bọn họ lên đường.

Xi Vưu hôn lên trán A Hành rồi trở dậy mặc áo.

Thấy sắp phải chia tay, A Hành vội nói rõ ràng mọi chuyện, “Ta gả cho Thiếu Hạo chỉ là vì…”

Xi Vưu vừa mặc lại đồ vừa đáp: “Ta chẳng quan tâm nàng đã thành hôn hay chưa, vấn đề giữa hai ta không phải là Thiếu Hạo.” Đoạn hắn ngoảnh lại nhìn nàng, “Mọi chuyện đều do nàng quyết định mà thôi, ta chỉ muốn nơi này của nàng!” Hắn đặt tay lên ngực A Hành, “Nàng có bằng lòng trao chân tình cho ta chăng?”

A Hành gật gật đầu.

Xi Vưu cười, cặp mắt sáng rực nhìn sâu vào mắt nàng, “Chỉ cần nàng thật lòng với ta là đủ, mọi trở ngại trên thế gian này đều có thể đẩy lùi!”

Chẳng phải vậy sao? Chỉ cần hai người bọn họ đồng lòng, dù phía trước đầy chông gai, họ cũng nhất định đạp bằng trở ngại, vạch ra một con đường đi tới. Cứ nghĩ sớm muộn sẽ có ngày được ở bên Xi Vưu mãi mãi, ngày ngày tháng tháng đều như ba ngày vừa qua, A Hành lại thấy rộn rã xôn xao cả cõi lòng.

A Hành lưu luyến từ biệt Xi Vưu, đi tìm Thanh Dương.

Dù A Tệ gắng hết sức nhưng khi nàng tới được Ngu uyên đã là nửa đêm.

Từ xa nhìn lại, thấy lửa đỏ rực trời, A Hành không hiểu ra sao, chỉ biết giục giã A Tệ mau mau bay đến đó. Tới gần hơn một chút nàng mới trông thấy Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đang hợp lực thúc động hỏa trận vây khốn Thanh Dương và Xương Ý. Tuy linh lực tu hành của ba huynh muội nàng khác nhau nhưng từ lúc sinh ra đêm nào cũng bị mẫu thân gói trong kén tằm treo trên cây dâu mà ngủ nên linh lực của cả ba có thể tương thông. Lúc này Xương Ý đang đặt một tay lên vai Thanh Dương để linh lực toàn thân mình tương thông với y.

Thanh Dương vẫn giữ vẻ mặt lạnh lùng thản nhiên như thường, nhưng dù có Xương Ý hợp lực, những đóa băng mẫu đơn xung quanh hai người cũng chỉ lớn cỡ nắm tay, hiển nhiên thương thế của y lại trở nặng.

Thanh Dương luôn là mối uy hiếp lớn nhất đối với Thần Nông tộc, Chúc Dung khó khăn lắm mới vớ được thời cơ ngàn năm có một này, hắn rắp tâm giải quyết triệt để Thanh Dương.

A Hành lòng nóng như lửa đốt nhưng trước mắt là ba đại cao thủ Thần Nông, lại thêm hỏa trận phừng phừng, bản thân nàng linh lực thấp kém, lại tu luyện mộc linh, làm sao chống nổi?

Phải làm sao đây?

Đương lúc bần thần nghĩ ngợi nàng chợt thấy Chu Du cưỡi Trùng Minh điểu đáp xuống, vội hỏi: “Sao Đại ca và Tứ ca lại bị Chúc Dung bao vây?”

“Vương cơ đi theo Xi Vưu không bao lâu thì Tứ điện hạ nhớn nhác đuổi tới, nghe nói vương cơ đi tìm Xi Vưu đoạt Hà Đồ Lạc Thư, Tứ điện hạ bèn nổi nóng cãi vã với Đại điện hạ, nói Đại điện hạ lợi dụng vương cơ, sau đó Tứ điện hạ đùng đùng đi tìm vương cơ. Nào ngờ sau đó Chúc Dung tìm thấy Đại điện hạ thương tích đầy mình bèn gọi cả Cộng Công và Hậu Thổ lại, định thừa cơ giết chết Đại điện hạ. Đáng lẽ Đại điện hạ có thể nhân lúc bọn chúng chưa kịp tụ tập đông đủ, trận pháp chưa hoàn thành mà chạy đi, nhưng Thiếu Hạo vẫn đang trị thương dưới băng, nếu Đại điện hạ đi rồi, không chừng Chúc Dung sẽ tìm thấy Thiếu Hạo, bằng vào tính tình của hắn, nhất định…” Chu Du chặt tay vào gáy làm động tác cắt cổ, “Đại điện hạ làm băng dưới hồ tan ra rồi một mực trấn giữ bên hồ, nửa bước không rời nên mới bị bọn Chúc Dung bày trận vây khốn. Tứ điện hạ đi được nửa đường, phát hiện ra hỏa linh biến đổi khác thường, sợ Đại điện hạ xảy ra chuyện bèn vòng lại, cuối cùng rơi vào tình trạng như hiện giờ.”

Nhìn ngọn lửa đỏ rực đằng xa, Chu Du rầu rĩ thở dài, “Thật khó hiểu, Đại điện hạ lúc thì kiêng dè đến mức chỉ mong Thiếu Hạo chết ngay lập tức, khi lại bất chấp mạng sống để cứu y, chắc vì nô tỳ không có trái tim nên chẳng làm sao hiểu nổi.”

A Hành chẳng còn lòng dạ nào để tâm tới thắc mắc của Chu Du, chỉ móc nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư mà Xi Vưu giao cho mình nhét vào tay ả, hạ giọng dặn dò.

Chu Du nghe lời cưỡi Trùng Minh điểu bay vút đi, giơ nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư lên cao giọng nói: “Đại điện hạ, nô tỳ lấy được Hà Đồ Lạc Thư rồi, giờ làm sao đây?” Vừa dứt lời, tất cả mọi người đều ngẩng lên nhìn ả.

Thanh Dương giận dữ gầm lên: “Chạy đi!”

Chu Du lập tức bỏ chạy.

Chúc Dung con rô cũng tiếc, con diếc cũng tham, hết nhìn Cộng Công lại nhìn Hậu Thổ, sau cùng hét bảo Cộng Công: “Mau đuổi theo! Nhất định phải đoạt lấy đem về, hưng vong của cả Thần Nông tộc đều nằm trong tay ngươi đó!”

Cộng Công tức tốc đuổi theo Chu Du.

A Hành khẽ cắn môi, dụ được một tên đi, vẫn còn hai tên!

Nàng ung dung bước ra, vừa trông thấy nàng, Hậu Thổ tái mặt, không dám nhìn thẳng vào mắt nàng, còn Chúc Dung lại cười rộ lên: “Hôm nay đúng là ngày lành tháng tốt, ông trời thấy hai kẻ bỏ mạng vẫn chưa đủ đây mà! Xi Vưu, con đàn bà này giao cho ngươi đấy.”

A Hành kinh ngạc ngoảnh lại, nhận ra Xi Vưu đã đứng ngay sau lưng mình.

Trông thấy hắn A Hành bình tĩnh hẳn, ánh mắt thoáng vui mừng, nhưng cặp mắt Xi Vưu vẫn lạnh lùng u ám khiến nàng hơi thắc mắc, cảm giác có gì đó không ổn, lại chẳng dám nghĩ nhiều.

Mắt thấy mấy đóa Băng Tâm đơn cuối cùng sắp tan biến, A Hành vội cất tay dệt nên một tấm lưới băng tàm, vừa định quăng ra cứu viện thì thấy tay chân đã bị dây mây trói chặt.

Nàng ngỡ ngàng ngoảnh lại, quả nhiên thấy Xi Vưu ra tay trói mình.

Biển lửa phừng phừng nuốt trọn mấy đóa băng mẫu đơn cuối cùng rồi đổ ập vào Thanh Dương khiến hai bàn tay y cháy sém, thân mình lảo đảo quỵ xuống, Xương Ý toan tiếp cứu Đại ca nhưng bản thân y cũng đã kiệt sức, linh lực tung ra chẳng động được tới cọng tóc hai người Chúc Dung và Hậu Thổ liên thủ, đành bó tay để mặc cho ngọn lửa từ từ nuốt trọn mình và Đại ca.

Thấy hai người anh sắp bị ngọn lửa nuốt chửng, A Hành đỏ hoe mắt, ra sức vùng vẫy nhưng không sao thoát được đám dây leo, nàng gào lên với Xi Vưu: “Xi Vưu, đó là anh trai ta mà.”

Xi Vưu chòng chọc nhìn nàng, “Chẳng phải đã nói với nàng rồi sao, ta là dã thú, để sống sót giữa rừng già thì phải xảo quyệt, đa nghi, nhạy bén, hung tàn, không chừa gì cả.”

A Hành cuống quýt khóc òa lên, “Chàng từng nói bất kể ta muốn gì, chàng sẽ giúp ta đoạt lấy kia mà, ta chỉ muốn các anh của mình thôi.”

Xi Vưu vẫy tay, Tiêu Dao trên không liền quăng xuống một người bị đám dây leo trói chặt, là Chu Du.

Xi Vưu móc trong người Chu Du ra nửa quả trứng ngọc, căn vặn: “Cái gì đây?”

“Nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư của ta.”

“Thế còn đây?” Xi Vưu lại móc ra nửa quả trứng nữa từ Chu Du.

A Hành kinh ngạc, há hốc miệng nói không nên lời.

“Cô không còn mặt mũi nào trả lời nữa phải không? Để ta nói cô nghe! Lúc cô ân ái trên giường cùng ta thì thị nữ của cô đã lén tới trộm trứng ngọc, ta biết nhưng cứ để ả trộm lấy đem đi là vì muốn xem xem rốt cuộc cô định vờ vịt đến chừng nào.”

A Hành chợt hiểu ra mọi chuyện, quay sang nhìn Đại ca đang chìm trong biển lửa, thì ra, Đại ca quả thật đã lợi dụng nàng. Nhưng y là Đại ca của nàng.

Hai tay Xi Vưu cầm hai nửa trứng ngọc, lòng ngổn ngang bao bi thương, đau đớn, căm hận cùng oán hận.

“Hiên viên vương cơ, vì cái gì mà ngay cả bản thân mình cô cũng bán rẻ sao? Cô tưởng ta cần thứ này lắm ư? Nếu muốn đoạt thiên hạ thì dù không có Hà Đồ Lạc Thư, ta cũng đoạt được như thường. Ta đã năm lần bảy lượt hỏi cô, nhắc nhở cô, vậy mà cô lại…”

Xi Vưu không nén nổi căm phẫn, bật lên thành tiếng cười đầy bi thương, “Bất kể cô ham mê quyền lực hay mê mẩn hư vinh gì cũng được, ta chỉ có một nguyện vọng nhỏ nhoi là mong cô thật lòng với ta mà thôi. Hiên viên vương cơ ơi là Hiên viên vương cơ, cả trái tim mình ta còn có thể trao cho cô thì Hà Đồ Lạc Thư có đáng gì? Nếu cô hỏi thẳng, ta hoàn toàn có thể giao nó cho cô kia mà! Cớ gì phải dùng lời ngon tiếng ngọt gạt gẫm ta hết lần này sang lần khác?”

A Hành ầng ậng nước mắt, “Không phải ta mà!”

“Rốt cuộc cô là loại đàn bà gì hả? Cả thiên hạ đều biết cô cùng Thiếu Hạo phu thê ân ái, ai ai cũng nói cô tha thiết yêu thương y, thế mà vừa ngoảnh mặt cô đã có thể hoan lạc thâu đêm bên ta, còn trơ tráo gạt ta rằng cô và y chỉ là đóng kịch, vậy còn ta? Cô và ta là gì đây? Khi gặp Thiếu Hạo, cô lại nói cô và ta chỉ là vờ vĩnh, phải không?”

“Không… Không phải đâu.”

Xi Vưu túm lấy tay A Hành, gí sát mặt nàng hỏi: “Lúc rên xiết quằn quại bên dưới ta, cô vẫn chỉ chăm chăm lo xem ả thị nữ kia đã đánh cắp được Hà Đồ Lạc Thư trót lọt chưa đúng không?”

A Hành lắc đầu quầy quậy, nước mắt như mưa.

Xi Vưu chòng chọc nhìn nàng, gằn từng tiếng: “Tại sao bao tết Khiêu Hoa trước cô chẳng hề đáp lại lời mời gọi của ta vậy mà lần này đáp ứng mau lẹ thế? Cô thành thật nói xem, thực sự cô không có bất kỳ mục đích gì sao?”

“Không có!” A Hành vừa buột miệng lại ngập ngừng. Đương nhiên nàng làm vậy là vì yêu Xi Vưu, nhưng có lẽ một phần bởi phụ vương nói sẽ mời y sư trong cung tới thăm khám cho nàng, nàng sợ để lộ sơ hở, nên lập tức cùng Xi Vưu… Có điều nàng cũng thật lòng muốn trao thân cho hắn mà.

Xi Vưu xảo trá như hồ ly, há chẳng nhìn ra vẻ ngập ngừng trong mắt A Hành, mối nghi hoặc trong lòng được chứng thực, bi thương cũng theo đó trào dâng như nước vỡ bờ, lửa giận bùng lên ngút trời, hắn liền rảy mạnh A Hành ra, ghê tởm đến nỗi không muốn đụng vào nàng.

Mấy trăm năm trước, hắn thà bị thương cũng quyết không lại gần nàng, sợ mình làm tổn thương đến nàng, bao lâu nay dè dặt thăm dò nàng, tiếp cận nàng, bề ngoài nhìn vào có vẻ gian xảo, thực ra chỉ vì biết rõ mình không cầm lòng nổi trước nàng, vậy mà cuối cùng một mảnh chân tình vẫn bị nàng phũ phàng phụ rẫy.

Nhìn dáng vẻ của Xi Vưu, lòng nàng đau như dao cắt, nước mắt ròng ròng nói: “Giờ ta có nói gì chàng cũng chẳng chịu tin, thôi thì ta cầu xin chàng một việc, xin chàng hãy cứu các ca ca của ta, được không?”

Xi Vưu lạnh lùng: “Cô quên rồi ư? Dã thú chẳng những xảo trá đa nghi mà còn rất hung tàn nữa! Kẻ khác làm ta rơi một giọt máu, ta phải đòi hắn đền lại một mạng, bắn một mũi tên vào ta, ta sẽ trả lại mười mũi!”

Dứt lời hắn khoanh tay bình thản đứng xem Chúc Dung thiêu sống Thanh Dương và Xương Ý.

A Hành vừa vật mình khoác lóc vừa tha thiết van nài: “Xi Vưu, Xi Vưu…”

Xi Vưu vẫn lạnh lùng làm ngơ.

Xi Vưu đã giăng sẵn kết giới nên Hậu Thổ không thể nghe được hắn cùng A Hành cãi vã, nhưng thấy A Hành bị trói chặt, ra sức vùng vẫy đến nỗi đầu tóc rũ rượi, nước mắt đầm đìa, gã cũng mím chặt môi, lòng thầm hổ thẹn.

Mặc cho A Hành hết lời van vỉ, Xi Vưu vẫn một mực lạnh lùng thờ ơ, dần dà nàng đâm ra tuyệt vọng, không gắng vật nài thêm nữa, chỉ thẫn thờ nhìn ngọn lửa thiêu đốt hai anh trai mình, nước mắt lã chã, ánh lửa phừng phừng in hằn vào đáy mắt nàng, cả cõi lòng nàng cũng chết dần theo ngọn lửa, xác thân còn một mảnh trống không.

Nhìn vẻ mặt đau thương đến tuyệt vọng của A Hành, Xi Vưu chẳng hề thấy khoan khoái vì trả được thù, trái lại niềm căm phẫn trong lòng càng trào lên mãnh liệt hơn, hắn vẫy tay kéo A Hành lại, gằn giọng hỏi: “Chẳng phải cô khéo dùng lời ngon tiếng ngọt lắm hay sao? Sao giờ không khua môi múa mép nữa đi? Lẽ nào tình cảm của cô với các ca ca mình cũng là giả nốt?”

A Hành thê thiết nhìn hắn, chậm rãi thốt từng chữ: “Xi Vưu, hôm nay nếu đổi lại là ta thì ta sẽ tin chàng! Lẽ nào quen biết mấy mươi năm lại không bằng mối hiểu lầm ba ngày ư?” Dứt lời nàng chẳng buồn nhìn Xi Vưu nữa, chỉ đăm đăm trông về phía hỏa trận, như muốn ghi khắc lại tất cả cảnh tượng hôm nay.

Lần đầu tiên nàng hiểu ra rằng nỗi đau lớn nhất trong đời không phải là bản thân chết đi, mà là phải trơ mắt nhìn những người thân yêu lìa trần mà chẳng thể làm gì được.

Không bắt được Chu Du, Cộng Công đành tiu nghỉu về không, vừa tới nơi lại thấy Chu Du đã bị trói gô, còn chưa kịp mở miệng hỏi nguyên do, Chúc Dung đã kéo tuột hắn vào trợ trận. Có thêm linh lực của Cộng Công ngọn lửa càng mạnh thêm, nuốt trọn cả Xương Ý và Thanh Dương.

A Hành nghiến đến muốn vỡ răng, sắc mặt trắng bệch, cặp mắt đờ đẫn vô hồn chẳng còn nước mắt mà rơi nữa, thay vào đó, máu bắt đầu ứa ra từ khóe miệng.

Mặc cho Xi Vưu gọi nàng, lắc nàng, A Hành cứ đờ ra như khúc gỗ, chỉ có đôi mắt thẫn thờ dán chặt vào đống lửa ngùn ngụt ngút trời.

Bỗng Xi Vưu nhận ra rằng, nếu ngọn lửa kia còn tiếp tục thiêu đốt thì nàng A Hành mà hắn quen biết cũng sẽ chết đi, mãi mãi không bao giờ trở lại.

Tuy còn chưa nguôi căm hận A Hành nhưng hắn cũng chẳng nỡ nhìn nàng chết, thầm đấu tranh giằng co một hồi lâu, cuối cùng Xi Vưu giơ tay lên, chuẩn bị phát lực dập lửa.

Hậu Thổ chần chừ do dự mãi cũng định lén thu lại linh lực.

Đột nhiên một con thủy long khổng lồ từ dưới lòng hồ gầm rít xông lên, quét qua cả hỏa trận.

Thủy hỏa giao tranh phát ra tiếng ùng oàng điếc tai, thủy long dần dần nhỏ lại, ánh lửa cũng từ từ lụi tắt.

Đúng lúc thủy long biến mất, Thiếu Hạo bế theo A Hành nhẹ nhàng đáp xuống giữa hỏa trận, ngọn lửa phừng phừng đã bị y chặn đứng.

Vừa đặt chân xuống đất, A Hành liền nhào tới chỗ các anh, quên cả cảm ơn Thiếu Hạo.

Xương Ý nằm phục trên người Thanh Dương, ôm chặt đầu Thanh Dương trong lòng, A Hành phải dùng sức mới kéo được Xương Ý ra. Lưng Xương Ý bị bỏng nặng, nhưng như một phép lạ, Thanh Dương chẳng hề thương tổn mảy may, chỉ hôn mê vì cạn kiệt linh lực mà thôi.

Nhìn cảnh tượng trước mắt, bọn Chúc Dung, Hậu Thổ, Cộng Công đều lấy làm kinh hãi, chẳng ngờ trong vương tộc vẫn còn tình anh em khăng khít nhường kia.

Thiếu Hạo vừa lấy nước ngăn lửa mỉm cười nhìn khắp lượt mọi người: “Bốn đại cao thủ Thần Nông đều ở đây, quả là náo nhiệt!”

Nước vốn là khắc tinh của lửa, thêm vào đó linh lực của Thiếu Hạo lại vượt trội hơn, nghĩ vậy Chúc Dung không khỏi chột dạ, nhưng vẫn gượng cười đáp: “Không ngờ Thiếu Hạo lại rình sẵn dưới hồ, đúng là khiến người ta kinh ngạc.”

Thiếu Hạo cười: “Xá đệ vô dụng, lỡ tay làm bị thương tại hạ, ba ngày trước tại hạ đã ở dưới hồ này trị thương rồi, chính các vị quấy rầy tại hạ chứ không phải tại hạ cố ý rình mò đâu nhé.”

Y ngang nhiên thừa nhận mình bị thương, còn chỉ rõ đã trị thương ba ngày nay, càng khiến Chúc Dung thêm phần sợ sệt, nhưng hắn vẫn tiếc rẻ cơ hội hiếm hoi trước mắt. Tính ra nếu bốn người bọn hắn đồng tâm hợp lực lại cũng chẳng ngán gì Thiếu Hạo, nhưng Xi Vưu vốn ngông cuồng ngạo mạn, nào chịu nghe hắn sai khiến, Hậu Thổ bề ngoài hòa nhã mà bên trong âm hiểm, chẳng trông cậy được gì, chỉ dựa vào một mình tên ngốc Cộng Công thì không ăn thua.

Lỡ như Thiếu Hạo đả thương hắn, liệu Xi Vưu và Hậu Thổ có trở mặt thành thù, giết chết hắn không?

Chúc Dung đắn đo giây lát rồi thu linh lực lại, quay sang nói với Thiếu Hạo: “Nể mặt điện hạ, ta tha mạng Hiên Viên Thanh Dương đó.”

“Đa tạ.” Thiếu Hạo tươi cười tạ ơn, thật ra lần này y trúng thương rất nặng, lại bị Thanh Dương liên tục quấy nhiễu cản trở việc trị thương, hiện giờ, y vốn chẳng thể thắng nổi Chúc Dung.

“Vậy chúng ta xin cáo từ, các vị, hẹn ngày sau gặp lại.” Thiếu Hạo cười cười ôm quyền chào từ biệt khắp lượt.

Thiếu Hạo cứu tỉnh Thanh Dương, Chu Du đỡ Thanh Dương lên lưng Trùng Minh điểu, A Hành ôm Xương Ý cưỡi A Tệ, còn Thiếu Hạo đứng trên lưng Huyền điểu, chuẩn bị lên đường.

“Khoan đã!”

Xi Vưu đột nhiên tiến lại, vừa tung vừa hứng hai mảnh Hà Đồ Lạc Thư trong tay, ánh mắt mọi người cũng dán chặt vào đó, hết trợn mắt lên lại cụp mắt xuống nhìn theo hai nửa trứng ngọc.

“Thanh Dương, Thiếu Hạo, ta muốn đem cái này đổi lấy một thứ của các ngươi.”

Thanh Dương cùng Thiếu Hạo đồng thanh hỏi: “Đổi lấy thứ gì?”

Chúc Dung cùng Cộng Công đồng thanh phản đối: “Không được!”

Hậu Thổ làm thinh, chỉ âm thầm vận linh lực.

Xi Vưu cười cười chỉ A Hành: “Cô ta!”

Chúc Dung không nhịn nổi ngoác miệng chửi: “Đồ điên, ngươi tưởng một mình ngươi đoạt được Hà Đồ Lạc Thư đấy phỏng, nếu không có chúng ta, ngươi nghĩ mình có đoạt được không?” Xi Vưu chẳng buồn để ý đến hắn, chỉ chăm chú nhìn Thanh Dương và Thiếu Hạo: “Ta muốn mời vương tử phi tới Thần Nông chơi vài ngày, không biết ý hai vị thế nào?”

Thanh Dương và Thiếu Hạo đều lặng yên không đáp.

A Hành lạnh từ trong lòng lạnh ra, cả người run lẩy bẩy, nụ cười của Xi Vưu tàn nhẫn làm sao, hắn vốn không cần nàng, hắn chỉ muốn nàng tận mắt thấy mình còn không bằng một món đồ trong mắt Đại ca và phu quân, mà thảm hại nhất là – nàng quả thật không bằng một món đồ!

Xi Vưu bẻ trứng ngọc làm đôi cho Thiếu Hạo và Thanh Dương nhìn, “Địa thế núi sông, khí hậu các nơi trong thiên hạ đều nằm cả ở đây, nếu hai người đồng ý thì mỗi người nhận lấy một nửa, nếu chỉ một người đồng ý thì ta sẽ giao luôn hai nửa cho kẻ đó.”

Xi Vưu vô cùng nham hiểm xảo trá, chỉ mấy câu đã ép Thiếu Hạo và Thanh Dương vào thế đối địch nhau. Thanh Dương và Thiếu Hạo thừa biết quỷ kế của hắn, nhưng không thể không theo, liền đưa mắt nhìn đối phương vẻ đề phòng, ánh mắt vừa chạm nhau đã lập tức ngoảnh đi.

Xi Vưu đứng ngoài khoái trá quan sát vẻ mặt Thiếu Hạo và Thanh Dương, hệt như mèo vờn chuột.

Đột nhiên A Hành lên tiếng: “Đủ rồi, ta sẽ đi theo ngươi!”

Dứt lời nàng ôm Xương Ý tới trước mặt Thanh Dương: “Nếu không đoạt được Hà Đồ Lạc Thư thì lấy gì giao nộp cho phụ vương, Đại ca cứ để muội theo Xi Vưu tới Thần Nông một chuyến.”

A Hành một mực tươi cười như thể chứng minh chuyện này do mình nàng quyết định chứ không phải bị Thanh Dương đem ra làm vật trao đổi. Nhìn gương mặt tươi cười của nàng, Thiếu Hạo càng hiểu rõ những suy tư ẩn sau nụ cười tươi tắn ấy, dường như nàng nghĩ chỉ cần giữ được nụ cười đó thì có thể gắng gượng chống đỡ hết thảy.

Tận mắt thấy A Hành đi về phía Xi Vưu, Thiếu Hạo bỗng buột miệng gọi: “A Hành!”

Nghe y gọi, A Hành dừng bước, ngỡ ngàng ngoảnh lại.

Trong đêm, đôi mắt nàng lấp lánh như hai vì sao sáng khiến Thiếu Hạo liên tưởng tới những ánh sao bềnh bồng trên sóng nước Cao Tân – những ánh sao mà y phải dốc lòng bảo vệ.

Lời ra đến đầu lưỡi lại bị nuốt xuống, bất lực cùng khổ tâm đắng nghét trong miệng càng làm nụ cười của y thêm vẻ dịu dàng: “Dọc đường nhớ giữ gìn, mấy ngày nữa ta sẽ phái thị vệ tới đón nàng.”

A Hành nhoẻn cười đáp lại, vừa cười vừa ngoảnh đầu đi, rảo chân bước tới bên cạnh Xi Vưu.

Xi Vưu giơ cả hai tay lên, hai mảnh trứng ngọc lần lượt rơi vào tay Thanh Dương và Thiếu Hạo.

Thanh Dương liếc nhìn Thiếu Hạo rồi sai Chu Du điều khiển Trùng Minh điểu bay về phía Đông Bắc.

Thiếu Hạo thầm kiểm tra thương thế bản thân một lượt rồi cưỡi Huyền điểu bay về phía Đông Nam.

Chúc Dung căm hận chửi rủa sa sả nhưng chẳng dám đuổi theo Thiếu Hạo, bèn nhảy lên Tất Phương điểu truy sát Thanh Dương.

A Hành lập tức cưỡi A Tệ xông ra chặn đường Chúc Dung, vừa dùng Trụ Nhan hoa dựng lên một bức tường hoa đào dày đặc, vừa hét gọi Xi Vưu: “Ngươi đừng quên lời mình hứa đấy.”

Nàng không nhắc tới lời hứa thì thôi, vừa nhắc tới, Xi Vưu liền nghĩ đến những lời đường mật giả dối mấy ngày nay, trước kia ân ái ngọt ngào bao nhiêu thì giờ đây lại căm uất phẫn hận bất nhiêu, hắn lạnh lùng đáp: “Đương nhiên rồi, ta nào có quên, ta hứa đem cô ra làm vật trao đổi chứ có hứa sau khi trao đổi xong Chúc Dung không được đoạt lại đâu.”

Nỗi thương tâm thất vọng trong lòng A Hành hoàn toàn biến thành đau đớn tuyệt vọng, gã đàn ông này là kẻ mà nàng phải vượt qua trùng trùng gian khó, thận trọng từng li từng tí mới có thể trao gửi cả tấm chân tình, là kẻ khiến nàng chẳng ngại đối đầu với số mệnh, cố hết sức để được ở bên, cũng là kẻ mà nàng ngỡ bất luận sinh tử, họa phúc đều mãi mãi tin tưởng nàng, yêu thương, bảo vệ nàng, kề vai sát cánh với nàng đấy ư?

“Chàng hận ta đến thế ư? Lẽ nào trừ bản tính đa nghi và hung tàn của dã thú, chàng chẳng có chút xíu tin tưởng và nhân ái nào của con người sao?” Mới hôm qua thôi, còn luôn miệng rót vào tai nàng bao tình sâu nghĩa nặng, vậy mà nháy mắt đã rũ sạch không.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 12-6-2014 02:42 PM
Chương 17


Trời đất bao la còn lúc hết .


17.2


Trước là bị Thanh Dương cùng Thiếu Hạo ruồng bỏ, sau lại bị Xi Vưu ngoảnh mặt, trái tim A Hành bỗng chốc chết lịm, nàng bất chấp tất cả lao vào Chúc Dung, ngăn hắn đuổi theo các anh trai đang trọng thương.

Chúc Dung đứng đằng trước, chếch về bên trái nàng. Thoạt trông thấy Xi Vưu vì A Hành mà rối như tơ vò, cử động thất thường, hắn chợt nảy ra một ý. Ẩn mình sau đám lửa phừng phừng, hắn khẽ búng tay, bắn mấy đốm U Minh hỏa nhỏ xíu về phía A Hành. Trong ánh lửa đỏ ngút trời, thân thể A Hành vừa khéo ở ngay trong tầm bắn tới của U Minh hỏa, vậy mà Xi Vưu chẳng hề trông thấy, chỉ thấy khắp người nàng bung ra vô số sợi tơ tằm, áp đảo cả địa hỏa của Chúc Dung.

A Hành lao vút lên như muốn tấn công Chúc Dung. Biết rõ A Hành chẳng phải đối thủ của Chúc Dung, Xi Vưu chỉ khoanh tay đứng yên tại chỗ, phóng ra mấy sợi dây leo xanh mướt, trói chặt lấy A Hành từ trên không, ngăn nàng ra tay với Chúc Dung.

Hậu Thổ ở đằng trước, chếch về bên phải nàng, đột nhiên trông thấy Chúc Dung vận dụng cả U Minh hỏa có thể thiêu trụi vạn vật đánh lén A Hành, hơn nữa đã bắn tới ngay trước ngực nàng. Tuy nhiên, U Minh hỏa uy lực đáng sợ lại mang nhược điểm chí mạng là tốc độ bay rất chậm, bởi thế dù phát hiện trễ, A Hành vẫn có khả năng né kịp. Có điều đúng lúc nàng nhảy vọt lên không né U Minh hỏa bắn tới, Hậu Thổ thở phào nhẹ nhõm đã giật mình kinh hãi trông thấy Xi Vưu tung dây leo trói chặt A Hành, khiến nàng tránh không khỏi đòn của Chúc Dung, người ngoài nhìn vào chẳng khác nào Xi Vưu cùng Chúc Dung phối hợp lấy mạng A Hành vậy.

Hậu Thổ tức tốc ngưng tụ một tấm khiên đất chắn trước mặt A Hành, tiếc rằng vẫn chậm một bước, tuy chặn được phần lớn U Minh hỏa nhưng vẫn còn một đốm U Minh hỏa lọt qua khiên, bắn trúng mỏm vai nàng. Một đốm lửa nhỏ cũng có thể đốt trụi cả thảo nguyên, huống hồ đây lại là U Minh hỏa được Chúc Dung tôi luyện cả ngàn năm, uy lực càng khỏi phải tưởng tượng.

Xi Vưu từ đầu đến cuối vẫn đứng xa quan sát, không hiểu đã xảy ra chuyện gì, nhưng thấy Hậu Thổ đột nhiên hốt hoảng dốc toàn bộ linh lực dựng lên tấm khiên chắn trước ngực A Hành, nhìn sang thấy Chúc Dung dương dương tự đắc, hắn liền chột dạ, lập tức cởi trói cho nàng.

Cả bờ vai A Hành đỏ rực lên như lửa đốt, nàng ôm vai ngoảnh lại nhìn Xi Vưu cười thê thiết.

Trong mắt nàng chỉ còn giá lạnh thấu tim cùng tro tàn tuyệt vọng.

Xi Vưu tê tái cả cõi lòng vội bay vụt tới, bao thất vọng, phẫn nộ, bi thương vì bị nàng lừa gạt thảy đều quẳng sang một bên.

A Hành cưỡi A Tệ tả xung hữu đột toan phá vòng vây lửa của Chúc Dung còn Liệt Dương dùng Phượng Hoàng huyền hỏa tấn công hắn. Trong nháy mắt, địa hỏa của Chúc Dung giao tranh cùng Phượng Hoàng huyền hỏa của Liệt Dương xẹt ra tia lửa tứ tung, nhuộm đỏ rực cả đất trời.

Thật ra mục đích của Chúc Dung không phải là A Hành, hắn chỉ muốn đả thương A Hành khiến Xi Vưu chấn động tâm thần, thừa dịp bốn bề hỗn loạn vờ công kích A Hành, thu hút sự chú ý của Xi Vưu rồi âm thầm phóng U Minh hỏa đánh lén Xi Vưu mà thôi. Xi Vưu vốn là chướng ngại vật cản trở hắn tiến tới vương vị, chỉ cần giết được Xi Vưu, con đường trước mặt hắn sẽ thênh thang rộng mở, còn Hà Đồ Lạc Thư ngày sau từ từ nghĩ cách đoạt về cũng chẳng sao.

Nghĩ sao làm vậy U Minh hỏa của Chúc Dung ẩn sau ánh lửa đỏ rực trời âm thầm bay về phía Xi Vưu đang dốc toàn lực xông tới.

U Minh hỏa bay rất chậm, nhưng Xi Vưu lại xông tới nhanh như chớp. Mắt thấy Xi Vưu chỉ còn cách U Minh hỏa trong gang tấc, Chúc Dung kích động đến run lên bần bật, lần này tên Xi Vưu giời đánh không chết cũng sắp phải chết đến nơi rồi.

Hậu Thổ đứng ngoài thấy hết sự tình, lòng thoáng do dự nhưng cuối cùng chỉ khoanh tay mặc kệ, chẳng buồn ngăn trở.

Tuy cõi lòng đã chết lịm nhưng thần trí A Hành lại vô cùng tỉnh táo, nàng trông rõ từng đốm lửa U Minh hòa ẩn sau vô số đốm lửa lách tách của địa hỏa, âm thầm bay về phía Xi Vưu.

Chẳng kịp nghĩ ngợi, nàng tung người lao tới chắn trước mặt Xi Vưu, tất cả U Minh hỏa đều bay vào lục phủ ngũ tạng nàng.

Hậu Thổ xưa nay rất giỏi kiềm chế cũng phải thét lên thảm thiết, U Minh hỏa chẳng những thiêu trụi thân xác mà còn tiêu diệt cả linh thức, trúng phải một đốm lửa đã vô cùng nguy hiểm, huống hồ là bấy nhiêu U Minh hỏa? Chỉ một phút ích kỷ của gã lại sắp hại chết Bạt tỷ tỷ mà gã mang nặng ân tình.

Thấy Hậu Thổ gào thảm, Xi Vưu vẫn chưa hiểu mô tê gì, mãi tới khi thấy từng đốm lửa hồng thấu qua sau lưng A Hành, hắn mới sững sờ nhận ra mọi chuyện.

Chúc Dung một đòn không trúng, biết rõ chẳng còn cơ hội đánh lén lần hai, vội cao giọng gọi Cộng Công rồi lập tức cưỡi tọa kỵ truy đuổi Thanh Dương.

Xi Vưu không còn lòng dạ nào để ý tới Chúc Dung nữa, chỉ lo dốc sức cùng Hậu Thổ kẻ trước người sau đuổi theo A Hành. Xi Vưu gọi lớn: “A Hành, mau dừng lại đi.”

Hậu Thổ cũng luôn miệng gọi tên nàng: “Bạt tỷ tỷ, Bạt tỷ tỷ, tỷ dừng lại đã, để đệ dùng linh lực giúp tỷ ngăn chặn U Minh hỏa, sau đó chúng ta sẽ về Quy khư ở Cao Tân ngay.”

A Hành bị U Minh hỏa thiêu đốt đến choáng váng đầu óc, trí não cũng như cõi lòng đều đầy ứ bi thương, có nghe cũng chẳng hiểu được gì, chỉ biết thúc A Tệ dốc hết sức bay thật mau, đời này kiếp này, nàng vĩnh viễn không muốn gặp lại Xi Vưu nữa.

Xi Vưu dấy cuồng phong toan bắt nàng lại.

A Hành dốc toàn bộ linh lực, dùng Trụ Nhan hoa dựng lên một bức bình phong bằng hoa đào, chặn đứng cuống phong của Xi Vưu. Không còn linh lực áp chế, U Minh hỏa từ vai và ngực nàng tức tốc lan ra khắp người, cả thân mình A Hành đều tỏa rực hồng quang.

Xi Vưu kinh hoảng ra mặt, chẳng dám bắt A Hành lại nữa, đành xuống giọng van vỉ nàng: “A Hành, đừng vận linh lực nữa, ta van nàng đừng vận linh lực nữa mà!”

Hắn cùng Hậu Thổ không dám tiến sát lại gần, đành lủi thủi theo sau A Hành. A Hành thấy lục phủ ngũ tạng mình như sôi lên ùng ục, cơn đau xé lòng nát ruột bùng lên thiêu đốt nội tạng khiến nàng lảo đảo suýt ngã khỏi lưng A Tệ.

Xi Vưu đưa mắt ra hiệu cho Hậu Thổ rồi cất tiếng: “A Hành, nàng muốn gạt ta thì cứ việc gạt, ta không giận nàng, cũng không để bụng đâu, dù nàng chỉ có tình cảm giả tạo, ta vẫn cam lòng!”

Không nhắc tới còn đỡ, hắn vừa dứt lời, bi thương và căm uất đồng loạt dâng lên nghẹn ứ lồng ngực A Hành, nàng rút Trụ Nhan hoa ném trả Xi Vưu, lạnh lùng nói: “Từ khi gặp gỡ tới nay, ngươi hết theo lại đuổi, luôn miệng thề thốt chỉ cần trong mắt ta có ngươi, ngươi cam lòng máu nhuộm thẫm áo, chỉ cần trong lòng ta có ngươi, ngươi cam lòng tưới máu đẫm đồng hoang. Trong mắt ta có ngươi, trong lòng ta có ngươi rồi đó, nhưng trong mắt ngươi, trong lòng ngươi đã bao giờ thật sự có ta chưa? Ta nói ngươi hay, kể từ bây giờ hai ta đoạn tuyệt ân tình, ta sẽ quên tất cả mọi chuyện về ngươi, nếu trong mắt ta còn bóng hình ngươi, ta sẽ móc mắt mình ra, nếu trong lòng ta còn nghĩ tới ngươi, ta sẽ bóp nát trái tim mình!”

Nhân lúc A Hành nói chuyện, lơ là phòng vệ, Hậu Thổ lập tức ra tay.

A Hành đột nhiên phát hiện mình không sao cử động được, cả người đều bị đất sét bọc kín, chẳng khác nào một pho tượng. A Tệ cũng bị thổ linh trói chặt, lơ lửng giữa không trung, bất động.

Xi Vưu sai Tiêu Dao bay xuống đỡ lấy nàng, bất chợt, hắn bàng hoàng nhận ra bọn họ kẻ đuổi người chạy, bất giác đã bay thẳng tới Ngu uyên tự lúc nào. Bên dưới A Hành không phải hư không mà là Ngu uyên, nơi ẩn chứa nguồn sức mạnh có khả năng nuốt trọn mọi thứ, dù là giống đại bàng do cá côn hóa thành cũng chẳng dám lớn mật xông vào.

U Minh hỏa thiêu đốt tâm can khiến A Hành đang bị bọc kín trong đất sét cũng run bắn người lên vì đau đớn.

Xi Vưu lòng như lửa đốt, liền thúc Tiêu Dao gắng hết sức tiếp cận Ngu uyên, toan tung dây leo kéo nàng lại.

Đôi bên cách nhau một màn khói đen giăng kín bầu trời Ngu uyên, trong khoảnh khắc hai ánh mắt giao nhau, nhìn thấu vẻ quyết tuyệt nơi đáy mắt nàng, Xi Vưu bỗng lạnh toát cả người.

Ba ngày trước, khi mượn khúc sơn ca đáp lại lời mời gọi của hắn, nhận lấy Trụ Nhan hoa hắn tặng, là nàng toàn tâm toàn ý, hôm nay bi thương phẫn hận ném Trụ Nhan hoa trả cho hắn, cũng là nàng kiên quyết khăng khăng.

U Minh hỏa thiêu đốt lục phủ ngũ tạng A Hành, đau thấu tim gan, đó là cái giá đau đớn nhất mà nàng phải trả vì nông nổi cả tin, tùy tiện hẹn ước, nhưng đổi lại bao ôn nhu đằm thắm bấy nhiêu năm cùng niềm hoan lạc đến rã rời thể xác – nàng không hối hận!

Trên Tiểu Nguyệt đỉnh cùng thề ước, năm năm hẹn nhau dưới cội hoa đào, không gặp không về, suốt đời suốt kiếp, nàng đã quyết dù ngày sau xảy ra chuyện gì, nàng cũng không hối hận.

Nàng không hề hối hận vì đã yêu Xi Vưu, nhưng nàng quyết định từ nay trở đi sẽ lãng quên triệt để.

“A Hành, ta nhất định phải cứu được nàng.” Dây leo của Xi Vưu đã vươn tới gần nàng.

Nàng đăm đăm nhìn hắn một lần sau cuối rồi kiên quyết nhắm mắt lại, gắng sức chao người đi, cả thân hình rớt khỏi lưng A Tệ rơi thẳng xuống dưới, dây leo của Xi Vưu chụp hụt.

“A… Hành…”

Xi Vưu thét lên xé lòng, bất chấp mọi thứ nhào khỏi lưng Tiêu Dao, toan kéo nàng lại.

Hai người một trước một sau vùn vụt rơi xuống như sao băng.

Sau cùng hắn tung dây mây bắt được A Hành, nhưng làn khói đen dày đặc phía trên Ngu uyên đã quấn lấy đầu A Hành kéo nàng xuống.

Xi Vưu vận hết linh lực cố giữ lấy A Hành, dây mây đứt một sợi, hắn lại dốc sức tái sinh một sợi, nhưng linh lực của hắn không sao đấu nổi với Ngu uyên, ngay bản thân mình cũng bị kéo ghì xuống. Tiêu Dao xòe vuốt quắp chặt Xi Vưu, thân hình bỗng lớn bổng, nó ra sức đập cánh gắng gượng bay lên, cuốn theo bão lốc vần vũ cả bầu trời.

Chỉ một lần vỗ cánh Tiêu Dao có thể bay xa mấy ngàn dặm, nhưng lúc này đây, nó ráng hết sức cũng không quắp nổi Xi Vưu lên, thân thể A Hành bị chìm lút đến eo, còn Xi Vưu cũng càng lúc càng bị kéo rịt xuống Ngu uyên, lôi cả Tiêu Dao xuống theo.

Tiêu Dao nửa muốn vùng bay lên theo bản năng sinh tồn, nửa lại không nỡ bỏ Xi Vưu, kẻ vừa là cha cũng vừa là bạn nó, chỉ biết ngẩng cổ nhìn trời cất tiếng kêu thê thiết, bất lực chờ tử vong nhấn chìm từng chút từng chút một.

Liệt Dương liều mạng xông qua cơn lốc mà Tiêu Dao đập cánh cuốn lên, ngậm lấy túm lông trên đỉnh đầu Tiêu Dao ráng sức kéo nó lên, ráng tới nỗi mỏ Liệt Dương cùng đỉnh đầu Tiêu Dao đều ứa máu.

A Tệ bị trói đứng trên không cũng muốn lao đến giúp nhưng nó kêu không kêu được, cựa không cựa nổi, chỉ biết khóc ròng mà trông, thân thể A Hành càng chìm lút xuống Ngu uyên, nước mắt A Tệ càng lã chã.

Hậu Thổ vẫn đương dốc hết linh lực giúp A Hành phong tỏa U Minh hỏa, nhưng khi nàng lút xuống Ngu uyên đến tận eo, gã kinh hãi nhận ra mình không thể cảm nhận được hơi thở của nàng nữa, bên trong lớp đất sét chẳng còn mảy may sinh khí, A Hành đã bị U Minh hỏa thiêu chết.

Bạt tỷ tỷ từng bảo vệ động viên gã trong lúc gã bơ vơ nhất đã chết rồi! Người khiến gã có thể trở thành Hậu Thổ ngày nay đã chết! Người con gái mà gã đã bao lần âm thầm thề rằng, đợi khi nào trở thành đại anh hùng, gã nhất định sẽ báo đáp giờ đây không còn nữa!

Hậu Thổ hồn bay phách lạc, đờ cả người ra.

Mãi tới khi làn khói đen sắp cuốn lấy Xi Vưu, Hậu Thổ mới sực tỉnh, vội thu lại thổ linh trên người A Hành, thét gọi Xi Vưu: “Bạt tỷ tỷ chết rồi! Ngươi buông tay đi!”

Xi Vưu run bắn cả người, chẳng những không buông tay mà còn cắn lưỡi, dùng máu trong tim tưới đẫm dám dây leo, ra sức kéo A Hành lên. Chỉ tiếc linh lực của hắn không sao bì nổi sức mạnh của cả Ngu uyên, hắn càng dùng sức thì bản thân càng bị hút vào.

Hậu Thổ hét lên thảm thiết: “Tỷ ấy chết rồi, chết thật rồi, ngươi kéo cũng chẳng ăn thua gì đâu!”

“Xi Vưu, ngươi điên rồi à? Ngươi chỉ đang kéo một cái xác thôi, biết không hả?”

“Xi Vưu, Bạt tỷ tỷ đã cứu mạng ngươi, ngươi không được phép bỏ mạng ở đây!”

Xi Vưu vẫn một mực yên lặng, như câm như điếc, chỉ ra sức giữ chặt lấy A Hành, cặp mắt trân trân nhìn nàng không chớp, ánh mắt điên cuồng tuyệt vọng mà trĩu nặng bi thương.

Bất luận Hậu Thổ réo gọi, khuyên ngăn ra sao, Xi Vưu vẫn khăng khăng không thừa nhận A Hành đã chết, cố chấp giữ chặt lấy nàng chẳng chịu buông tay, sau cùng Hậu Thổ cũng hiểu ra Xi Vưu nhất quyết không thể để A Hành tuột khỏi tay mình chìm vào vực tối vĩnh hằng kia được.

Lần đầu tiên gã phải thay đổi quan điểm về kẻ vẫn bị bọn gã khinh miệt, coi như cầm thú.

Thấy Xi Vưu cũng sắp chìm xuống Ngu uyên, Hậu Thổ bèn ngưng tụ linh lực toàn thân, vung ra một cây cột đất đập vào gáy hắn.

Xi Vưu vừa ngất đi, dây mây cũng nhất tề đứt lìa, không còn bị dây mây ràng giữ, Tiêu Dao liền quắp Xi Vưu bay vụt lên. Liệt Dương nhễu máu đầy mỏ, toan kêu lên mừng rỡ, chợt phát hiện chỉ có mình Xi Vưu được kéo lên, còn A Hành đã chìm xuống Ngu uyên thăm thẳm chẳng thấy tung tích, bèn rít lên một tiếng bi thương xông thẳng xuống dưới, trong nháy mắt, đốm trắng nhỏ nhoi đã bị vực sâu tăm tối nuốt trọn, Hậu Thổ không kịp ngăn cản.

Gã định cởi trói cho A Tệ thì trông thấy Liệt Dương như vậy, lập tức bỏ ngay ý định, chỉ từ từ thu hồi linh lực, kéo A Tệ lại gần mình.

A Tệ trừng trừng nhìn xuống Ngu uyên, tiếng kêu nghẹn ứ trong cổ họng mà không cất ra tiếng nổi, A Hành của nó, Liệt Dương của nó… Nó cũng muốn xông vào đó nhưng không sao động đậy được, chỉ có thể tuyệt vọng trào nước mắt, khóc mãi khóc mãi, nước mắt cũng cạn khô, chỉ còn huyết lệ lã chã nhuộm đỏ cả lớp đất đang ghì chặt nó trên không.

Hậu Thổ đứng giữa không trung lặng lẽ nhìn về phía Ngu uyên cuồn cuộn khói đen, nét mặt bình thản nhưng chuyện cũ cứ quặn lên trong lòng, không sao dứt áo mà đi được.

Thuở ấy gã còn là một đứa nhỏ yếu đuối nhút nhát, vì mẹ đẻ xuất thân Yêu tộc hèn mọn nên luôn bị bọn trẻ khinh miệt giày xéo, bản thân gã lại quá đỗi tự ti nhu nhược, chẳng dám phản kháng, chỉ biết chui vào xó âm thầm rơi nước mắt. Xưa nay không ai buồn ngó ngàng đến gã, ngay cả sư phụ cũng ghét gã tay chân lóng ngóng, hở ra là mắng mỏ, chỉ mình vị tỷ tỷ áo xanh dịu dàng tươi cười lau nước mắt cho gã, bảo vệ gã, còn răn dạy gã: “Ai đánh đệ thì đệ cứ đánh lại, đệ là nam tử hán kia mà”, lại giận giữ mắng gã: “Yêu tộc thì sao hả? Ta từng gặp vô số anh hùng xuất thân Yêu tộc, đệ nhát gan vô dụng là tại bản thân đệ, đừng đổ trách nhiệm lên đầu mẹ mình.”

Gã còn chưa kịp kể với nàng, suốt bao đêm lạnh lẽo cô đơn, cả người đau như dần, gã chỉ biết nhẩm đi nhẩm lại lời nàng, không ngừng tự hứa với lòng nhất định phải trở thành đại anh hùng được người người tôn kính, có vậy hôm sau gã mới có thể tiếp tục hiên ngang bước vào học đường nhan nhản những ánh mắt miệt thị.

Mãi một lúc lâu, từng giọt lệ bắt đầu chầm chậm lăn ra từ hai hốc mắt Hậu Thổ, theo dòng nước mắt chảy dài, gã mỗi lúc một nghẹn ngào nức nở, rồi òa lên thảm thiết, bao đau thương kìm nén đều trút cả vào tiếng khóc, gã cứ thế cưỡi trên lưng Hỏa xà[2] mà khóc, hệt như đứa nhỏ bấy nhiêu năm về trước.

[2] Hỏa xà: loài rắn được ghi lại trong Sơn Hải kinh, biết bay lượn và chiêu hô hồng thủy, “mặt người mình sói, có cánh bay, trườn bò như rắn, tiếng kêu the thé, có thể chiêu hô hồng thủy.”

Chỉ có điều chẳng còn vị tỷ tỷ áo xanh chạy lại ôm gã vào lòng, dịu dàng lau nước mắt cho gã nữa.

Vì e sợ nguồn sức mạnh khủng khiếp của Ngu uyên, không một sinh vật nào dám bén mảng tới đây, cả bầu không đều tĩnh mịch như chết, chỉ có tiếng Hậu Thổ khóc than thấu tận trời cao.

Tiêu Dao từ trên cao trông xuống Hậu Thổ và A Tệ, móng vuốt vẫn quắp lấy Xi Vưu đang hôn mê.

Côn bằng ngạo nghễ tung bay giữa dọc ngang trời đất lần đầu tiên hiểu được thế nào là nỗi đau mất mát, nó cũng lờ mờ nhận ra rằng có những trói buộc là cam tâm tình nguyện, đồng thời có những nỗi đau khổ lại đượm đầy hạnh phúc. Giống như nó có thể tung cánh vượt chín tầng trời, xòe đuôi dạo khắp bốn bể, nhưng không sao dứt khỏi một tiếng gọi của Xi Vưu vậy.

Có điều bây giờ Xi Vưu đã chính tay bức tử A Hành, hủy diệt mối ràng buộc mà hắn cam tâm tình nguyện cùng niềm đau khổ đượm đầy hạnh phúc của bản thân.

Một khi tỉnh lại, hắn sẽ ra sao đây?

Chân trời đằng Đông dần sáng lên, làn khói đen trên Ngu uyên cũng nhạt dần, một ngày mới lại bắt đầu, chỉ tiếc là tất cả đã chẳng còn như xưa nữa.

Hết chương 17.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 12-6-2014 02:45 PM
Chương 18


Dù chẳng tương tư cũng khó quên­­[1] .


18.1


Sáu mươi năm thư qua tin lại, hắn chỉ thoáng trông đã nhận ra nét chữ của A Hành, nhìn thấy nét chữ quen thuộc như máu thịt, lòng hắn chợt quặn lên như dao cắt, đau đến nghẹt thở, nét chữ vẫn đây mà người nay đâu?


[1] Trích trong bài tử Giang thành tử – Ghi lại giấc mộng đêm hai mươi tháng Giêng năm Ất Mão của Tô Đông Pha (1036-1101). (ND)

Thế sự tựa bể dâu biến đổi vô thường, cả quãng thời gian dài đằng đẵng chẳng qua cũng như là bóng câu ngang cửa sổ.

Thiếu niên áo bào ngựa quý đã nằm dưới ba thước đất, thanh nữ dung mạo như hoa chỉ còn xương trắng cốt khô, biết bao bi hoan ly hợp ân oán tình thù đều trở thành câu chuyện phiếm cho đám người lê la đầu đường xó chợ, dẫu là truyền kỳ hào hùng mỹ lệ nhất cũng phai nhạt dần theo năm tháng rồi tan đi trong gió. Chỉ còn những đóa hoa dại nơi sườn núi ấy tự nở tự tàn, tự khoe sắc tự tỏa hương, tháng lại tháng, năm lại năm vẫn vẹn nguyên vẻ rỡ ràng ngày cũ.

Viêm Đế đời thứ tám Du Võng đã đăng cơ được hai trăm lẻ ba năm, người trên đại hoang cũng lãng quên Viêm Đế đời thứ bảy từ lâu, truyền thuyết về Thần Nông Thị nếm thử hàng trăm loại cỏ cây, sau cùng độc phát thân vong chỉ còn là câu chuyện nửa hư nửa thực.

Hiên Viên thành của Hiên Viên quốc nằm ở phía Đông Nam Hiên Viên, xung quanh được núi cao bao bọc, có lịch sử hơn ngàn năm nay, tuy không đồ sộ nhưng quy hoạch rất tề chỉnh, đẹp đẽ, lại là một tòa sơn thành, dễ thủ khó công.

Trong quán rượu ở Hiên Viên thành, một lão già tuổi chừng sáu mươi, nét mặt khắc khổ, lưng đeo cây tam huyền cầm đi khắp các bàn, tới bàn nào cũng cười cầu tài hỏi: “Khách quan muốn nghe một khúc nhạc không?”

Khách khứa trong quán vừa ngẩng đầu nhìn thấy lão đã bực bội xua tay lia lịa.

Một nam tử vẻ mặt thờ ơ lãnh đạm, mình vận hồng bào, dáng dấp cao lớn, đường nét rắn rỏi đang ngồi tại chiếc bàn kê sát bên song, nhìn chỉ ngoài đôi mươi nhưng gương mặt lại tái mét như có bệnh, hai bên tóc mai lốm đốm bạc, đượm vẻ phong trần.

“Khách quan có thích nghe tấu nhạc hay kể chuyện không?”

Nam tử thẫn thờ trông ra ngoài song cửa, chẳng buồn ngoảnh lại, chỉ thuận tay quăng cho lão già một xâu tiền, xua tay đuổi lão đi.

Tay lái buôn mập mạp thấy vậy liền kêu lên: “Này lão già, nhận tiền rồi thì mau kể chuyện giải sầu cho chúng ta đi.”

“Chẳng hay khách quan muốn nghe chuyện gì?”

“Tùy lão, chuyện gì cũng được, miễn là hay.”

Lão già ngồi xuống khẽ gảy cây đàn tam huyền tính tang mấy tiếng rồi hắng giọng kể: “Vậy lão xin kể chuyện tiệc Bàn Đào hầu khách quan. Truyền thuyết kể rằng, xưa kia cứ cách ba mươi năm Vương Mẫu trên Ngọc sơn lại bày tiệc Bàn Đào một lần, khách khứa tới dự được mời dùng đào tiên, nếm ngọc tủy, trước lúc ra về còn được tặng báu vật, quả là sự kiện trọng đại trong thiên hạ. Khách mời đều là những đại anh hùng trong Thần tộc, Yêu tộc và Nhân tộc. Ngọc sơn cao chót vót hơn vạn trượng, người thường vốn không thể leo lên, những kẻ phàm nhân như chúng ta chỉ có thể nghe kể lại mà thôi.”

Khách khứa trong quán thảy đều đặt đũa xuống, dồn mắt vào lão già, tay lái buôn mập ú được thể lên giọng kể cả: “Đúng thế đấy, ông cố ta cũng từng kể lại. Thuở ông cố ta còn nhỏ từng gặp người trong Thần tộc, chính vị bằng hữu Thần tộc đó kể với ông cố. Tiếc rằng về sau Vương Mẫu chẳng bày tiệc Bàn Đào nữa, bằng không biết đâu ông cố lại nhờ vả được vị bằng hữu kia đánh cắp cho mình một trái đào tiên, cũng không tới nỗi qua đời sớm như vậy.” Dường như thấy mình pha trò rất thú vị, tay lái buôn phá lên cười ha hả.

Đám khách khứa lao xao hỏi: “Về sau sao Vương Mẫu lại không bày tiệc Bàn Đào nữa?”

Lão già vuốt vuốt chòm râu dê đáp: “Hơn hai trăm năm trước, Thần tộc xảy ra một sự kiện long trời lở đất, Viêm Đế đời thứ bảy của Thần Nông tộc qua đời, Viêm Đế đời thứ tám là Du Võng được sự phò tá của Đốc Quốc Đại tướng quân Xi Vưu lên ngôi kế vị. Nghe nói khi tin Viêm Đế qua đời truyền tới Ngọc sơn, đến trời xanh cũng phải tiếc thương Viêm Đế, Ngọc sơn vốn quanh năm đều ấm áp như mùa xuân, vậy mà lần này lại đổ tuyết, cả núi trắng xóa một màu, hoa đào ngàn năm không tàn úa bấy giờ nhất loạt héo khô rơi rụng, không còn hoa đào đương nhiên sẽ chẳng có trái đào, càng không có tiệc Bàn Đào.”

Khách khứa trong quán thảy đều thở than tiếc nuối: “Đến Ngọc sơn cũng tiếc thương mà đổ tuyết, xem ra Viêm Đế năm xưa quả nhiên là người tốt.”

Chỉ mình tay lái buôn phản bác: “Tốt cái gì? Chính ông ta hại mọi người không còn đào tiên mà ăn, cũng chẳng biết bao giờ rừng đào trên Ngọc sơn mới ra trái lần nữa. Lão già kia, kể chuyện nữa đi.”

Lão già chẳng buồn đôi co với hắn, chỉ gảy gảy dây đàn, nghĩ ngợi một hồi rồi chậm rãi kể: “Vậy lão xin thuật lại một chuyện bí mật giữa Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc vậy. Hơn hai trăm năm trước Thần Nông và Hiên Viên khai chiến, tranh đấu liên miên mãi đến nay, bên nào cũng có thương vong, Tam vương tử của Hiên Viên chết trận, Chúc Dung của Thần Nông trọng thương, đến giờ vẫn phải bế quan chữa trị.”

Gã lái buôn sốt ruột ngắt lời: “Chuyện này ai mà chẳng biết, có gì bí mật đâu?”

Lão già thong thả đáp: “Nhưng theo lão được biết, Chúc Dung bị thương là do một nguyên nhân khác.”

“Lão nói xem nào! Đừng có câu giờ! Rốt cuộc là kẻ nào đả thương Chúc Dung?” Đám khách khứa nghe đến mê mải, hối hả giục.

Lão già cười khà đáp: “Thật ra Chúc Dung không phải bị người của Hiên Viên đả thương, mà chính là bị Hậu Thổ đánh trọng thương.”

“Gì cơ?”

Thấy mọi người kinh ngạc xôn xao, lão già đắc ý, lại khoan thai gảy mấy tiếng tinh tang, “Nguyên nhân cụ thể thì lão đây không rõ, chỉ biết hai trăm năm trước, Hậu Thổ một thân một mình xông vào doanh trại của Chúc Dung đánh cho y trọng thương, thậm chí linh thể suýt nữa bị tiêu tan, tĩnh dưỡng suốt hai trăm năm chưa khỏi.”

“Vậy mà Viêm Đế cũng để yên sao? Chắc người nhà của Chúc Dung phải thù Hậu Thổ đến ghi xương khắc cốt, vật nài Viêm Đế trừng trị Hậu Thổ ấy nhỉ?”

“Người nhà của Chúc Dung đáng lẽ nên cảm tạ Hậu Thổ mới phải.”

“Này lão kia, lão già quá lú lẫn rồi à? Đánh người ta gần chết còn đòi cảm tạ cái gì?”

Lão già cười hăng hắc, “Nếu Chúc Dung không bị Hậu Thổ đánh trọng thương, rồi thừa dịp đó trốn vào cổ trận trên Thần Nông sơn tĩnh dưỡng thì e rằng đã bị Xi Vưu giết chết, hoặc bị Xương Ý và Xương Phó suất lĩnh tinh binh Nhược Thủy ám sát từ lâu. Lão nghe nói sau khi Chúc Dung trọng thương được đưa vào bí trận, Xi Vưu vẫn không chịu buông tay, y điên cuồng tấn công cổ trận, toan xông vào lấy mạng Chúc Dung, Viêm Đế phái mấy trăm thần tướng đến cũng chẳng ngăn nổi. Về sau Viêm Đế phải năn nỉ Xi Vưu đừng phá hủy cổ trận kẻo làm tổn hại tới lăng mộ các đời Viêm Đế, y mới niệm tình thầy trò với Viêm Đế đời trước mà ngừng tay. Có người lại kể Xương Ý và Xương Phó dẫn theo một đội tinh binh Nhược Thủy nửa đêm tập kích Thần Nông, đến chẳng thấy hình đi không thấy bóng, chỉ trong một đêm đã giết chết mười tám thần tướng của Thần Nông, khiến cả Thần Nông hoang mang rối loạn, tướng sĩ Thần tộc chẳng ai dám chợp mắt, chỉ sợ nhắm mắt ngủ rồi sẽ không bao giờ tỉnh lại nữa.”

Khách khứa trong quán cười rộ lên, nhao nhao phản bác: “ Lão già này tham gạt gẫm chút tiền thưởng, bắt đầu đặt điều rồi, Tứ vương tử của Hiên Viên chúng ta nổi danh hòa nhã, cả đại hoang ai mà không biết.”

Tay lái buôn chợt buột miệng: “Nghe ông cố ta kể, năm xưa trong Thần tộc ngấm ngầm đồn đại rằng Hiên Viên vương cơ bị người trong Thần Nông tộc hại chết.”

Đám khách khứa khinh khỉnh vặn lại: “Vậy Đại vương tử phi của Cao Tân bây giờ là ai? Người ta vẫn còn sống sờ sờ trên Ngũ Thần sơn kìa.”

Tay lái buôn bị căn vặn chỉ biết ngượng ngập cười: “Thế nên mới nói là đồn đại!”

Một người khách Cao Tân có chút kiến thức lại hỏi: “Tạm không bàn tới việc Xương Ý hành thích Chúc Dung có thật hay không, chỉ xét chuyện Xi Vưu thôi nhé. Tuy Xi Vưu hung tàn bạo ngược nhưng không phải kẻ điên, vì sao y muốn lấy mạng Chúc Dung? Tại sao ngay đến Viêm Đế cũng chẳng ngăn nổi?”

Cả quán rượu đột nhiên lặng phắc như chết, từ đầu đến giờ khách khứa ai nấy đều cố không đề cập tới Xi Vưu, gắng lờ đi cái tên đồng nghĩa với tử vong này, nhưng trong lòng lại lấn cấn một nỗi tò mò rờn rợn.

Một gã thiếu niên Cao Tân vừa theo cha lên thuyền phụ việc, nghé con chưa biết sợ hổ liền nằn nì: “Ông ơi, ông kể chuyện về Xi Vưu cho mọi người nghe đi!”

Lão già gật gật đầu với thiếu niên, gảy lên mấy tiếng đàn tinh tang vui tai rồi kể tiếp: “Các vị có nghe nói tới Cửu Lê tộc của Thần Nông bao giờ chưa?”

Thiếu niên le te đáp: “Cháu biết rồi! Đó là thị tộc sản sinh ra anh hùng, rất nhiều mãnh tướng Thần Nông là người Cửu Lê tộc, ngay cả Xi Vưu cũng vậy!” Giọng điệu đầy vẻ kính trọng xen lẫn sợ sệt.

Lão già lại gảy dăm tiếng đàn, “Hơn sáu trăm năm trước, Cửu Lê còn bị gọi là Cửu Di, dân chúng Cửu Lê bị xem như tiện dân, đàn ông phải làm tôi tớ, phụ nữ phải làm thị tỳ, không có cả tư cách hầu hạ người trong Thần tộc mà chỉ có thể làm nô lệ cho Nhân tộc.”

Khách khứa trong quán đều trợn tròn mắt nhìn lão già đầy nghi hoặc, Cửu Lê tộc, nơi sản sinh ra lớp lớp anh hùng mà là tiện dân ư?

Lão già nheo mắt hồi tưởng lại: “Mãi tới khi Xi Vưu xuất hiện mới thay đổi được tình cảnh đó, nghe nói Xi Vưu đấu với Thần tộc suốt trăm năm, buộc Thần tộc phải xóa bỏ cái tên miệt thị Cửu Di, Viêm Đế đời trước vô cùng nhân hậu, chẳng những không trách tội Xi Vưu, ngược lại còn nhận Xi Vưu làm đồ đệ, đến khi đương kim Viêm Đế lên ngôi, Xi Vưu lại được phong làm Đốc Quốc Đại tướng quân, nhưng khắp trên dưới Thần Nông không ai chịu phục y cả, ai nấy đều cười chê y, chửi rủa sau lưng y, thậm chí còn nói y sống không quá ba trăm năm nữa. Nhưng rồi suốt hai trăm năm, bọn họ dần dà trở nên khiếp sợ Xi Vưu, ở trước mặt Xi Vưu còn chẳng dám thở mạnh, chỉ e hễ sơ sảy sẽ chuốc lấy cái chết…”

Lão già ngưng bặt, vẻ sợ sệt ánh lên trong mắt, chỉ chăm chú gảy đàn, tấu lên một khúc réo rắt bi thương. Lạ thay, đám khách khứa cũng chẳng giục giã như mọi bận, ai nấy đều trầm lặng làm thinh. Mấy kẻ thuộc Thần Nông tộc càng tái mét mặt, nét kinh hoàng hằn lên ánh mắt.

Hồi lâu mới lại thấy lão già cất giọng khàn đặc thê lương: “Đám quý tộc Thần Nông vẫn luôn bất hòa với Xi Vưu, đôi bên tranh đấu kịch liệt, Xi Vưu dùng thủ đoạn tàn khốc tiêu diệt sạch những kẻ đối chọi mình, cải cách toàn bộ triều chính, khiến tám mươi bảy hộ của Thần Nông quốc phải diệt môn, Thần tộc, Nhân tộc, Yêu tộc đều không ngoại lệ, những kẻ bị xử cực hình mà chết lên tới năm ngàn ba trăm chín mươi sáu người! Nghe nói Đại vương cơ Vân Tang của Thần Nông vốn đứng về phía Xi Vưu, lúc Xi Vưu còn chưa đủ lông đủ cánh, Đại vương cơ từng chở che bênh vực cho y suốt một thời gian dài, nhưng dù sao Đại vương cơ vẫn là quý tộc, không chấp nhận nổi thủ đoạn tàn bạo của Xi Vưu, bèn lập mưu liên kết với Hậu Thổ để kiềm chế y. Sự việc bị Xi Vưu phát hiện, y chẳng chút niệm tình, một lèo giết sạch tâm phúc của Đại vương cơ, ép Đại vương cơ phải thề độc trước mọi người trên đỉnh Tử Kim, từ nay về sau không can dự triều chính nữa, nếu trái lời thề sẽ chết không toàn thây.”

Lão già thở dài cảm thán: “Xi Vưu quả là kẻ lãnh khốc vô tình, bị Thần Nông chư hầu coi như ác ma, nhưng trong dân gian, tiếng tăm của y không quá tệ, bởi xưa nay y vẫn lấy lễ đối đãi với bọn giặc cỏ dân đen, đám thanh niên trai tráng chẳng những không sợ y, ngược lại còn coi y như đại anh hùng, hy vọng một ngày có thể tự mình tạo dựng sự nghiệp vang danh đại hoang như các tướng quân dưới trướng Xi Vưu vậy.”

Gã thanh niên Cao Tân gật đầu lia lịa, hào hứng nói: “Nếu Cao Tân có được một người như Xi Vưu thì hay quá, cháu cũng khỏi phải theo cha lên thuyền làm thuê, biết đâu còn có thể lên triều kiếm một chức quan, dẫn quân ra trận nữa kìa.”

Nghe con trai nói vậy, phụ thân gã đằng hắng mấy tiếng, hạ giọng mắng mỏ: “Con nói nhảm gì thế? Thân phận chúng ta… đừng có si tâm vọng tưởng!”

Thiếu niên bị mắng tiu nghỉu mặt mày nhưng dù sao vẫn là thiếu niên, chỉ lát sau hắn đã lấy lại tinh thần, cao hứng kể: “Có lần cả đám bạn bọn cháu tranh cãi với nhau xem Xi Vưu, Thiếu Hạo, Thanh Dương ai lợi hại hơn, suýt nữa còn động tay chân, bà chủ quán rượu bèn trêu: ‘Chỉ cần gói gọn ba câu về ba vị anh hùng của đại hoang là đủ. Thiếu niên đều hy vọng được trở thành Xi Vưu, thiếu nữ đều mong được gả cho Thiên Hạo, bậc làm cha mẹ đều muốn có đứa con trai như Thanh Dương’.”

Khách khứa trong quán càng nghĩ càng thấy chuẩn xác. Thiếu niên nào chẳng ngông cuồng ngạo mạn, mong một ngày được phong hầu bái tướng, thúc ngựa rong ruổi khắp núi sông, thả sức tung hoành như Xi Vưu? Thiếu nữ nào chẳng rộn rã lòng xuân, mong lấy được người chồng anh tuấn hào hoa, nổi danh thiên hạ, nghĩa nặng tình sâu như Thiếu Hạo? Cha mẹ nào lại chẳng mong con cái được giỏi giang, tiền đồ rộng mở, cung kính hiếu thuận như Thanh Dương?

Lão già vuốt chòm râu dê mỉm cười: “Bất kể người của Thần Nông khen hay chê Xi Vưu, hiện giờ y cũng nắm giữ một nửa quân đội Thần Nông, chỉ cần ho một tiếng thì cả Thần Nông phải run sợ, đúng là Đốc Quốc Đại tướng quân oai phong lừng lẫy.”

Chủ quán cũng lắc đầu thở dài: “Quân đội của Xi Vưu quả là ác mộng của Hiên Viên chúng ta.”

Bầu không khí trong quán vừa chùng xuống đã lại căng lên như dâu đàn, ngay gã lái luôn cũng phải thầm thở dài.

Chỉ mình thiếu niên ngơ ngác không hiểu, láu táu hỏi: “Sao lại thế?”

Tiếng đàn của lão già lại vang lên dồn dập mà réo rắt, tựa mây đen vần vũ, thành trì thất thủ, khiến lòng người nơm nớp không yên. Lẫn trong tiếng đàn là giọng nói trầm trầm nặng nề của lão: “Xi Vưu chỉ đích thân cầm quân đánh với Hiên Viên một trận duy nhất. Tám mươi hai năm trước trong trận Đại Thì sơn, Hiên Viên tộc giết chết Tĩnh tướng quân dưới trướng Xi Vưu, Xi Vưu liền đem quân tấn công Đại Thì sơn, tuyên bố nếu không đầu hàng sẽ đồ sát toàn thành. Nhưng binh lính Hiên Viên kiên cường bất khuất, anh dũng thiện chiến nổi tiếng đại hoang, đương nhiên không chịu đầu hàng mà quyết tử chiến cùng Xi Vưu. Sau khi phá được thành, Xi Vưu liền hạ lệnh đồ sát toàn thành.”

Lão già tay run bắn, tiếng đàn chợt ngưng bặt, khách khứa ngồi đây đa phần là người Hiên Viên, từng nghe thuật lại trận chiến đó, ai nấy đều cúi đầu trầm mặc.

Đột nhiên lão già lại cất tiếng phá tan bầu không khí ắng lặng: “Một trận chiến! Chỉ một trận chiến thôi! Mười hai vạn người bị giết! Hơn chín vạn trong số đó là dân thường! Từ đó cái tên Xi Vưu trở thành cơn ác mộng của dân chúng Hiên Viên!”

Khách khứa trong quán thảy đều làm thinh, chỉ mình gã thiếu niên Cao Tân vẫn lẵng nhẵng hỏi về việc Xi Vưu muốn lấy mạng Chúc Dung: “Ông lão, có phải vì Xi Vưu bênh vực cho những người như chúng ta, còn Chúc Dung lại đứng về phía quý tộc quan lại nên Xi Vưu muốn lấy mạng Chúc Dung không?”

Lão già ngẩn người, chợt nghe thiếu niên gọi: “Ông lão ơi?”

“Ừm!” Lão già định thần lại, vừa nghĩ ngợi vửa kể: “Có lẽ căn nguyên là bởi Chúc Dung và Xi Vưu đại diện cho lợi ích của hai loại người khác nhau, đôi bên thế như nước lửa, không thể dung hòa, còn bí mật như người ta đồn đại chỉ là ngòi nổ mà thôi.”

“Bí mật gì cơ?” Gã thiếu niên hồi hộp hỏi.

Lão già giơ tay che miệng, ráng nói thật khẽ nhưng tất cả mọi người đều nghe thấy, “Nghe đồn Chúc Dung giết chết Đại vương tử phi của Cao Tân các ngươi nên Xi Vưu muốn lấy mạng hắn báo thù.”

Gã thiếu niên ỉu xìu trách móc: “Ông gạt người ta!”

Khách khứa trong quán cũng cười rộ lên, bầu không khí nặng nề mà chuyện về Xi Vưu mang lại khi nãy liền bị xua tan.

Lão già cười cười thi lễ cáo từ tất cả khách khứa, “Chỉ là chuyện trà dư tửu hậu, nghe cho vui thôi mà.” Đoạn lão đeo cây đàn tam huyền cầm đứng dậy, vừa đi vừa lắc lư ngâm: “Thực là giả thời giả cũng thực, giả là thực thời thực cũng giả, thực thực giả giả đều là tướng, giả giả thực thực thảy đều không…” Bước ra khỏi quán, lão bất giác ngoảnh lại, trông thấy hồng y nam tử bên song cửa, lập tức sững cả người. Mấy trăm năm trước dưới Bác Phụ sơn, nam tử này trông cũng y như vậy, mấy trăm năm sau vẫn chẳng hề thay đổi. Năm đó lão tự phụ tu vi, nhận ra thanh y nữ tử xuất thân Thần tộc, bèn khích nàng ra tay dập lửa, nhưng không mảy may nhận ra nam tử kia có linh lực, đủ thấy linh lực của hắn sớm đã cao thâm khó lường.

Lão già râu dê vội quay vào quán, bước đến gần hồng y nam tử, cung kính hành lễ, “Không ngờ lại gặp người quen cũ, chẳng hay Tây Lăng cô nương có khỏe không?”

Hồng y nam tử chẳng buồn đáp, chỉ có chén rượu trong tay hơi sóng sánh, lão già lại cười hỏi tiếp: “Năm xưa lão có mắt như mù, dám hỏi công tử quý tính đại danh?”

Hồng y nam tử ngoảnh lại lạnh nhạt nhìn lão, khẽ thốt ra hai tiếng: “Xi Vưu!”

Lão già râu dê loạng choạng lùi lại rồi ngã phệt xuống đất, mặt cắt không còn giọt máu, ngây ra một thoáng, đoạn lết xết chạy thẳng ra ngoài, cả cây đàn tam huyền cầm cũng chẳng kịp nhặt lên. Khách khứa trong quán thấy vậy đều cười ầm ĩ, “Lão già này mới mấy chén đã say bò lăn bò càng rồi!”

Cả quán rượu xôn xao tiếng cười tiếng nói, riêng một người trơ trọi.

Xi Vưu cầm chén rượu vơi, đăm đăm nhìn về hướng Tây. Đương lúc mặt trời lặn, chân trời rạng rỡ lớp lớp mây ráng muôn màu, hoa lệ như gấm, tươi thắm tựa son nhưng trong mắt hắn chỉ có ngàn non tuyết muộn, vạn dặm mây chì.

Xi Vưu ngửa cổ dốc cạn chén rượu, đoạn đi thẳng ra cửa, đi mãi đến một nơi yên tĩnh mới gọi Tiêu Dao lại, bay về phía Cửu Lê.

Hôm nay là ngày giỗ của A Hành, hằng năm cứ đến ngày này hắn đều tới Ngu uyên cúng tế nàng, sau đó về Cửu Lê ở lại một đêm.

Tiêu Dao bay rất nhanh, chưa đầy một tuần trà đã đưa hắn tới Cửu Lê.

Xi Vưu bước vào gian nhà sàn giữa rừng hoa đào, lặng lẽ ngồi xuống, ánh trăng trong như nước loang khắp hiên nhà, gió lùa qua khóm trúc phượng vĩ vi vu. Xi Vưu tay phải bưng một ống trúc đầy Ca tửu, tay trái mâm mê Trụ Nhan hoa, vừa uống rượu vừa đăm đắm ngắm hoa đào nở đầy trên núi.

Đương vào độ tháng Tư, hoa đào nở rộ khắp núi đồi, rực rỡ như mây sớm ráng chiều, nhưng dưới cội hoa đào, nào đâu thấy người từng hẹn ước?

Xi Vưu nửa say nửa tỉnh, chếch choáng rút Bàn Cổ cung lấy được dưới địa cung Ngọc sơn từ mấy trăm năm trước ra, dốc hết linh lực giương cung thật căng bắn về phía Tây, nhưng chẳng thấy bất cứ động tĩnh gì.

Hai trăm năm nay, không biết bao nhiêu lần hắn giương Bàn Cổ cung lên, nhưng cây cung được truyền tụng có thể giúp người ta gặp lại người mình nhung nhớ bất kể ở chân trời góc biển nào lại chưa từng phát huy tác dụng.

Xi Vưu vẫn chưa chịu ngừng, liên tiếp giương cung, nhưng dù giương thế nào cũng vô hiệu. Lần nào lần nấy đều dốc hết toàn lực bắn ra, dù Xi Vưu thần lực cao cường cũng không sao duy trì được mãi, dần dà hắn sức cùng lực kiệt, ngã bệt xuống đất.

Xi Vưu nghiêng ống trúc, ừng ực dốc rượu vào miệng.

Xa xa trong núi, nghe văng vẳng khúc sơn ca vọng lại.

Tiễn chàng tiễn đến bên song

Mở toang cửa sổ mà trông lên trời

Trăng tròn vành vạch chàng ơi

Mà sao mãi chẳng thấy người đoàn viên?

Chàng đừng lầm lẫn tội em

Cuồng phong canh một, tạnh liền canh hai

Thoắt mưa đổ, thoắt nắng tươi

Đã trở mặt chẳng nhận người năm nao!

Ống rượu trong tay rơi tuột xuống sàn, Xi Vưu lắng tai nghe, nhưng tiếng hát đã ngừng bặt.

“A Hành!”

A Hành, nàng đang trách móc ta ư? Hắn nhảy xuống đất, đạp lên ánh trăng, loạng choạng tiến vào trong núi.

Càng đi sâu vào núi càng thấy bạt ngàn những cội đào, muôn vàn cánh hoa rụng rơi tan tác như mưa, đậu xuống mái đầu, xuống bờ vai, hoa rơi chẳng làm ướt áo, lại thấm ướt tim người.

“A Hành, A Hành, nàng ở đâu?”

Xi Vưu không ngừng réo gọi, gọi mãi gọi mãi, nào thấy bóng ai dưới cội đào?

Chỉ có gió đêm lạnh lẽo thổi tung mưa hoa, khi dồn dập, lúc lưa thưa, lả tả điêu linh như nước mắt đau thương của người con gái.

Hơi rượu tan dần, Xi Vưu từ từ tỉnh lại, nhận ra A Hành sẽ mãi mãi không bao giờ tới nữa.

Hắn đứng thẫn thờ nhìn gốc đào trước mặt, năm năm tháng tháng hoa như cũ, tháng tháng năm năm người nơi đâu?

Ánh trăng xuyên qua tán lá rọi lên thân cây lấp loáng, Xi Vưu chậm rãi lại gần, thấy trên thân cây khắc chi chít hai chữ “Xi Vưu”.

Hai năm sau khi A Hành ra đi, cũng vào tết Khiêu Hoa, hắn mặc tấm áo đỏ nàng may, đợi suốt đêm dưới cội hoa đào rồi say vùi giữa đám hoa tàn nhị rụng, trong cơn bi thống, hắn đột nhiên hận lây sang cội đào, giơ tay toan đập gãy gốc cây, vô tình phát hiện ra thân cây chi chít những chữ, định thần nhìn kỹ, là vô số chữ “Xi Vưu”.

Sáu mươi năm thư qua tin lại, hắn chỉ thoáng trông đã nhận ra nét chữ của A Hành, nhìn thấy nét chữ quen thuộc như máu thịt, lòng hắn chợt quặn lên như dao cắt, đau đến nghẹt thở, nét chữ vẫn đây mà người nay đâu?

Vô vàn chữ “Xi Vưu” chi chít trên cây, chữ vạch nông, chữ khắc sâu, cũng là bao nôn nóng và vô vọng đợi chờ của nàng.

Mấy trăm chữ “Xi Vưu”, từng đường từng nét đều chứa chan tình ý, mỗi khía mỗi vạch thảy chất ngất bi thương, rốt cuộc hôm ấy nàng đã đợi mất bao lâu? Để rồi khi rời khỏi ôm theo niềm tuyệt vọng đến nhường nào?

Xi Vưu nhắm mắt lại, miết tay theo từng nét chữ như muốn xuyên qua thời gian đằng đẵng hai trăm năm, thổ lộ với người con gái đứng dưới cội đào này hai trăm năm về trước, nỗi đau đớn và tương tư ứ đầy lòng.

Cứ miết hoài miết mãi, lòng bàn tay nóng rực lên, mà không sao sưởi ấm nổi những con chữ lạnh lẽo.

Đột nhiên, tay hắn miết phải một hàng chữ nhỏ, cả người run bắn, đau đớn ra mặt, rõ ràng hắn sớm đã khắc sâu những lời này trong dạ, những vẫn tỉ mẩn lần đọc từng chữ một như tự trừng phạt chính mình.
Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 12-6-2014 02:46 PM
Chương 18


Dù chẳng tương tư cũng khó quên­­[1] .


18.2


Là một hàng chữ nhỏ dùng trâm ngọc vạch nên, nét chữ ngả nghiêng rối loạn tố cáo nỗi thương tâm phẫn nộ của nàng lúc khắc.

“Đã chẳng giữ lời, sao còn hứa hẹn?”

Nàng chưa từng thất hứa, kẻ thất hứa luôn là hắn!

Nàng tin tưởng hắn, yêu thương hắn, bảo vệ hắn, nhưng hắn lại nghi kỵ nàng, căm hận nàng, làm tổn thương nàng!

Giọng nói tiếng cười của Xi Vưu bỗng hiện lên rành rành trước mắt, nàng đăm đăm nhìn hắn nửa hờn nửa giận.

Xi Vưu gục mặt vào thân cây, rưng rưng nước mắt, mấy lần tưởng không kìm nén nổi.

Hắn cũng như bao con đực trong rừng, sau khi chọn được kẻ phối ngẫu, liền dâng cho nàng đóa hoa đẹp nhất, thứ quả ngon nhất, thậm chí không tiếc mạng sống bảo vệ nàng, nhưng yêu nàng càng nhiều thì nghi kỵ càng sâu, hắn sợ nàng coi rẻ những thứ đó, lo nàng không hiểu ý mình khi hồi hộp dâng lên những hoa thơm trái ngọt đó, sợ nàng phụ bạc hắn, mà đâu ngờ rằng, nàng còn hiểu ý nghĩa của từng trái ngọt hoa thơm kia hơn hắn, nàng nhìn thấu trái tim hắn, cũng vô vàn trân trọng trái tim hắn.

Sau cùng, lại là hắn phụ lòng nàng.

Bàn tay Xi Vưu chà miết lên từng con chữ của nàng, như muốn cảm nhận hơi ấm ngón tay nàng, mùi hương trên tóc nàng. Nhưng nào đâu thấy hơi thở người xưa.

Hai trăm năm! Nàng ra đi đã hai trăm năm rồi!

Nước mắt không cầm giữ nổi tràn ra khóe mắt Xi Vưu, chảy dài trên thân cây, thấm loang lổ hai chữ “Xi Vưu”. Dù lật tung ngũ hồ tứ hải, tìm khắp lục hợp bát hoang, hắn cũng chẳng thể nào bù đắp được cho nàng nữa.

Cách đó ngoài ngàn dặm, ở nơi mặt trời lên – Thang cốc.

Khác với Ngu uyên là nơi mặt trời lặn, quanh năm vần vũ khói đen, bầu trời Thang cốc luôn trong xanh sáng sủa. Trông về hướng Đông mênh mông sóng biếc vờn gió nhẹ, chín gốc phù tang[2] cực lớn sừng sững nhô lên giữa bể khơi, tán xòe rộng như trái núi, đầu cành đỏ rực những hoa, từ xa nhìn lại hệt như từng cụm mây hồng dập dềnh trên nền xanh thăm thẳm.

[2] Loài cây được tôn xưng là thần thụ, sinh trưởng ở Thang cốc, nơi mặt trời mọc.

Giữa hai màu xanh đỏ đan xen, chợt điểm xuyết một đốm trắng và một vệt lam.

Bạch y nam tử ngồi trên cành phù tang, khoan thai gảy đàn, thư thái tựa gió lành thấm áo. Lam y nam tử say sưa múa kiếm, thần thái như mây trôi nước chảy, kiếm khí tung hoành rực rỡ tựa cầu vồng, hoa tuyết lả tả tuôn rơi theo mũi kiếm, băng tuyết mù mịt phủ quanh mình, nhưng gương mặt y còn lạnh lẽo hơn cả băng tuyết.

Hai nam tử này chính là Thiếu Hạo và Thanh Dương nổi danh khắp đại hoang.

Hoa tuyết càng đổ càng mau, nhiệt độ càng lúc càng xuống thấp theo kiếm thế.

Chờ Thanh Dương múa hết bài kiếm, Thiếu Hạo lập tức nhảy xuống, bưng ngay lấy vò rượu rót chừng lưng chén lưu ly, nhấp một ngụm rồi xuýt xoa khen ngợi: “Ngon thật, ướp lạnh vừa đến độ!” Nói đoạn y lại rót một chén rượu bồ đào đưa cho Thanh Dương.

Thanh Dương nhấp một ngụm, hờ hững nhận xét: “Vị rượu hơi chát nhưng dư vị lại thơm ngát, tay nghề ủ rượu của ngươi càng ngày càng cao minh rồi.”

Thiếu Hạo đắc ý: “Người khác chẳng ai nhận ra được đâu, luận về phẩm rượu, nếu ngươi đứng hàng thứ hai thì không kẻ nào dám xưng đệ nhất cả.”

“Ở nhà cũng chẳng đến lượt ta xếp thứ nhất đâu, A Hành mới…” Thanh Dương thoáng khựng lại, rồi thản nhiên nói tiếp, “A Hành từ nhỏ đã mê rượu, trong lúc người khác dốc sức luyện công, muội ấy chỉ chăm chăm tìm cách lấy trộm rượu, vị giác được rèn giũa ngày ngày, vô cùng linh mẫn”

Thiếu Hạo tắt hẳn nụ cười, lặng lẽ rót rượu cho Thanh Dương, Thanh Dương lại một ngụm cạn chén.

Đột nhiên, y lên tiếng hỏi: “Phụ vương ngươi gần đây có phản ứng gì không?”

“Người trên đại hoang đồn đại suốt hai trăm năm nay, lẽ nào phụ vương ta không nhận ra sự thật? Nhất định phụ vương đã biết vương tử phi trong Thừa Hoa điện là giả từ lâu rồi.”

“Vậy ngươi tính sao?”

“Phụ vương không hỏi thì ta cũng vờ như không biết thôi!”

“Đám đệ đệ như hổ sói của ngươi đời nào để yên cho ngươi, sớm muộn gì cũng xảy ra chuyện, chẳng phải Trung Dung đã thăm dò mấy lần rồi đấy sao? Vương tử phi bệnh liệt giường suốt hai trăm năm, nói cho cùng cùng chẳng hay ho gì.”

Thiếu Hạo cười đáp: “Sao ngươi hồ đồ thế? Chỉ cần phụ vương vẫn muốn liên minh với Hiên Viên, Người sẽ không để bọn chúng gây chuyện, dù vương tử phi đó là giả cũng chẳng hề gì. Có điều một khi Hiên Viên hết giá trị lợi dụng thì dẫu kẻ kia là thật cũng không tránh nổi tai vạ.”

Thanh Dương lại hỏi: “Nghe nói Tuấn Hậu đang thuyết phục Tuấn Đế lập một nữ tử Thần Nông tộc làm chính phi cho Yên Long?”

Thiếu Hạo lắc lắc chén rượu trong tay, cười đáp: “Phụ vương ta hành sự khá cảm tính, vì sự vụ đăng cơ năm xưa mà vẫn luôn cảnh giác Thần Nông tộc, chưa chịu nhận lời vương hậu. Nếu ngươi không muốn Cao Tân liên minh với Thần Nông thì mau chớp thời cơ đi, dù sao ngươi vẫn chưa lập chính phi, sao không chủ động mở lời với Du Võng xin cưới vương cơ Thần Nông tộc. Tuy Vân Tang đã có ý trung nhân, e khó mà nhận lời ngươi, nhưng vẫn còn Mộc Cận kia mà.”

Thanh Dương cười thiểu não, “Ngươi định xui khiến huynh đệ ta lục đục à? Bao năm nay, phụ vương ta cũng phải bó tay với tên Xương Ý cứng đầu cứng cổ kia rồi.” Từ khi A Hành qua đời đến nay, Xương Ý vẫn chưa hề trò chuyện với Thanh Dương nửa lời, hơn nữa còn tâu rõ với Hoàng Đế, trừ phi Du Võng giết chết Chúc Dung và Xi Vưu bằng không y thề không đội chung trời với Thần Nông, Hoàng Đế phí bao tâm huyết mới thu phục được Nhược Thủy, vậy mà giờ lại không dám phái các chiến binh Nhược Thủy ra trận.

Thiếu Hạo cũng than thở: “Đúng là mặt sứa gan lim, dù phụ vương ngươi có ba đầu sáu tay, đụng phải Xương Ý cũng đành hết cách!”

Thanh Dương xách vò rượu lên nốc ừng ực, hôm nay là ngày giỗ tiểu muội y, dường như chỉ có say mèm may ra mới xoa dịu được nỗi lòng.

Sau khi A Hành mất, Thanh Dương từ mê rượu đã thành ra nát rượu, Thiếu Hạo muốn khuyên cũng chẳng biết phải khuyên từ đâu. Y đành giương mắt nhìn Thanh Dương chìm đắm trong hơi men, hốt nhiên nhớ lại tình cảnh lúc gặp Thanh Dương lần đầu hơn hai ngàn năm về trước.

Đó là một chiều mùa hạ oi ả, y đang ngồi hóng mát dưới gốc hòe trong sân.

Thanh Dương miệng ngậm cọng cỏ, lưng đeo thanh kiếm gãy, nghênh ngang bước vào lò rèn, toét miệng cười hì hì nói với y, nụ cười chói ngời như nắng: “Huynh đài, nghe nói ngươi là thợ rèn giỏi nhất vùng này, sửa giùm ta thanh kiếm này nhé, ta sẽ mời ngươi uống rượu!”

Y nheo mắt nhìn Thanh Dương, chẳng hiểu sao trên đời lại có nụ cười phóng khoáng hào sảng đến thế, trong khoảnh khắc ấy, y thậm chí còn sinh lòng đố kỵ với gã thanh niên này.

Y sửa kiếm giùm Thanh Dương, Thanh Dương bèn mời y đi uống thứ rượu nóng khé cả cổ, đúng là loại rượu dở nhất mà y từng uống trong đời. Lúc này, y mới chừng vài trăm tuổi, còn chưa hiểu được rằng, trên đời này chẳng có gì là “nhất”, chỉ có “hơn”.

Có lẽ vì tay nghề y giỏi, mà cũng có lẽ vì y dễ gạt, chỉ cần vài chén rượu xoàng trả công là xong, khỏi phải mất tiền, nên Thanh Dương luôn tìm tới y nhờ sửa kiếm, về sau, chẳng hiểu sao lại thành ra: Thanh Dương tới nhờ y sửa kiếm, y mời Thanh Dương uống rượu, lúc tiễn biệt còn tặng cho Thanh Dương một bộ đồ, một vò rượu.

Thanh Dương chẳng hề thấy có gì không ổn, y cũng không lấn cấn điều gì, chỉ có hai tên ngốc hằng ngày thụt bễ phụ y cho rằng Thanh Dương lợi dụng y, còn khuyên y nên cẩn thận.

Năm y năm trăm tuổi, cũng tròn năm trăm năm ngày giỗ mẹ y, phụ thân lại cưới thêm hai phi tử, đồng thời lập Đại Thường Hy thị, mẹ ruột Yên Long làm chính phi, y bị gọi về tham gia đại lễ sách phi. Y trở về, tươi cười suốt từ đầu buổi đến cuối buổi, còn tươi tắn hơn cả Yên Long.

Tối hôm đó, y cưỡi Huyền điều bay thẳng về phương Bắc, đuổi theo vì sao tít tắp cuối trời Bắc. Thuở nhỏ, mỗi khi y khóc đòi mẹ, vú nuôi lại ôm lấy y, trỏ vì sao ở tận cùng phía Bắc, dỗ dành: “Nhìn thấy chưa? Kia là mẹ con đấy, mẹ con vẫn luôn nhìn con kìa!”

Huyền điểu cứ thế bay bay mãi, tới khi y cạn kiệt linh lực mới đậu xuống.

Vùng cực Bắc ngàn dặm phủ băng, mênh mông tuyết trắng, ánh mặt trời cũng ngại rọi tới, một mình y trơ trọi lê bước, chẳng biết nên đi về đâu, cũng chẳng rõ mình không cam tâm cái gì.

Dưới trời gió tuyết lồng lộng, rét thấu xương, tối như hũ nút, y lạc mất phương hướng, linh lực đã cạn, chỉ tâm tâm niệm niệm rằng phải đi tiếp, không được dừng lại, hễ dừng lại là chết. Y chẳng hề sợ sệt, bởi vì từ nhỏ đến lớn, y vẫn luôn phải đơn độc lê bước thế này. Có điều y thấy sao mà cô đơn quá, như thể cả thế giới này chỉ còn lại mình y vậy.

Đúng vào lúc y cảm thấy gió tuyết vần vũ mãi không ngừng, bóng tối trải dài ra ngút ngàn, con đường lê thê, vĩnh viễn chẳng bao giờ đi hết, toan nằm xuống nghỉ ngơi, chợt có một tia sáng lóe lên giữa trời tuyết trắng. Y loạng choạng lết đến, thấy Thanh Dương mình khoác tấm lòng thú rậm dày, thò đầu ra cười hì hì: “ Gió tuyết liên miên bắn băng hồ, bập bùng đống lửa say mỹ tửu, vào đây uống rượu đi.”

Mỹ tửu cái đầu! Còn khó nuốt hơn cả bữa rượu xoàng lần trước, nhưng y uống vào lại thấy ấm ran cõi lòng.

Y chẳng hỏi tại sao Thanh Dương lại ở đó, Thanh Dương cũng không giải thích, nhưng tối đó y đã nói thật với Thanh Duong: “Ta mang họ Cao Tân.” Tuy rằng y hiểu Thanh Dương đã biết từ lâu, bằng không hẳn chẳng có mặt ở đây.

Thanh Dương vừa nhồm nhoàm nhai thịt hồ ly, vừa lẩm bẩm: “Ta họ Hiên Viên.” Rồi giơ ngón cái bóng nhẫy mỡ, kiêu hãnh trỏ vào ngực mình: “Ta, Hiên Viên Thanh Dương!”

Trong mắt Thanh Dương, dòng họ Cao Tân khiến cả đại hoang phải biến sắc cũng chỉ ngang hàng với dòng họ Hiên Viên của mình.

Thấy vậy, Thiếu Hạo bỗng thấy thoải mái hẳn, y phá lên cười ha hả, gió tuyết vần vũ ngoài kia chỉ càng làm cho bữa rượu túy lúy của cả hai thêm phần ý vị. Khi ấy, hai người đâu có ngờ, ngàn năm sau, Hiên Viên quả thật đã sánh ngang hàng với Cao Tân.

Mấy trăm năm sau, Hiên Viên tộc từ một Thần tộc nhỏ lẻ vô danh đã trở thành một trong ba đại Thần tộc hùng mạnh nhất, còn phụ thân y cũng chuẩn bị kế vị Tuấn Đế. Mười vạn đại quân Thần Nông vây chặt dưới thành, chỉ một mình y vung kiếm kháng cự, liên tiếp đánh bại sáu mươi đại tướng Thần Nông, nhưng Thần Nông vẫn không chịu lui binh, trong khi đó quân đội Cao Tân sau lưng y đã ngã lòng. Nửa đêm, đúng lúc y đang âm thầm trị thương, chợt Thanh Dương đeo kiếm lù lù xuất hiện, mặc một bộ đồ giống hệt y, đắc ý cười: “Thế nào? Giống lắm phải không? Từ giờ trở đi, ta cũng là Cao Tân Thiếu Hạo.”

Hôm sau, đại quân Thần Nông kinh hoàng phát hiện Cao Tân Thiếu Hạo chẳng khác nào một vị chiến thần có linh lực dồi dào, không bao giờ cạn, kế xa luân chiến nhằm vắt kiệt linh lực của y trở nên vô dụng. Trong ngày hôm đó, Thiếu Hạo liên tiếp đánh bại cả trăm người. Tới ngày thứ ba, khi Cao Tân Thiếu Hạo tràn trề linh khí, chẳng có vẻ gì là đã khổ chiến hai hôm bước lên đầu thành, vỗ kiếm cười hỏi: “ Còn ai muốn giao đấu với ta nữa không?”, quân sĩ Thần Nông rụng rời chân tay, đến dũng sĩ kiêu hùng nhất cũng không dám bước ra ứng chiến.

Tối hôm đó, đại quân Thần Nông thừa cơ lui binh, quân đội Cao Tân thấy tình thế không ổn, vội đem mấy viên tướng có ý chống đối giam lại, trình lên Thiếu Hạo.

Chẳng ai biết có hai kẻ thương tích đầy người loạng choạng xông vào một quán rượu cũ nát, vừa uống rượu vừa cười sằng sặc.

Thanh Dương chuếnh choáng say, bèn lôi đệ đệ ra khoe khoang với Thiếu Hạo, khoác lác nào là đệ đệ mình tuấn tú thế nào, thông minh ra sao.

Thiếu Hạo lè lưỡi nói, trẻ con trên đời đều như thế hết. Nghe vậy Thanh Dương đùng đùng nổi giận, kéo y bay về nhà mình, ôm em trai ra, buộc y phải thừa nhận đó là đứa trẻ tuấn tú nhất, thông minh nhất trên đời. Thiếu Hạo chẳng nhớ rốt cuộc mình có thừa nhận hay không, chỉ biết hai người bọn họ ôm theo đứa nhỏ, lại tiếp tục đi uống rượu. Uống đến say khướt, nhìn ra đường thấy quân lính rầm rập, gà bay chó sủa loạn lên, cả hai ngơ ngác không hiểu xảy ra chuyện gì. Chủ quán bèn thở vắn than dài nói con trai tộc trưởng bọn họ mới mấy tháng tuổi đã bị mất tích, chẳng hiểu tên trời đánh nào gây ra chuyện thất đức này. Thiếu Hạo và Thanh Dương phá lên cười nhạo: “Thật vô dụng, đến cả con mình đánh mất, đòi làm tộc trưởng gì chứ, nào, chúng ta uống tiếp đi!”

Uống mãi uống mãi, đôi bên nhìn nhau, đều cảm thấy có gì đó không ổn, Thiếu Hạo ngắm đứa nhỏ thiêm thiếp ngủ trong làn, bóp trán nghĩ ngợi một hồi buột miệng: “Thanh Dương này, hình như cha ngươi là tộc trưởng!”

Thanh Dương chăm chú nhìn đứa nhỏ, cau mày nghĩ ngợi. Say túy lúy mấy ngày, đầu óc y đâm ra u mê hẳn, nghĩ hoài chưa ra.

Thiếu Hạo lần theo bờ tường lẻn ra khỏi quán, lập tức chuồn về Cao Tân, vừa may kịp chuếnh choáng tới dự đại lễ đăng cơ của phụ vương.

Quãng thời gian đó thật sảng khoái vui vẻ, lần đầu tiên trong đời, y biết được thế nào là “huynh đệ bằng hữu”, lúc tịch mịch có thể cùng uống rượu ấu đả, dịp vui cười có thể chuốc chén say mèm, khi phiền não có thể dốc bầu tâm sự…

Từ khi Tuấn Đế đăng cơ đến nay, thấm thoát đã hơn hai ngàn năm.

Trong hai ngàn năm đó, Hiên Viên tộc đã trở thành một trong ba đại Thần tộc thao túng vận mệnh cả đại hoang, Hoàng Đế lập nên Hiên Viên quốc, lên ngôi xưng đế, nhưng mẹ của Thanh Dương đã chẳng còn là người phụ nữ duy nhất của ông ấy.

Trong hai ngàn năm đó, Thanh Dương đã có hai em trai. Y từng thấy Thanh Dương mừng rỡ khoe rằng Vân Trạch đã biết kêu mình bằng Đại ca, Thanh Dương hết sức cưng chiều Vân Trạch, y cũng coi Vân Trạch như em ruột mình, dạy cho Vân Trạch tất cả những gì nó muốn học. Vân Trạch quả là đứa nhỏ thông minh tuấn tú nhất trên đời, đúng như Thanh Dương nói, bất kể cái gì cũng học một biết mười, hơn nữa còn rất nhiều chuyện, biết quan tâm, chủ động gánh vác hết mọi trách nhiệm mà Đại ca lười không muốn gánh.

Trong hai ngàn năm đó, y đã chứng kiến Vân Trạch lìa đời, nghe Thanh Dương đau đớn khóc gào thảm thiết, tận mắt thấy địa vị và tính mạng Luy Tổ lâm nguy, Thanh Dương cũng dần đánh mất nụ cười tươi tắn cùng nhiệt tình hào sảng trong tim.

Gã thiếu niên lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm nhành cỏ, vừa đi vừa lắc lư, có nụ cười rạng rỡ khiến người khác phát ghen ấy đã hoàn toàn biến mất.

Suốt mấy canh giờ, Thiếu Hạo cùng Thanh Dương đã uống sạch mười mấy vò mỹ tựu.

Thiếu Hạo nằm phục trên cành phù tang với tay vớt trăng đáy nước, cành cây đung đưa, y cũng lắc lư theo, bỗng ùm một tiếng, y ngã nhào xuống nước, mất dạng.

Thanh Dương nằm dài trên cây, giơ cao vò rượu lên, há miệng vừa đu đưa theo cành lá,vừa dốc rượu vào miệng.

Nốc hết hũ rượu vẫn chưa thấy Thiếu Hạo nhô lên, Thanh Dương bèn vỗ vào thân cây gọi ầm ĩ: “Thiếu Hạo, ngươi còn không chịu lên, ta sẽ uống sạch rượu đấy.”

Thấy mặt nước vẫn lặng như tờ, Thanh Dương toan nhảy xuống vớt Thiếu Hạo thì đột nhiên thấy y nhô đầu lên, Thanh Dương liền đập cho y một chưởng: “Ngươi chưa say chết dưới đó à?”

Thiếu Hạo nghiêng mình tránh né: “Ta vừa phát hiện cái này lạ lắm, ngươi xuống mà xem.”

Thấy y không có vẻ đùa bỡn, Thanh Dương đành nhảy theo xuống nước, Thiếu Hạo dẫn đường phía trước, hai người cùng bám theo gốc phù tang mà lặn xuống. Nước ở Thang cốc rất lạ, theo lẽ thường càng lặn sâu xuống đáy hồ càng tối, nhưng hồ nước ở đây càng xuống dưới càng lóa mắt, cứ thế lặn xuống không mù mắt là may, đừng hòng nhìn thấy gì.

Hai mắt Thanh Dương đang khó chịu chợt dịu hẳn đi, trông thấy một hạt châu xanh biếc bập bềnh giữa vầng sáng lấp loáng, tỏa ra ánh sáng mát mắt.

Thiếu Hạo lên tiếng: “Lạ lắm phải không? Thang cốc là nơi mặt trời lên, nguồn nước nơi đây tinh khiết nhất trong thiên hạ, chẳng dung dưỡng sinh vật nào, thậm chí chín gốc phù tang từ thời thượng cổ mà người đời vẫn nói rằng sinh trưởng tại đây, thực ra cũng bắt rễ ở nơi khác.”

“Ừm.” Tuy Thanh Dương linh lực cao cường nhưng không sao mở miệng nói chuyện trong nước như Thiếu Hạo được.

“Tuy hơn trăm năm nay ta chưa hề lặn xuống Thang cốc nhưng bọn Yên Long nhất định đã có kẻ lặn xuống, thế mà chẳng ai phát hiện ra, vậy chỉ có thể giải thích rằng khi đó thứ này không tồn tại.” Thiếu Hạo cau mày nghĩ ngợi, “Rốt cuộc nó ở đâu ra nhỉ? Thang cốc là cấm địa của Cao Tân, muốn đem hạt châu lớn nhường ấy vào hẳn không dễ, nhiều khả năng hạt châu này dần nổi từ dưới kia lên.” Bản thân y cũng chẳng thể lặn sâu thêm nữa, nghe nói dưới đó mới chỉ có Bàn Cổ khai thiên lập địa từng xuống mà thôi, có điều mặt trời lặn xuống Ngu uyên rồi lại mọc lên ở Thang cốc, như vậy ắt Thánh địa Thang cốc và Ma vực Ngu uyên phải thông nhau.

“Bất kể… đợi… xem qua… là biết thôi.” Tuy Thanh Dương đã vận linh lực gắng mở miệng, nhưng tiếng nói vẫn bị nước hồ át đi gần hết.

Thiếu Hạo gật đầu, y vận linh lực nhấc hạt châu lên nhưng không sao nhấc nổi, Thanh Dương phải phụ một tay, hai người cùng vận linh lực ra sức kéo hạt châu lên mặt nước.

Lên tới mặt nước, Thiếu Hạo ngạc nhiên than: “Cái gì thế này? Trong thiên hạ lại có thứ phải hai ta hợp lực mới nhấc lên, nói ra chắc chẳng ai tin nổi.”

Thanh Dương cúi nhìn Bích ngọc châu bồng bềnh trên mặt nước, nom chẳng khác nào cánh bèo trôi nổi dập dềnh, ấy vậy mà khi nãy y phải hợp lực với Thiên Hạo mới kéo lên được.

Thanh Dương chạm vào hạt châu, thấy bỏng rãy tay, Thiếu Hạo vừa đụng tay vào cũng rụt ngay lại. Chẳng hiểu sao, Thanh Dương chợt thấy trong lòng dấy lên một cảm giác dịu dàng khó tả, lưu luyến mãi không nỡ rời.

Y rúng động, vội vung kiếm rạch một đường vào lòng bàn tay, máu tươi tứa ra, nhỏ xuống hạt châu, liền bị hạt châu hút sạch.

Thiếu Hạo thấy vậy cũng vô cùng kinh ngạc, lòng nhen lên một tia hy vọng mong manh, tim đập rộn lên vì hồi hộp. Y cầm lấy thanh kiếm từ tay Thanh Dương, giơ tay ra nhưng trù trừ mãi không rạch xuống, chỉ sợ hy vọng mong manh trong lòng tan mất.

Thanh Dương sốt ruột giục: “Thiếu Hạo!”

Thiếu Hạo lướt tay qua mũi kiếm, máu tươi phun ra, bắn lên hạt châu rồi từ từ chảy xuống, chẳng hề được hút vào.

Thanh Dương và Thiếu Hạo mừng rỡ, liền xúm lại cùng xem xét hạt châu.

Hồi lâu, Thanh Dương mới lên tiếng: “Tuy nói rằng Ngu uyên nuốt chửng mọi thứ nhưng theo truyền thuyết Bàn Cổ đại đế đuổi theo mặt trời từng nhảy xuống Ngu uyên, rồi chạy thẳng tới Thang cốc, ngươi bảo liệu A Hành có…” Thanh Dương khựng lại không nói tiếp nữa, chỉ áp bàn tay đầm đìa máu lên hạt châu, linh lực và máu tươi của y lập tức bị hạt châu hút ngay lấy. Trong nháy mắt, sắc mặt Thanh Dương đã nhợt nhạt hẳn đi, Thiếu Hạo phải giằng tay y ra, “Ngươi điên rồi à? Nếu thứ này thật sự từ Ngu uyên trôi tới thì chẳng biết là yêu hay là ma đâu!”

Thanh Dương cự lại: “Nhất định nó có liên quan tới A Hành, ta phải đem nó về gặp cha mẹ.”

“Để ta đi cùng ngươi.”

Thanh Dương lập tức từ chối: “Không cần đâu, đây là chuyện riêng của nhà ta.”

Thiếu Hạo sực hiểu ra, trong chớp mắt mọi thứ vụt trở về hiện thực, y là Cao Tân Thiếu Hạo, còn Thanh Dương là Hiên Viên Thanh Dương.

Hết chương 18.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 12-6-2014 02:48 PM
Chương 19


Gặp nhau há dễ nhận được liền[1] .


19.1


Xi Vưu không sao tin nổi, thiếu nữ áo xanh trước mặt giống hệt A Hành trong ký úc của hắn, cũng chính là người con gái hắn tương tư suốt hai trăm năm, nguyện từ bỏ mọi thứ để đổi lấy nàng, vậy mà hai trăm năm sau gặp lại đã thành người dưng xa lạ, bao ân oán dây dưa thuở trước dường như chưa từng xảy ra.

Thà rằng nàng căm hận hắn, còn hơn là lãng quên hắn!


[1] Xem chú thích đầu chương 1.

Thanh Dương vừa đem hạt châu về Triêu Vân phong, Luy Tổ lập tức phái người đi mời Hoàng Đế tới.

Hoàng Đế căn vặn thật kỹ lai lịch của hạt châu, lại thấy hạt châu hấp thụ tinh huyết linh lực, bèn thuyết phục Luy Tổ: “Ta biết sau khi Hành nhi qua đời, bà đau lòng khôn xiết, ta cũng mong Hành nhi có thể trở về, nhưng thứ này không phải Hành nhi, chỉ là ma vật do Ngu uyên kết thành, nếu không hủy đi e hậu họa vô cùng.”

Luy Tổ xuất thân từ “Tứ thế gia” danh môn thượng cổ, hiển nhiên biết rõ ma vật đáng sợ nhường nào. Bà mân mê hạt châu, hồi lâu mới đáp: “Dù là ma vật cũng do Hành nhi biến thành, thiếp không tin nó lại hại cả cha mẹ đại ca.”

Thanh Dương và Xương Ý nhất loạt quỳ xuống dập đầu cầu khẩn Hoàng Đế.

Hoàng Đế bất đắc dĩ đành đồng ý thử một lần, “Nếu quả thật đây là ma vật hại người, phải lập tức trừ khử trước khi nó gây họa cho nhân thế đó.” Nếu để người trong thiên hạ biết được Hoàng Đế dung dưỡng ma vật, danh vọng của ông sẽ bị hủy hoại, cực kỳ bất lợi cho vương đồ bá nghiệp.

Hoàng Đế bí mật triệu Tri Mạt thạo bày trận pháp lên Triêu Vân phong bày bố Thần trận, lại cắt đặt hai tâm phúc của mình là Ly Chu và Tượng Võng trấn trận.

Hoàng Đế, Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý đồng thời rỏ linh lực cùng tinh huyết của mình vào hạt châu.

Hệt như Ngu uyên nuốt chửng mọi thứ, hạt châu này cũng tham lam hút hết linh lực và tinh huyết rỏ xuống, họ càng đổ nhiều tinh huyết và tinh lực thì hạt châu càng hút mạnh. Hoàng Đế thấy tình thế không ổn, bèn quả quyết cắt đứt mối dây liên kết giữa mình và hạt châu, nhưng Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý rõ ràng cảm thấy như bị Ngu uyên nuốt chửng, vẫn khăng khăng không từ bỏ.

Sắc mặt Luy Tổ nhợt hẳn đi, hệt như gốc đại thụ bị rút kiệt nước. Hoàng Đế phải cưỡng chế kéo bà ra, đồng thời cao giọng hạ lệnh ngừng trận pháp.

Xương Ý bủn rủn ngã lăn ra đất, hai mắt nhắm nghiền, mặt vàng như nghệ, cả người run lên cầm cập, rõ ràng đã bị trọng thương. Xương Phó trấn giữ bên ngoài trận pháp thấy vậy vội nhào tới giúp y bảo hộ linh thể.

Thanh Dương tái mét mặt, đờ người ngã phịch xuống đất, mất hết tri giác. Tuy y thần lực cao cường nhưng chính vì ỷ vào thần lực, lại áy náy trước cái chết của A Hành nên khi nãy đã bất chấp nguy hiểm, dốc hết linh lực và tinh huyết hơn cả, một lòng muốn cứu sống em gái, bởi vậy nên bị thương nặng hơn hết, nếu không phải Hoàng Đế kịp thời ngăn cản, e rằng tính mạng cũng khó giữ.

Thấy hạt ma châu này suýt hại chết hai đứa con mình, Hoàng Đế nổi giận đùng đùng, hạ lệnh cho Ly Chu: “Mang Tứ Tượng kính lại đây, bày Diệt Ma trận, tiêu hủy ma vật này đi.”

Luy Tổ yếu ớt níu tay áo Hoàng Đế vật nài: “Đừng mà!”

Nhìn dáng vẻ già nua tiều tụy của Luy Tổ, Hoàng Đế cũng chạnh lòng xót xa, bèn kiếm lời an ủi: “Hành nhi là đứa con gái duy nhất của ta, bà tưởng ta không thương nó ư? Có điều thứ này không phải Hành nhi, Thanh Dương vẫn luôn hổ thẹn trong lòng vì cái chết của Hành nhi, Xương Ý lại là đứa chấp mê bất ngộ, một ngày chưa trừ khử hạt châu này, hai đứa nó nhất định sẽ nghĩ cách đánh thức nó dậy. Hôm nay may mà có ta và Tri Mạt ở đây, giữ được mạng cho chúng, nhưng lần sau thì sao? Ta thật không muốn mất thêm hai đứa con trai nữa đâu. Đã mất một đứa con gái rồi, lẽ nào bà đành lòng vì nó mà đánh mất nốt hai đứa con trai sao?”

Nhìn hai đứa con trai trọng thương dưới đất, Luy Tổ hiểu Hoàng Đế nói phải, không thể giữ hạt ma châu này lại được. Nhưng từ tận đáy lòng, bà luôn cảm thấy đó là hóa thân của A Hành, lòng đau như dao cắt, nước mắt lã chã. Hoàng Đế biết Luy Tổ rất có ảnh hưởng đối với bọn Tri Mạt, sợ lát nữa Luy Tổ lại lên tiếng ngăn cản, bèn âm thầm vận linh lực khiến bà hôn mê, ngủ thiếp đi rồi sai cung nữ đưa Luy Tổ, Thanh Dương, Xương Ý về Triêu Vân điện.

Ly Chu bẩm: “Tứ Tượng kính đem đến đây rồi, bày trận luôn bây giờ ư?” Diệt Ma trận là sát trận do Bàn Cổ lập ra, bất kể thần hay ma, một khi vào trận ắt cầm chắc cái chết, xưa nay chưa từng thấy kẻ nào sống sót bước ra khỏi Diệt Ma trận. Muốn bày trận cần tới thần khí Tứ Tượng kính, từ sau khi Bàn Cổ qua đời, Tứ Tượng kính do tổ tiên Tây Lăng Thị cất giữ, sau này Luy Tổ gả về Hiên Viên tộc, Tứ Tượng kính cũng trở thành của hồi môn của bà.

Đặt tay lên hạt châu, Hoàng Đế cũng cảm nhận được mối ràng buộc máu thịt giữa hạt châu và mình nên chần chừ chưa quyết.

Ly Chu kính cẩn đứng một bên đợi lệnh.

Nói cho cùng Hoàng Đế cũng là bá chủ một phương, dù lòng không nỡ nhưng ông tuyệt đối không để tình cảm chi phối, trù trừ hồi lâu bèn gật đầu ra hiệu cho Tri Mạt. Tri Mạt nhận lệnh, bắt đầu bày Diệt Ma trận.

Trận pháp vừa rậm rịch bày bố, sắc trời tối sầm lại, mưa to gió lớn ào ào trút xuống. Trời cao như cũng cảm nhận được mọi chuyện, bèn giáng sấm chớp xuống ì ùng.

Khí thiêng trong trời đất được Tứ Tượng kính triệu hồi vần vũ tụ lại. Thanh Dương và Xương Ý cũng cảm nhận được sự thay đổi của đất trời, đồng loạt tỉnh dậy, trông ra ngoài thấy sắc trời đen kịt, mưa như trút nước, lập tức hiểu ra mọi chuyện, liền gắng gượng vùng dậy, nhưng Hoàng Đế sớm lường trước mọi chuyện, đã sai Thần tướng canh giữ, không cho hai người rời khỏi phòng nửa bước.

Xương Ý bất chấp thương thế, toan xông ra can ngăn, liền bị hai viên Thần tướng cản trở, ấn xuống giường, lấy xích Long Cốt xích lại. Mặc cho Xương Ý vừa giận vừa cuống chửi toáng lên, hai viên Thần tướng ngoài miệng thì “Điện hạ thứ tội” nhưng ra tay rất mau mắn, hiển nhiên Hoàng Đế đã ban nghiêm lệnh.

Thanh Dương cử động khó khăn lại hiểu con người Hoàng Đế hơn ai hết, tự biết chẳng có cơ hội xông ra, y chỉ ngồi lặng, đăm đăm trông về đỉnh Hiên Viên – sau màn mây dông vần vũ đang cuồn cuộn tụ về trên đỉnh Hiên Viên kia, thấp thoáng lóe lên ánh chớp, chờ tới khi bày xong trận pháp, sấm nổ vang trời, trận pháp sẽ tự động dẫn lửa trời giáng xuống, ngũ lôi oanh kích công phá hạt châu, triệt để hủy diệt nó.

Từ sau khi A Hành qua đời, Xương Ý không buồn mở miệng trò chuyện với Đại ca, lúc này thấy tình thế cấp bách, chẳng biết làm sao, mới đành lên tiếng cầu khẩn: “Đại ca, huynh cứ thế giương mắt nhìn tiểu muội tan xương nát thịt ư? Đệ không cần biết nó có phải ma hay không, đệ chỉ biết nó là muội muội của mình thôi.”

Y vừa dứt lời đã thấy Xương Phó khoác áo choàng, bưng hai hộp đồ ăn bước vào. Nàng đặt đồ ăn xuống đất, ghé tai Xương Ý nói nhỏ: “Thiếp đã huy động tinh binh Nhược Thủy, nhất định phải tìm cách trộm hạt châu đem ra.”

Xương Ý rung động cả tâm thân, siết chặt lấy tay Xương Phó, lòng rưng rưng bao điều muốn nói mà không sao thốt nên lời. Chống lại Hoàng Đế là tội chết, vậy mà Xương Phó vẫn bất chấp hậu quả, chẳng nề đem số mệnh cả tộc ra đối chọi với Hoàng Đế, nhưng y có thể ích kỷ, thí bỏ cả Xương Ý và Nhược Thủy tộc sao?

Hiểu lòng y đang nghĩ gì, Xương Phó dịu giọng: “Chàng quên lời thề giữa hai ta trong đêm tân hôn rồi ư? Phu thê một lòng, bên nhau suốt kiếp, sống chung chăn gối, chết chung huyệt mộ! Muội muội của chàng cũng là muội muội của thiếp, muội muội của thiếp chính là người của Nhược Thủy tộc, bất kể nguy hiểm đến đâu, Nhược Thủy tộc bọn thiếp quyết không bỏ rơi người của mình!”

Thấy Xương Ý gật gật đầu, Xương Phó kiên quyết đứng phắt dậy, toan bước ra ngoài, xông vào màn mưa gió, chợt Thanh Dương lạnh lùng lên tiếng: “Nếu đám bán yêu Nhược Thủy tộc cũng có thể phá giải Diệt Ma trận mà Hiên Viên tộc bày bố, Hiên Viên chẳng được cả đại hoang tôn xưng là một trong Tam đại Thần tộc. Giờ đây muội đã thành trưởng tộc, hành sự phải động não một chút, đừng tưởng cứ đâm đầu tìm chết là anh dũng đâu!”

Xương Ý rối cả ruột, liền trừng mắt nhìn Thanh Dương, vùng vẫy định nhào tới đánh cho y một trận, chỉ có Xương Phó tinh tế, nhận ra ẩn ý trong lời Thanh Dương, “Đại ca thấy làm vậy không ổn, vậy huynh có cách nào hay hơn không?”

Thanh Dương hờ hững đáp: “Giờ đây người nên ra tay cứu A Hành nhất không phải muội, mà muội cũng chẳng có năng lực đó.”

Xương Ý giận dữ buông lời chế nhạo: “Vậy ai mới nên? Chắc là chàng rể huynh chọn cho A Hành, Cao Tân Thiếu Hạo hả? Tuy hắn có năng lực thật đấy, nhưng chúng ta lấy đâu ra Hà Đồ Lạc Thư mà trao đổi nữa!”

Thanh Dương chẳng chấp Xương Ý, chỉ ngoảnh sang bảo Xương Phó: “Muội cưỡi tọa kỵ của ta đi tìm Xi Vưu, báo tin cho hắn hay.”

Xương Phó sực hiểu ra, hàng năm nàng đều cùng Xương Ý tới Ngu uyên bái tế A Hành, suốt hai trăm năm, năm nào cũng thấy ngoài Ngu uyên có thêm mấy gốc đào. Mấy năm đầu Xương Ý thường nổi giận nhổ sạch, nhưng Xi Vưu lại lặng lẽ trồng xuống, Xương Ý nhổ bao nhiêu, hắn trồng lại bấy nhiêu, về sau Xương Ý chẳng buồn nhổ nữa, chỉ cười nhạt nói: “Để xem hắn trồng được bao lâu”, thật chẳng ngờ, hắn đã trồng suốt hai trăm năm.

Thanh Dương lại dặn dò: “Muội bảo Chu Du lập tức báo cho Thiếu Hạo hay.”

Thấy Xương Ý định phản đối, Thanh Dương trừng mắt nhìn y: “Dù sao A Hành cũng là vợ cưới hỏi đàng hoàng của Thiếu Hạo, cứu hay không cứu là do hắn, nhưng phải cho hắn biết tình hình hiện tại, huống hồ thêm một người là thêm một cơ hội kia mà.”

Xương Ý trầm ngâm giây lát rồi gật đầu với Xương Phó, nàng liền khép vạt áo, bước ra ngoài trời mưa gió.

Vì bày bố Diệt Ma trận, trăm dặm quanh Hiên Viên sơn vần vũ mây đen, mưa rào rào như trút nước, ánh chớp lấp loáng sau màn mây dông tựa vô số rắn vàng uốn éo, cả bầu trời như một mảnh vải đen kịt thêu đầy những hoa văn vàng rực rối mắt.

Mưa gầm gió rít thổi bạt đi tất cả âm thanh, vậy mà trong tiếng mưa gió sầm sập, vẫn nghe văng vẳng giọng ca thê thiết.

“A ối à ối a

Mình đành nhắm mắt mãi sao

Chẳng buồn hé mở chút nào nhìn ta

Nếu ta làm nát lòng hoa

Xin mình cứ móc mắt ta cho rồi

Miễn mình mở mắt ra thôi…

A ối à ối a

Mình đành quên lãng thế sao

Quên bao ngày tháng xiết bao hẹn thề

Vì ta, mình luồng tái tê

Móc tim, ta cũng sá gì mình ơi

Miễn mình lại tái sinh thôi…”

Xi Vưu giẫm trên lưng đại bàng, áo đỏ phần phật, xé gió băng mưa mà đến.

Ly Chu bước ra quát: “Mau dừng bước, phía trước là cấm địa của Hiên Viên tộc.”

Xi Vưu chẳng buồn nhìn lão, cao giọng nói với Hoàng Đế trên đỉnh núi: “Ta là Xi Vưu, Đốc Quốc Đại tướng quân của Thần Nông, mấy hôm trước lỡ đánh mất một hạt tâm châu, ngày đêm trăn trở không yên, nghe nói Hoàng Đế nhặt được bèn vội vã tới xin lại, mong ngài ban trả cho ta, Xi Vưu vô cùng cảm kích.”

Ly Chu hỏi: “Chẳng hay Đại tướng quân làm sao chứng minh được hạt châu đó là của ngài?”

Xi Vưu bèn tả lại rành rọt từ kích cỡ đến màu sắc hạt châu khiến Ly Chu cứng họng không vặn vẹo nổi. Thấy vậy Tượng Võng khẽ bẩm Hoàng Đế: “ Hay là để thuộc hạ dẫn binh đuổi hắn đi?”

Hoàng Đế lắc đầu: “Xi Vưu tính tình cuồng ngạo, hắn vừa nhận mình là Đốc Quốc Đại tướng quân của Thần Nông nhằm chứng tỏ rằng hắn có thể huy động quân đội Thần Nông, cảnh cáo chúng ta nếu không muốn hắn động binh thì đừng dại động binh trước. Lỡ chúng ta không chứng minh được hạt châu đó không phải của hắn thì hắn sẽ thắng thế, mà quả thực hiện giờ chúng ta chưa có cách nào chứng minh được cả.” Hoàng Đế không muốn vạch áo cho người xem lưng nên chẳng hề cho bọn Ly Chu biết lai lịch hạt châu, càng không đời nào tiết lộ với người đời rằng hạt ma châu đó là hóa thân của con gái mình. Nếu người trong thiên hạ biết con gái ông đã thành ma, danh tiếng của ông ta sẽ phải chịu đả kích ghê gớm.

Tượng Võng giận dữ thét: “Đánh thì đánh! Ai sợ hắn chứ?” Những tướng sĩ bỏ mạng trong trận Đại Thì sơn đa phần là thuộc hạ của Tượng Võng, nên lão thù Xi Vưu tới tận xương tủy.

Hoàng Đế trừng mắt với Tượng Võng: “Sao ngươi mãi không sửa được tính nóng nảy thế? Ta đã bảo ngươi bao nhiêu lần, phải cẩn thận kẻo rút dây động rừng kia mà? Không nhịn việc nhỏ sẽ hỏng hết việc lớn! Hiện giờ quốc lực Hiên Viên có thể toàn diện khai chiến được với Thần Nông sao?” Thấy Tượng Võng cúi đầu làm thinh, Hoàng Đế nghĩ ngợi rồi lạnh lùng phán: “Cứ để hắn biết khó khắc lui! Xưa nay chưa một ai vượt qua được Diệt Ma trận, nếu hắn cứ muốn đâm đầu thì càng hợp ý ta, dù hắn bỏ mạng trong trận cũng không liên quan gì tới chúng ta cả!”

Ly Chu hiểu Hoàng Đế muốn dựa vào Diệt Ma trận để lấy mạng Xi Vưu, bèn cao giọng bảo hắn: “Hạt châu này hút máu người, đoạt mạng người, hẳn không phải tâm châu của Đại tướng quân. Hiện giờ Diệt Ma trận đã bày xong, mời Tướng quân đích thân vào thử xem, một khi xác định không phải tâm châu, xin ngài tức tốc lui ra, để khỏi bị ma vật liên lụy, rước họa vào mình.”

Lão vừa dứt lời, mọi người đều lục đục lui xuống.

Xi Vưu rảo bước tiến vào Diệt Ma trận. Viêm Đế từng giảng giải cho hắn về uy lực của trận thế này, Diệt Ma trận do thượng cổ thần khí Tứ Tượng kính bày ra, bao gồm bốn trận pháp, ngụ ý chỉ tứ tượng trong đời người – tử, sinh, ảo, diệt. Trận pháp vô cùng quái dị, xưa nay chưa kẻ nào vượt qua nổi, vô số cao thủ xông vào, không hóa điên thì bỏ mạng, nghe nói Bàn Cổ từng tuyên bố kẻ nào vượt qua được Diệt Ma trận sẽ ban cho Tứ Tượng kính, mãi về sau một tên ngốc nhà Tây Lăng không có chút linh lực nào lạc vào trận pháp, lại lớ ngớ thoát ra được, Bàn Cổ bèn ban Từ Tượng kính cho tổ tiên Tây Lăng Thị.

Xi Vưu đã bước vào tượng đầu tiên của Diệt Ma trận – Tử kính.

Hai mươi tư khối đá tảng được chạm trổ thành hai mươi tư thần tướng thân mang kim giáp, vung kích vàng, trợn mắt hung hãn nhìn Xi Vưu.

Kim Giáp thần dũng mãnh vô song, lại không có máu thịt, không biết mệt mỏi đau đớn, càng chẳng biết sợ sệt, tựa hồ chẳng hề có khuyết điểm, nhưng thực tế, ưu thế của chúng chính là khuyết điểm, không có cảm giác, hành động sẽ rất cứng nhắc, thiếu linh hoạt. Đối phó với chúng, hạng cao thủ tuyệt đỉnh linh lực cao thâm như Xi Vưu chỉ cần dùng hư chiêu đến dử, dần dà sẽ tìm ra sơ hở trong chiêu thức rồi dựa vào đó mà phản công. Nhưng hắn đang lo lắng cho A Hành, lòng như lửa đốt, nào dám lãng phí thời gian, vừa ra tay đã dốc hết toàn lực, lấy cứng chọi cứng, Kim Giáp thần cương mãnh thì Xi Vưu còn cương mãnh hơn, một mình hắn đấu ngang ngửa với hai mươi tư pho tượng đá.

Có điều, dần dà Xi Vưu phát hiện ra, dùng linh lực công kích chẳng thương tổn được Kim Giáp thần, chúng không ngại nước lửa, cũng chẳng sợ gì đao kiếm.

Tẳng mây đen kịt trên không càng lúc càng trĩu xuống, Xi Vưu nôn nóng muốn dứt điểm, thầm hạ quyết tâm dù chết cũng phải vượt qua trận này.

Thấy một tên Kim Giáp thần tấn công mình, hắn không tránh không né, chỉ gầm lên 1 tiếng, hai tay đưa ra đối chiêu với Kim Giáp thần. Tuy Xi Vưu cương mãnh nhưng dù sao cũng là máu thịt đối chọi với đá tảng, hắn không khỏi thấy huyết khí cuộn lên trong lồng ngực, song vẫn thừa cơ túm lấy tay Kim Giáp thần, thét lớn, bẻ gãy rời vứt xuống đất, đoạn phun ra một bụng máu.

“Tới đi!”

Xi Vưu gầm lên, dùng phương pháp hoang dã nhất mà cũng hữu hiệu nhất, đối phó với đám Kim Giáp thần.

Chỉ một tuần hương, hai mươi tư Kim Giáp thần đều biến thành những pho tượng đá cụt tay, không ngăn cản nổi Xi Vưu nữa, đổi lại, hắn cũng phải trả giá đắt, khắp người đầy thương tích, đồng thời gãy mất hai rẻ xương sườn.

Đây mới là tượng đầu tiên trong tứ tượng!

Xi Vưu ngước mắt nhìn mây đen vần vũ trên đầu, lao vút đi.

Tượng thứ hai là Sinh kính, tên sao trận vậy, không có tấn công, cũng khỏi cần trả giá hay đổ máu, thoạt nhìn vô cùng yên bình. Trận pháp hội tụ băng tuyết do hàn khí kết thành, chẳng có xảo quyệt gì phá được, cách duy nhất chỉ là lê bước băng qua gió tuyết mà thôi.

Xi Vưu bước vào giữa một trời gió tuyết, càng đi sắc trời càng tối sầm lại, tuyết đổ càng nhiều, lạnh đến đông cứng cả xương cốt, dẫu thần tiên linh lực cao thâm bậc nhất cũng không sao chịu nổi cái giá buốt do hàn khí chí âm của trời đất tạo thành. Mới đầu Xi Vưu thấy lạnh buốt cả xương, phải liên tục vận linh lực phản kháng, nhưng cứ đi đi mãi, hắn dần dà lạnh đến mất đi cả tri giác, không còn cảm thấy lạnh, cũng chẳng cảm nhận được gió tuyết nữa, thần trí chỉ còn là một mảnh mơ hồ, chừng như đã quên cả mình là ai.

Trong cơn mơ màng, hắn tựa hồ quay trở lại thuở ấu thơ, khi còn là một con dã thú tung hoành giữa rừng già, không ngừng giết chóc, giành giật địa bàn, cướp đoạt thức ăn.

Đồng loại của hắn hoặc chết hoặc tới mùa xuân lại đi xây tổ ấm, hễ hắn mon men lại gần, chúng đều nhe nanh múa vuốt gầm gừ đe dọa. Hắn không hiểu tại sao lại thế, chỉ thấy mình vô cùng cô đơn, nỗi cô đơn còn buốt giá hơn băng tuyết.

Năm này qua năm khác, toàn là giết chóc, đổ máu, chết thảm, năm này qua năm khác, đám dã thú trong rừng dường như cũng nhận ra hắn khác bọn chúng, không chịu gần gũi với hắn nữa, năm lại năm, chỉ còn mình hắn tung hoành. Nỗi cô đơn mỗi lúc một thêm nặng trĩu, nỗi cô đơn trơ trọi bởi không tìm được đồng loại trên thế gian, niềm đau khổ dồn nén lại, không nơi giãi bày thổ lộ, nhưng hắn cũng chẳng hiểu nổi, mình đau khổ vì lẽ gì?

Có lần hắn tò mò mon men tới một thôn trang của con người, thấy đám trẻ tung tẩy nô đùa, hắn thích thú vô cùng, dường như những tiếng cười giòn tan ấy có thể xua tan hết bao đau khổ dồn nén trong lòng vậy. Hắn muốn lại gần bọn họ, nhưng bọn họ ném đá vào hắn, lấy lửa đốt hắn, vung đao kiếm đâm hắn.

Đầu hắn bị đá ném trúng, lông lá trên người bị lửa thiêu, thân thể bị thương vì đao kiếm, hắn đành vắt chân lên cổ mà chạy, chạy đến lúc mệt nhoài.

Trời đất tối đen, như đang dịu dàng dỗ dành hắn, nghỉ ngơi đi, nghỉ ngơi thôi! Chỉ cần ngủ thiếp đi, sẽ chẳng phải chịu đau đớn nữa!

Xi Vưu toan ngả lưng nằm xuống đánh giấc, nhưng tận sâu trong đáy lòng cứ nhức nhối một chấp niệm, dường như trái tim hắn đã khuyết đi một mảnh, dù muốn ngủ cũng phải tìm lại được mảnh tim đã mất, dựa vào nó mà ngủ thì sẽ có thể sở hữu tiếng cười xua tan hết thảy tối tăm và đau khổ, sẽ có được sự dịu dàng, sẽ không còn cô đơn nữa.

Rốt cuộc là thiếu mất cái gì nhỉ? Và mảnh khuyết đó giờ đang ở đâu?

Xi Vưu ngửa mặt đón gió, tiếp tục lê bước, lảo đảo băng qua bão tuyết.

Đột nhiên tuyết tạnh mây tan, trời trong nắng ấm, ánh mặt trời rọi lên mình Xi Vưu, trông hắn hệt như một cây cột băng tuyết, chẳng còn ra hình người, từ đầu đến chân đều đóng băng, mặt mũi bị băng tuyết phủ kín.

Xi Vưu sững sờ khựng lại, ngơ ngác không hiểu mình đang ở đâu, cũng chẳng rõ mình là ai. Trước đây cũng từng có kẻ kiên trì vượt qua được Sinh kính nhưng bước ra khỏi trận là mất hết thần trí. Vốn dĩ Bàn Cổ dùng khí âm hàn giá buốt nhất đất trời trong trận này để ví von với cuộc đời lạnh lẽo tàn khốc, khảo nghiệm ý nghĩa cuộc sống của con người ta: ngươi vượt qua được Tử trận của Kim Giáp thần, chứng tỏ ngươi đủ năng lực giành lấy mọi thứ mà ngươi muốn, nhưng bất kể vì danh, vì lợi, vì quyền, vì tình, vì nghĩa, chấp niệm của ngươi có thể sưởi ấm kiếp sống lạnh lẽo của ngươi không? Có thể khiến ngươi kiên cường đối mặt với hết thảy giá buốt trên thế gian, chống đỡ cho ngươi vượt qua phong ba bão táp trong đời chăng?

Chỉ lát sau, Xi Vưu đột ngột vùng khỏi đống băng tuyết đông cứng trên người, dang tay ngửa mặt nhìn trời, thét lớn: “A Hành! Là A Hành! Ta phải tìm được A Hành!”

Hắn biết sấm sét đã giáng xuống bên ngoài trận pháp, A Hành sắp gặp nguy ngập nên chẳng dám chần chừ, lập tức tiến vào tượng thứ ba – Ảo kính.

Trời nhẹ mây cao bát ngát, núi rừng xanh ngắt mênh mông, loài hoa dại không tên nở khắp sườn đồi, khiến khung cảnh đượm vẻ bình yên mà mỹ lệ.

Xi Vưu loạng choạng chạy như điên như dại, A Hành, đợi ta, ta đến bây giờ đây! Lần này ta quyết không làm nàng thất vọng nữa đâu!

Cứ chạy mãi chạy mãi, đột nhiên hắn thoáng thấy Thiếu Hạo áo trắng như tuyết, dung mạo tuấn tú, phong thái ung dung đang đứng đón gió giữa đồng hoa, còn cười bảo hắn: “Ngươi tới chậm một bước, ta đã cứu được A Hành rồi!”

“A Hành đâu?”

Vừa dứt lời đã thấy A Hành khoan thai tiến lại, nắm chặt lấy tay Thiếu Hạo, tựa người vào y, đắm đuối ngước mắt nhìn y.

Thiếu Hạo nắm lấy tay nàng leo lên lưng Huyền điểu, ném lại một câu: “Ngươi mau ra khỏi trận đi, ta đưa A Hành về Cao Tân đây!”

“A Hành, A Hành!”

Bất luận hắn thét gọi thế nào, A Hành chỉ một mực tươi cười, tựa vào lòng Thiếu Hạo.

Xi Vưu hồn xiêu phách lạc lê bước, mặc cho Tiêu Dao sà xuống bên cạnh, xót xa nhìn hắn. Cơn giận điên cuồng trào lên trong lòng Xi Vưu, hắn rốt cuộc có chỗ nào không bằng Thiếu Hạo? Vì sao hết lần này tới lần khác nàng đều chọn Thiếu Hạo mà vứt bỏ hắn? Tại sao nàng không tha thứ cho hắn, trong khi lại dễ dàng quên khuấy Thiếu Hạo từng vì nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư mà bỏ rơi nàng? Lẽ nào bởi Thiếu Hạo xuất thân tôn quý, sẽ có ngày trở thành vua một nước hay sao?

Được lắm! Ta sẽ cho nàng thấy rốt cuộc ta và y, ai mới thành vua một nước?

Nói là làm, hắn liền cưỡi Tiêu Dao quay về Thần Nông, vung kiếm huy động đại quân, vó sắt quét qua, máu rải vạn dặm, hạ hết toàn thành này tới tòa thành khác, diệt Hiên Viên, hủy Cao Tân, cả thiên hạ đều quỳ dưới chân hắn, tướng lĩnh thuộc hạ hắn đồng loạt rộ lên hoan hô. Nhưng người quỳ rạp dưới chân hắn ngày càng đông, ánh mắt mọi người càng kính sợ e dè, hắn càng cảm thấy khó chịu, tiếng hoan hô vang trời dậy đất của bao nhiêu người chỉ làm hắn day dứt nhớ vò rượu Du Võng lén trộm đến Thảo Ao lĩnh cho hắn.

Hắn xách rượu tới tìm Du Võng, Du Võng lạnh lùng nhìn hắn: “Ngươi đến ban chết cho ta phải không? Nghe nói đám tướng quân kia khuyên ngươi phế tên vô dụng ta đây, tự lập làm đế.”

“Không, ta chỉ tới tìm ngươi uống rượu.”

Du Võng quay lưng lại phía hắn, bóng lưng y lẻ loi mà cao khiết, “Lòng ngươi tanh lòm những máu, làm ta phát nôn!”

Xi Vưu lẳng lặng lui ra khỏi đại điện, ngửa cổ dốc rượu vào miệng, nhưng không sao tìm lại mùi vị xưa kia nữa. Những tháng ngày trên Thảo Ao lĩnh, khi hắn còn chạy bằng bốn chân như dã thú, hung tợn trừng mắt nhìn Du Võng, trong khi Du Võng chỉ ngốc nghếch cười khì, dùng rượu dụ dỗ hắn, làm thân với hắn cũng chẳng cách nào quay trở lại.

Đại quân bao vây quanh đô thành của Cao Tân, chỉ còn Cao Tân vương thất cố thủ trong thành, đây đã là trận chiến cuối cùng.

Nửa đêm, A Hành lẻn đến thổ lộ tâm tình khiến Xi Vưu hắn vui mừng vô hạn, hai người hoan lạc suốt đêm.

Nhưng ngày hôm sau, đội quân của hắn bị mai phục, vô số binh lính bị giết, hắn trông thấy Phong Bá, huynh đệ keo sơn của hắn khắp người đầm đìa máu, chết ngay trước mắt mình, đám Si Mỵ Võng Lượng[2] chỉ mặt A Hành gào lên: “Là ả bán đứng chúng ta! Chính ả đã hại chết Phong Bá!”

[2] Si Mỵ Võng Lượng: theo truyền thuyết là thuộc hạ dưới trướng Xi Vưu, sau này được dùng để chỉ chung các loài yêu ma quỷ quái. (ND)

Xa xa, Thiếu Hạo dẫn theo thiên quân vạn mã ập đến, dịu dàng gọi: “A Hành.”

Xi Vưu lạnh buốt cả người, trợn mắt nhìn A Hành, “Là nàng làm phải không? Nàng bảo Thiếu Hạo mai phục chúng ta ư?”

A Hành làm thinh, chỉ ngồi lặng.

Si Mỵ Vọng Lượng lại bày ra la liệt tội chứng của A Hành, khiến tất cả binh sĩ kích động, mặt đầy những máu, vung giáo tuốt gươm, sôi sục căm thù đòi giết nàng.

Xi Vưu nhìn Phong Bá ngã gục dưới chân, lại nhìn A Hành bên cạnh, lòng như chìm xuống hầm băng, đau đớn quặn lên trong dạ.

A Hành không cầu khẩn, cũng chẳng biện minh, chỉ ngẩng đầu lặng lẽ nhìn hắn.

Xi Vưu đột nhiên hồi tưởng lại những chuyện xa xưa, hoa đào nở rộ, A Hành tay xách giày thêu, tay vén quần lụa tung tăng giữa dòng suối, đuổi theo vờn nghịch những cánh hoa rơi, muôn vàn cánh đào lả tả rụng xuống trước mặt hắn, khiến hắn chợt nhớ trước khi nàng rơi xuống Ngu uyên còn khóc ra máu, gằn từng chữ: “Nếu hôm nay đổi lại là ta, ta sẽ tin tưởng ngươi!” Lòng hắn từ từ lắng xuống, hết thảy mọi nôn nóng, nghi kỵ, thậm chí đau đớn và cô đơn đều tan biến cả. Thì ra rất nhiều đau khổ trên đời này đều từ lòng mình mà ra, nếu lòng tĩnh tại thì đâu đâu cũng là miền an lạc.

Xi Vưu kiên quyết nói với bọn Si Mỵ Võng Lượng như chém đinh chặt sắt: “Ta tin nàng, vì nàng là A Hành của ta! Nếu các ngươi muốn giết nàng thì phải bước qua xác ta trước đã!”

Vừa dứt lời, A Hành, Phong Bá, Si Mỵ Vọng Lượng đều biến mất cả.

Chẳng có Thiếu Hạo, chẳng thấy chiến trường, cũng không hề có máu tươi hay thi thể, hết thảy mọi thứ đều không có.

Xi Vưu ngây người ra, không dám tin rằng hết thảy giang sơn nhuốm máu, sinh tử hào tình kia chỉ là ảo ảnh!

Cảm thán thay, bóng câu qua cửa, lửa xẹt đá mài, trần ai trong mộng[3], được rồi mất, mất rồi lại được, dường như cả cuộc đời này chỉ là một trường ảo tưởng trong trận pháp vừa rồi mà thôi. Vui vì có được ư? Đau bởi mất mát ư? Ảo ảnh tan rồi, điều quan trọng nhất còn đọng lại trong lòng người là gì đây?

[3] Nguyên văn: “嘆隙中駒, 石中火, 夢中身” (Thán khích trung câu, thạch trung hỏa, mộng trung thân), ba câu này rút từ bài Hành Hương tử của Tô Đông Pha (1036-1101) thời Tống, có thể hiểu là: cảm thán thay, cuộc đời thoảng qua như chớp mắt, chẳng khác nào bóng câu bay ngang cửa sổ, ngọn lửa xẹt ra khi đánh lửa hay những câu chuyện vụt trôi qua trong cơn mộng mị. (ND)

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 12-6-2014 02:50 PM
Chương 19


Gặp nhau há dễ nhận được liền[1] .


19.2


Từ mấy trăm năm trước, khi được Viêm Đế đưa về Thần Nông sơn, bắt đầu học làm người, hắn vẫn luôn hoang mang lạc lối giữa đa đoan nhân tính, mãi đến lúc này, hắn mới sực hiểu ra mình muốn có thứ gì.

Diệt Ma trận được coi là trận pháp lợi hại nhất của Bàn Cổ, nhưng trừ trận đầu tiên, còn lại đều là đấu tranh nội tâm, tự mình vật lộn giằng co với chính mình, lẽ nào kiếp người cũng là như thế? Để đánh bại Kim Giáp thần cản đường, cần phải có thực lực nhất định, nhưng chướng ngại vật chắn lối thực sự lại chính là bản thân mình, hết thảy vui buồn được mất thật ra đều nằm trong tay mình cả, được cũng do mình, mất cũng do mình.

Xi Vưu không khỏi tự hỏi Diệt Ma trận của Bàn Cổ, rốt cuộc dùng để diệt thứ yêu ma gì? Là ma quái trên thế gian, hay thế gian vốn không có ma quái, mọi thứ đều khởi từ tâm ma?

Từ xưa tới nay, vì tâm cao khí ngạo, vì chút tự ái như có như không giấu tận đáy lòng, hắn nhất mực không chịu thừa nhận rằng mình thua kém Thiếu Hạo, kỳ thực, hắn luôn ghen ghét đố kỵ với Thiếu Hạo, đố kỵ trước phong thái hào hoa, thân phận tôn quý cùng mối duyên trời ban của y với A Hành, sâu thẳm trong lòng hắn từng giờ từng khắc đều lo sợ A Hành sẽ thay lòng, yêu càng nhiều thì nghi kỵ càng sâu, mới tạo thành thảm kịch năm xưa.

Nếu vừa nãy hắn không tin tưởng A Hành thì sẽ xảy ra chuyện gì nhỉ?

Oành oành, ùng ùng!

Tiếng sấm nổ vang trời truyền đến khiến Xi Vưu chẳng còn lòng dạ nào suy ngẫm hàm nghĩa Diệt Ma trận của Bàn Cổ nữa, hắn lập tức chấn chỉnh lại tinh thần, rảo bước tiến vào tượng thứ tư của Diệt Ma trận – Diệt kính.

Hạt châu xanh biếc đang nằm trên phiến đá, bị xích Long Cốt chằng chịt khóa chặt, mây mù đen kịt tụ lại dày đặc phía trên, rung lên theo từng luồng sấm sét nhoáng nhoàng, như có thể giáng xuống bất cứ lúc nào.

Xi Vưu chạy như bay đến, “A Hành, ta đến rồi đây!” Y phục trên người hắn rách tơi tả, thương tích đầy mình nhưng nét mặt và đáy lòng lại rộn lên vui sướng.

Sấm chớp đột nhiên nổi lên ùng oàng như vô số rắn vàng uốn éo trên không, cả nền trời đen kịt lấp loáng ánh chớp, thoắt tối thoắt sáng.

Vô số rắn vàng từ bốn phương tám hướng đổ xô lại, hợp thành một con rắn khổng lồ vẫn không ngừng lớn mãi, chỉ lát sau đã hóa thành một con mãng xà. Ngũ lôi giáng xuống đánh ầm một tiếng, ánh chớp loang loáng, hệt như một con mãng xà vàng rực bổ xuống hạt châu.

Xi Vưu vội xông tới lấy thân mình che cho hạt châu.

Đoàng!

Sấm sét giáng trúng lưng Xi Vưu, toàn thân hắn không ngừng co giật, rũ rượi nằm đè lên hạt châu.

Trước cơn thịnh nộ lôi đình của đất trời, dù là kẻ thần lực cao cường nhất Thần tộc cũng không sao chịu nổi, chỉ trong nháy mắt, Xi Vưu đã bị đánh đến nỗi khí tức rối loạn, linh lực tan tác.

Mây dông trên trời đang ngưng tụ lại, chuẩn bị cho đòn sấm sét nặng nề hơn.

Xi Vưu toan di chuyển hạt châu, nhưng hạt châu trước sau vẫn dính chặt lấy phiến đá như thể mọc lên từ đó, chẳng hề nhúc nhích mảy may.

Cuồng phong rít gào, mưa táp xối xả, Xi Vưu ngẩng đầu nhìn trời, thấy mây dông đen kịt lại đè xuống hệt một trái núi, sấm chớp loang loáng tựa từng lưỡi gươm sắc bén từ từ tụ lại, hợp thành một con rồng vàng rực chói lòa, khiến bốn bề sáng trưng như ban ngày.

Nếu Xi Vưu còn chút lý trí, hắn hẳn đã nhận ra mình không thể đỡ nổi đòn này. Tuy thiên lôi giáng xuống quả là đáng sợ, nhưng chỉ tấn công vào ma châu, ví như hắn vứt hạt châu lại mà bỏ chạy, ắt vẫn còn kịp giữ mạng.

Có điều Xi Vưu chẳng những không hề sợ sệt, mà còn cười sằng sặc, rút trường đao rạch lên hai tay, để linh huyết từ thân thể mình chảy sang hạt châu rồi ngẩng nhìn trời cao giọng chửi: “Nàng hút máu thì ta vui vẻ dâng máu, nàng hút linh lực, ta cũng vui vẻ dâng linh lực, việc gì đến ngươi? Ai khiến ngươi chõ mõm vào? Ngươi dám hủy diệt nàng, ta sẽ hủy diệt ngươi!”

Thiên lôi uỳnh một tiếng bổ xuống, từng đạo sét đều nhằm vào hạt châu, Xi Vưu tóc tai rũ rượi, hai mắt đỏ ngầu, vung trường đao chém xuống con rồng vàng rực đang nhào tới, liều mạng đối chọi cả với trời, “Thiên đạo của ngươi quả là vô lý, ngu muội tối tăm, ta phải hủy diệt thứ thiên đạo này!”

Mây dông ập xuống như núi, sấm sét bổ xuống như rồng, Xi Vưu hộc ra mấy búng máu, chẳng nể tan xương nát thịt, hồn phách tiêu tan, linh lực tản mác, gắng gượng ngưng tụ một nguồn linh lực vượt quá sứa chịu đựng của cơ thể, lưỡi đao nở phình ra quét ngang trời đất, mây dông sấm sét đều bị dồn ép, tốc độ chậm hẳn lại.

Nhưng đại thể khó cưỡng, mây dông như núi lở, sấm sét tựa rồng thần vẫn từ từ ập xuống Xi Vưu, khiến ánh đao đỏ rực dần thu nhỏ lại, Xi Vưu lảo đảo chực ngã, ngũ quan ứa máu, máu loang đầy cả mặt, tóc tai phấp phới, trông chẳng khác nào ác ma.

“Ta nói cho ngươi hay, Bàn Cổ tạo ra được ngươi thì ta cũng hủy diệt được ngươi!” Xi Vưu gầm lên với trời cao, dốc toàn lực vung đao chém lên trời, cắt đôi sấm sét sáng lòa như rồng thần đó. Oành một tiếng, mây dông tan biến, ánh sáng rợp trời, vô số tia sét lấp loáng tựa sao băng từ người hắn bắn ra. Thân thể Xi Vưu bị đánh thủng lỗ chỗ, máu tuôn ra như suối, nhỏ xuống hạt châu, đem theo cả linh khí cuồn cuộn trong trời đất.

Hút đủ máu tươi và linh lực, hạt châu bỗng đỏ rực lên, uỳnh một tiếng, ánh đỏ phụt ra xông thẳng tới chín tầng mây, đất trời lúc thì vàng rực, khi lại đỏ ối, lấp loáng chói cả mắt, sông núi cũng ngả nghiêng như sắp đến ngày tận thế.

Thiếu Hạo đến chậm hơn Xi Vưu một bước, khi y tiến vào Tử kính của Diệt Ma trận, cũng gặp phải hai mươi tư Kim Giáp thần.

Giao đấu một hồi với Kim Giáp thần, cũng như Xi Vưu, y mau chóng phát hiện ra khuyết điểm của bọn chúng, tuy đánh bại chúng không khó nhưng muốn đánh bại ngay tức khắc lại chẳng dễ dàng gì, mà để cứu được A Hành, phải càng nhanh càng tốt.

Thiếu Hạo ngẫm nghĩ rồi thình lình biến thành một vị Kim Giáp thần. Nước là cội nguồn của vạn vật, có thể tùy ý thay đổi hình dạng, mà y lại tu luyện thủy linh, đương nhiên thừa sức mô phỏng vạn vật, Thiếu Hạo thần lực cao cường, Kim Giáp thần do y biến ra giống y như đúc, dù Hoàng Đế đích thân tới cũng không phân biệt được.

Hai mươi tư Kim Giáp thần ngơ ngác nhìn nhau, quả nhiên thấy dôi ra thêm một người. Đột nhiên một tên Kim Giáp thần hung tợn vung tay đánh một tên khác, tên kia trả đòn, lại đánh trúng một tên khác. Chẳng bao lâu đám Kim Giáp thần đã quấn lấy nhau đánh đấm loạn xà ngầu, mù mịt cả đất trời, cát bay đá chạy, mỗi đòn giáng xuống đều nặng tựa ngàn cân, trận pháp trở bỗng chốc rối tung.

Đợi đến khi sóng yên gió lặng, đám Kim Giáp thần kẻ cụt tay người mất chân, hết thảy đều tan thành xác pháo, chỉ còn duy nhất một tên đứng giữa bãi chiến trường, chẳng sây sất mảy may, đột nhiên hắn mỉm cười, biến trở lại thành Thiếu Hạo.

Nhìn đống đá ngổn ngang dưới chân, Thiếu Hạo lắc đầu: “Dù sao cũng không phải còn người có máu có thịt, hèn chi chẳng linh hoạt cơ biến gì cả!”

Nói rồi y tiếp tục bước, tiến vào tượng thứ hai của Diệt Ma trận – Sinh kính.

Gió tuyết vần vũ đầy trời, tiêu điều giá buốt. Thiếu Hạo vừa đi vừa không ngừng cảnh giác, tâm trí cứ miên man nghĩ ngợi, tại sao tượng này lại gọi là Sinh kính nhỉ?

Để chống chọi giá rét, y đã phải dốc hết thần lực. Nhìn gió tuyết mịt mù phía trước, chẳng trông thấy đường, Thiếu Hạo chỉ biết hồi tưởng lại tết thả đèn của Cao Tân, nhớ tới những ngọn đèn lung linh muôn màu, ấm áp mà mỹ lệ, lấy đó làm động lực cất bước.

Mỗi ngọn đèn đều do một tay ai đó thắp lên nhằm sưởi ấm cho một người nào đó, y phải bảo vệ những ngọn đèn đó, giữ gìn hơi ấm cho họ, nhưng còn y thì sao? Có ai từng thắp đèn vì y? Có ai bằng lòng đem lại hơi ấm cho y?

Trời mỗi lúc một thêm lạnh buốt, nhưng y tìm mãi chẳng thấy ngọn đèn nào thắp lên vì mình, giữa cuồng phong bão tuyết, tất cả đèn đuốc đều dần dần lụi tắt, bóng đêm và giá rét ập đến, buộc y nếm trải hết thảy tàn khốc và lạnh lẽo trong đời thêm lần nữa.

Lúc mẹ y qua đời, phụ vương từng hứa sẽ chăm lo cho y thật tốt, nhưng từ khi Thường Hy bộ đưa hai chị em như ngọc như ngà tiến cung, phụ vương liền quên bẵng mẹ y, cũng quên luôn lời hứa với bà. Phụ vương càng có thêm nhiều con trai, y càng hiếm khi được gặp Người, hằng ngày y đều phập phồng chờ mong được gặp phụ vương, nhưng đợi hoài đợi mãi, sau cùng chỉ thấy Đại Thường Hy thị, mẹ ruột Yến Long mỉm cười bước ra thông báo: phụ vương chơi với Yến Long và Trung Dung đã mệt, hiện giờ đang nghỉ ngơi, bảo y cứ về trước. Thỉnh thoảng, lúc gọi phụ vương, y đột nhiên lo lắng, chẳng hiểu phụ vương có nhớ ra mình không? Vú già vẫn chăm sóc y từ nhỏ cũng phụng mệnh hai chị em Thường Hy thị hạ độc y, tuy không phải độc dược chết người nhưng dần dần sẽ làm tổn thương tới trí lực, khiến đầu óc y ngày càng sút kém, càng lúc càng ngốc nghếch, tới chừng nào không thể tranh đoạt vương vị với Yến long được nữa. Lòng đầy uất ức, y tưởng phụ vương sẽ làm chủ cho mình, bèn thật thà kể hết với Người, nào ngờ Thường Hy thị làm mình làm mẩy, khóc lóc đòi tự vẫn khiến phụ vương quay quắt lại khiển trách y, mắng y mới mấy tuổi ranh mà đã nham hiểm độc ác, rắp tâm vu vạ cho mẫu phi. Bấy giờ y mới vỡ lẽ, tòa cung điện nơi y sinh ra và lớn lên, từ lâu đã chẳng còn chỗ cho y nữa. Từ đó trở đi, y buộc lòng phiêu bạt giữa nhân gian, gắng gạn lọc lấy chút hơi ấm trong ngọn lửa phừng phừng của lò rèn. Y luôn nỗ lực hoàn thành tốt mọi chuyện, muốn làm một vị vương tử tốt trong lòng dân chúng, làm một đứa con trai ngoan của phụ vương, nhưng những cố gắng của y chỉ đổi lại được thái độ nghi kỵ ngày càng tăng của Người…

Sự lạnh lẽo vô tình trên Ngũ Thần sơn khiến y nghẹt thở.

Lạnh quá đi mất! Trên người, trong lòng đều lạnh ngắt, chẳng tìm nổi chút hơi ấm!

Tại sao không ai thắp cho y một ngọn đèn?

Đột nhiên y trông thấy mẹ mình đứng phía cuối con đường tăm tối, tươi cười vẫy tay gọi y, như thể nói: lại đây con, sà vào lòng mẹ ngủ một giấc đi. Chỉ đợi có vậy, y mỉm cười tiến lại, đi về phía bóng đêm thăm thẳm, về phía giấc ngủ vĩnh hằng.

Từng bước từng bước, khi cả thân hình sắp chìm sâu vào bóng đêm, y chợt thoáng thấy một bóng người quen quen, hơi rượu thơm nức xộc lên cổ họng, chút hơi ấm nhỏ nhoi dần dần nhen nhóm trong lòng.

Y ngỡ ngàng ngoảnh lại, chỉ thấy gió tuyết mịt mù, đất trời tối đen như mực, nhưng dường như xa xa thấp thoáng ánh lửa, có người đang nhen lửa, uống rượu, đợi y.

Thiếu Hạo ngơ ngác nhìn mẹ mình đang đứng cuối con đường tăm tối, rồi lại nhìn sang đốm lửa lập lòe kia, phân vân chẳng biết nên đi về hướng nào.

Chợt y nghe thấy tiếng chân người, bóng một thiếu nữ áo xanh mờ mờ ảo ảo vụt qua, nắm lấy tay y, kéo y đi về phía ánh lửa lập lòe.

Chẳng hiểu sao lòng y bỗng thấy ấm áp lạ lùng, hơn nữa còn dâng lên một niềm kiên quyết, nhất định không được từ bỏ, không thể chết tại Ngu uyên!

Ngu uyên? Ngu uyên là đâu nhỉ?

Y chẳng rõ nữa, chỉ biết chật vật lê bước về phía ngọn lửa lập lòe xa tít đằng kia, càng tiến gần đến ngọn lửa, thân thể y càng lạnh buốt, như thể cả người đã đông cứng thành băng, mấy lần toan dừng lại nhưng hơi rượu thơm lừng cứ vướng vất bên cánh mũi, trong cổ họng, nữ tử áo xanh vẫn nắm chặt tay y, nhen lên chút hơi ấm trong lòng y.

Cuối cùng y cũng trông rõ gã thiếu niên ngồi bên đống lửa cười tươi tắn, còn rạng ngời lóa mắt hơn cả ánh mặt trời chói chang mùa hạ, bên tai Thiếu Hạo chợt nghe sang sảng giọng gã: “Ta họ Hiên Viên.” Đột nhiên, y sực nhớ ra gã thiếu niên có nụ cười khiến người ta phát ghen tỵ ấy, là Thanh Dương! Còn thiếu nữ kéo y đến đây chính là A Hành. A Hành nghiêng đầu cười rồi biến mất, bóng Thanh Dương cũng tan đi trong màn tuyết trắng, chỉ còn hơi ấm ngập đầy lòng y.

Bóng đêm đen kịt trước mặt dần tan biến, vầng dương bắt đầu ló dạng.

Thiếu Hạo khắp mình đầy băng tuyết, đứng ngây như phỗng, lát sau mới từ từ bóc từng khối băng trên người ra, ngẩng đầu nhìn thái dương.

Thì ra đây chính là Sinh kính!

Y vừa ra đời đã mất mẹ, vú già nuôi y khôn lớn lại ngày ngày hạ độc y, các đệ đệ luôn rắp tâm tìm cách hại chết y, y coi phụ vương là người cha thân yêu nhất, nhưng ông lại không coi y là đứa con thân thiết nhất… Dường như trời cao luôn tàn nhẫn ngăn cách y với mọi người, nhưng giờ đây y chợt nhận ra, ông trời đã ban cho y ánh lửa ấm áp mà y luôn khao khát.

Thanh Dương, ta nhất định sẽ cứu được A Hành!

Thiếu Hạo chạy như bay về phia tượng thứ ba của Diệt Ma trận – Ảo kính.

Núi non trùng điệp, đường sá quanh co, bôn ba một hồi, y mới trông thấy hạt châu tít trên vách núi, y đánh bại mấy con yêu thú chặn đường, giao hạt châu cho Thanh Dương rồi cùng nhau nghĩ cách cứu sống A Hành.

Phụ vương cuối cùng cũng nhận ra y thích hợp làm người thừa kế hơn Yến Long, bèn truyền vương vị cho y.

Rốt cuộc y cũng hoàn thành giấc mộng từ thuở nhỏ của mình, trở thành Tuấn Đế, bảo vệ cho từng ngọn đèn lung linh trên sông nước Cao Tân. Y dốc lòng lo cho dân cho nước, xây dựng Cao Tân ngày một thêm tươi đẹp phồn vinh.

Hoàng Đế phát động chiến tranh, đưa đại binh tiến về phía Đông, sau khi đánh bại Thần Nông, cũng hủy luôn giao ước với Cao Tân. Y bèn dẫn binh giao chiến với Hoàng Đế.

Thiên quân dấy động, vạn mã tung vó, y và Thanh Dương gặp nhau trên chiến trường, đành phải động tới binh đao.

Ánh đao bóng kiếm, máu chảy thành sông, như bao lần đánh lộn trước đây, họ bất phân thắng bại. Sau cùng y đứng đối diện với Thanh Dương, thắng thua lần này phụ thuộc vào chính bản thân bọn họ. Có điều lần này không chỉ là tỷ thí để phân định thắng thua, mà là quyết đấu để tranh sinh tử.

Hai người đánh nhau suốt ba ngày ba đêm, thương tích đầy mình, nếu còn dẳng dai nữa, ắt trong quân sẽ sinh biến.

Thiếu Hạo ngưng tụ linh lực toàn thân vào mũi kiếm, đâm thẳng về phía Thanh Dương, Thanh Dương cũng vung kiếm quét qua y.

Y thật sự phải lấy mạng Thanh Dương sao?

Y có thể do dự được ư? Chỉ cần thoáng do dự, y sẽ chết dưới kiếm của Thanh Dương!

Không phải Thanh Dương chết, thì là y chết!

Tròng mắt Thiếu Hạo co rút lại nhưng ngọn kiếm vẫn lấp loáng lạnh người, bổ xuống Thanh Dương.

Đột nhiên, đoàng một tiếng, ánh hồng phủ ngập bầu trời, xua tan tất cả.

Thiếu Hạo đầu bù tóc rối, máu vấy đầy áo, nắm chặt kiếm đâm tới, nhưng trước mặt chẳng thấy một ai, Y sững sờ nhìn thanh kiếm trong tay mình, ngơ ngác không hiểu một kiếm vừa rồi đã chém xuống chưa? Nếu không chém xuống, Thanh Dương có giết y không? Nếu đã chém rồi, vậy…

Thiếu Hạo run lẩy bẩy, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa, y chẳng dám nghĩ tiếp nữa, chỉ biết mừng thầm vì tất cả là ảo ảnh.

Nhưng có thật đó chỉ là ảo ảnh không?

Thiếu Hạo ngẩng đầu nhìn trời cao, mãi một lúc lâu, ánh sáng chói lòa kia mới dần tan biến, mưa tạnh gió ngừng, trận pháp đã bị phá.

Hai người hôn mê bất tỉnh nằm dài trên phiến đá, một người là Xi Vưu, dù ngất lịm vẫn dang tay che chở cho kẻ bên dưới, kẻ kia cả người không một mảnh vải, cuộn tròn lại như đứa trẻ sơ sinh trong lòng Xi Vưu, chính là A Hành.

Thấy A Hành trần truồng, Thiếu Hạo vội quay ngoắt đi, cởi phăng áo ngoài, gọi Xương Phó và Chu Du đứng chờ bên ngoài vào bế nàng ra.

Phát hiện A Hành đang ôm chặt một chú chim, Xương Phó ngạc nhiên hỏi: “Sao lại có con chim ở đây thế?”

Thiếu Hạo không ngoảnh lại, thuận miệng đáp: “Hẳn là con Lang điểu đã chết theo A Hành đấy mà.”

Xương Phó nghe nói chợt sinh lòng kính trọng, bèn nhẹ nhàng gỡ Lang điểu ra khỏi tay A Hành.

Xương Phó và Chu Du vừa mặc xong y phục cho A Hành đã thấy Hoàng Đế xuất hiện, vẻ mặt tái xanh, thần tình nhớn nhác như không tin nổi có người phá được Diệt Ma trận. Bất ngờ bắt gặp Thiếu Hạo, Hoàng Đế sững người hỏi: “Sao con lại ở đây?”

Thiếu Hạo cung kính hành lễ: “Nghe nói A Hành đã sống lại. con tới đón nàng về.”

Hoàng Đế đưa mắt nhìn A Hành, vẻ mặt dần dịu xuống, ông bước lại vén tay áo nàng lên, tìm vết sẹo nơi cánh tay. Đó là vết thương hồi nhỏ của A Hành, để phạt tội nàng ham chơi, Hoàng Đế đã hạ lệnh khắc sâu vết sẹo đó lên người nàng, mãi mãi không thể tẩy xóa. Xác nhận người này đích thực là A Hành, nghĩ lại mối liên minh với Cao Tân lại được củng cố, Hoàng Đế đổi giận làm vui, tươi cười bảo Xương Phó: “Con mau đưa Hành nhi về Triêu Vân phong để mẫu hậu gặp mặt, hẳn bà ấy sẽ khỏe lại ngay.”

Xương Phó băn khoăn nhìn Xi Vưu đang hôn mê rồi lại phân vân nhìn sang Thiếu Hạo, thấy Thiếu Hạo gật đầu tỏ ý mọi chuyện đã có y lo liệu, nàng mới yên tâm ôm A Hành bay về phía Triêu Vân điện.

Hoàng Đế liếc nhìn Xi Vưu đang trọng thương ngất lịm, ánh mắt lóe lên như đã có sẵn tính toán trong lòng. Thấy vậy, Thiếu Hạo ung dung bước tới chắn trước mặt Xi Vưu, mỉm cười hành lễ với Hoàng Đế, “Vừa nãy trên đường tới đây con thấy đại quân Thần Nông đã đóng ngoài biên ải như đang đợi ai đó, còn loáng thoáng nghe thấy mấy tên vô lại Si Mỵ Võng Lương bàn tán cái gì mà nếu không thấy quay về thì cứ xông vào là xong.” Mọi người đều biết thuộc hạ của Xi Vưu toàn những kẻ xuất thân thảo mãng, ngỗ ngược khó thuần, đến Du Võng chúng cũng chẳng coi ra gì, chỉ thần phục một mình Xi Vưu.

Hoàng Đế cười nhạt hỏi: “Con định nán lại đây mấy ngày, hay quay về Cao Tân ngay?”

Thiếu Hạo khom lưng hành lễ: “Con định ở lại mấy hôm.”

Hoàng Đế gật đầu vẻ hài lòng: “Chuyện ở đây đừng tiết lộ với kẻ khác, bất lợi cho A Hành đã đành, còn bất lợi cả cho con nữa.”

Thiếu Hạo lễ phép: “Con hiểu.”

Hoàng Đế vừa đi khỏi, Thiếu Hạo liền sai Chu Du đỡ Xi Vưu dậy, kiểm tra thương thế một lượt, thấy hắn bị thương không nhẹ, lại sợ Hoàng Đế âm thầm giở thủ đoạn, y quyết định tự mình đi một chuyến, “Chúng ta đưa Xi Vưu về Thần Nông trước đã.”

Chu Du thắc mắc: “Điện hạ gặp Si Mỵ Võng Lượng khi nào thế? Tôi cùng điện hạ tới đây, sao tôi chẳng thấy gì cả? Nghe nói bốn người bọn họ là huynh đệ sinh tử, dung mạo giống hệt nhau, tôi luôn muốn gặp mặt xem thử!”

Thiếu Hạo hỏi ngược lại: “Hằng ngày điện hạ nhà ngươi dạy ngươi thế nào?”

“Hỏi ít, làm nhiều.”

Nghe vậy Thiếu Hạo nhìn Chu Du cười không đáp. Bất giác, Chu Du cảm thấy tuy Thiếu Hạo tươi cười hòa nhã, nhưng ánh mắt sắc lạnh chẳng kém Thanh Dương, đành nuốt hết bao thắc mắc vào lòng.

Một tháng sau A Hành mới tỉnh lại, nhưng người tuy tỉnh mà thần trí vẫn ở đâu đâu, cả ngày chỉ ngây người, chẳng nói chẳng rắng, hệt như một pho tượng vô tri vô giác.

Trước tình cảnh đó, Thanh Dương vẫn thờ ơ lạnh lùng, chẳng rõ trong lòng y nghĩ gì, chỉ thấy y sai Chu Du đi khắp nơi kiếm linh đan diệu dược, tìm đủ cách điều dưỡng cho A Hành.

Trái với Thanh Dương, Xương Ý ngày ngày kề cận bên A Hành, dắt nàng đi khắp mọi nơi mà bọn họ từng chơi đùa hồi nhỏ, hy vọng có thể khơi gợi quá khứ của nàng.

Có điều A Hành một mực làm thinh không nói, cũng chẳng hề để lộ chút sinh khí. Xương Ý vẫn vô cùng kiên nhẫn, nàng làm thinh cả ngày thì y một mình lải nhải cả ngày, kể lể hết mọi chuyện khi xưa cho nàng nghe.

Ngày qua ngày, Xương Ý cứ kiên trì nhẫn lại, còn A Hành vẫn ngây ngô như cũ.

Một hôm A Hành ngồi như tượng gỗ trong sân, cúi đầu đờ đẫn ngắm ngón chân mình, như đang say ngủ, lại tựa hồ trầm tư.

Xương Phó ngồi xuống bên cạnh, nàng cũng chẳng buồn ngẩng lên.

“Lần đầu tiên ta gặp Xương Ý là khi chàng tới Nhược Thủy nhậm chức. Nghe trưởng lão trong tộc thông báo vương tử của Hiên Viên tộc sắp tới, dặn bọn ta không được gây chuyện, ta rất ấm ức, người Nhược Thủy bọn ta tự tại đã quen, cớ gì phải nghe người ta sai khiến? Cuối cùng ta bèn cải trang đi nghênh tiếp gã vương tử đó. Dọc đường, ta hoạnh họe làm nhục Xương Ý vô số lần nhưng chàng chẳng hề tức giận, ngược lại ta dần dần bị cảm hóa bởi tấm lòng và khí phách của chàng. Quen biết chàng từng ấy năm, ta chưa hề thấy chàng giận dữ, lần đầu tiên chứng kiến chàng nổi cơn thịnh nộ là vì muội. Hai trăm năm trước, chàng cùng ta lên đến Thần Nông, chỉ trong một đêm ám sát mười tám viên Thần tướng của chúng, khiến phụ vương nổi giận lôi đình, giam chàng vào Hỏa ngục. Đối với kẻ tu luyện mộc linh, bị giam vào Hỏa ngục chính là cực hình sống không bằng chết, phụ vương nói hễ chàng nhận lỗi sẽ lập tức thả ra, nhưng suốt một năm trời, chàng thà chịu giày vò hành hạ đến nỗi chỉ còn da bọc xương cũng quyết không nhận lỗi, sau cùng phụ vương đành bó tay, vừa mắng mỏ chàng cứng đầu cố chấp, vừa bất lực thả chàng ra…”

Xương Phó cứ thế rủ rỉ chuyện trò, thuật lại những chuyện xoay quanh Xương Ý suốt hai trăm năm qua, y đau buồn ra sao, y oán giận Thanh Dương nhường nào, khi phát hiện ma châu y đã mừng đến thế nào, rồi để cứu A Hành, y và Thanh Dương suýt nữa đã cạn kiệt linh lực tinh huyết mà chết.

Hoàng Đế và Luy Tổ đã có mật chỉ, Thanh Dương và Xương Ý lại kín miệng như bưng nên chẳng mấy ai biết tới chuyện ma châu, ngay cả A Hành cũng mãi đến giờ mới biết, hóa ra nàng khó khăn lắm mới có thể tỉnh lại.

Xương Phó vuốt tóc A Hành, “Tiểu muội à, đối với muội thì chỉ là một giấc ngủ, có lẽ muội còn tiếc nuối sao thức dậy quá mau, khiến nỗi đau trong lòng muội chưa kịp tiêu tan, nhưng đối với Tứ ca muội đã là hai trăm năm rồi đó! Dù muội đã quên hết mọi chuyện trong quá khứ nhưng trái tim muội vẫn là máu thịt, nhất định có thể cảm nhận được những đau buồn của Xương Ý, ta xin muội đấy, đừng làm Tứ ca muội buồn thêm nữa. Đã hai trăm năm rồi ta chưa hề thấy chàng cười, chỉ mình muội mới có thể trả lại cho chàng nụ cười thực sự mà thôi.”

Xương Ý xách một chú cá lại gần, thấy thê tử và muội muội cùng ngồi dưới gốc phượng hoàng hóng mát liền cười hỏi: “Nàng nói gì với tiểu muội thế?”

Xương Phó cười đáp: “Có gì đâu.”

Xương Ý giơ cá lên khoe với A Hành, “Tối nay ăn cá nhé?”

Thấy A Hành vẫn ngây ra như phỗng, chẳng nói chẳng rằng, Xương Ý cũng đã quen, đành tự trả lời: “Ta đưa cá tới nhà bếp rồi quay lại với muội.”

“Dâu lạnh.”

Giọng nói rất khẽ vang lên sau lưng khiến Xương Ý đột ngột quay ngoắt lại, vẻ mặt đầy kích động: “Muội bảo gì cơ?”

A Hành đưa mắt nhìn cây dâu, vẻ mặt vẫn đờ đẫn, chỉ có giọng nói là rành rọt: “Dâu lạnh, muội muốn ăn dâu lạnh.”

Xương Ý mừng rỡ như điên, quăng luôn cả cá đi, gào lên gọi lớn: “Mẫu hậu, mẫu hậu! Đại ca, Đại ca! Mọi người mau ra đây, A Hành đòi ăn dâu lạnh này!”

Luy Tổ và Thanh Dương cuống quýt chạy ra, Xương Ý ngồi xuống bên A Hành dè dặt hỏi, như chưa dám tin rằng nàng đã thật sự tỉnh lại: “Muội nói lại xem, muội thích ăn gì nào?”

Luy Tổ và Thanh Dương đăm đăm nhìn nàng đầy mong đợi, nhưng A Hành chỉ trân trân dán mắt vào cây dâu, khẽ đáp: “Dâu lạnh.”

Nghe nàng nói, Luy Tổ mừng mừng tủi tủi, miệng cười mà nước mắt rưng rưng. Thanh Dương vẫn giữ gương mặt thản nhiên, chẳng nói một lời, chỉ phất tay giáng tuyết, có điều lòng y đang xúc động khôn cùng, linh khí bất ổn, băng tuyết lại hóa ra mưa đá lộp độp đổ xuống, khiến mọi người trở tay không kịp.

Hết chương 19.

Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 5-7-2014 10:34 AM
Chương 20


Trời dẫu có già, tình chẳng đổi .


20.1


Đối với đàn ông, dù là kẻ bình phàm hay người vĩ đại đều hạnh phúc vô vàn khi thấy bản thân có thể đem lại nụ cười cho người mình yêu thương nhất, hạnh phúc ấy nồng nàn tới nỗi trở thành niềm kiêu hãnh của anh ta. Công danh lợi lộc có đáng gì đâu chứ? Có thể đem lại nụ cười thật sự cho một người mới là việc khó nhất trên đời!


Xi Vưu bi thương nhìn hai bóng người tựa vào nhau trên vách núi.

Lúc này hai đại cao thủ Thanh Dương, Thiếu Hạo đều có mặt trên Triêu Vân phong, nếu đổi lại là kẻ khác, bản thân đang trọng thương chưa khỏi, ắt sẽ thấy khó mà lui, từ từ tìm phương cách khác, nhưng tính tình Xi Vưu xưa nay chỉ biết lao thẳng tới trước, đời nào chịu chừa chỗ quay đầu.

Vẻ bi thương trong mắt hắn dần chuyển thành tàn nhẫn, hắn đột ngột túm lấy dây leo tung người đu lên, vung đao chém về phía Thiếu Hạo.

Bị bất ngờ không kịp phòng vệ, Thiếu Hạo vội dốc hết linh lực toan đẩy lùi đối phương, nào ngờ vừa lấy cứng chọi cứng, y kinh hãi thấy mình bị chấn động tê rần nửa người, trong khi kẻ kia vẫn vững vàng, chẳng lùi nửa bước.

Tay trái Xi Vưu vung đao chắn ngang ngực, tay phải túm lấy A Hành cười ha hả, “Thiếu Hạo, bao năm nay ngươi chẳng tiến bộ gì cả!”

Nhận ra Xi Vưu, biết y nhất định không hại A Hành, Thiếu Hạo cũng yên tâm phần nào. Tay phải y cầm một thanh thủy kiếm long lanh, cười nhạt, “Tướng quân tiến bộ nhanh quá, chắc không lo bị ta đánh rớt xuống nước nữa đâu.”

Xi Vưu chẳng hề dao động trước lời mai mỉa của Thiếu Hạo, nhơn nhơn cười đáp, “Thế nên lần này ta phải đem A Hành đi.” Nói rồi hắn kéo A Hành toan bỏ chạy, nào ngờ tay trái Thiếu Hạo vẫn nắm chặt tay A Hành, chưa từng lơi lỏng.

Thiếu Hạo vung thủy kiếm đâm thẳng vào Xi Vưu, Xi Vưu chẳng dám khinh địch, vội quay quắt lại trả đòn, cả hai đang nắm tay A Hành, đều sợ làm nàng bị thương, bởi thế đôi bên cùng thu liễm linh lực, chiêu thức chỉ chạm tới là ngừng, bỗng dưng ba người tạo thành một vòng tròn nho nhỏ, bên trong lấp loáng ánh đao kiếm.

A Hành bị kéo nghiêng bên phải rồi ngả bên trái, lại bất ngờ chạm mặt Xi Vưu, khó tránh tâm tình kích động, không khống chế được linh lực, cả người nóng rãy lên, đến nỗi hai đại cao thủ như Thiếu Hạo và Xi Vưu cũng chẳng chịu nổi, theo phản xạ đều rụt phắt tay về, buông nàng ra.

Thiếu Hạo và Xi Vưu trợn mắt nhìn hoa cỏ héo quắt dưới chân A Hành, lại nhìn sang đám dây leo trên vách đá đang úa dần trước sức nóng của nàng, lòng đầy kinh ngạc: A Hành vốn tu luyện mộc linh, sao có thể hủy diệt linh khí của thảo mộc được?

Thấy vẻ bàng hoàng trong mắt hai người, A Hành không khỏi ngượng ngùng, liền lùi lại, lạnh lùng nói: “Các người thấy rồi đấy, ta không còn là A Hành khi trước nữa rồi.”

Mặc Thiếu Hạo trầm tư tìm căn nguyên mọi chuyện trước mắt, Xi Vưu chỉ một mực quan tâm tới A Hành, thây kệ tất cả, thấy nàng đang đứng bên vách núi, hắn liền bật cười đắc ý, nhào tới.

Thiếu Hạo lập tức vung quyền, một con rồng trắng khổng lồ đâm bổ vào Xi Vưu, toan đánh dạt hắn ra, nhưng Xi Vưu chẳng buồn tránh né, liều mạng ôm chặt lấy A Hành, mặc cho nó lao tới.

Con rồng húc mạnh vào lưng Xi Vưu, đẩy hắn rớt xuống vách núi, cả A Hành cũng rớt xuống theo.

“Á!!!!!!!!!!”

A Hành thét lên, níu chặt lấy Xi Vưu theo phản xạ, gió rít ù ù bên tai nàng, mai tóc nàng xõa tung, vướng cả tầm mắt.

Trong khoảnh khắc đó, hai người cùng rơi thẳng xuống vách đá cao vạn trượng hệt một ánh sao sa, sinh mệnh họ đã gắn liền với nhau, thế giới của nàng chỉ còn lại mình hắn, nàng không thể không dựa vào hắn.

A Hành trừng mắt nhìn Xi Vưu đầy oán hận: “Buông ta ra!”

Sau lưng vừa trúng một chưởng của Thiếu Hạo, trước ngực còn phải ôm A Hành nóng như hòn than, Xi Vưu nghiến răng ken két vì đau đớn nhưng vẫn không thôi cợt nhả: “Ta không buông đấy, cô có giết ta ta cũng không buông!”

Thấy A Hành rớt xuống vách núi, Thiếu Hạo lập tức nhảy lên lưng Huyền điểu đuổi theo.

Mắt thấy Xi Vưu và A Hành sắp rơi xuống đất tan xương nát thịt, đột nhiên Xi Vưu huýt lên lanh lảnh, Tiêu Dao từ đáy sơn cốc bay vù lên, đỡ lấy hai người, lượn quanh một vòng rồi bay vút đi, Xi Vưu phá lên cười đắc ý, nhanh miệng làm mặt quỷ trêu y.

Tiêu Dao vừa vỗ cánh đã bay vụt đi, Huyền điểu không cách nào đuổi kịp, Thiếu Hạo chỉ còn biết ngây người nhìn bầu trời thăm thẳm, gió đêm lành lạnh xua mây núi sương khe tụ tụ tan tan, hơi ấm của A Hành còn vương vấn nơi đầu ngón tay, vậy mà y lại để nàng tuột khỏi mình lần nữa.

Tâm tư Thiếu Hạo rối như tơ vò, y thừa sức phái thủ hạ đi khắp nơi tìm kiếm A Hành, nhưng y dám làm thế ư? Giữa muôn mối bi thương ngổn ngang trong lòng, y lại thấy có phần ngưỡng mộ Xi Vưu. Dường như tất cả nam nhân trên đời này đều khao khát được ngông cuồng phóng túng, thả sức làm theo ý mình, bất chấp ánh mắt người đời như hắn đây?

Tiêu Dao bay nhanh hơn hai trăm năm trước nhiều, chưa tới một tuần trà, bọn họ đã tiến vào địa giới Thần Nông, Tiêu Dao cũng dần dần chậm lại, sà xuống, cuối cùng dừng ở Cửu Lê.

“Buông ta ra!” A Hành vùng vẫy kịch liệt, chỉ mong thoát khỏi Xi Vưu.

Hắn liền nhanh nhẹn rút ra một sợi gân rồng, cột chết tay trái mình lại với tay phải nàng, kiên quyết nói: “Khi nào cô nhớ lại mọi chuyện về ta ta mới cởi dây.”

A Hành giận dữ quát lên: “Nếu cả đời không nhớ ra thì sao?”

“Thì hai ta cứ như vậy cả đời.”

Nói rồi hắn lôi xềnh xệch nàng đi.

Giữa chốn rừng sâu núi thẳm xa cách hồng trần này, dường như hai trăm năm đằng đẵng chẳng là gì cả, mọi thứ vẫn y hệt khi xưa.

Căn nhà bên bụi trúc phượng vĩ vẫn chẳng hề thay đổi, mấy chú chim nhỏ ríu ran nhảy nhót ngoài lan can.

Tế Thiên đài bằng đá trắng vẫn được đám vu sư ngày ngày bảo hộ, thanh khiết như mới, chẳng vướng bụi trần, những chiếc chuông gió bằng xương thú treo quanh đó, cái trắng toát, cái ngả vàng, mỗi khi có gió lại tinh tang khe khẽ.

Xung quanh đài tế trồng rặt những đào, lá xanh mơn mởn. Hai trăm năm trước, nơi này chưa nhiều đào như bây giờ, xem ra những gốc đào ở đây đa phần mới được trồng trong khoảng hai trăm năm nay.

Xi Vưu đẩy cửa nhà sàn, kéo nàng lên lan can, “Còn nhớ chỗ này không?”

A Hành đáp lạnh băng: “Không nhớ!”

Hắn lại chỉ những gốc đào trên núi hỏi: “Nhớ nơi đó không?”

“Không nhớ!”

Xi Vưu ôm lấy nàng nhảy xuống nhà sàn, cùng thả bộ giữa rừng đào, “Nhớ ra được chút gì chưa? Chúng ta từng hẹn ước với nhau, dù ở chân trời góc biển nào, hằng năm mỗi khi hoa đào nở rộ sẽ gặp nhau dưới cội đào, không gặp không về.”

Nhìn hoa đào nở rợp trời, A Hành thoáng trầm ngâm nghĩ ngợi, thấy vậy, ánh mắt Xi Vưu lại sáng lên hy vọng.

Đột nhiên, A Hành cười hững hờ, “Ta sực nhớ ra lần đầu gặp Thiếu Hạo cũng là dưới cội hoa đào, hôm đó là tết thả đèn của Cao Tân, y đưa ta đi ngắm song đèn, chúng ta cùng cưỡi trên lưng Huyền điểu, từ trên không nhìn xuống, cả Cao Tân giăng kín muôn ngàn ánh sao, đẹp vô cùng!”

Xi Vưu cau mặt, siết chặt lấy tay nàng, khiến A Hành phát bực, “Ngươi đừng phí thời gian nữa, đã bảo quên là quên rồi mà.”

Hắn lại kéo nàng tới một gốc đào cổ thụ, “Còn nhớ chỗ này không?”

A Hành chán ngán đưa mắt nhìn, “Chỉ lớn hơn những gốc đào khác thôi mà, có gì lạ đâu.”

Xi Vưu cầm tay nàng sờ lên những hàng chữ trên thân cây, “Thế còn những chữ này?”

A Hành lạnh nhạt liếc qua, cười khẩy, “Viết bao nhiêu chữ Xi Vưu đó làm gì? Là A Hành khi trước viết phải không? Cô ta rỗi việc quá nhỉ?”

“Chúng ta hẹn gặp nhau dưới cội hoa đào, không gặp không về, nhưng ta đã thất hẹn. Lần thứ nhất, vì Viêm Đế qua đời đúng hôm đó, Vân Tang ra lệnh phong tỏa Thần Nông sơn nên ta không tới được; lần thứ hai, ta giận cô kết hôn cùng Thiếu Hạo, cho rằng cô đã thay lòng, sau khi nhận được tấm áo cô gửi, tuy hiểu rõ lòng cô, nhưng lại giận cô lăng nhăng ong bướm. Thực ra về sau ta cũng có tới, thấy tấm áo rơi xuống đất, ta lại nhặt đem về.” Xi Vưu ấn mạnh tay A Hành lên những dòng chữ vạch bằng trâm ngọc, “Cô mắng đúng lắm, ‘Đã không giữ lời, sao còn hứa hẹn?’, ý nghĩa của lời hẹn ước chính là, dẫu biết không thể thực hiện, không thực hiện được, cũng phải liều mạng mà thực hiện.”

Xi Vưu lại cầm lấy những ngón tay lạnh buốt, cứng đờ của A Hành đặt lên ngực mình, “Đời này kiếp này, nhất định sẽ không có lần thứ ba đâu!”

A Hành vùng ra khỏi tay hắn, lạnh lùng, “Nếu cần lời thề của đàn ông, ta cũng tự biết đi tìm Thiếu Hạo chồng mình, không đến phiên ngươi nhúng vào.”

Xi Vưu sa sầm mặt đứng lặng giây lát rồi dắt A Hành đi tiếp, vừa đi vừa ngắm cảnh vật xung quanh, đi mãi đến tế đài, hắn mới kéo nàng ngồi xuống, “Hai trăm năm không gặp, cô không muốn biết những năm qua ta đã làm gì ư?”

A Hành thấy nực cười, “Đến ngươi ta còn chẳng nhớ, hơi đâu quan tâm mấy chuyện đó làm gì?”

Xi Vưu rầu rĩ nhìn nàng, nhưng A Hành chỉ cúi đầu giật mạnh sợi gân rồng, toan cởi ra.

Rừng đào bát ngát trải dài trước mắt bọn họ, mỗi khi gió thổi qua, muôn ngàn đọt lá non lại xao xác lên như những làn sóng biếc, hòa cùng tiếng ngân nga của bao chiếc chuông gió quanh tế đài.

Tinh tang, tinh tang…

Âm thanh trong trẻo ngân dài, càng làm tổn lên vẻ tĩnh mịch của núi rừng.

Trầm mặc hồi lâu, Xi Vưu đột nhiên cất tiếng, giọng trầm buồn, “Vu vương cô từng quen đã mất từ lâu, Mê Đóa và Kim Đan cũng đi rồi, lúc về già, Mê Đóa luôn muốn gặp lại cô, còn nói chẳng mong điều gì, chỉ muốn được nấu một bữa cơm cho cô. Cô ta hết lần này sang lần khác vặn vẹo hỏi cô đang ở đâu, ta chỉ biết im lặng. Mê Đóa còn nhớ cô thích Ca tửu, năm nào cũng dùng vò đá ủ một vò ngon nhất chôn dưới gốc đào, mấy chục cây đào quanh đây, dưới gốc đều chon một vò rượu của Mê Đóa ủ cho cô. Đến lúc già khọm, mắt lòa cả rồi, cô ta vẫn gắng gượng ủ nốt cho cô một vò rượu.”

Chẳng hiểu sao bàn tay đang cố tháo gân rồng của A Hành chợt khựng lại, nàng trân trân nhìn rừng đào phía trước, cắn môi im lặng.

“Mấy chục năm đầu, cứ mỗi tháng Tư, khi đến Cửu Lê, ta đều quây quần uống rượu với hai người họ, Kim Đan theo ta đi trồng đào, còn Mê Đóa chôn rượu xuống gốc cây, ta thích nghe bọn họ kể chuyện về cô, như thế dường như cô vẫn còn ở bên bọn ta vậy. Về sau họ lần lượt qua đời cả, chỉ còn trơ lại mình ta, trong vô vàn đêm trằn trọc mất ngủ, ta mới thật sự thấu hiểu cảm giác của sư phụ năm xưa, thời gian đằng đẵng chính là hình phạt tàn khốc nhất, đến nỗi rất nhiều lần ta phải phá lên cười, thấy mình thật đáng kiếp!”

Xi Vưu cúi gằm mặt xuống nên A Hành không trông rõ vẻ mặt hắn, chỉ thấy tóc mai hắn đã bạc trắng, trái hẳn với tuổi tác và thần lực. Nàng khẽ thở dài, dịu dàng an ủi, “Dù sao ta cũng quên cả rồi, ngươi đừng để trong lòng nữa, cứ coi như ta chưa từng sống lại, quên ta đi!” Vừa khuyên giải, nàng vừa lặng lẽ tháo sợi gân rồng ra.

Xi Vưu trầm giọng hỏi: “Phải làm thế nào cô mới tha thứ cho ta?”

A Hành thình lình bật dậy chạy thẳng, “Để ta bắt đầu lại cuộc sống từ đầu, ta sẽ tha thứ cho ngươi.”

Xi Vưu phản ứng cực nhanh, lập tức đuổi theo, sau cùng cũng bắt được nàng trong rừng đào, mặc cho A Hành vừa đánh đập vừa mắng mỏ: “Ta đã quên hết rồi, ta muốn làm lại từ đầu, ta phải làm lại từ đầu!”

Xi Vưu rầu rĩ đứng lặng nhìn A Hành rồi đột nhiên xốc nàng lên vai, nhảy lên lưng Tiêu Dao, “Được, ta sẽ để cô bắt đầu lại!”

Mặc A Hành liên tục giãy giụa đấm đá đòi thả ra, Xi Vưu vẫn trơ như phỗng, cưỡi Tiêu Dao lao đi vun vút.

Chỉ lát sau, Tiêu Dao đã đổ xuống một bãi hoang, Xi Vưu đặt ngay A Hành xuống, hệt như gieo một cây mạ. Chỉ đợi có thế, nàng liền quay người chạy vụt đi.

Xi Vưu tựa vào Tiêu Dao, ung dung cười, “Cô chạy đi, cô cứ chạy ta lại đi bắt lại, thử xem cô chạy nhanh hay ta bắt nhanh nào.”

A Hành dừng phắt lại, vừa bất lực vừa giận dữ ngoảnh đầu quát: “Rốt cuộc ngươi muốn gì đây?”

“Chẳng phải cô muốn bắt đầu lại ư? Chúng ta cùng bắt đầu lại!”

A Hành lia lịa chắp tay hành lễ với Xi Vưu, gần như van vỉ: “Xi Vưu, Xi Vưu Đại tướng quân, ngài đường đường là Đại tướng một nước, cớ sao ta đã quên rồi mà ngài vẫn bám dai như đỉa thế? Thật không bằng cả phường vô lại!”

Xi Vưu vẫn tựa vào Tiêu Dao, khoanh tay nhe nhởn cười, “Ta bám dai như đỉa đấy thì sao? Ta vô lại đấy, làm sao nào?”

A Hành tức đến xịt khói lỗ tai, chửi toáng lên, “Đồ khốn nạn, quân cầm thú, tên khốn chẳng bằng cầm thú, lòng lang dạ sói…”

Xi Vưu cười tít mắt, vừa nghe vừa bình luận, “Câu ‘không bằng cầm thú’ chửi hay lắm, cầm thú bì sao được với ta, thấy ta, chúng vắt giò lên cổ chạy còn không kịp nữa là! Lòng lang dạ sói, chà chà…” Xi Vưu tặc lưỡi, lắc đầu, “Không hay, không hay! Nhẹ nhàng quá! Cô mau nghĩ ra con gì ác độc hơn làm ví dụ đi…”

A Hành tức run cả người, nói lý không được, chửi bới không xong, cơn giận bốc lên đầu, nàng liền xắn tay áo lao vào đánh nhau!

Mây cuộn lửa phừng phừng lao vào Xi Vưu, hắn ù té chạy, nàng tức tốc đuổi theo, đôi bên cứ thế chạy lòng vòng rồi lạc vào một tòa thành. Dường như hôm nay trong thành là ngày tết, người qua kẻ lại nô nức trên đường, xôn xao cười nói.

Thấy một thiếu nữ mảnh mai hộc tốc đuổi theo một gã trai cao lớn, vài ba kẻ thương hương tiếc ngọc chợt nổi máu anh hùng, rào rào ném gạch đá rau quả về phía Xi Vưu nhằm cản hắn lại.

Xi Vưu luồn lách trốn giữa đám đông, mỗi lần sắp bị A Hành đánh trúng, hắn lại lẩn đi như trạch, khiến A Hành càng thêm tức giận, bất chấp mọi thứ để bắt hắn.

Xi Vưu vừa chạy vừa hét: “Vợ yêu, ta biết lần này ta sai rồi, là ta làm cô đau lòng, lần sau ta không dám thế nữa đâu, ta nhất định sẽ tin tưởng cô, tôn trọng cô, yêu thương cô, bảo vệ cô… Ta không tin những gì trông thấy, cũng không tin những gì nghe được, ta chỉ tin những gì ta cảm nhận được thôi! Vợ yêu, tha thứ cho ta một lần đi, chỉ một lần này thôi mà…”

Tưởng họ là đôi vợ chồng son đang giận dỗi, mọi người xung quanh cười rộ lên, ra sức khuyên ngăn.

Thấy vậy A Hành đỏ bừng mặt, chẳng hiểu vì giận hay vì thẹn, hai mắt mọng lên chực khóc, nàng tức tối giậm chân gào lên với Xi Vưu: “Ta là vợ Thiếu Hạo, không phải vợ ngươi!”

Xi Vưu dừng bước quay phắt lại nhìn nàng, vừa buồn vừa giận, đanh giọng: “Y đừng hòng!”

Nhìn dáng vẻ căm tức của hắn, cơn giận trong lòng nàng cũng tiêu tan, liền cười nói: “Miễn ta bằng lòng là được! Ngươi đừng chõ vào!”

Xi Vưu càng cau có, A Hành càng thích chí, nàng chẳng thèm đánh nhau với hắn nữa, quay đầu chạy thẳng.

Xi Vưu lặng lẽ nhìn theo bóng nàng, cố nén cơn giận trong lòng, ngưng tụ linh lực.

Phía Nam đột ngột vang lên mấy tiếng ầm ì như sấm dậy, tựa hồ có thứ gì đó sắp bùng nổ, sắc đỏ bốc lên ngút trời, chân trời phía đó thoắt chốc chìm trong biển lửa, ánh lửa bao phủ toàn thành.

Mọi người trong thành đều nín thinh, trợn tròn mắt nhìn về phía Nam, bầu không khí bỗng chốc lặng phắc, hệt một tòa thành chết. Hồi lâu, một ông lão chợt giơ hai tay lên trời gào khóc: “Trời ơi, sơn thần trên Bác Phụ sơn lại nổi giận rồi!”

Nam phụ lão ấu thảy đều quỳ rạp xuống, dập đầu lạy Bác Phụ sơn, khóc lóc xin sơn thần bớt giận, đột nhiên, một kẻ buột miệng: “Chúng ta đi cầu khẩn Tây Lăng nương nương.” Mọi người nghe nói liền rào lên phụ họa, họ xúm lại thành một đoàn, cứ đi một bước lại quỳ một bước, tiến về phía đài tế ở ngoài thành.

A Hành hoảng hốt nhìn quanh, thì ra đâu chính là Bác Phụ quốc, hèn chi nàng cứ thấy quen quen.

Ngọn lửa đỏ rực cuối trời che phủ cả ngàn sao, làm lu mờ cả ánh đèn, khắp đường lớn ngõ nhỏ đều chìm trong ánh lửa mịt mù, Xi Vưu khoác tấm áo đỏ rực, đứng sừng sững ngay giữa đường, bất động, đầu đội trời chân đạp đất, như chẳng coi vạn vật thế gian vào đâu cả, càng không quan tâm bất cứ thứ gì.

A Hành kinh hãi nhìn hắn: “Ngươi điên rồi à!”

Xi Vưu cười đáp: “Hai trăm bảy mươi năm trước, từng có một cô gái tên gọi Tây Lăng Hành đã hủy lò luyện công của Chúc Dung, cứu cả Bác Phụ quốc, đến nay khắp nơi trên Bác Phụ quốc đều có tế đàn thờ phụng Tây Lăng Hành, hôm nay chính là tết Dập Lửa cầu chúc Tây Lăng nương nương. Hai trăm bảy mươi năm sau, đến lượt Xi Vưu này châm lửa đốt Bác Phụ sơn, nếu cô muốn đi thì cứ đi đi, mặc cho lửa cháy, để ta xem giờ đây kẻ nào trong thiên hạ dám dập lò lửa của Xi Vưu?” Hai trăm năm nay tại Thần Nông quốc, dưới bàn tay sắt đá, thủ đoạn tàn bạo của hắn, cái tên Xi Vưu đã được đánh đồng với tử vong, chẳng ai dám chống lại.

A Hành trân trân nhìn ngọn lửa đỏ rực cuối trời.

Tiếng khóc trẻ nhỏ, tiếng mọi người rì rầm dập đầu cầu khẩn cứ vang vọng bên tai.

Lát sau, nàng chạy vụt về phía đám lửa.

Xi Vưu lặng lẽ theo sau nàng, chỉ cần hắn chưa muốn buông tay, bất kể mệnh trời ra sao, hắn cũng dốc sức khắc phục. A Hành muốn bắt đầu lại thì cứ bắt đầu lại đi! Nhưng không phải bắt đầu lại với Thiếu Hạo, mà bắt đầu lại từ nơi hai người họ quen nhau!

Lửa cháy ngút trời, dưới Bác Phụ sơn đầy rẫy những luồng khí nóng rực và dung nham bỏng rãy.

A Hành thận trọng dò từng bước, đột nhiên sau lưng vang lên một tiếng rên rỉ khiến bước chân nàng chợt khựng lại. Nàng chẳng ngoảnh đầu nhưng cũng chẳng dám đi tiếp nữa, bèn dè dặt lùi mấy bước. Thình lình “đoàng” một tiếng, luồng khí nóng từ dưới đất bừng lên, nổ tung tất cả đất đá xung quanh.

Sau lưng vang lên tiếng cười của Xi Vưu, “Vợ yêu, sao cô lại dừng?”

A Hành nghiến răng ken két vì giận, chỉ muốn bỏ đi ngay lập tức, mãi mãi không gặp lại gã Xi Vưu này nữa, nhưng hắn vốn là kẻ nói được làm được, nếu hôm nay nàng đi, lửa trên Bác Phụ sơn này ắt sẽ chẳng bao giờ tắt.

A Hành tiếp tục đi, còn Xi Vưu đằng sau tiếp tục cười đùa cợt nhả, liến thoắng gọi nàng “vợ yêu” này, “vợ yêu” nọ. Đầy một bụng tức tối không biết trút vào đâu, nàng đành nghiến răng làm thinh.

Đi đến một vũng lầy, A Hành lội thẳng xuống, sau lưng nghe tiếng ho khù khụ của Xi Vưu.

Thấy hắn ho, nàng khoái chí cười nhạt, càng dần bước nhanh hơn, chẳng buồn ngó ngàng tới hắn.

Muôn vàn bọt khí vàng ệch đem theo hơi độc trong lòng đất ùng ục nổi lên, Xi Vưu càng lúc càng ho rũ rượi nhưng A Hành cứ tảng lờ, đắc ý nghênh ngang đi tiếp.

“Ài, ta quên khuấy đi mất, vợ yêu đã đọc Thần Nông Bản Thảo Kinh, đâu có coi chất độc này ra gì? Xem ra cô nhớ kỹ mấy thứ ông già kia dạy nhỉ!” Tiếng cười vang lên từ phía sau.

A Hành giận dữ siết chặt nắm tay như muốn bóp chết chính mình, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, nàng đành gân cổ vặc lại: “Ta vốn có chuyện nhớ chuyện quên, lạ lắm à?”

Thân thể hiện giờ của A Hành được hoài thai tạo Ngu uyên, sinh ra ở Thang cốc nên chẳng hề sợ lửa, nàng đi thoăn thoắt, chẳng bao lâu đã tới dưới chân Bác Phụ sơn, chỉ mất phân nửa thời gian so với trước đây.

Thấy nàng bắt đầu trèo lên núi, Xi Vưu lếch thếch chạy theo, vừa chạy vừa rên rầm, “Vợ yêu, cô đi từ từ thôi, ta đau quá, không trèo nổi đâu.”

A Hành tảng lờ hắn, nhưng trong bụng rủa thầm, “Vờ vịt! Ngươi cứ vờ vịt tới chết luôn đi!”

Mấy quả cầu lửa bay xuống, A Hành chẳng buồn né tránh, chỉ phẩy tay nhẹ nhàng gạt chúng ra. Đột nhiên sau lưng nàng vang lên tiếng hét thảm thiết, A Hành nhịn không nổi, cười nhạt giễu, “Đại tướng quân, ngài vờ vĩnh suốt cả chặng đường không mệt sao?”

“Vợ yêu, cứu ta với…”

A Hành ngán ngẩm lắc đầu, tiếp tục đi.

Đi mãi một hồi lâu, sau lưng nàng vẫn im ắng như tờ.


Tác giả: SupiaSup    Thời gian: 5-7-2014 10:37 AM
Chương 20


Trời dẫu có già, tình chẳng đổi .


20.2



Dọc đường Xi Vưu không liến thoắng chọc ghẹo A Hành thì cũng rên rẩm kêu đau, khiến nàng vừa bực vừa tức, nhưng nãy giờ chẳng thấy hắn lên tiếng, nàng lại cảm thấy có gì thiêu thiếu.

“Xi Vưu, ngươi chán vờ vịt rồi à?”

Không nghe tiếng đáp, A Hành bỗng thấp thỏm, chẳng hiểu tên Xi Vưu này lại bày quỷ kế gì! Dù sao, nàng cũng nhủ lòng sẽ không mắc lỡm hắn.

Nhẫn nhịn hồi lâu, sau cùng A Hành đành mượn cớ vén vạt váy để khom người xuống, lén liếc ra sau, nhưng Xi Vưu đã biến mất!

Nàng vội quay ngoắt lại nhìn quanh, chỉ thấy rợp trời lửa đỏ, nào đâu kẻ vận hồng bào ngông nghênh đáng ghét kia.

A Hành vội vã vòng lại, trông thấy Xi Vưu ngất lịm bên đường, cả người đầy bùn đất, may có tảng đá gồ lên chặn lại, bằng không ắt đã lăn xuống vực.

Nàng cau mày bực bội, “Này, ngươi đừng làm bộ nữa được không?”

Bốn bề im ắng.

A Hành do dự lại gần kiểm tra thân thể hắn, mới phát hiện ra Xi Vưu quả thật bị trọng thương chứ chẳng phải giả vờ.

Trong Diệt Ma trận, hắn từng bị thương rất nặng, vẫn chưa khỏi hẳn, vì tranh đoạt A Hành mà hứng chịu một chưởng của Thiếu Hạo, chưa kịp điều tức đã phải cưỡi Tiêu Dao bay khắp nơi, còn bất chấp thương thế, gắng ngưng tụ linh lực thiêu cháy Bác Phụ sơn. Dọc đường hắn vẫn cố gượng duy trì, gắng chịu đau, mãi đến khi sức tàn lực kiệt, không sao chịu nổi nữa mới ngất lịm đi.

Cả người Xi Vưu nóng như hòn than, mặt đỏ bừng, nhưng vẫn mơ màng hé mắt ra nhìn rồi cười toe toét: “Vợ yêu, lại phiền cô cõng ta rồi!”

A Hành trừng mắt lườm hắn, tức đến nỗi thở hồng hộc, mãi một lúc lâu cũng chẳng biết làm sao, đành xốc hắn lên lưng cõng đi, “Ta bảo cho mà biết, ngươi còn dám nói hươu nói vượn, ta sẽ quăng luôn vào lửa cho chết đấy!”

“Cô đành lòng sao? Chỉ sợ ta đau thân thể còn cô đau lòng thôi.” Đã bị thương đến đi không nổi nhưng cái miệng trơn như mỡ của Xi Vưu vẫn chưa chừa, liến thoắng lấn át A Hành.

A Hành chẳng nói chẳng rằng đi thẳng tới bên vách đá, làm bộ ném xuống, khiến Xi Vưu phát hoảng, cuống quýt xin tha, “Được rồi, được rồi, cô nói được làm được, nói được làm được mà!”

A Hành cười nhạt, cõng hắn đi tiếp.

Xi Vưu mê mệt vì sốt, gục đầu lên vai A Hành, chốc chốc lại cười khùng khục.

“Ngươi cười cái gì?”

“Cười cô ngốc chứ gì! Năm xưa, nhằm thăm dò cô, ta cố ý biến hóa để mình nặng trịch như núi, vậy mà cô chẳng hề nhận ra, vẫn lầm lũi cõng ta đến nỗi mồ hôi đầy đầu, còn sợ ta bị lửa thiêu.”

A Hành nghiến răng nghiến lợi vì tức, nhưng ngoài miệng chỉ hờ hững đáp, “Ngươi ích kỷ đa nghi như thế, hèn chi ta chẳng nhớ gì về ngươi, xem như ngươi ác giả ác báo!”

Thấy Xi Vưu nín lặng không đáp, A Hành lại lo lắng gọi: “Ngươi đừng có ngủ, kẻo nhiệt độc trên núi xâm nhập vào tâm mạch đó.”

Xi Vưu gục mặt vào cổ A Hành thì thào bên tai nàng: “A Hành, là ta ác giả ác báo!”

A Hành làm thinh, gắng trèo lên tới đỉnh núi rồi đặt Xi Vưu xuống, “Ngươi cố chịu đựng một lát, để ta đi dập lửa.”

Xi Vưu níu nàng lại: “Hay là ta đi cùng!”

Nàng chán nản mắng: “Điên à! Đốt lửa cũng là ngươi, dập lửa cũng là ngươi, ngươi không cần mạng thì thôi, nhưng đừng xem thường mạng sống của người khác chứ!” Dứt lời nàng giằng tay hắn ra, “Ngồi yên đấy chờ đi!”

A Hành rút cây trâm ngọc chạm hình Huyền điểu trên tóc xuống, loại thủy ngọc này do thủy linh vạn năm dưới Quy khư ở Cao Tân ngưng tụ mà thành, có thể chống lửa, biến hình, trị thương, đúng là trân bảo hiếm có. Đây là sính lễ năm xưa Cao Tân quốc đưa tới nhưng nàng chưa từng mang, mãi tới lần này, Luy Tổ mới lục ra cài lên tóc nàng, những mong thân thể nàng mau khỏe lại, nào ngờ…

A Hành khẽ thở dài, quăng thủy ngọc trâm ra, lập tức cây trâm biến thành một con Huyền điểu xanh biếc như nước, cất tiếng kêu thánh thót. Được linh lực của nàng thúc động, Huyền điểu liền vỗ cánh bay về phía ngọn lửa, bay đến đâu lửa tắt đến đó, không hổ là thủy linh của vạn thủy. Huyền điểu bay lòng vòng quanh Bác Phụ sơn, mãi tới khi dập xong lửa mới ung dung đỗ xuống đỉnh núi, biến thành một tảng đá hình Huyền điểu, phong kín mắt lửa lại.

Ngọn lửa tắt ngúm trả lại một bầu trời đêm thăm thẳm, A Hành ngẩng đầu ngắm nhìn muôn ngàn vì sao lấp lánh giăng khắp nền trời, hệt như vô vàn viên bảo thạch.

Nàng ngoảnh lại nhìn Xi Vưu, mái tóc dài mượt không có trâm cài xõa tung, tuôn chảy, dưới ánh sao, càng toát lên vẻ quyến rũ mê người.

Xi Vưu uể oải tựa lưng vào tảng đá ngắm A Hành, mặt tươi hơn hớn.

A Hành đỡ hắn dậy hỏi, “Ngươi định đi đâu dưỡng thương đây?”

“Cửu Lê.” Hắn khẽ vuốt tóc nàng rồi tiện tay vấn lại, dùng Trụ Nhan hoa cài lên.

A Hành biến hẳn sắc mặt, rút phắt Trụ Nhan hoa xuống ném trả Xi Vưu, “Ta đưa ngươi đi một lần cuối cùng! Nếu ngươi còn bám lẵng nhẵng như đỉa đói thì đừng trách hai tộc Cao Tân Hiên Viên không khách khí!” Ánh mắt nàng lạnh buốt, thấp thoáng sát khí vương giả hiếm hoi.

Xi Vưu ủ rũ, đành nín lặng dựa vào A Hành, người nóng như lửa đốt, hơi thở rối loạn.

Dường như hắn và Tiêu Dao tâm ý tương thông, mới đó đã thấy Tiêu Dao lù lù xuất hiên, xẹt xuống như sao băng. A Hành nửa ôm nửa đỡ Xi Vưu ngồi lên lưng nó, “Tiêu Dao, ngươi bay chậm thôi. Xi Vưu đang bị thương, linh lực của ta không khống chế được tốc độ quá nhanh đâu.”

Tiêu Dao khẽ gục gặc đầu rồi dang cánh từ từ bay về phía Cửu Lê.

Gió đêm lành lạnh, sao sáng đầy trời, Tiêu Dao bay chầm chậm, A Hành cũng chẳng buồn để ý đến Xi Vưu nữa, chỉ chăm chú ngắm nhìn cảnh sắc xung quanh.

Sau khi rời khỏi Bác Phụ quốc, bầu trời sao sáng dần thưa thớt hẳn khiến A Hành tiếc rẻ mãi, may mà giữa biển mây vẫn còn một vầng trăng tròn vành vạch, mây đuổi trăng, trăng vờn mây, cũng là cảnh đẹp hiếm thấy.

Xi Vưu khẽ nói: “Lần đầu tiên ta tới Triêu Vân phong tìm cô rồi A Tệ đưa cả hai bỏ trốn cũng vào một đêm trăng sáng thế này, dạo đó tuy ta bị Đại ca cô đánh trọng thương, nhưng trong lòng rất hạnh phúc.”

A Hành nhắm mắt lại không ngắm trăng nữa, dùng hành động trực tiếp trả lời hắn.

Nhìn một A Hành lạnh lùng trước mặt, Xi Vưu chợt hoang mang, trời nghiêng có thể chống, đất lệch có thể đắp, nhưng cõi lòng tan nát rồi có vá víu lại được chăng? Biết dùng cái gì để vá víu đây?

Thấy Tiêu Dao đột nhiên đỗ xuống, A Hành liền mở bừng mắt nhìn quanh, “Đây không phải Cửu Lê, mày đưa chúng ta đến đâu thế?”

Tiêu Dao phớt lờ nàng, cứ thế dang cánh bay thẳng, bỏ lại Xi Vưu và A Hành giữa vùng hoang sơn.

A Hành tức tối giậm chân bình bịch, Xi Vưu ức hiếp nàng đã đành, ngay đến con chim của hắn cũng bắt nạt nàng nữa!

“Xi Vưu, Xi Vưu, tỉnh dậy đi, chúng ta lạc đường rồi.” A Hành lắc lắc Xi Vưu.

Xi Vưu sốt mê man, khó chịu cau rúm mày lại.

A Hành bắt mạch cho hắn, thấy khó mà chịu nổi đến khi tới Cửu Lê, phải sắc ít thuốc trị thương ngay đã. Nàng nhìn quanh nhìn quất, thấy hai bên đường núi non trùng điệp, cây cối xanh rì, lại thêm một khe suối nhỏ uốn mình, chảy xuyên qua hẻm núi.

A Hành liền cõng hắn men theo khe suối mà đi, vừa đi vừa tìm hái thảo dược.

Tùy theo hẻm núi khi rộng khi hẹp, khe suối cũng có khúc chảy xiết, có quãng chảy chậm, A Hành cõng theo Xi Vưu, hành động vô cùng khó khăn, lại thêm đá suối trơn như bôi mỡ, hai người cứ chệnh choạng mà đi, ướt sũng cả quần lẫn giày, may mà hái được không ít thảo dược.

Đi mãi đến hồ nước, khe suối cũng đổ vào trong hồ này, bên hồ lô nhô mấy tảng đá, A Hành bèn chọn một phiến đá bằng phẳng, đặt Xi Vưu lên.

Nàng nghiền nát thảo dược, múc nước hồ chiêu cho Xi Vưu uống rồi cởi bỏ y phục của hắn, dùng mười mấy ngọn lá thông lớn có nhỏ có, ngưng tụ linh lực châm vào huyệt đạo hắn nhằm khơi thông linh khí, làm dịu cơn đau. Chẳng có linh đan diệu dược gì, A Hành đành đốt ngải cứu hơ vào đỉnh đầu và gan bàn chân hắn, dốc hết linh lực bức nhiệt khí trong cơ thể hắn ra. Nhờ đó, Xi Vưu dần dần hạ sốt.

A Hành dù sao cũng mới ốm dậy, tất bật nãy giờ khiến nàng mệt lử, rã rời cả tay chân, bèn bó gối ngồi nghỉ bên cạnh.

Xung quanh hồ lởm chởm toàn đá là đá, lại thêm cây cối rậm rạp, ánh trăng len qua tán lá chiếu lên mặt đá thành những đốm tròn nho nhỏ, trăng rọi bóng cây, cây soi xuống suối, suối vỗ vào đá, đá nâng niu bóng trăng, trong tĩnh có động, trong động có tĩnh, đẹp không bút nào tả xiết.

A Hành khoan khoái hít sâu mấy hơi, thấy vô cùng dễ chịu. Giày và quần nàng đã ướt sũng lúc lội qua suối, lại dính đầy bùn đất, đi rất khó chịu. Thấy Xi Vưu đã ngủ say, hơi thở trầm trầm, hẳn chưa thể tỉnh ngay được, nàng liền rón rén cởi bỏ y phục, ngâm mình xuống hồ, gột sạch quần và giày vắt lên tảng đá cho khô rồi ngoảnh lại trông chừng Xi Vưu, thấy hắn vẫn mê mệt, nàng yên tâm ngụp xuống hồ bơi lặn.

Nàng vui vẻ thi với đàn cá dưới nước, bơi từ bên này hồ sang bên kia hồ, rồi lại từ bên kia bơi về xem ai nhanh hơn, chợt thấy bao phiền não trong lòng đều tan đi theo làn nước.

Núi non bốn bể xanh biếc một màu như vẽ, đỉnh vút tận mây, khiến cả khung trời bất giác trở nên chật hẹp, vầng trăng tròn vành vạnh đang treo trên mảnh trời nhỏ hẹp đó, A Hành nằm ngửa trên mặt nước, giơ tay ra toan chạm vào mặt trăng, tuy biết rõ không thể nào chạm được nhưng vẫm thích giơ tay ra. Có lẽ nàng thích động tác vớt lấy mặt trăng bởi nó khiến lòng vô cùng khoan khoái, cũng có lẽ nàng chỉ thích ngắm làn nước trong veo chảy dài qua kẽ ngón tay mình, ánh trăng bàng bạc rọi xuống, trông như muôn ngàn viên ngọc long lanh, rơi tí tách xuống mặt hồ phẳng lặng tựa gương.

Đột nhiên, mấy cánh hoa đào đỏ thắm từ đâu bay lại, đậu xuống má A Hành. Nàng nhón lấy cánh hoa vẻ ngạc nhiên, bấy giờ đã là giữa hạ, lấy đâu ra hoa đào? Ngấng đầu trông lên, bấy giờ đã là giữa đỉnh núi, sườn núi xung quanh đều hồng rực sắc đào, sắc thắm ấy còn tiếp tục lan xuống dưới, chỉ lát sau, ngàn vạn gốc đào đã theo nhau nở rộ khắp cả đất trời đang chìm trong đêm tối cũng sáng bừng lên.

Ánh trăng trong như nước dịu dàng soi xuống, cánh đào rụng lả tả như mưa, khi mau lúc thưa, không ướt áo cũng chẳng lạnh người, chỉ thoang thoảng hương thơm ngan ngát.

Nhìn hoa bay rợp cả đất trời, A Hành như lạc vào cõi mộng, mơ màng ngoảnh lại, bắt gặp Xi Vưu đang ngồi trên tảng đá tươi cười ngắm hoa đào nở rực núi đồi, sắc mặt hắn tái nhợt, toàn thân run rẩy, hiển nhiên đã tốn rất nhiều linh lực mới có thể nghịch thiên tạo nên khung cảnh này.

“Ta trị thương cho ngươi không phải để ngươi vận linh lực làm hoa nở trái mùa.”

Xi Vưu ngẩng đầu ngắm vầng trăng vằng vặc, lẩm bẩm một mình: “Năm trăm năm trước, linh lực của ta còn rất thấp, Chúc Dung kéo theo một đám cao thủ Thần tộc tới đuổi giết ta, ta trọng thương, lại phải chạy quanh tìm nơi lẩn trốn, nhưng không sao trốn thoát. Khi chạy tới nơi này, ta nghĩ mình chẳng cầm cự được bao lâu nữa, nhưng ta thà chết cũng không muốn chết trong tay Chúc Dung. Trong lúc tuyệt vọng toan tung mình nhảy xuống vách núi, đột nhiên ta trông thấy một thiếu nữ áo xanh, tay vén váy, tay xách giày đi vào sơn động. Bấy giờ đương là lúc hoa đào nở rộ, giống như hôm nay vậy, rực rỡ đầy trời, đẹp như giấc mộng.”

Xi Vưu chìa tay ra hứng lấy những cánh hoa đào, mỉm cười nhìn nàng, “Cô thiếu nữ đó cũng lội xuống nước nô đùa hệt như bây giờ, chẳng khác nào tinh núi hồn hoa. Ta nấp trên đỉnh núi nhìn nàng, cảm nhận được sức sống căng tràn của ngày xuân, còn ta giống như loài dã thú động tình giữa mùa xuân, trong khoảnh khắc ấy, thân thể mới thật sự cựa mình tỉnh giấc, linh trí cũng theo đó mà thức tỉnh, lần đầu tiên nhận ra mình là ai.”

Nói rồi, hắn tuột khỏi tảng đá bước xuống hồ, tiến về phía A Hành. Nàng chợt thấy miệng khô lưỡi ráo, vội lùi lại, may sao trên mặt nước rụng đầy cánh hoa, che đậy giùm thân thể nàng.

Xi Vưu kể tiếp: “Ta chẳng rõ mình có cha mẹ hay không, càng chẳng biết mình từ đâu tới. Từ khi hiểu chuyện, ta đã sống cùng dã thú trong khe núi, nhưng lớn lên, hình dáng ta lại khác hẳn loài hổ báo. Thuở nhỏ, ta cũng thắc mắc vì sao mình không giống bọn chúng, tại sao chúng có vô số đồng loại mà ta chỉ trơ trọi một mình, ta muốn tìm được một kẻ làm đồng loại. Ta lẻn đến gần sơn trại, lén nhìn đám trẻ nô đùa, học tiếng của bọn chúng, bắt chước bọn chúng đi bằng hai chân, thậm chí còn trộm quần áo của chúng mặc lên mình cho giống với chúng, những muốn được chơi đùa cùng chúng, nhưng đám trẻ ném đá vào ta, phụ nữ lấy lửa đốt ta, đàn ông bắn tên vào ta, ta đành chạy tháo thân vào núi.”

Xi Vưu chỉ vào trái tim mình, “Lúc đó linh trí ta chưa thức tỉnh, còn chưa hiểu tại sao nơi này lại khó chịu đến thế, ta nổi giận giết sạch gia súc của họ, phá sập nhà họ, khiến bọn họ trông thấy ta là vắt giò lên cổ chạy, không dám bắn ta đánh ta nữa, nhưng chỗ này của ta vẫn chẳng dễ chịu chút nào, trái lại càng đau đớn hơn. Ta nấp trong bóng tối nhìn trộm họ, thấy mỗi khi uống rượu họ đều cười rộ lên vui vẻ, bèn đánh cắp rượu của họ, học theo bọn họ uống rượu, ngỡ rằng trong vò rượu có giấu bí mật để tươi cười vui vẻ, nhưng ta luyện mãi đến ngàn chén không say vẫn chẳng phát hiện ra bí mật gì cả, rốt cuộc phải làm sao mới có thể vui vẻ tươi cười đây?”

Xi Vưu thẫn thờ ngẩng mặt nhìn ánh trăng vằng vặc giữa trời, dáng vẻ bất lực chưa từng thấy ở hắn khiến A Hành kinh ngạc. Xem ra, dù ngày nay đã tung hoành bốn bể, đánh đâu thắng đó, nhưng hình bóng Tiểu Xi Vưu cô độc bơ vơ vẫn luôn canh cánh trong lòng hắn.

“Viêm Đế nói muốn mang ta tới Thần Nông sơn, tuy bề ngoài ta tỏ vẻ rất miễn cưỡng, khiến ông ta phải mời ta, cầu ta, nịnh nọt ta, nhưng kỳ thực trong lòng ta rất vui. Xưa nay chưa một ai mời ta tới nhà mình chơi cả, Viêm Đế là người đầu tiên. Ta lên Thần Nông sơn theo Viêm Đế học làm người, nơi đó có rất nhiều kẻ giống ta, ta có thể cùng bọn họ ngồi bên đống lửa uống rượu, nhưng ta còn cô độc hơn thuở sống trong rừng. Dạo ở trong rừng, ít ra ta có thể tự do tự tại nhảy nhót tung tăng, cao hứng thì hú lên, giận dữ thì gào rú, nhưng trên Thần Nông sơn, ta không thể sống hoang dã như thế được. Những kẻ tưởng chừng là đồng loại của ta luôn nhìn ta bằng ánh mắt sắc lạnh như dao, chúng e sợ ta, căm ghét ta, cười nhạo ta là cầm thú, chỉ có ta ngốc nghếch đáp lời hết lần này sang lần khác, còn ngỡ rằng có thể chơi đùa với chúng, làm đủ mọi động tác như chúng yêu cầu, nào là đi bốn chân như sói, nhảy nhót trên cành giống khỉ, chúng cười ta, ta cũng ngẩn ngơ cười với chúng. Tới khi bị Du Võng bắt gặp, mắng cho chúng một mẻ, ta mới hiểu ra cầm thú là để sỉ nhục, chúng bắt ta biểu diễn những động tác kia để làm nhục ta. Ta căm ghét ánh mắt bọn chúng, ghét tiếng cười của chúng, ta không muốn làm người nữa! Nghĩ là làm, ta liền phá sập học đường, trốn khỏi Thần Nông sơn. Du Võng nửa đêm đuổi theo ta, khuyên ta quay lại nhưng ta đánh y chửi y, đuổi y về, ấy vậy mà y vẫn đi cùng ta, còn nói ‘Chỉ cần ngươi tìm được nơi mình thực sự muốn đến, ta sẽ đi ngay. Ngươi muốn đi đâu?’ Ta ngẩn người ra, không biết phải trả lời y thế nào nữa. Dã thú trong núi lớp lớp chết đi, rồi lớp khác sinh ra, những con dã thú quen biết ta khi xưa đã chẳng còn, ngọn núi này hay ngọn núi khác cũng thế cả, chẳng có ý nghĩa gì với ta, bốn phương tám hướng đều là đường đi, nhưng ta biết phải đi đâu đây? Đông Tây Nam Bắc với ta cũng như nhau, chẳng có gì khác biệt. Ta đứng ngây ra giữa giao lộ, từ nửa đêm đến sáng sớm, từ sáng sớm đến hoàng hôn, thiên hạ rộng lớn, nhưng ta lại chẳng biết phải đi về đâu. Du Võng vẫn một mực đứng đó cùng ta, y hỏi, ‘Sao ngươi lại bằng lòng theo phụ vương về Thần Nông sơn? Sao lại muốn làm người?’, ta sực nhớ tới lúc mình hú lên trên đỉnh núi, nàng thiếu nữ dưới khe suối đó đã ngẩng đầu nhìn ta, nhoẻn miệng cười với ta.”

Xi Vưu cúi đầu nhìn A Hành, “Nhớ lại hình ảnh nàng khi ấy, ta bỗng thấy làm người cũng chẳng đến nỗi vô vị, dù chỉ để có được nụ cười ấy trong một khoảnh khắc thôi. Nhận ra lòng ta có khúc mắc, Du Võng ôn tồn nói, ‘Làm người không tồi tệ đến thế, phải không? Chúng ta về thôi.’ Cuối cùng ta theo Du Võng trở về Thần Nông sơn.”

A Hành nhìn Xi Vưu, há hốc miệng vì kinh ngạc. Hắn ôn hòa cười, “Bốn trăm bảy mươi năm trước, chính tại khe núi này, ta đã gặp cô lần đầu. Nhất định cô không nhớ được chuyện này.”

A Hành cắn môi không đáp. Đêm hôm đó, thấy một con dã thú ngẩng đầu tru lên dưới ánh trăng, nàng đã ngước nhìn rồi tươi cười vẫy tay với nó, bởi trong khoảnh khắc đó, cả đất trời không chỉ thuộc về nàng, mà còn thuộc về nó.

Xi Vưu và A Hành cùng đứng dưới hồ, mặt đối mặt, cánh đào rơi lả tả như một tấm màn the hồng nhạt, phủ mờ diện mạo cả hai.

Xi Vưu ngước mắt ngắm hoa bay tơi tả khắp trời, chậm rãi kể tiếp: “Nhờ Viêm Đế dạy bảo, qua hai trăm năm cần cù học tập, ta đã trở thành một kẻ rất ra dáng con người, ta biết phẩm trà bình rượu, gảy đàn thổi sáo, cũng hiểu cả những lễ nghi phiền phức chán ngắt, giỏi tán hươu tán vượn. Hai trăm bảy mươi năm trước, Chúc Dung luyện công bằng địa hỏa của Bác Phụ sơn, khiến cả Bác Phụ quốc khói lửa ngút trời, tiêu điều hoang vắng, tên ngốc Du Võng lòng dạ thiện lương nghe được tin đó bèn nài nỉ ta tới Bác Phụ quốc điều tra thực hư. Đương lúc ta tra rõ mọi sự, chuẩn bị quay về, đột nhiên ngoảnh lại, ta liền trông thấy thiếu nữ áo xanh kia đang từ phía ráng chiều khoan thai tiến đến. Niềm vui bất ngờ khiến ta đờ cả người, nhưng ta không dám tiếp cận nàng, thậm chí còn hoảng hốt đến nỗi định co chân bỏ chạy.”

A Hành mấp máy môi như chẳng thốt nổi tiếng nào, kẻ luôn lao về phía trước như Xi Vưu mà cũng có lúc khiếp sợ ư?

Xi Vưu kể lại: “Hơn sáu trăm năm trước, có một thằng nhỏ theo cha vào núi đi săn, cha nó bị hổ vồ, nó cũng sắp bị hổ ăn thịt. Trông thấy thằng bé đó, ta rất vui mừng, bèn cứu mạng bọn họ, giữ thằng nhỏ lại chơi cùng ta. Ta cùng nó cưỡi hổ ngao du khắp rừng, còn sai vượn hái những quả ngon nhất trên vách núi cho nó ăn, bắt chim cho nó nghe tiếng hót, dắt nó đi xem tất cả hang động của ta, để nó ngủ trên chiếc ổ êm ái nhất của ta. Ta rất thích chơi với nó, cứ ngỡ rằng nó cũng thích chơi với ta, nào ngờ lòng nó vẫn luôn hướng về làng cũ, chỉ giả bộ vui vẻ chơi đùa cùng ta thôi. Khi đó ta chỉ biết mừng rỡ thì rú rít, giận dữ thì kêu gào, tưởng rằng thỏ không thích chơi với sói, hễ thấy sói là chạy, nào hiểu được lòng người đa đoan xảo trá. Một thời gian sau, khi nó đã tường tận tất cả hang ổ của ta, cha nó liền dẫn đám thợ săn tới giết ta.” Xi Vưu chợt ngừng lời, rồi hờ hững bổ sung, “Là nó dẫn đường.”

Thấy ánh mắt A Hành long lanh lệ, Xi Vưu cười nhạt, “Ta rơi vào cảnh thập tử nhất sinh, nhưng cuối cùng vẫn sống sót. Ta giết nó, giết cha nó, giết cả đám thợ săn! Để diệt trừ ta, dân chúng mấy thôn đã hè nhau phóng hỏa đốt rừng, khiến ta vắt chân lên cổ mà chạy. Bọn chúng phát hiện ta bị trúng tên nên cứ đuổi riết, ta phải trốn chui trốn nhủi từ núi này sang núi khác, sau cùng chạy đến Cửu Lê. Ta nấp dưới đáy hồ, nghe thấy bọn chúng yêu cầu Cửu Lê tộc hợp sức cùng giết ta, nào ngờ bị vu sư Cửu Lê từ chối. Ông ta nói, ‘Lúc đói săn thú lấy thịt ăn, khi rét săn thú lấy da mặc, không đói không rét thì giết muông thú làm gì?’”

Nghe Xi Vưu tâm sự, A Hành vô cùng ngạc nhiên, nàng cứ ngỡ Xi Vưu sinh ra lớn lên ở Cửu Lê, nào ngờ hắn lại không phải người gốc Cửu Lê, chuyện này e rằng Viêm Đế cũng chẳng biết. Người ta vẫn nói thỏ khôn có tới ba hang, chẳng rõ Xi Vưu có bao nhiêu cái.

Hắn cười nhạt kể tiếp: “Hơn sáu trăm năm nay, con người không sợ hãi ta thì muốn lấy mạng ta, ngay cả Viêm Đế đối tốt với ta nhất cũng hạ độc ta vì an nguy của tộc dân, nhưng ta vẫn một lòng kính trọng, xem ông như cha mình, bởi ông chưa từng lừa dối ta. Có lần ông dạy ta viết hai chữ đại nghĩa, ta hỏi thế nào là đại nghĩa, ông giải thích cả nửa ngày ta vẫn ù ù cạc cạc, sau cùng ông lấy một ví dụ, nếu buộc ông phải lựa chọn giữa ta và tộc dân của mình thì dù áy náy vô cùng, ông cũng phải kiên quyết xuống tay giết ta, đó chính là đại nghĩa. Có lần ông đã thản nhiên nói rằng, năm đó ông muốn nhận ta làm đồ đệ vì thấy ta có thiên bẩm, ngày sau có thể giúp ông bảo vệ Thần Nông quốc. Cả gã Du Võng mà ta coi như huynh trưởng kia nữa, thực ra ta rất không đồng tình với cách làm việc mềm dẻo nhu nhược, thiếu quyết đoán của y, nhưng vì y là kẻ thành thực nên ta vẫn luôn coi y là huynh đệ, trung thành với y, có điều, nếu một ngày y phản bội lại lời thề, quay ra nghi ngờ ta, ta sẽ là người đầu tiên giết chết y!”

A Hành trân trân nhìn Xi Vưu, hắn cũng chăm chú nhìn nàng, “Ta không để bụng việc những kẻ khác săn đuổi ta, nhưng ta không thể tha thứ cho thằng bé dẫn thợ săn tới bắt ta! Ta có thể bỏ qua cho những kẻ khác gạt ta, nhưng nhất định không tha thứ cho Viêm Đế hay Du Võng nếu họ lừa dối ta! Hai trăm bảy mươi năm trước, ta trơ mắt nhìn cô quay lưng bỏ đi mà không dám tiếp cận, vì ta sợ đến một ngày nào đó, ta sẽ giết cả cô!”

A Hành chợt ớn lạnh cả người, chẳng biết là lạnh do nước hồ hay run rẩy trước câu nói của Xi Vưu.

Xi Vưu cười giễu: “Ta sống sót được đến giờ chính bởi ta là dã thú, ta có thừa xảo trá, độc ác và tàn nhẫn.”

Nhưng con “dã thú” này để trả ơn vị vu sư Cửu Lê đã có lời bênh vực y, liền nhận mình là người Cửu Lê, bảo vệ Cửu Lê suốt mấy trăm năm, không tiếc đánh đổi cả sinh mạng chống chọi với Thần tộc, biến những người dân hèn hạ từng bị rẻ rúng trở thành một bộ tộc sản sinh ra các anh hùng; biết rõ Viêm Đế lợi dụng mình để bảo vệ Thần Nông mà vẫn hào sảng hứa phò trợ Du Võng.

Chân trời đằng Đông đã sáng lên tự lúc nào, ánh nắng mai lành lạnh chênh chếch rọi qua tán lá, chiếu lên mình hai người thành những mảng sáng tối giao thoa, khi lạnh khi ấm.

Xi Vưu đăm đăm nhìn A Hành, “Ta sinh ra trong núi hoang, lớn lên giữa bầy dã thú, gia thế, học vấn và phong thái đều không bì được với Thiếu Hạo, cũng chẳng thể giống như y, cho cô địa vị cao quý nhất, để cô trở thành vương hậu một nước, khiến cả thiên hạ phải kính trọng cô. Đi theo ta, nhất định cô sẽ bị người đời xỉ vả, nhưng… Nếu cô vẫn không muốn nhớ lại mọi chuyện về ta, ta sẽ trao cho cô thứ duy nhất mà ta có.” Xi Vưu đấm mạnh tay vào ngực mình, sang sảng nói, “Chính là trái tim ta!”

A Hành bĩu môi toan cười nhạt, nhưng nhìn gã Xi Vưu có đôi phần xa lạ trước mặt, nàng không sao nhếch mép nổi. Hắn đã trút bỏ tất cả lớp ngụy trang bề ngoài, tựa như rắn độc bẻ đi răng nanh, hổ sói thu lại móng vuốt, nhím xù cởi bộ lông gai lởm chởm, bộc lộ phần hồn yếu đuối nhất, mong manh nhất trước mặt nàng, chẳng còn đâu một Xi Vưu ngông nghênh tùy tiện, ngạo mạn thờ ơ, lạnh lùng giễu cợt tất thảy, giờ đây đứng trước nàng chỉ là một nam tử bình phàm từng gánh chịu tổn thương, đã hiểu được thế nào là đau đớn, thế nào là xót xa, càng hãi sợ phải nhận lấy đau thương lần nữa.

Thấy A Hành ngập ngừng không nói, Xi Vưu cũng làm thinh, đăm đăm nhìn nàng, ánh mắt thăm thẳm muôn ngàn lời mà chẳng thốt nổi một câu. Hồi lâu hắn quay lưng lội vào bờ, mặc lại quần áo, “A Hành, bất kể cô quên thật hay vờ, ta nói cho cô biết, cô là người phụ nữ của ta, ta cũng là người đàn ông của cô, trước đây là thế, bây giờ là thế, sau này cũng là như thế. Nếu cô không muốn thì ngay bây giờ, nhân lúc ta đang bị trọng thương, giết phắt ta đi, bằng không đợi ta trị khỏi vết thương, nhất định sẽ bất chấp thủ đoạn bám riết lấy cô đấy!”

Xi Vưu đứng quay lưng về phía A Hành, bất động.

A Hành đứng lặng người, lòng quặn lên đau thắt, mãi một hồi lâu, nàng bèn lội vào bờ, bình thản mặc lại quần áo rồi lạnh lùng cất tiếng, “Được, vậy để ta giết ngươi!”

Nàng tiến về phía Xi Vưu, đặt tay lên lưng hắn, chỉ cần dồn linh lực ra, Xi Vưu sẽ lập tức đoạn khí mà chết.

Hắn nhắm nghiền mắt lại.

A Hành nghiến răng tống linh lực ra. Xi Vưu đã sức tàn lực kiệt, liêu xiêu ngã ngửa ra sau, đột nhiên, nàng ôm chặt lấy hắn, “Tại sao thà chết cũng không chịu buông tay?”

Sắc mặt Xi Vưu tái nhợt, hắn bình thản nhìn nàng, không gợn chút sợ sệt hay sầu lo trước cái chết, cũng chẳng còn vẻ xảo trá hung tàn, đôi mắt hắn thăm thẳm tựa hồ trong veo thấu đáy, chỉ còn in bóng riêng nàng.

A Hành giận dữ trừng mắt nhìn Xi Vưu, nước mắt nhòe mi: “Chàng thừa biết nếu chàng bị thương ta sẽ rất xót xa, vậy mà còn cố tình ép buộc ta. Thật lòng ta chỉ muốn giết quách tên khốn chuyên nghề hành hạ người ta như chàng…”

Xi Vưu thoạt nghe thấy nửa câu đầu đã nhoẻn miệng cười, lập tức lấy lại sinh khí, vòng tay siết chặt A Hành vào lòng. A Hành vội đẩy hắn ra, như không muốn để hắn ôm, nhưng động tác chẳng lấy gì làm quyết liệt, nàng giằng giằng co co với hắn một hồi, lòng nửa mừng nửa giận, nửa oán nửa ghét…

Xi Vưu ghì chặt nàng vào lòng, toàn thân run rẩy, chẳng rõ bởi mừng vui hay sợ hãi, hắn luôn miệng thì thầm: “A Hành, A Hành, A Hành, A Hành của ta…”

Những vùng vẫy của A Hành dần biến thành ôm ấp, hai tay nàng siết chặt Xi Vưu, rúc vào lòng hắn âm thầm khóc, khóc mãi khóc mãi, từ khóc thầm đổi sang thút thít, từ thút thít trở thành nức nở, sau cùng khóc đến kinh thiên động địa, như muốn trút hết bao đau đớn oan ức suốt mấy trăm năm.

Hau người ôm chặt lấy nhau, cả hai đều run lên. Xi Vưu dịu giọng dỗ dành, “Ta biết sai rồi, ta là đồ khốn, là đồ khốn không biết tốt xấu gì…”

A Hành nức nở khóc, đột nhiên nghẹn ngào lên tiếng: “Chúng mới là đồ khốn!”

“Ai cơ?”

A Hành vừa khóc đến đứt ruột đứt gan vừa giận dữ nói: “Mấy tên khốn dám hà hiếp chàng trên Thần Nông sơn chứ ai nữa!”

Xi Vưu thoáng ngẩn người, ai dám hà hiếp mình nhỉ? Hắn sực nhớ lại chuyện cũ, chỉ thấy lòng dạt dào vui sướng, tình ý triền miên, bao đau khổ tủi hờn đều biến mất theo câu nói này của nàng. Xi Vưu thở dài một tiếng, vòng tay siết chặt nàng vào lòng, như muốn hòa tan nàng vào cơ thể mình, đời này kiếp này không bao giờ chia lìa nữa.

Mặc cho Xi Vưu ra sức dỗ dành, A Hành vẫn khóc nức lên, càng khóc càng thảm thiết, mãi không chịu nín. Sợ nàng khóc nhiều sinh mệt, hắn bèn chín phần thật một phần giả xuýt xoa “ai da”. Quả nhiên A Hành quên khuấy thương tâm, vội cuống quýt kiểm tra vết thương của hắn, vừa chữa trị vừa trách móc: “Lần sau chàng còn dám bỏ mặc chuyện sống chết của bản thân thế này ta sẽ không phí sức mà trị cho chàng nữa đâu.”

Xi Vưu không đáp, chỉ lặng lẽ nhìn A Hành, nhìn nàng lo lắng cho hắn, xót xa cho hắn, cười vì hắn, khóc vì hắn, một làn hơi ấm trong sâu thẳm đáy lòng từ từ lan ra, khiến hắn quên hết mọi đau đớn trên mình.

A Hành định đi tìm hái thêm vài loại thảo dược, nhưng Xi Vưu níu nàng lại không cho đi.

“Ta đi rồi sẽ về mà.”

Xi Vưu vẫn chăm chăm nhìn A Hành lắc đầu quầy quậy, hệt như một đứa nhỏ bướng bỉnh.

A Hành đành bó tay, “Vậy vết thương của chàng làm sao đây? Chàng không muốn khỏe lại à?”

“Vết thương của ta ở trong lòng chứ không phải ở trên người, nàng chính là thuốc của ta rồi, chỉ cần nàng ở bên ta, vết thương của ta tự khắc sẽ khỏi thôi.”

A Hành vừa tức vừa buồn cười, “Nói vớ nói vẩn!”

“Thật mà, nàng quên rằng ta có thiên bẩm khác với mọi người à? Chỉ cần giữ tâm an tĩnh, hòa mình vào cùng trời đất, trời đất vạn vật đều có thể truyền cho ta linh khí, giúp ta trị thương.”

Xi Vưu dán mắt vào nàng, “Ta không nỡ ngủ, ta cứ muốn ngắm nàng thế này mãi mãi cơ, nhưng ta càng không nỡ để nàng lo lắng cho thương thế của ta. Thôi ta ngủ một lát nhé, nàng đừng đi đâu đấy.”

A Hành vừa xua tay ngăn ánh mắt chòng chọc của Xi Vưu, vừa đỏ bừng mặt, phì một tiếng mắng: “Muốn ngủ thì ngủ đi, làm gì có kẻ nào ngủ một giấc mà lắm lời thế?” Mắng thì mắng vậy, nhưng lòng nàng lại rộn lên vui sướng lẫn ngọt ngào.

Xi Vưu cười toe toét nhắm mắt lại, lập tức chìm vào giấc ngủ.

A Hành ngồi lặng ngắm hắn ngủ, nghe lòng bình thản lạ lùng, mí mắt cũng dần dần trĩu xuống. Đã hai ngày nay bị Xi Vưu hành tội, nàng chưa hề chợp mắt, bây giờ cũng mơ mơ màng màng thiếp đi.

Lúc mở mắt ra đã là chính Ngọ, vầng dương chói lóa đang treo trên đỉnh núi. Hai người chụm đầu vào nhau mà ngủ, đôi bên đều cảm nhận được hơi thở của người kia, đều biết đối phương đã tỉnh, nhưng không một ai lên tiếng, sợ phá vỡ cảm giác ấm áp lúc này.

Sơn cốc tĩnh mịch yên ắng, cây cối ngời lên xanh biếc dưới anh dương, càng tôn lên vẻ diễm lệ của hoa đào, lòng người vừa lắng lại, liền nghe thấy tiếng hoa rơi xao xác, tiếng nước róc rách luồn qua kẽ đá cùng tiếng chim cuốc văng vẳng trong núi.

A Hành hỏi khẽ: “Đêm đó chàng ở đâu?”

Câu hỏi của nàng không đầu không cuối, nhưng Xi Vưu vừa nghe đã hiểu, bèn cười cười chỉ lên đỉnh núi bên trái.

“Chàng nhìn thấy hết cả ư?”

“Ừ, nhìn rõ mồn một.”

A Hành vùi mặt vào vai Xi Vưu, đấm ngực hắn thùm thụp khiến Xi Vưu bật cười khanh khách vang cả sơn cốc. Đột nhiên hắn cảm thấy A Hành gục trên vai mình, chẳng nói chẳng rằng, vội thấp thỏm hỏi: “Nàng sao thế?”

A Hành nhỏm người ngồi dậy, vẻ mặt nghiêm trang như có điều muốn nói, nhưng tựa hồ lại có phần sợ sệt, không dám mở miệng. Xi Vưu cũng thu lại vẻ cười cợt đùa bỡn, chỉ ngồi yên lặng, dịu dàng nhìn nàng khích lệ.

“Ta không còn là A Hành khi xưa nữa, thật đó, không phải gạt chàng đâu, ta thực sự không còn là A Hành ngày trước nữa, ta có lẽ… là ma!”

Xi Vưu cười, chẳng hề để tâm: “Nguồn sức mạnh trong người nàng rất lạ, nhưng thế thì đã sao?”

A Hành khẽ đáp: “Còn rất đáng sợ nữa đó.”

Tác giả: 无名♫    Thời gian: 13-5-2016 11:06 PM
THÔNG BÁO


Xin chào bạn!

Trước tiên, cám ơn sự đóng góp của bạn dành cho box.

Hiện nay, box đang tiến hành sắp xếp lại để gọn gàng hơn.

Trong quá trình sắp xếp, bọn mình thấy bạn đã ngừng thread hơn 2 tháng và không có bất cứ thông báo nào đến độc giả.

Vậy nên 5 ngày sau thông báo này, nếu vẫn không có chương mới, bọn mình sẽ tiến hành các biện pháp xử lý thích hợp.

Mong bạn hiểu và thông cảm!

Thân mến!

Mod

Tác giả: lilyant    Thời gian: 3-8-2016 01:42 PM
Chương 20


Trời dẫu có già, tình chẳng đổi .

20.3


Nàng bèn bước tới bên một cây đại thụ, đặt tay lên cây rồi thận trọng trút linh lực ra từng chút từng chút một, lập tức đại thụ ngàn năm bắt đầu khô héo, lá rụng rào rào, chỉ lát sau, cả thân cây đều cháy đen thui, A Hành nhấc tay ra.

Một cơn gió thổi qua, cả gốc đại thụ tan đi theo gió thành những mạt vụn đen sẫm, chẳng lưu lại chút dấu tích gì trên mặt đất, như thể chưa từng tồn tại, chỉ còn vảy tro tàn dưới chân A Hành, nhắc nhở rằng hết thảy đều là sự thật.

Sắc mặt A Hành tái xanh tái xám, nàng nhìn xuống tay mình, thấy run rẩy sợ hãi chính mình, ngoảnh đầu nhìn Xi Vưu, nàng cũng đọc thấy trong mắt hắn vẻ kinh hãi.

A Hành lên tiếng: “Đây mới chỉ là chút sức mạnh của ta thôi. Phụ vương rất sợ sức mạnh của ta, bèn cùng mẫu thân hạ cấm chế, giúp ta phong bế chúng lại. Đại ca còn dặn lại ta không được tiết lộ với bất kỳ ai, huynh ấy sợ người khác sẽ diệt trừ ta như diệt ma vậy.”

Xi Vưu tiến lại cầm lấy tay nàng, lòng bàn tay nàng đã tróc hết da, cánh tay cũng sưng phù lên như bị lửa đốt, nổi mụt nước lấm tấm. Hắn liền ngâm tay nàng xuống nước, giúp nàng trị thương, đoạn dịu giọng: “Lửa có thể sưởi ấm cho người, cũng có thể thiêu cháy người, nước có thể tưới mát cho cây, cũng có thể làm cây úng chết, mặt trời có thể giúp vạn vật sinh trưởng, cũng có thể khiến vạn vật tử vong, sức mạnh không có gì đáng sợ, chỉ sức mạnh quá mức mới đáng sợ mà thôi. Nàng đừng căm ghét bản thân, chẳng qua nàng chỉ lỡ có được nguồn sức mạnh không thuộc về mình, có điều nàng phải cẩn thận, sức mạnh này giống như hồng thủy mãnh thú vậy, thả ra thì dễ, thu về thì khó, nàng nhất định đừng sử dụng chúng quá mức. Sức mạnh này không phải do nàng bỏ công tu luyện mà thành nên thân thể nàng không khống chế hoàn toàn được, nàng đả thương người khác đồng thời bản thân cũng hứng chịu tổn thương, như khi nãy vậy, nàng chỉ định làm rụng lá cây, nhưng lại không kiềm chế nổi, sau cùng thiêu cháy cả cây, mà chính mình lại bị bỏng.”

Từ khi tỉnh lại, mọi người lúc nào cũng dặn dò nàng không được để lộ cho bất kỳ ai, tuy hiểu rằng họ quan tâm đến mình, nhưng sự quan tâm đó lại ngầm ám chỉ năng lực không lành của nàng, khiến nàng cũng nảy sinh ác cảm với chính mình. Có điều giờ đây, những lời an ủi của Xi Vưu đã xua tan ác cảm nàng dành cho bản thân, nàng cắn môi hỏi: “Nếu thật sự ta là yêu ma được hoài thai dưới Ngu uyên như phụ vương nói thì sao?”

Xi Vưu cười, “Nếu nàng là ma, ta sẽ hóa ma cùng nàng, vậy há chẳng hay sao? Chúng ta có thể thoát khỏi bao nhiêu chuyện vớ vẩn, cũng thoát khỏi những kẻ lắm lời, chỉ còn ta và nàng thôi.”

A Hành vừa buồn cười vừa tức, nửa mừng nửa giận, “Thôi thôi, chàng đừng khua môi múa mép nói ngon nói ngọt nữa.”

Nhìn dáng vẻ nàng, Xi Vưu chợt thấy lòng rạo rực, liền cúi xuống dịu dàng hôn lên môi nàng.

Dưới ánh mặt trời ấm áp, ở nơi lần đầu tiên trông thấy nàng, cuối cùng hắn cũng thực hiện được điều mấy trăm năm nay luôn khao khát.

Sau phút ái ân, A Hành rúc nào lòng Xi Vưu, nhắm mắt lắng nghe tiếng tim hắn đập thình thịch bên tai. Bốn bề lặng phắc, chỉ có tiếng tim đập vang vang đầy mạnh mẽ đem lại cho nàng cảm giác êm đềm khó tả.

Xi Vưu vuốt ve tấm lưng nàng, nheo mắt nhìn vầng dương đã ngả về Tây, lại một ngày nữa sắp trôi qua.

A Hành nói nhỏ: “Ta phải về thôi, lần này Đại ca và mọi người nhất định đang tìm ta khắp nơi, nếu còn nấn ná e rằng sẽ rước vạ đấy.”

Xi Vưu cười, chẳng buồn đếm xỉa, “Ý nàng là Đại ca nàng sẽ tới làm phiền ta? Hay là cả Thiếu Hạo nữa?”

“Nói cho cùng, ta vẫn là vương tử phi của Cao Tân, dù Thiếu Hạo không để bụng thì vương tộc Cao Tân cũng không để yên cho kẻ khác cướp vương tử phi của họ đi đâu, chuyện này liên quan đến thể diện quốc gia mà.”

Xi Vưu nghiêm trang nói, “A Hành, đi theo ta đi! Sáng mai ta sẽ bố cáo thiên hạ chuyện hai ta ở bên nhau, mặc kệ Hoàng Đế, Tuấn Đế hay Thanh Dương, Thiếu Hạo, dù sao nàng cũng là người của ta, nếu họ không đồng ý thì phải qua được cửa ta đã!”

Trước ánh mắt nóng bỏng nhiệt thành của Xi Vưu, A Hành chỉ muốn bất chấp tất cả nhận lời hắn, nhưng từ nhỏ nàng đã được dạy dỗ phải nghĩ kỹ rồi làm, tính chắc hẵng động, hơn nữa nàng còn cha mẹ anh em, không thể tùy ý hành động mặc kệ hậu quả như Xi Vưu được… Muôn mối tơ vò giằng xé trong lòng, khóe mắt nàng dần đỏ lên.

Từ sau khi tỉnh lại, mọi người chỉ kể cho nàng những chuyện vui, ngay đến Đại ca cũng chẳng đôn đốc nàng nữa, nhưng qua những lời xì xào to nhỏ, nàng cũng biết được hai trăm năm nay phụ vương rất lạnh nhạt với Đại ca, trong khi đó Cửu ca Di Bành lại được ngài dốc sức dạy dỗ, cơ hồ đã có thể ngang vai ngang vế với Thanh Dương, Tam phi Đồng Ngư thị thì ngày càng bức hiếp mẹ nàng, Triêu Vân phong bề ngoài có vẻ thanh bình, thật ra bốn bề đều có nguy cơ tiềm ẩn.

Bao năm nay Xi Vưu cưỡng ép thúc đẩy việc cải cách thể chế ở Thần Nông, tuyển dụng nhân tài không câu nệ, những người thề sống chết đi theo hắn ngày càng nhiều, nhưng những kẻ hận hắn thấu xương còn nhiều hơn, một khi bị kẻ địch nắm lấy nhược điểm, dù Du Võng muốn che chở cũng không che chở nổi cho hắn, bởi nước có phép nước.

Thấy A Hành cúi đầu, nước mắt lã chã, Xi Vưu thở dài, “Thôi thôi! Ta thua nàng rồi, nàng nói phải làm sao đây?”

A Hành đáp: “Dạo tân hôn, ta đã giao ước với Thiếu Hạo, đến một ngày y sẽ cho ta cơ hội được tự do lựa chọn. Dù sao ta cũng đã gả đi rồi, chỉ cần phía Cao Tân không truy cứu chuyện của ta, phụ vương sẽ chẳng ý kiến gì đâu.”

Xi Vưu vặn lại, “Vì sợ Cao Tân nên nàng chấp nhận rời xa ta, quay về bên Thiếu Hạo?”

“Không phải. Không chỉ là Cao Tân, mà còn bởi mối tương quan ràng buộc, cùng chung vinh nhục giữa Thiếu Hạo và Triêu Vân phong nữa. Nếu y bị đánh đổ, e rằng mẹ ta và Đại ca… tới chừng đó Tứ ca cũng… Mẹ và Tứ ca đối xử với ta ra sao, chàng thấy cả rồi đấy, ta không muốn vì mình mà làm tổn hại đến mẹ và Tứ ca, chàng cho ta chút thời gian đi, được không?”

Hiểu nguyên do vì sao A Hành chưa chịu rời Thiếu Hạo, Xi Vưu thấy lòng nhẹ nhõm hẳn, liền tươi cười kéo A Hành tới trước mặt, hôn lên những giọt lệ đọng khóe mi nàng, cợt nhả “Dù xảy ra chuyện gì ta cũng mãi mãi ở sau nàng. Nàng đừng sợ, nếu kẻ nào dám hà hiếp nàng, chỉ cần gọi một tiếng ‘Xi Vưu’, ta sẽ xông đến cắn chết hắn ngay!”

A Hành bật cười, “Rốt cuộc chàng là Đại tướng quân Thần Nông quốc, hay là sói hoang?”

Xi Vưu nháy mắt cười, huênh hoang, “Cứ xem như sói đi, nhưng không phải sói thường, mà là con sói hết dạ trung thành với A Hành, dũng cảm kiên cường, thông minh cơ trí, thần công cái thế, anh tuấn vô địch, trên trời dưới đất độc nhất vô nhị.”

A Hành nghe nói bật cười khanh khách, bao ưu sầu đều tan biến cả. Xi Vưu âu yếm nhìn nàng, đối với đàn ông, dù kẻ bình phàm hay người vĩ đại đều hạnh phúc vô vàn khi thấy bản thân có thể đem lại nụ cười cho người mình yêu thương nhất, hạnh phúc ấy nồng nàn tới nỗi trở thành niềm kiêu hãnh của anh ta. Công danh lợi lộc có đáng gì đâu chứ? Có thể đem lại nụ cười thật sự cho một người mới là việc khó nhất trên đời!

A Hành vòng tay ôm chặt lấy Xi Vưu. Trời dần ngả về đêm, nhưng vầng mặt trời trong lòng nàng lại đang tỏa nắng chói chang, ấm áp.
Tác giả: lilyant    Thời gian: 3-8-2016 10:25 PM
Chương 21


Đường trắc trở, tự mình tìm lối


21.1



Thiên Hạo đứng bên ngoài điện, đôi mắt nhìn theo đoàn người khuất bóng cuối chân trời.

Y ngoảnh đầu, bắt gặp A Hành đang đứng lặng dưới gốc đào, hoa hồng mặt ngọc chiếu rọi lẫn nhau, nhưng ánh mắt nàng lạnh buốt như băng giá.

[1] Trích trong bài Cửu ca – Sơn quỹ của Khuất Nguyên. (ND)

Xi Vưu đưa A Hành về đến tận Triêu Vân phong. Nàng lưu luyến nhìn theo bóng hắn mãi tới khi khuất dạng mới ngoảnh lại, liền trông thấy Đại ca và Tứ ca đang đứng ngay sau lưng mình.

Xương Ý hỏi thẳng: “Muội nhớ ra Xi Vưu rồi ư?”

A Hành đỏ mặt lúng túng, nói không nên lời.

Đến lượt Thanh Dương hỏi: “Tìm muội khắp nơi không thấy, Thiếu Hạo sợ xảy ra chuyện gì bất trắc nên đã quay về Cao Tân rồi, muội vẫn định về Cao Tân đấy chứ?”

A Hành vội đáp: “Phải về chứ, mai muội về luôn.”

Thanh Dương thở phào nhẹ nhõm, định nói thêm gì đó nhưng lại thôi, Xương Ý liền chen vào hỏi: “Vậy muội và Xi Vưu…”

A Hành cúi đầu: “Tứ ca, muội tự biết chuyện của mình mà.”

Xương Ý nghe nói gật đầu, ôn tồn bảo: “Muội đến dập đầu từ biệt mẹ đi.”

Sau khi từ biệt Luy Tổ, A Hành đem theo Liệt Dương rời khỏi Triêu Vân phong. Nàng vẫn chưa vội về Ngũ Thần sơn ngay, mà đi thẳng đến Ngu uyên trước.

Hơn hai trăm năm trước, tuy chẳng cây cối chim thú nào sinh sôi được ở Ngu uyên, nhưng ngoại vi Ngu uyên vẫn có sông ngòi hồ ao, cây cối rậm rì, vậy mà từ khi một con yêu quái vừa giống hổ vừa giống cáo tới đây tu hành, cả miền này đã biến thành vùng đất chết, không nhú nổi cọng cỏ.

Chẳng rõ ai trồng, chỉ biết ngoại vi Ngu uyên có một rừng đào, quanh năm xanh tươi mơn mởn, không bao giờ héo khô, còn xua tan nắng hạn cho cả vùng. Mỗi khi đến mùa hoa đào nở, con yêu quái đó đều hú lên thê thiết suốt đêm, khiến trăm họ Thụ Sa quốc phải dựng tế đàn trong rừng đào tôn nó làm Tệ Quân, cầu xin nó đừng gieo hạn hán cho Thụ Sa quốc.

Tệ Quốc ở Ngu uyên ngày ngày tu luyện, sớm đã nhập Ma đạo từ lâu. Nhưng vì đủ thứ nguyên nhân, những người biết chuyện đều không hẹn mà cùng giấu giếm việc ở gần Ngu uyên có một con yêu quái đã thành ma.

Một con chim trắng khổng lồ lướt qua bầu trời đêm, xông qua màn khói đen vần vũ phía trên Ngu uyên, lượn quanh mấy vòng rồi đậu xuống vách đá tối thui.

A Hành từ trên lưng bạch điểu chậm rãi bước xuống, cười nói: “Cảm ơn Liệt Dương.”

Chỉ trong nháy mắt, bạch điểu đã biến thành một cậu nhỏ áo trắng chừng mười một mười hai tuổi, dung mạo đẹp như ngọc, hai mắt xanh biếc, mái tóc dài chấm eo, trắng toát.

Vạn vật đều coi Ngu uyên là nỗi kinh hoàng nhưng A Hành và Liệt Dương lại chẳng hề sợ hãi, chỉ mải lắng nghe từng tràng tiếng hú thê thiết từ xa vẳng lại.

Khói đen mờ mịt tràn lan khắp Ngu uyên, mênh mông chẳng thấy bến bờ, không một sinh vật nào sống nổi trong làn khói độc ấy, nhưng Tệ Quân vẫn sống ở đó suốt bao năm nay.

A Hành rơm rớm nước mắt, quay sang bảo đứa nhỏ: “Liệt Dương, gọi nó về đi.”

Liệt Dương liền rít lên một tiếng the thé chói tai, ngược hẳn với vẻ ngoài thanh tú xinh xẻo.

Tệ Quân đang bay lòng vòng giữa màn khói đen mịt mù, nghe thấy Liệt Dương gọi liền bối rối ngưng bặt tiếng kêu. Lần theo tiếng rít của Liệt Dương, nó bay thẳng về phía Đông, một hồi lâu mới thấy hai bóng người giữa làn khói đen đặc, tỏa ra khí thức vừa quen vừa lạ.

Tệ Quân chần chừ giảm bớt tốc độ, khụt khịt mũi đánh hơi như để xác định thật giả, thình lình nó hú lên mừng rỡ, toan nhào tới, nhưng rồi lại phân vân. Sống giữa Ngu uyên bao năm nay, nó chẳng còn là chú hồ ly đẹp đẽ đáng yêu thuở xưa nữa, giờ đây cả người nó đều hôi rình tanh tưởi, nanh chìa ra lởm chởm, gương mặt trở nên méo mó đáng sợ vô cùng.

Thấy A Tệ định lẩn đi, Liệt Dương liền nhào tới, biến nguyên hình rồi đậu xuống vai nó, vừa quang quác mắng mỏ vừa dang cánh đập lia lịa vào đầu nó.

A Tệ bị đánh đến choáng váng đầu óc, quên khuấy ý định lẩn tránh, bèn ngoan ngoãn bay đến trước mặt A Hành. Chợt nó ngượng ngùng co rúm người lại, như sợ máu mủ tanh hôi trên người mình dây sang A Hành, gương mặt hung ác đầy vẻ bồn chồn hồi hộp.

A Hành liền ngồi thụp xuống, ôm chầm lấy nó.

“Bất kể mày là tiểu yêu tinh A Tệ hay là ma thú Tệ Quân, dù biến thành thứ gì, mày vẫn là tiểu hồ ly biết bay của ta.”

Bao đau khổ và cô quạnh suốt hai trăm năm đợi chờ đằng đẵng đều tan biến theo một lời này.

A Tệ dụi đầu vào lòng A Hành, nước mắt lã chã.

“Sao mày lại đợi ở Ngu uyên? Ai cũng bảo Hồ tộc thông minh, thế mà mày chẳng thừa hưởng được tí gì cả? Ngốc ạ!” A Hành vuốt ve những vết thương chi chít trên mình A Tệ, khóc nức lên.

Tuy A Tệ đã nhập ma, dáng vẻ hung ác nhưng tâm tư vẫn rất đơn thuần, thấy A Hành đau lòng, nó liền nghiêng đầu nhìn nàng, híp mắt lại thành hai vành trăng nhỏ cong cong, ve vẩy cái đuôi xù, định chọc nàng cười.

A Hành vẫn rầu rầu, A Tệ cau mày nghĩ ngợi giây lát rồi ngẩng đầu gầm lên với Liệt Dương, bày ra ma tướng cực kỳ đáng sợ.

Liệt Dương bị bất ngờ, sợ đến nhảy dựng cả lên, mặt mày tái mét.

A Tệ lấy làm đắc ý, tựa vào người A Hành vênh mặt cười hăng hắc, ha ha ha, Liệt Dương cũng biết sợ nó rồi!

Bị A Tệ hù dọa, Liệt Dương nổi giận rít lên một tiếng rồi xông tới, khạc ra cả chuỗi cầu lửa tấn công A Tệ, A Tệ lập tức co giò bỏ chạy, Liệt Dương đuổi sát sau lưng, cả hai lại chí chóe nhau, hệt như mấy trăm năm trước.

Thấy cảnh tượng ấy, A Hành nín khóc phá ra cười, đợi chúng nó giỡn chán chê, nàng bèn gọi: “Lại đây, mình về Cao Tân đi.”

Liệt Dương trợn mắt, nó vốn chẳng có thiện cảm với Thiếu Hạo, cũng chán ghét Cao Tân. Chỉ riêng A Tệ mừng rỡ chạy lại với A Hành, miễn là được sống cùng với A Hành và Liệt Dương thì ở đâu cũng thế cả.

Cuối tháng Bảy, chính đương độ nắng chiếu sen hồng thấm vị riêng[1]. Cao Tân nhiều hồ nhiều sen, dân chúng rất chuộng hoa sen, đi đến đâu cũng thấy bát ngát lá xanh, hương thơm ngan ngát. Đã hai trăm năm không tiếp xúc với thế nhân, A Hành bèn dắt theo A Tệ và Liệt Dương thong thả tản bộ giữa đêm thanh, vừa thưởng thức phong cảnh nhân gian vừa tìm hiểu tình hình Cao Tân hiện tại.

[1] Câu thơ trích trong bài Sáng sớm rời chùa Tịnh Từ tiễn Lâm Tử Phương của Dương Vạn Lý (1127 – 1206). (ND)

Nàng về gần đến Ngũ Thần sơn, Thiếu Hạo nhận được tin báo liền tự mình ra đón, y cũng chẳng nhắc tới chuyện Xi Vưu, chỉ hỏi thăm nàng đi đường có được bình an.

A Hành ôm A Tệ hỏi thẳng: “Chàng có thể tìm cách giúp bọn thiếp vào Thang cốc được không? Thiếp muốn trị những vết loét vì ma khí xâm thực trên người nó, mấy hôm nay đã tìm hái được vài loại thảo dược trong núi rồi, chỉ cần thêm nước của Thang cốc nữa thôi.” Thang cốc là thánh địa của Cao Tân, không dễ vào được, hơn nữa hiện giờ A Tệ lại bị coi là ma vật.

Thiếu Hạo mau mắn đáp: “Không vấn đề gì, vừa khéo bây giờ ta đang phụ mệnh phụ vương canh giữ Thang cốc.”

A Hành kinh ngạc vô cùng, Thang cốc là nơi hoang vắng ở cùng trời cuối đất, canh giữ Thang cốc có khác nào lưu đày? Nhưng thấy Thiếu Hạo không định giải thích, nàng cũng chẳng vặn hỏi nguyên do.

Giữa đêm khuya thanh vắng, A Hành dẫn A Tệ tới thẳng Thang cốc.

Thang cốc là chốn mặt trời lên, nguồn nước ở đây có thể nói là tinh khiết nhất trong thiên hạ. A Tệ vừa bị nhúng xuống nước đã run lẩy bẩy vì đau, A Hành và Liệt Dương phải mỗi người một bên ôm chặt lấy nó, A Hành vừa dịu dàng hát cho nó nghe như như dỗ trẻ nít vừa nhỏ nhẹ: “A Tệ ngoan nào, gắng chịu một chút, một chút nữa thôi là được mà.”

Mãi đến hết một tuần trà, nàng mới cho phép A Tệ lên bờ. A Tệ đau đến lả cả ra, Liệt Dương nhìn nhỏ người nhưng rất khỏe, liền vác A Tệ lên “hòn đảo” do chín gốc phù tang chụm lại.

Thấy A Tệ run cầm cập vì đau, Thiếu Hạo bèn đặt tay lên trán nó, cơn đau trên mình A Tệ được năng lượng thủy linh nhu hòa xoa dịu, nó ngủ thiếp đi.

Liệt Dương thấy A Tệ đã ổn bèn biến lại nguyên hình, rúc vào giữa đám lá gà gật ngủ.

A Hành xách một xô tướng ăm ắp thuốc vừa sắc lại, bắt đầu bôi thuốc cho A Tệ.

Thiếu Hạo ngồi dưới bóng trăng, lặng lẽ gảy đàn. Tiếng đàn dịu dàng như ru, dẫn dắt linh lực trong mình A Tệ hấp thụ dược tính.

Bôi xong thuốc, A Hành rửa sạch tay rồi ngồi xuống bên Thiếu Hạo. Thiếu Hạo mỉm cười, tiếp tục gảy đàn.

Hoa phù tang đỏ rực như từng ngọn đèn lồng lung linh đầy cành, Thiếu Hạo vận bạch y ngồi dưới gốc cây, toát lên khí chất tao nhã vô song, đến nỗi ánh trăng lạnh lẽo rọi xuống người y cũng trở nên ấm áp. Vậy mà con người tài hoa xuất chúng, ý chí cao vời đó lại bị biếm đi tận cùng trời cuối đất canh giữ Thang cốc.

A Hành khẽ hỏi: “Thiếp nhớ hai trăm năm trước quan hệ giữa chàng và phụ vương đã có phần dịu lại, sao giờ thành ra thế này? Chàng làm gì mà phụ vương căm ghét chàng đến thế?”

Thiếu Hạo dừng tay gảy đàn: “Sau khi nàng rớt xuống Ngu uyên, Hậu Thổ đánh Chúc Dung trọng thương, Chúc Dung phải trốn vào cổ trận của Thần Nông. Dẹp được chướng ngại vật lớn nhất, Xi Vưu bắt đầu thả sức làm theo ý mình. Chắc nàng cũng nghe nói, hai trăm năm nay đã có mấy mươi gia tộc bị hắn diệt môn chứ? Dưới chính sách tàn khốc của hắn, chế độ cũ ở Thần Nông đã bị đánh đổ hoàn toàn. Thần Nông hiện giờ vô cùng thịnh vượng, ai ai cũng phát huy được sở trường. Nhìn Thần Nông biến đổi từng ngày, ta nhất thời nôn nóng, định dựa vào quân đội trong tay, cưỡng chế thúc đẩy Cao Tân cải cách. Nào ngờ bọn Yến Long lại gièm pha đơm đặt, khiến phụ vương đùng đùng nổi giận, cho rằng ta có lòng soán vị, cấm ta can dự vào việc triều chính, còn sai đi trấn giữ Thang cốc.”

“Chẳng phải Yến Long đã mất một cánh tay rồi sao?”

“Hắn mất một cánh tay, công lực suy giảm dần, nếu là người khác, hẳn cũng chẳng coi trọng kẻ tàn phế quá nửa như vậy nữa, nhưng phụ vương ta xưa nay nặng tình, lại càng thương Yến Long hơn cả khi xưa. Mấy năm gần đây, phụ vương thường nói với chúng thần, ‘Trong tất cả các con, Yến Long giống ta hồi trẻ nhất’, bọn họ hết thảy đều hiểu ý phụ vương.” Thiếu Hạo thở dài, mặt buồn hiu hắt, “Tính tình phụ vương dịu dàng đa cảm, thích xem mỹ nhân ca vũ, ham đọc thơ văn tài tử, quả thật ta không giống với phụ vương, khiến ngài rất thất vọng. Thêm nữa, hẳn phụ vương cũng biết Hiên Viên Bạt trong Thừa Hoa điện là giả nên chẳng coi ta ra gì.”

“Chàng cam lòng trấn giữ Thang cốc hoang vu này mãi mãi, đợi Yến Long đăng cơ ư?”

Thiếu Hạo khẽ cười, “Đương nhiên không rồi, ngày Yến Long đăng cơ chẳng những là ngày chết của ta, mà còn là ngày chết của cả Cao Tân tộc. Ta chết chỉ là việc nhỏ, nhưng quyết không thể để Cao Tân diệt tộc được!”

“Vậy chàng tính…”

Nụ cười của Thiếu Hạo thoáng vẻ lạnh lùng, “Ta định nhờ nàng giúp một việc.”

“Giúp việc gì cơ?”

“Cao Tân tộc đã có lịch sử mấy vạn năm, trải qua Bàn Cổ đại đế đến giờ, chuyện tranh đấu trong cung đình tiếp diễn liên miên nên thần khí nghiệm độc bao giờ cũng sẵn, chẳng chất độc nào lọt lưới được. Có lẽ chỉ có Thần Nông Thị nếm mọi loại cây cỏ, lấy thân thử độc mới có cách mà thôi. Bởi vậy ta muốn nhờ nàng phối chế giùm ta một loại thuốc có thể lọt qua mọi thần khí thẩm tra, không cần lấy mạng đối phương, chỉ cần khiến hắn dần dần mệt mỏi ốm yếu, phải nằm liệt giường là được.”

Hiểu ý Thiếu Hạo muốn ép Tuấn Đế thoái vị, A Hành làm thinh không nói.

Thiếu Hạo nói tiếp: “Ngũ Thần quân của phụ vương suốt ngàn năm nhàn hạ quen thân, chỉ còn cái vỏ bề ngoài, kỳ thực bên trong đã mục ruỗng từ lâu, chẳng có gì đáng ngại. Tuy Yến Long nắm hai bộ Thường Hy và Bạch Hổ, nhưng Thanh Long bộ huyết mạch của ta mới là bộ tộc thiện chiến nhất trong bốn bộ, nhờ Nặc Nại giúp sức, Hy Hòa bộ cũng hoàn toàn quy thuận ta rồi. Nếu muốn phát động binh biến không phải là không được, có điều ta chẳng muốn động vũ lực, bởi một khi binh biến xảy ra, đôi bên sẽ phải trở mặt sống mái với nhau cho tới khi một trong hai phe chết sạch mới thôi, như vậy dù ta có chấp nhận, những tướng quân theo ta mưu phản há yên lòng được ư? A Hành, ta không muốn làm hại phụ vương, đây chính là phương pháp vẹn cả đôi đàng đấy!”

Thiếu Hạo khẽ gảy mấy dây đàn, ánh mắt thăm thẳm bi thương: “Hơn hai ngàn năm nay, lúc nào phụ vương cũng nơm nớp đề phòng ta soán vị. Thật ra ta chưa hề nghĩ tới chuyện đó, chỉ một lòng một dạ muốn phò tá phụ vương, muốn làm một đứa con ngoan ngoãn, nào ngờ cuối cùng lại đến ngày này, tất cả trở thành sự thật! Có lẽ các sử quan đời sau sẽ ghi chép rằng ta là kẻ lòng lang dạ sói, nuôi chí làm phản, ủ mưu bao năm mới hành sự. Nếu sau này ta có con trai cũng chẳng biết phải giải thích thế nào với nó, có lẽ nó cũng vĩnh viễn không thể thông cảm cho ta. A Hành, thật lòng ta không muốn đi đến bước này, nhưng ta đã bị ép vào đường cùng rồi! Bọn Yên Long đẩy ta đến Thang cốc rồi vẫn chưa chịu buông tha, mấy năm nay chúng ngày đêm nghĩ cách làm tan rã Thanh Long bộ, nếu ta còn khoanh tay ngồi nhìn, những người một lòng một dạ đi theo ta sẽ bị Yến Long hại chết hết, sau cùng cả ta cũng không tránh khỏi cái chết!”

Nếu Thanh Long bộ tan rã thì dù Nặc Nại muốn giúp Thiếu Hạo, Hy Hòa bộ chắc chắn sẽ không ủng hộ một tên vương tử cầm chắc thất bại, để tự bảo vệ mình, bọn họ ắt sẽ quy thuận Yến Long. A Hành ngẫm nghĩ hồi lâu rồi dịu giọng: “Thiếp hiểu tình cảm của chàng mà, thôi, để thiếp giúp chàng!”

Dù cả thiên hạ không dung thứ, chỉ cần một người hiểu cho mình thôi cũng đủ. Nghe được câu nói này, nỗi đau thương trong lòng Thiếu Hạo cũng vơi đi nhiều, y bất giác nắm chặt tay nàng, “A Hành, đa tạ nàng! Ta thật lòng nghĩ…”

A Hành khẽ rút tay ra: “Chàng cần gì phải khách khí? Lẽ nào chàng quên giao ước giữa chúng ta lúc mới kết hôn rồi ư? Chúng ta là đồng minh, hôm nay thiếp giúp chàng, ngày sau chàng cũng phải giữ lời hứa của mình đấy.”

Thiếu Hạo vô cùng thông minh, vừa nghe liền phát hiện A Hành đã nhớ ra mọi chuyện, cũng hiểu ngay ý nàng, lòng cảm thấy vô cùng khó tả, nhưng y vẫn gắng giữ vẻ thản nhiên, thu tay vào trong áo, hờ hững hỏi: “Nàng nhớ ra tất cả rồi sao?”

“Ừm.” A Hành đỏ bừng mặt, áy náy do dự hồi lâu, như thể nghĩ ngợi gì đó, “Thiếp…” Thấy A Hành lúng túng, Thiếu Hạo liền mỉm cười, ôn tồn cắt lời nàng: “Ta sẽ giữ lời. Trời sáng đến nơi rồi, nàng ở đây lâu không tiện đâu, mau về nghĩ đi, để ta đi xem A Tệ thế nào.”

A Hành đi được một quãng, chợt quay lại nhìn, dưới ánh trăng, Thiếu Hạo ngồi xuống xếp bằng giữa rợp bóng hoa phù tang đỏ rực, đối mặt với bao la sóng biếc, bạch y phất phơ trong gió, tiếng đàn mạnh mẽ như đẽo vàng cắt ngọc, đầy hùng tâm tráng chí của kẻ sắp bước lên ngôi trị vì thiên hạ, nhưng cũng dằng dặc cô đơn lạc lõng.

Theo lời Thiếu Hạo, vương thất Cao Tân trải qua mấy vạn năm đấu đá lẫn nhau trong cung đình đã tích lũy được không ít kinh nghiệm, quy trình kiểm soát dược tính vô cùng chặt chẽ hoàn chỉnh, muốn chế ra một loại độc dược có thể lọt qua cửa thẩm tra lại chỉ vừa đủ khiến cho người ta ốm liệt thật chẳng dễ chút nào. A Hành lôi Thần Nông Bản Thảo Kinh ra đọc từ đầu đến cuối, từ cuối lên đầu, cuối cùng chỉ chế ra được một loại thuốc tương đối phù hợp với yêu cầu của Thiếu Hạo.

Nàng giao thuốc cho y, căn dặn: “Thuốc này chỉ có thể tạm coi là phù hợp với yêu cầu của chàng thôi, thành phần chủ yếu lấy từ máu A Tệ, nó sẽ hủy hoại linh lực của người trong Thần tộc từng chút một, giống như Ngu uyên vậy, khiến người ta dần dần bải hoải toàn thân, hành động bất tiện.”

Thiếu Hạo hỏi: “Có thuốc giải không?”

“Nó không phải là thuốc độc nên cũng không có giải dược. Chỉ cần ngừng hạ độc, dần dần thân thể sẽ tự hồi phục, người khỏe khoắn trở lại. Ta chế ra hai lọ, theo ý chàng.”

Thiếu Hạo cẩn thận cất thuốc đi: “Cảm ơn nàng.”

“Chúng ta là đồng minh, chỉ cần chàng nhớ giữ lời thề của mình là được.”

“Ta nhất định sẽ nhớ!”

Dưới sự sắp xếp của Thiếu Hạo, “bệnh tình” của A Hành bắt đầu thuyên giảm, mỗi lần thầy thuốc trong cung tới thăm mạch đều có lời chúc mừng hai người, theo đó, tin Đại vương tử phi đang khá dần lên cũng lan truyền khắp trong ngoài cung.

Tuy Thiếu Hạo thất thế nhưng A Hành vẫn là vương cơ duy nhất của Hiên Viên tộc, từ sau khi nàng khỏe lại, thiếp mời dự đủ các tiệc bắt đầu tới tấp theo nhau bay đến.

Nghĩ tới việc “Hiên Viên Bạt” trước đây đã nằm liệt giường hai trăm năm, A Hành cũng không dám ra vẻ khỏe như vâm ngay, hầu hết tiệc tùng nàng đều lấy cớ thân thể còn yếu để từ chối, nhưng có những buổi tiệc không thể không đi, bởi nàng nhất định phải chứng minh mình là Hiên Viên Bạt thật sự.

Thấy Tuấn Hậu tuyên triệu mình vào cung gặp mặt, A Hành hiểu ngay mình sắp bị kiểm chứng thân phận.

Nàng bèn trang điểm lộng lẫy, lên xe đi bái kiến Tuấn Hậu.

Xe đến cửa điện thì dừng lại, tên tùy tùng bên cạnh cười giải thích: “Vương tử phi vừa khỏi bệnh, vốn dĩ nên cho xe thẳng tiến thẳng vào trong điện để vương tử phi đỡ mệt, nhưng đây là quy củ, bề tôi đến cửa điện phải xuống xe đi bộ, hiện giờ Tuấn Đế chỉ ban cho mình Nhị điện hạ được ngồi xe vào tấn kiến thôi.”

Đám người hầu hạ trong cung luôn là những kẻ giỏi xét mặt đón ý, mềm nắn rắn buông nhất trên đời, A Hành lẽ nào không hiểu ý bọn chúng. Xem ra Tuấn Đế rất căm ghét Thiếu Hạo, đến nỗi ghét lây sang cả con dâu. Nàng bèn cười nhạt bước xuống xe: “Bao năm nay ta không đến thỉnh an mẫu hậu được, quả thật chưa tròn đạo hiếu, xuống xe đi bộ vào là phải lẽ thôi.”

Cả tòa cung điện rộng mênh mông, choán gần hết ngọn núi, A Hành lại muốn chóng xong nên rảo bước đi thật mau. Đến vườn Y Thanh, vẫn chưa thấy Tuấn Hậu ở đó, chỉ nghe đám thị nữ bẩm: “Tuấn Hậu đang rửa mặt chải đầu, xin vương tử phi đợi một lát.”

Tác giả: lilyant    Thời gian: 3-8-2016 10:32 PM
Tiêu đề: RE: [Huyền Huyễn - Xuất Bản] Từng Thề Ước | Đồng Hoa (Chương 21)
Chương 21

Đường trắc trở, tự mình tìm lối

21.2


Cao Tân nằm về phía Đông Nam, khí hậu ôn hòa, mùa đông ấm áp chẳng kém tiết xuân ở những nước phương Bắc, còn mùa hạ lại nóng nực oi nồng. Tuy nhiên Ngũ Thần sơn nằm giữa biển, gió biển thổi vào xua tan phần nào cái nóng nên không tới nỗi nóng nực lắm, thêm vào đó, cung điện ở đây cũng được thiết kế theo phong cách kiến trúc Cao Tân để tránh nóng.

Phỏng theo lối thiết kế đó, khắp nơi trong vườn Y Thanh đều xum xuê cây cối, nhan nhản ao hồ, hoặc thác nước, hoặc khe suối, quanh co uốn lượn, lăn tăn dập dềnh, nhỏ thì không tới một thước, lớn thì đủ để chèo thuyền.

A Hành đợi đến phát chán, trong thấy trong vườn không có ai, bèn men theo dòng suối lững thững đi vào.

Càng đi sâu vào trong, phong cảnh càng thêm đẹp, hai bên là suối chảy róc rách, thế núi uốn lượn, trúc xanh tùng biếc, cây cối um tùm, dăm ba cánh hạc tiên lội dưới suối kiếm ăn, dáng dấp tiêu sái, nhìn thấy A Hành cũng chẳng hề hoảng hốt.

Sâu trong bờ nước là một rừng trúc xanh biêng biếc, trùng trùng điệp điệp, thấp thoáng bóng nam tử bạch y nửa nằm nửa ngồi tựa lưng vào tảng đá say sưa ngủ, cuốn sách lụa phủ trên mặt. Dưới con suối cách đó không xa, hai cặp uyên ương đang bơi qua bơi lại giỡn nước, quấn quýt sánh đôi, nhởn nhơ thoải mái.

A Hành toan trở gót quay lui nhưng chẳng kịp, nam tử kia đã tỉnh giấc nhỏm người dậy, cuốn sách trên mặt rơi xuống để lộ dung mạo thanh nhã, khí độ xuất trần, dưới bóng trúc mờ mờ, quang âm dào dạt, chẳng khác nào ẩn giả trong núi.

Nhận ra Thiếu Hạo, A Hành tươi cười tiến lại.

Nam tử kia lơ mơ hé mắt nhìn, vẻ mặt bực bội ra mặt vì mất giấc mộng đẹp. Nhìn nghiêng người này giống Thiếu Hạo như đúc, nhưng A Hành lập tức nhận ra ông ta không phải Thiếu Hạo! Thiếu Hạo chưa bao giờ giận ra mặt, nhất định cũng chẳng bao giờ bực bội vì những chuyện nhỏ thế này.

Nghe tiếng bước chân, nam tử kia liền quay lại, tuy dung mạo người đó rất giống Thiếu Hạo nhưng khí chất đôi bên khác hẳn nhau, nam tử này chỉ có vẻ dịu dàng tình tứ như nước, thiếu nét cứng rắn trầm ổn tựa như núi của Thiếu Hạo.

A Hành vội quỳ xuống thỉnh an, “Phụ vương.”

Tuấn Đế nhìn nàng, trầm ngâm một thoáng mới nhận ra, “Sao con lại đến đây?”

A Hành không biết Tuấn Hậu triệu mình vào cung có việc gì nên chẳng dám nói bừa: “Nhi thần tiến cung bái kiến mẫu hậu nhưng người đang bận việc, thấy phong cảnh bên suối đẹp quá, nhi thần bèn tản bộ ngắm cảnh, nào ngờ lại kinh động phụ vương, xin phụ vương xá tội.”

Tuấn Đế hỏi: “Cảnh đẹp ư? Đẹp thế nào? Nếu con trả lời được thì miễn tội, bằng không ta cũng trị luôn Thiếu Hạo tội bất kính, cùng với con.”

A Hành cười đáp: “Tâu phụ vương, vườn này tên Y Thanh, chỉ riêng cái tên đã lột tả hết vẻ đẹp của cảnh sắc nơi đây rồi. Quả là ‘gió nhẹ mưa phùn nào rát mặt, ấm mềm vạt áo lúc oi nồng.’”

Tuấn Đế điềm đạm nói: “Tên vườn này do ta đặt, con đã thích nơi này, ta sẽ dẫn con đi dạo một vòng. Bốn chữ ‘gió nhẹ mưa phùn’ thoạt nghe rất đơn giản nhưng người thật sự hiểu được chẳng có mấy ai, con người ta có khi nào chịu bình thản tĩnh tâm mà thưởng thức cảnh sắc đâu.”

A Hành theo Tuấn Đế cùng tản bộ ngắm cảnh, vừa đi Tuấn Đế vừa chỉ cảnh trí, giảng giải cho nàng nghe hết lai lịch từng hòn đá khóm hoa nơi đây. Từ nhỏ, nàng lớn lên cùng vị Tứ ca thông hiểu thơ từ ca múa, chim cá lá hoa, nên mấy thú chơi đó nàng cũng chẳng kém ai, về sau lại học được Thần Nông Bản Thảo Kinh, cực kỳ tinh thông các loại hoa thơm cỏ lạ, đôi bên càng thảo luận, nàng càng hợp chuyện với Tuấn Đế, khiến ông mừng như bắt được tri âm.

Đột nhiên Tuấn Đế bất ngờ hỏi: “Sao con bệnh suốt hai trăm năm thế?”

Vấn đề này Thiếu Hạo đã dặn nàng kỹ cách trả lời, nhưng giờ đây, đối diện với con người ôn tồn hòa nhã, chẳng hề giống một vị đế vương, A Hành lại không sao nói nên câu được. Im lặng càng lâu, nàng càng lúng túng chẳng biết phải trả lời như thế nào cho phải, lý do mà Thiếu Hạo sắp sẵn cũng không thể áp dụng được nữa, A Hành cứ bồn chồn bứt rứt nghĩ cách đến nỗi lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi.

Thấy nàng không trả lời, Tuấn Đế chẳng những không bắt lỗi mà ngược lại còn tỏ ra vui mừng, mỉm cười nói: “Cũng nực cười thật, vương thất Cao Tân xưa nay xem trọng lễ nghi, ưa thích những thứ đẹp đẽ thanh tao, ta lại là nhân tài kiệt xuất trong số đó, từ nhỏ đã lấy làm tự phụ về dung mạo tài hoa của mình, bất luận một khóm hoa hay một người con gái đều yêu cầu phải thật hoàn mỹ, thậm chí còn xem mặt đặt tên quần thần, ưu ái những kẻ bề ngoài xuất chúng, lời nói lịch thiệp. Trong tất cả các con trai, ngoại hình Thiếu Hạo giống ta nhất, vừa ra đời lại mất mẹ nên ta luôn yêu thương nó, giữ nó bên mình, gần như cầm tay chỉ dạy cho nó mọi thứ, tiếc rằng càng lớn nó càng trở nên xa lạ. Con với nó…” Tuấn Đế lắc đầu, “không hợp nhau chút nào.”

A Hành vừa kinh ngạc vừa sợ hãi đến cứng đờ cả người, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa.

Tuấn Đế khẽ thở dài, vẻ mặt chất chứa sầu muộn, “Nhưng trong vương thất có được mấy cặp vợ chồng hòa hợp với nhau đâu? Hầu hết đều là người lừa ta, ta gạt người, lấy hạnh phúc giả tạo che mắt người đời vậy thôi.”

Bấy giờ A Hành mới dám thở phào nhẹ nhõm, khôi phục tri giác.

Tuấn Đế ngồi xuống phiến đá bên bờ suối, “Gần đây chẳng hiểu sao ta hay bị mệt đột ngột, người ngợm bải hoải, chẳng có sức lực gì cả.” Đoạn ông chỉ phiến đá đối diện, “Con cũng ngồi xuống đi!”

Hai ả thị nữ từ đâu hớt hải chạy đến, vẻ mặt hoảng hốt quỳ xuống thỉnh tội với Tuấn Đế: “Tuấn Hậu đang đợi vương tử phi, nô tỳ đi tìm mấy vòng mà chẳng thấy, không ngờ vương tử phi lại đi cùng bệ hạ.”

A Hành vội hành lễ với Tuấn Đế xin cáo lui, Tuấn Đế gật gật đầu, tỏ ý cho phép.

Đi một quãng xa, A Hành mới dám len lén ngoảnh lại, thấy Tuấn Đế vẫn ngồi lặng bên dòng suối, ngơ ngẩn đối diện với bóng mình dưới nước.

Tuấn Hậu vừa trong thấy A Hành đã vồn vã thân mật, một mực giữ nàng lại đến tối để dự tiệc.

Tiệc tối có đông đủ tất cả vương tử phi và vương cơ, ai nấy đều mượn lối đùa cợt nô giỡn giữa đám phụ nữ khuê phòng để thăm dò xem Hiên Viên Bạt là thật hay giả.

Hiên Viên Bạt vốn là vàng thật, đương nhiên không sợ lửa, hễ binh đến tướng ngăn, nước lên đất chặn.

Yến tiệc còn huyên náo đến nửa đêm, tới giờ đóng cửa cung mới giải tán.

Hiên Viên Bạt vừa ra khỏi cửa điện, thị vệ đã tươi cười đánh xe đến.

Nàng thoáng ngạc nhiên bèn vén rèm lên nhìn, thấy Thiếu Hạo ngồi bên trong bèn nhảy lên xe, “Sao chàng lại đến đây?”

Y đáp: “Nàng đi suốt cả ngày, ta không yên tâm.”

“Mẫu hậu thăm dò cả ngày nay, hẳn đã tin thiếp chính là Hiên Viên Bạt rồi. À phải, hôm nay thiếp gặp phụ vương.”

“Phụ vương khỏe không?”

“Phụ vương dắt thiếp đi ngắm hoa lan ngài trồng, thiếp nức nở khen ngài mát tay trồng lan, thoạt đầu ngài còn tưởng thiếp nịnh hót, về sau nghe thiếp phân tích rành rọt nguyên do, ngài có vẻ vui lắm. Thiếp cùng phụ vương đi tản bộ một quãng, ngài bắt đầu thấm mệt, thiếp…” A Hành ngập ngừng, vẻ mặt buồn bã, “Thiếp thấy rất áy náy, phụ vương không phải người xấu, thậm chí ngài ấy còn tốt hơn rất nhiều, rất nhiều người…”

Thiếu Hạo thuyết phục nàng: “Phụ vương là công tử phong lưu nhàn tản, chỉ thích thưởng thức thư họa ca múa, bình phẩm chim cá lá hoa, cuộc sống của ngài sau này vẫn sẽ được giữ nguyên như bây giờ mà.”

Sẽ giữ nguyên được thật ư? Mong là thế! A Hành làm thinh không nói nữa, Thiếu Hạo cũng nín lặng ngồi yên.

Xe về đến cổng Thừa Hoa điện, A Hành tưởng Thiếu Hạo sẽ âm thầm trở về Thang cốc, nào ngờ y đột nhiên nói: “Tối nay nàng có khách quý tới thăm, ta không tiện vào cùng. Nàng cứ đi vào bình thường, đến hoa phòng đợi ta. Ta sẽ lặng lẽ lẻn vào phủ rồi tới hoa phòng gặp nàng.” Nhớ khi xưa, vì A Hành thích trồng hoa tỉa lá nên Thiếu Hạo đã xây dựng hoa phòng này cho riêng nàng, kẻ không biết chỉ cho là hành vi xa hoa vung tiền lấy lòng vợ đẹp, kỳ thực bên trong được Nặc Nại thiết kế đủ mọi loại cơ quan, có thể nói, đây chính là mật thất để Thiếu Hạo bàn bạc những việc quan trọng, tránh tai mắt người đời.

A Hành cười khổ não, Thiếu Hạo quả thật đã bị Yến Long và Tuấn Đế ép tới đường cùng, đến nỗi phủ đệ của chính mình mà cũng chẳng được đàng hoàng bước vào, phải lén lén lút lút như kẻ trộm. Nàng rầu rĩ hỏi: “Ở Cao Tân, thiếp có thể có khách quý gì đây?”

Thiếu Hạo cười bí ẩn, “Đợi đến lúc nàng sẽ biết.”

A Hành trở về phòng thay y phục tắm rửa rồi thong thả ăn chút đồ lót dạ, xong xuôi mới xách lẵng hoa và kéo, lấy cớ muốn cắt vài đóa hoa tươi đặt bên giường cho dễ ngủ, lững thững đi tới hoa phòng.

Một cô gái lạ mặt, dung mạo thanh tú, dịu dàng diễm lệ đang đứng trong bóng tối hoa phòng, thấy nàng bước vào liền tiến lại hành lễ: “Nô tỳ tên gọi Khấp Nữ, là thị nữ của Nặc Nại tướng quân. Nặc Nại tướng quân đang đợi Vương tử phi.”

Té ra là y! A Hành gật đầu. Khấp Nữ liền xăng xái đi trước dẫn đường, trông có vẻ thông thuộc các cơ quan ở đây hơn cả vị chủ nhân này, xem ra Nặc Nại rất tin tưởng ả. Thấy A Hành âm thầm quan sát mình, Khấp Nữ ngoảnh lại cười: “Nghe tên nô tỳ vương tử phi thấy lạ phải không? Cha nô tỳ một lòng muốn có con trai, nhưng trong nhà lại sinh tất cả chín chị em gái, đến nô tỳ là đứa thứ mười, cha suýt nữa định vứt nô tỳ đi, ngay đến cái tên cũng không buồn đặt. Nô tỳ chẳng được ăn no, ngày đêm cứ khóc lóc nhèo nhẹo, mọi người đều gọi nô tỳ là Khấp Nữ. Hai trăm năm trước, không chịu nổi ngược đãi, nô tì bèn bỏ trốn khỏi nhà, may sao lúc bệnh nặng sắp chết thì gặp được Nặc Nại tướng quân, mới có chỗ nương nhờ. Bởi nô tỳ là nữ tử, không gây chú ý nên lâu nay nô tỳ thường xuyên yểm trợ cho tướng quân tới đây gặp Đại điện hạ.”

A Hành khen ngợi: “Nặc Nại tướng quân là nhân tài xuất chúng, nay thị nữ của y cũng là vạn người chọn một.”

Khấp Nữ dịu dàng cười, mở cửa cho A Hành: “Tướng quân đang đợi bên trong, mời vương tử phi vào, nô tỳ sẽ đứng ngoài.”

Hai người ngồi trong phòng nghe tiếng động đều đứng cả dậy, một kẻ chính là Nặc Nại dung mạo tuấn tú, phong thái phiêu dật, người kia chính là một nữ tử dung mạo bình thường, trông thấy A Hành, nàng liền gỡ mặt nạ bằng nhân diện tằm xuống.

“Vân Tang tỷ tỷ!” Nhận ra Vân Tang, A Hành reo lên mừng rỡ, nhào tới ôm chặt lấy nàng.

Vân Tang rưng rưng nước mắt, xem ra còn kích động hơn cả A Hành, “Muội không biết bao năm qua ta khổ sở chừng nào đâu.”

“Hiện giờ muội đã bình an vô sự rồi mà.”

Vân Tang nắm chặt lấy tay nàng, chăm chú nhìn A Hành từ đầu đến chân, cười nói: “Đúng là muội rồi, ta phải viết thư ngay cho Hậu Thổ để hắn khỏi áy náy buồn rầu nữa, bao năm nay tên ngốc đó cứ dằn vặt mình không thôi.”

A Hành ngẩn người một thoáng mới hiểu ra: “Tỷ cho muội gửi lời hỏi thăm hắn nhé,” đoạn cười hỏi tiếp: “Sao tỷ tỷ lại đến đây?”

Vân Tang đỏ bừng mặt khẽ thì thào: “Ta đã ở Cao Tân một thời gian rồi.”

A Hành nghe nói liền nhìn sang Nặc Nại, mím môi nén cười. Vân Tang gắng lấy lại bình tĩnh nói tiếp: “Trên Tử Kim đỉnh, tên khốn Xi Vưu bắt ta thề không can dự vào triều chính nữa, bằng không sẽ chết chẳng toàn thây! Ta ở lại Thần Nông cũng chẳng có việc gì làm, tới Cao Tân thăm thú thì có vấn đề gì chứ?”

A Hành xua tay, “Không có gì, không có gì.”

Nặc Nại bước lên hành lễ với nàng, “Hôm nay tôi đưa Vân Tang tới đây một là để nàng tận mắt thấy vương tử phi, từ rày yên lòng khỏi lo lắng, hai là muốn cầu xin vương tử phi một việc.”

Vân Tang liền nói: “Ta đi xem sao mãi Thiếu Hạo chưa tới.” Nói rồi nàng vội vã đeo mặt nạ lên, rời khỏi mật thất.

Nặc Nại mời nàng ngồi xuống, thong thả nói: “Vương tử phi chớ thấy Vân Tang chửi rủa Xi Vưu mà lầm, thật ra trong lòng nàng biết rõ, Xi Vưu là muốn tốt cho nàng. Chúc Dung bất ngờ bế quan, Xi Vưu không còn trở ngại gì, lập tức thực hiện cải cách. Nhờ phương pháp cứng rắn của hắn, mấy chục năm trước Thần Nông đã ổn định cục thế. Có điều Vân Tang giờ đây chỉ còn lại Viêm Đế là ruột rà máu mủ, vương tử phi biết tính nàng rồi đó, nàng làm đại tỷ đã quen, chuyện gì cũng không yên tâm, chuyện gì cũng lo lắng, chỉ mãi nghĩ cho người khác mà quên cả bản thân mình, dù tôi có khuyên thế nào nàng cùng không đành lòng bỏ rơi Viêm Đế, lại thêm Cộng Công và Hậu Thổ cứ tới tìm Vân Tang nhờ giúp đỡ. Hết cách, ta đành tới nhờ Xi Vưu, nói rõ tình cảm của ta dành cho Vân Tang, hy vọng Vân Tang có thể yên lòng mà sống. Xi Vưu thật không hổ là đại trượng phu! Hắn chẳng nể nang tiếng vong ân phụ nghĩa, buộc Vân Tang phải thề độc không được tham gia triều chính. Nhìn bề ngoài làm vậy có vẻ tàn nhẫn vô tình, nhưng thực ra đó là vì muốn tốt cho Vân Tang, vừa buộc nàng dứt ra, vừa khiến bọn Hậu Thổ thấy Vân Tang không còn giá trị lợi dụng, để chúng khỏi kéo nàng vào vòng tranh đấu quyền lực nữa.”

Nặc Nại thở phào cười: “Bây giờ tôi liền ép Vân Tang tới Cao Tân.”

A Hành hỏi lại: “Ép ư? Ta thấy Vân Tang tỷ tỷ rất vui, e rằng đã vui quên đường về rồi!”

Nặc Nại tràn trề hạnh phúc, hành lễ với nàng, “Vân Tang đã đồng ý gả cho tôi, phiền vương tử phi tác thành.”

“Ta dĩ nhiên bằng lòng, nhưng việc này chẳng phải tướng quân nên đi nhờ Thiếu Hạo hơn ư?”

Thiếu Hạo cùng Vân Tang một trước một sau tiến vào, nghe nàng nói, y bật cười đáp: “Chuyện này nàng giúp được nhiều hơn ta đấy.”

Nặc Nại đỡ lời: “Hiện giờ điện hạ đang phải trấn giữ Thang cốc, cả năm cũng khó mà giáp mặt Tuấn Đế một lần. Nếu điện hạ có ý bái kiến Tuấn Đế xin ban hôn, lại thêm thân phận đặc biệt của Vân Tang, e rằng sẽ khiến Tuấn Đế sinh lòng nghi kỵ. Nhưng vương tử phi lại khác, lúc nào vương tử phi cũng có thể vào cung. Tuấn Đế thích thơ từ ca phú, ham nuôi trồng các loại kỳ hoa dị thảo, mà luận về thơ từ ca phú trong thiên hạ không ai hơn được Xương Ý, hiểu biết về kỳ hoa dị thảo, trên đời cũng chẳng ai bì được Viêm Đế đời trước. Vương tử phi là kẻ duy nhất trong thiên hạ kế thừa được sở trường cả của hai người, hơn hai trăm năm trước, Tuấn Đế đã có thiện cảm với vương tử phi, thậm chí vì thế mà tử tế hơn với điện hạ. Chỉ cần vương tử phi lựa lúc thích hợp, nói giùm tôi và Vân Tang mấy lời trước mặt Tuấn Đế, với bản tính đa tình của ngài, hẳn sẽ lập tức phê chuẩn.”

“Hóa ra là thế.” A Hành nghĩ ngợi một lát rồi cười: “Dạo trước, trên đường từ Hiên Viên về Cao Tân, ta tìm được mấy giỏ lan hiếm có, cũng vừa mới vun xới cho ra dáng, ngày kia ta sẽ vào cung dâng phụ vương.”

Nặc Nại mừng rỡ, cảm ơn luôn miệng, “Đa tạ, đa tạ vương tử phi.”

Thiếu Hạo cười bảo: “Đều là người nhà cả, cần gì giữ lễ như thế? Đợi hai người thành hôn, cả hai kính A Hành mấy chung rượu là được mà.”

Vân Tang cúi đầu ngồi im trong góc phòng, mặt đỏ bừng vì thẹn. A Hành cười nắc nẻ, chợt liếc qua cánh cửa khép hờ, trông thấy Khấp Nữ đứng giữa bóng tối bên ngoài đang chòng chọc nhìn Vân Tang, ánh mắt vừa ghen tỵ vừa buồn bã, vô cùng phức tạp. Phát hiện ra A Hành đang nhìn mình, ả liền gượng cười hành lễ rồi khép cửa lại.

Như Nặc Nại dự liệu, A Hành vốn tinh thông thơ từ ca phú, trồng cỏ chăm hoa, rất tương đắc với Tuấn Đế. Thêm vào đó nàng lại cố ý lấy lòng nên chưa đầy một tháng, đã được Tuấn Đế cưng chiều yêu quý hơn cả con gái.

Một hôm, A Hành mượn cớ tán thưởng bức họa uyên ương hồ điệp rồi khéo léo liên hệ sang mối tình của Nặc Nại và Vân Tang, vì thân phận khác biệt mà phải chịu bao đau khổ, cầu xin Tuấn Đế thành toàn cho hai người. Nghe nói chàng có tình, thiếp có ý, Tuấn Đế chẳng những không coi là ngỗ nghịch mà còn tươi cười cho phép bọn họ thành hôn.

A hành vui mừng, vội quỳ xuống lạy tạ. Tuấn Đế chỉ cười bảo: “Trời cao luôn muốn tác thành cho uyên ương chắp cánh, hồ điệp cùng bay, tuy ta không dám bì với trời nhưng cũng rất mong người có tình trong thiên hạ đều được thành đôi lứa. Nếu ai ai cũng hạnh phúc, hẳn thế gian sẽ bớt được ít nhiều phân tranh.”

Đột nhiên A Hành thấy bứt rứt khôn tả, chẳng rõ mình giúp Thiếu Hạo hạ độc con người ôn hòa đa tình này liệu có đúng chăng? Nhưng nếu không giúp, Thiếu Hạo nay đã bị dồn vào chân tường, hẳn sẽ phát động binh biến, e rằng giang sơn lại một phen máu chảy thành sông, thây phơi đầy nội. Nàng đành tự nhủ rằng Thiếu Hạo ắt sẽ không hại chết Tuấn Đế, nhằm nén nỗi day dứt trong lòng xuống.

Sau khi về phủ, A Hành lập tức viết thư báo tin mừng với Nặc Nại và Vân Tang. Theo “kế hoạch tuyệt mật” của Thiếu Hạo, Nặc Nại đã bị phái đến biên cương, trấn thủ Hy Hòa bộ, một là để kiềm chế Bạch Hổ bộ, hai là phòng khi trong nước có biến, các nước láng giềng thừa nước đục thả câu, dẫn quân xâm phạm. Bởi thế Nặc Nại và Vân Tang đều không ở kinh đô.

Cuối thư, A Hành phân vân giây lát rồi viết thêm một đoạn. Khấp Nữ sớm chiều hầu hạ bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, e rằng đã sớm nảy sinh tình cảm với y, tuy chẳng ngại ả gây bất lợi gì cho Vân Tang, nhưng nảy sinh tình thế hiện giờ đối với cả hai người đều không ổn, hy vọng Nặc Nại lưu ý xử lý chuyện này cho thỏa đáng.

Thư phúc đáp của Nặc Nại khiến A Hành rất yên tâm. Vì Vân Tang, cũng là để báo đáp lòng trung thành của Khấp Nữ hai trăm năm nay, y sẽ sắp xếp ổn thỏa cho Khấp Nữ trước khi thành hôn. Y định nhận Khấp Nữ làm muội muội, chọn cho ả một người chồng ưu tú. Nếu tạm thời ả chưa muốn lấy chồng, y sẽ đưa Khấp Nữ về bầu bạn với mẹ mình, chờ ả tìm được người vừa ý.

Hôn sự của Nặc Nại và Vân Tang đã chính thức công bố. Tuy Vân Tang hạ giá lấy Nặc Nại hết sức sức đột ngột, nhưng được sự đồng ý của hai vị đế vương Tuấn Đế và Viêm Đế, mọi chuyện đều trở nên danh chính ngôn thuận.

Nặc Nại tự mình tới Thần Nông sơn định ngày thành hôn với Viêm Đế. Theo kế hoạch, vào mùa xuân sang năm, khi muôn hoa đua sắc, y sẽ tới rước dâu.

Cuối năm, Tuấn Đế trở nên bệnh nặng, không gánh vác nỗi việc triều chính, bèn ủy thác mọi việc cho Yến Long xử lý thay, thấy vậy cả triều đình đều cho rằng đã tìm được nơi gửi gắm lòng trung. Nhưng trong tiệc tiên năm cũ mừng năm mới, Tuấn Đế lại than nhớ con, truyền triệu Thiếu Hạo bị biếm đi trấn thủ Thang cốc trở về.

Thiếu Hạo vừa về đến Ngũ Thần sơn, Tuấn Đế liền cho tuyên triệu ngay lập tức, ân cần dặn dò đủ điều, hai cha con trò chuyện suốt cả buổi chiều.

Thấy vậy, các triều thần lại càng hồ đồ, không sao đoán nổi ý Tuấn Đế. Thật ra, mọi chuyện đều bắt nguồn từ lòng nghi kỵ của đế vương mà thôi. Tuấn Đế rất yêu thương Yến Long, định sau khi qua đời sẽ truyền ngôi cho hắn. Có điều giờ đây ông mới mang bệnh chứ chưa qua đời, tạm thời phải giao việc triều chính lại cho Yến Long, nhưng lại lo Yến Long thừa cơ tước đoạt quyền lực của mình, bèn cho triệu kẻ đối đầu với Yến Long là Thiếu Hạo về kinh, để y kiềm chế Yến Long.

Tiếc rằng hai đứa con của Tuấn Đế đều đã trưởng thành, đâu còn là đứa con nhỏ bi bô học nói, đương nhiên không chịu làm quân cờ cho cha sắp xếp.

Dưới sự hỗ trợ của Tuấn Hậu, Yến Long bèn nhân cơ hội này dốc toàn lực khuếch trương thế lực bản thân, ra sức thay đổi quan lại trong triều.

Thiếu Hạo rời xa Ngũ Thần sơn đã quá lâu nên chẳng có mấy quan hệ với quan viên trong triều, không biết phải làm sao, đành án binh bất động.

Hơn ba tháng sau, khi ngọn gió xuân hây hẩy dạo khắp Giang Nam, chính là mùa đẹp nhất trong năm của Cao Tân, nơi nơi mịt mù mưa bụi, hoa thơm đua sắc, oanh hót én bay.
Tác giả: lilyant    Thời gian: 3-8-2016 10:37 PM
Tiêu đề: RE: [Huyền Huyễn - Xuất Bản] Từng Thề Ước | Đồng Hoa (Chương 21)
Chương 21

Đường trắc trở, tự mình tìm lối

21.3


Tuấn Đế được tiến cống một chậu mỹ nhân đào, hết sức vui mừng thích thú, hệt như trẻ nhỏ được quà, chỉ lăm le muốn đem khoe với bạn, lập tức sai người tới truyền A Hành vào cung, khoe với nàng cây đào trong đình viện.

A Hành nghi hoặc hỏi: “Đây là loại hoa đào cánh kép nhưng sắc hoa lại màu phấn hồng, có phải bích đào không ạ?”

Tuấn Đế cười thành tiếng, tựa mình vào chiếc gối nền trắng hoa xanh, rủ rỉ giảng: “Con vừa thấy hoa cánh khép hiếm gặp, lại có màu phấn hồng đã đoán ngay là bích đào, không phải đâu. Tuy hoa đào cánh kép rất hiếm nhưng còn chia ra làm mười loại, có loại màu hồng, màu trắng, màu phấn hồng, hồng trắng đan xen, nên trắng đốm đỗ, bông lớn bông bé khác nhau, dựa theo màu sắc và hình dáng mà đặt tên, có uyên ương đào, thọ tinh đào, nhật nguyệt đào, thụy tiên đào, mỹ nhân đào…”

Tuấn Đế đang hào hứng giảng giải, thấy Thiếu Hạo lững thững lại gần, ngạc nhiên cười hỏi: “Sao chẳng nghe tùy tùng thông báo là con tới? Đến rồi thì lại đây cùng ngắm gốc đào quý này với ta.”

Thiếu Hạo quỳ xuống dập đầu, dâng lên Tuấn Đế một bản tấu chương liệt kê mọi hành vi của Yến Long trong thời gian gần đây, nghiêm trọng nhất là hắn dám thay đổi cả thị vệ canh giữ cung đình, điều mà các đế vương xưa nay vẫn kiêng kỵ nhất.

Sắc mặt Tuấn Đế càng lúc càng khó coi, ông giận dữ thét gọi nô tài, toan sai bọn chúng lập tức tuyên triệu Yến Long, nhưng gọi mãi chẳng thấy tên nào chạy vào.

Cảm thấy không ổn, Tuấn Đế trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, “Thị vệ đâu cả rồi? Ngươi định làm gì đây?”

Thiếu Hạo liền tâu: “Nhi thần đã theo lời căn dặn của phụ vương, nghĩ giùm Người một đạo ý chỉ. Yến Long câu kết với Tuấn Hậu, ý đồ làm loạn, cộng tất cả tội chứng lên tới một trăm mười mấy tội, chứng cứ như núi. Phụ vương đã quyết định giam cầm Yến Long, phế bỏ Tuấn Hậu.”

Tuấn Đế tái mặt, ánh mặt sắc lạnh như dao: “Quyết định của ta ư?”

“Vâng, là quyết định của phụ vương!” Thiếu Hạo bình tĩnh đáp, vẻ kiên định. Ánh mắt sắc như dao của Tuấn Đế gặp phải khí thế cứng rắn trầm ổn của y, lập tức tiêu tan.

Tuấn Đế uất ức gầm lên, nhưng dù thét lớn đến đâu cũng chẳng tên thị vệ nào tiến vào. Ông sực hiểu Thiếu Hạo đã khống chế cả cung điện rồi.

Tuấn Đế trợn trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, y cũng lặng lẽ nhìn ông.

Bầu không khí trong phòng yên ắng tới nỗi có thể nghe thấy tiếng thở dốc của ba con người với bao giằng xé nội tâm.

Một hồi lâu, ánh mắt Tuấn Đế từ từ chuyển sang A Hành, nàng vội cúi đầu, không dám nhìn thẳng vào mắt ông. Tuấn Đế khẽ hỏi: “Con có biết không?”

A Hành không sao trả lời được, Thiếu Hạo đành phải đáp thay: “Nàng không biết.”

Tuấn Đế gật đầu cười: “Vậy thì tốt, coi như không phụ gốc đào này.”

Thiếu Hạo trải một vuông lụa trắng tinh ra trước mặt Tuấn Đế: “Xin phụ vương hạ chỉ.”

Tuấn Đế vung bút một lượt, tuyên bố phế bỏ Tuấn Hậu, giam cầm Yến Long, đoạn cầm cả bút lẫn lụa ném vào mặt Thiếu Hạo: “Đem đi ngay!”

Ngọn bút chưa khô vẩy đầy mực lấm lem lên mặt lên người Thiếu Hạo, y lặng lẽ lau sạch mực trên mặt mình, âm thầm nhặt mảnh lụa lên, trao cho viên tướng đứng hầu ngoài rèm.

Một đội thị vệ bước vào, đều là những gương mặt lạ hoắc.

Thiếu Hạo bẩm: “Mời phụ vương dời đến Kỳ viên để tiện tĩnh dưỡng.”

Tuấn Đế giận đến run bắn người lên: “Ngươi nôn nóng đến thế ư?”

Thiếu Hạo mặt lạnh tanh, khom lưng đáp: “Nhi thần kính mời phụ vương dời giá.”

Bi ai và phẫn nộ đồng loạt cuộn lên trong lòng Tuấn Đế. Biết cục thế đã không sao cứu vãn nỗi, ông hít sâu mấy hơi, bất lực ra lệnh: “Đi thôi!”

Đám thị vệ lập tức tiến lại vực Tuấn Đế ngồi lên ngai. Tuấn Đế nhắm nghiền mắt, chẳng nói chẳng rằng.

Dưới sự “hộ tống” của hơn trăm tên thị vệ, cả đám người rầm rộ bay về phía Tiệm Châu phong, ngọn núi nằm về cực Đông của Ngũ Thần sơn. Từ đây muốn liên lạc với đất liền phải vượt qua bốn đỉnh núi khác trong Ngũ Thần sơn, nên các đời đế vương đều thu xếp cho huynh đệ hoặc thái hậu bất hòa với mình tới đây ở, cũng là một hình thức giam cầm biến tướng.

Thiếu Hạo đứng bên ngoài điện, dõi mắt nhìn theo đoàn người khuất bóng cuối chân trời.

Y ngoảnh đầu, bắt gặp A Hành đang đứng lặng dưới gốc đào, hoa hồng mặt ngọc chiếu rọi lẫn nhau, nhưng ánh mắt nàng lại lạnh buốt như băng giá.

A Hành hỏi: “Gốc đào này là chàng sai người dâng lên phụ vương phải không? Chàng thừa biết phụ vương có được trân phẩm, nhất định sẽ cùng thiếp thưởng thức mà.” Nàng biết sớm muộn gì Thiếu Hạo cũng sẽ ra tay, nhưng chẳng ngờ lại là hôm nay, càng không nghĩ y lại lợi dụng mình để phân tán sự chú ý của Tuấn Đế.

Thiếu Hạo lặng người ngắm gốc đào nở hoa rực rỡ.

Tiếng phụ nữ khóc than văng vẳng vọng lại, xem ra các vị tướng sĩ đang di dời hậu cung của phụ vương.

Tuấn Đế vốn ưa đàn sáo sênh ca nên các nữ tử trong hậu cung đều hát hay đàn giỏi, bất cứ khi nào đi ngang đều nghe văng vẳng tiếng trúc tơ hòa cùng giọng ca cao vút. Khắp điện nhan nhản kỳ hoa dị thảo được vun trồng kỹ lưỡng, mỗi khi có gió, hương hoa thơm ngát cả điện, dẫu lặng gió, trong điện vẫn phảng phất một mùi hương thầm lặng. Ai ai bước vào tòa cung điện nguy nga lộng lẫy này đều hoa mắt mê mẩn, đến nỗi vương tử Thần Nông quốc năm đó đến Thừa Ân cung một lần mà không sao quên nổi, bèn giật dây Viêm Đế đời thứ bảy tấn công Cao Tân quốc.

Suốt từ sáng sớm, các cung nhân cũ, kẻ bị giết người bị giam, mười phần đã giảm bớt đến bảy tám. Còn một nhóm cận thần cung phi cuối cùng, hoặc bị xử tử, hoặc bị giam lỏng. Cả cung điện vắng hoe không một bóng người, trừ đám binh sĩ xách dao xách kiếm.

Cung điện mênh mông đột nhiên trở nên quạnh quẽ yên ắng, khác hẳn khi trước.

An Tấn và An Dung bước vào, hai huynh đệ họ xuất thân từ Thanh Long bộ, cùng tộc với mẹ đẻ Thiếu Hạo, có quan hệ bà con với y, đồng thời cũng là tâm phúc của y.

An Tấn tướng quân bước đi như rồng như hổ, toát lên vẻ mạnh mẽ ngang tàn của quân nhân, sang sảng tâu: “Điện hạ, tất cả phi tần trong hậu cung, hễ chưa sinh con cái đều bị trục xuất khỏi Thừa Ân cung, đưa đến Tích Hương cư dưới Ngũ Thần sơn.”

An Dung tướng mạo tuấn tú, vóc dáng cao to thong thả lên tiếng: “Các cung nhân được giữ lại đều là người đáng tin cậy, thần đã tuyển lựa kỹ càng rồi. Trước khi điện hạ vào ở Thừa Ân cung, có cần tuyển thêm một đợt mới không?”

Thiếu Hạo liền đáp: “Khỏi đi, chỉ có ta và vương tử phi thôi mà, các cung nhân còn lại, cộng thêm người của Thừa Hoa điện là đủ rồi.”

An Tấn xoa tay nói: “Đúng thế! Trước đây một người phụ nữ cần đến mười mấy kẻ hầu hạ, hiện giờ đã đuổi hết đám nữ nhân đó ra khỏi cung, đương nhiên chẳng cần nhiều nô tỳ như thế nữa. Thời gian tuyển nô tì, chi bằng nghĩ kế đánh giặc còn hơn.”

An Dung kéo tay ca ca rồi nhỏ nhẹ góp ý với Thiếu Hạo: “Quả thật hiện giờ chỉ có điện hạ và vương tử phi, nhưng sau khi đăng cơ, điện hạ sẽ phải lập thêm phi tần, cần có tỳ nữ hầu hạ các vị vương phi chứ.”

An Tấn trừng mắt, “Tuyển phi tần cái gì? Ta cảnh cáo tên tiểu tử đệ, chớ xúi bậy điện hạ mải mê nữ sắc, học mấy trò nhảm nhí!”

An Dung dở khóc dở cười, “Tuấn Đế các đời trước đều chọn nữ tử trong tứ bộ phong làm phi tần, Đại ca huynh tưởng rằng bọn họ xinh đẹp hơn người thật ư? Sau khi điện hạ đăng cơ, phải tiêu diệt kẻ địch, còn phải luận công ban thưởng cho quần thần nữa, Thanh Long bộ của chúng ta không nói làm gì, nhưng lòng trung của của Hy Hòa bộ đối với điện hạ, chẳng lẽ không cần báo đáp sao? Cách báo đáp tốt nhất là gì? Chẳng phải là tuyển nữ tử của Hy Hòa bộ vào cung, để hoàng tử tương lai mang huyết mạch Hy Hòa bộ sao? Thường Hy bộ e khó mà lôi kéo được, Bạch Hổ bộ lại kết bè với bọn Yến Long, Trung Dung, nếu điện hạ chọn phi tử trong Bạch Hổ bộ, chỉ sợ một nữ tử vào cung liền kéo theo vô số âm mưu.”

An Tấn nghe đến váng cả óc, bèn xua tay, hành lễ cáo từ Thiên Hạo, “Hai người cứ từ từ bàn bạc đi, hễ có đánh nhau nhớ đừng quên ta đấy.”

Thấy An Tấn đã lui ra, An Dung lại cười hỏi: “Điện hạ có cần thần để mắt chọn lọc nữ tử trong tứ bộ không? Tuy thân phận huyết thống là quan trọng nhất, nhưng dung mạo tính tình nhất định không làm ngài khó chịu đâu.”

Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn theo hướng A Hành khuất bóng, chẳng nói chẳng rằng, hồi lâu mới buột miệng: “Khỏi cần.”

An Dung tái mặt, “Điện hạ, tuy chúng ta thành công tạm thời nhưng không thể xem thường thế lực bọn Yến Long và Trung Dung được. Nếu muốn củng cố đế vị, nhất định phải…”

“Ta đã bảo không cần cơ mà!”

An Dung rùng mình, sực nhận ra kẻ trước mặt đây không còn là Thiếu Hạo nữa, mà đã trở thành đế vương của Cao Tân, vội quỳ sụp xuống: “Thần hiểu.”

Thiếu Hạo cúi người giơ tay nâng hắn dậy, “Biểu đệ, ta biết ngươi một lòng muốn tốt cho ta, nhưng… chuyện này để sau hãy nói đi, ta không tin Thiếu Hạo ta phải dựa vào nữ nhân mới thu phục được giang sơn này!”

Nghe cách xưng hô của y, An Dung mới yên lòng, liền hành lễ cáo từ, “Bên Kỳ viên điện hạ còn dặn dò gì không?”

Thiếu Hạo trầm ngâm hồi lâu rồi trỏ gốc đào: “Sai người đào gốc cây này lên cẩn thận, đưa đến Kỳ viên.”

An Dung vâng dạ, hắn chần chừ toan nói gì đó, nhưng rồi lại nén xuống.

Đêm đó, Thanh Dương cưỡi Trùng Minh điểu, nhân lúc khuya khoắt bay thẳng đến Thang cốc hoang vu nằm ở cực Đông của đại hoang.

Dưới gốc phù tang la liệt những vò rượu rỗng, Thiếu Hạo đã say bí tỉ.

Thanh Dương lặng lẽ ngồi xuống dựa lưng vào gốc cây, đập vỡ niêm phong một vò rượu, ngửa cổ uống ừng ực.

Thiếu Hạo cười hỏi: “Sao ngươi không chúc mừng ta? Hôm nay ai gặp ta cũng chúc mừng ta hết đó!”

Thanh Dương lạnh nhạt hỏi: “Chúc mừng cái gì? Chúc mừng ngươi hại cha giết em ư?”

Thiếu hạo phá lên cười ngặt nghẽo, hồi lâu mới vừa cười vừa lè nhè nói: “Ta khống chế được tình thế mà, không đến nỗi làm nghiêng trời lệch đất, cạn tàu ráo máng đâu.”

Thanh Dương làm thinh không đáp. Có những con đường một khi đã đặt chân lên thì chẳng thể quay đầu lại nữa, chỉ có thể đi mãi đi mãi về phía bóng đêm thăm thẳm, dù bản thân có muốn cũng khó mà khống chế.

Thấy Thiếu hạo ném cho mình một lọ thuốc, Thanh Dương liền hỏi: “Gì thế?”

Thiếu Hạo say khướt, trông càng tuấn tú phong lưu hơn hẳn khi tỉnh táo, y cười đáp: “Thứ này sẽ khiến phụ vương ngươi lâm bệnh, không thể xử lý chính sự.”

Thấy Thanh Dương biến hẳn sắc mặt, Thiếu hạo cười cười bồi thêm: “Không ai tra ra được đâu!”

Thanh Dương thất thanh hỏi: “Lẽ nào phụ vương ngươi thật sự không sinh bệnh? Ta tưởng ngươi chỉ nắm lấy cơ hội trời ban thôi chứ?”

Thiếu Hạo phá lên cười, “Thanh Dương tiểu đệ, ta tưởng lòng dạ ngươi đã sắt đá rồi, nào ngờ vẫn khờ khạo thế kia à! Lấy đâu ra cơ hội trời ban? Chỉ có cơ hội do mình tạo ra mà thôi! Hơn hai ngàn năm, ta đợi hơn hai ngàn năm để được cái gì? Tính tình Hoàng Đế ra sao ngươi cũng biết rồi, ngươi muốn đợi cái gì hả? Ngươi tưởng ngươi có thể đợi được cái gì? Đồng Ngư thị trong Chỉ Nguyệt điện sẽ bỏ qua cho ngươi, bỏ qua cho mẹ ngươi sao?”

Thanh Dương nắm chặt lấy lọ thuốc, gân xanh nổi đầy tay.

Thiếu Hạo nói tiếp: “Có mỗi lọ thuốc này thôi đấy, phải dùng thật đúng chỗ.”

“Ở đâu ngươi có thuốc này? Ngươi không sợ bị bại lộ ư?”

“Suỵt!” Thiếu Hạo đặt ngón trỏ lên môi ra hiệu, cười ngất ngư, “Không cho ngươi biết đâu! Ta nói với kẻ chế thuốc là một lọ để cho phụ vương, một lọ cho Yến Long, nàng ta cứ ngỡ lọ thuốc này dành cho Yến Long, chẳng biết gì cả.”

Thấy Thanh Dương nhận lấy lọ thuốc, Thiếu Hạo liền tươi cười giơ vò rượu lên, “Nào! Chúc mừng hai ta sánh vai tác chiến, vật lộn với sinh tử!”

Thanh Dương cũng nâng vò rượu cụng đánh cốp với Thiếu Hạo, hai vò rượu lập tức vỡ nát, vẩy đầy người cả hai.

“Rượu ngon!” Thiếu Hạo phá lên cười, cả người lảo đảo rồi ngả ngửa ra giữa những vò rượu ngổn ngang.

Thanh Dương đứng dậy gọi Trùng Minh điểu lại, chuẩn bị quay về.

Thiếu Hạo lẩm bẩm trong cơn say: “Đợi ngươi đăng cơ trở thành Hoàng Đế, chúng ta sẽ cùng nhau tranh đoạt thiên hạ. Thanh Dương, nếu ta chết trong tay ngươi, ngươi cứ táng ta trong vò rượu. Còn nếu ngươi chết trong tay ta, ta sẽ…” Y mơ màng nghĩ ngợi, “Ta sẽ đem đầu lâu ngươi làm thành vương tọa, hàng ngày lên triều đều ngồi, ngày ngày ngồi, tháng tháng ngồi, ngồi đến khi ta chết mới thôi.”

Thanh Dương vốn lạnh lùng cũng phải bật cười hỏi: “Sao lại thế? Ngươi hận ta tranh đoạt thiên hạ với ngươi ư?”

Thiếu Hạo cười hì hì, xua tay, “Đâu có, ta báo thù cho ngươi đó chứ! Khiến kẻ ngồi trên vương tọa đó ngày ngày đều phải nhớ đến ngươi, suốt ngày đều bồn chồn lo lắng còn gì!”

Thanh Dương đang cười ha ha chợt ngẩn ra rồi tắt hẳn nụ cười, lòng trào lên bao nỗi muộn phiền hiu quạnh, không sao nén xuống được. Y huýt một tiếng lanh lảnh, lập tức Trùng Minh điểu vỗ cánh bay vút lên trời, biến mất giữa biển mây.

Tuấn Đế hạ chỉ bố cáo thiên hạ, nói mình lâm bệnh nặng, không thể tiếp tục trị vì nên nhường ngôi cho Đại vương tử Thiếu Hạo tài đức kiêm toàn, nhân hiếu cung khiêm đủ cả.

Thiếu Hạo khước từ mấy bận rồi cũng chính thức đăng cơ, chuyển vào ở trong Thừa Ân cung Ngũ Thần Sơn, trở thành Tuấn Đế đời thứ tám, phong Hiên Viên Bạt làm vương phi. Mọi người đoán già đoán non rằng hai người bọn họ phu thê ân ái, vậy mà Thiếu Hạo lại không phong Hiên Viên Bạt làm Tuấn Hậu, hẳn là vì thân thể nàng quá yếu đuối, mấy trăm năm vẫn chưa sinh con.

Đại tiệc chúc mừng Thiếu hạo đăng cơ được ở tiền điện Thừa Ân cung, có mặt đông đủ bá quan văn võ.

Hiên Viên Bạt ngồi dự một lát rồi cáo mệt xin về nghỉ. Biết nàng đã bệnh liệt giường hai trăm năm, mọi người cũng chẳng lấy thế làm lạ.

Về đến tẩm cung, Hiên Viên bạt mới cảm thấy thư thái tinh thần, bèn cho tất cả thị nữ lui ra. Đang thay y phục, chợt thấy kẻ nào đó vươn tay toan siết chặt lấy eo lưng, nàng lập tức nghiêng mình tránh né, lật tay trả đòn rất nặng.

“Là ta!”

Lực đánh của nàng lập tức tiêu tan, thân thể bị Xi Vưu kéo vào lòng, chưa kịp nói năng gì, một nụ hôn dài mà mãnh liệt đã áp lên môi.

Xi Vưu cười hỏi: “Sao ra tay tàn độc thế?”

A Hành tựa vào lòng hắn, uể oải đáp: “Tuy Yến Long đã bị giam nhưng bọn Trung Dung vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Dạo này nghe đồn định hành thích Thiếu Hạo nên tinh thần lúc nào cũng căng như dây đàn.”

Xi Vưu thẳng thắn: “Nếu là Thiếu Hạo, ta sẽ giam quách hai mươi mấy huynh đệ đó lại, kẻ nào giữ lại được thì giữ, kẻ nào không giữ lại được thì giết, việc gì phải tạo thêm phiền toái cho mình như thế?”

A Hành mỉm cười đáp: “Bởi vì người thiên hạ có gọi chàng là ma đầu hay không, chàng cũng chẳng để tâm, nhưng Thiếu hạo thì khác, y muốn làm một đế vương tốt. Dùng bạo lực có thể đoạt được thiên hạ, nhưng để trị vì thiên hạ lại phải dựa vào nhân hiếu lễ nghi, hơn nữa, sát nghiệp quá nặng cũng chẳng hay ho gì. Phải rồi, sao tự dưng chàng tới đây?”

Xi Vưu áp đầu A Hành vào ngực, để nàng nghe được tiếng tim mình đập: “Nàng nghe thấy tiếng của nó không? Nó đang nói nhớ nàng đấy, thế còn nàng? Có nhớ ta không?”

A Hành không đáp, chỉ níu lấy cổ Xi Vưu, ghì đâu hắn xuống hôn lên má.

Xi Vưu hớn hở kéo A Hành lại phía cửa sổ: “Ta đưa nàng đi chỗ này.”

Hai người vừa nhảy ra ngoài cửa sổ, đột nhiên Thiếu Hạo tươi cười bước vào tươi cười gọi: “A Hành, A Hành.”

A Hành vội đẩy Xi Vưu một cái, hắn nhanh như chớp dán sát người vào bức tường bên song. Từ trong nhà nhìn ra, chỉ thấy mình A Hành đứng ngoài cửa sổ.

“Sao chàng lại đến đây? Tiệc tan rồi à?”

Nụ cười trong mắt Thiếu Hạo lan xuống khóe môi, “Chưa, ta lấy cớ đi tiểu lén chuồn ra đó.”

“Có chuyện gì ư?”

“Không có gì, chỉ tiện thể tới xem nàng thôi. Nàng mới chuyển vào ở đây có quen không?”

“Còn thoải mái hơn ở Thừa Hoa điện ấy chứ. Trước đây đi đến đâu cũng bị cả đám cung nữ thị vệ lẳng nhẳng đi theo, giờ thì dễ chịu hơn nhiều rồi, cảm ơn chàng.”

Thiếu Hạo cười nói: “Đám đại thần đó còn sợ chúng ta thiếu người hầu hạ, nào biết chúng ta đã được ‘hầu hạ’ đến phát khiếp lên rồi, người bên cạnh càng ít càng mừng!”

Thấy Xi Vưu sốt ruột giật giật tay áo mình giục giã, nàng liền hỏi: “Chàng còn chuyện gì nữa không?”

“Hết rồi, nàng nghỉ ngơi đi.” Thiếu Hạo quay gót trở lui.

Ra khỏi cửa điện, đi được một quãng, y chợt dừng bước ngẩng đầu nhìn trời, nhưng bầu trời đêm thăm thẳm, nào thấy bóng ai?

Trong tay áo rộng còn giấu vò rượu, vốn là cống phẩm từ một đảo nhỏ phía Nam dành riêng cho bữa tiệc hôm nay, được ủ từ trái dừa, cả thảy chỉ có hai vò, y uống một ngụm, cảm thấy mùi vị rất đặc biệt, khác hẳn những thứ rượu từng uống khi trước, bèn nhân lúc mọi người không để ý, lén trộm lấy một vò định mang tặng cho A Hành.

Y trở gót quay lại, thấy đám thị nữ đang gà gật bên hành lang.

Thiếu Hạo khẽ khàng bước vào tẩm điện, nhưng chỉ còn phòng trống, người đã đi rồi.

Cửa sổ mở toang, gió lùa vào phòng, thổi phần phật cánh màn.

Y lặng lẽ đặt vò rượu dừa lên đầu giường nàng, khép cửa sổ lại rồi bước ra khỏi điện.

Tiêu Dao bay khoảng hai canh giờ thì đỗ lại Thần Nông sơn, Xi Vưu nắm tay A Hành nhảy xuống.

A Hành thảng thốt nhìn về phía đỉnh Tiểu Nguyệt, bao chuyện cũ vẫn như đang sờ sờ trước mắt, tựa hồ nàng mới từ biệt Viêm Đế hôm qua. Thực tế thì hài cốt Viên Đế chắc đã mục dưới mồ.

“Sao lại đưa ta đến đây?”

Xi Vưu trỏ sơn cốc đối diện, A Hành căng mắt nhìn kỹ mới lờ mờ trong thấy một đoàn người.

“Đêm nay Chúc Dung xuất quan, mấy kẻ nàng thấy kia là tùy tùng của hắn. Chắc người của Hậu Thổ và Cộng Công cũng nấp đâu đó, âm thầm bảo vệ hắn.”

“Chàng định làm gì?”

“Không phải là định làm gì, mà là nàng muốn làm gì?”

“Hả?”

Xi Vưu quàng tay ôm lấy nàng từ phía sau, tì cằm lên vai A Hành, “Nàng có muốn lấy mạng Chúc Dung không?”

“Khỏi đi.” A Hành quay lại, nắm lấy tay hắn, “Đừng bức bách đám danh gia vọng tộc đó quá đáng. Tuy hiện giờ chúng sa sút nhưng chúng có nền tảng mấy vạn năm ở Thần Nông, chàng chỉ thấy cành là héo khô trên mặt đất, chứ không biết được cội rễ dưới đất sâu đến chừng nào.”

“Một là không làm, hai là làm đến cùng, diệt cỏ phải diệt tận gốc!”

A Hành toan khuyên nữa, nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn còn Du Võng ở đó, nàng không cần phải quá lo. Viêm Đế năm xưa hẳn đã lường trước sự hung tàn của Xi Vưu nên mới cố ý dùng tính tình ôn hòa của Du Võng để trung hòa bớt.

Xi Vưu lại kéo A Hành lên lưng Tiêu Dao, bay về phía Cửu Lê, “Nàng đã không muốn giết Chúc Dung thì chúng ta về Cửu Lê, đào một vò Ca tửu của Mê Đóa ủ lên uống.”

Đột nhiên ánh sáng từ đâu bùng lên rực rỡ, từng đoạn hồng quang tỏa khắp đất trời.

A Hành và Xi Vưu chẳng hẹn mà cùng ngoảnh lại, thấy cả dãy Thần Nông sơn chạy dài ngàn dặm phủ kín bởi hồng quang, như thể hai mươi tám ngọn núi đều biến thành lò lửa.

A Hành ngẩn người nhìn, lẩm bẩm: “Có lẽ giờ đây Chúc Dung mới xứng được gọi là Hỏa Thần.”

Cũng như A Hành, Xi Vưu rất kinh ngạc trước thần lực của Chúc Dung. Có điều xưa nay hắn chẳng biết lo nghĩ là gì, cứ phởn phơ cười, kéo gương mặt nàng lại gần: “Này, đêm xuân ngắn ngủi, từ giờ trở đi, trong mắt nàng, trong lòng nàng chỉ được có mình ta thôi đó.”

A Hành đăm đăm nhìn hắn, không khỏi bật cười. Có lẽ ngay từ đầu nàng đã yêu tính tình ngông cuồng ngạo ngược này của hắn, dẫu trời long đất lở cũng chẳng buồn quan tâm.

Hồng quang rợp trời, chấn động cả đại hoang, nhưng trong mắt hắn chỉ có nàng, trong mắt nàng cũng chỉ có hắn.

Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 08:22 PM
Chương 22

Gió Đông Bắc, hoan tình nhạt nhẽo (1)

22.1


A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao.

[1] Trích trong bài từ Thoa đầu phượng của Lục Du (1125-1209). (ND)

Ở Thần Nông, Chúc Dung vừa xuất quan đã hiển lộ thần lực khiến cả thiên hạ kinh hoàng. Hơn hai trăm năm nay, dưới bàn tay sắt của Xi Vưu, các danh gia vọng tộc dần dần sa sút, bơ vơ vất vưởng, mãi đến giờ, nhờ có Chúc Dung như cứu tinh, chẳng mấy chốc đã tạo nên một lực lượng không thể coi thường, chống đối lại Xi Vưu.

Tại Cao Tân, sau khi đăng cơ, Thiếu Hạo hết sức nôn nóng muốn cải tổ mọi thứ, nhưng y biết mình không thể đi theo con đường của Xi Vưu, bởi y và hắn xuất thân khác nhau. Lực lượng chủ yếu ủng hộ y là đám quý tộc trẻ nắm giữ binh quyền, bọn họ nhận ra nguy cơ Cao Tân, mong mỏi Cao Tân giàu mạnh hơn, nhưng không thể chấp nhận công cuộc cải cách mạnh mẽ, hủy diệt lợi ích gia tộc của họ. Bởi thế, Thiếu Hạo đành lựa chọn phương pháp thay đổi từ từ.

Về phía Hiên Viên, Hoàng Đế ẩn nhẫn mấy ngàn năm, cuối cùng cũng cất lên tiếng kèn đưa quân Đông tiến, chính thức tấn công Thần Nông tộc, giành được thắng lợi liên tiếp, chẳng những thu lại được đất đai bị xâm chiếm hai trăm năm trước, mà còn hạ liền một lúc sáu tòa thành của Thần Nông.

Tin Hiên Viên chiến thắng liên tiếp báo về khiến Du Võng đứng ngồi không yên, thậm chí Thiếu Hạo cũng thấp thỏm lo lắng. Y biết Hiên viên vẫn luôn che giấu thực lực nhưng chẳng ngờ thực lực ấy lại hùng mạnh đến vậy, ít ra thì Cao Tân cũng không thể liên tiếp hạ sáu thành của Thần Nông như thế. Thêm vào đó, còn một việc mà y vắt óc nghĩ mãi không ra, tại sao Hoàng Đế lại ồ ạt động binh đúng vào thời điểm này? Rõ ràng ông ta có thể khoanh tay đứng ngoài để Chúc Dung và Xi Vưu đấu đá lẫn nhau cho tới khi đôi bên đều tổn thất thì ra tay làm một mẻ cơ mà. Hiên Viên Hoàng Đế đã nhẫn nhịn mấy ngàn năm nay, sao bây giờ lại vội động binh?

Vì đế vị thay đổi, lại thêm chiến tranh giữa Hiên Viên và Thần Nông đột ngột bùng nổ, Nặc Nại bèn chủ động dâng thư hỏi ý Thiếu Hạo xem có phải lùi ngày cưới của mình và Vân Tang không.

Thiếu Hạo cân nhắc kỹ lưỡng, suy nghĩ rất lâu rồi hạ chỉ: Hôn lễ vẫn cử hành đúng hạn.

Lòng A Hành ngổn ngang muôn mối, lần trước Xi Vưu tới gặp nàng đã thẳng thắn đề nghị nàng rời xa Thiếu Hạo, có điều hiện giờ Hiên Viên vừa tuyên chiến với Thần Nông, tuy Đại ca và Xi Vưu chưa trực diện giao phong nhưng nếu phụ vương muốn Đông tiến, sớm muộn gì bọn họ cũng gặp nhau trên chiến trường.

Nàng xin Thiếu Hạo cho phép mình đi vắng ít ngày, y cũng chấp thuận. Bây giờ tình thế đã khác xưa, chẳng ai giám sát nhất cử nhất động của họ nữa, về phần nghi lễ cung đình, Thiếu Hạo chỉ cần làm một con rối đặt lên giường là xong, dù sao cả thiên hạ cũng biết vương phi ốm yếu lắm bệnh.

A Hành đem theo A Tệ và Liệt Dương bay đến Nhược Thủy.

Đây là lần đầu tiên nàng đến thăm đất phong của Tứ ca. Tuy nơi này trập trùng núi biếc, nhưng thế núi không được nguy nga như phương Bắc, lại thêm bao nhiêu ao hồ sông suối lượn quanh khiến phong cảnh đượm phần tú lệ.

Đến phủ của Xương Ý, nàng đã cố ý tránh bọn lính canh, định để cho Tứ ca bất ngờ.

Trong khoảng sân nho nhỏ trồng hai gốc nhược mộc đang kết nụ, từng nụ hoa đỏ hồng chúm chím trên cành chẳng khác nào gọn đèn lồng lộng lẫy.

Xương Ý khoác tấm áo thiên thanh nghiêng mình ngồi trước song cửa lục lăng, dung mạo ôn hòa, nụ cười còn động trên môi.

Xương Phó vận chiếc váy hoa đỏ rực, tựa vào người Xương Ý tập thổi tiêu, thổi chưa được mấy câu đã vấp. Xương Ý chỉ cười cầm lấy cây tiêu, biểu diễn lại một lần rồi nhẹ nhàng hướng dẫn thê tử.

Tập đi tập lại mấy lần, cuối cùng Xương Phó cũng thổi mạch lạc được một khúc, bèn nhảy cẫng lên cười vang: “Thiếp biết thổi tiêu rồi nhé!”

Chiếc váy hoa đỏ rực soi vào đôi mắt tràn đầy hạnh phúc của Xương Ý. Xương Phó xoay tròn quanh y, khẽ hôn lên môi y, tươi cười rạng rỡ, trong khi y đỏ mặt vì thẹn, đưa mắt liếc cửa sổ theo phản xạ.

Xương Phó dịu dàng an ủi: “Không sao đâu, hôn nhiều nhiều mới tình cảm chứ, hôn mãi thành quen, sau này dù đứng trước mặt toàn tộc chàng cũng chẳng ngại nữa đâu!”

Nàng an ủi như thế còn tệ hơn không an ủi, Xương Ý đỏ mặt tía tai, cau mày mắng: “Chẳng đứng đắn gì cả!”

A Hành chứng kiến từ đầu đến cuối, không nhịn được phì lên cười.

Xương Phó biến sắc, chỉ thấy hàn quang lóe lên, nàng nhanh như chớp, bước đến trước mặt A Hành.

“Tứ tẩu, là muội, là muội đây mà.” A Hành la lên.

Xương Phó vội xoay người, thu chủy thủ lại, “Sao muội lại đến đây?”

A Hành nháy mắt: “Muội đến nghe hai người thổi tiêu.”

Xương Phó mặt dày mày dạn, chẳng hề lấy làm thẹn thùng, chỉ có Xương Ý đỏ mặt mắng: “Đến chẳng gọi người thông báo, lại nấp bên ngoài rình lén, càng ngày càng không ra sao cả!”

A Hành le lưỡi với Xương Phó, cả hai cùng cười.

Xương Ý bó tay, đành giận dỗi cầm sách lên đọc, mặc kệ cả hai.

Xương Phó gọi thị nữ lại, sai lo liệu bữa tối, còn căn dặn nhất định phải chuẩn bị thật nhiều rượu.

Đợi rượu và đồ nhắm bưng lên, ba người quây quần bên bàn, vừa uống rượu vừa trò chuyện.

Xương Ý hỏi A Hành: “Giờ muội là vương phi của Cao Tân rồi, sao nói đi là đi ngay thế?”

“Thiếu Hạo bao che cho muội mà, y nói được, ai dám nói không chứ?”

Xương Phó cười: “Thiếu Hạo đối tốt với muội ghê.”

Xương Ý lạnh lùng: “Hạng người đó có ưu điểm là kỹ lưỡng tỉ mỉ, chăm sóc chu đáo, nhưng chỉ trong mấy việc lặt vặt thôi, hễ động tới lợi ích bản thân, chúng còn tuyệt tình hơn ai hết.”

Xương Phó lại hỏi: “Tiểu muội, muội và Xi Vưu rốt cuộc là sao thế?”

Mặt A Hành đỏ dừ, “Lần này muội đến chính là muốn bàn bạc với Tứ ca Tứ tẩu. Muội và Xi Vưu… đã cùng nhau từ lâu rồi.”

Dứt lời, nàng hồi hộp nhìn Tứ ca Tứ tẩu, đợi phản ứng của bọn họ.

Xương Ý nghe xong vẫn bình thản như thường, chẳng hề lộ vẻ ngạc nhiên, còn Xương Phó lại bật cười khì, “Ta biết ngay mà! Tiểu muội ngoài lạnh trong nóng, phải có một ngọn lửa phừng phừng thiêu hủy lớp vỏ ngoài của muội để muội lộ nguyên hình, cả hai cùng cháy lên hết mình mới được. Gã Xi Vưu đó còn đáng sợ hơn lửa, đúng là hợp với tiểu muội! Thiếu Hạo chính ra lại không ổn, nhìn bề ngoài có vẻ ôn hòa, thực tế còn lạnh lùng hơn Đại ca.”

A Hành nóng bừng hai má, lí nhí: “Xi Vưu bảo muội đi theo hắn, Thiếu Hạo cũng đã hứa với muội, muội có tư cách thoát thân, nhưng xem ra tình thế hiện giờ, chỉ e sớm muộn gì Đại ca và Xi Vưu cũng phải giao chiến, muội thật chẳng biết tính sao nữa cả.

Xương Ý cau mày trầm tư còn Xương Phó thở dài, khuyên: “Nam nhân bọn họ muốn đánh đánh giết giết thì cứ mặc cho bọn họ đánh đánh giết giết, dù thắng dù thua, bọn họ cũng mãn nguyện. Bản thân họ không oán không hối, muội tội gì phải nghĩ ngợi nhiều? Có nghĩ nát óc cũng không cởi được gút mắc này đâu.”

“Tứ tẩu, nếu là tẩu, tẩu sẽ làm sao?”

“Kiếp người ngắn ngủi, ta sẽ lập tức đi tìm Xi Vưu! Nếu muội thật lòng yêu hắn, hẳn có thể vì hắn mà vứ bỏ tất cả mọi thứ. Nếu hắn thật lòng yêu muội, đương nhiên cũng sẽ nghĩ cho muội, không đến nỗi ép muội vào đường cùng đâu!”

Xương Ý gượng cười nhìn thê tử: “Xi Vưu mua chuộc nàng từ bao giờ thế?”

“Không phải mua chuộc, là thiếp ngửi ra được thôi, trên người hắn có mùi giống như bọn thiếp.” Xương Phó đưa tay chỉ dãy núi xanh biếc trập trùng ngoài song cửa, “Hắn cũng sinh ra từ núi rừng mà.”

Xương Ý nói: “Sự tình đâu có đơn giản như thế.”

Xương Phó gượng cười, thở dài nói với A Hành và Xương Ý, “Đó chính là điểm khác biệt giữa bọn ta với các vị, đối với bọn ta, mọi thứ đều hết sức đơn giản, nếu không biết phải làm sao thì chỉ cần nghe theo trái tim mình là đủ.” Nàng chỉ vào lồng ngực mình, “Người già trong tộc từng nói, tiếng tim đập chính là âm thanh chân thực nhất trên đời. Xương Ý, hẳn chàng cho rằng em gái mình yêu Xi Vưu thật là đáng thương, nhưng kỳ thực Xi Vưu yêu tiểu muội còn đáng thương hơn! Hắn phải ra sức kiềm chế dục vọng của mình, học cách thông cảm và thấu hiểu cho sự do dự và đắn đo của tiểu muội, đồng thời cũng chiều theo cách hành xử của muội ấy.”

Xương Ý liếc Xương Phó, như cười mà chẳng phải cười, “Cái gì mà chàng thế này ta thế khác? Thế nàng có đáng thương không?”

Xương Phó chợt đỏ bừng hai má, hạ giọng nói thật nhanh: “Thiếp rất vui… Thiếp rất hạnh phúc mà…”

A Hành thấy thế che miệng cười thầm, đúng là vỏ quýt dày có móng tay nhọn.

Xương Ý lại quay sang hỏi nàng: “Muội đã có tính toán gì chưa?”

A Hành đáp: “Muội muốn hỏi ý kiến huynh.”

“Trước đây ta từng nói đấy thôi, muội là muội muội duy nhất của ta, dù muội có làm gì đi nữa, ta cũng hết lòng ủng hộ, nếu phụ vương và Đại ca không chúc phúc cho muội thì còn có ta và mẹ kia mà.”

Thấy A Hành rơm rớm nước mắt, Xương Ý mỉm cười dỗ dành: “Muội đừng lo, ta không ra trận, cũng chẳng hứng thú với việc giao tranh. Tuy ta không thể khuyên can phụ vương đừng tranh đoạt thiên hạ nhưng ít ra ta cũng không để các dũng sĩ Nhược Thủy trở thành xương trắng lót đường cho phụ vương bước lên vương tọa đâu. Bọn họ phải được sống bên người mình thương mến, cùng nhau sinh con đẻ cái đến đầu bạc răng long.”

Thấy A Hành gật gật đầu, Xương Phó cười trêu nàng, “Được rồi, tiểu nha đầu muội trốn theo tình lang thì mau thu dọn hành lý đi, không cần lo chúng ta đối đầu với tình lang muội trên chiến trường đâu.”

A Hành tươi cười đứng dậy, “Vậy muội đi đây.”

“Muội không muốn nán lại một đêm ư?”

“Thôi, mười ngày tới là hôn lễ của Nặc Nại và Vân Tang rồi, Thiếu Hạo giao cho muội phụ trách chuẩn bị, chắc đây là công việc cuối cùng của muội tại Cao Tân. Vì Vân Tang, muội không thể để sơ sẩy điều gì được.”

Tiễn nàng ra cửa, Xương Ý còn cười nói: “Năm xưa khi Vân Tang còn ở Triêu Vân phong, ta từng lén bảo mẹ xui Đại ca cưới Vân Tang tỷ tỷ làm Đại tẩu. Mẹ cũng xiêu xiêu, nói rằng cứ mặc cho hai người bọn họ ở bên nhau, thuận theo tự nhiên. Tiếc rằng sau đó Tinh Vệ chết đuối ở dưới Đông Hải, Vân Tang chỉ ở Triêu Vân phong mười năm đã phải vội quay về Thần Nông sơn. Mà trong mười năm đó, Đại ca chẳng về Triêu Vân phong lần nào, hai người bọn họ còn chưa có dịp gặp mặt. Nếu họ gặp nhau một lần, không chừng hỷ sự này lại rơi vào nhà ta ấy chứ.”

A Hành bật cười theo: “Tiếc thật tiếc thật.”

Vừa nói tới đó đã thấy A Tệ và Liệt Dương đỗ xuống sân đón nàng.

Từ sau khi “sống lại”, Liệt Dương đối với ai cũng tỏ vẻ lạnh lùng, thù địch, chỉ riêng với Xương Ý là khác, thậm chí còn hành lễ với Xương Ý.

Xương Ý dặn nó: “Ta đã tra cứu điển tịch, theo lý thì chỉ Yêu tộc một khi có thể biến hình, sẽ có khả năng hóa thành người trưởng thành, nhưng mày thì khác, mày hấp thụ sức mạnh của Ngu uyên, linh khí biến đổi, sinh ra biến hình sớm nên chỉ có thể hóa thành trẻ con. Mày đừng nôn nóng, cứ yên tâm tu hành, từ từ thân hình sẽ cao lên.”

A Hành phì cười xoa đầu Liệt Dương, “Ai da, thì ra Liệt Dương công tử của chúng ta sợ rằng sẽ phải làm đứa nhỏ cả đời.”

Liệt Dương hậm hực gạt tay nàng ra, “Đừng coi ta như trẻ con chứ!”

A Hành chẳng thèm để tâm đến thái thái độ của nó, trái lại còn thừa cơ véo đôi má trắng nõn: “Mày đúng là một chú nhóc mà!” Nói rồi trước khi Liệt Dương kịp phát khùng, nàng liền ôm cổ A Tệ bay vút đi, “Tứ ca, Tứ tẩu, muội đi đây.”

Liệt Dương giận dữ giậm chân một cái, biến lại nguyên hình rồi vừa quang quác chửi rủa vừa vỗ cánh đuổi theo.

Xương Ý nhìn theo bóng A Hành xa dần, giơ tay vẫy vẫy.

Xương Phó nép người bên khung cửa tươi cười nhìn phu quân, ánh mắt chan chứa tình nồng.

Sau khi lên ngôi, Thiếu Hạo đã lấy lại nửa mảnh Hà Đồ Lạc Thư từ chỗ Tuấn Đế, chuyên tâm nghĩ cách phá giải, nhưng bất kể thử thế nào cũng vô dụng. Hà Đồ Lạc Thư chỉ có nửa mảnh thì chẳng khác nào phế vật.

Rốt cuộc trong Hà Đồ Lạc Thư ẩn giấu bí mật kinh thiên động địa gì? Tại sao các Thần tộc từ thời thượng cổ đều truyền tụng nhau về nó, coi trọng nó đến vậy?

Thiếu Hạo bất lực thở dài, thu dọn mọi thứ lại, đoạn ra khỏi mật thất.

A Hành chẳng biết về tự khi nào, đang đợi y trong đại điện. Nhìn nàng gục đầu xuống án thư thiêm thiếp ngủ, hẳn đã phải đợi khá lâu.

Thiếu Hạo mỉm cười, lấy áo mình khoác lên vai nàng rồi dẹp hết văn thư tấu chương qua một bên, ngồi lui vào góc phòng, bắt đầu giở ra xem.

Xem xét mãi đến nửa đêm, nghe chừng thấm mệt, y bèn đặt tấu chương xuống, nhắm mắt dưỡng thần.

Thừa Ân điện hiện nay rất vắng người, bởi thế tuy ban ngày tĩnh mịch trang nghiêm nhưng đêm xuống lại im lìm như chết. Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng tí ta tí tách của đồng hồ nước nghe vang vang như thể khắp nơi trong tòa cung điện mênh mông này đều có hồi âm vọng lại. Thảng hoặc y cũng nghĩ, có khi nào phụ vương sợ nghe tiếng vọng quạnh quẽ của chiếc đồng hồ nước, nên mới cho tấu đàn thổi sáo suốt ngày hay không?

Vậy mà đêm nay, y chẳng hề nghe thấy âm thanh lạnh lẽo đó.

A Hành đi đường xa đã mệt, lại phải nằm sấp mà ngủ nên cả người dâm dấp mồ hôi, hơi thở dồn dập, càng tăng thêm vẻ thơ ngây đáng yêu của nàng.

Thiếu Hạo chống cằm say sưa ngắm nàng, khóe miệng hé lộ nụ cười.

A Hành chợt động cựa rồi mơ màng mở mắt, trông thấy Thiếu Hạo, nàng thoáng bối rối, vội cau mày cố nhớ xem mình đang ở đâu, dáng vẻ hệt như một chú mèo lười biếng.

“Thiếp ngủ quên mất, sao chàng không gọi dậy?”

Thiếu Hạo cười, “Có sao đâu, ta cũng phải xem tấu chương mà.”

A Hành đưa chiếc áo khoác trên người lại cho y, “Thiếp có chuyện muốn nói với chàng.”

“Nàng cứ nói đi.”

“Chàng còn nhớ giao ước giữa hai chúng ta hồi mới cưới không? Chàng đã thực hiện được ba điều, chỉ còn một điều nữa thôi.”

Thiếu Hạo rúng động cả cõi lòng, khẽ gật đầu, “Ta nhớ chứ, nàng giúp ta đăng cơ, ta để nàng được tự do lựa chọn, đi hay ở là tùy nàng.”

“Giờ chàng đã đăng cơ, thiếp được tự do lựa chọn rồi chứ?”

Bàn tay Thiếu Hạo giấu trong tay áo khẽ siết lại thành quyền, “Nàng nói đi.”

“Thiếp muốn đi.”

“Nàng định đi đâu?”

A Hành thoáng vẻ ngượng ngùng, nhưng giọng nói vẫn rất kiên quyết, “Thiếp đã hứa với Xi Vưu rằng sẽ ở bên hắn, hắn đi đâu thì thiếp đi đó.” Câu nói hằng ấp ủ trong lòng cuối cùng cũng có thể đường đường chính chính nói ra, nàng thấy người nhẹ nhõm hẳn, như vừa trút bỏ được một tảng đá, cảm giác hết sức thản nhiên tự tại, bất kế kết quả ra sao.

Thấy Thiếu Hạo cau mày trầm tư, A Hành nôn nóng bồi thêm, “Đây là giao ước giữa chúng ta đó! Giờ chàng đã thành vua một nước, tuy yêu cầu này có phần hoang đường, nhưng chẳng gây thiệt hại gì cho dân chúng Cao Tân, cũng không ảnh hưởng gì đến an nguy của chàng cả, dựa vào cơ trí và tài năng của mình, chàng hoàn toàn có thể sắp xếp ổn thỏa kia mà.”

Thiếu Hạo mỉm cười: “Nàng đừng nóng, ta đã hứa thì nhất định sẽ thực hiện. Chỉ là ta đang nghĩ nên làm thế nào thôi.”

A Hành nghe vậy mới thở phào. Thiếu Hạo nói tiếp: “Cuộc hôn nhân của chúng ta thực chất là đại diện cho mối liên minh giữa hai bộ tộc. Hiện giờ Hoàng Đế đang tiến hành đánh Thần Nông, chắc chắn không muốn phá vỡ liên minh, còn ta vừa mới đăng cơ, đế vị chưa vững, cũng chẳng thể hủy bỏ liên minh này.”

“Thiếp hiểu, mẹ và đại ca thiếp cũng không muốn phá vỡ mối liên minh này.”

Thiếu Hạo ngẫm nghĩ, “Ta định nhận Xương Phó, Tứ tẩu của nàng làm muội muội, dùng đại điển long trọng nhất sách phong nàng ta làm vương cơ Cao Tân, như vậy có nghĩa là, qua Xương Phó và Xương Ý, ta và Hoàng Đế vẫn giữ mối thông gia với nhau, đồng thời làm tăng thêm giá trị của Xương Phó và Xương Ý trong lòng Hoàng Đế, dù sau này Hoàng Đế có giận nàng, cũng không đến nỗi trút giận lên Tứ ca và mẫu hậu nàng.”

Thiếu Hạo quả là nhân tài xuất chúng, thoáng chốc đã nghĩ ra giải pháp vẹn cả đôi đàng thế này. A Hành mừng khôn tả xiết, luôn miệng cảm ơn y rối rít.

Thật ra, trong lòng Thiếu Hạo còn ấp ủ một kế hoạch quan trọng hơn, nếu Thanh Dương có thể thuận lợi đăng cơ thì dù A Hành có muốn đi hay ở đều có thể giải quyết ổn thỏa, chỉ là hiện giờ y không thể tiết lộ với nàng, nhất định phải vỗ yên A Hành, tranh thủ thời gian giúp Thanh Dương giành được đế vị.

Thiếu Hạo đề nghị: “Cho ta chút thời gian để sắp xếp, được không? Kỳ thực Thanh Dương thương nàng hơn ai hết, hai người bọn ta chắc chắn sẽ trả lại tự do cho nàng.”

A Hành đang mừng rỡ, liền đồng ý ngay: “Một lời đã định chứ?”

“Một lời đã định!” Thiếu Hạo phóng mắt ra ngoài cửa sổ, nhìn lên bầu trời đêm thăm thẳm không một ánh sao. Giờ đây Thanh Dương đang làm gì? Hoàng Đế đã bắt đầu “sinh bệnh” hay chưa? Chỉ cần Thanh Dương đăng cơ thì việc trả tự do cho A Hành dễ như trở bàn tay.

Y còn dặn thêm: “Trong thời gian chuẩn bị rời khỏi Cao Tân này, nàng có thể tự do ra vào Ngũ Thần sơn nhưng đừng để Xi Vưu lên đây nữa, đám thị vệ đã đổi trận pháp mới rồi.”

A Hành đỏ mặt thẹn thùng, khẽ đáp: “Vâng, thiếp về nghĩ đây.” Tiếng vạt áo loạt xoạt xa dần rồi mất hẳn.

Thiếu Hạo vẫn ngồi lặng bên bàn, hồi lâu chẳng hề cử động.

Trong đêm tối, tấm màn xanh biếc như nước tỏa ra lam quang lành lạnh, đồng hồ nước vẫn tí tách đều đều, âm vang, văng vẳng giữa đại điện mênh mông.

Tí tách, tí tách, tí tách…

Được Thiếu Hạo dốc sức ủng hộ, lại có A Hành dày công bố trí, hôn lễ đã được chuẩn bị đâu ra đó, chỉ đợi đến giờ lành ngày mai, Nặc Nại sẽ dẫn đội rước dâu đích thân tới biên giới giữa Cao Tân và Thần Nông đón Vân Tang.

Tối hôm đó, Nặc Nại bị An Dung, An Tấn cùng cả đám bạn bè quây lấy trêu chọc, ồn ào đến nửa đêm, khó khăn lắm mới giản tán được bọn họ. Có điều lòng cứ rộn rã hân hoan, y không sao ngủ nổi, bèn trở dậy kiểm tra lại hành trang thật kỹ, nhất định phải dành cho Vân Tang một hôn lễ hoàn mỹ nhất.

Trời còn chưa sáng, A Hành đã dậy rửa mặt chải đầu, vận cung trang rồi cùng Thiếu Hạo tới tiễn Nặc Nại.

Vừa đến nơi, Nặc Nại đã mũ áo chỉnh tề, phấn chấn đứng đợi, dường như chỉ nôn nóng muốn lên đường lập tức. Thấy vậy, Thiếu Hạo bèn chọc ghẹo y vài câu, khiến cả đám huynh đệ đứng đó cười rộ lên.

Đoàn người rầm rộ tiến thẳng ra ngoại thành, bọn An Tấn còn xoa tay bàn mưu náo loạn động phòng một trận ra trò. Đột nhiên một tiếng thét thất thanh vang lên, dàn nhạc hỷ đang véo von chợt ngưng bặt. Nhóm đi đầu đứng lại, nhưng mọi người ở phía sau vẫn tiến lên, khiến cả đội ngũ nhất thời rối loạn.

Chưa cần biết phía trước có chuyện gì, An Dung lập tức quát gọi người bảo vệ Tuấn Đế, sợ trong lúc hỗn loạn lại xảy ra biến cố. Tức thì, đám thị vệ đang ẩn náu xung quanh rào rào rút binh khí, bóng đao ánh kiếm lạnh ngắt xói vào mắt A Hành, khiến nàng hoảng hốt đưa mắt tìm Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo nắm chặt lấy tay nàng, cao giọng lệnh cho tất cả mọi người đứng yên đợi lệnh.

Giọng nói uy nghiêm trầm tĩnh của y đã trấn áp được cả đoàn, mọi người dần ổn định trật tự. Thiếu Hạo nắm lấy tay A Hành bước lên trước, đoàn người tự động giãn ra, nhường đường cho họ.

Dần dần, bọn họ trông thấy thành lâu. Cổng thành mở toang, trước cổng giăng đèn kết hoa, chính giữa cổng treo lủng lẳng một thi thể phụ nữ. Nàng ta ăn vận theo lối phục sức của tân nương cung đình Cao Tân, mình khoác áo cưới đỏ rực, đầu đội mũ phượng lộng lẫy, quay mặt về phía đội rước dâu. Gió sớm khiến thi thể nàng lắc lư lay động, hệt như người sống, đang đợi tân lang của mình tới đón đi.

Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 08:26 PM
Chương 22

Gió Đông Bắc, hoan tình nhạt nhẽo (1)

22.2


Nhận ra thi thể này chính là Khấp Nữ, A Hành thét lên kinh hãi, suýt nữa ngất xỉu, Thiếu Hạo phải giơ tay đỡ lấy nàng.

Nặc Nại đứng phía sau mặt mày tái nhợt, trừng ngừng nhìn thi thể Khấp Nữ.

An Tấn luôn miệng phỉ phui, sai binh lính hạ thi thể xuống rồi quay sang khuyên giải an ủi Nặc Nại: “Chỉ là một tỳ nữ, đừng vì chuyện này mà buồn rầu, làm ảnh hưởng đến hôn lễ”, đoạn sa sả chửi rủa: “Con tiện tỳ khốn kiếp, dám làm ra chuyện động trời, hỏng mất cả ngày vui.”

Thường Hy bộ xưa nay đều dùng phượng làm dấu ấn, hỷ phục của Khấp Nữ lại thêu chim phượng, mũ đội đầu cũng là mũ phượng, đều mang dấu ấn của Thường Hy bộ, đủ thấy thân phận của ả chẳng tầm thường chút nào. An Dung vội giật giật áo An Tấn, ra ý ngăn hắn đừng rủa sả Khấp Nữ nữa.

Nặc Nại bước tới trước mặt Thiếu Hạo, chỉ vào thi thể Khấp Nữ dưới đất, vặn hỏi: “Rốt cuộc nàng ta là ai?”

Thiếu Hạo thoáng trầm ngâm, “Ta tưởng nàng là thị nữ ngươi nhặt về.”

Nghe hai người một hỏi một đáp, A Hành cảm giác hình như bọn họ đều đã biết thân phận của Khấp Nữ, nhưng vẻ mặt cả hai khiến nàng lạnh toát người, chẳng còn lòng dạ nào tìm hiểu lai lịch ả nữa. Nàng muốn la lên bảo Nặc Nại, mặc kệ chuyện đó, mau đi rước dâu đi, Vân Tang đang đợi ngươi! Nhưng Khấp Nữ nằm kia vẫn đang mở to mắt lặng lẽ nhìn nàng, khiến nàng không sao cất nên lời.

Nặc Nại khàn khàn hỏi lớn: “Có ai từng gặp cô gái này chưa? Ai biết thân phận của cô ấy là gì không?”

Hồi lâu mới thấy một phụ nữ trang điểm lộng lẫy run rẩy bước ra hành lễ với Thiếu Hạo và Nặc Nại, “Thiếp thân học đòi kim chỉ, cũng có chút danh tiếng, từng tới Thường Hy bộ dạy mấy vị tiểu thư may vá thêu thùa, vị này chính là Băng Nguyệt tiểu thư của Thường Hy bộ, phụ thân cô ấy chính là cậu ruột của Nhị điện hạ.”

Gương mặt Nặc Nại thoát trắng bệch, y từ từ ngồi thụp xuống, hồn xiêu phách lạc nhìn Băng Nguyệt vận y phục đỏ rực, ánh mắt đầy hổ thẹn và áy náy.

Thường Hy bộ, Yến Long? A Hành dần hiểu được lại lịch của Khấp Nữ, thì ra đó chính là cô gái từng có hôn ước với Nặc Nại, cái tên Khấp Nữ hẳn là vì bị Nặc Nại ruồng rẫy mà khóc khô nước mắt. Có điều trước đây Nặc Nại và cô ta chưa từng gặp nhau, dù ngưỡng mộ dung mạo và tài hoa của y rồi bị y phũ phàng từ hôn, cũng đâu đến nỗi phải lao tâm ẩn náu bên y suốt hai trăm năm, để cuối cùng yêu y tha thiết, đành dùng cái chết phản đổi hôn sự này.

Thấy đôi môi anh đào của Bạch Nguyệt hơi he hé như đang ngậm vật gì đó, Nạc Nại liền nhẹ nhàng vạch miệng cô, lập tức một miếng bạch ngọc rơi xuống tay y, cặp mắt cô cũng theo đó mà khép lại, tựa hồ đã nói hết điều cần nói, từ nay yên lòng ra đi.

Nặc Nại run lẩy bẩy, nắm chặt lấy miếng ngọc, trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, thét lên: “Năm xưa rốt cuộc ngươi đã làm gì để ép Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước hả?”

An Dung vội túm lấy chặt tay Nặc Nại, đẩy cho An Tấn giữ, rồi quỳ xuống dập đầu thỉnh tội với Thiếu Hạo, “Nặc Nại bi thương nôn nóng quá độ, nói năng không biết giữ gìn, xin bệ hạ niệm tình tha cho tội bất kính.”

Đột nhiên từ đằng xa vang lên tiếng la thét và khóc than, xem ra Thường Hy bộ đã nghe ngóng được tin, đang dẫn người đuổi tới. Kẻ nào đó còn cao giọng la lớn: “Giết chết Nặc Nại! Bắt hắn đền mạng cho tiểu thư!”

An Dung vội tâu: “Băng Nguyệt là biểu muội của Yến Long và Trung Dung, lại bị Nặc Nại từ hôn, e rằng chuyện này đã bị Trung Dung lợi dụng, gây ra đại loạn. Để bảo đảm an toàn, xin mời bệ hạ và vương phi lập tức về cung.”

Thiếu Hạo gật đầu, “Để bảo đảm an toàn cho Nặc Nại, đưa cả hắn về Thừa Ân cung cùng chúng ta.”

Cả đoàn người vội vã trở về Thừa Ân cung.

Thiếu Hạo cho tất cả thị vệ lui ra, chỉ để lại mình, A Hành và Nặc Nại, rồi lẳng lặng nhìn y chờ đợi. Nặc Nại cầm mảnh bạch ngọc đặt xuống trước mặt Thiếu Hạo, chất vấn: “Bệ hạ học thức uyên bác, hẳn biết rõ thứ này là gì? Vì sao Băng Nguyệt tiểu thư phải ngậm nó mà tự vẫn chứ?”

A Hành trân trân nhìn miếng ngọc trắng tinh thuần khiết trên bàn, sực nhớ tới một câu chuyện lưu truyền trong đám khuê các ở Cao Tân. Chuyện kể rằng có cô gái đã có hôn ước nhưng cha mẹ cô thèm muốn quyền thế, ép con gái cải giá. Trước ngày đại hôn, cô gái tiết liệt đó tự ví mình như bạch ngọc, trong trắng tinh khiết, quyết không thể làm hoen ố, bèn nắm lấy miếng ngọc trắng mà hôn phu khi trước tặng, nhảy xuống sông mà chết. Từ đó, khi nữ tử Cao Tân xuất giá, thường nắm một miếng bạch ngọc trong tay, tượng trưng cho phẩm chất của mình, kiên trinh thanh bạch như ngọc trắng.

Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn miếng ngọc trên bàn, vẻ mặt phức tạp, hồi lâu mới lên tiếng: “Năm xưa, ngươi say rượu rồi ngang nhiên hẹn ước chuyện hôn nhân trước mặt mấy vị vương tử, phụ vương hết sức coi trọng lễ nghi, hậu cung lại bị tỷ muội Thường Hy thị thao túng hoàn toàn, hôn sự này coi như đã được xác định, không cách nào thoái thác được. Ta đã vắt óc tìm trăm phương nghìn cách, nhưng tất cả đều vô dụng. Có điều bất kể vì ngươi hay vì chính bản thân ta, ngươi cũng không thể cưới một nữ tử Thường Hy thị được. Cuối cùng ta đành dùng hạ sách, sai người gài bẫy Băng Nguyệt, chứng minh cô ta đã thất thân với kẻ khác, mới bức được Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước.”

“Ngươi…” Nặc Nại tím mặt lại, khàn giọng hỏi: “Ngươi có biết danh tiết của nữ tử Cao Tân quan trọng nhường nào không?”

“Dĩ nhiên ta biết, nhưng nếu ta không làm vậy, ngươi có biết hậu quả sẽ ra sao không? Băng Nguyệt bị người nhà làm công cụ, gả cho kẻ đã có ý trung nhân là ngươi, chẳng nhẽ ngươi sẽ tìm được hạnh phúc ư? Hy Hòa bộ quy thuận Yến Long, ngươi đành lòng giương mắt nhìn Yến Long giết chết ta, An Dung, An Tấn sao?”

Nặc Nại bỗng sụp xuống ủ rũ, nói cho cùng, tất cả đều tại y hồ đồ tự chuốc vạ vào thân. Thiếu Hạo chỉ giúp y thu dọn cục diện mà thôi.

“Thực ra, ta vốn định đền bù cho Băng Nguyệt.”

Nặc Nại giễu cợt: “Đền bù ư? Ngươi dùng thủ đoạn hạ lưu đó đối phó với một nữ tử yếu đuối bơ vơ, định lấy gì để đền bù đây? Dù ngươi có dùng uy quyền ép buộc kẻ nào đó kết hôn với nàng, thì phu quân của nàng cũng sẽ khinh miệt nàng suốt đời!”

“Nhất định không có chuyện đó! Bởi vì ta định sẽ cưới nàng, đương nhiên ta biết nàng còn thanh bạch!”

Nặc Nại sững người, Thiếu Hạo cay đắng nói tiếp: “Lúc đó ta định sau khi đăng cơ sẽ cưới nàng vào cung, long trọng sách phong nàng, vừa để đền bù, cũng vừa là bảo toàn nàng, đồng thời có thể giúp ta chia rẽ, lôi kéo Thường Hy bộ, nhưng…” Thiếu Hạo liếc nhìn A Hành, “Nhưng gần đây nhiều việc bộn bề, nhất thời chưa nghĩ tới chuyện lập thêm phi tần, nào ngờ lại chậm một bước.”

Nặc Nại thẫn thờ hồi lâu rồi phá lên cười thê thiết, dập đầu binh binh lạy Thiếu Hạo, “Thuở nhỏ ngươi thường chê ta hành sự quá cảm tính, còn ta lại cười ngươi làm việc quá lý trí kín kẽ, cái chết của Băng Nguyệt nói cho cùng đều là lỗi của ta, ngươi chẳng làm gì sai cả, khi nãy ta nóng giận trách lầm ngươi là bởi ta sợ sẽ mất đi tất cả, không dám thừa nhận chính mình đã hại chết Khấp Nữ… Băng Nguyệt.” Dứt lời, y đứng dậy, liêu xiêu bước ra khỏi điện.

“Nặc Nại.” A Hành cuống quýt gọi giật y lại, ngập ngừng hỏi, “Vân Tang… tỷ ấp làm sao đây?”

Nặc Nại ngoảnh lại nhìn nàng, vẻ mặt đau đớn in hằn trên mặt, ánh mắt chất chứa tuyệt vọng: “Vương phi nghĩ nàng có thể hân hoan bước qua cổng thành từng lủng lẳng thi thể Băng Nguyệt mà gả cho ta không? Ta đã hại chết Băng Nguyệt, chẳng lẽ còn muốn Vân Tang phải gánh lấy lời sỉ vả của người trong thiên hạ hay sao?”

Đột nhiên trước mặt A Hành hiện lên cảnh tượng Băng Nguyệt thân mang áo cưới, đầu đội mũ phượng, treo lủng lẳng trước cổng thành, cặp mắt tròn xoe trong vắt vẫn chăm chăm nhìn Nặc Nại. Nàng chợt thấy hơi lạnh từ đáy lòng lan đến đầu lưỡi, khiến lưỡi nàng đông cứng chẳng thốt nên lời, đành giương mắt nhìn Nặc Nại lảo đảo đi khỏi.

Suốt mấy ngày, bên ngoài cung náo động hỗn loạn, không sao dẹp yên được, nhưng trong cung lại yên lặng như tờ. Thiếu Hạo sợ bọn Trung Dung lấy cớ giết chết Nặc Nại, bèn ra lệnh giám sát Nặc Nại thật chặt, không cho phép y rời Thừa Ân cung nữa bước.

Nhờ Thiếu Hạo ra sức át đi, việc Băng Nguyệt tự vẫn cũng dần dần lắng xuống, chẳng ai dám nhắc đến cái chết của cô, càng không ai dám đả động đến hôn sự của Vân Tang và Nặc Nại nữa, như thể chuyện đó chưa hề tồn tại.

Nặc Nại đều ngày ngày uống say bí tỉ, không một ai tới tìm y, y cũng chẳng hề hé răng nói năng gì, chỉ ôm lấy hũ rượu ngủ vùi.

A Hành không biết làm sao, đành đi hỏi Thiếu Hạo. Y đáp: “Băng Nguyệt ở bên Nặc Nại suốt hai trăm năm, đã trở thành thân tín của Nặc Nại. Rõ ràng nàng ta có vô số cơ hội báo thù y, vậy mà lại chọn lấy cách tuyệt vọng nhất. Nàng ta vận đồ tân nương, trang điểm lộng lẫy rồi treo cổ tự vẫn ngay trước cổng thành chính là muốn phá tan hôn lễ của Vân Tang và Nặc Nại. Trung Dung lại nhân cơ hội làm toáng chuyện này lên, khiến toàn thành đều biết Nặc Nại hủy hôn để lấy người khác, tham vọng trèo cao, vì muốn kết hôn với Trưởng vương cơ Thần Nông địa vị cao quý mà bức một nữ tử thanh bạch kiên trinh vào đường cùng, phải lấy cái chết tỏ lòng. Hiện giờ cả Cao Tân đều đang chửi rủa Nặc Nại, căm ghét Vân Tang. Ta có thể áp chế bọn Trung Dung nhưng không thể bịt được miệng dân chúng, đừng nói là hôn sự của hai người họ, ngay chức tước của Nặc Nại cũng khó mà giữ được, mấy hôm nay ngày nào cũng có quan viên dâng sớ vạch tội y.” Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu sớ tới trước mặt A Hành.

A Hành buồn bã: “Hết cách thật rồi sao?”

Thiếu Hạo trầm ngâm đáp: “Đành chờ thời gian đưa ra kết quả cuối cùng chứ biết sao. Vết thương Băng Nguyệt gây ra cho Nặc Nại cũng cần thời gian bình phục, dân chúng mãi rồi sẽ quên lãng chuyện này thôi.”

A Hành đành viết thư an ủi Vân Tang. Vân Tang gửi thư phúc đáp, giọng điệu vẫn vô cùng bình thản, hệt như tính tình Vân Tang vậy, càng ở vào thời khắc bi thương lại càng trấn tĩnh. Vân Tang còn tha thiết khuyên nàng: đời người biến ảo khó lường, họa phúc chỉ cách nhau gang tấc, quan trọng nhất là biết trân quý cái mình đang nắm giữ, đừng để Xi Vưu mòn mỏi đợi chờ thêm nữa!

A Hành nắm chặt phong thư, ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, chớp mắt đã sắp mùng tám tháng Tư, lại đến tết Khiêu Hoa ở Cửu Lê rồi. Nàng chợt thấy mình không sao chịu nỗi bầu không khí nặng nề u ám ở Thừa Ân cung nữa, nàng muốn gặp Xi Vưu, nàng muốn gặp hắn ngay lập tức.

Sắp xếp xong mọi chuyện trong cung, A Hành liến bay thẳng tới Cửu Lê.

Hoa đào trên núi Cửu Lê nở rộ như lửa như tranh, thấp thoáng giữa rừng đào là căn nhà sàn khép cửa, lặng lẽ đợi người về.

Có lẽ vì tự do đang ở ngay trước mắt, nên khi mở cửa ra, A Hành chợt có một cảm giác là lạ, khác hẳn trước đây. Nàng bước ra sân phơi, đưa mắt ngắm núi non quanh đó, càng ngắm càng nghe lòng rộn rã, bèn quanh sang hỏi A Tệ: “Sau này chúng ta sẽ ở lại đây, được không?”

A Tệ nhoẻn cười, lăn tròn trên mặt đất, huơ huơ bốn chân, tỏ vẻ thích thú.

“Mày thấy thế nào, Liệt Dương?”

Liệt Dương ngồi vắt vẻo trên cành đào, hờ hững đáp: “Cô thấy thích là được.”

A Hành vỗ tay đánh đét: “Hay lắm, vậy từ mai chúng ta bắt đầu bày biện nhà của bọn mình!”

Sáng hôm sau tỉnh dậy, A Hành ra chợ dạo quanh một vòng mua cả đống đồ đạc, về tới nhà đã thấy Liệt Dương và A Tệ quét dọn sạch sẽ phòng ốc từ trong ra ngoài, khiến ngôi nhà sàn được thay áo mới.

A Hành sắp xếp phòng ở cho mình và Xi Vưu xong, lại bố trí riêng cho Liệt Dương một căn phòng, đồng thời làm luôn cho nó một cái tổ trên cây, rồi quay sang hỏi A Tệ: “Hàng ngày mày ngủ dưới gốc đào, bầu bạn cùng Liệt Dương, khi nào mưa thì lên nhà sàn, được không?”

A Tệ hớn hở chạy vòng vòng quanh gốc đào.

Xong xuôi mọi việc, A Hành đứng trước nhà quan sát từng thứ một, rèm bích loa, sa thiên thanh, trúc phượng vĩ, rừng hoa đào… hình như còn thiếu gì đó?

Nàng chạy vút vào nhà, lục rương cũ lấy ra chiếc chuông gió bằng răng thú vẫn treo trên Ngọc sơn năm xưa, tuy chuông gió đã úa màu thời gian nhưng lại đượm một niềm ngậm ngùi xưa cũ.

Treo dưới hiên nhà, gió vừa lướt qua, từng chuỗi tinh tinh tang tang, tang tang tinh tinh lại cất lên êm đềm hệt như ba trăm năm về trước.

Xi Vưu cưỡi Tiêu Dao đến Cửu Lê, đã thấy A Hành đợi dưới cội đào tự khi nào.

Hắn vội nhảy xuống ôm chầm lấy A Hành, cười hỏi: “Nàng đến lâu chưa? Đi nghe sơn ca không?”

A Hành lắc đầu cười rồi kéo tay hắn: “Mình về nhà đi.”

Hoa đào nở đỏ rực rỡ trên núi, căn nhà sàn biếc xanh sắc trúc thấp thoáng giữa rừng hoa, chưa lại gần đã nghe thấy tiếng chuông gió tinh tang, như không như có, êm đềm rất mực. Xi Vưu bất giác rảo bước thật mau, đến khi tới trước cửa nhà, hắn bỗng sáng cả mắt lên.

Xung quanh nhà là một hàng giậu trúc, bên giậu trồng đủ tường vi, thạch cúc, khiên ngưu, đỗ quyên… vàng, đỏ, trắng, lam… các loại hoa đủ màu sắc nở rực trước giậu. Sau nhà còn một mảnh vườn mới cuốc, Liệt Dương đang chỉ huy hơn mười mấy chú chim bay qua bay lại gieo hạt, tíu tít cả lên, trong khi A Tệ uể oải nằm dài dưới gốc đào, thoạt nhìn hệt như một con chó canh cửa.

Xi Vưu đứng ngây ra, sững sờ. Từ bé hắn lớn lên nơi rừng hoang núi vắng, ngạo nghễ tự tại giữa sơn lâm, thả sức rong ruổi cùng mây nước, cả đất trời đều thuộc về hắn, nhưng hắn chưa từng có một mái nhà. Thuở nhỏ hắn từng trông thấy mỗi khi khói bếp lững lờ bốc lên, đám trẻ đều hớn hở chạy về nhà trong tiếng ời ời của mẹ, hồi đó hắn còn chưa hiểu tại sao mình thà bị đánh đuổi cũng vẫn quanh quẩn gần làng mạc, không chịu bỏ đi, về sau mới vỡ lẽ ra, hắn mới thật sự hiểu ra, đứa trẻ hoang dã, sống cuộc sống như muông thú năm xưa cứ quanh quẩn ngoài bản, nấp trong rừng lén rình rập từng nhà, bởi nó cũng khao khát được bước vào một ngôi nhà thuộc về mình.

Xi Vưu cố nén bao niềm cảm khái đang cuộn trào trong lòng, lên tiếng: “Nếu mở cửa ra lại thấy một mâm cơm sẵn sàng nữa, mới đúng là về nhà.”

A Hành liền vén rèm lên: “Chúng mình về nhà thôi.”

Đồ ăn trên bàn đang bốc hơi nghi ngút, mùi thơm nức mũi. Xi Vưu lặng lẽ tiến lại, ngồi xuống ăn hết sức ngon lành. A Hành cũng ngồi xuống cạnh hắn nhưng vừa nếm một miếng đã cau mày, nàng chỉ quen trồng hoa tỉa lá chứ chẳng giỏi nấu ăn, mấy món này quả là miễn cưỡng lắm mới nuốt được.

Xi Vưu cười bảo: “Từ sau cứ để ta làm cơm.”

Vừa nghe thấy câu “từ sau”, A Hành đã mừng rơn, gật đầu lia lịa, “Nói lời phải giữ lấy lời nhé, ai không giữ lời thì là…” Nàng chợt khựng lại, chửi người khác là súc sinh tức là xúc phạm người ta, nhưng nói Xi Vưu là súc sinh chẳng khác nào đang khen hắn, làm hắn cao hứng! A Hành cau mày nặn ra một câu khác, “Ai không giữ lời thì là người!”

Xi Vưu vừa hớp một ngụm Ca tửu, nghe nói liền phun ra.

A Hành nhìn hắn cười khúc khích, trên đời này có niền hạnh phúc nào bằng được trông thấy người mình yêu thương tươi cười chứ?

Dùng cơm xong, hai người lại ra trước cửa ngồi uống trà hóng mát. Xi Vưu hỏi nhỏ: “Căn nhà này là nàng dành cho ta thật ư?”

“Cũng là chàng dành cho ta đó.”

“Thế còn căn nhà của Thiếu Hạo dành cho nàng?”

A Hành cười khúc khích, nhân tiện thừa nước đục thả câu, cố ý trêu Xi Vưu, “Nếu biểu hiện của chàng tốt, ta sẽ rời xa Thiếu Hạo.”

Bấy giờ Xi Vưu mới hởi lòng hởi dạ, liền mặt dày nâng cằm A Hành lên, nửa cười nửa không, hỏi: “Nàng nói về phương diện nào thế? Trên giường hả?”

A Hành thẹn thùng vung tay đấm hắn, Xi Vưu bèn ôm nàng đặt lên đùi, vòng tay siết chặt lấy A Hành để nàng khỏi vùng vẫy làm loạn. A Hành tựa đầu vào vai hắn hỏi: “Lần này chàng nán lại được mấy ngày?”

“Nàng ở bao lâu, ta cũng ở bấy lâu.”

“Trong cung đã có con rối thay chân ta, lại được Thiếu Hạo che chở, khó mà phân biệt được thật giả, hơn nữa mọi người đều biết ta yếu đuối lắm bệnh, không thể gặp khách khứa, ta có nán lại vài ngày cũng chẳng ai phát hiện ra đâu, nhưng chàng là Đốc Quốc Đại tướng quân kia mà.”

“Chúc Dung vừa xuất quan đã tất bật bắt tay vào xử lý công việc, mấy trăm năm nay tuy Du Võng không nói ra, nhưng trong lòng hắn cũng thấy ta quá mức tàn bạo, lần này hắn định dựa vào Chúc Dung để xoa dịu nỗi oán giận của đám chư hầu quý tộc kia, nên hiện giờ ta rất nhàn nhã.”

A Hành hỏi đầy hàm ý: “Chàng nhàn nhã như thế, có thể lui về ở ẩn được chăng? Chúng ta có thể định cư ở Cửu Lê, chàng trồng đào, ta chăn tằm.”

Xi Vưu cười cười không đáp, hồi lâu mới nói: “Nhất định sẽ có ngày như thế! Nhưng trồng đào ta thấy suốt ruột lắm. Ta muốn đưa nàng và Tiêu Dao đi làm vài việc mà người đời chưa từng làm qua. Mọi người đều nói Thang cốc là cực Đông của đại hoang, Ngu uyên là cực Tây, Nam minh là cực Nam, Bắc minh là cực Bắc. Nhưng cực Đông của Thang cốc, cực Tây của Ngu uyên, cực Nam của Nam minh, cực Bắc của Bắc minh là gì? Lẽ nào Thang cốc Ngu uyên, Nam minh Bắc minh là chốn mênh mông bát ngát không có bến bờ ư? Tới chừng đó, hai ta sẽ cưỡi Tiêu Dao đi tới nơi mà người đời chưa từng đặt chân tới.”

“Còn cả Liệt Dương và A Tệ nữa chứ.”

“Ừ, cả Liệt Dương và A Tệ!”

A Hành nhoẻn cười, chìa ngón út ra, “Ngoéo tay treo cổ!”

Xi Vưu cũng bật cười, ngoắc tay với nàng, “Nhất định giữ lời!”

Ngón út của cả hai ngoắc lấy nhau, kéo qua kéo lại mấy lần, còn hai ngón cái lại áo vào nhau, như hai kẻ đang hôn nhau say đắm, bọn họ chăm chú nhìn ngón tay mình rồi phá lên cười, chẳng hẹn mà cùng xòe cả năm ngón tay ra, đan vào tay đối phương.

Xi Vưu dùng tay kia bế thốc A Hành vào phòng, đặt lên giường, cởi bỏ y phục của nàng rồi áp tay lên bụng nàng, từ bụng lần lên ngực, từ ngực lại men xuống cánh tay, đan tay mình vào tay nàng, khăng khăng khít khít.

Chiếc chuông gió dưới hiên nhà lại reo lên rộn rả như trước làn gió xuân hây hẩy.

Ngày tháng giữa núi rừng trôi qua rất mau, thoáng chốc Xi Vưu và A Hành đã ở lại Cửu Lê hơn một tháng.

Có lúc A Hành cảm giác những tháng ngày này sẽ dài ra vô tận, miễn là bọn họ ở ẩn nơi đây, dù bên ngoài xảy ra chuyện gì cũng không liên quan tới họ.

Nhưng dù có lãng quên thế giới ngoài kia thì thế giới ngoài kia cũng không chịu bỏ qua cho họ.

Xích điểu mang theo thẻ ngọc bay đến Cửu Lê.

Xi Vưu đọc xong mấy dòng ghi trên thẻ ngọc, ngẩng lên bảo A Hành: “Ta phải về đây. Hoàng Đế ngự giá thân chinh, đã đánh bại Cộng Công, khiến quân sĩ Thần Nông hoang mang bối rối. Du Võng bị Chúc Dung xúi giục cũng chuẩn bị ngự giá thân chinh, dẫn quân giao chiến với Hoàng Đế.”

“Gì cơ?” A Hành kinh hoàng, không dám tin vào tai mình nữa.

“Thần tộc đến giờ vẫn còn truyền tụng mãi chuyện ba ngàn năm trước Hiên Viên Hoàng Đế chỉ trong một đêm hạ mười tám ngọn núi Yên Bắc. Vừa nghe nói Hoàng Đế ngự giá thân chinh, tướng lĩnh Thần Nông quốc sợ kinh hồn bạt vía cả. Du Võng liền cử Cộng Cộng ra ứng chiến, nhưng Cộng Công thảm bại khiến trên dưới Thần Nông đều khiếp hãi, kích động sĩ khí, lại được thêm Chúc Dung xúi bẩy, Du Võng cũng quyết định ngự giá thân chinh, đại quân đã xuất phát rồi.”

Hoàng Đế và Viêm Đế đích thân giao chiến với nhau ư?

A Hành choáng váng, vội vịn vào song cửa rồi từ từ ngồi phệt xuống đất. Mới lưu lại nơi đây một tháng mà thế gian đã mây vần gió giục, đất trời biến sắc nhanh thế kia ư?

Xi Vưu xưa nay quen thói hành sự dứt khoát, hắn vòng tay siết chặt lấy A Hành lần cuối rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, “Sau khi dẹp yên mọi chuyện, ta sẽ về tìm nàng.”

A Hành lẳng lặng gật đầu mà lòng nặng trĩu, đột nhiên, nàng níu chặt lấy hắn: “Chàng đừng đi có được không?”

Xi Vưu nhướng mày cười, “Nàng hiểu tính người đàn ông của mình mà, A Hành. Lúc ta bị Chúc Dung truy sát, Du Võng nửa đêm tới quỳ xin Viêm Đế thu hồi lệnh giết ta; sau khi ta đến Thần Nông, mọi người đều khinh bỉ ta, sợ hãi ta, chỉ có Du Võng đối xử tử tế với ta, mang rượu tới uống cùng ta; khi ta nổi cơn thịnh nộ đánh bị thương mọi người, trốn khỏi Thần Nông sơn, ngay đến Viêm Đế cũng quyết định vứt bỏ ta, Du Võng lại đuổi theo ta suốt đêm, bầu bạn cùng ta mấy ngày. Nếu không có tên Du Võng hiền từ đôn hậu, nhu nhược, cả nể đó thì cũng chẳng có Xi Vưu ta ngày hôm nay, chúng ta cũng chẳng thể gặp lại nhau.”

Xi Vưu nói chẳng sai, ngay cả Viêm Đế cũng mưu mô tính toán với hắn vì Thần Nông tộc, chỉ có mình Du Võng từ trước đến nay luôn chân thành đối đãi, tuy hắn đối với kẻ địch hết sức hung tàn nhưng đối với ân nhân lại dốc hết sức hết lòng báo đáp, A Hành còn biết nói gì nữa đây.

Xi Vưu rướn người qua cửa sổ, nồng nàn đặt lên môi nàng một nụ hôn, “Ta đi đây!”

A Hành vẫn bịn rịn nắm chặt tay hắn không buông!

Tiêu Dao từ từ bay lên cao, tay hắn cũng dần rời khỏi tay nàng. Dường như cũng hiểu được nỗi lòng của A Hành, Tiêu Dao không bay vút đi ngay, mà chỉ từ từ bay xa dần. Xi Vưu ngoảnh lại quyến luyến nhìn nàng.

Triền núi bạt ngàn những gốc đào, bấy giờ đã bào độ hồng phai lục thắm. Gió Đông tiễn xuân đi, cuốn theo ngàn ngàn vạn vạn hoa tàn nhị héo lả tả đầy trời. Trong căn nhà sàn xinh xắn lẻ loi giữa rừng đào, A Hành thẫn thờ bên cửa sổ, nhìn theo dáng Xi Vưu đi khỏi, bóng áo xanh quạnh quẽ càng thêm phần cô độc giữa một trời thắm đỏ mưa hoa.

Biết Xi Vưu cũng rầu rĩ chẳng nỡ xa mình, A Hành ra sức vẫy tay, cố lấy giọng vui vẻ nói vọng theo: “Lần sau chàng về, chúng mình có thể ăn rau tự trồng lấy rồi!”

Nghe thấy câu nói của nàng, Xi Vưu chợt thấy lòng bối rối khôn xiết, khóe mắt cay cay, bao hào tráng chí căng tràn lồng ngực dường như đều hóa thành niềm ôn nhu mềm mại vấn vít giữa ngón tay. Ai bảo anh hùng không xúc động, chẳng qua chỉ là chưa tới lúc rơi lệ mà thôi.

Thấy bóng A Hành xa mờ dần cuối chân trời, Xi Vưu bèn quay ngoắt đi, vừa sai Tiêu Dao tăng tốc, vừa cao giọng ca vang, dốc hết nhiệt tình căng tràn lồng ngực vào khúc tình ca nồng nàn say đắm, thổ lộ tình cảm trong lòng mình cho cả trời đất cùng hay.

Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 08:32 PM
Chương 23

Người đi đàn rượu biết ai cùng

23.1


Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả?

A Hành dọn dẹp nhà cửa gọn gàng rồi lên đường quay về Cao Tân.

Cuộc đối đầu chính diện giữa hai vị đế vương đã làm chấn động cả đại hoang, điều này dọc đường đi nàng có thể cảm nhận rất rõ.

Phố phường phồn hoa giờ vắng hoe vắng hoắt, con đường lớn ngoài thành lúc nào cũng rầm rập xe ngựa lao như bay về phía Cao Tân, trên xe lúc nhúc những người xách nách mang đủ thứ, có lẽ bởi Cao Tân không tham gia vào cuộc chiến nên đã trở thành chốn bình yên cuối cùng tại đại hoang, dân chúng đều đổ xô về đó.

Mặt mày ai nấy đều đăm chiêu rầu rĩ, kẻ có người nhà ra trận lo lắng cho an nguy của thân nhân đã đành, người chẳng có cũng thấp thỏm không yên, bởi chồng con họ bất cứ lúc nào cũng có thể bị gọi nhập ngũ.

Trong khi Thần Nông quốc vần vũ mây đen thì Cao Tân quốc lại nhộn nhịp khác thường, trà lầu tửu quán càng lúc càng ăn nên làm ra, sau một ngày bận rộn, mọi người đều thích tụ về đây để nghe đám dân chạy nạn từ Thần Nông quốc đến kể chuyện về cuộc chiến cách họ xa lắc xa lơ.

Chiến tranh chỉ đớn đau nếu nó trực tiếp tác động đến bản thân, còn đối với kẻ vô can, đó là một cuộc vui bất tận.

Dân chúng Cao Tân chỉ mãi hả hê thưởng thức câu chuyện truyền miệng hấp dẫn của đám dân tị nạn chứ nào hiểu nỗi lo lắng ưu tư của Thiếu Hạo cùng mọi điều mà y đã, đang và sắp phải làm để bảo vệ bình yên cho họ.

Về đến Ngũ Thần sơn, A Hành lập tức tới tìm Thiếu Hạo, nàng nóng lòng muốn biết mọi thông tin về cuộc chiến.

Thiếu Hạo đang ngồi lặng nơi thềm điện, giữa ánh tà dương. Cả cung điện nguy nga lộng lẫy vắng tanh, giường như chỉ còn mình y đơn độc.

Chốc chốc lại thấy một cánh Huyền điểu chấp chới bay tới, sà xuống tay y, báo cáo tin tức.

Trông thấy A Hành, y bình thản cười: “Nàng về rồi.”

A Hành ngồi xuống thềm điện, bên cạnh y: “Chàng bảo, rồi sẽ ra sao?”

“Chỉ có hai khả năng, hoặc là Hiên Viên thắng, hoặc là Thần Nông thắng, thế thôi. Ta cũng chẳng biết rốt cuộc ai sẽ thắng nữa.”

“Chàng muốn bên nào thắng?”

“Nàng muốn ta nói thật ư?”

“Chàng nói đi.”

“Hai phe cùng bị diệt chắc rằng không thể, ta chỉ hy vọng đôi bên đều thương tổn thôi.”

A Hành gượng cười: “Thật chẳng hiểu sao Đại ca thiếp lại chịu nổi chàng?”

Thiếu Hạo cũng bật cười theo, nhưng ánh mắt vẫn đầy tư lự, Thanh Dương, rốt cuộc ngươi đang làm gì? Sao không gửi thư trả lời ta?

“Tình hình hiện giờ ra sao rồi?” A Hành hỏi.

“Tin tình báo mới nhất cho biết song phương đang dàn quân hai bên bờ Phản Tuyền[1], tình hình rất căng thẳng.”

[1] Theo truyền thuyết, đây là nơi Hoàng Đế giao chiến với Viêm Đế. (ND)

Một cánh Huyền điểu xuyên qua bóng chiều đậu xuống ngón tay Thiếu Hạo, y lặng lẽ đọc những dòng ghi trên thẻ ngọc rồi nhấc tay, Huyền điểu lại vỗ cánh bay đi.

“Ứng Long đã dẫn theo hai lộ quân Yêu tộc từ cánh Nam bắt đầu tấn công. Yêu tộc nhanh nhẹn hơn hẳn Thần tộc và Nhân tộc, ắt hẳn Hoàng Đế muốn tận dụng lợi thế này để vượt Tề thủy[2].”

[2] Tên con sông thời xưa, bắt nguồn từ Hà Nam, chạy qua tỉnh Sơn Đông vào Bột Hải, Trung Quốc. (ND)

“Đại ca từng khen Ứng Long là viên tướng tài hiếm có, trí dũng song toàn, xem ra phụ vương định ra tay trước đây mà, đối thủ bên kia là ai?”

“Hậu Thổ.”

Nếu là Hậu Thổ, e Ứng Long khó nắm chắc phần thắng. A Hành trầm tư nghĩ ngợi, Thiếu Hạo cũng đăm chiêu suy tính.

Chẳng bao lâu, Huyền điểu lại bay về.

“Di Bành lại dẫn hai đạo quân xuất phát từ cánh Tây, bọn họ sẽ đụng độ Chúc Dung.”

A Hành khẽ buột miệng: “Di Bành tính tình kiên nhẫn, hành xử thận trọng, nhưng Thần lực của Chúc Dung bây giờ đã hơn hẳn năm xưa, Di Bành không đấu lại hắn đâu.”

“Nàng chớ quên Hoàng Đế là người mưu lược tính toán giỏi nhất trên đời, Hiên Viên Huy, anh cùng cha khác mẹ của Di Bành từng bị Chúc Dung thiêu sống, Di Bành đợi cơ hội phục thù mấy trăm năm nay, ắt hẳn sẽ liều chết chiến đấu, hơn nữa Hoàng Đế ban cho y toàn quân tinh nhuệ, dù Chúc Dung có Thần lực cao tới đâu chăng nữa, cũng phải sợ chết, vậy ít ra Di Bành còn chắc thắng bốn phần.” Thiếu Hạo thở dài, có phần giễu cợt, “Hoàng Đế nắm rất rõ con cờ nào nên đặt xuống vị trí nào, đến cả mối hận của con mình, ông ta cũng sẵn sàng lợi dụng để đạt mục đích.”

A Hành chỉ biết làm thinh không nói, người người đều tôn sùng Hoàng Đế, nhưng nỗi lòng những kẻ làm con Hoàng Đế, có mấy ai hiểu được đâu.

Hoàng hôn lụi dần, sắc trời đã chuyển sang tối sầm.

Bình minh dần ló dạng, sắc trời cũng hửng lên.

Từng cánh từng cánh Huyền điểu cứ bay đi rồi lại bay về.

Trải qua một ngày một đêm, Ứng Long và Hậu Thổ vẫn đang quyết chiến, Di Bành và Chúc Dung cũng ở vào thế giằng co ác liệt.

Một cánh Huyền điểu lại bay tới, Thiếu Hạo lên tiếng: “Phụ vương nàng dẫn theo bốn lộ quân xuất phát, đụng độ với đại quân của Xi Vưu.”

A Hành mặt mày tái mét còn Thiếu Hạo lại cau mày trầm tư, Thanh Dương đâu rồi? Thanh Dương đang ở đâu? Chiến dịch này quan trọng nhường ấy, Hoàng Đế sao có thể không dùng y cơ chứ?

Y khoát tay, lập tức một bức địa đổ do thủy linh ngưng tụ hiện lên trước mặt, địa hình quanh Phản tuyền cũng theo đó mà bày ra rành rành, nào là Phản sơn cao chót vót, Phản tuyền gồm bảy nguồn suối thông nhau, Phản tuyền thành hiểm yếu, Tề thủy nước xiết…

Thiếu Hạo vừa quan sát vừa lẩm bẩm: “Tề thủy chỉ có khúc này là hẹp nhất, rất tiện qua sông, bởi thế Hoàng Đế mới lệnh cho Yêu tộc thông thạo thủy tính, linh hoạt nhanh nhẹn tiến công vào đây, quả là sách lược tấn công sáng suốt. Viêm Đế hẳn cũng đoán ra chuyện đó nên sai kẻ thận trọng chín chắn như Hậu Thổ trấn giữ ở đây, sách lược phòng thủ này không tồi.”

Y lại lấy tay chỉ quanh Phản sơn, “Di Bành xuất phát từ chỗ này, quân Chúc Dung đóng ở đây, tinh nhuệ đụng độ với tinh nhuệ, Hoàng Đế tiến quân từ đây, quân Xi Vưu đóng chỗ này, Hoàng Đế lấy uy thế của mình chóng chọi với sự hùng mạnh của Xi Vưu.” Thoạt nhìn, kế hoạch của Hoàng Đế hết sức kín kẽ, ông đang dốc toàn lực để đánh chiếm Phản thành, nhưng… rốt cuộc là không bình thường ở đâu? Không bình thường ở đâu nhỉ?

Thiếu Hạo cau mày ngẫm ngợi hồi lâu, dưới ánh trăng, bức địa đồ do thủy linh tụ thành cũng xanh ngời lóng lánh, hắt lên mặt y, khiến gương mặt đượm vẻ thâm sầu khó lường.

A Hành góp lời: “Từ nhỏ phụ vương đã dạy bọn thiếp phải biết bảo toàn thực lực, tính kỹ hẵng làm, một đòn tất trúng, thiếp thật chẳng ngờ lần này phụ vương lại huy động binh lực cả nước tấn công Thần Nông, ép Viêm Đế phải dốc toàn lực ứng phó, song phương quyết chiến nhanh như vậy.”

Thiếu Hạo vừa nghe nói liền đứng phắt dậy, biến sắc mặt.

Toàn lực đấu toàn lực! Tính tình Hoàng Đế vốn không phải như vậy! Đây chính là chỗ bất bình thường!

Mấy ngàn năm trước, Hiên Viên tộc chỉ là một Thần tộc nhược tiểu nên Hoàng Đế buộc phải quý binh lực như vàng, bởi ông ta không thể lãng phí được! Lấy cái nhỏ yếu nuốt dần cái hùng mạnh, tránh không giao đấu chính diện, ra sức bảo toàn lực lượng quân ta mới là phong cách xưa nay của Hoàng Đế. Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời, Hoàng Đế sao có thể đột ngột như vậy được? Vả lại, ông ta thừa biết Cao Tân như hổ đói đang rình bên cạnh, chỉ mong sao hai bên đều bại vong, vậy điều này càng không thể nào!

A Hành vọt miệng hỏi: “Sao thế?”

Thiếu Hạo định thần lại, trân trân nhìn địa đồ nói: “Cả đại hoang đều bị Hoàng Đế gạt hết rồi, tuy ca dao xưa vẫn có câu ‘Mất Phản thành, mất Trung nguyên, được Phản thành, được Trung nguyên’, nhưng mục tiêu của Hoàng Đế không phải là thành trì quan trọng nhất Thần Nông quốc đó đâu.”

“Vậy phụ vương thiếp huy động binh lực toàn quốc làm gì?”

“Ông ta muốn lấy mạng Viêm Đế!”

A Hành đứng phắt dậy, vẻ mặt kinh hãi.

Thiếu Hạo giải thích: “Chiến tranh không chỉ cần vũ lực, mà còn cần cả quốc lực, hiện nay dưới sự trị vì của hai người Du Võng và Xi Vưu, một cương một nhu, Thần Nông ngày càng giàu mạnh, dân chúng no đủ, Hiên Viên nghèo đói sao có thể đối chọi Thần Nông trù phú đây? Hai trăm năm nay, phụ vương nàng đã dùng mọi cách để chia rẽ Du Võng và Xi Vưu, nhưng Xi Vưu giảo hoạt như hồ ly, trước sau chẳng hề mắc bẫy, còn Du Võng lại là kẻ bảo thủ, một khi nhận định điều gì là đúng thì chẳng buồn để ý người khác khuyên ngăn. Trước sự phồn thịnh của Thần Nông, nguyện vọng Đông tiến của Hoàng Đế cơ hồ bất khả, nhưng chỉ cần Du Võng chết đi, tình thế sẽ thay đổi lập tức. Xi Vưu hành xử quá cương liệt, cứng quá thì gãy, hơn hai trăm năm nay, mâu thuẫn giữa các phương với Xi Vưu đều phải dựa vào Du Võng mềm mỏng hóa giải, dù đám chư hầu kia có bất mãn đến mấy chăng nữa, hễ Du Võng còn sống, chúng cũng chỉ dám hy vọng làm suy yếu quyền lực của Xi Vưu chứ không nghĩ tới chuyện làm phản, nhưng một khi Du Võng nằm xuống, bọn chúng nhất định không quỳ gối trước kẻ bất đồng về xuất thân, xung đột về lợi ích với chúng như Xi Vưu đâu…”

A Hành tái mặt, lẩm bẩm: “Nếu Thần Nông quốc chia năm xẻ bảy, phụ vương có thể phân ra tấn công đánh chiếm từng phần rồi.”

Thiếu Hạo trầm ngâm quan sát địa đồ, rồi kính phục buông lời cảm thán: “Thần Nông Viêm Đế! Hiên Viên Hoàng Đế!” Nếu Viêm Đế đời trước đã khéo léo lợi dụng xuất thân và tính tình đặc biệt của Xi Vưu để đi một nước cờ tuyệt diệu chưa từng thấy, thì Hoàng Đế hiện giờ cũng lợi dụng chính những đặc điểm đó phá giải thành công cục thế mà Viêm Đế bày ra, hơn nữa còn ăn lại một quân cờ của Viêm Đế.

Hai bậc đế vương, kẻ còn người mất, cùng chơi một cuộc cờ suốt mấy trăm năm đến giờ, kẻ đứng ngoài quan sát cục diện là Thiếu Hạo mới sực tỉnh, thì ra mấy người bọn họ so với hai lão hồ ly kia còn khờ khạo lắm. Bất giác y cảm thấy vừa sợ hãi vừa nôn nóng, chỉ muốn biết nếu Viêm Đế còn tại thế, sẽ đối phó nước cờ này của Hoàng Đế ra sao. Tiếc rằng Viêm Đế đã qua đời, bởi thế, ông chẳng thể đánh cờ được nữa. Hoàng Đế coi như nắm chắc phần thắng!

Người như Hoàng Đế, Thiếu Hạo y sao có thể đối phó bằng mấy mẹo vặt như đối phó với phụ vương mình được? Nghĩ vậy, y chợt thấy sởn cả gai ốc, Thanh Dương chỉ cần nổi sát tâm, ắt khó giữ được mạng!

Thiếu Hạo lập tức huýt gọi Huyền điểu.

Bên tai A Hành cứ lùng bùng mấy câu: Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng, Hoàng Đế muốn lấy mạng Du Võng… Có thể quyền lực, địa vị, danh dự, thậm chí sinh tử đối với Xi Vưu chỉ là cuộc ngao du giữa hồng trần, vốn chẳng có gì đáng trọng, nhưng Du Võng thì khác.

A Hành vội gọi A Tệ tức tốc bay về phía Tây Bắc, chẳng kịp cả chào Thiếu Hạo, nào ngờ, Thiếu Hạo cũng thúc Huyền điểu dốc toàn lực bay về phía Tây Bắc.

Hai người đều làm thinh không nói, thần sắc căng thẳng, chỉ chăm chăm vận linh lực thúc tọa kỵ bay thật mau, lòng thầm gào thét.

Nhanh lên, nhanh nữa lên!

Nếu chậm một bước, e rằng thứ mà mình muốn gìn giữ cả đời này sẽ vĩnh viễn tuột khỏi tay.

Nhưng dù linh lực bọn họ có cao đến chừng nào, A Tệ và Huyền điểu có bay nhanh tới đâu chăng nữa, cũng chẳng thể nháy mắt băng qua mấy vạn dặm trường, đến quan ải tức thì được.

Vùng hoang dã quanh Phản Tuyền đương độ hoàng hôn.

Tịch dương đỏ như máu nhuốm thắm núi sông, biển cả dải nước non thành một bức tranh thủy mặc họa bằng máu.

Phản sơn hùng vĩ sừng sững giữa đồng hoang tựa bậc anh hùng đã đến tuổi xế chiều, chỉ còn lại thê lương bàng bạc.

A Hành cùng Thiếu Hạo cưỡi tọa kỵ bay thẳng đến Phản sơn, quân lính xông ra cản đường chưa kịp nhìn rõ mặt hai người đã bị đánh bật khỏi tọa kỵ.

Giữa Phản sơn và Phản hà là một khe suối còn sót lại sau khi Phản hà đổi dòng, bây giờ Hoàng Đế và Xi Vưu đang suất lĩnh binh mã ác đấu ngay trên bờ khe, vì Thần tộc giao chiến với Thần tộc, lại không vận dụng trận pháp nên các chủng loại linh lực cứ đan chéo vào nhau, tỏa ra ánh sáng rực rỡ muôn màu, thật chẳng khác cầu vồng, nhìn mà hoa cả mắt.

Thiếu Hạo trông thấy “Hoàng Đế”, A Hành trông thấy Xi Vưu, đều nhất loạt thở phào nhẹ nhõm, may quá, người đó vẫn còn sống!

Đột nhiên, cả đất trời chợt vang lên một tiếng thét lồng lộng, “Du Võng chết rồi!”

Du Võng chết rồi!

Binh lính đôi bên đều ngẩng phắt lên theo phản xạ.

Giữa không trung bỗng hiện ra một vị Hoàng Đế khác, mình vận giáp vàng, uy phong lẫm liệt, đứng trên lưng Trùng Minh điểu, một tay cầm thương vàng, tay kia xách một chiếc đầu lâu.

Đầu lâu mới bị chặt xuống, vẫn còn ròng ròng máu tươi, linh lực cũng trút ra theo dòng máu, biến những vết máu thành từng vệt sáng xanh lét như vô số cánh đom đóm dập dờn bay lượn.

Dưới ánh sáng xanh lét, ai nấy đều trông rõ chiếc đầu lâu mang vương quan gỗ chạm, dung mạo vẫn sinh động như người sống, cặp mắt kinh ngạc mở trừng trừng, khóe môi còn hằn vẻ áy náy như đang tạ lỗi với muôn dân của mình, xin lỗi, ta không thể bảo vệ cho các người được nữa; lại tựa hồ đang thỉnh tội với phụ vương, cha, con xin lỗi, con chưa hoàn thành được lời hứa với cha; còn như thể xin lỗi Xi Vưu, xin lỗi, hảo huynh đệ, ta không thể sánh vai chiến đấu bên ngươi nữa rồi!

Trước cơn kịch biến bất ngờ, hết thảy binh lính Thần Nông đều lần lượt quỳ xuống, quân tướng Hiên Viên cũng ngớ người ra.

A Hành gục xuống trên lưng A Tệ, qua màn nước mắt, nàng trông thấy Xi Vưu và Tiêu Dao nhanh như chớp xông thẳng về phía Hoàng Đế đang cưỡi Trùng Minh điểu. Nàng vội thét lên thê thiết, “Đừng!” nhưng chẳng cản nổi tốc độ của Tiêu Dao.

Hoàng Đế đã tính toán kỹ, đứng xa như vậy dù có là tọa kỵ nào cũng chẳng thể thoắt chốc bay vọt tới được ngay, một khi có biến, thị vệ tùy thân của ông ta có thể lập tức ứng phó. Tiếc rằng Hoàng Đế chẳng ngờ tọa kỵ của Xi Vưu vốn không phải là đại bàng thường, mà là giống đại bàng do cá côn Bắc Minh hóa thành, mỗi lần đập cánh có thể bay xa chín vạn dặm, bởi thế hắn vọt tới trước mặt, Hoàng Đế hết sức ngỡ ngàng.

Xi Vưu vồ lấy thủ cấp trong tay Hoàng Đế rồi bi phẫn gào lên với Du Võng: “Du Võng, ngươi mở to mắt mà xem ta báo thù cho ngươi đây!”

Nói rồi hắn cắn vào búi tóc Du Võng, đầu Du Võng lủng lẳng dưới cằm Xi Vưu, hai mắt trừng trừng nhìn về phía trước, đối diện với Hoàng Đế. Xi Vưu buông thõng hai tay, lòng bàn tay chợt đỏ rực lên, linh lực khắp núi cao sông dài rừng thẳm đều tụ về hai bàn tay hắn.

Hoàng Đế kinh hoàng giương mắt nhìn Xi Vưu, mọi tin tức tình báo đều nói Xi Vưu tu luyện mộc linh, nhưng giờ đây ông mới bàng hoàng nhận ra, Xi Vưu kiêm hết thảy ngũ linh! Trong cơn cuồng nộ cùng bi ai, hắn đã bất chấp tính mạng, tập hợp toàn bộ ngũ linh quanh Phản Tuyền, tuy ngũ linh tương khắc nhưng đồng thời tương sinh, một khi Xi Vưu mở trận, ngũ linh kim mộc thủy hỏa thôt sẽ tác động lên nhau, đổ dồn về phía hắn như gió lốc.



Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 08:34 PM
Chương 23

Người đi đàn rượu biết ai cùng

23.2


Hoàng Đế chợt thấy tất cả linh lực quanh mình đều bị hút cạn, chỉ biết trơ mắt nhìn linh lực của Xi Vưu như thần long cuồn cuộn bổ về phía mình. Hàng ngày, ông thường vẫn nhắc nhở Thanh Dương, phạm sai lầm tức là chết! Vậy mà hôm nay, ông lại dùng mạng sống của mình để kiểm chứng đạo lý này.

Uỳnh!

Một tiếng nổ tung trời chuyển đất vang lên. Bụi đất bay mù mịt, bầu trời tối sầm lại, trăng sao đều biến mất.

Giữa bóng tối như bưng, cả đất trời dường như đã diệt vong.

Thoắt chốc, mọi người dụi mắt, trông thấy Xi Vưu đang sừng sững giữa không trung, chân đạp trên lưng đại bàng, hai mắt bừng bừng lửa giận, mái tóc xõa tung, tà áo đỏ như máu phần phật bay trước gió, sắc mặt tái rợn cả người, thất khiếu ứa máu, đầu lâu Du Võng vẫn lủng lẳng trên miệng, dáng vẻ vô cùng khủng khiếp, hệt như ma vương trỗi dậy từ ma vực.

Tất cả mọi người đều kinh hồn táng đởm, thậm chí binh lính Hiên Viên còn nhất loạt lui xuống, sợ bị Xi Vưu xé xác.

Đột nhiên Xi Vưu lảo đảo rồi ngất lịm, thân mình rớt khỏi lưng Tiêu Dao rơi xuống đất, Tiêu Dao rít lên một tiếng, vội lao xuống chụp hắn lại.

Ứng Long chớp thời cơ hạ lệnh: “Bắn!”, lập tức có vô số mũi tên bay rào rào lên không.

A Hành lòng như lửa đốt vừa tung tay gạt tên nhào xuống cứu Xi Vưu, chỉ sợ chậm một bước, linh thể hắn sẽ tan thành mây khói.

Bỗng Thiếu Hạo thất thanh gọi: “A Hành!”

A Hành ngoảnh lại, liền trông thấy một “Hoàng Đế” khác chắn trước mặt Hoàng Đế, thất khiếu ứa máu, đang gục xuống.

Thiếu Hạo vội đỡ lấy “Hoàng Đế”, dần dà linh lực tan đi, dung mạo y cũng từ từ biến đổi, lại hiện nguyên hình là Thanh Dương.

Vốn dĩ Hoàng Đế giao chiến với Xi Vưu khi nãy là hóa thân của Thanh Dương, y biến thành Hoàng Đế dẫn dụ kẻ địch để Hoàng Đế thực sự đem quân đi ám sát Du Võng. Khi Xi Vưu cưỡi đại bàng lao thẳng vào Hoàng Đế, Thanh Dương ứng biến mau lẹ, lập tức túm lấy chân Tiêu Dao, cùng lao đến theo Xi Vưu. Trong nháy mắt Xi Vưu đoạt lại đầu lâu Du Võng rồi dốc toàn lực tấn công Hoàng Đế, Thanh Dương đã xông ra nhận lấy đòn chí mạng thay cho ông.

A Hành trợn mắt kinh hoàng nhìn Thanh Dương, không sao tin được rằng Đại ca linh lực cao cường của nàng cũng có ngày gục ngã.

Một bên là Xi Vưu sống chết chưa rõ, một bên là đại ca chưa rõ tử sinh, A Hành bỗng thấy tim mình như bị xẻ làm hai nửa, mà nửa nào cũng đau đớn đến nghẹt thở, nàng bối rối không biết nên lao theo cứu ai mới phải.

Thiếu Hạo ngưng tụ toàn bộ linh lực, ra sức ngăn không để linh thể Thanh Dương tiêu tán, nhưng linh thể đã tan nát thành muôn vàn hạt bụi li ti, còn nhỏ hơn cả thủy linh, dù y có làm gì cũng vô dụng. Thiếu Hạo toát mồ hôi lạnh, cuống quýt réo gọi A Hành, chỉ mong y thuật Thần Nông Thị có thể cứu mạng Thanh Dương.

A Hành như bị bắt mất hồn, đờ đẫn bay về phía Đại ca theo tiếng gọi của Thiếu Hạo. Trong lúc hoảng loạn, nàng trông thấy Tiêu Dao quắp lấy Xi Vưu, rít lên từng hồi, tiếng rít sắc nhọn như dao, đâm vào tai nàng đau nhói. Thấy bọn Ứng Long định đuổi theo, Tiêu Dao vội dang cánh bay vút lên chín tầng mây rồi biến mất.

Lần đầu tiên A Hành nghe thấy Tiêu Dao rít lên thê thảm nhường ấy, tuy nàng bay về phía Đại ca, nhưng bên tai cứ văng vẳng tiếng kêu bi thiết của Tiêu Dao, một tiếng rít như một câu hỏi xoáy vào lòng nàng, Xi Vưu đang bị trọng thương, vì sao cô có y thuật cao siêu lại không ra tay cứu hắn? Vì sao cô nhẫn tâm nhìn Xi Vưu mất mạng? Vì sao? Vì sao hả?

Lòng nàng như băng ướp lửa thiêu, trái tim bị vô số lưỡi dao cào xé, cả người bỗng run lên bần bật.

Đằng kia, Thiếu Hạo đang cuống quýt gọi nàng, gần như van nài: “Nàng nhất định phải cứu Thanh Dương!”

A Hành đành nghiến răng, nén lòng chạy tới kiểm tra thương thế Đại ca. Thấy linh thể y sắp tiêu tan, tiếng rít thê thiết bên tai nàng chợt biến mất, tất cả âm thanh đều biến mất, đất trời vắng lặng, lòng chẳng thấy đau, thân mình cũng ngừng run rẩy, tựa như kẻ đang bị đẩy tới mép vực vậy, thoạt đầu rất đau khổ, nhưng một khi rơi xuống tan xương nát thịt, vạn kiếp bất phục thì chẳng còn đau đớn nữa, thay vào đó là tuyệt vọng vô bờ.

Thiếu Hạo cuống cuồng vặn hỏi nàng, “Không hề gì, phải không? Nhất định không sao chứ hả? Nàng nhất định cứu được y mà!”

A Hành sắc mặt xám như tro tàn, cắn môi đến ứa máu cũng chẳng thấy đau, chỉ thẩn thờ dùng kim châm vào huyệt vị Đại ca.

Trái lại, Thanh Dương mỉm cười nhìn cả hai: “Hay lắm, cả hai người đều ở đây, tiếc rằng không có Xương Ý. Vậy cũng tốt, đừng để nó thấy ta thê thảm thế này, ta là Đại ca toàn năng kia mà.”

Thiếu Hạo run bắn người lên, nhưng vẫn không cam tâm, tiếp tục thúc đẩy thủy linh trị thương cho Thanh Dương, “Đừng nói nhảm, chúng ta lập tức tới Quy khư ngay, nhất định sẽ có cách! Ta nhất định cứu được ngươi mà!”

Thanh Dương cười, “Ta có chuyện muốn nói với ngươi.”

Thiếu Hạo vẫn trút thủy linh cuồn cuộn vào người Thanh Dương, “Đợi ngươi khỏe lại rồi nói.”

“Hai ta đánh nhau bao nhiêu năm rồi?”

“Hơn hai ngàn năm rồi.”

“Hơn hai ngàn tám trăm năm rồi.” Thanh Dương nhoẻn miệng cười rạng rỡ, “Ta chợt thấy nhẹ cả người, sau này khỏi phải phân thắng bại với ngươi nữa.”

Sau hơn hai ngàn năm, cuối cùng Thiếu Hạo lại trông thấy gã thiếu niên lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm ngọn cỏ, nhoẻn cười tươi tắn bước vào lò rèn, khiến y không khỏi ghen thầm.

Cơn cuồng nộ bỗng trào lên trong lòng, y quát vào mặt Thanh Dương: “Chúng ta đã nói sẽ sánh vai chiến đấu rồi sau đó mới quyết một trận sống mái kia mà, sao ngươi dám thất hẹn hả?”

Thanh Dương không đáp, chỉ từ từ dời mắt nhìn sang Hoàng Đế, “Phụ vương, Người đã biết con muốn hại Người, phải không?”

Hoàng Đế lại gần, ngạo nghễ lạnh lùng nhìn xuống Thanh Dương nằm đó, giễu cợt: “Chúc mừng chúc mừng, ngươi đã cứu ta trước mặt bao nhiêu thiên quân vạn mã, sau này soán vị đăng cơ nhất định sẽ càng thuận lợi.”

Thanh Dương buồn bã nói nhỏ: “Phụ vương, con thừa nhận mình từng có ý hãm hại người. Vì không muốn Xương Ý và A Hành trở thành Vân Trạch thứ hai nên con đã bỏ độc vào vò nước của Người, nhưng cùng con lại không nỡ ra tay, giữa đêm con đột nhập vào cung, tráo vò nước khác, đổ chỗ nước có độc đi rồi.”

Hoàng Đế giật thót mình, liếc nhìn Di Bành đằng xa rồi lại nhìn Thanh Dương, ánh mắt đã dịu đi nhiều, vẻ lạnh lùng tan biến, thay vào đó là vô số ưu tư phức tạp rối ren, người ngoài không sao nhìn ra được. Ông hờ hững đáp: “Thật ra, vò nước mà con đánh tráo cũng không có độc từ lâu rồi.”

Thanh Dương mỉm cười, “Con hiểu rồi. Thì ra chính con đã uống phải chỗ nước độc đó, phụ vương để con nhận lấy quả báo, tự quyết định sống chết của mình.”

A Hành nghe hai người đối đáp chỉ hiểu lơ mơ nhưng Thiếu Hạo thì hiểu cả, Thanh Dương đã uống phải độc dược mà A Hành phối chế, đúng lúc độc phát nên y không sao chống nổi đòn chí mạng của Xi Vưu.

Chợt Di Bành cao giọng thỉnh thị Hoàng Đế: “Phụ vương, hiện giờ lòng quân Thần Nông đang rối loạn, chúng ta có nên chớp thời cơ tấn công không?”

Hoàng Đế đưa mắt nhìn giang sơn như họa dưới chân, đây là cơ hội mấy ngàn năm mới có, là mộng tưởng ông ta theo đuổi cả đời. Nhưng còn Thanh Dương…

Nhìn vẻ mặt Hoàng Đế, Thanh Dương liền lên tiếng: “Cha, con không sao đâu, chất độc này đâu có chí mạng.” Từ khi y hiểu chuyện, Hoàng Đế đã đặt y ngồi trên đầu gối, kể cho y nghe về thời niên thiếu gian truân cùng hùng tâm tráng chí của mình. Trên đời này, e rằng chẳng ai hiểu mộng tưởng của Hoàng Đế hơn y, đó là ước mơ mà người đàn ông vĩ đại này dốc cả đời theo đuổi.

Tiếng “cha” của Thanh Dương khiến Hoàng Đế nhói buốt cả lòng, bao hình ảnh mơ hồ xa xăm bỗng vụt qua trước mắt, trong đám con cái, chỉ có Thanh Dương và Vân Trạch gọi ông là “cha”, nhưng tiếng “cha” ngọng nghịu non nớt đó chứa chan tình phụ tử nguyên sơ nhất trong đời ông. Chợt thấy thái dương mình giật giật, Hoàng Đế trầm giọng dặn dò: “Con trai, con phải sống nhé!”

Thanh Dương cười mà nước mắt rưng rưng, một tiếng “con trai” đã xóa tan bao hiềm khích giữa hai cha con, dường như, y đang được quay về thuở ấu thơ.

Đoạn Hoàng Đế quay sang bảo A Hành: “Con chăm sóc Đại ca.” Dứt lời, ông hú lên lanh lảnh, thúc Trùng Minh điểu xông vào trận, phát lệnh: “Tấn công!”

“Tấn công!”

“Tấn công!”

“Phụ vương!” A Hành ròng ròng nước mắt gọi với theo hy vọng Hoàng Đế nán lại chốc lát nhưng chỉ thấy bóng lưng ông lao vụt đi. Di Bành ném lại cho nàng một nụ cười khinh khỉnh rồi bám theo Hoàng Đế, xông vào trận.

Trong tiếng kèn xung trận chói tai, đại quân Hiên Viên đổ xô về phía binh lính Thần Nông. Vì đất đai cằn cỗi, dân chúng khổ sở nên binh lính Hiên Viên vô cùng kiêu dũng thiện chiến, thêm vào đó, thấy Hoàng Đế hạ sát Viêm Đế, sĩ khí ba quân cũng được khích lệ rất nhiều, dưới sự chỉ huy của Hoàng Đế, quân đội Hiên Viên trở nên dũng mãnh như hổ sói, trong khi quân Thần Nông vừa mất đế vương, lòng quân rối loạn, không thể nào chống lại được Hiên Viên, chẳng mấy chốc, chiến trường đã biến thành lò sát sinh, binh lính Hiên Viên ai nấy đều hung hăng khát máu hệ như ma thú, đi tới đâu là giết chóc tới đó. Tiếng gào khóc bi thương chìm trong tiếng giáo vàng ngựa sắt rầm rập quét qua, khắp nơi chỉ nghe thấy những tiếng hô “giết”, “giết”, “giết”.

Thiếu Hạo vận linh lực bảo vệ tâm mạch Thanh Dương rồi bế xốc y lên, tức tốc trở về Quy khư.

Thanh Dương ngẩn ngơ cười, “Ta biết ngươi giận ta làm việc thiếu quyết đoán, nếu ta có thể nhẫn tâm như ngươi thì chẳng có ngày nay. Nhưng ta cứ lẩn thẩn nhớ mãi những chuyện ngày nhỏ, hồi đó mẹ không cho ta lại gần Trùng Minh điểu, sợ nó quá hung mãnh, cha liền ôm ta vào lòng, lén dạy ta điều khiển Trùng Minh điểu, hai cha con cùng cưỡi Trùng Minh điểu bay lên, vừa bay vừa cười khanh khách. Thanh kiếm đầu tiên của ta cũng là cha tự tay làm cho, lần đó cha ngồi ngoài hiên đẽo kiếm cho ta, đẽo xong còn sợ ta bị dằm đâm vào tay, bèn dùng vải gai mài nhẵn nhụi, ta ngồi bên cạnh chờ sốt ruột, bèn nhào lên giành lấy thanh kiếm, cha bèn giơ kiếm lên cao, vừa mài vừa cười, ‘Tới đây tới đây lấy đi, nhảy cao nữa lên, khi nào con cao bằng ta, hai cha con có thể cùng ra trận rồi’. Lần đầu ra trận ta căng thẳng đến nhũn cả chân, cha bèn lôi ta đi uống rượu, hễ gặp bá bá thúc thúc nào chào hỏi, cha đều hãnh diện giới thiệu, ‘Con trai ta đây, sau này nhất định nó sẽ dũng mãnh hơn cả ta’…” Nói tới đây, Thanh Dương đuối sức không kể tiếp được nữa, chỉ thều thào, “Ông ấy là cha ta, ta không thể giết cha mình được!”

Thiếu Hạo vội cắt ngang: “Đừng nói nữa! Đợi ngươi khỏe rồi, chúng ta sẽ lại tới quán rượu nát đó uống ba ngày ba đêm, nói chuyện ba ngày ba đêm.”

Thanh Dương cười, “Ngươi nói thứ đó không phải độc dược, cũng chẳng lấy mạng người ta, nhưng con đường đi tới quyền lực tột đỉnh chính là tuyệt lộ, một khi đặt chân lên, sẽ phải đi mãi về phía bóng tối, ta không muốn có một ngày mình trở thành kẻ không cha không mẹ không huynh muội.”

Đôi tay Thiếu Hạo run bắn lên, y cứ ngỡ gã thiếu niên nhiệt tình thiện lương, rạng rỡ hồ hởi khi xưa đã biến mấy từ lâu, nào ngờ, gã vẫn luôn luôn tồn tại!

Ánh mắt Thanh Dương ảm đạm dần, sinh mệnh cũng theo đó mà tàn lụi. Thấy vậy, A Hành cuống quýt lấy kim châm vào tất cả huyệt vị trên người y, khóc òa lên, “Đại ca, đừng bỏ muội mà, sau này muội nhất định sẽ nghe lời huynh, chăm chỉ tu luyện, không mải chơi nữa, huynh bảo gì muội cũng nghe theo hết!”

Thanh Dương đặt tay lên đầu A Hành, vò tóc nàng rối như quạ rồi phì cười ranh mãnh, “Ài, bao năm nay, mỗi lần muội ở sau lưng vung tay vung chân định đánh ta đá ta, ta chỉ muốn quay lại vò cho tóc muội rối tung lên như thế này…” Giọng y càng lúc càng nhỏ lại, cơ hồ chỉ như tiếng thầm thì, “A Hành, chuyển lời cho mẹ và Xương Ý, nói hai người đừng đau buồn.”

A Hành nước mắt lã chã, nghẹn ngào gật đầu.

Tròng mắt Thanh Dương đã đờ ra, y không nói nổi nên lời nữa, nhưng đôi mắt vẫn chằm chằm nhìn Thiếu Hạo, như còn có điều chưa yên lòng.

Thiếu Hạo nuốt lệ nói: “ Ngươi còn nhớ ngàn năm trước, lúc đại quân Thần Nông áp sát, ngươi nửa đêm lặn lội tới Cao Tân, nói với ta ‘Ta chính là Thiếu Hạo’ không? Từ nay trở đi, ta cũng chính là Thanh Dương, ta sẽ coi Luy Tổ như mẹ mình, coi Xương Ý và A Hành như đệ đệ muội muội của ta vậy!”

Được lời này của Thiếu Hạo, Thanh Dương mới yên lòng, y từ từ nhắm nghiền mắt lại, tay trượt khỏi mái tóc A Hành, trên môi vẫn còn vương nụ cười rạng rỡ hệt như ánh mặt trời mùa hạ.

“Đại ca!” A Hành thét lên xé ruột, “Đại ca, Đại ca, Đại ca…” Nàng gào khản cả cổ, tựa hồ cứ gọi như thế, Thanh Dương sẽ nghe thấy, sẽ tỉnh dậy, sẽ lại lạnh lùng lên giọng mắng mỏ nàng. Lần này nàng nhất định sẽ không cãi lại, không oán trách, nhất định sẽ ngoan ngoãn nghe lời Đại ca, nhất định sẽ thành tâm thành ý cảm ơn Đại ca.

Thiếu Hạo điên cuồng trút tất cả linh lực bản thân vào người Thanh Dương, không ngừng nài nỉ, “Thanh Dương, Thanh Dương, chúng ta còn chưa phân thắng bại, ngươi không được đánh bài chuồn. Đồ chết nhát nhà ngươi, chúng ta còn chưa phân thắng bại kia mà…” Linh lực của Thiếu Hạo thừa sức dời non lấp biển, nhưng chẳng làm sao níu được sinh mệnh cho Thanh Dương.

A Hành khóc đến lịm cả người đi, Thiếu Hạo cũng sức tàn lực kiệt, thân mình lảo đảo, nhưng vẫn liên tục đẩy linh lực vào người Thanh Dương, trước mắt chỉ toàn thấy bóng dáng Thanh Dương.

Y xỏ đôi giày rách, lưng đeo thanh kiếm gãy, miệng ngậm cọng cỏ, đi lắc la lắc lư, tiếng cười giòn tan, hồ hởi rạng rỡ, ấm áp hơn cả ánh nắng mai.

Nhưng thi thể trong lòng Thiếu Hạo lại lạnh ngăn ngắt.

Cái lạnh từ đáy lòng Thiếu Hạo lan ra khắp người, khiến thân hình y run lên bần bật, chỉ biết đau thương nhắm nghiền mắt lại.

Hơn ai hết, Thiếu Hạo hiểu rõ tham vọng bản thân, thế nên y luôn tâm tâm niệm niệm sẽ có một ngày Cao Tân Thiếu Hạo đụng độ với Hiên Viên Thanh Dương trên chiến trường, cả hai sẽ phải dốc hết toàn lực, Cao Tân không vong thì Hiên Viên diệt. Nhưng y đâu có ngờ, trong lòng y, Thanh Dương vẫn mãi là Thanh Dương, chỉ là Thanh Dương mà thôi.

Từ nay trở đi, trên dải đất lạnh lẽo đầy gió tuyết miền cực Bắc, sẽ chẳng ai đốt lửa gọi y vào uống rượu nữa.

Từ nay trở đi, đối mặt với thiên quân vạn mã, sẽ chẳng còn ai lặn lội suốt đêm chạy tới, vì y mà máu đẫm bạch bào nữa.

Từ nay trở đi, lúc hân hoan mừng rỡ, sẽ chẳng còn ai nói cười chung vui cùng y nữa.

Từ nay trở đi, thiên hạ rộng lớn này sẽ chẳng còn ai khiến y mỗi khi nhớ đến lại thấy họng nồng vị rượu, lòng ấm tình người, dù vương tọa lạnh lẽo tới đâu, kẻ địch đông đúc nhường nào, đều có một người sánh vai cùng y đối diện…

Từ nay trở đi, thế gian này vĩnh viễn chẳng còn Thanh Dương nữa!
Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 08:51 PM
Chương 24

Đời đời xin nguyện làm huynh đệ

24.1


Suốt mấy trăm năm nay, sao nàng chỉ chìm đắm mải mê với thế giới bên ngoài mà chẳng hề quan tâm đến Đại ca bên cạnh? Liệu có phải tình thân là điều hiển nhiên đối với nàng, nên chưa từng nghĩ đến lúc mất đi? Vì sao mãi tới lúc mất đi rồi, nàng mới nhận ra mình rất quyến luyến Đại ca cơ chứ?

[1] Trích trong bài Gửi cho Tử Do từ trong tù kỳ 1 của Tô Đông Pha (1036 – 1101). (ND)

Xương Ý nhận được tin do Huyền điểu đưa đến, lập tức chạy đến Quy khư, nhưng đã chậm mất hai ngày.

Lúc báo tin, Thiếu Hạo cũng chẳng nói cụ thể nguyên do, chỉ mời y đến ngay tức khắc. Xương Ý ngỡ A Hành xảy ra chuyện nên tức tốc chạy đến, tới nơi, thấy một lá thuyền con dập dềnh theo làn nước. Thiếu Hạo và A Hành người ngồi kẻ đứng trên thuyền, y mới thở phào nhẹ nhõm.

Xương Ý nhảy từ trên lưng Trùng Minh điểu xuống thuyền, cười hỏi A Hành: “Xảy ra chuyện gì mà giục ta đến ngay thế?”

A Hành vừa mở miệng, chưa kịp nói tiếng nào, nước mắt đã chứa chan.

Thiếu Hạo đưa hai tay lên, dưới sự điều khiển của y, mặt nước trước mũi thuyền từ từ dâng lên, nâng theo cả một cỗ quan tài băng xanh biếc. Bên trong quan tài là Thanh Dương đang nằm lặng lẽ, hai mắt nhắm nghiền, vẻ mặt an nhiên, chẳng có chút sinh khí.

Xương Ý gượng cười, “Đừng dùng rối gỗ lừa ta nữa, huynh biết linh lực của ta kém xa huynh mà.”

“Y chính là Thanh Dương đó.”

“Không thể nào! Đại ca là Hiên Viên Thanh Dương, trên đời này làm gì có ai đả thương nổi huynh ấy, cả huynh cũng không đánh bại được huynh ấy cơ mà!” Xương Ý tái mét mặt, nhưng vẫn khăng khăng cố chấp, “Không thể nào! Sao huynh có thể đem chuyện này ra đùa ta được?”

Nước mắt A Hành lã chã rơi, phải rồi, Đại ca là Hiên Viên Thanh Dương, là Hiên Viên Thanh Dương lạnh lùng nhất, hùng mạnh nhất trong thiên hạ, sao có thể chết được chứ?

Trông dáng điệu của A Hành, Xương Ý liền quỳ sụp xuống thuyền, trân trân giương mắt nhìn Đại ca, vẻ mặt đờ đẫn, không khóc lóc, cũng chẳng hề động đậy.

Nhìn biểu hiện của Xương Ý, Thiếu Hạo càng thêm lo lắng, lần trước nghe nói A Hành tử vong, chí ít Xương Ý còn biết nổi giận, nhưng lần này, y chẳng hề phản ứng.

“Xương Ý, Xương Ý, nếu đệ đau lòng thì cứ khóc lên đi.”

Xương Ý chẳng buồn để ý mấy lời của y, chỉ thẫn thờ vịn vào quan tài, hồi lâu sau mới sầm mặt hỏi: “Kẻ nào? Là kẻ nào?”

Thiếu Hạo chẳng cất nổi nên lời, rốt cuộc ai mới là kẻ giết hại Thanh Dương đây? Là Xi Vưu, là Hoàng Đế, Là Di Bành, hay chính là y?

Không thấy ai trả lời mình, Xương Ý quay sang gào lên với A Hành: “ Rốt cuộc là kẻ nào?”

A Hành tái mặt, khóc không ra tiếng, chẳng dám nhìn vào mặt Tứ ca. Nhìn dáng vẻ của nàng, Xương Ý cũng dần hiểu ra, “Là Xi Vưu ư?”

“Phụ vương giết chết Du Võng, Xi Vưu hắn, hắn không cố ý giết chết Đại ca đâu… Đại ca vì cứu phụ vương nên đã hứng một đòn chí mạng của Xi Vưu.” Lòng A Hành đã nguội lạnh như tro tàn, giải thích thế nào cũng có ích gì nữa đâu? Thanh Dương đích thực đã chết dưới tay Xi Vưu kia mà.

Xương Ý ngửa mặt nhìn trời, tròng mắt đầy những lệ, nhưng y chỉ mở to mắt trừng trừng nhìn lên, mãi tới khi nước mắt tan đi cả mới thôi. Y còn mẹ, còn muội muội, y không được phép yếu đuối! Giờ đây y mới hiểu được tâm tình của Đại ca, vì mẹ, vì y, vì A Hành, Đại ca đã trút bỏ sự yếu đuối cùng nụ cười rạng rỡ để chọn lấy vẻ lạnh lùng và cứng cỏi.

Xương Ý bình thản nói: “Dọc đường tới đây, ta chỉ toàn nhận được tin Hiên Viên đại thắng, chẳng ai nói Hiên Viên Thanh Dương đã xảy ra chuyện gì cả.”

Thiếu Hạo giải thích: “Lúc đó tình hình rất căng, quân Thần Nông đang rối loạn, nếu Hoàng Đế bỏ lỡ thời cơ ấy thì trận chiến lần này xem như công cốc, bởi thế ngài lập tức dẫn quân tấn công ngay, chỉ kịp biết Thanh Dương bị trọng thương chứ chưa hay y đã lìa trần.”

Xương Ý thê thảm nghĩ thầm, Đại ca vì cứu phụ vương mới bị trong thương, ấy vậy mà phụ vương chỉ chăm chăm dẫn quân công thành, chẳng buồn nán lại bên Đại ca chốc lát, lẽ nào đối với ông, thiên hạ quan trọng đến thế sao?

“Đại ca thần lực cao cường, nếu đã muốn cứu phụ vương, ắt phải có chuẩn bị sẵn, sao Xi Vưu có thể một đòn… một đòn giết chết Đại ca!”

Nghe Xương Ý hỏi, A Hành cũng sực nghĩ ra, bèn quay sang nhìn chằm chằm Thiếu Hạo, chất vấn: “Mấy năm nay, tuy thần lực của Xi Vưu tăng vọt nhưng nếu giao chiến trực diện cũng không thể nào một chiêu giết chết được chàng hay Đại ca!”

Thiếu Hạo chỉ biết đau đớn làm thinh.

Nỗi kinh hoàng chợt dâng lên ngập lòng A Hành, nàng lớn tiếng hỏi: “Đại ca và phụ vương nhắc tới chuyện thuốc độc gì đó, nhưng thiếp nghiệm thi thấy không có độc, rốt cuộc là sao?”

Thiếu Hạo không dám đối diện ánh mắt nàng, đành cúi gầm mặt, đăm đăm nhìn Thanh Dương, lí nhí: “Để bảo vệ bản thân, Thanh Dương định bức Hoàng Đế thoái vị, Hoàng Đế phát hiện được, liền đánh tráo thuốc độc, khiến Thanh Dương uống phải chính thứ nước mà y chuẩn bị cho Hoàng Đế. Nhưng thật ra đến phút cuối Thanh Dương lại hối hận, y đã lén đổi vò nước độc, thay vào đó là vò nước bình thường, nào ngờ Hoàng Đế đã phát hiện từ sớm, liền ra tay đánh tráo vò nước độc trước cả y, lấy gậy ông đập lưng ông. Khi y thay Hoàng Đế hứng chịu một chiêu chí mạng của Xi Vưu, chất độc đột ngột phát tác khiến linh lực đứt đoạn…” Thiếu Hạo nghẹn lời, phải hít một hơi thật sâu, lấy lại bình tĩnh mới kể tiếp được: “Từ khi nhận ra Thanh Dương có ý khác, Hoàng Đế đã phái Di Bành ngày đêm theo dõi Thanh Dương, hôm đó chính Di Bành phụ trách trấn giữ đại điện, hắn hẳn cũng biết hết mọi chuyện nhưng thay vì kịp thời bẩm báo với Hoàng Đế, hắn lại ém nhẹm đi, mượn tay Hoàng Đế hạ độc Thanh Dương, hung thủ thực sự hại chết Thanh Dương không phải là Xi Vưu, mà là Di Bành.”

Xương Ý và A Hành nghe đến ngẩn cả người, hồ vẫn chưa thủng cái vòng luẩn quẩn người hại ta ta hại người kia.

Hồi lâu, Xương Ý bỗng kinh hãi hỏi: “Huynh nói Đại ca định đánh độc giết phụ vương ư?”

Thiếu Hạo vội thanh minh: “Không phải, chất độc đó chỉ khiến Hoàng Đế bải hoải toàn thân, không thể xử lý triều chính, chứ không chết người. Thanh Dương chưa bao giờ có ý hại chết Hoàng Đế.”

Xương Ý vặn tiếp: “Đồ ăn thức uống của phụ vương đều có thầy thuốc kiểm tra, Đại ca lấy đâu ra thứ độc qua mặt được cả đám thầy thuốc thế?”

Bây giờ A Hành mới hiểu ra tất cả, nàng chợt thấy hai mắt tối sầm lại, đau đớn và phẫn uất ứ đầy lòng, thân hình đổ gục xuống, Xương Ý phải cuống quýt đỡ lấy nàng. A Hành trợn trừng hai mắt nhìn Thiếu Hạo, mấp máy môi mà không sao thốt nổi nên lời, sắc mặt xám ngoét, cả người cứ thế run lên bần bật.

Thiếu Hạo vuốt nhẹ lên quan tài của Thanh Dương, khẽ nói: “Là chất độc mà nàng phối chế cho ta đó, nhưng chuyện này không liên quan gì đến nàng, đây là quyết định của riêng ta và Thanh Dương thôi.”

Xương Ý kinh hoàng trợn mắt nhìn A Hành, “Là, là muội… là thuốc độc muội phối chế?”

“A… a… a…” A Hành chẳng còn nước mắt mà khóc, chỉ biết gào lên thảm thiết, hai tay liên tục đấm ngực mình, chỉ hận không lóc da xẻo thịt bản thân mình ngay được.

Thiếu Hạo quỳ khuỵu một gối xuống, ra sức giữ chặt lấy nàng: “A Hành, nghe này! Là do ta, đều tại ta cả! Tại ta tự mãn, đánh giá thấp Hoàng Đế! Tại ta nhìn nhầm Thanh Dương, ta cứ ngỡ y cũng giống như ta! A Hành, không liên quan gì đến nàng cả, không liên quan gì đến nàng mà! Nàng chẳng hay biết gì cả, là ta đã gạt nàng!”

Thiếu Hạo thuật lại vắn tắt mọi chuyện cho Xương Ý, nói rõ độc dược là mình nhờ A Hành phối chế để hạ độc Yến Long, nhưng rồi lại lén tuồn cho Thanh Dương.

Xương Ý trừng trừng nhìn Thiếu Hạo, mắt long sòng sọc, cánh tay bất giác giơ lên.

Thiếu Hạo quỳ sụp xuống trước quan tài Thanh Dương, “Đệ muốn đánh muốn giết thì cứ đáng cứ giết đi!” Mấy ngày nay, tuy vẫn ráng giữ vẻ bình thản nhưng thật lòng Thiếu Hạo cũng đau đớn chẳng kém gì Xương Ý và A Hành, thế nên lúc này y chỉ hy vọng Xương Ý xuống tay đánh mình.

Xương Ý một chưởng vung ra đập mạnh vào người Thiếu Hạo, Thiếu Hạo cũng chẳng hề vận linh lực để kháng, cứ quỳ thẳng tắp trước linh cửu Thanh Dương, mặc cho khóe miệng ứa máu. Đánh được một chưởng, Xương Ý lại vung tay lên toan bồi thêm chưởng nữa, nhưng nhìn Thanh Dương an lành nằm trong quan tài như ngủ, y không sao xuống tay được, keng một tiếng, rút soạt kiếm ra, “Ta phải đi giết Di Bành!”

A Hành vội kéo y lại, van nài: “Tứ ca, đừng kích động!” Xương Ý rảy mạnh A Hành ra, nhảy lên tọa kỵ toan đi.

Thiếu Hạo liền quay phắt lại, nhào tới nắm lấy lưỡi kiếm của Xương Ý, mặc bàn tay ròng ròng máu, một mực khẩn thiết thuyết phục, “Xương Ý, hiện giờ đệ là con trưởng trong nhà, phải gánh lấy trách nhiệm trông nom mẹ và muội muội thay Thanh Dương!”

Xương Ý bất giác đưa mắt nhìn về phía Đại ca, cả người dần dần xụi lơ, giờ đây y đã trở thành con lớn, không thể kích động như thế được.

Thấy Xương Ý có vẻ xuôi xuôi, Thiếu Hạo bèn buông mũi kiếm ra, khuyên nhủ: “Nếu Thanh Dương qua đời, Di Bành ắt hẳn trở thành kẻ duy nhất có thể kế thừa vương vị, hắn được các quan giúp đỡ, thế lực càng ngày càng bành trướng, đệ chẳng những phải tự lo lấy thân mà còn phải bảo vệ Luy Tổ, nhất định đừng để sơ sẩy.”

Hơn ai hết, Xương Ý hiểu Di Bành rất căm hận mẹ của mình, một khi hắn đăng cơ, chắc chắn sẽ không tha cho họ.

Thiếu Hạo lại nói: “Ta có kế này may ra áp chế được Di Bành, Thanh Dương cũng đã tán đồng rồi.”

A Hành và Xương Ý đều dồn mắt về phía y, Thiếu Hạo trình bày: “Chỉ có ta và A Hành biết được dược tính của thuốc độc mà thôi, Thanh Dương thần lực cao cường, chắc hẳn Hoàng Đế không tin một đòn của Xi Vưu mà giết được y đâu. Ta đã phong tỏa nghiêm ngặt tin này, trừ ba người chúng ta, không còn ai biết về cái chết của Thanh Dương cả.” Thiếu Hạo nhấn mạnh, “Cũng đừng để mọi người biết.”

A Hành và Xương Ý chợt hiểu ra ý định của Thiếu Hạo, chỉ cần Thanh Dương chưa chết, đám triều thần cũng chẳng dám về hùa với Di Bành, đây chính là biện pháp hiệu quả nhất để khắc chế hắn.

Xương Ý còn đang trù trừ, A Hành đã lên tiếng: “Thiếp đồng ý!” Thấy muội muội tán đồng, Xương Ý cũng gật đầu.

Thiếu Hạo nói tiếp: “Ta sẽ viết thư với Hoàng Đế rằng thầy thuốc thấy trong người Thanh Dương vẫn còn chất độc, thương thế rất nặng, phải ở lại Quy khư bế quan trị thương, ít ra cũng tranh thủ được một hai trăm năm.”

A Hành hỏi: “Lỡ phụ vương phái người tới dò xét thì sao? Chúng ta lấy đâu ra Đại ca để đối phó đây?”

Thiếu Hạo trỏ làn nước dưới Quy khư, “Người đời thường nói Cửu vĩ hồ là giống giỏi biến hóa nhất, thật ra còn thứ khác biến hình giỏi hơn Cửu vĩ hồ nhiều. Như nước kia, đựng bầu thì tròn, đựng ống thì dài, ở trên trời hóa thành mây mưa hơi nước, ở dưới đất hóa thành sương tuyết sông ngòi, ở trong người chúng ta lại trở thành máu huyết sinh mạng.”

Nói rồi, Thiếu Hạo lập tức biến Thanh Dương, giọng nói cử chỉ đều như khuôn đúc, “Ta quen biết Thanh Dương đã hai ngàn năm, lại tu luyện thủy linh, nắm rõ pháp thuật của đối phương. Hồi nhỏ chúng ta cũng từng tráo đổi thân phận náo loạn một phen, mọi người đều nói Thiếu Hạo một mình đẩy lui mười vạn đại quân Thần Nông, thật ra không đâu, đó là Thanh Dương và ta cùng làm.”

Xương Ý chăm chú nhìn Thiếu Hạo, thấy y chẳng khác Thanh Dương mảy may nào.

Thiếu Hạo lại tiếp: “Nếu ngày ngày ở bên, ắt sẽ phát hiện ra, nhưng hiện giờ Thanh Dương đang bị trọng thương, nói năng cử động đều khó khăn, người đến thăm cũng chỉ có thể nhìn qua mà thôi, bằng vào thần lực của mình, dẫu là Hoàng Đế đích thân tới đây, ta vẫn tự tin ứng phó được.”

Bây giờ, A Hành mới hiểu lời hứa của Thiếu Hạo với Đại ca trước lúc lâm chung, “Từ nay trở đi, ta chính là Thanh Dương”, chẳng phải một cách so sánh, mà y quả thật đã trở thành Thanh Dương. Đại ca hiểu ý Thiếu Hạo nên mới yên lòng ra đi.

Xét thấy kế sách của Thiếu Hạo rất ổn, A Hành quay sang hỏi Xương Ý: “Có nên nói thật cho mẹ biết không?”

Xương Ý đắn đo một hồi rồi đáp: “Chúng ta đau khổ đến mấy cũng chẳng bằng phân nửa nổi đau của mẹ đâu. Vân Trạch qua đời, mẹ đã chết nửa cõi lòng, tới lượt muội chìm dưới đáy Ngu uyên, nửa cõi lòng của mẹ cũng chết lặng, nếu giờ biết chuyện Đại ca lìa trần, e rằng mẹ…”

A Hành gật gật đầu rồi trừng mắt nhìn Thiếu Hạo, vẻ căm hận vẫn hằn lên trong mắt, hồi lâu, nàng mới buồn rầu nói: “Sau này mọi chuyện đều nhờ cả vào chàng.”

Thiếu Hạo thừ người, lẳng lặng khôi phục nguyên dạng, triệt tiêu linh lực, để quan tài băng mang theo Thanh Dương từ từ chìm xuống Quy khư. Xương Ý và A Hành đứng cạnh nhau, cùng lưu luyến nhìn Đại ca. Y chết đi rồi, nhưng bọn họ vẫn được uy thế của y bảo vệ.

Hoàng Đế nhận được thư Thiếu Hạo liền phái Ly Chu, Ứng Long và Xương Phó đưa Luy Tổ tới Cao Tân thăm Thanh Dương.

Luy Tổ đứng ngoài cửa động nhìn Thanh Dương đang bế quan trị thương dưới đáy Quy khư, lặng thinh không nói.

Biết Ly Chu là tâm phúc của Hoàng Đế, A Hành âm thầm dò xét nét mặt ông ta, nhưng Ly Chu chẳng hề tỏ vẻ nghi ngờ, chỉ mãi buồn rầu an ủi Luy Tổ.

Ứng Long chợt lo lắng hỏi: “Thần có thể làm gì cho điện hạ đây?”

Luy Tổ gượng cười đáp: “Thanh Dương tu luyện thủy linh, Quy khư này lại là cội nguồn vạn thủy, linh khí dồi dào, hiện giờ chỉ cần kiên trì trị thương thôi.”

Luy Tổ định nán lại ít ngày, còn Ly Chu và Ứng Long thấy mình chẳng giúp được gì nên muốn xin về Hiên Viên bẩm báo với Hoàng Đế về tình hình của Thanh Dương.

Trước khi giã biệt, Ứng Long còn tới gặp riêng Xương Ý để tạ tội, vừa nói được một câu đã quỳ xuống trước mặt Xương Ý, Xương Ý phải đỡ y dậy, Ứng Long nói: “Nhờ điện hạ chuyển lời cho Đại điện hạ, nếu không có Đại điện hạ, thần đã chết rũ xương từ lâu rồi, ngày sau nếu gặp việc gì thần có thể góp sức, xin lập tức báo cáo ngay với thần.”

Xương Ý vội vàng cảm tạ. Đợi Ứng Long đi khỏi, y liền kể lại chuyện này với A Hành, nàng nói: “Những bề tôi như thế trong triều chẳng phải chỉ có Ứng Long, có lẽ đây chính là lý do Thiếu Hạo muốn Đại ca sống, chỉ cần Đại ca còn đó, bọn họ nhất định sẽ không về phe Di Bành.”

Mười mấy ngày sau, A Hành, Xương Ý và Xương Phó cùng đưa Luy Tổ về Hiên Viên sơn. Vừa về đến Triêu Vân phong, họ chợt thấy Triêu Vân điện hằng ngày vắng vẻ hôm nay lại náo nhiệt bất ngờ.

Bước vào điện, cả bốn trông thấy Tam phi Đồng Ngư thị đang sai phái đám thị nữ tra xét khắp nơi, lúc thì chê chỗ này sơ sài, khi lại nói màu sắc chỗ nọ không hài hòa.

Chu Du luống cuống theo sau Đồng Ngư thị, tới một hốc tường, bà ta đột nhiên thò tay vào, cầm hộp ngọc vuông vắn trong hốc lên, “Cái giẻ rách gì thế này? Để đây vướng cả mắt!”

Chu Du nôn nóng, liền buột miệng la: “Đừng đụng vào!”

Đồng Ngư thị giận giữ quát: “Ngươi bảo ai đấy hả? Vả vào miệng cho ta!”

Hai ả cung nữ vạm vỡ nhanh như cắt túm lấy Chu Du, bắt đầu vả miệng. Chu Du chẳng dám phản kháng, chỉ biết vật nài: “Đại điện hạ đã căn dặn, không ai được đụng vào hộp ngọc đó.”

Đồng Ngư thị phá lên cười, “Thế hả?” Dứt lời, bà ta đập luôn chiếc hộp xuống đất vỡ tan, mấy mảnh xương người cháy xém vung vãi cả ra sàn.

Đồng Ngư thị cười nhạt, nghiến răng toan giẫm lên đó.

“Các ngươi làm gì ở đây vậy?”

Đồng Ngư thị nghe tiếng ngẩng lên, Luy Tổ bước vào cửa điện, trông thấy mấy mảnh xương dưới chân Đồng Ngư thị, sắc mặt chợt tái nhợt.

Xương Ý cố nén giận, hành lễ với Đồng Ngư thị, “Đó là xương cốt của gia huynh, xin nương nương cẩn thận giùm.”

Đồng Ngư thị làm bộ áy náy, “Ai da, ta không biết, thật là có lỗi.”

Nói rồi bà ta vội vã lùi lại, chẳng những tránh không được mà còn giẫm bừa lên đống xương cốt, khiến mấy mảnh xương vỡ vụn.

Bà ta liền hốt hoảng tạ lỗi: “Cái này, cái này… ai, thật thất lễ quá, ta đã bảo đừng ghé qua đây, nhưng Di Bành lập được công lớn, vừa được phong làm Đại tướng quân, Hoàng Đế thấy ta thích phong cảnh Triêu Vân phong nên mới gia ân cho ta đi dạo một vòng.” Bà ta nhặt mớ xương tàn dưới đất, hai tay dâng tới trước mặt Luy Tổ: “Tỷ tỷ, muội xin lỗi nhé.”

Luy Tổ xám mặt lại, loạng xoạng muốn ngất đi, Xương Phó phải vội vã chạy tới dìu đỡ.

Xương Ý tức giận đầy ruột nhưng miệng lưỡi vụng về, không sao đối đáp được với bà ta, chỉ biết giơ tay toan rút kiếm.

Thấy vậy, A Hành vội giữ tay y lại rồi bước chân trước mặt Luy Tổ, rút khăn lụa ra, thận trọng nhận lấy nắm xương tàn đã cháy sém.

Đồng Ngư thị liền cảm thán: “Ai! Tội nghiệp quá đi mất! Đường đường là một trang nam nhi cao lớn hiên ngang như rồng như hổ, thế mà giờ chỉ còn nắm xương tàn!”

A Hành mỉm cười đáp: “Phải rồi, nỗi khổ của chúng con chỉ có nương nương Người hiểu được thôi, nói gì thì nói, Tam ca cũng bị thiêu cháy thành tro bụi mà, ài.”

Đồng Ngư thị chợt biến sắc, tắt hẳn nụ cười, căm hận trừng mắt nhìn A Hành, nàng cũng cười cười nhìn bà ta, chẳng hề kém cạnh.
Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 08:56 PM
Chương 24

Đời đời xin nguyện làm huynh đệ

24.2


Ánh mắt Đồng Ngư thị trừng trừng nhìn Luy Tổ không rời, đoạn bà ra gằn giọng nói: “Trời cao đã nghe thấy lời nguyền của ta rồi, ngươi cứ chờ mà xem!”

Luy Tổ nghe nói tái mặt, ngất lịm đi. Đồng Ngư thị cũng dắt đám cung nhân lũ lượt rời Triêu Vân điện.

Sau khi tỉnh lại, Luy Tổ vật vã đau đớn như chết cả cõi lòng. A Hành mấy lần định hỏi han gì đó, nhưng cứ do dự không dám. Hộp ngọc đó đã đặt trong hốc tường cả mấy ngàn năm nay, vậy mà nàng chẳng hề lưu ý, đến giờ mới biết đó là xương cốt của anh trai mình.

Chu Du đầu bù tóc rối bưng một chiếc hộp thủy tinh lại, A Hành đặt nắm xương tàn gói trong mảnh khăn tay vào đó. Thấy mọi người đều làm thinh chẳng nói chẳng rằng, Chu Du liền an ủi: “Nương nương, điện hạ, vương cơ, các vị đừng giận làm gì, đợi Đại điện hạ khỏe lại, nhất định sẽ tính sổ với mụ đàn bà đó.”

Xương Ý và A Hành vừa nghe đã rơm rớm nước mắt, Đại ca hết lòng che chở cho họ, làm sao còn trở về được nữa đây? Đến giờ A Hành mới hiểu vì sao mỗi lần gặp mặt, Đại ca đều nghiêm khắc mắng nàng trễ nải tu hành, tiếc rằng, trước đây nàng chẳng hề nhận thấy nỗi khổ tâm của Đại ca.

Luy Tổ lệnh cho đám cung nữ vây quanh: “Các người lui cả ra đi, để cả nhà ta trò chuyện riêng một lát.” Chu Du nghe nói cũng định lui ra, lại nghe Luy Tổ bảo: “Ngươi ở lại đây. Về sau, ngươi… ngươi cũng coi như Xương Phó.”

“Dạ!” Chu Du vội ngồi xuống, cười lỏn lẻn cào cào lại mái tóc rối tung trên đầu. A Hành và Xương Ý đang xúc động nên chẳng để ý lời Luy Tổ, chỉ riêng Xương Phó đưa mắt chăm chú nhìn Chu Du.

Luy Tổ quay sang bảo A Hành: “Đưa cho ta chiếc hộp.”

A Hành liền đưa chiếc hộp cho bà. Luy Tổ mở ra, khẽ vuốt nắm xương tàn, đoạn lên tiếng, “Hẳn con đang thắc mắc người này là ai, tại sao y lại thành ra thế này, phải không? Chuyện này dài lắm, phải kể từ đầu kia.”

Xương Ý vội chen vào: “Mẹ mệt rồi, để hôm khác nói đi!”

“Con cũng yên lặng nghe đi, con chỉ biết đây là Vân Trạch, chứ không biết nguồn cơn sự việc phải không?”

Thấy thái độ Luy Tổ rất kiên quyết, Xương Ý đành vâng lời.

Luy Tổ trầm ngâm giây lát rồi kể: “Đó là chuyện rất lâu rất lâu rồi, lâu đến nỗi ta cũng gần như quên mất. Khí đó cha ta vẫn còn tại thế. Tây Lăng Thị là danh gia vọng tộc từ thời thượng cổ, cùng với ba nhà Xích Thủy, Đồ Sơn, Quỷ Phương, được người đại hoang tôn là ‘Tứ thế gia’, thực lực ngang ngửa Xích Thủy Thị. Xưa kia dòng họ nhà ta từng có một vị Viêm Hậu, Phục Hy đại đế cũng rất nể trọng chúng ta. Từ nhỏ, ta đã giỏi điều khiển côn trùng, biết quay xe kéo sợi dệt nên những tấm gấm đoạn rực rỡ tươi đẹp hơn mây trắng, có một dạo ta cũng nổi danh thiên hạ, được xưng tụng là Tây Lăng kỳ nữ, người tới cầu hôn nườm nượp. Hồi đó ta vừa kiêu ngạo vừa phóng khoáng, mắt đặt đỉnh đầu, nào xem ai vào đâu, bèn chuồn khỏi nhà, đi ngao du sơn thủy cùng hai người bạn. Chúng ta kết bái huynh muội, uống rượu, đánh lộn, gây sự phá phách, hành hiệp trượng nghĩa đủ cả.”

Nhìn ánh mắt mẹ rực lên, vẻ hào hứng phấn khởi chưa từng thấy, Xương Ý chợt nhận ra mẹ mình cũng từng có một thời tuổi trẻ sôi nổi nhiệt thành. A Hành sực nhớ lại mấy trăm năm trước, ông lão trên Tiêu Nguyệt đỉnh hồi tưởng chuyện xưa, cũng đã cười sảng khoái thế này.

“Một hôm, ba người chúng ta ngang qua Hiên Viên, bắt gặp một vị thiếu niên anh tuấn, y đứng giữa mọi người, tươi cười rạng rỡ, hệt vầng dương chói lóa trên bầu trời kia, khiến vạn vật xung quanh đều hóa ra ảm đạm.”

Xương Phó khẽ hỏi: “Là phụ vương ư?”

Luy Tổ gật đầu, ánh mắt đượm vẻ thê lương, “Từ nhỏ ta đã được cha mẹ nuông chiều, muốn gì được nấy, cứ ngỡ gã thiếu niên này cũng như muôn vàn kẻ khác, hễ trông thấy ta đều phải đắm đuối si mê. Nhân một đêm trăng, ta bèn lẻn đi tìm y bày tỏ tình cảm, nào ngờ y lại cự tuyệt ta, còn nói rằng đã có người trong mộng rồi. Nghe vậy ta chỉ biết hổ thẹn giận dữ bỏ đi, tiếp tục ngao du với chúng bạn, làm ra vẻ chưa có gì xảy ra. Nhưng lúc nào ta cũng canh cánh nhớ đến y, càng không có được thì lại càng sục sôi muốn giành lấy. Có lần ngắm nhìn hoàng hôn từ từ buông xuống, ta đột ngột hạ quyết tâm, nhất định phải giành được người đàn ông này! Tây Lăng Luy ta lý nào lại không giành được kẻ mà ta muốn chứ? Nghĩ thế, ta bèn rời bỏ chúng bạn, đi tìm gã thiếu niên kia.”

Luy Tổ đưa mắt nhìn khắp lượt các con, “Thuở ấy, Tây Lăng Luy ta nào đã nhận ra thứ quý giá nhất trong đời, càng chưa biết rằng điều đáng trân trọng nhất chính là điều mình vừa tiện tay vứt bỏ.”

Xương Ý, Xương Phó, A Hành đều lặng thinh không nói, chỉ mình Chu Du tâm tính chất phác, chẳng ngại háo hức vọt miệng hỏi: “Về sau thế nào? Làm sao vương hậu đánh bại được tình địch?”

Luy Tổ trầm ngâm một lúc lâu, đoạn kể tiếp: “Tìm thấy gã thiếu niên đó, ta bèn lấy tư cách là bạn y để nán lại Hiên Viên tộc. Ta hiểu y là một kẻ ôm hoài bão lớn, không cam lòng làm tộc trưởng một Thần tộc nhược tiểu suốt đời, bèn dốc hết sức lực giúp y hoàn thành khát vọng. Dù gì ta cũng xuất thân từ danh gia vọng tộc, lại được nuôi dạy như Viêm Hậu tương lai, nắm rõ quy cách phân bố ruộng nương, thiết lập thuế khóa, quản lý nô bộc, còn dạy cho đàn bà con gái Hiên Viên chăn tằm dệt vải, phân tích hình thế thiên hạ với y, nói Viêm Đế và Tuấn Đế càng đấu đá ác liệt thì cơ hội của y càng lớn… Chỉ cần y muốn thực hiện, ta sẽ một lòng một dạ giúp đỡ y, ta không tin rằng, cô gái mà y tơ tưởng có thể đem lại cho y những điều đó. Ngày tháng trôi qua, chúng ta mỗi lúc một thêm thân mật, cơ hồ chuyện gì cũng có thể thổ lộ cùng nhau, cho đến một hôm, y đột nhiên căn vặn thân thế của ta, một cô gái bình thường chẳng thể nào học sâu hiểu rộng nhường ấy được, khi biết ta là Tây Lăng Luy, y đã kinh ngạc không thốt nên lời.”

Luy Tổ nghiêng đầu hồi tưởng chuyện xưa, nét tươi cười hiếm hoi thoáng lướt qua dung nhan tàn tạ, “Thuở ấy, cái tên Tây Lăng Luy nổi tiếng hệt như Thiếu Hạo và Thanh Dương bây giờ vậy, người ta có thể không biết Viêm Đế, nhưng chẳng ai không nghe tiếng Tây Lăng Luy. Hiên Viên tộc khi đó đang cần một chỗ dựa, ta lập tức đáp ứng ngay. Trước ngày hai ta thành thân, cô gái đó đã tới cầu khẩn ta, còn nói với ta rằng, cô ta… cô ta đã mang thai.”

Vẻ mặt Luy Tổ đầy xót xa hoảng hốt, thoắt chốc, mọi người trong phòng đều nín lặng như tờ.

“Cô ta khóc lóc vật nài ta đừng giành mất phu quân của mình, đừng đoạt đi cha của đứa nhỏ, còn nói, ‘Tiểu thư thân là Tây Lăng Luy, có biết bao đàn ông trên đời si mê theo đuổi, nhưng tôi chỉ có một mình y mà thôi, xin tiểu thư trả lại y cho tôi đi.’ Nhưng dù trên đời có bao nhiêu đàn ông, ta cũng chỉ muốn gả cho một mình y, nên dứt khoát cự tuyệt cô ta. Cô ta khóc lóc van nài ta thương lấy đứa bé trong bụng mà thu nhận cô ta làm tiểu thiếp, bằng không người nhà cô ta sẽ giết cả cô ta lẫn đứa bé, nhưng ta vẫn cự tuyệt. Ta là Tây Lăng Luy kia mà! Nếu vừa thành hôn chưa bao lâu, phu quân đã có con với kẻ khác thì ta còn mặt mũi nào nữa? Cha ta và toàn thể gia tộc còn mặt mũi nào nữa đây! Cha ta miễn cưỡng lắm mới chịu chấp nhận cuộc hôn nhân này, nếu Người biết chuyện đó, ắt sẽ hủy hôn là cái chắc. Nghĩ vậy ta liền đuổi cô gái đó đi, coi tất cả như một cơn ác mộng, cố giữ vẻ bình thường để cử hành hôn lễ. Nhưng sau lễ thành hôn, cô ta lại tìm tới gặp ta, chặn xe ta giữa đường, loạng choạng nâng tấm vải đẫm máu bước đến trước mặt ta, trên đó còn dính mấy khối thịt đã khô quắt, căm hận nguyền rủa: ‘Ta lấy máu thịt con ta ra thề rằng các con ngươi sẽ chết sạch không còn một mống, còn ngươi sẽ phải đau đớn cực cùng vì mất con.’”

Nghe đến đây, Xương Ý và A Hành đã đoán ra người đàn bà đó là ai, không hẹn mà cùng ớn lạnh xương sống. Thấy sắc mặt Luy Tổ tái mét, Xương Phó vội dịu giọng khuyên giải, “Mẫu hậu mệt rồi, Người nghỉ một lát đi.”

Luy Tổ lắc đầu, tiếp tục kể, “Nói xong câu đó, cô ta liền bỏ đi.”

Mấy trăm năm sau, ta cũng dần quên khuấy cô ta. Phụ vương các con và ta ngọt bùi ân ái, rời tọa kỵ là vợ chồng, lên tọa kỵ là chiến hữu, hai người đồng tâm hiệp lực, sánh vai tác chiến, qua bao phen chinh chiến, Tây Lăng tộc ra sức chiến đấu vì ta, tử thương ngày càng nhiều rồi mai một dần đi, trong khi đó Hiên Viên tộc mỗi lúc một thêm lớn mạnh, từ một Thần tộc vô danh tiểu tốt đã trở thành Thần tộc lớn, vang danh đại hoang. Ta sinh được hai đứa con trai, đặt tên là Thanh Dương và Vân Trạch. Vân Trạch rất hiểu chuyện, nó thấy Thanh Dương tính tình hào phóng, không thích cầm quân đánh giặc bèn chủ động gánh lấy mọi trách nhiệm thay huynh trưởng, ngày ngày đều theo phụ vương học hỏi.”

Thấy Luy Tổ đã mệt lử, Chu Du liền bưng trà lại, bà đón lấy chung trà hớp mấy ngụm, nghĩ một lát rồi kể tiếp: “Hiên Viên tộc ngày càng lớn mạnh, cũng chuẩn bị lập quốc tôn vương, phụ vương các con muốn nạp con gái tộc trưởng Phương Lôi tộc làm phi tử, bèn ướm hỏi ta, ông ấy cần sự hỗ trợ từ Phương Lôi tộc để lập quốc nên mong ta thông cảm cho. Trước lý lẽ đó, ta chẳng có cách nào phản đối, cũng không làm sao phản đối được. Vì chuyện này, Thanh Dương đã làm ầm lên với ta, còn đòi đi tìm phụ vương các con tranh luận, Vân Trạch từ nhỏ đã học cách xử lý chính sự, hiểu chuyện hơn Thanh Dương rất nhiều, nó phải can ngăn mãi Thanh Dương mới chịu thôi.

May sao phụ vương các con cũng chỉ khách sáo qua quýt với Phương Lôi thị chứ chẳng hề sủng ái, ta mới thở phào nhẹ nhõm. Chẳng bao lâu sau, ta lại có mang rồi mải mê với hạnh phúc làm mẹ, cho tới một ngày, Hoàng Đế dắt một phụ nữ đang mang thai tới gặp ta, nói muốn nạp cô ta làm phi, cô gái đó nhìn ta cười bẽn lẽn, còn ta sởn cả gai ốc, cô ta, cô ta… chính là thiếu nữ hơn ngàn năm trước từng tìm tới cầu khẩn ta, nguyền rủa ta, cũng chính là Đồng Ngư thị vừa rời khỏi Triêu Vân phong khi nãy.”

Chu Du “A” lên kinh ngạc, Xương Ý và A Hành tuy đã đoán được nhưng vẫn thấy lạnh toát sống lưng.

Luy Tổ lại nói: “Hai năm sau, Tam vương tử Hiên Viên Huy của Hiên Viên tộc chào đời, tuy nó không phải con đầu lòng của Hoàng Đế, nhưng lại là vương tử đầu tiên ra đời từ ngày lập quốc của Hiên Viên, Hoàng Đế hết sức phấn khởi, lệnh cho toàn quốc ăn mừng. Hồi đó ta vẫn chưa nghĩ thông, chưa hiểu ra thứ gì là quan trọng nhất nên vì chuyện này mà động thai khí, khiến Xương Ý phải sinh non. Từ nhỏ Xương Ý đã yếu ớt lắm bệnh, linh lực kém cỏi, đều là do lỗi của ta!”

Hồi tưởng lại hình ảnh mẹ mình vò võ lẻ loi giữa Triêu Vân điện lạnh lẽo, trong khi cả nước đang hân hoan đón mừng Tam vương tử chào đời, Xương Ý chợt thấy lòng chua xót: “Mẹ, đó đâu phải lỗi của Người, Người đừng tự trách nữa mà.”

Luy Tổ tiếp lời: “Hồi đó ta vừa ghen ghét, vừa không cam lòng, lại vừa hoang mang sợ hãi, luôn xúi giục Vân Trạch gắng sức lấy lòng Hoàng Đế. Thật ra Vân Trạch hiểu chuyện hơn ta, nó thường khuyên ta trên đời này, thứ khó tranh đoạt nhất chính là lòng dạ đàn ông, dù tranh được chăng nữa, cũng sẽ phải trả giá đắt, nhưng ta một mực không chịu hiểu, càng chẳng làm sao quên được những ân ái vờ vịt hơn ngàn năm qua, về sau…” Luy Tổ ngửa mặt trông lên trần nhà, mọi người ngồi đó đều không nhìn thấy nét mặt bà, nhưng vẫn thấy hai hàng nước mắt từ cằm nhỏ xuống.

“Về sau Hiên Viên giao chiến với Điền tộc ở Tây Nam, phụ vương các con vốn định phái Thanh Dương xuất chinh, nhưng Vân Trạch biết Thanh Dương chán ghét chuyện đó, bèn chủ động xin đi, Hiên Viên Huy cũng được cho đi theo Vân Trạch để rèn luyện. Vân Trạch đại thắng, buộc Điền Vương đầu hàng. Đất Điền rất nhiều núi lửa, Hiên Viên Huy nói Vân Trạch trong lúc dẫn quân phá vây không may rơi vào miệng núi lửa. Thanh Dương không tin, nó tìm được xương cốt Vân Trạch, kết luận Hiên Viên Huy đã hại chết Vân Trạch, đòi Hoàng Đế tra xét. Hoàng Đế liền phái rất đông binh lính tới trấn giữ Chi Nguyệt điện, cấm Thanh Dương tiếp cận Hiên Viên Huy nhưng Thanh Dương vẫn liều mạng xông vào Chi Nguyệt điện, còn đả thương Hiên Viên Huy. Hoàng Đế tức giận bèn hạ lệnh giam Thanh Dương vào Lưu Sa trận không có lấy một giọt nước suốt nửa năm, tới khi nó chịu nhận tội mới thôi. Lúc rời khỏi trận, Thanh Dương chỉ còn da bọc xương, trông chẳng ra hình người nữa.”

Nói đến đây, Luy Tổ nghẹn giọng, khóc không ra tiếng.

Xương Ý đỡ lời: “Thôi mẹ ơi, chuyện về sau cứ để con thuật nốt cho A Hành. Sau khi được thả khỏi Lưu Sa trận, tính tình Đại ca thay đổi hoàn toàn, cũng chẳng ngao du đây đó nữa mà trở về Hiên Viên quốc, trở thành Hiên Viên Thanh Dương quy củ bây giờ. Từ đó về sau, Đại ca càng lúc càng nổi tiếng, sau cùng tề danh với Cao Tân Thiếu Hạo lừng lẫy đã lâu, được người trên đại hoang xưng tụng là “Thiên hạ song hùng, Bắc Thanh Dương, Nam Thiếu Hạo.”

Luy Tổ lại lên tiếng: “Vân Trạch chết đi, ta mới thật sự nhìn rõ con người mà mình quyến luyến bao năm không sao buông xuống được, ta cũng tháo sạch lược vàng trâm ngọc, bỏ hết gấm vóc lụa là, chỉ muốn làm một người mẹ, bảo vệ cho con cái mình bình yên hạnh phúc mà thôi. Nhưng dường như ông trời không chịu cho ta cơ hội, có lẽ, khi ta nhẫn tâm khước từ, để mặc đứa nhỏ kia chết mà chẳng được thấy ánh mặt trời, hết thảy báo ứng đã được định sẵn cả rồi. Nhưng đó là do ta gây ra kia mà! Trăm sai ngàn sai đều tại ta cả, sao báo ứng lại đổ lên đầu các con ta…”

Luy Tổ khóc nức lên, điên dại vì đau đớn.

Xương Ý vội nắm chặt lấy hai tay Luy Tổ, truyền linh lực vào người bà, khiến Luy Tổ thiếp đi.

Chu Du bất mãn buột miệng: “Đồng Ngư nương nương thật quá đáng, nếu nô tỳ là bà ấy, người đáng hận nhất phải là Hoàng Đế mới đúng, chính Hoàng Đế phụ bạc cả hai người đàn bà kia mà! Để tranh đoạt thiên hạ, Hoàng Đế đã ruồng rẫy thanh mai trúc mã, đến khi giành được giang sơn rồi lại đổ tội cho vương hậu khiến mình mất người yêu và con trai…”

Xương Phó giật giật áo Chu Du, tỏ ý ngăn ả đừng nói nữa, dù sao Xương Ý và A Hành cũng là con Hoàng Đế sinh ra, những thị phi phải trái, ân oán giăng mắc kia đều đã thành quá khứ rồi.

Xương Ý nhờ Xương Phó và Chu Du dìu Luy Tổ vào tẩm điện nghỉ ngơi.

Xương Ý lo lắng hỏi A Hành: “Bây giờ mẹ đã loạn cả tâm thần rồi, nếu Đồng Ngư thị còn sinh sự dăm lần nữa, e rằng mẹ sẽ sụp đổ hoàn toàn luôn. Chúng ta làm sao đây?”

A Hành bưng hộp lên, chăm chú nhìn nắm xương tàn bên trong, không sao tin nổi một con người đang sống sờ sờ nay chỉ còn vài mảnh xương cháy sém, buột miệng: “Nhị ca trông thế nào?”

Hai mắt Xương Ý chợt đỏ hoe, “Trong ký ức của ta, Nhị ca cũng bận rộn hệt như Đại ca mà muội từng biết vậy, chẳng mấy khi ta gặp được huynh ấy. Nhị ca theo Đại ca đi chọn đất phong cho ta, thấy Nhược Thủy hoang vu hẻo lánh, dân chúng còn man di, ai cũng chê là chó ăn đá gà ăn sỏi, chẳng kẻ nào thèm chọn, Nhị ca bèn bảo ta dâng thư, xin ban phong Nhược Thủy. Nếu không phải Nhị ca thu xếp cho ta một nơi hẻo lánh xa xôi như thế, e rằng ta cũng đã…”

A Hành đầy vẻ ân hận, xót xa hỏi: “Sao huynh chẳng kể cho muội nghe về Nhị ca? Thế mà có lúc muội đã trách cứ Đại ca về cái chết của Hiên Viên Huy…”

Xương Ý rưng rưng nước mắt: “Đại ca không để bụng chuyện đó đâu.” Đã có lúc y sôi sục căm hờn, chỉ lăm le giết chết Di Bành ngay tức khắc, nhưng giờ đây, thấy hệt mọi tiền nhân hậu quả, bao oán hận trong lòng y đều nhường chỗ cho bi ai khôn xiết, “Ta định dâng thư lên phụ vương, xin đưa mẹ về Nhược Thủy phụng dưỡng, Đồng Ngư thị thèm muốn Triêu Vân điện thì chứ cho bà ta đi!”

A Hành lắc đầu, “Nhược Thủy chẳng phải vẫn là lãnh thổ Hiên Viên ư? Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, có tác dụng gì đâu? Nếu Đồng Ngư thị dời vào ở Triêu Vân điện, dù chúng ta trốn đến chân trời góc bể cũng vô ích.”

“Nhất định phải có một bên chết mới kết thúc được sao? Tuy Đồng Ngư thị đáng hận, nhưng cũng rất đáng thương.”

“Muội cũng thấy bà ta đáng thương, nhưng dây dưa giằng co thế này mãi chẳng tháo gỡ được, còn liên lụy cả người thân thây chất thành núi. Bây giờ chẳng còn đúng sai phải trái gì nữa hết, chỉ có người chết ta sống mới kết thúc được thôi.”

Thấy Xương Ý nín lặng, A Hành lo y lòng dạ thiện lương, dễ bị hãm hại, liền đinh ninh dặn dò: “Tứ ca, sớm muộn Di Bành cũng sẽ động tới huynh, huynh nhất định phải cẩn thận đề phòng đó.”

Vú già từng chứng kiến hai người lớn lên bưng một đĩa dâu lạnh bước vào, cười nói: “Tiếc là Đại điện hạ vắng nhà nên chẳng có dâu tươi ướp lạnh, chắc không được ngon lắm, hai vị cố ăn chút đi.”

Xương Ý và A Hành nhón một chùm dâu lạnh đưa lên miệng, trái dâu chua chua ngòn ngọt mà sao giờ đây chỉ thấy đắng chát nghẹn lòng. Bây giờ hai người mới chợt nhận ra, bao năm nay, hễ Đại ca ở nhà, mỗi lần trở về Hiên Viên sơn, bất kể lúc nào, họ đều được nếm dâu lạnh tươi roi rói.

Để ướp lạnh mấy chùm dâu tươi, Thanh Dương không tiếc hao phí linh lực khiến cả Hiên Viên sơn đổ tuyết, tiếc rằng tình cảm ấm áp quan hoài ẩn sau vẻ bề ngoài lạnh lùng nghiêm khắc ấy, hại người bọn họ chẳng hề nhận ra.

Xương Ý chăm chú nhìn A Hành, rành rọt nói: “Tuy cái chết của Đại ca chẳng phải do một mình Xi Vưu gây ra, nhưng không thể phủ nhận chính tay hắn đã đánh chết Đại ca, mẹ nhất định không chấp thuận cho muội ở bên hắn đâu!”

A Hành rơm rớm nước mắt, “Thế còn huynh? Huynh từng nói sẽ chúc phúc bọn muội kia mà?”

Xương Ý nuốt cay đắng vào lòng, đứng phắt dậy, vừa sải bước ra ngoài vừa trầm giọng đáp: “Ta sẽ không đi tìm hắn báo thù, nhưng ta cũng không thể chúc phúc cho kẻ giết chết Đại ca được. Nếu Xi Vưu chết đi, chuyện này coi như xong, nhưng nếu hắn còn sống, đời này kiếp này, ta cũng không muốn nhìn thấy mặt hắn, muội muốn sống cùng hắn thì vĩnh viễn đừng tới gặp ta nữa!”

A Hành siết chặt chùm dâu lạnh trong tay, nước mắt ầng ậng chỉ chực rơi xuống, nhưng giờ đây mẹ nàng đang bệnh nặng, Tứ ca hiền lành lương thiện, nàng chẳng thể muốn khóc thì khóc, muốn cười thì cười như xưa nữa.

Nàng nghiến chặt răng, cố nén không rơi nước mắt, chùm dâu lạnh trong tay bị bóp nát bét, nước dâu đỏ lòm từ kẽ tay nhỏ xuống tong tong như máu.

Nuốt hết nước mắt vào lòng, A Hành đứng dậy, tới thăm mẫu hậu.

Trong tẩm điện, mẫu hậu nàng đang thiêm thiếp, Xương Phó và Chu Du ngồi cạnh trông nom, đầu tóc Chu Du vẫn bù xù chưa kịp chải gỡ lại, A Hành bước vào lên tiếng: “Hai người đi nghỉ đi, để muội trông mẹ.”

“Cũng được, có chuyện gì muội kêu bọn ta nhé.” Xương Phó kéo Chu Du ra khỏi điện, ngồi dưới gốc phượng hoàng, rút chiếc lược bằng gỗ nhược mộc vừa chải tóc cho Chu Du, vừa thủ thỉ:

“Ngươi theo Đại ca bao lâu rồi?”

“Nô tỳ không nhớ nữa, chỉ biết là lâu lắm rồi, lâu hơn cả ký ức của nô tỳ nữa.”

“Sao lại lâu hơn cả ký ức?”

“Có lần nô tỳ thấy một nữ tử Nhân tộc toan treo cổ tự tử để chết theo chồng, nô tỳ nghĩ mãi mà không sao hiểu được, Thiếu Hạo bèn trêu nô tỳ là gỗ đá, đương nhiên không hiểu nổi tình cảm thương tâm đau lòng, nô tỳ nhất mực bám theo căn vặn y, y mới tiết lộ nô tỳ vốn là một cây thù du mục nát, sắp chết khô đến nơi, nhân một lần Thiếu Hạo cùng Đại điện hạ nô đùa, điện hạ bèn nhét khúc cây khô vào ngực áo, giữ bên người hàng ngày, nhờ linh khí của Đại điện hạ, nô tỳ mới có được linh thức, về sau mới tu thành hình người, vậy chẳng phải trước khi nô tỳ có ý thức đã theo Đại điện hạ rồi sao?”

“Ngươi đã gặp Nhị ca Vân Trạch lần nào chưa?”

“Nô tỳ chưa, nhưng nô tỳ biết Nhị điện hạ. Hồi đó nô tỳ còn là một khúc gỗ, không biết nói năng, chỉ có thể lắng nghe âm thanh bên ngoài, nô tỳ đã lắng nghe Nhị điện hạ từ từ trưởng thành, lại lắng nghe… lắng nghe ngài ấy qua đời. Nô tỳ ở trong lòng Đại điện hạ, cảm nhận được hết thảy đau đớn của ngài, nô tỳ rất muốn an ủi ngài, nhưng không thể cử động, cũng chẳng biết nói năng. Sau đó, sau đó… nô tỳ quá nóng ruột, đột nhiên, một hôm nô tỳ biến thành hình người. Bấy giờ Đại điện hạ đang ngủ, thấy nô tỳ thình lình xuất hiện trên giường, điện hạ giật nảy cả mình, ngã lộn cổ xuống đất, mặt tái xanh tái xám, quả là nhát gan mà…” Chu Du cười phá lên.

Tổ tiên Nhược Thủy tộc chính là Thần tộc Nhược Mộc nên Xương Phó khá am hiểu chuyện mộc yêu hóa thành người, nàng ngập ngừng hỏi, “Lúc đó ngươi không mặc gì, phải không?”

“Ơ… sau đó điện hạ cho nô tỳ mượn y phục của mình mặc tạm.”

Nhìn Chu Du ngây thơ chất phác, Xương Phó đành nuốt câu, “Đại ca lộn cổ xuống đất đâu phải vì sợ” lại, hình dung cảnh Đại ca lạnh lùng nghiêm nghị “giật nảy cả mình”, nàng không khỏi tức cười, nhưng chưa kịp cười đã nghe chua xót ngập lòng, “Từ đó về sau ngươi đi theo Đại ca ư?”

Chu Du bĩu môi ủ rũ, “Ai da! Tuy nô tỳ có thể cười nói cử động nhưng lại ngốc nghếch khù khờ, làm điện hạ bực mình, mấy lần định tống nô tỳ đi rồi đấy.”

“Vậy sao ngươi vẫn ở lại được? Một khi Đại ca đã quyết, đâu dễ gì lay chuyển.”

“Nô tỳ cũng không biết nữa, hồi đó linh lực của nô tỳ rất bất ổn, hễ cuống lên là biến lại nguyên hình, mỗi lần bị điện hạ xua đuổi, nô tỳ đều biến thành khúc gỗ. Điện hạ nổi giận cảnh cáo nô tỳ, nếu còn tiếp tục biến thành gỗ nữa sẽ quăng nô tỳ vào lò lửa luôn. Để làm vừa lòng điện hạ, không chọc giận ngài, cũng không biến thành gỗ nữa, nô tỳ đành dốc hết sức cố gắng tu hành, chỉ nửa người biến thành gỗ thôi, nào ngờ điện hạ vẫn nổi giận đùng đùng, còn giận hơn cả lần trước, điện hạ nói, thà toàn thân ngươi biến quách thành gỗ cho rồi…”

Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 08:57 PM
Chương 24

Đời đời xin nguyện làm huynh đệ

24.3


A Hành mải nghe hai người trò chuyện đã bước tới bên song khi nào chẳng rõ, nàng chỉ mong Chu Du kể tiếp vài ba chuyện nữa để mình được hiểu thêm về Đại ca, vị Đại ca luôn đứng đằng sau che chở cho nàng mà nàng chưa bao giờ hiểu rõ.

Suốt mấy trăm năm nay, sao nàng chỉ chìm đắm mải mê với thế giới bên ngoài mà chẳng hề quan tâm đến Đại ca bên cạnh? Liệu có phải tình thân là điều hiển nhiên đối với nàng, nên chưa từng nghĩ đến lúc mất đi? Vì sao mãi tới lúc mất đi rồi, nàng mới nhận ra mình rất quyến luyến Đại ca cơ chứ?

Từ sau cái chết của Băng Nguyệt, Nặc Nại chỉ ôm lấy vò rượu, say sưa tối ngày.

Tin Viêm Đế Du Võng chết thảm truyền đến Cao Tân, khiến y đột nhiên sực tỉnh, vội vàng đi suốt ngày đêm tới Thần Nông, nhưng đến chân núi thì đụng phải lệnh giới nghiêm, lại không tiện bộc lộ thân phận tới gặp Vân Tang, đương lúc bối rối như kiến bò miệng chén, y sực nhớ năm xưa mình âm thầm hẹn gặp Xi Vưu, hắn đã dặn y chờ tại Thảo An lĩnh, về sau y mới biết Thảo An lĩnh là cấm địa của Thần Nông, không ai được lui tới, nên cũng chẳng có thị vệ trông giữ.

Nặc Nại đoán từ Thảo An lĩnh có thể tìm được đường lên Tiểu Nguyệt đỉnh, bèn lẻn vào Thảo An lĩnh.

Thấy căn nhà tranh trên đỉnh núi vẫn leo lét ánh đèn, Nặc Nại mừng rỡ tiến lại, ghé mắt qua nhìn song cửa, chỉ thấy Mộc Cận mình khoác áo tang, tay giơ một viên dạ minh châu Đông hải, vừa đi vừa soi khắp các ngóc ngách trong nhà, khẽ khàng vuốt ve hết bàn tới giường, đôi mắt ăp ắp tình nồng, lệ tràn giàn giụa.

Mộc Cận ngồi xuống giường, cầm manh áo cũ của Xi Vưu áp lên mặt rồi òa khóc, “Xi Vưu, rốt cuộc ngươi còn sống hay đã chết? Tại sao ta phái người tìm kiếm khắp đại hoang mà không thấy? Dù ngươi chết rồi, cũng để ta trông thấy nắm xương tàn của ngươi chứ.”

Nghe vậy Nặc Nại thấy lòng chùng hẳn xuống. Theo y được biết cả Thần Nông, Hiên Viên, thậm chí là Cao Tân đều đang tìm kiếm Xi Vưu, nhưng đến giờ vẫn bặt vô âm tín. E rằng hắn đã chết thật rồi, liệu nắm xương tàn lạnh lẽo của hắn có cảm nhận được những giọt lệ nóng hổi của Mộc Cận không nhỉ?

Nặc Nại đứng bên ngoài một lúc lâu mà Mộc Cận vẫn ôm lấy tấm áo Xi Vưu nức nở, y bèn gõ nhẹ vào song cửa, khẽ an ủi: “Người chết rồi là hết, chỉ còn người sống đau khổ mà thôi.”

Mộc Cận giật mình ngẩng phắt lên trông thấy Nặc Nại, mày liễu dựng ngược mắng, “Giống bội bạc kia còn dám bén mảng đến Thần Nông sơn ư? Để ta giết ngươi trút giận thay Vân Tang tỷ tỷ!” Dứt lời, một dải lụa rực rỡ như mây ráng bay vèo ra cửa sổ thít lấy cổ Nặc Nại, nhưng y vẫn đứng yên, sắc mặt dần sạm lại.

Thấy Nặc Nại sắp nghẹt thở ngất lịm, Mộc Cận liền vung tay thu lại dải lụa, hậm hực hỏi: “Sao ngươi không đánh trả? Lẽ nào ngươi đến chịu chết thật đấy à? Thế thì đi mà tìm Vân Tang tỷ tỷ, ngươi phụ bạc tỷ ấy, chứ đâu có phụ bạc ta!”

Nặc Nại vội hành lễ, “Xin vương cơ tìm cách giúp tôi gặp được Vân Tang, sống chết gì tùy Vân Tang xử trí.”

“Ngươi vội gì chứ, bây giờ Vân Tang tỷ tỷ không còn hơi sức màng tới ngươi đâu!”

Nặc Nại lặng thinh không nói, chỉ ngước mắt nhìn Mộc Cận đầy vẻ khẩn cầu, ánh mắt chan chứa bi thương dằng dặc, tha thiết hơn vạn lời nài nỉ.

Mộc Cận trừng mắt lườm Nặc Nại, “Ta đưa ngươi đi một chuyến vậy.” Trước mặt nàng, Vân Tang luôn kiên cường mạnh mẽ, chưa bao giờ lộ vẻ mềm yếu, nhưng nàng hiểu trong lòng Vân Tang rất đau khổ có lẽ gã bạc tình này sẽ an ủi được Vân Tang chút nào chăng.

Trên Tiểu Nguyệt đỉnh, chỉ có tiếng gió đêm lùa qua rừng cây xao xác, như nức nở oán than.

Trong căn nhà tranh, mấy khúc ảnh mộc[2] rộ hoa đu đưa trên xà, tỏa ra ánh sáng âm u lạnh lẽo, hệt như cả bầu trời sao đang tụ về, soi sáng cỗ quan tài đặt giữa nhà, trong quan tài là một thi thể vận y phục đế vương hóa quý, nhưng không có đầu.

[2] Ảnh mộc. Theo Thập Di ký, đây là một lại cây, ban ngày một phiến lá có tới trăm chiếc bông, tối đến, hoa lại có thể phát quang, sáng như sao trời.

Vân Tang cài thoa gai, vận tang phục, ngồi quỳ trên chiếu, đang mải mê đẽo gọt một bức tượng bằng kiến mộc[3], vừa phác xong dung mạo, trông đã rất giống Du Võng.

[3] Kiến mộc: được tôn xưng là cây thần trong truyền thuyết, có thể nối thông giữa trời và đất, người và thần. Tương truyền Phục Hy, Hoàng Đế v.v… đều đi đi lại lại giữa thiên đình và nhân gian bằng chiếc thang kỳ diệu này.

Nghe tiếng chân, nàng ngừng tay khắc, trông ra cửa.

Mộc Cận dắt theo một nam tử, lẳng lặng tiến lại, nam tử kia thân hình gầy gò, nét mặt bi ai, nhưng chẳng giấu được vẻ sáng sủa tuấn tú, chính là Nặc Nại, người từng có hôn ước với Vân Tang.

Mộc Cận quay sang Nặc Nại nói nhỏ: “Vân Tang tỷ tỷ ở trong đó, ta đợi ngoài này, nếu có người tới, ta sẽ cao giọng chào hỏi, ngươi nhớ trốn ngay đi đấy.”

“Đa tạ Tứ vương cơ.”

Nặc Nại vừa ngẩng đầu đối diện với ánh mắt Vân Tang, vừa bước vào phòng, bao lời muốn nói đã ra tới đầu lưỡi, nhưng không sao thốt nổi thành câu.

Trái lại, Vân Tang chẳng hề bất ngờ trước sự xuất hiện của y, chỉ mỉm cười gật đầu, “Mời ngồi.”

Nặc Nại gập gối quỳ xuống, Vân Tang chăm chú nhìn bức tượng đang khắc, cất tiếng, “Chàng tới đúng lúc lắm, thiếp loay hoay mãi chưa khắc được mắt và mũi, chàng khéo tay như vậy, khắc giùm thiếp được không?”

Nặc Nại cầm lấy dao toan khắc, chợt phát hiện ra trải qua bao ngày đắm chìm trong rượu, tay y đã bắt đầu run, chẳng còn trầm ổn vững vàng như xưa được nữa. Càng căng thẳng muốn làm cho tốt, cánh tay y càng run lên dữ dội.

Đương lúc Nặc Nại bẽ bàng hổ thẹn khôn xiết, Vân Tang bỗng đưa tay nắm chặt lấy tay y, chẳng rõ nhờ nguồn linh lực dồi dào nàng truyền cho, hay nhờ bàn tay dịu dàng kiên định của nàng mà cánh tay y dần thôi run rẩy, chiếc mũi và đôi mắt là phần khó khắc nhất, vậy mà hai người cùng làm lại điêu khắc rất sống động, như thể Du Võng tái sinh, chăm chú nhìn bọn họ vậy.

Nặc Nại đưa mắt nhìn Vân Tang, đầy day dứt, “Vân Tang…”

“Đừng say sưa nữa.” Vân Tang dịu dàng nhìn y, ánh mắt thấu hiểu và khoan dung, chẳng bợn một tia oán trách.

Nặc Nại chợt thấy mũi cay cay, “Ừ!”

Vân Tang khẽ cười, “Thiếp hiểu lòng chàng mà, tình hình Thần Nông hiện giờ không tiện giữ khách lại, chàng về đi thôi!”

“Thế còn nàng? Nàng định thế nào?”

“Thiếp ư? Thiếp là Trưởng vương cơ của Thần Nông, Thần Nông quốc ở đâu, thiếp ở đó.” Đôi vai Vân Tang gầy guộc mỏng manh, nhưng giọng điệu lại vô cùng kiên quyết.

Nặc Nại liền nắm chặt lấy tay nàng, “Theo ta đi! Nàng còn nhớ bóng nước dưới Ao Đột quán không? Ta không làm Nạc Nại, nàng cũng đừng làm Vân Tang nữa, hai ta không cần thân phận, địa vị, không cần gì hết, chỉ sống đúng với bản thân mình thôi được không? Thiên hạ rộng lớn, thế nào cũng có nơi dành cho hai chúng ta!”

Vân Tang đăm đăm nhìn Nặc Nại, lệ dâng lên trong mắt, hồi lâu mới đáp: “Nghe tin Băng Nguyệt treo cổ tự tử giữa cổng thành, thiếp đã biết Nặc Nại Đại tướng quân của Cao Tân Hy Hòa bộ chẳng thể nào kết hôn với một vương cơ dị tộc như thiếp được nữa! Nhưng thiếp nghĩ nam tử từng thiết kế Ao Đột quán nhất định sẽ nhìn thấu mọi chuyện, nhận định rõ tình cảm của mình, sớm muộn gì cũng tới tìm thiếp. Thiếp đã đợi y hết ngày này sang tháng khác, đợi suốt ngày dài đêm thâu, đợi y tới tìm thiếp, nói với thiếp rằng, ‘Nặc Nại không thể cưới Vân Tang, nhưng ta đã đến đây, nàng có bằng lòng từ bỏ mọi thứ, mặc kệ điều tiếng, bỏ đi cùng ta chăng?’, thiếp sẽ nắm chặt lấy tay y, trả lời, ‘Cứ để người đời phỉ nhổ Nặc Nại và Vân Tang đi!’, rồi theo y tới chân trời góc bể. Thiếp đợi ngày lại ngày, đêm lại đêm, đợi đến nỗi đáy mắt và cõi lòng đều hoang hoải cỏ, nhưng chàng mãi không thấy tới!”

Vẻ mặt Nặc Nại đầy thê lương, y sợ hễ mở mắt lại trông thấy thi thể Băng Nguyệt, sợ đối diện với nước mắt Vân Tang, nên suốt ngày đêm chỉ chìm trong rượu, còn lo rượu chẳng đủ say người, bèn kiếm cả Ngọc Hồng thảo[4] tửu chuốc cho mình túy lúy. Mãi tới khi nghe tin Du Võng từ trần, y mới sực tỉnh.

[4] Ngọc Hồng thảo (cỏ Ngọc Hồng), trong Thi từ viết “Côn Luân có loài cỏ gọi là Ngọc Hồng, hễ ai ăn vào sẽ say khướt, ngủ luôn ba trăm năm mới tỉnh lại.”

Y siết chặt tay Vân Tang, “Vân Tang, ta đã đến rồi đây!”

Vân Tang thảm đạm rút tay lại, chăm chú nhìn pho tượng Du Võng, nước mắt từ khóe mi tràn ra, lăn xuống gò má, “Muộn mất rồi!”

Gương mặt buồn bã của Nặc Nại ánh lên vẻ kiên quyết, “Ta sẽ dựng một Ao Đột quán khác cho nàng, chỉ cần núi chưa mòn, sông chưa cạn thì chưa bao giờ muộn cả!”

“Giờ đây thiếp là Trưởng vương cơ của Thần Nông, là chỗ dựa của muôn dân trăm họ, thiếp không thể theo một tướng quân Cao Tân bội tín bạc nghĩa được.”

Nặc Nại khẩn thiết, “Vân Tang, nàng quên mình từng thề độc nếu còn can dự triều chính sẽ chết không toàn thây ư?”

Vân Tang mỉm cười nhìn Nặc Nại, mắt lệ nhòa mi, long lanh như trân châu dưới ánh sáng ảnh mộc lạnh lẽo, xói vào mắt Nặc Nại đau nhói, “Thiếp còn nhiều việc phải xử lý, Tướng quân về đi!”

Nặc Nại đăm đăm nhìn Vân Tang – người con gái mà mình vừa yêu vừa trọng, ánh mắt quyến luyến không nỡ rời, nhưng trong lòng lại rõ hơn ai hết, y chẳng thể nào có lại nàng được nữa, y đã đến muộn mất rồi!

“Vân Tang, nàng đừng…”

“Chàng cứ yên tâm, thiếp biết tự bảo trọng mà, trên Thần Nông sơn có cha mẹ và các em thiếp, dưới Thần Nông sơn còn có muôn dân của thiếp, thiếp nhất định sẽ bảo trọng.” Dứt lời, Vân Tang quay ngoắt đi, không nhìn Nặc Nại, chỉ chăm chú ngắm pho tượng Du Võng, cao giọng gọi, “Mộc Cận, muội đưa Tướng quân xuống núi đi!”

Mộc Cận bước vào xốc Nặc Nại dậy, vừa kéo vừa đẩy y ra khỏi cửa, hậm hực, “Tính tình vương cơ ra sao, Tướng quân ắt phải hiểu hơn ai hết, chỉ cần ngươi đưa tay ra, tỷ ấy sẽ vứt bỏ tất cả, theo ngươi tới chân trời góc bể. Nhưng tỷ ấy đợi suốt ngày dài đêm thâu, ngươi lại hèn nhát mượn rượu giải sầu, say sưa túy lúy, khiến tỷ ấy tan nát cả cõi lòng. Ngươi thật không xứng với Vân Tang tỷ tỷ! Giờ đây…” Mộc Cận rơm rớm nước mắt, “Nếu ngươi thật lòng quan tâm tới Vân Tang thì đừng quấy rầy tỷ ấy nữa!”

Nặc Nại loạng choạng leo xuống Thần Nông sơn, giữa đêm đen thăm thẳm, y chợt nghe văng vẳng tiếng đàn thê lương ai oán, là Vân Tang tấu khúc đàn dẫn đường cho Du Võng, hy vọng em trai bị chặt đầu có thể theo tiếng đàn mà yên nghỉ: hồn về, hồn về đây đi!

Nặc Nại ngẩn ngơ bay về phía Cao Tân, lòng thầm tự hỏi, chẳng rõ còn ai vì y mà tấu một khúc đàn, dẫn đường cho y tìm được nơi yên nghỉ hay chăng?

Về đến nhà, Nặc Nại bước vào phòng, trông thấy cây ngô đồng cầm mà mình làm cho Vân Tang đã phủi đầy bụi bặm.

Sớm sớm chiều chiều Vân Tang từng đàn cho y nghe chẳng biết bao lần, trong phòng tựa hồ còn văng vẳng giọng nói tiếng cười của nàng, ngoài hiên vẫn như thấp thóang dáng kiều hương tóc.

Nặc Nại khẽ vuốt ve dây đàn, cây đàn ngân lên tinh tang mấy tiếng, lạc lõng rơi vào thinh không.

Mấy kẻ hầu bưng vò rượu tiến vào, ngửi thấy hơi rượu, Nặc Nại tiện tay cầm lấy, nhưng vừa đưa lên miệng, y sực nhớ tới lời Vân Tang, liền quăng luôn ra ngoài cửa sổ, rồi mặc cho đám người hầu sợ hãi quỳ sụp cả xuống, y loạng choạng ném tất cả các vò rượu trong tay họ ra ngoài vỡ tan, “Đập hết các vò rượu trong phủ đi, đập hết!”

Đám người hầu lập cập dạ vâng, cuống quýt luồn ra cửa chạy thẳng, đúng lúc Thiếu Hạo bước vào phòng, thấy vò rượu vỡ ngổn ngang đầy đất, “Cuối cùng ngươi cũng tỉnh.”

Nặc Nại ngồi xuống, đầu cúi gục, “Nhưng muộn mất rồi.”

Thiếu Hạo ngồi đối diện với Nặc Nại, thấy ngón tay y không ngừng mân mê hàng chữ nhỏ khắc trên cây đàn – mây soi hồ Ao Tinh, dâu biếc non Đột Bích – hàng chữ ấy chẳng những có tên Vân Tang lồng vào mà còn ám chỉ tình cảnh lần đầu tiên họ gặp nhau, hơn nữa là mượn hình ảnh mày soi hồ, dâu biếc núi bày tỏ tình cảm của y đối với nàng.

Thiếu Hạo thở dài tiếc nuối, “Nặc Nại từng khiến ta ngả mũ khâm phục trước tài hoa phẩm mạo đâu rồi?”

Nặc Nại bất động, chỉ thuận miệng đáp, “Nặc Nại đã phụ lòng kỳ vọng của điện hạ.”

“Ngươi thông minh mẫn tuệ, có từng nghĩ vì sao Hoàng Đế giết được Du Võng như bỡn vậy không?”

Câu hỏi này rốt cuộc cũng lôi kéo được sự chú ý của Nặc Nại, y ngẩng mặt nhìn Thiếu Hạo, vừa ngẫm ngợi vừa đáp: “Hoàng Đế tự tay giết chết Du Võng có thể khích lệ sĩ khí Hiên Viên tăng vọt, đập tan ý chí chiến đấu của Thần Nông, nhưng nếu không nắm rõ nơi ở của Du Võng cùng lực lượng thị vệ quanh y thì không đáng đích thân mạo hiểm hành thích.”

“Hoàng Đế là người rất thận trọng, một khi đã hành động là phải thành công, e rằng cả việc Du Võng ngự giá thân chinh cũng nằm trong kế hoạch của ông ta, mục đích là để ám sát Du Võng.”

Nặc Nại dần đanh mặt lại, “Trong Thần Nông quốc có một tên nội gián địa vị rất cao!”

Thấy Thiếu Hạo gật đầu tán đồng, ánh mắt Nặc Nại chợt hoang mang lo lắng, chẳng rõ Vân Tang đã biết chưa?

“Nặc Nại, ta có một chuyện muốn nhờ ngươi, việc này chẳng những lợi cho Thần Nông, mà còn lợi cả cho Cao Tân nữa.”

“Thần ngu độn, không nghĩ ra việc gì vừa có lợi cho Thần Nông, lại vừa có lợi cho Cao Tân cả.”

“Ta cứ nghĩ Thần Nông quốc lực hùng hậu, Hiên Viên và Thần Nông ắt phải giao chiến khá lâu mới phân thắng bại, ta sẽ có nhiều thời gian cải cách chấn chỉnh Cao Tân. Dù Hiên Viên đánh bại Thần Nông, hẳn cũng hao binh tổn tướng, suy kiệt nguyên khí, tới lúc đó ta có thể ung dung đối phó với Hoàng Đế. Ngờ đâu Hoàng Đế trong ứng ngoài hợp, đưa ra diệu kế này, vừa cất tay đã phá tan đại quân Thần Nông. Nếu ông ta tiêu diệt Thần Nông xuôi chèo mát mái thì Cao Tân sẽ trở thành miếng mồi ngon kế tiếp, chẳng mấy chốc mà máu đổ thành sông, tiếng than dậy đất, mấy chuyện tranh chấp giữa ta và Yến Long, Trung Dung cùng Cao Tân tứ bộ không bằng ngón tay so với cuộc chiến này đâu.”

Ánh mắt Nặc Nại lộ vẻ kiên quyết, y nghiêm trang đáp, “Bệ hạ đâu phải như Du Võng, chúng tướng sĩ nhất định không để lại đại quân Hiên Viên tiến vào Cao Tân một bước!”

Nhận thấy nam tử trung dũng một lòng khi xưa đã trở về trong Nặc Nại, Thiếu Hạo tươi cười gật đầu, “Ta cần thời gian để củng cố ngai vàng, cải cách Cao Tân, huấn luyện quân đội!”

“Phải làm sao mới tranh thủ được thời gian?”

“Hoàng đế chinh phục Thần Nông chậm ngày nào, Cao Tân sẽ được an toàn thêm ngày đó.”

Nặc Nại dần hiểu ra, “Cao Tân là đông minh của Hiên Viên, không tiện công khai hỗ trợ Thần Nông, nhưng cứ âm thầm giúp đỡ, đại quân Thần Nông càng mạnh thì Hoàng Đế càng bị uy hiếp, Cao Tân chúng ta cũng càng được lợi.”

“Đúng! Đây chính là việc có lợi cho cả Thần Nông lẫn Cao Tân mà ta nói đó.”

Nặc Nại biết Thiếu Hạo rất thâm trầm, nói câu này ắt hẳn có dụng ý, y trầm ngâm nghĩ ngợi giây lát rồi quỳ xuống trước mặt Thiếu Hạo, “Thần nguyện làm tất cả mọi việc bệ hạ giao phó!”

Thiếu Hạo nói: “Đáng ra, ngươi xuất thân cao quý, không nên đảm đương việc này, nhưng những kẻ có dũng khí thì lại kém cơ biến, được cơ biến thì lại chẳng trung thành, đủ trung thành thì kém cỏi bất tài, nghĩ đi nghĩ lại chỉ có mình ngươi là phù hợp, có điều, như vậy ngươi phải hy sinh nhiều quá.”

Nặc Nại đáp, “Bệ hạ hiểu lòng thần đối với Vân Tang mà, nếu chẳng phải là tướng lĩnh Cao Tân, lại chịu ân sâu của bệ hạ, thần chỉ muốn đầu quân Thần Nông, lập tức ra chiến trường đẩy lùi Hiên Viên, bảo vệ Vân Tang thôi. Giờ đây khó khăn lắm mới tìm được cơ hội, vừa vẹn toàn tình được tình cảm của thần dành cho Vân Tang, lại vừa đáp đền được ơn nước, dù phải hy sinh thứ gì, thần cũng cam tâm tình nguyện.”

“Chuyện này chỉ có thể âm thầm tiến hành, trừ ta và ngươi, không kẻ nào được biết cả, dù ngươi trợ giúp Vân Tang, nàng ta cũng chẳng biết ngươi là Nặc Nại đâu.”

Nặc Nại cười thê lương, “Thần hiểu, nếu thần tiết lộ thân phận, chẳng những hại đến Vân Tang, mà còn hại cả Cao Tân nữa.”

“Dù phải hy sinh bất cứ thứ gì, ngươi cũng bằng lòng ư?”

“Chết cũng không hối!”

“Được lắm, việc đầu tiên ta muốn ngươi làm là cứ tiếp tục say sưa túy lúy tối ngày. Việc thứ hai…” Thiếu Hạo cầm cây đàn lên. “Ta muốn ngươi nhân lúc say khướt, đập nát cây đàn này dưới cổng thành Băng Nguyệt treo cổ tự sát, trước mặt mọi người.”

Nặc Nại bàng hoàng nhìn cây đàn, hối lâu không đáp.

Thiếu Hạo lạnh lùng hỏi, “Ngươi say đập đàn, cũng có nghĩa là cắt đứt sợi tơ tình cuối cùng giữa ngươi và Vân Tang, khiến nàng ta triệt để lãng quên ngươi, ngươi có chấp nhận hy sinh không?”

Nặc Nại ra sức dập đầu, “Thần chấp nhận.”

Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 09:02 PM
Chương 25

Nhớ chàng hận chàng, chàng có hay (1)

25.1


Nhiều khi, chính sự ủng hộ của người phụ nữ đã tiếp thêm sức mạnh cho người đàn ông, phụ nữ thường hay dựa giẫm vào đàn ộng, lẽ nào đàn ông không cần dựa vào phụ nữ ư?

[1] Trích trong bài Cây tương tư của Lương Khải Siêu (1873-1929) (ND)

Sau khi đại náo Triêu Vân điện, Đồng Ngư thị vừa đánh trống vừa la làng, tức tốc dâng thư lên Hoàng Đế lu loa rằng mình bị làm nhục, Hoàng Đế liền phái người đem thư của Đồng Ngư thị tới Triêu Vân điện.

Xương Ý đọc xong đến run rẩy toàn thân, nắm chặt phong thư định đến trước mặt phụ vương nói rõ trắng đen phải trái, nhưng A Hành kịp ngăn lại. Nàng mỉm cười cầm bút lên viết thư trả lời, cung kính bác bỏ từng “tội danh” một.

Được tin Luy Tổ bệnh nặng, Thiếu Hạo cho rằng trong trăm điều thiện, chữ hiếu đứng đầu, đồng ý để A Hành ở lại Triêu Vân điện chăm sóc mẹ. Thấm thoắt đã một năm, chẳng biết tự khi nào mọi việc trong nhà đều do A Hành làm chủ, từ bài trí Triêu Vân điện, lo liệu việc sinh hoạt ăn uống hằng ngày cho mẹ đến trả lời thư từ của Hoàng Đế, giải quyết công văn các nơi trình lên, nàng đều xử lý gọn gàng đâu ra đấy.

Nhìn A Hành ung dung tươi cười thu xếp mọi việc, Xương Ý vừa xót xa, vừa kính phục.

Thấy Xương Ý thừ người bên song hồi lâu, Xương Phó bèn lại gần, nhìn theo ánh mắt Xương Ý, nàng trông thấy A Hành đang cùng Luy Tổ tản bộ trong rừng dâu.

Xương phó vòng tay ôm lấy Xương Ý từ phía sau, áp mặt vào lưng y, dịu dàng hỏi: “Chàng nghĩ gì thế?”

Xương Ý không ngoảnh lại, chỉ áp tay lên tay Xương Phó, “Khi trước ta cứ nghĩ A Hành cũng như mình, giờ mới hiểu, thật ra con người muội ấy rất giống Đại ca.”

“Ừm, tiểu muội kiên cường hơn thiếp tưởng nhiều.” Thanh Dương bị Xi Vưu giết, Xi Vưu sống chết không rõ, nếu đổi lại là nàng, e rằng chỉ một biến cố đã đủ gục ngã rồi, vậy mà A Hành vẫn đứng vững vàng, còn có thể chăm lo cho người thân bên cạnh nữa.

Xương Ý hỏi nhỏ: “Ta là bậc đại ca vô dụng, phải không? Sớm biết thế này, thà ta cố gắng tu luyện cho giỏi, còn hơn tốn thời gian đọc sách vẽ tranh.”

Xương Phó đau xót ôm chặt lấy Xương Ý, “Đại ca và tiểu muội giống như lưỡi kiếm vậy, nhìn thì sắc bén lợi hại, nhưng rất dễ làm thương tổn bản thân mình, còn chàng lại chính là vỏ kiếm, bề ngoài giản dị thô sơ, nhưng có thể bảo vệ cho lưỡi kiếm yên tâm ngơi nghỉ. A Hành kiên cường được như vậy vì muội ấy biết, sau lưng mình luôn có Tứ ca.”

Đôi mày Xương Ý dần giãn ra, y lấy tay siết chặt tay Xương Phó. Tuy nỗi đau vẫn ngày đêm canh cánh bên lòng, nhưng y hiểu rằng, bất kể lúc nào, hễ y hoang mang yếu đuối, nàng sẽ dang tay ôm lấy y. Nhiều khi, chính sự ủng hộ của người phụ nữ đã tiếp thêm sức mạnh cho người đàn ông, phụ nữ thường hay dựa giẫm vào đàn ông, lẽ nào đàn ông không cần dựa vào phụ nữ ư?

Thấy mặt trời đã lên quá đỉnh đầu, Xương Phó cười nói: “Hôm nay nắng đẹp quá, chúng ta kê mấy chiếc bàn dưới gốc dâu dùng cơm luôn được không?”

“Được.”

Xếp đặt xong xuôi, Xương Phó hào hứng gọi, “Mẫu hậu, tiểu muội lại dùng cơm thôi.”

A Hành đỡ Luy Tổ tiến lại, nhưng vừa ngửi thấy mùi cơm, nàng bỗng thấy dạ quặn lên, choáng váng đầu óc, chỉ muốn nôn. Nàng ọe ọe nôn khan mấy tiếng, Luy Tổ phải đỡ lấy nàng. Sợ mẹ lo cho mình, nàng cười trấn an, “Con không sao, chắc tại hôm qua ăn nhiều, dạ dày biểu tình đó mà.”

Luy Tổ đổi nét mặt, đặt tay lên bụng A Hành cười hiền hậu, “Nha đầu ngốc, cứ khoe khoang giỏi y thuật, thế mà mang thai cả năm trời không biết.”

Xương Ý biến sắc, A Hành cũng tái mặt, may sao Luy Tổ đang mừng rỡ vô vàn nên chẳng kịp nhận ra vẻ khác thường của hai người, “Phải báo ngay cho Thiếu Hạo, nó mà biết chắc sẽ vui lắm đây!”

Xương Phó vội chen vào: “Mẫu hậu, người dùng cơm đi đã, ăn xong rồi tính chuyện báo cho Thiếu Hạo cũng chưa muộn mà, lỡ như Thiếu Hạo mừng quá đón muội muội về ngay, mẫu hậu lại chẳng quyến luyến không rời ấy chứ.”

A Hành lấy lại bình tĩnh nói: “Mẹ, con muốn chính miệng báo tin này cho Thiếu Hạo.”

Luy Tổ cười, “Cũng phải, mẹ mừng quá đâm hồ đồ mất rồi.”

Xong bữa, Xương Ý đưa mắt ra hiệu cho Xương Phó, nàng liền kiếm cớ đỡ Luy Tổ đi trước.

Còn lại hai người, Xương Ý hỏi: “Muội định thế nào? Đây là con của Xi Vưu đó!”

A Hành cúi đầu không đáp, chuyện này quá bất ngờ đối với nàng, vừa nãy mải lo đối phó với mẹ nên chưa có thời gian nghĩ ngợi cho kỹ. Một lúc lâu sau nàng tươi cười ngẩng lên, ánh mắt đầy vui sướng, “Tứ ca, huynh sắp làm bác rồi.”

Xương Ý ngây người. Dù y hận Xi Vưu tới đâu, đứa nhỏ này vẫn là con của A Hành.

“Phải, ta sắp làm bác rồi.” Xương Ý bật cười, lòng rộn những hân hoan, giờ đây y mới hiểu được niềm vui của mẫu hậu, trên thế gian này, chỉ có sinh mệnh mới xua tan được bóng tối của diệt vong mà thôi.

Tiếng cười của Xương Phó vang lên, “Chàng thích trẻ con như vậy, sau này chúng ta cũng sinh một bầy cho vui.” Nói rồi nàng ngồi xuống cạnh Xương Ý, hai tay chống cằm, nheo mắt nói: “Nếu có một bầy con nít xúm xít quanh mẫu hậu, luôn miệng líu lo bà ơi bà hỡi, chắc mẫu hậu phải cười tít mắt suốt ngày.” Nàng chợt vỗ tay đánh bốp, tuyên bố với Xương Ý, “Quyết định thế đi, hai ta mau sinh con thôi, sinh cả một bầy để khắp Triêu Vân phong đâu đâu cũng nghe thấy tiếng con nít nô đùa.”

Thầm nghĩ mình và Xi Vưu chắc chỉ có một đứa con này, A Hành thấy xót xa vô hạn, đành nén lòng cười góp chuyện: “Vậy thì hay quá, cả đám huynh đệ tỷ muội cùng lớn lên bên nhau, rất thú vị.”

Xương Phó gật lấy gật để, hào hứng như thể mình đã có cả đàn con vậy.

Xương Ý cười giễu: “Chỉ vớ vẩn! Trời cho Thần tộc trường sinh, nhưng lại hạn chế số lượng ngặt nghèo, người trong Thần tộc rất khó hoài thai, các cô tưởng thích là được đấy hả?”

Xương Phó cười tít, “Hai ta chưa nay chưa hề làm chuyện xấu, nhất định trời cao sẽ ban cho chúng ta con cái đầy đàn.”

Xương Ý nghiêm mặt bào A Hành: “Muội tìm cách lựa lời với Thiếu Hạo đi, nếu sinh con gái thì không sao, chứ lỡ là con trai, đứa nhỏ sẽ trở thành Đại vương tử Cao Tân đó, chuyện này không đùa được đâu.”

Xương Phó gật đầu, “Liên quan tới vương vị, e rằng Thiếu Hạo sẽ không nhận bừa con đâu. Nếu người ta biết đứa nhỏ này không phải huyết mạch vương thất, theo luật Cao Tân, nó sẽ bị dìm chết, còn muội sẽ bị tước phong hiệu, nhốt vào lãnh cung.”

Xương Ý tiếp lời: “Không được để ai biết đứa bé này là con của Xi Vưu, mấy trăm năm nay hắn đã gánh lấy đủ điều tiếng xấu để Du Võng hưởng tiếng thơm, khiến bao người căm hận rồi.”

Bỗng chốc cả ba đều trầm ngâm buồn bã. Một năm trước đây, Thần Nông vẫn còn là bá chủ Trung Nguyên, vậy mà bây giờ đã ở bên bờ vực diệt vọng, Du Võng lìa trần, Thanh Dương qua đời, Xi Vưu sống chết chưa rõ…

A Hành gượng cười, “Về đến Cao Tân, muội sẽ bàn bạc chuyện này với Thiếu Hạo, hai người đừng lo.”

Tuy chẳng nỡ xa mẹ và Tứ ca, nhưng lưu lại Triêu Vân phong quá lâu cũng không tiện, hơn nữa bây giờ A Hành đã có mang, buộc phải quay về Cao Tân. Đương lúc thu xếp định đi, Hoàng Đế đột ngột triệu tập nàng và Xương Ý.

A Hành đoán không ra Hoàng Đế nghĩ gì, lại biết rõ Tứ ca bản tính thật thà, bèn dặn dò Xương Ý, “Nếu phụ vương vặn vẹo chuyện gì đó khó trả lời, huynh nhớ đừng nói gì cả, cứ để muội đáp thay.”

Thượng Hiên cung nằm ở phía Bắc Hiên Viên thành, được xây dựng từ khi mới lập quốc, nhằm phô bày uy thế một quốc gia nên tuy cung điện không rộng rãi, nhưng cũng hao phí khá nhiều sức người sức của. Có lẽ vì danh hiệu Hoàng Đế nên Hoàng Đế rất yêu màu vàng, mái ngói hành lang đều dát vàng lóng lánh. A Hành và Xương Ý tới nơi đúng lúc hoàng hôn, cả cung điện lấp loáng như có hào quang bao phủ, huy hoàng lộng lẫy, trang nghiêm tráng lệ khiến người ta chấn động cả tâm thần.

Buổi nghị sự trong điện vừa tan, khắp nơi vẫn bày đầy chung trà đĩa quả, những ấm vàng chén bạc dưới ánh chiều tà như tỏa ra một quầng sáng mờ mờ ấm áp.

Hoàng Đế đang ngồi chễm chệ trên ngai vàng chạm rồng cao giữa điện, toàn thân chìm giữa tầng tầng hào quang, cao lớn mà uy nghiêm.

Xương Ý và A Hành quỳ xuống dập đầu khấu kiến, Hoàng Đế liền đứng lên bảo A Hành, “Con là vương phi Cao Tân, khỏi cần hành đại lễ với ta.”

A Hành thưa: “Ở Hiên Viên, con chỉ là con gái Người, không phải vương phi Cao Tân.”

Hoàng Đế cười hài lòng, gọi bọn họ lại cùng ngồi. Xương Ý và A Hành một trái một phải chia nhau ngồi xuống sạp kê ngay dưới chân ngai vàng.

Đợi cả hai yên vị, Hoàng Đế bèn hỏi thăm sức khỏe Luy Tổ, Xương Ý lễ phép trả lời. Đột nhiên, Hoàng Đế hỏi tới Thanh Dương, “Tình trạng Thanh Dương thế nào rồi?”

A Hành vội đáp: “Đại ca bị thương rất nặng, vẫn hôn mê bất tỉnh, nếu lúc đó không có Thiếu hạo, e rằng huynh ấy đã…”

Hoàng Đế thở dài phán: “Hôm nay ta gọi các con đến là muốn bàn bạc một chuyện. Hẳn hai đứa cũng nghe ngóng được tình hình chiến sự gần đây phải không?”

Xương Ý thưa: “Con thấy tin thắng trận báo về dồn dập mà.”

“Đó chỉ là bề ngoài thôi. Tuy Thần Nông quốc đã chia năm xẻ bảy, nhưng lòng dân vẫn hướng về cố quốc, dễ đâu chịu hàng phục chúng ta. Trừ một phần nhỏ quy hàng, đại bộ phận còn lại mới là mối uy hiếp lớn nhất. Hiện giờ chúng đang sợ vỡ mật, không dám chính diện đối kháng, nhưng hễ chúng ta sơ sảy, chúng sẽ kích động đám điêu dân đó nổi dậy chống lại, đến lúc đó một đám lửa nhỏ cũng thiêu trụi được cả cánh đồng. Bởi thế chúng ta phải thực thi sách lược trên nhiều mặt, tại chiến trường hễ kẻ nào ngoan cố chống cự lập tức thẳng tay trừng trị, nên giết thì giết, nên chém thì chém, mặt khác lại phải đối đãi tốt với dân chúng Thần Nông, để tất cả dân chúng Thần Nông hiểu rằng, chỉ có quốc hiệu thay đổi, còn bọn họ vẫn có thể an cư lạc nghiệp như xưa.”

A Hành tán thưởng: “Kiêm cả ân uy, phụ vương quả là anh minh.”

Hoàng Đế nói tiếp: “Về phần các nước chư hầu của Thần Nông, mọi hứa hẹn đều chỉ là lời nói suông, cách tốt nhất là chứng minh cho họ thấy Hiên Viên tộc và Thần Nông tộc có quan hệ khăng khít, cùng hưởng họa phúc.”

Xương Ý ngỡ ngàng hỏi: “Ý phụ vương muốn Hiên Viên và Thần Nông kết thông gia ư? Phụ vương định phái vị đệ đệ nào đi cầu hôn đây?”

Hoàng Đế ưu tư thở dài: “Không chỉ là kết thông gia bình thường đâu, cuộc hôn nhân này còn phải liên quan chặt chẽ đến vương vị nữa.”

Xương Ý và A Hành nhìn nhau, đồng thanh hỏi: “Sao lại thế?”

“Muốn giành được lãnh thổ, lấy lòng trăm họ Thần Nông, chúng ta phải thể hiện thành ý của mình. Vương tử cầu hôn nhất định phải là người thừa kế vương vị tương lai, bằng không dựa vào cái gì đòi Thần Nông quy thuận? Hơn nữa, tình thế hiện giờ buộc phải làm vậy thôi. Dân chúng Thần Nông chiếm gần một nửa dân số đại hoang, Thần Nông tộc còn là Thần tộc lớn nhất, lại cả những Thần tộc đã thông gia với Thần Nông suốt bao đời nay nữa, tất cả bọn họ đều dốc sức ủng hộ cho kẻ nào kết hôn cùng vương cơ của Thần Nông. Sau khi đầu hàng, dù là vì hổ thẹn hay vì muốn giữ mạng, họ nhất định sẽ tìm trăm phương ngàn cách giúp vị vương tử đó đăng cơ, chỉ có vậy, đứa trẻ mang dòng máu Thần Nông mới có thể thừa kế vương vị ngày sau, bảo vệ lợi ích của Thần Nông tộc mãi mãi.”

A Hành khẽ hỏi: “Phụ vương bằng lòng để một đứa trẻ mang huyết mạch Thần Nông kế thừa vương vị thật ư?”

Hoàng Đế gượng cười, “Ta không bằng lòng thì biết làm sao? Vũ lực chỉ là biện pháp trấn an tạm thời, dù ta có trở thành bạo chúa chăng nữa, cũng đâu giết hết được dân chúng Thần Nông? Có khi chưa giết hết được bọn họ, Hiên Viên đã mất nước rồi cũng nên. Nếu kết hợp huyết mạch hai nhà có thể giúp Hiên Viên thuận lợi nắm giữ thiên hạ, ta đành chấp nhận vậy! Đương nhiên, đây chỉ là kế quyển nghi trước mắt thôi, Thanh Dương đâu thể chỉ có một phi tử, nếu sau này Thần Nông không còn giá trị lợi dụng thì thiên hạ này chẳng có phần cho chúng nữa đâu!”

A Hành chợt thấy vừa nể vừa sợ phụ vương, tầm mắt của ông đã vượt xa thắng lợi hiện giờ, âm thầm suy tính cho cả ngàn năm sau rồi.

Hoàng Đế đưa mắt nhìn Xương Ý rồi lại nhìn sang A Hành, “Chính vì mối thông gia này liên quan mật thiết tới vương vị, các quan trong triều đã cãi nhau ỏm tỏi mấy ngày nay, một phe cho rằng cuộc chiến lần này Di Bành lập được công lớn, nên cử Di Bành đi cầu thân, một phe lại khăng khăng phái Thanh Dương đi mới biểu lộ được thành ý của Hiên Viên tộc. Chắc hẳn các con có thể cho ý kiến thay Thanh Dương, các con nói xem, ta nên chọn Thanh Dương hay Di Bành?”

Xương Ý chẳng biết phải trả lời sao, đành nhìn sang em gái. A Hành cúi đầu trầm ngâm giây lát rồi ngẩng lên nhìn Hoàng Đế, dõng dạc, “Xin phụ vương phái Đại ca đi cầu thân.”

Hoàng Đế hỏi: “Tại sao? Con đừng ca ngợi công trạng Thanh Dương nữa, hôm nay ta nghe chán cả tai rồi.”

Gương mặt A Hành đầy vẻ bi ai, nhưng giọng điệu lại vang vang rành rọt, ẩn hiện sát khí: “Nguyên nhân Thần Nông tộc muốn liên hôn cũng giống như chúng ta thôi, chỉ mình Đại ca mới có thể thực hiện điều đó, vấn đề ở đây không chỉ là thành công hay không, mà còn liên quan tới chuyện sống chết nữa, nếu phụ vương phái Di Bành đi cầu hôn, thì con xin thưa ngay, từ nay về sau, phụ vương chắc chắn sẽ mất sự phò tá của Thanh Dương, đồng thời mất luôn con và Tứ ca!”

Hoàng Đế đanh mặt lại, trừng trừng nhìn A Hành như chất vấn: Ngươi dám uy hiếp ta ư? A Hành cũng thản nhiên nhìn lại, ánh mắt bình tĩnh mà bi ai, mặc cho Xương Ý bên cạnh căng thẳng đến nghẹt cả thở.

Trong nháy mắt, Hoàng Đế chợt phá lên cười, gật gật đầu vẻ tán thưởng, “Giỏi lắm, không hổ danh là con gái ta! Các con nhớ lấy, Hiên Viên tộc chỉ có hai bàn tay trắng, muốn có thứ gì, phải tự mình giành giật mới được!”

Xương Ý và A Hành nhất loạt quỳ xuống, “Tạ phụ vương.”

Hoàng Đế lại hỏi: “Bao lâu nữa Thanh Dương mới khỏe lại được?”

A Hành thưa: “Nếu muốn khôi phục hoàn toàn linh lực, ít ra cũng phải một hai trăm năm, nhưng đây là kết hôn chứ đâu phải giao đấu, đợi thương thế ổn định, chắc Đại ca cũng có thể tạm thời xuất quan một thời gian.”

“Vậy được, Xương Ý thay Đại ca con tới Thần Nông cầu hôn đi, ngày thành thân sẽ bàn sau.”

A Hành vội hỏi: “Chẳng hay phụ vương định chọn cô gái nào trong Thần Nông tộc?”

“Con hỏi đúng lúc lắm, ta đang muốn nghe ý kiến của con đây. Du Võng không con không cái, Viêm Đế đời trước có ba cô con gái, một con gái nuôi, hai người đã mất, hiện giờ chỉ còn lại Vân Tang và Mộc Cận, đương nhiên Trưởng vương cơ Vân Tang xứng đáng đại diện cho Thần Nông hơn cả, có điều…”

“Phụ vương e ngại tỷ ấy từng có hôn ước với Nặc Nại ư?”

“Hiên Viên chúng ta đâu có lắm lễ tiết rườm rà như Cao Tân, đừng nói là hôn ước, dù Vân Tang đã gả chồng, chỉ cần nàng ta mang huyết mạch của Viêm Đế, chúng ta cũng vẫn lấy!”

“Vậy phụ vương còn ngại gì nữa chứ?”

“Ta ngại Vân Tang thôi, nàng ta đâu phải loại người dễ lung lạc, thật ra, ta ưng Mộc Cận hơn, nhưng Mộc Cận chỉ là con nuôi, không chính danh bằng Vân Tang, nên cứ cầu hôn với Vân Tang đi!”

A Hành lẩm bẩm, “Lỡ… lỡ như… Vân Tang không chịu thì sao?”

Hoàng Đế cười nhạt, “Trong quá khứ Thần Nông có hùng mạnh đến mấy thì hiện giờ cũng đã đại bại rồi, họ khiếp sợ cảnh phơi thây đầy nội, máu chảy thành sông, chả cuống quýt kết thông gia để đổi lấy hòa bình ấy chứ!”

A Hành chẳng dám nhiều lời, đành cung kính đáp: “Con hiểu rồi.”

Xương Ý và A Hành hành lễ thoái lui rồi cùng ngự xe mây về Hiên Viên sơn. Ngồi trong xe, Xương Ý hỏi nhỏ: “Làm vậy có ổn không? Chúng ta chưa kịp bàn bạc gì với Thiếu Hạo cả.”

“Nếu Đại ca không lấy thì Di Bành lấy, đứng trước lựa chọn sinh tử này, Thiếu Hạo còn lý trí quả quyết hơn chúng ta nhiều, nhất định y sẽ tán đồng thôi. Huống chi…” A Hành nắm lấy tay Xương Ý, nghiêm trang nói, “Thiếu Hạo chính là Thanh Dương, là Đại ca của chúng mình.”

Xương Ý gật gật đầu, “Ta nhớ mà.”

Về đến chân núi Hiên Viên, hai người vừa khéo gặp ngay Di Bành đang định lên núi. Luận về vai vế, Di Bành phải nhường đường cho Xương Ý, nhưng luận về phẩm tước, Xương Ý lại phải nhường đường cho Di Bành. Đám đánh xe bên nào cũng tranh đi trước, chẳng ai chịu ai, cãi nhau ầm ĩ cả lên.

Xương Ý thấy việc chẳng đáng gì bèn vén rèm xe, toan bảo thị vệ nhường đường nhưng A Hành đã giữ tay y lại, lắc đầu. Vấn đề ở đây không phải là khí thế, mà là thái độ, tuy chuyện này rất nhỏ nhặt, nhưng nếu nhường nhịn sẽ khiến chúng thị vệ nản lòng, họ chẳng nề phạm thượng bảo vệ chủ nhân, vậy mà chủ nhân lại không bảo vệ lấy uy phong của mình, thử hỏi ngày sau họ còn nhiều chuyện làm chi nữa?

Thấy thị vệ hai bên chuẩn bị động thủ, Di Bành nhảy xuống xe quát: “Các ngươi tưởng đây là đâu hả?” Hắn vừa nạt đám thị vệ, vừa bước lại chỗ bọn Xương Ý.

Xương Ý chẳng muốn trò chuyện với kẻ hại chết Đại ca nên chỉ đáp qua loa mấy câu rồi giả bộ ngắm cảnh, lờ hắn đi. Trái lại, A Hành vẫn cười nói vui vẻ với Di Bành, còn chúc mừng hắn được thăng làm Đại tướng quân.

Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 09:04 PM
Chương 25

Nhớ chàng hận chàng, chàng có hay (1)

25.2


Di Bành đưa mắt nhìn quanh, không thấy cung nữ thị vệ nào gần đó, bèn hạ giọng nói nhỏ: “Gần đây ta bắt được khá nhiều tù binh Thần Nông, để giữ mạng, lời gì chúng cũng phun ra hết, mong vương cơ thận trọng.”

“Chúng nói chuyện gì?”

“Chúng nói vương phi có tư tình với Xi Vưu! Chúng kể có đầu có đuôi, nghe như thật ấy, còn nói trước trận Phản Tuyền, Xi Vưu lén lút hẹn hò với vương phi, ta sợ phụ vương nổi giận nên chẳng dám tấu trình gì cả. Có điều, Cao Tân lễ tiết nghiêm ngặt, nếu có chuyện này chuyển đến Cao Tân, dù là lời đồn nhảm, cũng sẽ gây ra một trận xôn xao, trời long đất lở.”

Theo phản xạ, A Hành chợt đưa tay lên bụng, nhưng miệng vẫn nở nụ cười, “Lại còn có chuyện đó nữa ư? Xi Vưu đánh Đại ca trọng thương, muội hận hắn còn không hết nữa là.”

Di Bành cười, “Thần Nông và Hiên Viên đều đang lùng sục hắn khắp nơi, nhưng suốt cả năm nay vẫn bặt vô âm tín, có lẽ Xi Vưu bỏ mạng thật rồi, nói không chừng xương cốt cũng chẳng còn toàn vẹn, xem như vương phi đã trả được thù.”

A Hành thấy lòng đau thắt, dạ quặn lên, chưa kịp phản ứng, nàng đã ồng ộc nôn hết vào áo Di Bành.

Di Bành cuống quýt lùi ra xa, đám cung nữ theo hầu cũng tái mặt, kẻ bưng nước, người cầm khăn, vội vã xúm lại.

Di Bành chỉ ghê tởm cau mày, mặc đám cung nhân rối rít vậy quanh.

Thấy A Hành vẫn nhoài ra song cửa, không ngừng nôn khan, Xương Ý bèn lấy ô mai đã chuẩn bị sẵn đưa cho nàng ngậm để khỏi cồn ruột.

Nôn hết một chập, A Hành xây xẩm mặt mày, nói chẳng ra hơi.

Thấy vậy, Di Bành bèn bảo Xương Ý: “Vương phi đang khó ở, Tứ ca đi trước đi.”

Đợi đoàn xe Xương Ý đi xa, Di Bành mới tiếp tục lên đường. Hắn cứ thấy trong lòng lấn cấn, như thể mình đã bỏ sót chuyện gì đó rất quan trọng, nhưng rốt cuộc là chuyện gì thì nghĩ mãi không ra.

Vừa về tới Chỉ Nguyệt điện, một cánh Lam Thước liền đậu ngay lên vai Di Bành, thả thẻ ngọc vào tay hắn, Di Bành mỉm cười, vội lật lên đọc.

Hoàng Đế đã quyết định chọn Thanh Dương để kết nhân duyên với Thần Nông tộc!

Di Bành chợt tắt hẳn nụ cười, bóp thẻ ngọc nát vụn ra như cám, Lam Thước cũng phát hoảng vì sát khí của hắn, ré lên một tiếng rồi bay vụt vào rừng.

Đồng Ngư thị ngồi thẫn thờ giữa ngôi đình bát giác trên đỉnh núi, nét mặt nhợt nhạt chẳng chút sinh khí, hệt như một pho tượng có máu có thịt. Từ sau khi Hiên Viên Huy chết đi, bà ta cứ tỉnh táo được vài ngày lại ngây dại mất mấy hôm, lúc tỉnh táo thì chăm chăm tìm cách hãm hại Luy Tổ, khi ngây dại lại đờ đẫn lên đỉnh núi ngồi đợi Hiên Viên Huy trở về, khuyên nhủ sao cũng vô ích.

Thấy Di Bánh tới tìm Đồng Ngư thị, vú già liền bước ra hành lễ rồi bẩm báo: “Có một thị nữ khi xưa từng hầu hạ nương nương tới xin gặp. Vì có tư tình, theo luật ả phải bị đánh roi đến chết, nhưng nương nương khai ân, chẳng những không trách phạt mà còn sắp xếp để ả có thể suôn sẻ gả chồng. Gần đây, ả theo chồng quay về Hiên Viên thành, nghe nói nương nương khó ở, nhớ lại Người vẫn thích mấy món dưa ả muối, nên kiếm cách dâng lên. Nô tỳ nhận lấy rau dưa, bảo ả về nhưng ả vẫn ghi lòng tạc dạ ơn nương nương năm đó, muốn gặp mặt nương nương để đập đầu bái tạ, đã chờ nửa ngày nay rồi.”

Di Bành ôn hòa hạ lệnh, “Hiếm được người có lòng như thế, triệu ả vào gặp nương nương đi.”

Di Bành tế nhị tránh sang một bên, chẳng bao lâu, một phụ nữ bụng chửa vượt mặt bưng một liễn dưa bước vào, thoạt trông thấy Đồng Ngư thị, ả liền quỳ sụp xuống, nhưng Đồng Ngư thị chẳng hề nhận ra, chỉ trân trân dán mắt vào bụng ả.

Nhìn vẻ đờ đẫn của Đồng Ngư thị, ả hết sức đau lòng, nhưng biết cung đình quy củ nghiêm ngặt nên chẳng dám hé răng nửa lời, chỉ trao liễn dưa cho thị nữ rồi dập đầu lui ra.

Nào ngờ ở vừa đứng lên, Đồng Ngư thị đột ngột cất tiếng: “Ngươi nghén lắm hả?” Chẳng đợi ả trả lời, bà ta lẩm bẩm nói tiếp: “Hồi đó ta nghén rất khủng khiếp, hơi tí là nôn ọe. Nhà họ Đỗ ngoài thành Bắc bán ô mai ngon lắm, ngậm một quả là đỡ ngay, ngươi cũng mua chút ít đi. Nhớ lấy, dù nôn cũng gắng ăn uống, không được bỏ cơm, đừng để con nó đói.”

Người đàn bà kia ngẩn ra, gật đầu, vú già bên cạnh liền giơ tay ra hiệu cho ả mau lui.

Di Bành đứng xa xa lắng tai nghe ngóng, chợt sững người, đoạn phá lên cười khoái trá. A Hành có thai rồi ư? Đứa nhỏ này chắc chẳng phải của Thiếu Hạo, xem chừng cơ hội đẩy cả nhà Luy Tổ lên đoạn đầu đài sắp đến rồi đây!

Hắn liền quay sang dặn kẻ hầu: “Đưa người đàn bà đó ra khỏi cung, nhớ ban thưởng hậu hĩnh vào.”

Nói rồi hắn cười đắc ý, cầm lấy áo choàng từ tay thị nữ, rảo bước tiến vào đình, khoác áo lên vai Đồng Ngư thị, “Mẹ, chúng ta vào nhà đi.”

“Sao Huy nhi mãi vẫn chưa về? Sao lâu nay ta chẳng được gặp nó gì cả.”

“Huynh ấy bận theo phụ vương xử lý công vụ, mấy ngày nay chưa về được đâu, chẳng phải mẹ vẫn dạy chúng con phải ra sức nỗ lực đó ư? Tam ca có mẫn cán mới được lòng phụ vương chứ!”

“Đúng đúng, các con phải gắng lên, nhất định không được để con trai của ả tiện nhân trên Triêu Vân phong kia qua mặt.” Đồng Ngư thị cười hài lòng.

Di Bành vừa khép áo choàng lại cho mẹ, vừa tươi cười nói nhỏ: “Vừa nãy, mẹ đã chỉ cho con một con đường rồi, bọn chúng không đắc ý được lâu nữa đâu.”

A Hành và Xương Phó theo Luy Tổ đi dạo trong rừng dâu, chợt thấy Chu Du chốc chốc lại đảo qua, hỏi có chuyện gì ả nhất mực không nói, chỉ lắc đầu quầy quậy: “Không có gì, không có gì cả.”

Lời vừa ra khỏi miệng chẳng bao lâu, chợt thấy bóng áo vàng của ả thấp thoáng giữa rừng cây, Luy Tổ không khỏi phì cười, quay sang bảo A Hành: “Ta thấy con nha đầu đó cứ len lén liếc con, chắc có chuyện gì muốn nói, con qua xem xem!”

A Hành cười vâng dạ, chạy tới bên Chu Du: “Ngươi tìm ta có chuyện gì thế?”

Chu Du đảo mắt nhìn quanh, thấy không có ai mới lên tiếng: “Đại điện hạ có những thuộc hạ chuyên phụ trách nghe ngóng tin tức, vương cơ có biết không?”

“Đại ca chẳng nói gì với ta cả, nhưng khỏi nói cũng biết, đương nhiên là có rồi.”

“Trước khi xuất chinh lần này, điện hạ dặn dò nô tỳ khi ngài vắng mặt, nếu có sự gì, nô tỳ phải báo cáo vương cơ.”

A Hành nghe lòng đau thắt lại, lặng thinh giây lát rồi hỏi: “Có chuyện gì khác thường ư?”

Chu Du gật đầu, “Lạ lắm, Di Bành vẫn không ngừng phái người đi điều tra chuyện của vương cơ và Xi Vưu, còn bỏ rất nhiều tiền mời một vị vu sư tinh thông y thuật từ Thần Nông tới, nghe nói người này rất giỏi chuẩn đoán thai phụ.”

A Hành tái mét mặt, mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa.

Chu Du mau miệng hỏi ngay: “Vương cơ làm sao thế?”

A Hành ráng định thần lại, căn dặn Chu Du: “Chuyện này nhất định không được cho ai biết đâu đấy.”

“Nô tỳ rõ rồi.”

A Hành trầm ngâm nghĩ ngợi, xem tình hình này, chắc hẳn Di Bành đã nghi ngờ nàng có mang với Xi Vưu, nhưng hắn định lợi dụng chuyện này thế nào để hãm hại cả nhà nàng, mới là vấn đề đáng lo ngại.

“Chu Du, người giúp ta tìm mấy vị thảo dược được không?”

Chu Du cười đáp: “Chuyện khác nô tỳ không biết, chứ tìm thảo dược thì dễ như trở bàn tay, dù vương cơ muốn kỳ hoa dị thảo nào, nô tỳ cũng tìm được hết.”

A Hành liền ghé tai Chu Du kể tên mấy vị thảo dược cần tìm, càng nghe, vẻ mặt ả càng kinh ngạc, nhưng từ lâu đi theo Thanh Dương, ả sớm đã tập được thói quen nói ít làm nhiều, chỉ yên lặng vâng lời.

Căn dặn Chu Du xong, A Hành sai A Tệ và Liệt Dương cùng ả đi tìm thảo dược.

Đợi bọn họ đi khuất, vẻ trấn tĩnh trên mặt A Hành cũng hoàn toàn tiêu tan, chỉ còn lại sầu thương vô hạn.

Nàng thẫn thờ rút Trụ Nhan hoa trên tóc xuống, hoa vẫn tươi thắm như xưa mà người tặng hoa giờ nơi đâu?

Suốt một năm trời, Thần Nông, Hiên Viên và Cao Tân đều sai người ráo riết lùng sục khắp nơi, nhưng Xi Vưu vẫn bóng chim tăm cá. Người người đều cho rằng hắn đã chết, kể cả Thiếu Hạo cũng vậy, chỉ mình nàng một mực không tin, dù tất cả mọi nơi có thể tìm, Liệt Dương và A Tệ đã tìm hết, mà Xi Vưu vẫn biệt tăm.

Có lẽ nàng khăng khăng giữ lấy chấp niệm ấy, vì chẳng dám nhìn thẳng vào sự thật đó thôi.

Nàng giơ Trụ Nhan hoa lên khẽ hỏi: “Chàng đang ở đâu? Chúng ta sắp có con rồi đó, chàng có vui không? Ta lo cho chàng lắm.”

Cánh hoa run run trước gió, lặng câm.

Hai hàng nước mắt lăn dài trên má A Hành, nhỏ xuống Trụ Nhan hoa, nhuộm thêm sắc thắm cho đóa hoa kiều diễm.

Hoàng Đế chính thức công bố với triều thần, cử Xương Ý tới Thần Nông tộc thay Thanh Dương cầu hôn.

Xương Ý tưởng Di Bành sẽ phản đối kịch liệt, nào ngờ hắn lại tích cực phối hợp, cùng bàn bạc hoạch định việc cầu hôn, còn chủ động đứng ra xin đi cùng hỗ trợ Xương Ý.

Hoàng Đế xét thấy tình hình hiện giờ rất phức tạp, Xương Ý lại không giỏi ứng biến, phải phái thêm người cơ trí quyền mưu theo hỗ trợ là đương nhiên, nhưng Di Bành thì không ổn, thành ý của hắn chẳng đáng tin chút nào.

Đương lúc phân vân do dự, Di Bành lại tâu: “phụ vương, nhi thần thấy hay nhất là cử tiểu muội đi cùng, muội ấy thân phận cao quý, Thần Nông tộc lại coi trọng địa vị xuất thân, ắt trọng vọng muội ấy hơn bọn con nhiều, như vậy càng tỏ rõ thành ý.”

Hoàng Đế nghĩ bụng, A Hành quả là lựa chọn hay, tuy là vương cơ của HiênViên tộc, nhưng cũng là vương phi Cao Tân, thân phận trung lập, những chuyện Hiên Viên không tiện làm đã có A Hành ra mặt, hơn nữa A Hành đi cùng, ắt Di Bành chẳng dám giở trò.

Xương Ý lập tức phản đối: “Tiểu muội nán lại Triêu Vân phong là để chăm sóc mẫu hậu, mấy hôm nay muội ấy đã thu dọn hành trang, ngày một ngày hai sẽ quay về Cao Tân, sao theo nhi thần đến Thần Nông được.” Thấy Hoàng Đế tỏ vẻ không đồng tình, Xương Ý chẳng kịp suy nghĩ, vội bồi thêm: “Dạo này tiểu muội hơi khó ở, không tiện bôn ba vất vả.”

Di Bành khẩn trương đến nỗi suýt nữa thì giậm chân, cao giọng nói ngay: “Tiểu muội không được khỏe ư? Sao không mời thầy thuốc? Nếu tin này truyền đến Cao Tân, người ta chẳng chê Tứ ca bỏ mặc tiểu muội, mà sẽ cười Hiên Viên chúng ta thất lễ cho coi. Phụ vương, xin người gọi thầy thuốc tới chẩn bệnh cho tiểu muội đi!”

Hoàng Đế gật đầu khen phải, vừa định hạ chỉ, đột nhiên từ ngoài cung điện vang lên tiếng A Hành: “Đa tạ Cửu ca quan tâm, có điều chẳng cần phiền tới thầy thuốc, mấy hôm trước muội hơi khó ở, nhưng hôm nay đã khá rồi.” A Hành thong dong bước vào, hành lễ với Hoàng Đế, “Phụ vương, để nhi thần theo Tứ ca đến Thần Nông, con có chút giao tình với Vân Tang, nếu xảy ra chuyện gì cũng dễ bàn bạc hơn.”

Hoàng Đế chuẩn y lời nàng, lệnh cho ba người mau mau thu xếp hành trang, gấp rút lên đường.

Trước khi ba người lui ra, Hoàng Đế còn lườm Di Bành, cảnh cáo: “Chuyện này liên quan đến vận mệnh Hiên Viên, mọi việc đều phải nghe theo sắp xếp của ta, chỉ được thành công, không được phép thất bại, nếu có gì sơ sảy, ta sẽ trị tội cả con và Xương Ý đấy.”

Di Bành cao giọng vâng dạ.

Về tới Triêu Vân phong, Xương Ý quay sang trách A Hành: “Muội biết mình đang mang thai, sao còn đòi đi Thần Nông?”

Dù cho Xương Ý biết Di Bành phát hiện ra việc nàng có thai, đang lăm le thăm dò từng bước thì cũng chẳng giúp ích được gì, ngược lại chỉ chuốc thêm lo lắng cho Tứ ca nên A Hành giấu tiệt chuyện đó, “Muội đang mang thai chứ đâu có sinh bệnh. Chuyện này nhìn bề ngoài là thông gia, nhưng thực ra là tranh giành vương vị, Di Bành đời nào chịu giúp đỡ chúng ta, chi bằng muội đi cùng huynh, có gì cũng tiện chăm sóc lẫn nhau.”

“Ta hiểu, tiếc rằng ta chẳng được giỏi giang như Đại ca, khiến muội phải nhọc lòng lo lắng.”

A Hành nũng nịu ngả đầu vào vai anh trai, “Tứ ca ngốc ạ, huynh là chỗ dựa tinh thần của muội kia mà.”

Xương Ý khẽ mỉm cười, vòng tay ôm lấy em gái, tựa đầu vào đầu nàng.

Sáng hôm sau, Xương Ý, A Hành và Di Bành cùng khởi hành đi Thần Nông sơn. Đồng thời, Hiên Viên Hưu và Ứng Long phụng mệnh Hoàng Đế, dẫn đại quân Hiên Viên tiếp tục tiến về phía Đông.

Sau khi Du Võng từ trần, các chư hầu vốn ngỡ rằng mình có thể tự lập làm vương lại phải đối mặt với Hoàng Đế đánh đâu thắng đó, đâm ra khiếp sợ, thấy những kẻ đầu hàng Hiên Viên đều được hậu đãi, thì khó tránh xiêu lòng muốn quy hàng. Dẫu sao trước sự uy hiếp của tử vong, cũng chẳng mấy ai đủ can đảm xem nhẹ mạng sống, coi chết như về cội.

Nghĩ sao làm vậy, mấy vị quốc chủ đức cao vọng trọng liền liên hệ với nhau, tập hợp các nước chư hầu về Thần Nông sơn, cùng bàn bạc phương cách đối phó với Hiên Viên tộc, đưa ra ý kiến nên chiến đấu hay nghị hòa.

Cộng công đã thuyết phục các chư hầu đến bã cả bọt mép rằng Thần Nông hiện giờ chia năm xẻ bảy, thân ai nấy giữ nên mới núng thế trước Hiên Viên, chỉ cần mọi người đoàn kết một lòng, rất có khả năng sẽ đánh bại được quân thù.

Ai nấy đồng loạt gật gù, tán thưởng Cộng Công phân tích rất có lý.

Cộng Công mừng rỡ đề nghị các chư hầu họp nhau lại cử ra một vị lãnh tụ rồi chích máu ăn thề, nguyện nghe theo lệnh của người đó, có vậy mới đẩy lùi được Hoàng Đế.

Nghe vậy, chư hầu các nước đều nín lặng làm thing, thậm chí có kẻ còn buông lời châm chọc Cộng Công, “Ra rả suốt nửa ngày đòi toàn tâm toàn ý vì Thần Nông, hóa ra là ngài muốn xưng vương.” Một người vừa lên tiếng, lập tức cả đám hùa theo phụ họa, lôi cả lời nhận xét của Viêm Đế đời trước về Cộng Công “chỉ là tướng mạnh, chẳng phải soái tài” ra dẫn chứng, chỉ sợ có kẻ tiến cử Cộng Công.

Cộng Công vốn mạnh mẽ ngang tàng, vậy mà nghe chúng nói cũng uất trào máu mắt, cuối cùng, hắn cũng hiểu vì sao Chúc Dung không tới tham gia hội nghị hôm nay, xem ra y đã biết tỏng bụng dạ đám người này từ lâu.

Càng nghe càng thấy rát tai, Cộng Công phẫn uất lập ngay lời thề trước mặt mọi người: “Nếu Cộng Công ta có ý xưng vương đoạt quyền, sẽ bị sét đánh tan xác, không được chết yên lành! Xin các bậc liệt tổ liệt tông của Thần Nông làm chứng, thần Cộng Công đã dốc hết sức mình, nếu một mai nước mất nhà tan, Cộng Công này chỉ còn cách lấy thân báo quốc mà thôi!” Nói rồi hắn giận dữ giũ áo đi thẳng.

Bàng hoàng trước khí thế của Cộng Công, các chư hầu cũng lặng phắc hồi lâu, mãi sau mới có người lên tiếng: “Đại quân Hiên Viên sắp kéo đến Thần Nông sơn rồi, chúng ta phải mau chóng bàn bạc tìm cách đối phó đi chứ!”

Tức thời mọi người lại rào lên tranh luận âm ĩ, nhưng ai nấy chỉ biết chăm chăm lo cho an nguy lợi ích của riêng mình, rất sợ bị kẻ khác chiếm phần hơn, để thiệt cho mình, bàn cãi chán chê chẳng đâu vào đâu cả.

Vân tang lặng thinh ngồi nghe bọn họ cãi cọ, đồng thời quan sát thật kỹ vẻ mặt từng người, trong khi Mộc Cận ngồi bên đã giận xanh mặt, mấy lần định xông ra mắng mỏ, đều bị Vân Tang ngăn lại. Hậu Thổ đanh mặt đứng cạnh hai người, trông như thể hộ vệ.

Đột nhiên, một cung nhân cuống quýt chạy vào bẩm báo: “Đại quân Hiên Viên chỉ còn cách Trạch Châu thành sáu mươi dặm nữa thôi!”

Trạch Châu là hàng phòng ngự cuối cùng của Chỉ Ấp, nếu Trạch Châu bị phá, Hiên Viên có thể đánh thẳng vào Chỉ Ấp, cũng có nghĩa là Thần Nông sẽ bị xóa tên trên bản đồ đại hoang.

Kẻ tiểu nhân đê tiện đến đâu cũng khó tránh đau lòng vì mất nước, não ruột mà thương thân, tất cả chư hầu lập tức im phăng phắc.

Giữa bầu không khí trầm lặng đầy đau thương và hoảng loạn, thị vệ bỗng chốc vào thông báo có Hiên Viên Xương Ý cầu kiến.

Cả hội nghị đưa mắt nhìn nhau, vẻ căng thẳng và sợ hãi hằn lên gương mặt, ai nấy đều lúng túng như gà mắc tóc, chẳng biết phải làm sao, đúng lúc này, Vân Tang ung dung hạ lệnh: “Mời vào!”

Xương Ý đi trước, Di Bành và A Hành nối gót tiến vào. Trong các vương tử Hiên Viên, Xương Ý có phong độ xuất chúng hơn cả, y nói năng khiêm tốn, cử chỉ hòa nhã, không hề có vẻ ngạo nghễ của kẻ thắng cuộc, lại am hiểu lễ tiết Thần Nông nên chẳng mấy chốc đã chiếm được thiện cảm của mọi người ở đó.

Hậu Thổ dò hỏi: “Vương tử lặn lội đường xa, hẳn không chỉ tới để hàn huyên, chẳng hay ngài đến có chuyện gì vậy?”

Xương Ý đưa mắt nhìn khắp lượt chư hầu xung quanh, thong thả đáp: “Ta phụng mệnh phụ vương, thay Đại ca Hiên Viên Thanh Dương tới cầu hôn cùng Thần Nông tộc, phụ vương ta nói, một giọt máu đào hơn ao nước lã, chỉ có gắn kết bằng huyết mạch mới hóa giải được chiến sự, giúp thiên hạ thái bình.”

Xương Ý vừa dứt lời, các lộ chư hầu lập tức chụm đầu ghé tai lại bàn bạc, cả đại điện toàn tiếng xì xầm to nhỏ. Những kẻ đã ngả về phe Hoàng Đế liền chớp thời cơ thể hiện, ra vẻ thấu hiểu đại nghĩa, phân tích thiệt hơn, nào là Thanh Dương tương lai đăng cơ Hoàng Đế, nếu phong một nữ tử Thần Nông làm vương hậu, cũng có nghĩa là về sau một vị vương tử mang huyết mạch Thần Nông sẽ trở thành bá chủ thiên hạ này. Giữa tiếng thì thào bàn bạc, vài kẻ đã xiêu xiêu nhưng vẫn e ngại đầu hàng, sợ có lỗi với liệt tổ liệt tông Thần Nông tộc cũng bắt đầu vắt óc tìm một lý do đàng hoàng để bao biện chi hành vi của mình.

Xương Ý tươi cười đợi mọi người bàn bạc chán chê, mới lên tiếng hỏi: “Không biết ý các vị thế nào?”

Quốc vương Quân Tử quốc lớn tuổi nhất ướm hỏi: “Chẳng rõ Thanh Dương điện hạ định cầu hôn vị cô nương nào?”


Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 09:06 PM
Chương 25

Nhớ chàng hận chàng, chàng có hay (1)

25.3


Thoạt nghe thấy câu này, tất cả các chư hầu mới rồi còn chụm đầu kề tai thảo luận, lập tức nghĩ ngay đến lợi ích cá nhân, vội vã tách hẳn ra, giữ khoảng cách, cảnh giác nhìn nhau.

Xương Ý đáp: “Phụ vương ta nói, Thanh Dương là Đại vương tử của Hiên Viên, nổi danh thiên hạ, chính phi của huynh ấy đương nhiên cũng phải có thân phận tôn quý, tài đức vẹn toàn, bởi vậy ta thay mặt huynh trưởng, xin được cầu hôn với Trưởng vương cơ.”

Ánh mắt mọi người liền đổ dồn về phía Vân Tang, lần đầu tiên họ nhất loạt đồng ý nhìn nhau, không ai phản đối cả, nào ngở Hậu Thổ đột ngột đứng phắt dậy, cao giọng: “Nhất định không được!”

Cả đại điện tức thì rào lên như ong vỡ tổ, tranh cãi náo loạn.

Hậu Thổ đưa mắt khinh miệt nhìn khắp lượt chư hầu, lắc đầu cười nhạt, “Đúng là một đám ô hợp thiển cận!” Đoạn gã quay sang Vân Tang và Mộc Cận: “Để thần hộ tống hai vị vương cơ về Tiểu Nguyệt đỉnh.” Mộc Cận lập tức đỡ lấy Vân Tang bước ra ngoài.

Thấy bọn người kia định ngăn hai nàng lại, Hậu Thổ chậm rãi giơ tay lên, một luồng xoáy cát dữ dội như mãnh thú thét gào đòi mạng cuồn cuộn giữa lòng bàn tay, gả lạnh băng cất tiếng: “Các người muốn cản đường ta?”

Hậu Thổ dáng vẻ văn nhã, dung mạo tuấn tú, xưa nay vẫn bị người ta cười cợt chế nhạo, nhưng mấy trăm năm trước, gã suýt nữa đã lấy mạng Chúc Dung, từ đó trở đi, mọi người mới giật mình nhận ra đằng sau vẻ ngoài thanh mảnh yếu ớt ấy là một kẻ tàn nhẫn hiểm độc hơn rắn rết.

Gã lừ mắt nhìn khắp đại điện, lập tức các chư hầu oai trấn một phương đều nín thin thít, sợ sệt lùi lại nhường đường.

Hậu Thổ hộ tống Vân Tang và Mộc Cận băng qua đám đông bước ra khỏi điện.

Bấy giờ, mọi người trong đại điện mới lấm lét nhìn nhau, bọn họ tính toán đủ đường, lường trước mọi chuyện, nào ngờ Vân Tang lại không đồng ý.

Hồi lâu, quốc vương Chu Nhiêu quốc đành lựa lời: “Vương tử lặn lội đường xa, mời đi nghỉ ngơi cho khỏe, chuyện này quá đỗi bất ngờ nên vương cơ thẹn thùng đó thôi, chúng tôi nhất định sẽ thuyết phục Trưởng vương cơ.”

Xương Ý thầm thở dài trong dạ, dẫn Di Bành và A Hành rời khỏi đó.

Vì là khách nên họ được sắp xếp ngụ tại một đỉnh núi ngoài rìa Thần Nông sơn chứ không được vào trung tâm.

Giữa đêm khuya, A Hành một thân một mình leo lên chóp núi, trông vời Tiểu Nguyệt đỉnh thấp thoáng đằng xa, A Tệ nằm rạp bên cạnh nàng, cũng ngơ ngẩn trông về Tiểu Nguyệt đỉnh. Liệt Dương bản tính lạnh lùng, thấy hai kẻ kia cứ ngây ra, thật là vô vị, bèn biến trở lại nguyên hình, chiếm lấy tổ của hai con quạ, đuổi hết chúng đi rồi ngủ khò.

Một lúc sau, Vân Tang cưỡi Cửu Sắc lộc từ rừng sâu chạy đến, thấy Liệt Dương đang ngủ khò, còn A Tệ hiền hòa nằm dài dưới đất. Giác quan của muôn thú hết sức nhạy bén, Cửu Sắc lộc đánh hơi thấy A Tệ có hơi hướm khác thường, cứ sợ hãi quanh quẩn mãi, không dám tiến lại gần A Hành.

A Hành nhận ra ngay, liền hạ giọng bảo A Tệ: “Mày ra chỗ khác chơi đi.” Dứt lời, nàng chẳng buồn quay lại, vung tay ném vèo một viên sỏi vào cái tổ quạ lủng lẳng trên cành, phá tan giấc ngủ của Liệt Dương, nó trừng mắt lườm nàng rồi hậm hực bay vút khỏi tổ.

Bấy giờ Cửu Sắc lộc mới dám tiến lại. Vân Tang từ trên mình nó nhảy xuống, nghi hoặc nói, “Lạ thật, trước đây tọa kỵ của ta đâu có sợ A Tệ, sao giờ lại sợ đến nỗi không dám lại gần thế nhỉ?”

A Hành chẳng buồn giấu giếm Vân Tang, lập tức đi thẳng vào vấn đề, “Tỷ tỷ có tin gì về Xi Vưu không?”

Vân Tang buồn bã lắc đầu, ngồi xuống cạnh A Hành, “Mộc Cận đã phái người tìm khắp đại hoang suốt một năm nay mà hắn vẫn biệt tăm. Ta cũng không tin rằng hắn đã chết, nhưng với tính tình của hắn, chỉ cần còn một hơi thở, nhất định sẽ không khoanh tay ngồi nhìn Thần Nông ra nông nỗi này đâu.”

A Hành đau xót đặt tay lên bụng, nước mắt giàn giụa, ngước nhìn Tiểu Nguyệt đỉnh ẩn hiện giữa mây mù.

Chính tại nơi đó, nàng đã mở lòng thừa nhận tình cảm với Xi Vưu, cùng hắn hẹn thề hàng năm gặp gỡ dưới cội anh đào. Lại sắp đến một mùa hoa đào nở, lẽ nào năm nay chàng định thất hẹn nữa sao? Chàng từng thề với ta sẽ không có lần thứ ba kia mà!

Vân Tang khẽ an ủi: “Muội muốn khóc thì cứ khóc đi, có ta ở đây!”

A Hành lắc đầu: “Xi Vưu không chết đâu mà! Hắn đã hứa với muội, tính mạng hắn chỉ thuộc về một mình muội mà thôi!”

Việc đến nước này mà A Hành vẫn giữ vững lòng tin, chẳng hề nao núng, không khỏi khiến Vân Tang cảm phục. A Hành gắng lấy lại tinh thần, hỏi sang chuyện khác: “Phụ vương muội đề nghĩ kết thông gia, tỷ thấy thế nào? Nếu tỷ không bằng lòng, chúng ta có thể tìm cách tháo gỡ.”

Vân Tang mở miệng toan nói, nhưng bây giờ đã chẳng còn như lúc trước, tuy mọi chuyện không liên hoan tới A Hành, nhưng dù sao nàng cũng là vương cơ Hiên Viên, giữa bọn họ là trùng trùng thù nhà nợ nước, có rất nhiều điều không thể nói ra, đành mỉm cười đáp: “Chính phi của Thanh Dương rất có thể sẽ trở thành mẫu nghi thiên hạ, trên đời này có mấy ai nỡ cự tuyệt lời cầu hôn của y?”

“Vậy tỷ và Nặc Nại…”

Vân Tang đanh mặt lại: “Nặc Nại mà ta quen biết đã chết từ lâu rồi! Nặc Nại bây giờ chỉ còn là cái bị thịt say sưa tối ngày, táng tận lương tâm thôi!”

A Hành hoảng sợ im bặt, nàng cũng biết Nặc Nại đắm chìm trong rượu, còn liên tục sử dụng ngọc hồng thảo, thứ thảo dược làm mê mẩn tâm trí, lâu ngày thành nghiện, giờ đã trở thành phế nhân. Nàng từng nài nỉ Thiếu Hạo đi khuyên nhủ y, Thiếu Hạo liền đưa nàng cùng tới gặp Nặc Nại, nào ngờ y cao giọng mắng chửi cả Thiếu Hạo rồi quỳ sụp xuống trước mặt nàng, khóc lóc kêu gào xin thuốc để thỏa cơn nghiền.

Thấy A Hành nín thít, Vân Tang dịu nét mặt, trở lại chủ đề cũ: “Hai nhà kết thông gia là chuyện trọng đại, muội muội ngoan, muội giúp ta tranh thủ chút thời gian để cân nhắc được không?”

“Được thôi.”

Vừa nói đến đó, Hậu Thổ đã cưỡi tọa kỵ Hóa Xà tìm đến, trông thấy Vân Tang, gã thở phào nhẹ nhõm: “Vương cơ đột nhiên biến mất làm tôi và Mộc Cận lo quá.”

“Ta không vui nên mới tìm muội muội chuyện phiếm giải sầu thôi mà.”

Hậu Thổ quay sang hành lễ với A Hành, ánh mắt vẫn chân thành tha thiết, nhưng thái độ đã khách sáo hơn nhiều. Trong lòng gã, nàng vẫn là Bạt tỷ tỷ, nhưng nàng cũng chính là vương cơ của Hiên Viên tộc, những kẻ đem quân xâm lược Thần Nông, giết chết Du Võng. Gã chẳng biết đối diện với nàng ra sao, đánh lấy thái độ khách sáo xa lạ để che giấu trái tim mình.

Biểu hiện của Hậu Thổ khiến A Hành thấy lòng chùng hẳn xuống, gượng cười đáp: “Tướng quân, mời.” Cũng khách khí, cũng xa lạ như thế.

Vân Tang liền gọi Cửu Sắc lộc lại, “Chúng ta đi thôi.”

A Hành vẫn quyến luyến Vân Tang, nhưng không sao mở miệng giữ nàng được. Cái chết của Du Võng đã chắn ngang giữa hai người, khiến A Hành chẳng còn mặt mũi nào đối diện với Vân Tang nữa.

Thấy Thần Nông tộc lần lữa trước đề nghị kết thông gia của Hoàng Đế, A Hành bèn hẹn gặp riêng Vân Tang, nhưng chẳng thu được kết quả gì, xem ra nội bộ Thần Nông cũng đang xáo trộn. Xương Ý liền tấu trình lên Hoàng Đế xin thư thả cho một thời gian, có điều chẳng rõ Di Bành đã ton hót những gì khiến Hoàng Đế bực bội, viết thư cho A Hành nếu không có kết quả thì để Di Bành toàn quyền xử lý chuyện này.

Để bức Trạch Châu đầu hàng, Hoàng Đế đã cho cắt đứt nguồn nước, nhưng thành chủ Trạch Châu vẫn kiên quyết cố thủ bên trong, chẳng buồn ra nghênh chiến, chỉ chuyên giở ngón đánh du kích, bắn lén và ám sát khiến binh sĩ Hiên Viên ăn không ngon, ngủ không yên. Hoàng Đế nổi giận truyền lệnh, nếu Trạch Châu còn không đầu hàng thì lập tức cho tấn công vào thành.

A Hành căn vặn Liệt Dương: “Mày đi Trạch Châu thăm dò, thấy tình hình thế nào?”

Liệt Dương thản nhiên đáp: “Cứ đợi xem thành công đi! Tuy Trạch Châu không có địa thế hiểm trở như Phản thành, nhưng cũng là cửa ngõ phía Bắc của đô thành Thần Nông, được xây dựng vô cùng kiên cố, dễ thủ khó công.”

Xương Ý chen vào: “Chẳng lẽ không thể thuyết phục thành chủ đầu hàng được ư? Phụ vương rất giỏi lung lạc lòng người, nhất định lần này cũng tìm ra cách hạ thành không tốn một binh một tốt.”

Liệt Dương cười nhạt: “Du Võng hiền chứ không ngu, y thừa biết tầm quan trọng của Trạch Châu nên đã chọn một người do Xi Vưu huấn luyện, đề bạt làm thành chủ, chẳng rõ tên thật của kẻ đó là gì, chỉ biết hắn thạo điều khiển gió, được xưng tụng là Phong Bá.” Dứt lời Liệt Dương nhún mình nhảy vọt lên cành cây, nhẹ tựa lông hồng, vừa đu lên cành cây, vừa hả hê nói tiếp: “Xi Vưu là đồ vô lại, huấn luyện ra bọn thủ hạ rặt giống vô lại, để chiến thắng, thủ đoạn vô sỉ hạ lưu cỡ nào cũng không từ, có điều xưa nay chưa nghe nói người của hắn biết đầu hàng bao giờ cả!”

Xương Ý phì cười, hỏi tiếp: “Vậy nếu tấn công vào thành, Hiên Viên có tốc chiến tốc thắng được không?”

Liệt Dương lắc đầu cười hăng hắc, “Không thể xem thường thực lực của Phong Bá được! Hơn nữa, nửa năm trước hắn còn kết bái với một kẻ đến từ Xích Thủy Thị, một trong Tứ thế gia, được gọi là Vũ Sư, nghe nói rất giỏi hô mưa và rèn binh khí. Phong Bá và Vũ Sư trợ giúp, e rằng Hiên Viên muốn hạ Trạch Châu cũng đại tổn nguyên khí.”

Xương Ý bất lực đưa mắt nhìn A Hành, nàng liền lên tiếng: “Nhất định Di Bành đã giở trò với Thần Nông tộc, nếu họ đồng ý kết thông gia, chẳng phải chiến sự ở Trạch Châu cũng có thể tạm thời hóa giải ư? Việc cấp bách hiện nay là tra xem Di Bành rốt cuộc đã làm gì, nhân lúc hắn đang ở Trạch Châu, muội sẽ đi Thần Nông sơn thăm dò.”

Xương Ý lập tức cản lại: “Để ta đi! Hiện giờ muội… phải giữ gìn sức khỏe.”

“Vậy cũng được.”

Xương Ý dắt thuộc hạ vội vã lên đường. A Hành ngẩng đầu nhìn Liệt Dương, vẻ nài nỉ nhưng nó ngoảnh phắt đi, vờ như không thấy.

Nàng liền dịu giọng dỗ dành: “Người bên cạnh Tứ ca đều là cao thủ Nhược Thủy tộc, chẳng ngại đấu tay đôi, nhưng đám hán tử Nhược Thủy đó rất thật thà trung hậu, trong khi Di Bành lại là kẻ nham hiểm, ngươi đi theo quan sát tình hình giùm ta với.”

Liệt Dương trợn trừng cặp mắt xanh biếc: “Cô có ý gì đây? Định chửi xéo ta là chim nham hiểm hả?”

A Hành cười trừ, chắp tay vái Liệt Dương lia lịa. Liệt Dương hậm hực lườm nàng rồi biến lại nguyên hình, bay vút đi.

A Hành vừa vào phòng ngồi xuống đã thấy một con anh vũ bay vèo qua cửa sổ, đậu xuống trước mặt, véo von nói tiếng người: “Muốn gặp Xi Vưu thì tới Trạch Châu.”

A Hành đứng phắt dậy, chợt thấy mắt hoa cả lên, choáng váng suýt ngã.

Anh vũ ngây ngơ giơ chân gãi gãi đầu, lặp lại lần nữa: “Muốn gặp Xi Vưu thì tới Trạch Châu.”

Trạch Châu liên quan mật thiết tới an nguy của Chỉ Ấp cũng như của Thần Nông sơn, chỉ cần Xi Vưu còn một hơi thở, nhất định hắn sẽ không để mất Trạch Châu, lẽ nào hiện giờ Xi Vưu ở Trạch Châu thật ư?

A Hành nghiến răng quyết định dù gì cũng phải đi xem thế nào, bèn gọi A Tệ bay về phía Trạch Châu.

Gần tới Trạch Châu, nàng chợt nghe thấy hồi kèn triệu tập binh sĩ của Hiên Viên, liền tái mét mặt. Sắp công thành đến nơi rồi! Rốt cuộc đây là lệnh của phụ vương, hay là chủ trương Di Bành tự tiện đưa ra?

Đột nhiên, phía Tây Bắc Trạch Châu thành vút lên một tiếng sáo quen quen, chính là khúc Thiên Vấn mà Xi Vưu sáng tác, được lưu truyền rộng rãi giữa đám nam nhi Cửu Lê.

Tiếng sáo cứ phập phù lúc vang vang, khi lìm lịm, như thể người tấu đang bị thương. A Hành lắng nghe một chốc rồi thúc A Tệ lần theo tiếng sáo bay tới.

Lần theo tiếng sáo lúc bổng lúc trầm, A Hành bay thẳng về phía Tây Bắc, bỏ lại sau lưng Trạch Châu thành, bỏ lại sau lưng núi non trùng trùng điệp điệp, mãi mới tìm thấy một gã đàn ông thân vận hồng y, tóc đầu xơ xác, đứng giữa hồ thổi sáo.

Gió từ đồng hoang thổi lại, phát ra những tiếng ù ù như khóc, màu tóc đen của hắn cùng vạt áo hồng bay phần phật. Nghe tiếng A Tệ gọi, hắn liền ngẩng lên nhìn, nhoẻn cười âu yếm, mày kiếm chấm tóc mai, gương mặt vẫn còn tái mét vì bệnh, quả đúng là Xi Vưu.

A Hành chạy như bay về phía Xi Vưu, hắn cũng dang tay ra đón lấy nàng vào lòng, nào ngờ A Hành khựng lại quát khẽ: “Ngươi ruốt cuộc là ai?”

Người đàn ông phá lên cười: “Vừa nhìn đã phát hiện ra rồi à! Hẳn cô và Xi Vưu là đôi tình nhân gần gũi thân mật nhất trên đời này ấy nhỉ! Rốt cuộc ta sơ hở ở đâu hả?”

Thấy A Hành nhấc tay, lòng bàn tay lấp loáng ánh sáng, hắn cười nhạt: “Ta khuyên cô đứng động võ, để đứa bé sống thêm khắc nào hay khắc nấy.”

A Hành tái mặt, hắn lại hỏi: “Là con của ta ư?”

A Hành giận dữ vung tay đánh tới, hắn vội nghiêng người né tránh, nhưng vạt áo vẫn cháy sém một mảng.

“Theo ta được biết, Hiên Viên vương cơ tu luyện mộc linh cơ mà, đây đâu phải là pháp thuật mộc linh. Rốt cuộc trong hai trăm năm ốm liệt giường, cô đã xảy ra chuyện gì hả?”

A Hành lạnh lùng: “Ta không muốn giết người, nhưng lần này ta quyết không tha cho ngươi, bản lĩnh của ngươi cũng khá lắm, đáng lẽ chẳng nên đi theo Di Bành.”

Gã đàn ông cười ha hả: “Ta vốn cũng thương hương tiếc ngọc định nương tay đấy, tiếc rằng cô không thèm, vậy ta đành lấy mạng cô thôi.” Nói rồi hắn bắn một quả cầu lửa lên không, cầu lửa nổ bùng giữa trời không, biến thành vô số con cá đỏ rực…

Xa xa cuối chân trời bỗng vang lên tiếng nổ ì ầm như sấm động. Chỉ trong giây lát, một luồng sáng trắng tựa ngân xà từ mạn Tây Bắc uốn lượn đổ ập về phía này.

A Hành thoáng sững sờ rồi nhận ra đó chính là sông Hoạch Trạch bị ngăn dòng, thì ra phụ vương nàng cắt đứt nguồn nước của Trạch Châu không chỉ để lung lạc sĩ khí, mà còn để công thành.

Nàng vội hô A Tệ chuẩn bị chuồn, chợt nghe gã đàn ông cười nói: “Di Bành thận trọng thật, đó không chỉ là nước của Hoạch Trạch, mà còn bao gồm toàn bộ nước của Thấm hà và Đan hà nữa kia, hắn không định dùng nước tấn công Trạch Châu, mà định nhấn chìm Trạch Châu.”

A Hành bàng hoàng sợ hãi: “Các người điên rồi! Làm vậy sẽ bị trời phạt đó!”

Xi Vưu phá lên cười, A Tệ cõng A Hành toan bay vụt đi, nào ngờ hắn lắc mình một cái đã chắn trước mặt A Tệ, cười khẩy. A Tệ sợ sệt không dám giao đấu chính diện, chỉ biết luồn Đông lách Tây chạy trốn nhưng vô ích.

A Hành chẳng hiểu nguyên do, cứ một mực thôi thúc A Tệ. Cảm nhận được tử vong đang đến gần, ma tính trong người A Tệ thình lình bộc phát, lấn át cả nỗi sợ bản năng, nó gầm lên một tiếng khiến Xi Vưu giật nảy mình lùi lại, A Tệ liền cướp đường bay vút lên.

Gã đàn ông nhìn theo bóng họ, dang tay thở dài: “Muộn rồi!”

Luồng nước cuồn cuộn ngất trời đổ ập xuống như sấm sét, cuốn phăng A Hành và A Tệ, tách lìa cả hai.

Nước là khởi nguồn của sự sống, nhưng khi cuội nguồn hóa thành quái vật nuốt chửng sinh mệnh thì chẳng thứ gì ngăn nổi. Bất kể A Hành thúc động bao nhiêu linh lực, dòng nước vô cùng vô tận này đều hấp thu hết bấy nhiêu, không để sót mảy may.

A Hành đành bất lực cuộn tròn người lại, gắng bảo vệ đứa bé trong bụng.

Nhưng khắp bốn bề đều cuồn cuộn nước lũ, không sao nhìn thấy phương hướng, mấy lần nàng toan rẽ nước nhô lên, nhưng lại bị sóng dồi đẩy thốc xuống đáy nước.

Càng lúc A Hành càng đuối dần, chỉ biết dồn tất cả linh lực còn lại vào bụng, che chở cho đứa con đang thành hình.

Tới lúc sống chết cách nhau một đường tơ, mọi thứ đều chẳng còn quan trọng nữa, trước mắt A Hành toàn là hình ảnh của Xi Vưu…

Xi Vưu, rốt cuộc chàng đang ở đâu? Chàng đã hứa sẽ bảo vệ ta, nhưng giờ chàng đâu rồi?

A Hành bị hút vào xoáy nước quay mòng mòng đến choáng váng đầu óc, dòng nước còn liên tục đập mạnh vào bụng nàng, khiến nàng cảm thấy đứa bé đang giãy đạp. Đây là lần đầu cái thai mẩy động, đáng lẽ phải vui mừng, nhưng A Hành chỉ thấy nỗi bi ai và kinh hoàng trước cái chết.

Con của chúng mình, con của chúng mình… Xi Vưu, chàng làm cha rồi đấy! Chàng phải luôn luôn bảo vệ cho con mới đúng chứ?

A Hành cắn mạnh vào lưỡi để máu và cơn đau giữ cho mình khỏi thiếp đi, dồn tất cả linh lực còn sót lại vào bụng.

Xi Vưu, rốt cuộc chàng đang ở đâu? Tại sao cứ để ta một thân một mình chống chọi với mọi chuyện? Vì sao lúc ta cần chàng nhất chàng đều không có mặt?

Hơi thở của A Hành cứ yếu dần đi, đứa bé trong bụng đã được mười hai tháng, bắt đầu có trực giác, dường như nó cũng cảm nhận được nguy cơ nên ra sức đạp nàng, nài nỉ nàng cứu nó, nhưng nàng… Nàng đã cạn sức tàn hơi, cả người cứng đờ, không sao cử động nổi, chỉ biết giương mắt nhìn dòng nước lũ cuồn cuộn đổ ập xuống đầu mình.

Xi Vưu… Xi Vưu…

Trái tim A Hành cứ lạnh dần, mắt nàng từ từ tối sầm lại, bên tai láng máng nghe thấy tiếng khóc của trẻ nít, nước mắt trào ra thành dòng, hòa vào dòng nước lũ lạnh lẽo vô tình, tan đi không dấu vết.

Xi Vưu, ta hận chàng!
Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 09:42 PM
Chương 26

Thề hẹn còn đây, tình khôn giữ

26.1


Hoa đào lả tả rợp trời, phớt qua má nàng, đậu lên vai nàng, chuyên xưa cũng lần lượt hiện ra rành rành trước mắt. Ngày này năm ngoái, nàng còn hăng hái bày biện nhà cửa, dạt dào hy vọng kề bên nhau suốt cuộc đời.

Chẳng ngờ nhà vẫn đây mà duyên đã dứt.

Từ nay về sau, đào nở, họ sẽ mãi mãi không thể gặp nhau dưới cội hoa đào được nữa.

Truyền thuyết kể rằng, trên đại hoang có năm thánh địa. Thang cốc, nơi mặt trời mọc, Ngu uyên, nơi mặt trời lặn, Quy khư, ngàn vạn con nước đổ về và Ngọc sơn, nơi hội tụ ngọc linh – bốn thánh địa này tuy người thường khó mà đến được, nhưng dù hung hiểm như Ngu uyên cũng có người bôn ba tới tận nơi, duy chỉ có Bắc Minh và Nam Minh, được gọi là hai đầu trời đất chưa ai đặt chân đến, chỉ nghe nói hai chỗ đó được gọi là Nam Bắc Minh, nơi cực Nam và cực Bắc hợp lại làm một, càng chẳng hiểu sao rõ ràng một ở cực Nam, một ở cực Bắc mà lại gọi là Nam Bắc hợp nhất.

Vì chưa ai từng đến nên người đại hoang hầu như không tin có Bắc Minh và Nam Minh[1], nhưng trên đời vẫn tồn tại một loài thú thần tên gọi là Côn, đến từ Bắc Minh, nguyên hình là cá, vừa ra đời đã có thể hóa đại bàng, tương truyền một lần sải cánh có thể bay xa chín vạn dặm. Côn không xưng thần với rồng, cũng không cúi đầu trước phượng, sinh ở Bắc Minh, chết lại về Nam Minh.

[1] Theo Tiêu dao du của Trang Tử: Bắc Minh có loài cá, tên gọi là Côn, thân lớn không biết mấy nghìn dặm. Khi biến thành chim gọi là Bằng (đại bàng), sống lưng rộng không biết mấy ngàn dặm. Mỗi khi cất cánh bay lên, sải cánh che phủ cả bầu trời. Lúc là đại bàng, thường theo sông đào mà đến tận Nam Minh.

Vì Côn có thực, nên sử sách vẫn chép rằng trên đại hoang còn có một thánh địa thứ năm, gọi là Nam Bắc Minh.

Từ đại hoang đi thẳng về hướng Bắc, sẽ đến một vùng hoang dã, băng phủ ngàn năm, tuyết rơi vạn dặm, đi mãi không thấy bến bờ, dù người của Thần tộc thần lực cao cường cũng không sao vượt qua nổi đồng hoang mênh mông tuyết trắng ấy.

Phía cuối đồng hoang bao la buốt giá ấy có một hồ nước thiên nhiên, chính là Bắc Minh.

Tiêu Dao tha thân thể bị ngũ linh phá hủy, chỉ còn thoi thóp của Xi Vưu thả xuống Bắc Minh. Nó làm vậy hoàn toàn dựa vào bản năng của muôn thú, hễ gặp nguy hiểm hoặc bị thương thì quay về nhà tìm nơi trú ngụ.

Xi Vưu nổi lềnh bềnh giữa Bắc Minh, dở sống dở chết, mê man bất tỉnh, mặc cho Tiêu Dao lay gọi. Dần dà Tiêu Dao cũng chán, bèn để mặc hắn nằm đó, bơi đi ngao du khắp Bắc Minh. Bắc Minh rộng mênh mông, xưa nay nó chưa bao giờ đến được tận cùng, thỉnh thoảng nó cũng nảy dạ tò mò, đi hết đại hoang sẽ đến một vùng băng tuyết, vượt qua đồng băng sẽ đến Bắc Minh, vậy nếu băng qua cả Bắc Minh thì sao? Có lẽ tới khi chết, nó mới giải đáp được câu hỏi này.

Hôn mê hơn ba trăm ngày đêm, cuối cùng Xi Vưu cũng tỉnh lại. Vừa mở mắt, trông thấy Tiêu Dao mừng rỡ lượn vòng quanh mình, Xi Vưu toan giơ tay chạm vào nó, nhưng chẳng nhúc nhích nổi một ngón tay.

Hắn cảm giác mình đang bồng bềnh trong nước, có điều thứ nước này rất lạ, hệt như một loại máu màu lam căng tràn nhựa sống.

Xi Vưu tự ngộ được đạo trời, tuy chẳng có lý luận phương pháp gì nhưng hắn hiểu rất rõ thế nào là hòa hợp với tự nhiên, bèn thả lỏng thân thể, trút bỏ cái tôi hòa mình vào Bắc Minh rồi cười hỏi Tiêu Dao: “Đây là Bắc Minh, nơi mày sinh ra ư?”

Tiêu Dao quẫy đuôi, té nước vào mặt Xi Vưu như oán trách: Nếu chẳng phải vì cứu ngươi, đời nào ta chịu mang thứ dơ bẩn như ngươi về nhà.

Xi Vưu phá lên cười sằng sặc, cười mãi cười mãi, đột nhiên hắn sực nhớ lại những chuyện đã xảy ra.

Du Võng chết rồi!

Chính Hoàng Đế giết chết Du Võng!

Trong cơn cuồng nộ, hắn đã giết chết Hoàng Đế!

A Hành… nàng chắc đã biết cả rồi, giờ nàng có khỏe không?

Xi Vưu thầm thở dài, nhắm nghiền mắt, những hình ảnh chập chờn đứt quãng cứ xẹt qua xẹt lại trong đầu.

Dường như hắn thấy có đến hai vị Hoàng Đế, nghe tiếng A Hành thét lên, hắn nảy đom đóm mắt, thoáng thấy A Hành bay vụt về phía mình, vẻ mặt đau đớn tột cùng… rốt cuộc cái gì là thật, cái gì là mơ?

Xi Vưu mở trừng mắt, toan gượng dậy, liền bị Tiêu Dao hậm hực quật đuôi vào mặt.

Hắn khó nhọc lên tiếng: “Ta phải về.”

Tiêu Dao lập tức há miệng phun ra vô số bong bóng nước, trông như thể chạm vào là vỡ, nào ngờ chúng lại khóa chặt tay của Xi Vưu dính vào mặt nước, bất kể hắn vùng vẫy ra sao cũng không làm vỡ nổi. Rõ ràng đây là địa bàn của Tiêu Dao, ở đây, Tiêu Dao mới là lão đại.

Cứng không được, Xi Vưu bèn đổi sang mềm, dịu giọng nài nỉ: “Tiêu Dao, nếu ta lỡ tay giết chết Hoàng Đế, nhất định A Hành sẽ rất đau lòng, ta phải đi an ủi nàng. Còn nếu không phải ta giết lão thì các huynh đệ của ta hẳn đang ác chiến với lão, ta không thể để họ chiến đấu một mình được.”

Tiêu Dao vừa tung tẩy bơi vừa phun bong bóng nô giỡn, chẳng buồn để ý đến Xi Vưu. Dù sao nó không phải là A Tệ ngốc nghếch để Xi Vưu quay như dế.

Xi Vưu lại nói: “Năm xưa chúng ta cắt máu ăn thề, mày cũng ở đó kia mà, bọn họ không phụ ta, ta há lại phụ họ hay sao? Mày tưởng mấy cái bong bóng ấy trói được ta à? Dẫu có phải bò, ta cũng quyết quay trở về!” Tiêu Dao nghe nói chỉ quẩy đuôi bơi ra xa, từ nhỏ, nó bị Xi Vưu dọa dẫm đã quen, cứng mềm gì đều không ăn thua.

“A, phải rồi! Ta vừa nhớ ra, hồi đó cắt máu ăn thề, ta cũng trích ở chân mày vài giọt máu đấy, giờ mày lại định làm giống đại bàng bội tín bạc nghĩa à?”

Tiêu Dao quay ngoắt lại, trợn trừng đôi mắt cá nhìn Xi Vưu, hồi đó nó thấy hay hay nên chen vào góp vui thôi mà, không tính!

Xi Vưu cười ranh mãnh “Mặc kệ!Mày chích máu rồi, cũng uống rượu rồi, không được lật lọng!”

Tiêu Dao phì phì phun ra một chuỗi bong bóng nước rồi lặng yên ngẫm nghĩ, lát sau, nó vẫy vẫy đuôi.

Xi Vưu hiểu ý Tiêu Dao, nó muốn nói thể trạng Xi Vưu phải nghỉ ngơi một thời gian nữa mới được.

Tiêu Dao lặn xuống đáy nước, không nổi lên nữa.

Xi Vưu hiểu Tiêu Dao đã quyết định thì đừng hòng thay đổi, hắn chỉ có thể tranh thủ thời gian dưỡng thương cho mau khỏe lại mà thôi.

Vừa toan nhập định trị thương, hắn sực nhớ ra một chuyện, liền vọt miệng hỏi: “Tiêu Dao, ta hôn mê bao lâu rồi?”

Lâu thật là lâu, vẫn không thấy Tiêu Dao trả lời, có lẽ là tính không ra. Đối với chúng, thời gian chẳng có ý nghĩa gì cả.

Xi Vưu đổi sang hỏi bằng cách khác: “Mày bay đến sườn núi phía Bắc đại hoang, bẻ một cành đào về đây cho ta. Nhanh lên nhanh lên, quan trọng lắm đó!”

Tiêu Dao nghĩ là trò chơi bèn vọt lên khỏi mặt nước, biến thành đại bàng, nháy mắt đã mất hút. Hồi lâu, nó ngậm một cành đào đang kết nụ bay về.

Vùng núi phía Bắc khí hậu lạnh lẽo vậy mà hoa đào đã bắt đầu kết nụ, chắc hẳn ở Trung nguyên bây giờ đang là tiết hoa đào nở rộ, hắn đã ngủ ròng rã một năm trời.

Xi Vưu nghiêm mặt bảo Tiêu Dao: “Thả ta ra đi, ta phải về gặp A Hành.”

Tiêu Dao trố mắt nhìn hắn như muốn hỏi: Ngươi muốn chết hả?

“Thả ta ra!”

Tiêu Dao thở hồng hộc, trợn mắt nhìn Xi Vưu, bất động.

Xi Vưu không buồn nhiều lời, chỉ nghiến răng gắng bức máu trong tim ra, chẳng nề dùng thọ mạng đổi lấy sức mạnh, phá vỡ trói buộc của Tiêu Dao. Thấy vậy, Tiêu Dao vừa giận dữ đập cánh phành phạch, vừa rít lên với hắn: Ta không chở ngươi về, ngươi có phá vỡ trói buộc cũng công cốc!

Xi Vưu bập bềnh nổi trên mặt nước, nhanh nhẹn rạch tay mình, nhúng cành đào Tiêu Dao vừa bẻ vào máu tươi rồi hóa phép biến nó thành một con chim, cắn đầu lưỡi phun tinh huyết lên cành đào, dùng một trăm năm thọ mạng để biến cành đào kia thành một con chim.

Tiêu Dao nín bặt, trợn mắt kinh hoàng nhìn Xi Vưu, nó quên khuấy rằng hắn vốn là kẻ liều mạng, nói được làm được.

Xi Vưu cưỡi lên lưng chim, ngoảnh lại cười với Tiêu Dao: “Ta biết mày lo cho ta, nhưng ta đã hẹn với A Hành, dưới cội hoa đào, không gặp không về, thất hẹn hai lần rồi, nhất định không thể thêm một lần thứ ba nữa.”

Chú chim cõng Xi Vưu bay thẳng về hướng Nam.

Tiêu Dao ngây ra nhìn sững theo bóng hắn mãi tới khi mất dạng, mới đột nhiên sực tỉnh, lập tức đuổi theo.

Trông thấy Tiêu Dao bay đến, Xi Vưu chẳng hề tỏ vẻ bất ngờ, chỉ cười cười nhún mình nhảy lên lưng nó: “Làm phiền nhé!”

Tiêu Dao cõng Xi Vưu trở về Trung nguyên.

Từ xa hắn đã trông thấy nước dâng trắng xóa đất trời, cuồn cuộn đổ về Trạch Châu, đang lúc căng thẳng, hắn đã nghe thấy một tiếng hú thê lương mà quen thuộc, chẳng đợi hắn ra lệnh, Tiêu Dao đã lần theo âm thanh bay vụt đến.

A Tệ không biết bơi nhưng cứ bì bõm dưới nước, như thể kiếm tìm gì đó, hết lần này sang lần khác, nó cứ ngụp đầu lặn xuống, mãi đến khi nghẹt thở mới ngoi lên, hú vang thảm thiết, hít một hơi thật sâu rồi lại liều mạng ngụp xuống.

Có thể khiến A Tệ thương tâm như thế, chỉ có A Hành và Liệt Dương, Xi Vưu lòng như lửa đốt, vội hỏi: “A Tệ, A Hành đâu rồi?”

A Tệ trừng trừng nhìn Xi Vưu giây lát, tựa hồ nhận định thật hay giả rồi cắn chặt chéo áo hắn, nước mắt lã chã.

Xoáy nước cuồn cuộn dưới sông hệt như một con mãng xà, nhấn chìm A Hành xuống vực sâu thăm thẳm.

Đôi tay ôm lấy bụng càng lúc càng rời rã, A Hành đã hoàn toàn kiệt sức, trong khi đó, một vòng xoáy lớn hơn lại phăng phăng cuốn tới, nuốt chửng nàng.

A Hành òa khóc vì tuyệt vọng, rồi lại phẫn nộ khẩn cầu, nhưng mọi cố gắng đều rơi vào thinh không. Giữa bóng tối vô biên, nàng chỉ thấy mình bị một luồng sức mạnh long trời lở đất dìm xuống tận đáy của sự sống.

Cả người A Hành xoay tít theo xoáy nước, rơi thẳng xuống đáy sâu, hơi thở cuối cùng cũng bị dòng nước xiết nuốt chửng, nàng không sợ chết, nhưng còn đứa nhỏ… Xi Vưu, Xi Vưu, chàng ở đâu rồi?

Xi Vưu… Xi Vưu…

Đột nhiên, một bóng áo đỏ nhanh như chớp lao vào giữa xoáy nước, ôm chặt lấy A Hành, mái tóc pha lẫn sợi bạc xõa tung như hai tấm bình phong, ngăn dòng nước lại. Sóng dữ ngợp trời khiến nhật nguyệt cũng phải biến sắc, vậy mà cơn hồng thủy hung hãn như mãnh thú đó lại e dè nhường bước trước Xi Vưu, vòng qua người hắn rồi chảy tiếp.

Không kịp kéo A Hành ngoi lên, Xi Vưu chỉ còn cách cúi đầu hôn A Hành, phà không khí trong lành vào miệng nàng.

A Hành ho sặc lên, từ từ mở mắt ra.

Vừa mở mắt, nàng liền trông thấy gương mặt tái mét của Xi Vưu đang mỉm cười nhìn mình. A Tệ cưỡi lên lưng Tiêu Dao bấy giờ đã hóa thành cá, nhe răng cười không khép được miệng, trong khi Tiêu Dao phồng mang trợn mắt vẻ giận dữ.

Sóng dữ vẫn cuồn cuộn rít gào xung quanh, nhưng giữa vòng tay chàng, chỉ có bình yên.

“Ta đang mơ ư?”

Xi Vưu dụi đầu vào mặt nàng: “Không đâu!”

A Hành giàn giụa nước mắt, yếu ớt than: “Ta gọi chàng mãi, gọi đến khan cả họng, còn tưởng chàng không tới nữa chứ.”

Xi Vưu dịu giọng dỗ dành: “Nàng quên rồi sao? Dưới cội hoa anh đào, không gặp không về, ta đã hứa với nàng sẽ không thất hứa lần nữa mà, sao có thể không tới chứ?”

A Hành mừng mừng tủi tủi, “Tiếc rằng nơi này chẳng phải Cửu Lê, cũng chẳng phải dưới cội hoa đào.”

Xi Vưu cười: “Chờ ta giải quyết xong trận hồng thủy này, sẽ đưa nàng đi ngắm hoa đào.” Nói rồi hắn lao vút lên mặt nước.

A Hành hai tay ôm bụng, rúc vào lòng Xi Vưu, nàng đã hoàn toàn kiệt sức, bải hoải đến từng lỗ chân lông, nhưng có vòng tay hắn chở che, dù phong ba bão táp xung quanh dữ dội chừng nào, nàng cũng chẳng sợ.

Ứng Long phụng lệnh Hoàng Đế cắt đứt nguồn nước của Trạch Châu, có điều y vẫn ngỡ đây là kế công thành như lần trước.

Nghe kèn hiệu xung trận, y cùng Hiên Viên Hưu tập trung quân lên gò đất cao, chuẩn bị tấn công Trạch Châu, thì lại được lệnh của Di Bành án binh bất động.

Ứng Long lấy làm lạ, nhưng vẫn đứng yên tại chỗ đợi lệnh.

Trạch Châu thành nằm lặng bên bờ Hoạch Trạch cạn khô, từ xa trông lại, chỉ thấy từng vệt từng vệt sáng loang loáng, chính là khôi giáp của binh tướng phản chiếu ánh mặt trời, đủ biết trong thành phòng bị nghiêm ngặt tới đâu.

Hồi kèn vừa rúc như một lời tuyên cáo: nếu Trạch Châu thành không chịu đầu hàng, Hiên Viên tộc sẽ phát động tấn công. Lập tức, tất cả các binh sĩ trong thành đều căng thẳng chuẩn bị ứng chiến.

Phong Bá mặc võ phục sát người, ngoài áo khoác choàng đen, hiên ngang đi giữa hàng quân, cả Trạch Châu đều im phăng phắc, chỉ nghe thấy tiếng chân hắn. Bước lên thành lâu, hắn cao giọng nói: “Quân Hiên Viên đông gấp năm lần chúng ta nên nếu các ngươi muốn bỏ chạy, ta cũng rất thông cảm, ai không muốn đánh thì rời hàng ngũ ngay đi.”

Đợi một hồi, chẳng thấy ai bước ra, Phong Bá bật cười sảng khoái: “Các huynh đệ, đã vậy chúng ta quyết tử chiến đến cùng! Vì Xi Vưu!”

“Vì Xi Vưu!”

Tiếng ba quân hô theo vang dội cả đất trời.

Phong Bá tươi cười, đưa mắt nhìn gã gù đứng khuất trong góc tối, mặt gã đeo một chiếc mặt nạ bạc, tỏa ánh sang lạnh lẽo, cộng thêm ngoại hình dị dạng khiến người ta vừa thấy đã gớm, chỉ muốn quay đi.

Kẻ gù mang mặt nạ này chính là Vũ Sư mà Phong Bá hằng kính trọng, hai người bọn họ đã đồng lòng hợp sức đẩy lùi bao đợt tiến công của Hiên Viên.

Hai bên trao đổi một ánh mắt, đều thấu rõ quyết tâm tử chiến của đối phương.

Phong Bá mỉm cười nhoài người trên đầu thành, nhìn về phía quân lính Hiên Viên, thấy họ án binh bất động, hắn lấy làm thắc mắc: Lẽ nào chúng không hiểu sĩ khí chỉ sôi sục chốc lát, giằng dai càng lâu, sĩ khí sẽ từ từ suy giảm sao?

Thấy dòng Hoạch Trạch cạn khô, lại quan sát kỹ thế trận Hiên Viên, Phong Bá nghĩ chắc đối phương không thể xả nước công thành. Nếu xảy ra, nước Hoạch Trạch ào ào trút xuống như thác lũ, quân lính bên đó sẽ bị cuốn trôi trước.

Đột nhiên, hắn nghe thấy mấy tiếng nổ chát chúa, trên trời bỗng xuất hiện vô sô con cá đỏ ối như ráng chiều, sáng rực cả bầu trời, binh sĩ hai bên đều hiếu kỳ ngẩng đầu lên nhìn.

Ứng Long xuất thân từ Thủy tộc, cảm giác rất nhạy bén, y liếc nhìn phía cuối chân trời, lập tức tái mét mặt, rít lên nhìn Di Bành ngạo nghễ đứng trên cao: “Cửu điện hạ, ngài định làm gì thế?”

Di Bành chỉ cười không đáp. Bấy giờ Ứng Long mới bàng hoàng nhận ra, trong mắt Di Bành, Ứng Long và binh sĩ của y đều là người của Thanh Dương, Di Bành chẳng những muốn trừ khử Thanh Dương mà còn muốn nhổ cỏ tận gốc, diệt sạch những người ủng hộ Đại điện hạ.

Phong Bá ngẩn cao đầu nhìn bầy cá tung tăng bơi lội trên không, dường như đã phát hiện ra gì đó, nheo nheo mắt trông về phía chân trời, đột nhiên, hắn giật thót mình, sững sờ không dám tin Di Bành lại điên cuồng phạm vào trọng tội trong trời đất, xả nước nhấn chìm Trạch Châu thành, khiến sinh linh đồ thán, thậm chí nhẫn tâm tuẫn táng cả quân đội của mình.

Phong Bá nghi hoặc đưa mắt nhìn Vũ Sư, Vũ Sư liền khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Di Bành điên rồi!” Giọng hắn khàn khàn như thể bị bỏng họng.

Sấm rền dậy đất, nước lũ ngợp trời ào ào đổ đến, thoạt thấy một sợi chỉ trắng bạc lấp lánh chậm rãi bò tới, thoắt chốc, nước đã dâng trắng xóa đất trời.

Khắp nơi nhốn nháo tiếng chim thú kêu gào, nước lũ cuốn tới đâu, sinh linh tan tác tới đấy.

Nhìn cảnh thê lương trước mắt, Phong Bá chỉ biết thở dài, nước từ ba con sông đổ dồn lên, thế mạnh như chẻ tre, có thể sánh ngang với kiếp nạn trời giáng, sức người không cách nào xoay chuyển nổi. Hắn sớm đã coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng hắn muốn chết hiên ngang trên sa trường chứ không phải chết oan chết ức như thế này.

Binh lính canh gác trên thành bẩm: “Ngài biết cưỡi gió mau chạy ngay đi, hồng thủy có nhanh mấy cũng không đuổi kịp ngài đâu.”

Phong Bá đưa mắt nhìn Vũ Sư cười bảo: “Ngươi tu luyện thủy linh, hồng thủy lớn tới đâu, muốn giữa mạng chắc cũng không khó.”

Vũ Sư trân trân nhìn nước lũ cuồn cuộn ập đến, hờ hững đáp: “Trạch Châu bị phá thì Thần Nông sơn cũng khó toàn, nếu quân Hiên Viên muốn tấn công Thần Nông sơn, phải bước qua xác ta trước đã.”

Phong Bá vỗ vỗ vai Vũ Sư rồi quay sang các binh sĩ khuyên mình chạy trốn: “Từ đầu ta đã nói rõ với Xi Vưu, ta chẳng có hứng thú gì với quyền lực, chỉ muốn cùng y sánh vai tác chiến thế thôi. Đi với y cũng như đi với luồn gió lốc mạnh nhất trên đời vậy, chẳng gì gò bó nổi, muốn đến đâu thì đến. Các ngươi từng thấy gió trốn chạy bao giờ chưa? Dù đụng phải thứ gì đi nữa, gió chỉ biết thổi thốc tới mà thôi!”

Dứt lời Phong Bá cười ha hả, cởi bỏ áo choàng, hiên ngang đối diện với cơn sóng dữ ngợp trời đang ập tới. Vũ Sư cũng rút thần khí Vũ Hổ của mình ra, chiếc mặt nạ trên mặt tỏa ánh sáng lành lạnh.

Sau lưng bọn họ, tất cả binh sĩ đều nhất loạt rút vũ khí, quên cả tính mạng, cười cười nói nói bàn luận thế nước nhỏ to, còn hẹn nhau tỉ thí bản lĩnh cưỡi sóng đạp gió.

Dù phải chôn thây trong trận đại hồng thủy này, họ cũng phải cưỡi lên đầu ngọn sóng, đùa với thủy triều mới cam tâm!

Trong khi đó, quân sĩ Hiên Viên đang kêu la khóc lóc loạn cả lên.

Tùy tùng của Ứng Long khuyên y nên đi. Ứng Long vốn là rồng, nước lớn tới đâu cũng thừa sức bỏ đi, nhưng y chỉ điềm đạm bảo chúng thuộc hạ: “Các ngươi chạy mau đi, thoát được bao nhiêu hay bấy nhiêu.”

Thấy đám tùy tùng định khuyên tiếp, Ứng Long xua tay đi, đi thẳng xuống dưới, xuất cả nguyên thần ra, quyết dốc cạn linh lực và sinh mệnh ngăn cơn hồng thủy lại.

Y biết mình không thể địch nổi thế nước dữ dội nhường này, nhưng ít ra, y chết cũng không hổ thẹn.


Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 09:43 PM
Chương 26

Thề hẹn còn đây, tình khôn giữ

26.2


Di Bành và Hiên Viên Hưu đóng quân ở nơi địa thế cao nhất, Hiên Viên Hưu có phần bất nhẫn, chẳng nỡ nhìn, bèn quay đầu đi chỗ khác, chỉ mình Di Bành tươi cười thưởng thức thảm cảnh trước mắt.

Nước lũ ngợp trời cuồn cuộn ập tới, bị linh lực của Ứng Long tạm thời chặn lại.

Nhưng trận hồng này do dòng nước tích tụ suốt một tháng của ba con sông dồn lại, dù linh lực của Ứng Long cao cường tới đâu chăng nữa cũng tới lúc cạn kiệt, trong khi nước lũ cứ cuồn cuộn không thôi.

Ứng Long bị ép bật ra khỏi bản thể, hóa thành một con rồng xanh nằm chắn ngang dòng nước.

Nước lũ càng dồn lại càng lớn, nhưng không sao phá nổi sức ngăn của Ứng Long.

Trước sức ép khủng khiếp của dòng nước, vẩy rồng trên mình Ứng Long bắt đầu ứa máu, máu loang đỏ thân rồng, nhuộm đỏ cả lòng sông.

Phong Bá đứng trên thành, gõ nhịp than: “Hảo hán tử! Nếu bỏ mạng dưới tay kẻ này, ta cũng thỏa lòng! Đáng hận! Đáng hận!”

“Đáng hận gì thế?” Bóng áo đỏ nhoáng qua trước mặt Phong Bá, từ trên không nhảy xuống đầu thành.

“Xi Vưu!”

“Đại ca!”

Bốn bề rộn lên tiếng hoan hô, mọi người đều hân hoan mừng rỡ.

Xi Vưu vội đưa tay lên miệng suỵt khẽ, nhưng chẳng kịp, A Hành đã tỉnh giấc. Vừa mở mắt, trông thấy xung quanh toàn người là người, bao cặp mắt sáng rỡ đổ dồn vào mình. A Hành không khỏi đỏ bừng mặt, gắng gượng đứng xuống.

Phong Bá thụi cho Xi Vưu một quả, hỏi: “Đại tẩu đấy à?”

Xi Vưu một tay đỡ A Hành, tay kia thụi lại Phong Bá, một năm qua, tuy trời đất xoay vần nhưng tấm lòng nam tử, tình nghĩa huynh đệ vẫn nồng nàn như thế, chẳng nói vẫn hiểu được lòng nhau.

Phong Bá trỏ Vũ Sư giới thiệu, “Đây là Xích Tùng Tử, ngoại hiệu Vũ Sư, huynh đệ kết bái của đệ sau khi huynh mất tích, huynh đệ của đệ cũng là huynh đệ của huynh.” Tín nhiệm của đàn ông với nhau vốn chẳng cần nhiều lời, chỉ một câu đã có thể giao phó tất cả.

Vũ Sư tuy xấu xí quái dị nhưng lời nói cử chỉ rất lễ độ nho nhã, vội hành lễ ra mắt Xi Vưu.

Phong Bá giơ ngón cái, chỉ chỉ đằng xa cười hì hì bảo Xi Vưu: “Đừng bảo đệ là huynh tới đây tìm chết đấy nhé, có điều…” Hắn ngắm nghía Xi Vưu từ trên xuống dưới, lắc đầu: “Hình như huynh đến tìm chết thật.”

Sóng dữ dâng cao như núi, “ngọn núi” càng cao thì Ứng Long càng đuối sức dần, nhìn đỉnh núi rung rinh chực đổ ập xuống, mọi người đều hiểu, chỉ cần “ngọn núi” kia đổ xuống thì tất cả sẽ chết không có chỗ chôn.

“Đỉnh núi” càng lúc càng rung lên dữ dội.

Xi Vưu vội nói: “Nước lớn như vậy không thể ngăn được, chỉ có thể lựa theo thế nước, mở đường cho nó chảy thôi. Cơn hồng thủy lớn thế này không thể dẫn từ xa tới, dọc đường đến đây, ta thấy ba dòng, Hoạch Trạch, Thấm hà và Đan hà đều cạn trơ đáy, nên biện pháp duy nhất hiện giờ là chia dòng nước lũ thành ba đường, để nó đến từ đâu thì lại chảy về đó. Làm vậy tuy không thể hóa giải nạn lụt nhưng ít ra cũng cứu được một số người. Phong Bá, đệ dẫn người phụ trách Hoạch Trạch, Vũ Sư, ngươi lo phần Thấm hà, còn ta sẽ dẫn nước về Đan hà.”

Mấy tên thuộc hạ linh lực cao cường trợn mắt nhìn đỉnh lũ càng lúc càng cao, mặt xám như tro, lẩm bẩm: “Sao mà làm được, có khi lại như con yêu long kia, cạn kiệt linh lực, bỏ xác dưới đáy nước không chừng.”

Xi Vưu phá lên cười, “Nếu dễ làm như vậy thì còn gì thú vị? Dựa vào năng lực bản thân, biết rõ không thể làm mà vẫn làm mới là bản sắc của đại trượng phu!”

Phong Bá giũ giũ áo choàng, khoác lên người, cười bảo Xi Vưu: “Đệ thì không thành vấn đề, chỉ hy vọng chút nữa huynh vẫn giữ được mạng mà về, đừng làm mồi cho cá thôi.”

Ngoài mặt tếu táo đùa giỡn như vậy nhưng trong lòng Phong Bá rất lo cho Xi Vưu, có điều hắn biết những người khác quyết không có năng lực đối mặt với trận hồng thủy khủng khiếp nhường này, để ngăn được thế nước, không chỉ phụ thuộc vào linh lực cao cường, mà còn đòi hỏi lòng can đảm và quyết đoán nữa.

Mấy người đang chia nhau hành động thì cuồng phong ào ào nổi lên, cùng với nó, Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đồng loạt kéo đến.

Cộng Công chưa đến nơi đã cất giọng sang sảng như chém đinh chặt sắt: “Để ta đi dẫn nước Đan hà.” Ngoại trừ Thủy thần chuyên thao túng thủy linh, có lẽ chẳng ai dám tự phụ như thế nữa.

Hậu Thổ cười bảo Xi Vưu: “Vũ Sư và Phong Bá đã kết bái, để y đi giúp Phong Bá đi. Ta và Chúc Dung sẽ phụ trách Thấm hà. Đề phòng Hiên Viên thừa dịp công thành, nhờ Đại tướng quân bảo vệ Trạch Châu thành dùm cho.”

Xi Vưu thoáng ngẩn người rồi bật cười sảng khoái, chắp tay thi lễ, “Đa tạ ba vị.”

Chúc Dung ngạo nghễ ngự trên Tất Phương điểu, khinh miệt đáp: “Đừng tưởng ta giúp ngươi, ta mong cho ngươi chết cho mau còn chưa hết nữa là!”

Phong Bá cười ha hả, gọi Vũ Sư: “Đi nào!”, lời vừa ra khỏi miệng, cả hai đã đồng thời biến mất, mọi người chỉ kịp thấy hai luồng gió vút qua mình.

Mấy trăm năm nay, Tứ đại cao thủ Thần Nông mỗi người một cõi, chẳng ai chịu ai, tranh đấu liên miên, đây là lần đầu tiên cả bốn người Xi Vưu, Chúc Dung, Hậu Thổ, Cộng Công chung tay hợp sức để bảo vệ Trạch Châu thành. Thấy các anh hùng dân tộc mình cùng sát cánh khảng khái chống địch, còn gì cổ vũ được sĩ khí ba quân hơn thế nữa?

Niềm tự hào dân tộc dần bị xói mòn từ khi Du Võng chết đi, một lần nữa lại căng đầy lồng ngực binh lính Thần Nông, khiến toàn quân rộ lên hoan hô vang trời dậy đất.

Toàn thân Ứng Long đầm đìa máu, chỉ biết ngẩng đầu bất lực nhìn ngọn sóng cao ngang trời chực chờ đổ xuống.

Chuyện cũ đột nhiên ùa về trong y. Giữa đầm nước lấp lánh vàng, một con quái vật nửa rồng nửa rắn xấu xí yếu ớt cao ngạo tuyên bố với tất cả cá tôm: sớm muộn sẽ có ngày ta biến thành một con rồng được cả Thủy tộc tôn kính!

Tu hành cả ngàn năm, trải qua mưa dập gió vùi, sấm sét thiêu đốt rút xương rút tủy, cuối cùng y cũng trút bỏ được nửa rắn, trở thành một con rồng hoàn thiện.

Bao nhiêu tráng chí, mộng tưởng…

“Gừ…”

Trong tiếng gầm bi thương, Ứng Long bất lực cúi gục đầu, chỉ chờ có thế, ngọn sóng cao ngất kia lập tức ầm ầm ập xuống, chấn động cả đất trời.

Nhưng ngọn thác khổng lồ lại chẳng hề trút xuống Ứng Long, bởi một con cá xanh khổng lồ đã chắn trước mặt y, vận linh lực chặn đứng dòng nước lũ, phân ra làm ba phần, cho chảy về ba hướng rồi quẫy đuôi giương vây, dẫn dắt thế nước từ từ đổ xuống.

Ầm ầm… Ầm ầm…

Con cá xanh đỡ hộ y một đòn nặng nhất, đoạn vội vã bơi đi. Nước lũ tiếp tục trút xuống người Ứng Long ào ào như xối, nhưng dù sao y cũng là rồng, thân mang trọng thương nhưng thừa sức ứng phó chút nước này.

Ứng Long dùng tiếng Thủy tộc âm thầm cảm tạ nhưng con cá kia chẳng buồn để ý, nó đột ngột teo nhỏ thân mình lại chút ít, quẫy đuôi quay vòng vòng giữa dòng như bông vụ, vừa quay vừa lao phăng phăng về phía trước, lập tức quanh người nó hình thành xoáy nước khổng lồ, cuốn theo nước lũ xa khỏi Trạch Châu thành.

Ứng Long yên lòng nhắm mắt, mặc cho sóng gió cuốn mình ra đại dương. Giống cá dám vênh váo nghênh ngang cả với loài rồng như y chắc chỉ có thần Côn Bắc Minh trong truyền thuyết. Loài cá vạn năm khó gặp này đã xuất hiện, hẳn trận hồng thủy này sẽ bị đẩy lùi thôi.

Chúc Dung, Cộng Công, Hậu Thổ đều cố ý che giấu thân phận nên Di Bành chẳng hề trông thấy bọn họ, chỉ thấy một con cá xanh khổng lồ xuất hiện, trận hồng thủy sắp nhấn chìm cả Trạch Châu thành trong chớp mắt bị ba luồng linh lực mạnh mẽ phân ra, dẫn về ba hướng rồi lần lượt đổ vào ba con sông, tuy dọc đường đã cuốn phăng vô số ruộng nương nhà cửa, để lại vô số cảnh tan tác tiêu điều, nhưng sau cùng cũng chỉ như ba con rồng dữ bị thuần phục, chẳng tác oai tác quái được là bao.

Tuy hậm hực thất vọng, Di Bành vẫn ứng biến hết sức nhanh chóng, lập tức lệnh cho Hiên Viên Hưu đem quân tiến công vào thành. Dù Thần Nông tộc tìm được cách đẩy lui hồng thủy, nhưng toàn bộ linh lực đã dồn vào lo cứu lụt, lực lượng phòng vệ ắt sẽ rất yếu.

Đại quân thừa nước đục thả câu, ùn ùn tiến về phía Trạch Châu thành, đột nhiên, chúng trông thấy một gã đàn ông áo đỏ xếp bằng ngồi trên thành lâu.

“Xi Vưu, là Xi Vưu!”

Quân Hiên Viên đều biết, Xi Vưu cầm quân không khai chiến thì thôi, đã khai chiến, hắn sẽ tàn sát chẳng còn một mống. Thậm chí, rất nhiều người đồn đại rằng hắn thích lấy máu người nhuộm máu nên áo hắn mới đỏ rực như vậy. Nghe tin Xi Vưu bỏ mạng, quân tướng Hiên Viên đều thở phào nhẹ nhõm, nào ngờ hiện giờ hắn lại thình lình xuất hiện trên thành như ma quỷ, khiến bọn chúng trố cả mắt.

Hiên Viên Hưu hốt hoảng hỏi Di Bành: “Chẳng phải hắn chết rồi ư? Sao tự dưng lại lòi ra thế? Giờ tính sao đây?”

Di Bành chắc mẩm lực lượng phòng vệ Trạch Châu hiện giờ rất mỏng nhưng nhìn Xi Vưu ngạo nghễ trên thành, chẳng nói chẳng rằng, cười nửa miệng nhìn xuống dưới, hắn lại phân vân do dự.

Tấn công? Hay là không?

Xi Vưu cười giễu cượt: “Các ngươi có đánh hay không nào?”

Di Bành quay sang hỏi Hiên Viên Hưu: “Chi bằng ta rút quân, lùi lại ba mươi dặm, Ngũ ca thấy sao?”

Hiên Viên Hưu tán đồng ngay: “Ta cũng nghĩ thế. Lương thảo của chúng chẳng cầm cự được bao lâu nữa đâu, sớm muộn cũng phải đầu hàng thôi, ta khỏi cần tốn công nhọc sức.”

Di Bành nhếch mép, âm thầm nhìn Xi Vưu cười lạnh.

Thấy quân Hiên Viên rục rịch rút lui, Xi Vưu như trút được gánh nặng. Hắn đi đứng cũng khó khăn, nói gì đến chiến đấu, nãy giờ đều là gắng gượng đóng kịch mà thôi, chỉ cần một tên tướng lĩnh Thần tộc bình thường xông lên cũng thừa sức hạ gục hắn rồi.

A Hành nấp trong góc khuất quan sát, bấy giờ mới dám thở phào nhẹ nhõm. Xa xa, đồng hoang quanh Trạch Châu thành trắng xóa nước ngập, vô số ruộng nương nhà cửa tiêu điều tan tác. Trong chiến tranh, nhìn từ góc độ nào đó, cả hai bên tham chiến đều thất bại.

Cộng Công dẫn binh lính quay lại đầu tiên, quả không hổ là Thủy thần, chỉ có vài thuộc hạ bị thương nhẹ.

Lát sau, Chúc Dung và Hậu Thổ lũ lượt dẫn quân trở về, sắc mặt Hậu Thổ tái nhợt, Chúc Dung còn thảm hại hơn, tóc tai bù xù, ngọn lửa ngũ sắc thếp vàng trên áo dính đầy bùn đất, đám thuộc hạ có hai tên bị trọng thương. Xem ra, dù thần lực cao đến đâu chăng nữa, cũng khó mà chống chọi được với thiên nhiên.

Ngay sau đó Phong Bá và Vũ Sư dẫn theo quân sĩ cười cười nói nói quay trở về, cả đoàn người cạn kiệt linh lực, đi đứng loạng choạng nhưng ai nấy đều hớn hở như mở cờ trong bụng, chẳng có vẻ gì là vừa từ cõi chết trở về.

Hóa giải được đại nạn, tất cả đều hân hoan mừng rỡ, nói cười rộn rã.

Phong Bá ngồi phịch xuống đất, tựa vào tường, cao giọng: “Cuối cùng cũng xong. Chi bằng mọi người uống rượu ăn mừng luôn?”



Thoắt chốc, không khí vui mừng chợt tan biến. Tất cả đều yên lặng, chẳng nói chẳng rằng, câu hỏi của Phong Bá rơi tõm vào thinh không.

Chúc Dung không buồn chào hỏi, cưỡi Tất Phương điểu bay mất đi.

Cộng Công định nói gì đó, nhưng chẳng biết phải nói gì, mấy trăm năm đấu đá liên miên, tuy chưa tới nỗi không đội trời chung như Xi Vưu và Chúc Dung, nhưng hắn và Xi Vưu cũng bằng mặt chẳng bằng lòng. Hắn đành chắp tay xá xá Xi Vưu rồi cưỡi Tập Tập ngư đi thẳng.

Phong Bá thấy vậy đành lẩm bẩm: “Xem như ta chưa nói gì đi!”

Hậu Thổ cười với Xi Vưu, Phong Bá và Vũ Sư, khách khí cáo từ: “Quân Hiên Viên còn quanh quẩn ngoài trướng của ta, ta cũng phải đi đây, rượu mừng xin hẹn lần sau vậy!” Dứt lời, Hóa xà đã cõng gã bay vút đi.

Xi Vưu nãy giờ vẫn đứng đó cười cười không nói, đột nhiên phun ra một búng máu, ngã ngửa ra sau ngất lịm. Phong Bá hốt hoảng, cuống quýt gọi thầy thuốc.

Thầy thuốc chẩn bệnh xong tái mặt ấp úng: “Tinh khí kiệt quệ, nguyên thần tán loạn, e rằng, e rằng… phải chuẩn bị hậu sự thôi.”

Phong Bá nghe nói sững cả người, bốn tên Si Mỵ Võng Lượng lập tức túm lấy thầy thuốc, vung tay định đánh: “Ngươi nói gì hả?”

A Hành nấp đằng sau thấy vậy liền nhào tới xem xét thân thể Xi Vưu: “Xi Vưu đã bị trọng thương, không chịu tĩnh tâm trị liệu còn hao tổn tinh nguyên, dùng thọ mạng hoán đổi linh lực, khiến thương thế nặng hơn, nếu không cứu chữa kịp thời, e rằng sẽ nguy đến tính mệnh.”

Phong Bá vội hỏi: “Cách tu luyện của Xi Vưu khác hẳn bọn ta nên ta không dám truyền bừa linh lực vào người huynh ấy, liệu có cách nào cứu được không?”

A Hành ngẫm nghĩ một hồi, đoạn đáp: “Ngươi tin ta không? Nếu tin thì giao Xi Vưu cho ta, ta nhất định cứu được chàng.”

Phong Bá không biết A Hành là ai, nhưng nhìn lời nói, cử chỉ của Xi Vưu, hắn cảm thấy tình nhân của Xi Vưu rất có vấn đề, bằng không Xi Vưu ngang ngược liều lĩnh như vậy, hà cớ gì phải đau khổ nhẫn nhịn bấy nhiêu năm?

Đương lúc Phong Bá phân vân do dự, Vũ Sư nãy giờ lặng thinh bỗng khàn khàn cất tiếng: “Xi Vưu đã chọn cô nên ta tin cô.” Thấy Vũ Sư gật đầu ra hiệu cho mình, lại nghĩ đến Xi Vưu đang cơn nguy kịch, Phong Bá đành quyết định: “Ta tin cô.”

“Vậy giao Xi Vưu cho ta. Đợi khi chàng tỉnh lại, linh lực sẽ còn cao hơn bây giờ nữa!” A Hành bế Xi Vưu lên, gọi A Tệ và Tiêu Dao lại nói nhỏ: “Đến Cửu Lê.”

Hoa đào đã nở đỏ sườn núi Cửu Lê, rạng rỡ hơn nắng sớm, mỹ lệ hơn ráng chiều.

Tế đài trắng toát sừng sững giữa rừng hoa, cổ kính tang thương, nghiêm trang tịch mịch.

Dưới bóng hoa rơi rợp trời, những chiếc chuông gió quanh tế đài đinh đinh đang đang, ngân nga reo rắt theo làn gió xuân hây hẩy, như gần như xa. A Hành bề Xi Vưu men theo thềm đá bước lên đài, rồi đặt hắn nằm xuống chính giữa đài tế. Tiêu Dao và A Tệ đã tự động lẩn vào rừng đào, vừa nghỉ ngơi vừa nô giỡn.

Bầu trời tối đen như mực, còn hơn ba canh giờ nữa mới tới bình minh.

A Hành nằm xuống cạnh Xi Vưu, gối lên tay hắn, âu yếm ngắm hắn thiêm thiếp ngủ, ngón tay khe khẽ vuốt ve gương mặt hắn, đắm chìm trong mùi đàn ông phả ra từ hắn, bao lo lắng muộn phiền dồn nén suốt một năm qua đều tan biến cả.

Từ khi quen nhau đến giờ, bọn họ chẳng bao giờ có dịp chuyện trò tâm sự, lúc vắng bóng thì thấy nôn nao trăm ý ngàn lời muốn tỏ bày, nhưng hễ gặp gỡ lại chẳng thốt ra được câu nào.

A Hành tựa vào lòng Xi Vưu, nhắm nghiền mắt thiếp đi.

Đằng Đông dần dần hửng sáng, vầng dương đã bắt đầu nhô lên, nỗ lực xuyên qua tầng mây dày đặc cuối trời, tỏa nắng xuống nhân gian, để vạn vật sinh sôi nảy nở.

A Hành ngồi dậy ngước mắt chăm chú ngắm mặt trời, như thể cảm nhận được những vật lộn và cố gắng không ngừng nghỉ của nó, từng chút từng chút một, bể mây cuồn cuộn mịt mờ cũng bị ánh dương xuyên thấu.

Sau cùng, vầng thái dương cũng nhô hẳn lên, xua tan bóng đêm mù mịt, cả chân trời chan hòa trong ánh nắng mai.

A Hành chẳng nề lòa mắt, cứ đăm đăm nhìn thẳng vào vầng mặt trời vừa ló xuất hiện, tay nắm chặt lấy tay Xi Vưu. Có lẽ tiếp sau bóng tối vẫn là bóng tối, nhưng chỉ cần kiên trì vượt qua vô số bóng tối mênh mông, hẳn sẽ thấy lóe lên một tia sáng cuối đường.

Xi Vưu từ từ mở mắt, thấy nắng vàng ươm rực rỡ quanh mình, đẹp như gấm lụa, nhưng hết thảy những mỹ lệ chói lòa đó đều không sánh nổi người con gái đang nắm tay hắn, ngồi bên cạnh hắn lúc này.

Lòng Xi Vưu rộn lên vui sướng, khẽ thì thầm: “A Hành, chúng mình lại về nhà rồi.”

A Hành đặt ngón tay lên môi hắn lắc đầu, tỏ ý đừng lên tiếng. Nàng cúi đầu lặng thinh ngắm hắn, đầu mày cuối mắt chứa chan tình ý, vấn vấn vương vương, triền miên khắc cốt. Linh lực của A Hành mang theo năng lượng mặt trời từ từ chảy vào thân thể Xi Vưu, khiến lục phủ ngũ tạng, xương cốt tay chân hắn đều giãn ra khoan khoái, đôi mắt từ từ khép lại, ý thức dần chìm vào bóng đêm thăm thẳm dịu dàng, hắn thấy mình bị bao bọc trong một lớp vỏ dày thật dày, dường như đã biến thành một hạt giống vậy, chỉ đợi gieo xuống mảnh đất màu mỡ là nảy mầm bén rễ rồi lớn lên.

Thương thế Xi Vưu dần dần ổn định, nhưng hai tay và vai A Hành lại rộp lên vì bỏng, chỗ đỏ chỗ đen loang lổ, đau đến run bắn người lên. Nàng nén đau bế Xi Vưu bước vào rừng đào, Tiêu Dao lập tức đậu ngay xuống trước mặt.

A Hành hỏi: “Lần này Xi Vưu bị thương rất nặng, nếu linh thể không được bảo quản tại một nơi dồi dào linh khí như Quy khư, e rằng đã hồn phi phách tán từ lâu. Ta nghĩ mãi, thấy nơi ấy chỉ có thể là thành địa Bắc Minh trong truyền thuyết mà thôi, chính mày đã cứu chàng đúng không?”

Tiêu Dao ngẩng cao đầu quác lên một tiếng đầy đắc ý.

“Giữa chàng và mày, chắc chàng sẽ không nói lời cảm tạ đâu, nhưng ta vẫn phải cảm ơn mày.” A Hành giao Xi Vưu cho Tiêu Dao rồi chắp tay hành lễ với nó, “Chàng liều mạng tới tìm ta, đã hao phí quá nhiều tinh nguyên, nếu không lập tức điều dưỡng, chỉ e bất cứ lúc nào cũng có thể linh hủy thể tiêu. Bây giờ thiên hạ đang chia năm xẻ bảy, cứ theo tính tình Xi Vưu, ắt chẳng chịu ngồi yên mà dưỡng thương, nên ta đã phong bế linh thức của chàng lại, phiền mày đưa chàng đến Bắc Minh tĩnh dưỡng. Lần sau, khi chàng tỉnh lại, thân thể sẽ khôi phục hoàn toàn, linh lực cũng tiến lên một tầng cao mới.”

Nghe A Hành dặn dò, Tiêu Dao liền quắp Xi Vưu sải cánh bay vút về phía cuối trời. A Tệ ngẩng đầu trông theo, hú lên buồn bã.

A Hành đứng lặng dưới gốc đào hút mắt nhìn theo Tiêu Dao, mãi đến khi bóng chim khuất giữa ngàn mây, nàng vẫn chưa thôi ngơ ngẩn trông vời.

Hồi lâu, nàng quay đầu lại, bắt gặp đôi mắt to tròn long lanh của A Tệ chăm chú nhìn mình như đang hỏi: Mùa hoa đào sang năm lại được cùng Xi Vưu và Tiêu Dao chơi đùa chứ?

Đối diện với ánh mắt chứa chan hy vọng của A Tệ, A Hành nghe lòng xót xa khôn tả, lệ tràn khóe mắt. A Tệ nào biết được cuộc chiến giữa Hoàng Đế và Viêm Đế đã thay đổi vận mệnh cả đại hoang, nó càng không hiểu cái chết của Thanh Dương đã ngăn cách nàng và Xi Vưu mỗi người một bờ chiến tuyến, sông lớn có thể chèo thuyền mà sang, núi cao có thể cưỡi chim mà lên, nhưng còn hài cốt của người thân sao nỡ bước qua đây?

Hoa đào lả tả ngợp trời, phớt qua má nàng, đậu lên vai nàng, chuyện xưa cũng lần lượt hiện ra rành rành trước mắt. Ngày này năm ngoái, nàng còn hăng hái bày biện nhà cửa, dạt dào hy vọng kề bên nhau suốt cuộc đời.

Chẳng ngờ nhà vẫn đây mà duyên đã dứt.

Từ nay về sau, mỗi mùa đào nở, họ sẽ mãi mãi không thể gặp nhau dưới cội hoa đào được nữa.

A Hành ròng ròng nước mắt, cắn ngón trỏ vạch lên thân cây một hàng chữ bằng máu: “Giữa Thừa Ân điện tình quyến luyến, dưới cội hoa đào hẹn thành không, ly biệt từ đây, xin đừng nhung nhớ.”
Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 10:16 PM
Chương 27

Đa tình chỉ chuốc lấy hận sầu (1)

27.1


Đáp lại hắn chỉ có căn nhà sàn vắng ngắt, mảnh trúc đứt đoạn cái ngắn cái dài, rèm sa đầy những phân chim, vườn rau um tùm cỏ dại, nếu chẳng thấy bờ đất đắp bằng đá xanh, e rằng không thể nhận ra đây là một mảnh vườn rau. Giậu trúc lưa thưa đã xiêu đổ quá nửa, mấy đóa tường vi đỏ thắm mọc tràn lan, lấp cả lối đi.

Chỉ còn chiếc chuông gió dưới mái hiên ngân lên từng tràng đinh đang thê thiết.

[1] Câu thơ trích trong tiểu thuyết Hoa nguyệt của Hoàng Tử An, thời nhà Thanh, (ND)

Đợi suốt đêm chẳng thấy A Hành, Xương Ý đang phát hoảng lên vì lo sợ thì bắt gặp nàng quay lại, y thở phào nhẹ nhõm, khẽ trách: “Muội chạy đi đâu thế? Làm ta đợi mãi.”

A Hành cúi đầu làm thinh, vừa lúc đó, Di Bành tươi cười bước vào: “Phải rồi, có tin này chẳng hay Tứ ca đã biết chưa, Xi Vưu vẫn còn sống sờ sờ.”

Xương Ý kinh ngạc quay sang A Hành: “Thật ư?”

Di Bành cướp lời đáp: “Hôm qua, rất nhiều người trông thấy Xi Vưu đứng trên Trạch Châu thành, chẳng phải hôm qua tiểu muội cũng tới Trạch Châu ư? Lẽ nào không thấy hắn?”

Xương Ý trừng mắt nhìn A Hành đầy đau xót rồi đột ngột quay lưng đi thẳng.

A Hành căm hận lườm Di Bành, đoạn vội vã đuổi theo Xương Ý.

“Tứ ca, Tứ ca…”

Xương Ý đanh mặt lại, bỏ ngoài tai tiếng gọi của nàng, đi thẳng vào phòng, quay mình toan đóng cửa nhưng A Hành đã nhanh tay đẩy cửa ra lách người vào. Xương Ý ngồi bịch xuống trước bàn, mắt nhìn mũi, mũi nhìn ngực, như đang nhập định. Mặc A Hành cười xí xóa, huyên thuyên hết chuyện này sang chuyện khác, y vẫn lặng yên.

“Tứ ca, huynh nói gì đi chứ.”

Xương Ý làm thinh, không trách cứ một lời khiến A Hành thấy lòng đau đớn như dao cắt. Từ nhỏ đến lớn, Tứ ca luôn chiều theo ý nàng, bất kể nàng bày trò gì, gây ra họa lớn đến đâu, y cũng chỉ lắc đầu cười khổ: “Ai bảo muội là muội muội của ta chứ.”

A Hành vội lắc lắc tay Xương Ý, rơm rớm nước mắt khẩn cầu: “Tứ ca, huynh cứ đánh cứ mắng muội đi, đừng bỏ mặc muội như thế này, muội chỉ còn một ca ca là huynh thôi mà.”

Xương Ý nghẹn ngào nói: “Ta chẳng còn vị ca ca nào nữa cả, muội quên Đại ca đã chết thế nào rồi ư?”

A Hành run lên bần bật, khẽ đáp: “Muội không quên đâu!”

“Vậy đêm qua muội đi đâu?”

Gương mặt A Hành lộ vẻ bi thương, nàng lặng thinh không nói.

Xương Ý gằn giọng: “A Hành, cả đời này, ta sẽ không tha thứ cho Xi Vưu đâu!”

A Hành gục đầu xuống, buồn thảm đáp: “Muội biết chứ, muội đã nói rõ với chàng rồi, từ nay về sau, muội sẽ không gặp lại chàng nữa.”

Nghe nàng nói vậy, cơn giận của Xương Ý nguôi dần, thay vào đó là bi ai khôn xiết. Y chẳng muốn bức bách em gái, nhưng cũng không thể chấp nhận để em gái mình ở bên kẻ thù giết Đại ca.

Đột nhiên, Bán Hạ ở ngoài gõ gõ vào song cửa gọi: “Vương cơ.”

A Hành gắng lấy lại bình tĩnh, hé cửa sổ ra, “Gì thế?”

Bán Hạ ghé tai nàng thì thầm mấy câu, A Hành gật đầu rồi quay lại bảo Xương Ý: “Tứ ca, huynh dắt Liệt Dương đi tìm Di Bành, cầm chân hắn dùm muội, muội ra ngoài có chút việc.”

Thấy A Hành lộ vẻ căng thẳng, hơn nữa Bán Hạ là thân tín do Đại ca đích thân huấn luyện, Xương Ý liền đứng dậy: “Muội đi đi, Di Bành cứ giao cho ta và Liệt Dương.”

Bán Hạ dẫn A Hành ra khỏi dịch quán, đi thẳng vào rừng, vừa đến nơi, một nữ tử áo trắng nấp trong bóng tối lập tức bước tới đón nàng, chính là Vân Tang mấy hôm nay không gặp.

A Hành tinh ý, thấy cổ tay Vân Tang hằn lên vết dây trói, vội kinh hoàng hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế, kẻ nào to gan dám trói tỷ vậy?”

Vân Tang buồn bã: “Di Bành và Hậu Thổ đều muốn ngăn Thanh Dương kết hôn với ta. Di Bành bày kế cho Hậu Thổ, chỉ cần bắt giam ta mười ngày, hắn sẽ có cách khiến Hoàng Đế thay đổi chủ ý, Hậu Thổ nghe lời, bèn trói ta nhốt lại. Hôm qua, nhân lúc hắn tất tả ra ngoài, ta liền bỏ trốn, về sau mới nghe nói hắn đi giúp Xi Vưu ngăn lũ. Bao năm nay hắn tranh giành binh quyền với Xi Vưu, thế như nước lửa, vậy mà lần này lại ra tay tương trợ Xi Vưu, không so đo chuyện cũ, xem ra dù hắn hồ đồ chuyện nhỏ, nhưng việc lớn vẫn chu toàn.”

“Di Bành ngăn cản việc kết thông gia vì là căm hận bọn muội, sao Hậu Thổ lại giúp hắn?”

Vân Tang luôn canh cánh mối hận Hiên Viên suýt nữa nhấn chìm Trạch Châu, liền lạnh lùng châm chọc: “Muội sợ Hậu Thổ đầu quân cho Di Bành, đối địch với muội ư? Gã vẫn hàm ơn muội đã bảo vệ mình hồi nhỏ, lại ghét Di Bành nham hiểm tàn độc, nhất định không về phe Di Bành đâu, lần này chúng lợi dụng lẫn nhau đấy thôi.”

“Muội, muội… Hậu Thổ đệ ấy…”

“Đây là chuyện riêng của Thần Nông tộc chúng ta, muội thân là vương cơ Hiên Viên, chớ nên hỏi nhiều.”

Nghe Vân Tang nói, A Hành chợt thấy nghẹn ngào chua xót. Chiến tranh đã đập nát mọi thứ, bao gồm cả tình nghĩa giữa nàng và Vân Tang.

Nhìn nét mặt A Hành, lại hồi tưởng tình thân thuở trước, lòng Vân Tang cũng quặn thắt bi thương, nhưng chẳng biết nói gì, đành kiếm chủ để khác để xoa dịu: “Xi Vưu vẫn còn sống, chúc mừng muội muội.”

A Hành hiểu tâm ý Vân Tang, lòng cũng vơi bớt đôi phần, cười đáp: “Muội cũng chúc mừng tỷ tỷ.”

Vân Tang gật đầu cười, “Mộc Cận đúng là trẻ con, nghe nói Xi Vưu vẫn còn sống bèn tức tốc chạy đến Trạch Châu nhưng không gặp, bèn tức tối báo với ta rằng Xi Vưu trọng thương, bị một yêu nữ đưa đi, đòi ta phái thêm người giúp muội ấy truy tìm yêu nữ kia.” Vân Tang thở dài, “Chắc muội cũng nhận ra Mộc Cận trước giờ nhất mực rất si tình với Xi Vưu, nhưng Xi Vưu chỉ dửng dưng. Muội ấy không biết chuyện giữa Xi Vưu và muội, lỡ như có gì mạo phạm, muội cũng đừng đa nghi ngờ vực Xi Vưu, nên thông cảm cho hắn một chút.”

A Hành khẽ nói: “Muội và Xi Vưu không thể sống bên nhau được, từ nay về sau, muội là muội, hắn là hắn.”

Vân Tang lặng người đi, cuộc chiến này đã xoay chuyển vận mệnh thiên hạ, cũng thay đổi luôn số phận của họ. Lát sau, nàng lại hỏi: “Giờ Xi Vưu đang ở đâu? Thương thế của hắn bao lâu nữa mới lành?”

“Muội đã nhờ Tiêu Dao đưa hắn tới nơi an toàn để dưỡng thương rồi. Đường lối tu luyện của Xi Vưu rất quái dị, có lẽ dăm ba năm là khỏi thôi.”

Vân Tang trầm tư hồi lâu, đoạn nói: “Muội lập tức triệu tập chư hầu Thần Nông về đỉnh Tử Kim đi, ta sẽ tuyên bố nhận lời gả cho Thanh Dương.”

“Tỷ nghĩ kỹ rồi chứ?”

“Đại quân Hiên Viên vẫn đóng ngoài Trạch Châu thành, nếu đổi lại là muội, muội có thể cự tuyệt yêu cầu của Hoàng Đế chăng? Hai chúng ta đều hiểu Hoàng Đế muốn kết thông gia nhằm tạo cầu nối, tiến tới thu phục các bộ tộc Thần Nông dễ dàng hơn, ta cũng nhận lời gả cho Thanh Dương để đổi lấy hòa bình tạm thời, tranh thủ thời gian cho Xi Vưu thôi.”

A Hành trầm ngâm giây lát: “Muội sẽ đi thông báo với Tứ ca, lập tức triệu tập chư hầu Thần Nông.”

“Muội thưa lại với Hoàng Đế, tuy ta chấp nhận hôn sự, nhưng còn phải để tang mấy năm cho Du Võng, mong Hoàng Đế hãy tôn trọng lễ tiết Thần Nông.”

“Được!”

Khi A Hành và Vân Tang đến Tử Kim thành, Xương Ý và chư hầu các bên đã tề tựu đông đủ.

Vân Tang cười nhạt bảo A Hành: “Dạo trước mời mọc gãy lưỡi nào thấy mấy tên này đến, hôm nay Hiên Viên vừa hô một tiếng đã có mặt đông đủ. Thần Nông khó khăn lắm mới thắng được một trận, vậy mà chúng càng lúc càng chịu khó khom lưng uốn gối, chỉ nơm nớp sợ Hoàng Đế trút giận lên đầu thôi.”

A Hành cúi đầu nói nhỏ: “Đây là chuyện của Hiên Viên và Thần Nông, vương phi Cao Tân như muội không vào thì hơn.”

Vân Tang gật đầu với nàng, đoạn tiến thẳng vào đại điện.

Nghe tiếng, hết thảy mọi ánh mắt trong điện đều dồn về phía Vân Tang, chỉ thấy nàng mặc váy trắng, đứng ngay cửa điện, dáng như cây ngọc, anh khí bất phàm.

Bị phong thái của nàng chấn nhiếp, mọi người không hẹn mà lần lượt đứng cả dậy.

Đột nhiên, Vân Tang nhớ lại lần đầu tiên bước vào tòa đại điện này thuở nhỏ, nàng đã chỉ lên ngọc đài, nơi đặt vương tọa, hỏi phụ vương: “Sao thị vệ không cho con lên đó chơi?”

Phụ vương đáp: “Người đứng trên đó phải gánh vác mọi vui buồn hờn giận của muôn dân thiên hạ, con còn quá nhỏ, gánh không nổi đâu.”

“Vậy chừng nào con lớn, đủ sức gánh vác, có thể đứng trên đó ư?”

Phụ vương khẽ búng mũi nàng, cười xòa: “Tốt hơn hết là đừng bao giờ có ngày đó.”

Vân Tang nghiêm trang bước qua khung cửa cao cao, tiến vào đại điện, gót sen hương vướng, gió động màn là khiến khắp điện sực lên ngan ngát.

Nàng lướt qua bấy nhiêu chư hầu đang ngây ngẩn, bước tới trước ngọc đài, ngẩng đầu nhìn lên vương tọa bỏ không, như thể trông thấy phụ vương ngồi đó mỉm cười nhìn mình. Mãi đến hôm nay, nàng mới hiểu được nỗi bi ai lặn sâu trong mắt phụ vương.

Vân Tang nhắm nghiền mắt, hít một hơi thật sâu rồi bước lên ngọc đài, mỉm cười quay lại.

“Vương cơ!” Hậu Thổ từ trên không nhảy xuống, lao thẳng vào điện.

Vân Tang đưa mắt nhìn đám người bên dưới, phớt lờ tiếng gọi của Hậu Thổ, cao giọng tuyên bố: “Thần Nông Vân Tang ta bằng lòng kết hôn với Hiên Viên Thanh Dương.”

Tiếng hoan hô chúc mừng lập tức dậy lên khắp điện đài, át hẳn tiếng gọi tha thiết của Hậu Thổ.

Chỉ một câu, là dâu bể đổi dời, cỏ hoa tàn tạ.

Hậu Thổ đờ người giữa đại điện, mặt như tro tàn, hai mắt trừng trừng dán chặt vào Vân Tang.Vì sao? Vì sao nàng không tin ta có thể bảo vệ trăm họ Thần Nông? Vì sao nàng không để ta đem lại yên bình cho nàng?

Vân Tang một mực mỉm cười nhìn gã, vẻ kiên quyết lộ ra ánh mắt. Ta là Trưởng vương cơ Thần Nông, đây là trách nhiệm của ta! Ta có việc của ta, ngươi cũng có việc của ngươi!

Giữa tiếng cười nói chúc tụng, giữa trùng trùng nhân ảnh, giữa đại đại điện chói lọi vàng son, lung linh châu ngọc… Hậu Thổ khó nhọc quay mình, lết tấm thân đờ dại xuyên qua đám người huyên náo, ra khỏi đại điện.

Hóa xà đã đợi sẵn một bên nhưng gã nhìn mà như không thấy, chỉ men theo thềm điện, lê bước chân cứng ngắc xuống núi.

Bóng Hậu Thổ nhỏ dần nhỏ dần rồi từ từ khuất sau những bậc thềm quanh co ngoắt ngoéo.

Vân Tang đứng giữa thềm ngọc cao cao, đăm đăm trông ra ngoài điện, nụ cười tươi tắn vẫn nguyên vẹn trên môi, eo lưng thẳng tắp.

Vừa về đến Hiên Viên thành, Xương Ý và A Hành đã bị vây chặt giữa đám quần thần tới chúc tụng. Đám đông xúm quanh Xương Ý cười cười nói nói, hàn huyên trò chuyện xôn xao, chỉ có độc Di Bành lẻ loi lút cút đi sau.

Biết ý Hoàng Đế không vui về chuyện ở Trạch Châu, mọi người cũng lợt lạt hẳn đi với Di Bành. Khi trước, hắn chiến công hiển hách, được Hoàng Đế trọng thưởng liên tiếp nên đám triều thần nhất mực vây quanh bợ đỡ, có điều giờ đây gió đã đổi chiều, bao vinh quang xưa đều trở thành quá khứ.

A Hành lẳng lặng quan sát Di Bành nhưng chẳng bao lâu hắn đã phát hiện ra, bèn quay lại cười nhạt với nàng, ánh mắt đầy giễu cợt.

A Hành chợt thấy rùng mình, nàng và Di Bành đều biết, Hoàng Đế làm bộ khiển trách Di Bành như vậy, nhưng thực tế chẳng hề trừng phạt nặng nề gì, mọi thứ mới chỉ bắt đầu mà thôi!

Hoàng Đế ban thưởng cho Xương Ý thật hậu. Đợi hoàn tất mọi lễ tiết, quần thần đều đã cáo lui, chỉ còn lại mấy người bọn họ, Hoàng Đế bèn phán bảo A Hành: “Ta vốn muốn giữ con lại chăm lo cho mẫu hậu một thời gian nữa, nhưng Thiếu Hạo đã phái sứ thần tới đón con về, ta cũng không tiện níu kéo. Hơn nữa, Thanh Dương vẫn phải ở Quy khư bế quan trị thương, con về Cao Tân, nó cũng có người săn sóc.”

A Hành vội dập đầu từ biệt Hoàng Đế: “Con phải về thôi, lần này đi lâu như vậy, cũng là Thiếu Hạo phá lệ đặc cách rồi.”

Hoàng Đế bèn đỡ A Hành dậy, ôn tồn nói: “Con cùng Thiếu Hạo quả là trắc trở, thành hôn chưa lâu thì xảy ra chuyện ở Ngu uyên, con vừa khá lên lại tới lượt Thanh Dương trọng thương, đến giờ mới được sóng yên biển lặng. Con nên về bên Thiếu Hạo, sớm sinh cho nó một đứa con, bằng không dù ta muốn giúp con giành ngôi vương hậu cũng lực bất tòng tâm.”

A Hành dịu dàng đáp: “Phụ vương dạy rất phải.”

Hoàng Đế thở dài: “Con nha đầu này càng lớn càng hay nói dối, con tưởng ta không biết con nghĩ gì hả, con ngỡ ta thèm muốn vương vị Cao Tân chứ gì? Ta là vua một nước, quyền mưu đủ cả, nhưng Hành nhi à, ta cũng là cha con, ta làm vậy là nghĩ cho con thôi.” Nói rồi ông xoa đầu nàng, “Tuấn Đế đời trước vẫn sống sờ sờ trên Ngũ Thần sơn, vương vị của Thiếu Hạo còn chưa ổn định, nó ắt sẽ phải cầu đến sự hỗ trợ của các bộ tộc Cao Tân, mà nạp phi là phương pháp đơn giản hữu hiệu nhất, con không thể là người đàn bà duy nhất của nó được, nếu có sự gì, phụ vương nước xa chẳng cứu được lửa gần, chỉ có đứa nhỏ là chỗ dựa lâu dài của con thôi.”

A Hành làm thinh không nói, chỉ mím chặt môi, lộ vẻ quật cường. Hoàng Đế chăm chú nhìn nàng, đột nhiên thấy mệt mỏi vô chừng, bèn xua tay bảo: “Con mau về Triêu Vân phong với mẹ đi, để bà ấy…” Hoàng Đế trầm ngâm, lưỡng lự hoài không nói tiếp, như chẳng hề nhận thấy mình ngập ngừng đã quá lâu, mãi tới khi A Hành ngước lên dò hỏi, ông mới sực tỉnh: “Khuyên bà ấy nên bảo trọng lấy mình.”

“Vâng!”A Hành dập đầu lặng lẽ lui ra.

Sớm hôm sau, A Hành từ biệt mẹ và anh trai, trở về Cao Tân.

Về tới Thừa Ân cung, trời đã ngả chiều, đám cung nữ ra đón nàng thưa: “Bệ hạ đang bận nghị sự, dặn vương phi cứ dùng cơm trước, đừng đợi ngài.”

A Hành gật đầu, đi thẳng vào tẩm cung.

Dọc đường nàng đi san sát đình đài lầu gác, rường cột chạm trổ, tùng bách xanh um tươi tốt, kỳ hoa dị thảo ngan ngát hương đưa, lối trúc bờ sen lại thông thẳng tới một vòm trời khác. A Hành chưa thấy cung điện nào lộng lẫy hơn Thừa Ân cung, chắc hẳn người đời đều cho rằng chủ nhân nơi này rất xa hoa giàu có, nhưng A Hành nghĩ có lẽ Thiếu Hạo cũng chẳng biết bên trong Thừa Ân cung có những gì, bởi cuộc sống của y chỉ gói gọn giữa tẩm cung và chính điện.

A Hành dùng bữa xong, rửa mặt chải đầu tề chỉnh mà Thiếu Hạo vẫn chưa về. Nàng một mình ngồi đợi cũng chán, nhân lúc trăng sáng, bèn ra ngoài tản bộ.

A Hành chẳng mấy thông thạo đường sá, vô tình lại lạc bước tới một khu vườn quen thuộc – chính là Y Thanh viên mà Tuấn Đế yêu thích nhất.Có lẽ Thiếu Hạo chẳng bao giờ lai vãng tới đây, cũng chẳng có phi tần nào qua lại du ngoạn, nên đám cung nhân lười biếng cũng để mặc cho cỏ dại mọc đầy, che kín cả lối đi.

A Hành thả bộ men theo dòng nước quanh co, dưới ánh trăng, rặng trúc bên bờ xanh ngắt một màu, đu đưa trước gió, phất phơ xào xạc, khiến nàng không khỏi chạnh lòng tự hỏi, vị công tử phong lưu nằm dài bên bờ nước, gối đầu lên đá đọc sách giờ đang làm gì? Nếu ông còn ở đây, trước cảnh trăng thanh gió mát thế này, hẳn sẽ thả bước dưới trăng, tay cầm ống tiêu, vừa đi vừa ngâm vịnh dưới bóng trúc nghiêng nghiêng xanh mướt.

“Nàng nghĩ gì thế? Ta vừa đến đã thấy nàng đứng ngây ra đó rồi.” Thiếu Hạo vận bạch y, đạp lên ánh trăng mà đến, đứng ngay cạnh tảng đá xanh bên bờ nước.Y dáng dấp thanh nhã, lại thêm bóng trúc tầng tầng lớp lớp dập dờn xao động sau lưng, thoạt trông chẳng khác nào người đó.

A Hành lặng lẽ thở dài không đáp.

Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng nước chảy róc rách hòa cùng tiếng lá trúc xào xạc, hệt như một khúc nhạc du dương bất tận.

Thiếu Hạo cúi đầu nhìn bóng trăng lấp loáng trên mặt nước, ánh mắt chợt mông lung, “Lâu lắm rồi, ta chẳng có lúc nào bình tâm lắng nghe tiếng nước chảy cả.”

A Hành nghiêng mình ngồi xuống tảng đá bên bờ, “Thiếp chưa kịp hỏi ý kiến chàng về việc kết thông gia giữa Hiên Viên và Thần Nông đã tự tiện đưa ra quyết định mất rồi.”

“Nàng làm đúng lắm, Hoàng Đế muốn thu phục Thần Nông, phải vận dụng cả cứng lẫn mềm, chuyện kết thông gia là đương nhiên thôi, nếu không phải Thanh Dương thì là Di Bành, không phải sống thì là chết, chỉ có một con đường, chúng ta không đi không được.”

“Phụ vương nói hiện giờ chàng đang lâm vào tình thế khó khăn, tốt nhất là dựa vào việc sách phong phi tần để chia rẽ và lôi kéo các gia tộc, chàng đã chọn được ai vừa ý chưa?”

Thiếu Hạo trân trân nhìn A Hành hồi lâu, đoạn cúi đầu hờ hững đáp: “Thân làm đế vương, còn mơ mộng tư tình viển vông sao được. Phụ vương ta một đời ôn nhu đa tình, khiến hai chị em Thường Hy thị thao túng hậu cung, ảnh hưởng cả tới triều chính. Hoàng Đế anh minh thần võ, nhưng cứ dùng dằng mãi không giải quyết được chuyện giữa mẫu hậu nàng và Đồng Ngư thị, đến nỗi tranh đấu hậu cung suýt biến thành mối họa thiên hạ. Thấy bao nhiêu vết xe đổ đó, ta nào dám có tình cảm với ai nữa chứ?”

Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 10:18 PM
Chương 27

Đa tình chỉ chuốc lấy hận sầu

27.2


A Hành chăm chú nhìn Thiếu Hạo. Tuy ngoài miệng y khăng khăng không mơ mộng viển vông, nhưng từ lúc đăng cơ tới giờ, mặc cho đế vị chông chênh, y vẫn nhất quyết chẳng nạp thêm phi tần, có lẽ không chỉ ôn nhu đa tình mới được gọi là nặng tình vương vấn, lạnh nhạt hờ hững có khi cũng là tình cảm đấy thôi.

“Chàng còn nhớ giao ước khi xưa của chúng ta không? Thiếp giúp chàng đăng cơ, chàng cho thiếp tự do, nhưng tình hình hiện giờ, thiếp không thể ra đi được nữa, có thể đổi điều kiện khác không?”

Thiếu Hạo giật thót mình, phải trấn tĩnh giây lát mới dè dặt hỏi: “Điều kiện gì?”

“Thiếp có mang rồi.”

Thiếu Hạo lặng người không đáp, chẳng rõ tâm tình biến chuyển ra sao.

A Hành nài nỉ: “Thiếp biết, bắt chàng nhận đứa nhỏ này làm con đúng là làm khó cho chàng, thiếp chỉ mong chàng cho nó mang họ Cao Tân, để nó bình yên trưởng thành mà thôi. Thiếp sẽ viết huyết thư nói rõ thân thế của nó, nhất định nó không dám tranh giành đế vị đâu…”

“Đứa trẻ này là máu mủ ruột rà của ta mà, chẳng phải ta đã nói từ rày trở đi, ta chính là Thanh Dương ư?”

A Hành giàn giụa nước mắt, liền phục xuống lạy tạ Thiếu Hạo, “Đa tạ chàng.” Nào ngờ cả người nàng chợt mềm nhũn, ngã dụi xuống đất. Thiếu Hạo vội vã đỡ lấy, đưa tay thăm mạch, không che giấu được vẻ kinh hoàng: “Sao mạch tượng của nàng loạn lên thế này? Để ta gọi thầy thuốc nhé?”

A Hành gượng cười, “Chàng đừng quên sư phụ thiếp là ai chứ, thân thể thiếp thiếp tự biết mà, vừa nãy thiếp có uống ít thuốc…” Nàng ghé tai Thiếu Hạo nói nhỏ mấy câu.

Thiếu Hạo hỏi ngay: “Liệu có nguy đến tính mạng không?”

A Hành cười, “Ai sinh con mà chẳng mạo hiểm? Không sao đâu, chàng đừng lo, chỉ cần phối hợp cùng thiếp diễn cho trót lọt là được.”

Thiếu Hạo bế nàng đưa về tẩm cung, chờ đám thị nữ sắp xếp cho nàng nghỉ ngơi rồi mới lui ra. Đột nhiên, A Hành nắm lấy tay áo Thiếu Hạo, đưa mắt nhìn y.

Thiếu Hạo hiểu ý, liền quay sang lệnh cho đám thị nữ đứng hầu phía sau: “Tối nay ta sẽ nghỉ lại đây.”

Mấy ả thị nữ nhìn nhau, hầu hạ Thiếu Hạo rửa mặt rồi đồng loạt lui ra.

Giữa đêm khuya, chỉ còn A Hành và Thiếu Hạo nằm song song trên giường, mỗi người ôm một bầu tâm sự.

Ban ngày A Hành đã uống thuốc nên bây giờ dược tính phát tác, tuy khắp người rời rã nhưng không sao ngủ được.

Thiếu Hạo trở mình quay sang, đặt tay lên trán nàng, từ từ truyền năng lượng thủy linh nhu nhuyễn dịu dàng vào người A Hành, giúp nàng bớt bứt rứt khó chịu, cơn buồn ngủ cũng theo đó mà kéo đến.

“Cảm ơn chàng.”

“Xi Vưu biết chuyện đứa nhỏ chưa?”

A Hành buồn ngủ đến ríu cả mắt, mơ mơ màng màng đáp: “Chưa biết.”

“Nàng có định cho hắn biết không?”

Không nghe tiếng đáp, A Hành đã mê mệt thiếp đi. Thiếu Hạo vẫn đặt tay trên đầu nàng hồi lâu mới thu tay về.

Y khẽ khàng trở mình, quay lưng lại phía A Hành.

Ánh trăng trong len qua khung cửa gỗ tùng xanh tràn vào phòng như thủy ngân, rọi xuống mặt đất thành từng vũng trăng biêng biếc lập lòe. Bóng cây ngoài song lay động, bóng trăng dưới đất cũng dập dờn theo, chẳng khác nào muôn ngàn đợt sóng. Nhớ lại, sau khi bọn họ thành hôn, lần đầu tiên thẳng thắn trao đổi, kết thành đồng minh, cũng vào một đêm trăng thanh gió mát thế này, đêm ấy, y cũng trằn trọc suốt đêm không ngủ.

Nếu thời gian có quay trở lại để y được lựa chọn lần nữa, liệu y sẽ chọn cái gì đây?

“Làm vương tử phi, hay làm vợ của chàng?”

“Vợ là người đời này kiếp này chỉ có một mà thôi.”

Giọng nói trong trẻo của A Hành vẫn còn văng vẳng bên tai, nhưng y chẳng còn cơ hội trả lời lại nữa.

Vì Vân Tang đã nhận lời cầu hôn của Thanh Dương, Hoàng Đế lập tức ngừng tiến đánh Thần Nông, hai bên tạm thời đình chiến. Lợi dụng cơ hội này, Thiếu Hạo bắt đầu cải cách mạnh mẽ.

Đằng sau vẻ ngoài bình yên là một cơn sóng gió lớn đang âm thầm dấy động, nhưng dù sao, trước mắt vẫn là hòa bình an ổn.

Sáu tháng sau, A Hành nhận được thư Xương Ý, báo tin Xương Phó đã có thai. Xương Ý hào hứng kể, từ khi biết Xương Phó có mang, tinh thần mẹ khá lên nhiều, sức khỏe cũng ổn hơn, lại bắt tay vào chăn tằm dệt vải, may quần áo cho đứa nhỏ.

A Hành cầm lá thư, mỉm cười.

Lại thêm sáu tháng nữa, Thiếu Hạo công bố việc A Hành có thai với bá quan văn võ. Tin này truyền đến Hiên Viên, Hoàng Đế lập tức phái sứ giả mang đủ thứ dược thảo quý hiếm tới hỏi thăm A Hành, đi cùng sứ giả còn có một danh y.

Danh y thỉnh cầu Thiếu Hạo cho phép mình thăm khám cho A Hành, Thiếu Hạo không nói gì nhưng đám danh y cung đình Cao Tân thì rất khó chịu, cảm thấy danh y này nghi ngờ năng lực của bọn họ, làm nhục cả nền y thuật Cao Tân.

Sứ giả vội cười xoa dịu: “Là Hoàng Đế và vương hậu nương nương cứ thấp thỏm nhớ mong vương cơ, nên sai danh y đến thăm mạch rồi về bẩm cáo với Hoàng Đế và nương nương để hai vị yên tâm đó thôi.”

Đám danh y Cao Tân đang định buông lời chế nhạo, Thiếu Hạo liền cười giảng hòa: “Chuyển lời chẩn đoán của các người tới Hiên Viên dù sao cũng cách một tầng, chi bằng để vị danh y này tự thăm khám rồi về bẩm cáo Hoàng Đế cho tiện, vương phi lấy chồng xa, chiều ý mẹ cha để hai vị yên tâm xem như là tận hiếu.”

Bấy giờ, đám danh y Cao Tân mới hậm hực làm thinh.

Danh y bắt mạch xong một lượt, thần tình hoang mang, vẻ lo âu ra mặt, thấy vậy, Thiếu Hạo ngồi bên vội hỏi: “Sao thế?”

Danh y lau mồ hôi trán, lắp bắp thưa: “Không, không sao cả, thần phải xem lại một lần nữa.”

Mấy vị danh y cung đình cười khinh khỉnh. Dưới ánh mắt chòng chọc của mọi người, gã danh y Hiên Viên lại chẩn đoán thật kỹ lần nữa, một lúc lâu sau, gã buộc phải thừa nhận mình nhất trí với kết quả chẩn đoán của các danh y Cao Tân, A Hành đã mang thai sáu tháng, cả hai mẹ con đều khỏe mạnh, có điều huyết khí hơi kém, song chẳng có gì đáng ngại, chỉ cần điều dưỡng tử tế là ổn.

Rõ ràng đây là tin tốt lành, nhưng tay danh y lại không giấu nỗi vẻ thất vọng, đành gượng tươi tỉnh trả lời Thiếu Hạo mấy câu rồi vội vã cáo lui.

Hơn hai năm sau, Xương Phó mẹ tròn con vuông sinh được một bé trai, Hoàng Đế ban tên là Chuyên Húc.

Hoàng Đế lại phái sứ giả tới Cao Tân thăm hỏi A Hành, lần này sứ giả đem theo hai bà mụ tinh thông y thuật, nói rằng phụng mệnh Hoàng Đế đến chăm sóc cho nàng. A Hành biết Di Bành lại giở trò quỷ, nhưng vẫn định tương kế tựu kế, nhân dịp này chứng minh mọi chuyện, nên để mặc cho hai mụ già đó theo bên mình.

Tháng Tư năm sau, dưới sự trợ giúp của các danh y, A Hành trở dạ sinh con.

Đứa bé sinh ra vô cùng khỏe mạnh, nhưng A Hành lại phải trải qua một phen thập tử nhất sinh. Nếu không nhờ Thiếu Hạo dùng linh lực kết thành trận pháp, lại thêm thủy ngọc Quy khư bảo hộ tâm thần, e rằng A Hành không sao chịu đựng nổi tới khi đứa nhỏ chào đời. Hai bà mụ còn chẳng dám đụng vào người A Hành, sợ gánh trách nhiệm, chỉ đứng đờ ra một bên, thấy đứa bé chào đời suôn sẻ lập tức chuồn khỏi tâm cung.

Nghe tiếng đứa nhỏ khóc oa oa, Thiếu Hạo vội chạy vào phòng.

Thấy cả người A Hành dầm dề mồ hôi, mê man bất tỉnh, y liền nắm lấy tay nàng, truyền thêm linh lực vào hỗ trợ.

Bấy giờ A Hành mới hơi tỉnh lại, thì thào gọi: “Con ơi, con!”

Thiếu Hạo lập tức gọi thị nữ, thị nữ liền bế đứa trẻ vừa tắm rửa sạch sẽ tới trước mặt Thiếu Hạo, mừng rỡ thưa: “Chúc mừng bệ hạ, là một vương cơ.”

Thiếu Hạo ẵm đứa bé vào lòng, lạ thay, đứa bé đang gào khóc oa oa đột ngột nín bặt, đôi mắt đen láy tròn xoe nhìn Thiếu Hạo, khóe miệng xinh xinh bỗng nhoẻn cười. Thiếu Hạo mỉm cười, ôm đứa bé cho A Hành ngắm: “Là con gái đó.”

A Hành khó nhọc mở mắt ngắm nhìn gương mặt con, đoạn nàng rút Trụ Nhan hoa, cắn ngón giữa bôi máu lên, biến Trụ Nhan hoa thành một đóa hoa đào nhỏ bằng móng tay. Được nhuộm bằng máu A Hành, đóa hoa càng thắm tươi kiều diễm, hệt như vừa trảy từ cành.

Thiếu Hạo lo lắng: “Nàng định làm gì? Nàng vừa hao tổn rất nhiều linh lực, không được…”

A Hành đặt đóa hoa đào bằng móng tay lên mi tâm đứa nhỏ, cả đóa hoa lập tức đỏ hồng lên, nóng rãy như sắt trong lò, khiến đứa nhỏ bị phỏng khóc ré lên.

A Hành lấy ngón giữa ấn đóa hoa đào lún sâu xuống, làm cho đứa bé đau đớn tím tái cả mặt mày, khóc đến hết hơi. Nước mắt hòa lẫn với mồ hôi đầm đìa trên mặt A Hành, thân hình như chực gục xuống nhưng nàng vẫn nghiến răng gắng gượng ấn đóa hoa lút từ từ vào trán đứa bé.

“Cho thiếp xin một giọt máu trong tim chàng, để phong ấn, phong ấn…” A Hành nhũn người ngã lăn ra, hôn mê bất tỉnh.

Thiếu Hạo vội nắm lấy tay A Hành, truyền linh lực vào người nàng, đồng thời cắn ngón giữa tay trái nhỏ máu lên vết thương hình cánh đào trên trán đứa nhỏ, lập tức vết thương liền lại ngay, vừa may đứa nhỏ đã khóc không ra tiếng, chỉ còn há miệng hớp hớp không khí.

Thiếu Hạo liền đút ngón tay rướm máu vào miệng đứa bé, nó ngậm lấy mút chùn chụt, mút được tinh huyết của y, sắc mặt nó cũng tươi dần lên, bàn tay bé xíu nắm chặt lấy ngón tay Thiếu Hạo, cười tít mắt. Vết thương trên trán nó đã khép miệng hoàn toàn, thoạt trông như một vết bớt nhàn nhạt hình hoa đào.

Thiếu Hạo vừa đùa với nó, vừa rủ rỉ: “Mong rằng suốt đời con sẽ luôn luôn tươi cười như hiện giờ, khỏi phụ tấm lòng mẹ con đã đem cả tính mạng ra bảo vệ cho con.”

Người trong Thần tộc sinh con sẽ hao phí rất nhiều linh lực, những kẻ tu vi thấp kém có khi còn phải lấy mạng đổi mạng, bởi thế tuy Thần tộc sống lâu ngàn tuổi nhưng số lượng hết sức ít ỏi. A Hành dùng thuốc làm chậm ngày sinh, giữ đứa nhỏ trong cơ thể mình, chính là đảo ngược tự nhiên, vô cùng hại sức khỏe, may sao nàng tinh thông y thuật, lại có Thiếu Hạo linh lực cao cường ở sát bên mình bảo hộ nên mới tai qua nạn khỏi.

Tuy giữ được tính mệnh, nhưng từ sau khi sinh con, thân thể A Hành bị tổn thương nghiêm trọng, mê man suốt ngày. Hằng đêm, Thiếu Hạo đều mang nàng tới Thang cốc, để nàng ngâm mình xuống nước. Dù bận rộn tới đâu y cũng phải tự tay chăm sóc A Hành, nhất định không cho người khác nhúng tay vào, chỉ để thị nữ Bán Hạ phụ mình lau rửa thân thể nàng hoặc thay đổi y phục mà thôi.

Thiếu Hạo đặt tên đứa nhỏ là Tiểu Yêu, Tiểu Yêu vừa chào đời thì mẹ đã hôn mê bất tỉnh, được Thiếu Hạo hết lòng chăm chút, luôn đem theo bên mình, khiến trong triều ngoài nội ai ai cũng biết y yêu thương Trưởng vương cơ. Hơn một năm sau, Tiểu Yêu bắt đầu bi bô tập nói, A Hành mới dần dần tỉnh lại.

Thiếu Hạo bước vào tẩm điện, liền trông thấy A Hành đang ngả mình trên sập đùa với Tiểu Yêu.

Tiểu Yêu tay nắm một chiếc chuông bạc, vừa trông thấy Thiếu Hạo, cô bé liền nhoẻn cười vươn tay đòi bế, cánh tay trắng nõn như ngó sen vung vẩy chiếc chuông leng ca leng keng. Thiếu Hạo bế xốc Tiểu Yêu lên, cô bé níu lấy cổ y cười khanh khách, tiếng cười trong vắt, khiến người ta quên hết mọi buồn phiền.

Thiếu Hạo tươi cười bảo: “Hôm đó nàng mê man bất tỉnh, Tông Bá[2] đến hỏi tên con, ta sực nhớ hồi còn làm thợ rèn, từng nghe dân bản địa hát một khúc dân ca, giờ cũng quên gần hết rồi, chỉ còn nhớ câu đầu tiên là: “đào chi yêu yêu, chước chước kỳ hoa[3], bèn thuận miệng đặt nhũ danh cho con là Tiểu Yêu. Tông Bá đã đến thôi thúc hỏi tên con mấy lần rồi, nếu nàng thấy trong mình khỏe khoắn thì nghĩ một cái tên đi.”

[2] Tông Bá: quan thời cổ của Trung Quốc, coi giữ chuyện lễ nghi, phụ giúp đế vương cai quản việc trong tông thất, nắm giữ việc tế lễ tổ tiên, đồng thời quản tất cả phép tắc lễ nghi trong tông miếu và tông tộc.

[3] Nghĩa là: Mơn mởn đào non, rực rỡ nở hoa, trích từ bài Đào yêu trong Kinh Thi. (ND)

A Hành vừa giỡn với Tiểu Yêu, vừa ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đề nghị: “Gọi là Cửu Dao đi!”

Thiếu Hạo hỏi lại: “Cửu Yêu ư? Cửu trong Cửu Lê, Yêu trong đào chi yêu yêu ấy hả?”

“Không phải, là hai chữ này.” A Hành viết lên giường hai chữ Cửu Dao cho Thiếu Hạo xem.

[4] Hai chữ “yêu” và “dao” trong tiếng Trung Quốc phát âm gần giống nhau, đều là “yao”, chỉ khác về thanh, nên Thiếu Hạo hiểu lầm. (ND)

Cửu Dao lên ba, Thiếu Hạo bèn chiếu cáo thiên hạ, sách phong làm Trưởng vương cơ, hưởng bốn trăm thực ấp. Tuy là con gái, nhưng dù sao cô bé cũng là con đầu lòng của Tuấn Đế Cao Tân nên tiệc mừng được tổ chức vô cùng long trọng, kéo dài suốt ba ngày.

Ngày đầu tiên cử hành nghi lễ bái tế trời đất, chúc phúc cho Cửu Dao.

Ngày thứ hai bày tiệc mời vương thất trong Thừa Ân cung, mọi người trong Cao Tân tộc đều tụ họp lại, ăn uống linh đình, nói cười vui vẻ ồn ào.

Trung Dung cắp hồ lô rượu loạng choạng đến trước mặt Thiếu Hạo, mượn rượu giả say nói nhăng nói cuội trước mặt mọi người: “Cửu Dao là cháu gái lớn, thế mà ba tuổi rồi vẫn chưa được gặp mặt phụ vương. Trong triều đồn rằng phụ vương bị ép dọn tới Kỳ viên, chứ không phải tự nguyện, mấy năm nay, chúng đệ chẳng ai được gặp Người, thậm chí đại lễ long trọng như hôm nay cũng chẳng thấy phụ vương tham dự, lẽ nào có chuyện gì đó không thể gặp mặt mọi người ư?”

Lời này vừa buông ra, cả đại điện tức thì im phăng phắc, những tên nhát gan nhất loạt cúi gầm mặt xuống, không dám ngẩng lên, trong khi đó hai mươi mấy người em trai của Thiếu Hạo đều trừng trừng đổ dồn mắt vào y, như hổ đói rình mồi.

A Hành thầm kinh hãi, nàng không sao ngờ được mâu thuẫn giữa Thiếu Hạo và các em lại gay gắt đến nỗi Trung Dung chẳng nề mất mặt, dám buông lời phạm thượng ngay trước mặt mọi người. Có điều chiêu này của y thật vô cùng nham hiểm, hôm nay vương thất Cao Tân đều tề tựu nơi đây, hễ Thiếu Hạo sơ sảy một câu, chứng tỏ tội danh bức cung thoái vị, giam cầm phụ vương là có thực thì dù có dựa vào binh hùng tướng mạnh để giữ vững ngai vị, y cũng mất hết lòng dân, bị người người phỉ báng.

Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Thiếu Hạo vẫn thản nhiên cười đáp: “Phụ vương bệnh nặng nên dời đến Kỳ viên thanh tâm tĩnh dưỡng, không gặp mọi người đó thôi, ai bảo đệ là hôm nay phụ vương không tới? Chẳng qua sức khỏe Người còn yếu nên tới muộn một chút, không tin đệ đợi một lát nữa có thể gặp trực tiếp hỏi phụ vương.”

Thiếu Hạo còn chưa dứt lời, mấy tên tùy tùng đã khiêng một cái sập mềm bước vào, Tuấn Đế đời trước đang nghiêng mình ngồi trong đó.

Mọi người trong đại điện xôn xao đứng cả dậy, đám Trung Dung càng xúc động hơn ai hết, rưng rưng nước mắt nhìn phụ vương.

Sập của Tuấn Đế vừa được đặt xuống cạnh Thiếu Hạo, mọi người trong điện đều nhất loạt quỳ xuống hành lễ, nhưng chẳng biết phải xưng hô thế nào, đành dập đầu ba cái mà thôi.

Tuấn Đế mỉm cười vẫy ta ra hiệu cho tất cả đứng lên. Lời nói cử chỉ của ông vẫn hệt như vị công tử tiêu sái thuở nào, chỉ có điều mái tóc đã bạc phơ, gương mặt nhăn nheo vì tuổi tác.

Trung Dung quỳ sụp xuống trước mặt Tuấn Đế, nghẹn ngào hỏi: “Phụ vương, Nhị ca và mẫu hậu đều bị giam dưới Ngũ Thần sơn, đây là ý chỉ của Người sao?”

“Là ý của ta, Yến Long phản bội ta, thay thế toàn bộ thị vệ trong cung, toan giám sát ta hằng ngày, tội không thể tha được.”

Trung Dung khóc òa lên: “Nhị ca quyết không có ý bội phản phụ vương đâu, chỉ là Nhị ca sợ…” Trung Dung liếc nhìn Thiếu Hạo, nuốt vội nửa câu sau xuống. Tuấn Đế liền kết thúc chủ đề: “Con lui xuống đi, hôm nay là ngày đại hỷ, đừng nhắc mấy chuyện không vui này nữa.”

Thấy Trung Dung vẫn chần chừ không chịu lui, hai tên thị vệ bèn tiến lại kéo hắn xuống, nào ngờ hắn níu chặt lấy áo Tuấn Đế hỏi dồn: “Phụ vương mắc bệnh phải nhường ngôi cho Thiếu Hạo thật ư? Hôm nay tất cả huynh đệ chúng con đều có mặt ở đây, Người hãy chính miệng nói rõ với mọi người đi!”

Câu hỏi thẳng thừng mà sắc bén này của Trung Dung vừa thốt ra, cả đại điện tức thời lặng ngắt như tờ, nghe được cả tiếng cây kim rơi xuống đất. A Hành ngồi bên sợ cứng cả người, chỉ cần một lời của Tuấn Đế thôi, Thiếu Hạo sẽ trở thành tội nhân thiên cổ, mọi công lao đều đổ sông đổ biển hết.

Tuấn Đế nghiêm giọng hỏi: “Rốt cuộc kẻ nào ở sau lưng đâm bị thóc chọc bị gạo, đơm đặt chia rẽ cha con ta thế? Năm xưa tất cả danh y cung đình cùng thầy thuốc dân gian mà các con tiến cử đều đã thăm bệnh cho ta rồi kia mà, quả thực ta thân mang trọng bệnh, không thể xử lý quốc sự nên mới thoái vị nhường ngôi cho Thiếu Hạo, chẳng lẽ các con thấy mình tài giỏi hơn Thiếu Hạo ư?”

Nói rồi Tuấn Đế đưa mắt nhìn khắp lượt hai mươi mấy người con trai, nhìn đến đâu, họ quỳ rạp xuống đến đó.

Trung Dung hét lên: “Con không tin! Phụ vương, trong chuyện này nhất định có gì mờ ám, Người đã chính miệng nói với mẫu hậu rằng muốn truyền vương vị lại cho…”

Thiếu Hạo trừng mắt nhìn đám thị vệ, lập tức bọn chúng xúm vào giằng tay Trung Dung khỏi vạt áo Tuấn Đế, lôi ra ngoài điện, không để hắn kịp nói hết câu.

Tất cả mọi người trong điện đều nín thin thít, không một ai dám ho he, cả đại điện chỉ nghe thấy tiếng gào khóc của Trung Dung vẳng lại.

Thấy không khí căng thẳng, A Hành bèn quay sang dặn nhỏ Bán Hạ: “Mau bế Cửu Dao ra đây.”

Thị nữ bồng Cửu Dao tới trước mặt Tuấn Đế. Tuấn Đế cúi đầu ngắm cô bé thiêm thiếp ngủ hồi lâu, khẽ đưa tay vuốt ve gương mặt non tơ, ánh mắt đầy trìu mến. Mọi người xung quanh được thể liền xúm lấy nịnh nọt tâng bốc: “Trông vương cơ giống ông nội quá chừng!”

Tuấn Đế ngẩng lên bảo Thiếu Hạo: “Nhớ năm xưa cung nữ bế con tới trước mặt ta, chúc mừng ta vừa có một đứa con trai, ai nấy đều khen con giống ta như tạc. Càng lớn, con càng giỏi giang xuất sắc khiến người ta không thể không thương, ta yêu con đến nỗi chẳng biết phải làm sao cho đúng, muốn ôm con cũng sợ làm thương tổn đến con, vậy mà… Mọi chuyện cứ như vừa mới hôm qua, nào ngờ thời gian thấm thoắt bấy nhiêu năm, hết thảy đều thay đổi cả rồi!”
Tác giả: lilyant    Thời gian: 4-8-2016 10:19 PM
Chương 27

Đa tình chỉ chuốc lấy hận sầu

27.3


Mọi người nghe nói đều cười rộ lên tán thưởng, chỉ riêng A Hành lặng thinh không cười nổi.

Nói đến đó, Tuấn Đế lộ vẻ mệt mỏi, liền xua tay ra hiệu cho thị nữ ẵm lấy Cửu Dao rồi quay sang bảo đám tùy tùng: “Ta mệt, về Kỳ viên thôi.”

Mọi người đều quỳ xuống cung tiễn.

Thiếu Hạo nắm lấy tay A Hành đi theo tiễn Tuấn Đế ra tới ngoài điện, A Hành chăm chú nhìn Thiếu Hạo, lần này y nhất định muốn tổ chức sinh nhật cho Tiểu Yêu thật linh đình, không tiếc phô trương lãng phí, chắc hẳn là vì lý do này.

Ngày thứ ba, tất cả muôn dân thiên hạ sẽ tự tay thắp hoa đăng do họ tự làm rồi thả xuống sông, chúc phúc cho Đại vương cơ Cao Tân lớn lên bình an khỏe mạnh, mong sao cô bé sẽ đem lại hạnh phúc và hòa bình cho đất nước.

A Hành cũng tự làm một chiếc đèn hoa sen, gửi gắm tất cả nguyện vọng cầu cho con gái được bình an như ý.

Trời vừa sập tối, Thiếu Hạo và A Hành bước lên thành lâu trông xuống, thấy dân chúng đã tụ tập động nghịt dưới thành, háo hức đợi chiêm ngưỡng ngọn đèn vương phi làm cho vương cơ.

Thiếu Hạo tươi cười cao giọng nói: “Hôm nay ta cũng như tất cả mọi người ở đây, chỉ là một người cha hết lòng mong mỏi cho con mình lớn lên bình an hạnh phúc mà thôi, cảm ơn các người đã tới chúc phúc con gái của ta.”

Dân chúng Cao Tân rộ lên hoan hô như sấm.

A Hành nâng tràn hoa đăng kết bằng tơ băng trên tay, Thiếu Hạo nhanh nhẹn châm lửa, ngọn đèn mỗi lúc một sáng rực lên hệt một đóa sen xanh biếc lung linh giữa lòng bàn tay A Hành, soi tỏ một đôi người ngọc, khiến người ngoài trông thấy cứ ngỡ như cảnh tượng cõi tiên.

Thiếu Hạo cúi xuống bế Tiểu Yêu lên, bước xuống thành lâu, A Hành cũng bưng ngọn hoa đăng, theo sát bên cạnh y.

Xi Vưu đứng giữa đám người, ngẩng đầu nhìn lên thành lâu.

Đêm tối như mực, từ dưới trông lên khó mà nhìn rõ được ba người bọn họ, chỉ thấy một đóa sen xanh biếc nở rộ giữa không trung, tỏa ra ánh xanh nhàn nhạt, bóng dáng ba người nổi lên giữa tầng tầng lớp lớp rường cột trạm trổ, nam tử khôi ngô phóng khoáng, nữ tử thùy mị dịu dàng, lại thêm một cô bé nhỏ xíu cứ cựa quậy nghịch ngợm hoài trong lòng cha, một nhà ba người tràn đầy yêu thương đầm ấm.

Dân chúng Cao Tân ai nấy đều ngưỡng mộ dán mắt vào bọn họ, mãi tới khi ánh đèn xanh biếc xa dần xa dần, bóng ba người họ cũng khuất sau lầu quỳnh điện ngọc, bấy giờ đámg người đông nghịt dưới thành mới lục tục giải tán.

Chỉ còn lại mình Xi Vưu thẫn thờ đứng nguyên chỗ cũ, như không tin nổi vào mắt mình. Nhưng vừa rồi khi Thiếu Hạo châm lửa thắp đèn, hắn đã kịp trông thấy gương mặt A Hành ánh lên bao dịu dàng âu yếm.

Mãi tới hôm qua, Xi Vưu mới tỉnh lại. Vừa tỉnh giấc, hắn thấy mình đang bồng bềnh giữa Bắc Minh, trước mặt là cả một vòm trời xanh ngăn ngắt, tinh thần sảng khoái, năng lượng tràn trề từng đường gân thớ thịt, trong cái rủi có cái may, nhờ bị thương, thần lực của hắn lạ tiến thêm một bậc. Hắn chẳng rõ mình đã ngủ mất bao lâu, chỉ biết rằng trước khi thiếp đi, A Hành vẫn còn nắm chặt tay hắn, dịu dàng nhìn hắn chìm sâu vào giấc ngủ.

Nghĩ vậy, Xi Vưu chợt bật cười hạnh phúc, liền nhảy vọt lên lưng Tiêu Dao đắc ý ra lệnh: “Ta phải về nhà đây! Nhà của mày lớn thật nhưng chỉ có mỗi mình mày, nhà của ta tuy nhỏ, nhưng lại có A Hành!”

Dọc đường về, hắn thấy nơi nơi đều là trời cao biển rộng, sông núi reo vui.

Vừa trông thấy rừng đào đỏ rực Cửu Lê sơn, Xi Vưu bỗng thấy mắt cay lòng nóng, chẳng đợi Tiêu Dao kịp đỗ đã nhảy luôn xuống, xông thẳng vào rừng đào.

“A Hành, A Hành! Ta về rồi! Ta về rồi đây!”

Đáp lại hắn chỉ có căn nhà sàn vắng ngắt, mảnh trúc đứt đoạn cái ngắn cái dài, rèm sa đầy những phân chim, vườn rau um tùm cỏ dại, nếu chẳng thấy bờ đất đắp bằng đá xanh, e rằng không thể nhận ra đây là một mảnh vườn rau. Giậu trúc lưa thưa đã xiêu đổ quá nửa, mấy đóa tường vi đỏ thắm mọc tràn lan, lấp cả lối đi.

Chỉ còn chiếc chuông gió dưới mái hiên ngân lên từng tràng đinh đang thê thiết.

Xi Vưu thẫn thờ nhìn “căn nhà” trước mắt, lòng thắt lại vì hoang mang, không biết mình đã ngủ mất bao lâu? A Hành xảy ra chuyện gì rồi ư?

Hắn điên cuồng xộc vào rừng, chạy đến dưới cội đào, hoa nở đầy cành, rung rinh khoe sắc nhưng chẳng còn người ấy, chỉ còn một hàng chữ đỏ như máu:

“Giữa Thừa Ân điện tình quyến luyến, dưới cội hoa đào hẹn thành không, ly biệt từ đây, xin đừng nhung nhớ.”

Thừa Ân điện chính là nơi ở của Thiếu Hạo, cũng là cung điện hoa lệ nhất trên đời.

“Ta không tin!” Xi Vưu tung chưởng nhổ bật cả cội đào lên rồi nhảy lên lưng Tiêu Dao, bay thẳng tới Cao Tân.

Dọc đường hắn thấy nhà nhà đều chăng hoa kết đèn, nói cười rộn rã, xôn xao bàn tán về đại lễ sinh nhật long trọng của con gái Thiếu Hạo.

Xi Vưu nghe nói liền thở phào nhẹ nhõm, cho rằng Thiếu Hạo đã nạp thêm phi tần mới, bèn níu một người lại hỏi: “Thiếu Hạo cưới nữ tử tộc nào thế?”

“Là Hiên Viên tộc đó!” Người kia tròn mắt nhìn Xi Vưu như nhìn kẻ ngốc.

“Lại cưới một cô gái Hiên Viên tộc nữa ư?” Xi Vưu thấy lòng chùng hẳn xuống, lẽ nào A Hành xảy ra chuyện rồi sao… hắn chẳng lòng dạ nào nghĩ tiếp nữa.

Kẻ kia phì cười: “Ai chẳng biết Thiếu Hạo chỉ có một vị vương phi, chính là vương cơ Hiên Viên tộc đó thôi! Trưởng vương cơ là con gái hai người bọn họ!”

Lời này như sét đánh giữa trời quang, khiến Xi Vưu ngẩn người ra, lỗ tai lùng bùng cả lên. Dù bao nhiêu sự thực phơi bày trước mắt, hắn cũng nhất quyết không tin, chẳng phải A Hành đã tự tay bài trí căn nhà sàn đó, còn nói rằng đó là nhà của hai người đó sao?

Nhưng dưới thành lâu, hắn tận mắt trông thấy Thiếu Hạo và A Hành ẵm con gái nhỏ, tươi cười đón nhận muôn ngàn lời chúc phúc của lê dân bách tính. Niềm hạnh phúc của ba người bọn họ rành rành trước mắt, khiến hắn lần đầu tiên hiểu ra rằng, có những thứ, hắn vĩnh viễn không thể đem lại hạnh phúc cho A Hành được.

Có lẽ, vì lý do này mà nàng rời bỏ hắn.

Cao Tân nhiều hồ ao sông ngòi, đô thành cũng dựa theo dòng nước mà xây nên, phía Bắc thành đô chính là một con sông rộng mênh mông, Thiếu Hạo và A Hành bế Tiểu Yêu men theo thềm đá, xuống gần mép nước.

Thiếu Hạo đặt Tiểu Yêu xuống đất nhưng hai tay vẫn đỡ lấy Tiểu Yêu, sợ cô bé bất cẩn trượt chân ngã xuống sông. A Hành ngội thụp xuống thềm, đặt ngọn đèn hoa sen xuống mặt nước.

Thiếu Hạo dịu dàng: “Nàng cầu nguyện đi.”

A Hành nhắm nghiền mắt, thành tâm cầu nguyện cho con gái bình an hạnh phúc cả đời rồi mở mắt ra, “Thiếp cầu xong rồi.”

Thiếu Hạo chỉ ngọn hoa đăng, nựng nịu Tiểu Yêu: “Cha con ta cùng đẩy cho đèn trôi xa, được không nào?”

Tiểu Yêu rất thích cây đèn xanh biếc này nên chẳng nỡ đẩy đi, ngược lại còn giơ tay níu lại.

Thiếu Hạo tươi cười nắm lấy tay Tiểu Yêu, nhưng không nắm thật chặt mà cứ vờn đùa với cô bé để bé khỏi chạm tay vào ngọn lửa. Tiểu Yêu thích chí ré lên cười khanh khách, khiến A Hành cũng bật cười theo.

Thấy Tiểu Yêu đùa giỡn đã mệt, Thiếu Hạo bèn nắm lấy bàn tay bé bỏng của cô bé đẩy đẩy ngọn đèn, dỗ dành: “Tiểu Yêu ngoan nào, đẩy đi, lát nữa cho sẽ cho con cái khác đẹp hơn.”

Theo tay Thiếu Hạo và Tiểu Yêu, ngọn đèn lặng lẽ trôi xuôi dòng nước, xa dần xa dần…

Thiếu Hạo ẵm Tiểu Yêu đứng dậy, một nhà ba người đưa mắt nhìn theo ánh đèn xanh biếc càng trôi càng xa rồi nhập vào biển đèn lung linh, chẳng nhận ra đâu là ngọn đèn bọn họ vừa thả nữa, bấy giờ, cả ba mới quay người bước lên, nào ngờ vừa quay lại, họ liền trông thấy một nam tử hồng y khí vũ hiên ngang đứng lặng trên thềm tự lúc nào, chẳng biết hắn tới đây bằng cách gì, cũng chẳng rõ hắn đã đứng đó bao lâu.

Cảm nhận được linh lực mạnh mẽ tỏa ra từ đối phương, Thiếu Hạo vội ngưng tụ linh lực theo phản xạ, toan vung chưởng đánh lui kẻ tự tiện xâm nhập, cả người chợt run lên, hiểu ra ngay người đến là ai.

Y liền trao Tiểu Yêu cho A Hành rồi bước xuống thềm, dõi mắt ngắm muôn vàn ngọn đèn lung linh trên sóng.

Xi Vưu tiến lại gần, sắc mặt tái nhợt, hai mắt tối sầm lại, ngùn ngụt bi ai và phẫn nộ.

“Tại sao hả?” Hắn gắng nén cơn giận, cất giọng khản đặc, hệt như một dã thú bị thương.

A Hành ôm chặt lấy Tiểu Yêu, rưng rưng nước mắt, chẳng thốt được tiếng nào.

Tiểu Yêu chẳng hề sợ sệt, cứ giương tròn mắt nhìn Xi Vưu, giơ tay sờ vào người hắn.

Bàn tay măng tơ mềm mại khẽ chạm vào mặt Xi Vưu khiến lòng hắn xao động lạ thường, bèn nắm lấy tay Tiểu Yêu hỏi: “Đây có phải là con ta không?” Tuy biết dựa vào ngày sinh, cô bé khó có thể là con mình, nhưng hắn vẫn ôm ấp chút hy vọng mong manh.

Đột nhiên, trên không trung chợt bay vọt lên mấy quả cầu lửa muôn màu muôn sắc do hỏa linh kết tụ, nở bùng ra thành ngàn vạn đốm pháo hoa rực rỡ, hoa cúc vàng tươi, mẫu đơn đỏ thắm, mai trắng tinh khôi… Bỗng chốc khắp bầu trời tràn ngập ánh sáng lung linh huyền ảo.

Tiểu Yêu mừng rỡ chỉ tay lên trời, rối rít gọi Thiếu Hạo: “Cha, cha.”

Thiếu Hạo ngoảnh lại theo phản xạ, mỉm cười với cô bé.

Ánh pháo hoa rực rỡ soi tỏ mặt gương mặt của Tiểu Yêu, trông cô bé giống Thiếu Hạo đến bảy tám phần, thoạt nhìn đã biết là con y.

Tiểu Yêu với tay về phía Thiếu Hạo, luôn miệng gọi cha đòi bế.

Xi Vưu chợt thấy toàn thân run bần bật như vừa rơi xuống hố băng lạnh ngắt, ngọn lửa ngùn ngụt trong mắt vụt tắt ngấm, xung quanh xán lạn rực rỡ là thế, vậy mà hắn chỉ thấy một mảnh tối đen mờ mịt.

Tây Lăng Hành đã phản bội hắn, lừa gạt hắn!

Ánh mắt Xi Vưu bỗng trở nên lạnh lùng tàn khốc, hắn bắt đầu nổi sát tâm.

A Hành ôm chặt lấy Tiểu Yêu hốt hoảng lùi lại, nhưng Xi Vưu đã giật phăng cô bé ném cho Thiếu Hạo.

Thiếu Hạo thấy tình hình không ổn, toan xông lại ứng cứu, có điều linh lực của Xi Vưu đã tăng tiến vượt bậc, y đỡ được Tiểu Yêu thì chẳng kịp cứu A Hành nữa.

Xi Vưu và A Hành bị bao phủ trong màn đao gió, những lưỡi đao gió xoay vun vút quanh hai người, một con muỗi cũng không bay lọt, mấy ngọn đao đâm từ sau lưng A Hành nhằm thẳng vào tim nàng, đã cắm vào da thịt.

Cảm nhận được lưỡi đao đâm vào mình đau buốt, nét mặt A Hành chợt giãn ra đầy thanh thản như trút bỏ được mọi ràng buộc và gánh nặng, nàng chẳng hề kháng cự, chỉ đăm đăm nhìn Xi Vưu, nước mắt lăn dài trên mi.

Dường như những giọt lệ của nàng đã chạm đến cõi lòng mềm yếu nhất của Xi Vưu, trái tim hắn run lên vì kích động, linh khí không sao duy trì được nữa. Cuồng phong lặng tắt, chỉ còn tấm lưng A Hành đầm đìa máu tươi, nhỏ tong tong xuống đất.

Xi Vưu trân trân nhìn A Hành, lui lại từng bước từng bước một, cười thê thảm: “Cô biết rõ ta rất khó có thể tin tưởng ai đó kia mà! Ta coi Viêm Đế như cha đẻ, coi Du Võng như huynh đệ, vậy mà vẫn đề phòng họ, nhưng đối với cô…” Hắn điên cuồng đấm ngực như muốn đập vỡ trái tim mình, móc ra cho A Hành thấy, “Ta luôn đặt cô ở đây. Nếu cô đã định phản bội, sao không phản bội từ sớm đi? Sao phải đợi đến khi ta phá hủy mọi thứ phòng bị, để cô tiến thẳng vào nơi sâu thẳm nhất, mềm yếu nhất của ta thì lại giở mặt giày xéo ta? Dẫu kẻ khác chặt đầu lột da ta, ta cũng chẳng thấy gì đau đớn, nhưng cô… ta đau lắm, biết không?” Sắc mặt Xi Vưu tái ngắt, ánh mắt không rời A Hành như khẩn cầu, như van vỉ nàng khẳng định một lời, nói với hắn rằng nàng không phản bội hắn!

A Hành cắn môi không đáp, chỉ có thân mình khe khẽ run lên. Tiểu Yêu nào hay vừa rồi mẹ mình đã lượn một vòng qua cửa tử, cô bé thích thú ngắm trận cuồng phong của Xi Vưu, vỗ tay reo: “Cha, cha nhìn gió nhảy múa kìa, thúc thúc áo đỏ kia lợi hại quá nha!”

Giọng nói non nớt của Tiểu Yêu lọt vào tai Xi Vưu khiến hắn sững sờ như bị sét đánh, cả người run rẩy. Con gái của A Hành gọi hắn là thúc thúc!

Xi Vưu trừng trừng nhìn A Hành, nhưng cất tay lên mấy lần vẫn không sao ngưng tụ linh lực tấn công được, đành cười thảm lắc đầu, “Tây Lăng Hành, cô đã hẹn ước với ta, chưa được ta cho phép cô đừng mong rút lại lời thề!” Trong tiếng cười ha hả, hắn nhảy lên lưng Tiêu Dao bay thẳng.

Xi Vưu đi rồi, Thiếu Hạo thấy lòng bàn tay lạnh ngắt. Y đã nghe nói Xi Vưu tính khí thất thường, hung tàn xảo trá từ lâu nhưng lần này mới tận mắt chứng kiến bản tính cực đoan, quyết liệt của hắn. Hắn đối với A Hành chí tình chí nghĩa, bất cứ lúc nào cũng có thể bán mạng vì nàng, vậy mà chỉ trong nháy mắt, vì A Hành phản bội, hắn có thể xuống tay giết nàng bất cứ lúc nào.

Thấy A Hành đứng đờ người ra như mất hồn, Thiếu Hạo ngỡ nàng quá kinh hãi, bèn tiến lại vừa trị thương vừa an ủi nàng: “Tối nay ta sẽ bày trận pháp quanh nhà, chỉ cần Xi Vưu đến, chúng ta lập tức biết ngay thôi.”

A Hành chỉ một mực lắc đầu, thẫn thờ nhìn về phía Tiêu Dao khuất bóng, ánh mắt đầy lo âu. Bấy giờ Thiếu Hạo mới hiểu ra rằng không phải nàng sợ hãi, mà là đang lo lắng cho Xi Vưu.

Thiếu Hạo cùng A Hành lên đến thành lâu, y định đưa nàng về tận Thừa Ân cung, nhưng Tiểu Yêu thấy quang cảnh rực rỡ bên dưới cứ khóc ré lên không chịu về. Y đành sai thị nữ đưa A Hành về trước, để mình bế Tiểu Yêu đứng ngắm cảnh thêm lát nữa.

Từ thành lâu nhìn xuống, mặt sông bạt ngàn ánh đèn lung linh, mỗi lúc một thêm dày đặc, hệt như vô số ngôi sao lấp lánh.

Hai bên bờ sông đông nghịt người tới thả đèn và ngắm cảnh. Bầy con nít xách lồng đèn tung tăng đuổi bắt nhau, các cô gái cứ dăm ba cô tụ lại thành một nhóm, mượn ngọn đèn tự tay chế tác để khoe tài khoe giỏi, trong khi đám đàn ông thơ thẩn men theo bờ nước, vừa ngắm đèn vừa ngắm các thiếu nữ nhà bên, đông nhất là những gia đình đủ cả già trẻ trai gái, bưng đủ loại đủ kiểu hoa đăng, dắt díu nhau đến thả đèn.

Thiếu Hạo chăm chú ngắm cả dòng sông lung linh ánh đèn, đẹp như tranh vẽ dưới thành, ánh mắt mỗi lúc một lạnh dần, y từ từ đi đến chỗ hạ quyết tâm: Xi Vưu đã quay về, thời gian chẳng còn bao lâu nữa, y không thể cứ phân vân do dự mãi!

Về đến tẩm điện, A Hành cho tất cả thị nữ lui ra, chỉ để lại mình nàng thẫn thờ ngồi đó. Nàng sớm biết sẽ phải đối mặt với cơn thịnh nộ của Xi Vưu nên đã chuẩn bị hết mọi điều cần nói, nào ngờ vừa gặp hắn, nàng đã quên sạch.

Ngồi giữa căn phòng tối mịt nhưng cõi lòng A Hành còn tăm tối hơn, thậm chí vĩnh viễn chẳng thể sáng lên được nữa.

Chẳng biết đã ngồi như vậy bao lâu, đột nhiên, A Hành thoáng nghe thấy phía cuối trời vang lên tiếng đại bàng quang quác, giật thót mình, vội nhìn ra cửa sổ.

Bóng cây bên ngoài được ánh trăng trong như lọc hắt lên tấm rèm che màu tùng biếc ngoài song cửa, khẽ đu đưa theo gió. Chỉ lát sau đã thấy một bóng người từ xa bay đến, từ từ choán cả khung cửa, dáng dấp cao lớn khôi ngô, đầy mạnh mẽ tưởng như sắp phá cửa bay thẳng vào phòng, vậy mà hắn chỉ bi ai đứngbên ngoài, im lìm hệt một bức tranh.

A Hành đờ người vì căng thẳng, nàng không sao nhúc nhích nổi một ngón tay, nhưng hơi thở mỗi lúc một thêm gấp gáp. Hiển nhiên, người ngoài song cửa cũng đã nhận ra: “Cô tỉnh rồi à?” Là giọng Xi Vưu.

Thấy A Hành im lặng, hắn chậm rãi nói: “Không phải ta tới giết cô đâu.”

“Ngươi… vậy ngươi quay lại định làm gì?” A Hành cố lấy giọng lạnh lùng hỏi.

“Lúc ở dưới thành, trông thấy cô và Thiếu Hạo, cả… con gái hai người nữa, ta giận quá, không kiềm chế được. Vừa rồi bay đi, gió lạnh tấp vào mặt, ta mới bình tĩnh lại. A Hành, ta biết cô nhất định không phụ lời thề giữa hai chúng ta, chắc chắn cô có nỗi khổ bất đắc dĩ gì đó.”

“Chẳng lẽ sự thật rành rành trước mắt ngươi còn không thấy sao? Ta đã có con với Thiếu Hạo rồi.”

“Ta thấy cả rồi, dù cô có con với Thiếu Hạo cũng chẳng sao, ta biết cô làm vậy nhất định là vì nỗi khổ trong lòng. Mấy năm nay ta không ở bên cô, chắc hẳn đã xảy ra chuyện gì đó, muốn trách thì phải trách ta chẳng thể bầu bạn bên cô, không bảo vệ được cho cô. Có điều, giờ ta đã về rồi, có gì khó khăn, cô cứ để ta giải quyết.”

A Hành run bắn lên, nước mắt nhòa mi. Kẻ kiêu ngạo, đa nghi, hung tàn như Xi Vưu, lại có thể một lòng một dạ tin tưởng nàng, yêu thương nàng, trân trọng nàng đến thế này.

Đợi hồi lâu không thấy trong phòng có động tĩnh gì, Xi Vưu dịu giọng nói tiếp: “A Hành, có nỗi khổ gì nàng cứ nói ra đi, chúng ta nhất định sẽ tìm được cách giải quyết mà, lẽ nào nàng không tin tưởng năng lực của ta ư?”

A Hành trân trân dán mắt vào bóng dáng Xi Vưu in lên rèm cửa, ầng ậng nước mắt. Cách giải quyết duy nhất là cứu Đại ca nàng sống lại, nhưng trên đời làm gì có thuốc cải tử hoàn sinh kia chứ. Đâu phải gian nan nào cũng có thể đạp bằng như Xi Vưu tưởng, dù thần lực cao cường tới đâu chăng nữa, cũng chẳng cách nào hồi sinh người chết.

“A Hành?” Đợi mãi không thấy nàng trả lời, Xi Vưu giơ tay toan đẩy cửa sổ ra.

A Hành lập tức nhào đến chặn cửa sổ lại. Nàng không dám gặp hắn, bởi nàng sợ đối diện với đôi mắt hắn, tất cả dũng khí của nàng sẽ tan biến mất.

“Ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa!”

“Nói dối! Nếu không muốn gặp ta, tại sao lúc nhìn thấy ta dưới thành lâu, nàng lại rưng rưng chực khóc? Nàng rơi nước mắt vì ai hả?”

A Hành xoay người lại, lấy lưng chèn cửa, ánh mắt trống rỗng nhìn vào bóng đêm thăm thẳm, rành rọt thốt lên từng câu từng chữ đã được chuẩn bị kỹ càng, “Lúc đó ta vừa hổ thẹn, vừa sợ hãi!”

“Hổ thẹn gì chứ?”

“Dù ta lấy Thiếu Hạo vì lý do gì, hiện giờ chúng ta đã có con, nước chảy đá mòn, ta dần dần cũng nảy sinh tình cảm với chàng, khó tránh hổ thẹn với ngươi, mọi chuyện đã hết cách cứu vãn được rồi.”

“Vậy nàng sợ cái gì?”

“Ta sợ làm tổn thương đến con bé. Giờ đây, con bé là người quan trọng nhất trong lòng ta, nếu ngươi muốn giúp đỡ ta, bảo vệ ta, xin ngươi hãy quên ta đi, đừng tới tìm ta nữa. Lỡ như người ngoài trông thấy, ta sẽ mất hết danh tiết, vạ lây cả đến con bé.”

Xi Vưu lặng thinh không nói, chỉ nghe thấy tiếng thở lúc dập dồn, khi từ tốn của hắn. Toàn thân A Hành như biến thành một tảng đá, ra sức chèn chặt cánh cửa, không dám nhúc nhích, tựa hồ không phải đang đóng cửa, mà là đang khép chặt trái tim mình.

Đột nhiên nghe vang lên một tiếng đại bàng kêu quang quác, tiếng thở ngoài song biến mất.

A Hành vẫn chèn chặt cánh cửa sổ, hồi lâu mới như sực tỉnh, vội quay phắt lại, ngơ ngẩn ngóng ra ngoài song, nhưng chỉ thấy bóng cây thấp thoáng, ánh trăng nhạt nhòa, đâu còn bóng người kia nữa. Nước mắt nàng giàn giụa tràn ra hai má.




Chào mừng ghé thăm Kites (https://forum.kites.vn/) Powered by Discuz! X3