Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 7381|Trả lời: 96
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Người Đưa Tin | Daniel Silva (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Đăng lúc 14-11-2013 18:15:32 | Chỉ xem của tác giả Trả lời thưởng |Xem thứ tự |Chế độ đọc
NGƯỜI ĐƯA TIN


Tên tác phẩm: Người Đưa Tin
Tác giả: Daniel Silver
Dịch giả: Khang Vinh
Độ dài: 42 chương
Thể loại: Tiểu thuyết, trinh thám, hình sự
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: http://vnthuquan.net/truyen/truy ... m3237nvn&cochu=
Đánh máy: Mọt Sách
Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
Ngày xuất bản: 2009
Giới thiệu sơ lược: Gabriel Allon, nhà phục chế tranh và cũng là điệp viên, sắp phải đối mặt với thách thức lớn nhất đời anh. Một kẻ bị tình nghi thuộc tổ chức al-Qaeda bị giết ở London. Nhiều bức ảnh chụp được tìm thấy trên máy tính của ông ta – những bức ảnh khiến tình báo Israel nghi ngờ rằng ao-Qaeda đang âm mưu tiến hành một trong những vụ tấn công táo bạo hơn bao giờ hết, được nhắm ngay vào trung tâm của Vatican.Allon và các đồng nghiệp chẳng bao lâu nhận ra họ đang đấu trí tay đôi chống lại một trong những kẻ nguy hiểm nhất trên thế giới – một cuộc săn đuổi đưa họ qua châu Âu tới Caribê sau đó quay trở lại. Nhưng đối với họ, có lẽ không có yếu tố gì là đầy đủ: thời gian, dữ kiện, cả may mắn nữa.Tất cả những gì Allon có thể làm là giăng bẫy – và hi vọng anh không bị mắc vào chiếc bẫy này.

Mục lục


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

97#
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2013 18:05:15 | Chỉ xem của tác giả
Chương 42
Istanbul. Tháng Tám

Cuối cùng mọi việc cũng được giải quyết nhờ một vụ giao dịch làm ăn, điều khiến cả Gabriel và Carter xem như mặc khải của Đấng thiêng liêng. Tiền đổi lấy thông tin đúng như truyền thống Trung Đông. Hai mươi triệu đô la một mạng sống. Nguồn là của Carter, một Hoàng tử Arập Xêút cấp thấp bị xơ gan và nghiện gái điếm Romania. Tiền là của Gabriel, mặc dù số tiền đó từng thuộc về Zizi al-Bakari. Hoàng tử chỉ cung cấp được thời gian và địa điểm chứ không thể nêu ra một cái tên nào. Thời gian là thứ Hai sau tuần đầu tiên của tháng Tám. Địa điểm là khách sạn Ceylan Inter-Continental ở Istanbul.

Hắn đến khách sạn dưới tên al-Rasheed. Hắn cao hơn so với trí nhớ của họ. Tóc hắn để dài và bạc gần hết, giống như bộ râu rậm. Bất chấp cái nóng oi ả của tháng tám, hắn vẫn mặc áo sơ mi dài tay và để tay phải trong túi quần. Hắn từ chối lời đề nghị giúp đỡ của người xách hành lý và tự mang chiếc túi duy nhất lên dãy phòng nằm trên lầu hai mươi lăm. Ban công của hắn nhìn bao quát Bosphorus. Phòng có quang cảnh là một trong những yêu cầu của hắn. Nhờ chi một số tiền lớn mua thông tin, Gabriel biết được yêu cầu ấy, cũng như biết hắn được giao phòng nào. Vào lúc 10 giờ 09 phút, gã đàn ông bước ra ban công và nhìn xuống dưới. Hắn không biết dưới đường có hai người đàn ông đang chăm chú quan sát mình.

“Có phải hắn không, Eli?

“Chính là hắn”.

“Cậu chắc không?”

“ Chắc chắn”.

Gabriel đưa Lavon chiếc điện thoại di động. Lavon lắc đầu.

“Anh làm đi, Gabriel. Tôi không phải người làm tốt việc khó khăn”.

Gabriel quay số. Một giây sau, ban công chìm trong một quả đạn lửa chói mắt, cơ thể bốc cháy của Ahmed bin Shafiq xé màn đêm rơi xuống. Gabriel đợi đến khi thi thể hắn chạm mặt đường mới gài số chiếc Mercedes đi về phía Cannes.

Nhà hàng La Pizza là một trong những nơi nổi tiếng nhất ở Cannes, vì thế tin nhà hàng đã được đặt để tổ chức tiệc riêng làm hỏng một ngày tháng tám tuyệt vời. Có nhiều phỏng đoán khắp đại lộ Croisette về danh tính của người khách chịu chơi này. Tuy nhiên, những du khách hiểu biết đến thăm thành phố đều biết câu trả lời nằm ở vùng nước ngay sau Cảng Cũ. Alexandra, chiếc du thuyền khổng lồ của Abdul Aziz al-Bakari đã đến Cannes buổi sáng hôm đó, và mọi người đều biết rằng Zizi luôn chào mừng việc đến một thành phố bằng cách thuê trọn gói một nhà hàng nổi tiếng nhất trong vùng.

Bữa tối được lên lịch vào lúc 9 giờ. Vào lúc 8 giờ 55 phút, hai chiếc tàu lớn tách khỏi Alexandra, hướng về phía cảng dưới ánh sáng hung đỏ lúc chiều tà. Hai chiếc tàu hạ neo đối diện nhà hàng La Pizza lúc 8 giờ 58 phút. Đoàn người xuống tàu đi về phía nhà hàng dưới sự bảo vệ của hàng rào an ninh dày đặc. Hầu hết các du khách tụ tập để chứng kiến sự việc phô trương này không biết tên của Zizi al-Bakari. Họ cũng không nhận ra bất cứ ai trong đoàn tùy tùng đông đảo của hắn ta. Nhưng ba người đàn ông đang quan sát tại giàn cây cuối bến Saint-Pierre biết.

Đoàn tùy tùng ở lại nhà hàng La Pizza hai tiếng. Chắc chắn báo giới sẽ khai thác sự kiện không có rượu vang và thuốc lá tại bữa tiệc. Điều này được xem là bằng chứng của đức tin lớn lao. Vào lúc 11 giờ 6 phút, họ rời khỏi nhà hàng, bước về phía hai chiếc tàu đang đợi. Zizi, như thường lệ, đi cuối đoàn, được hai gã che chắn. Một gã gốc Arập to lớn, khuôn mặt tròn, mắt nhỏ, và râu dê. Gã kia là người Pháp mặc đồ đen có mái tóc vàng cột theo kiểu đuôi ngựa.

Lúc này, một trong những người theo dõi dưới giàn cây đã chuyển sang ngồi tại quán cà phê kế bên nhà hàng La Pizza, đó là một người vai rộng có mái tóc vàng dâu. Khi Zizi bước đến đúng vị trí người đó và đồng đội đã chọn để hạ sát, anh ta nhấn nút trên chiếc điện thoại di động. Chỉ vài giây sau, hai chiếc xe máy rú ga trên đường Quai Saint-Pierre. Khi tới gần mấy tay lái rút súng và nhả đạn. Zizi bị bắn trúng trước, và bị thương chí tử. Những tên vệ sỹ đi bên hắn ta rút súng ra và cũng bị bắn chết ngay lập tức. Sau đó hai chiếc xe máy quẹo gấp sang trái, chạy dọc lên đồi và biến mất vào khu thành cổ.

Người đàn ông có mái tóc vàng dâu đứng dậy bước đi. Đây là nhiệm vụ đầu tiên của anh trong cương vị thủ lĩnh Lực lượng Đặc nhiệm. Mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch. Nhưng vào lúc đó anh biết rằng việc giết chóc sẽ không chấm dứt ở Cannes, vì cảnh tượng cuối cùng anh thấy khi bước đi là Nadia al-Bakari, quì gối trước thi thể của cha mình, gào thét đòi trả thù.

Hết
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

96#
 Tác giả| Đăng lúc 30-11-2013 18:03:41 | Chỉ xem của tác giả
Chương 41
Paris. Tháng Tám

Hệ thống an ninh phát hiện ra vụ đột nhập vào lúc 2 giờ 38 phút sáng. Đó là máy cảm biến 154, được đặt trên một trong số mười bốn cánh cửa Pháp dẫn từ vườn phía sau vào dinh thự. Hệ thống không được kết nối với công ty bảo vệ hay với cảnh sát Paris, chỉ được nối với một trạm trung tâm trong dinh thự, có một đội an ninh cố định được bố trí ngồi quanh chiếc đồng hồ. Tất cả đều là cựu thành viên của Đội Cận vệ Quốc gia Arập Xêút .

Tên nhân viên an ninh đầu tiên đến chiếc cửa đang mở trong vòng mười lăm giây sau khi có báo động không âm thanh. Một trong sáu người đột nhập đeo mặt nạ lập tức đánh hắn bất tỉnh. Mười giây sau, thêm hai tên lính gác cũng đến chỗ này, súng lăm lăm trong tay cũng bị hạ gục bởi cùng người đột nhập. Tên lính gác thứ tư là một gã 28 tuổi không muốn chết vì tài sản của một tỷ phú, lập tức giơ tay đầu hàng. Người có súng đốn ngã tên Arập Xêút gục xuống sàn nhà và ngồi lên ngực hắn để kiểm tra màn hình hiển thị của một thiết bị nhỏ cầm tay. Mặc dù trùm kín mặt, tên Arập Xêút vẫn có thể nhìn thấy đôi mắt anh ta có màu xanh thẫm. Không hề nói lời nào, người mắt xanh giơ tay ra hiệu di chuyển về cầu thang chính giữa. Hai thành viên trong đội tiến lên phía trước. Ba mươi giây sau họ quay trở lại, mang theo một vật duy nhất. Người đột nhập mắt xanh nhìn xuống gã Arập Xêút một cách bình tĩnh. “Nói với Zizi lần tới tao sẽ đến tìm hắn”, anh ta nói bằng tiếng Arập hoàn hảo, sau đó anh ta táng khẩu súng vào đầu gã Arập Xêút khiến hắn bất tỉnh.

Ba đêm sau tại Pháp, trung tâm nghiên cứu Chủ nghĩa bài Do Thái Isaac Weinberg mở cửa trên đường Rosier, khu Marais. Giống như phần lớn những vấn đề liên quan đến người Do Thái ở Pháp, việc thành lập trung tâm gây ra nhiều tranh cãi. Đảng Quốc gia cực hữu của Jean-Marie Le Pen đặt ra câu hỏi về nguồn tài trợ cho trung tâm, trong khi một giáo sỹ Hồi giáo đã kêu gọi tẩy chay và tổ chức một cuộc biểu tình ầm ĩ vào đêm khai trương. Ba mươi phút sau khi khai tiệc, xuất hiện lời đe doạ đánh bom. Tất cả những người có mặt, bao gồm Hannah Weinberg, người sáng lập đồng thời cũng là Giám đốc trung tâm, bị một đơn vị cảnh sát chống khủng bố Pháp đưa ra khỏi toà nhà. Phần còn lại của chương trình đón khách bị hủy ngay.
Khuya đêm đo,á cô tụ tập cùng vài người bạn ăn khuya ở cuối đường Jo Goldenberg. Hơn mười giờ, cô đi bộ về căn hộ chung cư trên đường Pavee, được một nhân viên an ninh của Đại sứ quán Israel theo sau bảo vệ. Khi lên lầu, cô mở cửa căn phòng phía cuối hành lang chính giữa và bật đèn lên. Cô đứng một lúc, chiêm ngưỡng bức tranh treo trên tường phía trên bàn trang điểm hồi thơ ấu, sau đó cô tắt đèn đi ngủ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

95#
 Tác giả| Đăng lúc 28-11-2013 20:27:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 40
(tiếp theo)

“Cậu sẽ thông báo tin này với Leah khi nào?”

Gabriel trả lời ông.

“Hãy đưa Gilah đi cùng cậu”, Shamron nói. “Bà ấy đã đến thăm Leah nhiều lần khi cậu đang hoạt động. Leah cần một người mẹ trong những lúc như thế này. Và Gilah là người mẹ tuyệt vời nhất”.

Gabriel và Chiara qua đêm trong căn phòng đối diện hồ. Lúc ban mai, tất cả cùng nhau ăn sáng trên sân thượng tràn ngập ánh nắng, sau đó mỗi người đi một ngả. Yonatan đi về hướng nam để gia nhập đơn vị của mình; Rimona, đã quay trở lại làm việc tại Aman, đi về hướng nam để trở về đơn vị của cô. Gilah đi cùng Gabriel và Chiara. Họ thả Lavon xuống chỗ khai quật tại Tel Megiddo, sau đó tiếp tục đến Jerusalem.

Khi họ đến bệnh viện tâm thần trên núi Herzl, trời đã gần trưa. Giáo sư Bar-Zvi, trông thuần Do Thái với bộ râu dài, đang chờ họ tại hành lang. Họ đi tới văn phòng của ông và mất một giờ thảo luận để tìm cách tốt nhất để báo tin cho Leah. Sự nắm bắt thực tại của cô rất mơ hồ. Trong nhiều năm qua, những hình ảnh tại Viên cứ chiếu đi chiếu lại trong trí nhớ của cô, giống như đoạn video được tua đi tua lại vậy. Bây giờ cô đang bị lẫn lộn giữa quá khứ và hiện tại, có những khoảnh khắc cô được trở về với thực tại. Nhưng rồi cô lại mau chóng chìm vào những hình ảnh của quá khứ. Gabriel cảm thấy có bổn phận phải nói cho cô biết sự thật, nhưng anh muốn làm việc này theo cách ít đau đớn nhất.

“Hình như cô ấy có phản ứng với Gilah”, bác sỹ nói. “Có lẽ chúng tôi nên nói chuyện với cô ấy trước anh”. Ông nhìn đồng hồ. “Bây giờ cô ấy đang ở ngoài vườn. Đó là nơi ưa thích nhất của cô ấy. Tại sao chúng ta không nói chuyện ở đó”.

***

Leah đang ngồi trên xe lăn, dưới bóng râm của cây thông đá. Đôi bàn tay cô, đầy sẹo và bị biến dạng, cầm một cành ôliu. Mái tóc cô, từng có thời rất dài và đen huyền, bây giờ cắt ngắn và gần như bạc hết. Đôi mắt cô vẫn nhìn xa vắng khi nghe Gilah và bác sỹ nói. Mười phút sau họ rời đi. Gabriel bước dọc lối đi trong vườn và quỳ trước xe lăn, nắm lấy những gì còn sót lại của bàn tay. Chính Leah là người cất tiếng.

“Anh có yêu cô gái ấy không?”

“Có, Leah, anh rất yêu cô ấy”.

“Anh sẽ đối xử tốt với cô ấy chứ?”

Những giọt nước mắt rơi trên má anh. “Có, Leah, anh sẽ đối xử tốt với cô ấy”.

Cô ngoảnh mặt đi. “Nhìn tuyết kìa, Gabriel. Tuyết rơi thật đẹp”.

“Em nói đúng, Leah, tuyết đẹp lắm”.

“Chúa ơi, em ghét thành phố này làm sao, nhưng tuyết khiến nó trở nên xinh đẹp. Tuyết xoá sạch tội lỗi khỏi Viên. Tuyết rơi trên Viên trong khi bom đạn rơi trên Tel Aviv”. Cô quay lại nhìn anh. “Anh sẽ vẫn đến thăm em chứ?”

“Có, Leah, anh sẽ vẫn đến thăm em”.

Sau đó cô lại ngoảnh mặt quay đi. “Anh nhớ cài chặt giây an toàn cho Dani. Đường đi trơn lắm”.

“Con khỏe, em ạ. Lái xe về nhà cẩn thận nhé”.

“Em sẽ cẩn thận, Gabriel. Anh hôn em đi”.

Gabriel ghé môi hôn vết sẹo trên gò má bị tàn phá của cô và nhắm mắt lại.

Leah thì thầm. “Nụ hôn cuối”.

Những bức tường trong phòng ngủ của Gabriel treo đầy tranh. Có ba bức là do ông ngoại anh vẽ, đó cũng là những tác phẩm cuối cùng còn sót lại mà Gabriel có thể tìm được - và hơn một tá do mẹ anh vẽ. Cũng có một bức chân dung tự họa, vẽ theo phong cách của Egon Schiele nhưng không có chữ ký. Bức tranh vẽ một thanh niên có mái tóc bạc trước tuổi và gương mặt hốc hác bị ám ảnh bởi bóng dáng tử thần. Gabriel luôn nói với Chiara bức tranh là tác phẩm tự họa. Giờ đây, khi nàng nằm cạnh anh, anh nói với nàng sự thật, rằng đó là bức vẽ của Leah.

“Chị ấy vẽ bức tranh khi nào?”. Chiara hỏi.

“Ngay sau khi anh trở về từ vụ Tháng Chín Đen”.

“Tài năng của chị ấy thật đáng kinh ngạc”.

“Đúng vậy”, Gabriel nói, nhìn bức vẽ. “Cô ấy giỏi hơn anh nhiều”.

Chiara im lặng một lúc. Sau đó nàng hỏi. “Chúng ta sẽ ở đây bao lâu?”

“Có lẽ một tháng. Có lẽ một năm. Em biết những việc như thế này diễn ra như thế nào mà, Chiara”.

“Em nghĩ mình cần thêm đồ đạc”.

“Tại sao?”

“Vì chúng ta không thể chỉ sống bằng phòng vẽ và một cái giường”.

“Chúng ta có thể mà”, anh đáp. “Chúng ta còn cần gì khác nữa?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

94#
 Tác giả| Đăng lúc 28-11-2013 20:25:08 | Chỉ xem của tác giả
Chương 40
Tiberias, Israel

Đêm sau đó là lễ Shabbat. Gabriel ngủ đến gần trưa rồi dậy tắm rửa, thay quần áo và chở Chiara đến thung lũng Jezreel. Họ dừng lại một chút ở Tel Megiddo để đón Eli Lavon, sau đó tiếp tục lái xe đến biển Galilee. Mặt trời gần lặn khi họ đến ngôi biệt thự đá vôi màu mật ong nằm cheo leo trên gờ đất nhìn ra biển. Shamron đón họ tại cổng trước. Khuôn mặt ông gầy và chảy xệ xuốngå, ông phải di chuyển với sự trợ giúp của chiếc gậy. Nó được làm bằng gỗ ôliu rất đẹp.

“Thủ tướng tặng nó cho tôi lúc sáng khi tôi rời trung tâm phục hồi ở Jerusalem. Tôi gần như muốn quất cây gậy vào người ông ta. Nhưng Gilah lại nghĩ cây gậy làm tôi trông nổi bật hơn”. Ông dẫn họ vào trong và nhìn Gabriel. “Tôi thấy cậu đang mặc chiếc áo của tôi. Bây giờ thì rõ ràng tôi sẽ còn sống rất lâu nữa vậy nên tôi muốn đòi lại nó”.

Gabriel cởi áo treo lên chiếc móc trong lối vào nhà. Anh nghe giọng Gilah vẳng ra từ biệt thư gọi họ vào ăn tối. Khi họ bước vào phòng ăn, Gilah đang thắp nến. Yonatan và vợ đang ở đó. Cả Rimona cùng chồng cô nữa. Ronit ngồi kế bên cha mình và khéo léo múc thức ăn vào đĩa của ông khi thức ăn được chuyền khắp bàn. Họ không nói chuyện về vụ bin Shafiq hay Vatican. Thay vào đó họ nói chuyện về buổi xuất hiện của Gabriel trước Quốc hội Mỹ. Theo vẻ chua chát trên gương mặt Shamron, có thể thấy ông không hài lòng về chuyện này. Ông nói rõ suy nghĩ của mình. Sau bữa tối, khi hai người lên sân thượng nói chuyện riêng, ông nói hẳn ra suy nghĩ của mình.

“Cậu làm đúng khi từ chối trát hầu toà lần đầu tiên, Gabriel. Đáng lẽ cậu không nên đổi ý. Chỉ cần suy nghĩ về việc cậu ngồi trước ủy ban Quốc hội, cho dù việc này nằm trong bí mật, cũng khiến tôi phải mất thêm để phục hồi sáu tháng”.

“Nơi bắt đầu cuộc chiến tranh Hồi giáo toàn cầu là Arập Xêút và chủ nghĩa Wahhabi”, Gabriel đáp. “Thượng viện cần biết điều này. Người dân Mỹ cũng vậy”.

“Cậu có thể cho họ biết suy nghĩ của mình bằng cách gửi điện bí mật. Cậu không phải ngồi đó trước mặt bọn họ trả lời những câu hỏi như một người bình thường khác được”.

Họ ngồi xuống ghế đối diện hàng lan can. Trăng tròn phản chiếu trên mặt biển Galilee êm ả, và ở đằng xa phía sau hồ là ngọn Golan sừng sững, đen sẫm chìm trong bóng đêm. Shamron thích ngồi trên sân thượng nhất vì nó hướng về phía Đông - phía quân thù. Ông đưa tay xuống dưới miếng lót ghế lấy ra hộp thuốc lá bằng bạc và chiếc bật lửa Zippo.

“Ông không nên hút thuốc, Ari”.

“Tôi đã không được hút thuốc kể từ khi ở Hadassah và trung tâm phục hồi. Đây là điếu đầu tiên kể từ đêm tôi bị tấn công”.

Thật là tin tốt lành”, Gabriel nói.

“Nếu cậu hở một lời với Gilah về việc này, tôi sẽ đánh cậu đấy ”.

“Ông nghĩ mình lừa được Gilah đấy à? Bà ấy biết hết”.

Shamron đưa cuộc nói chuyện trở lại chủ đề buổi điều trần của Gabriel ở Washington.

“Có lẽ cậu có một động cơ chính đáng để quyết định như thế”. Shamron nói. “Có lẽ cậu muốn làm điều đó khác hơn là chỉ báo với người dân Mỹ sự thật về những người bạn Arập Xêút của họ”.

“Thế ông nghĩ động cơ chính đáng của tôi là gì?”

“Sau lần hoạt động tại Vatican, cậu đã trở thành nhân viên tình báo nổi tiếng nhất trên thế giới. Còn bây giờ…” Shamron nhún vai. “Ngành của chúng ta không ưa chuộng sự nổi tiếng. Cậu đã khiến chúng tôi gần như không thể sử dụng lại cậu trong vỏ bọc ngụy trang được nữa”.

“Tôi không nhận công việc tại Lực lượng Đặc nhiệm nữa, Ari. Thêm nữa, họ đã trao công việc đó cho Uzi”.

“Uzi là một sỹ quan giỏi, nhưng cậu ta không phải là cậu”.

“Uzi là nguyên nhân giúp Sarah Bancroft còn sống. Cậu ta đúng là người cần thiết để lãnh đạo Lực lượng Đặc nhiệm.

“Đáng lẽ cậu không nên sử dụng một cô gái Mỹ”.

“Tôi ước chúng ta có thêm hai người nữa giống cô ấy”.

Shamron dường như không còn thích thú với điếu thuốc lá. Ông bỏ điếu thuốc vào hộp và hỏi Gabriel về kế hoạch của anh.

“Tôi còn một số công việc chưa hoàn thành, bắt đầu là bức Van Gogh. Tôi đã hứa với Hannah Weinberg sẽ đem bức tranh trả lại cho cô ấy. Đây là lời hứa tôi nhất định phải giữ, cho dù bây giờ tôi đã trở thành người được nhiều người biết đến”.

“Cậu biết bức tranh đó ở đâu không?”

Gabriel gật đầu. “Tôi đã gài máy phát tín hiệu vào khung tranh khi phục chế”, anh đáp. “Bức họa đang ở trong dinh thự của Zizi tại Ile de la Cite”.

“Sau những việc đã xảy ra với cậu tại Pháp, cậu lại dự định ăn cắp một bức tranh ở Paris sao?”. Shamron lắc đầu. “Cậu lọt vào nhà anh bạn Tổng thống Mỹ của cậu còn dễ hơn là vào một trong những dinh thự của Zizi”.

Gabriel bác bỏ những lo lắng của Shamron bằng cái phẩy tay giống y như của ông.

“Sau đó thì sao?”

Gabriel im lặng.

“Ronit đã quyết định về nhà”, Shamron nói, “nhưng tôi có cảm giác cậu sẽ rời khỏi chúng tôi một lần nữa”.

“Tôi vẫn chưa quyết định”.

“Tôi hi vọng cậu đã quyết định xong việc với Chiara”.

“Chúng tôi sẽ cưới nhau ngay khi có thể”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

93#
 Tác giả| Đăng lúc 28-11-2013 20:17:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 39
(tiếp theo)

“Tình trạng hiện thời của anh ấy rất giống của cô”.

“Các anh đưa anh ấy đi đâu?”

“Sarah”.

“Nói đi, Gabriel”.

“Anh ta được bảo vệ tại một căn nhà cũ gần Vùng Tận Cùng ở Cornwall”.

“Còn phòng tranh thì sao?”

“Tạm thời bị đóng cửa. Việc cô rời Luân Đôn đã gây ra một vụ xì căng đan. Những anh bồi bàn tại quầy rượu của nhà hàng Green nhớ cô lắm”.

“Tôi cũng nhớ họ. Nhưng tôi nhớ đội của anh hơn”.

“Mọi người gửi lời chào”. Gabriel ngập ngừng. “Họ cũng nhờ tôi nói lời xin lỗi với cô”.

“Về việc gì?”

“Chúng tôi đã làm cô thất vọng, Sarah. Rõ ràng chúng tôi đã bị những tên trong đội an ninh của bin Shafiq hay Zizi nhìn thấy”.

“Có lẽ đó là lỗi của tôi”. Cô nhún vai. “Nhưng chuyện này không quan trọng. Tất cả chúng ta đều may mắn sống sót để mà thoát khỏi vụ này, ngoài ra còn hạ được mười lăm tên trong ngôi nhà đó. Chúng ta còn phá hỏng âm mưu ám sát Tổng thống. Được quá đi chứ, Gabriel”.

Lại một hồi sấm khác, lần này gần hơn. Sarah nhìn lên bầu trời.

“Tôi phải hỏi cô mấy điều, Sarah. Có một vài thứ tôi cần biết trước khi đóng lại quyển sách về lần hoạt động này”.

Sarah vẫn ngước mắt nhìn trời. “Anh muốn biết tôi khai gì với bọn chúng trong căn nhà ở Thụy Sĩ”.

“Tôi biết cô bị bỏ thuốc. Tôi biết có lẽ cô đã cố đẩy những ký ức đau buồn đó ra khỏi đầu mình”.

Cô nhìn anh rồi lắc đầu. “Tôi không cố quên”, cô nói. “Thật ra tôi còn nhớ từng từ”.

Những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi. Sarah dường như không chú ý. Họ đi dưới những hàng cây, Sarah lần lượt kể cho anh nghe.

Carter tiễn Gabriel đến sân bay Dulles và đưa anh qua cửa an ninh. Họ ngồi cùng nhau trong khoang ngoại giao đặc biệt chờ thông báo chuyến bay. Gabriel bỗng chú ý đến người đàn ông ngồi bên phòng đối diện: Hoàng tử Bashir, đại sứ Arập Xêút ở Mỹ.

“Đừng nghĩ về chuyện đó, Gabriel”.

“Đối đầu công khai không phải là phong cách của tôi, Adrian”.

“Có lẽ không, nhưng Bashir khá thích chuyện đó”.

Tựa như nghe được câu chuyện, ông đại sứ vụt đứng dậy, bước ngang qua phòng. Ông ta dừng trước mặt Gabriel nhưng không chìa tay ra. “Tôi nghe nói sáng nay ông thu hút được khá nhiều khán giả tại đồi toà nhà quốc hội ông Allon. Toàn những lời nói dối và tuyên truyền của dân Do Thái, nhưng kể cũng khá hài hước”.

“Buổi điều trần được giữ bí mật, Bashir”.

“Không có gì diễn ra trong thành phố này mà tôi không biết. Ông phải gọi tôi là Hoàng tử Bashir”. Viên đại sứ nhìn Carter. “Anh có chịu trách nhiệm về tiết mục xiếc ngày hôm nay không, Adrian?”

“Các Thượng nghị sỹ ra trát hầu tòa, thưa Hoàng tử. Cục không liên quan gì đến việc này”.

“Lẽ ra các anh nên làm điều gì đó để ngăn chặn chuyện ấy”.

“Đây không phải là Riyadh, thưa ngài đại sứ”.

Bashir trừng mắt nhìn Carter, sau đó quay trở lại chỗ ngồi.

“Tôi đoán mình không đủ tiêu chuẩn nằm trong kế hoạch nghỉ hưu của người Arập Xêút ”.

“Gì cơ?”

“Không có gì”, Carter nói.

Mười phút sau loa phóng thanh thông báo chuyến bay của Gabriel. Carter tiễn anh đến cửa ra.

“Ồ, tôi gần như quên khuấy chuyện này. Tổng thống gọi điện đến nhưng lúc đó anh đang nói chuyện với Sarah. Ông ấy muốn ngỏ lời cảm ơn. Ông ấy bảo sẽ gặp anh vào dịp khác”.

“Nhắn hộ tôi rằng ông ấy đừng bận tâm”.

“Tổng thống cũng bảo ông muốn anh tiếp tục kế hoạch hai người đã thảo luận tại Bãi cỏ phía Nam”.

“Ông chắc không?”

“Chắc về chuyện gì?”

“Ông có chắc Tổng thống nói như thế không?”

“Chắc chắn”, Carter đáp. “Thế hai người nói chuyện gì đêm hôm đó?”

“Cuộc chuyện trò của chúng tôi mang tính chất cá nhân, Adrian, và sẽ luôn là như vậy”.

“Anh cừ lắm”. Carter nói.

Họ bắt tay; sau đó Gabriel quay bước lên máy bay.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

92#
 Tác giả| Đăng lúc 28-11-2013 20:15:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 39
(tiếp theo)

Gabriel hạ ghế xuống và nhắm mắt lại.

Anh tỉnh dậy khi chiếc xe bon bon vào thị trấn nhỏ có tên Đồng Bằng. Carter lái xe chậm lại khu trung tâm thương mại nhỏ xíu; sau đó băng qua đường ray xe lửa cũ kỹ, và một lần nữa lái xe về hướng đồng quê. Con đường trông có vẻ quen thuộc với Gabriel, cũng giống như con đường nhỏ trải sỏi mà Carter đã quẹo vào cách đó hai dặm. Con đường chạy dọc theo bờ suối hẹp. Bên trái là một cánh đồng thoai thoải, ngược lên cao có một nông trại lớn mái lợp bằng đồng đã mờ xỉn và hàng hiên hai tầng. Khi Gabriel ghé thăm ngôi nhà lần trước, cây đã trụi lá còn mặt đất đang phủ đầy tuyết. Bây giờ cây sơn thù du nở rộ hoa, những cánh đồng xanh mơn mởn nhờ những lá cỏ mùa xuân mới mọc.

Một phụ nữ có mái tóc vàng óng thả đi ngựa nước kiệu ngược chiều với họ. Những chỗ sưng trên khuôn mặt cô đã xẹp xuống, và nét mặt cô đã trở lại bình thường. Ngoại trừ những quầng thâm dưới mắt, Gabriel nghĩ. Trong mắt Sarah vẫn còn vương lại dấu vết của cơn ác mộng cô đã trải qua tại ngôi nhà ván ở bang Uri. Cô cho ngựa chạy dọc theo xe một cách thuần thục và nhìn xuống Gabriel. Một nụ cười nở trên gương mặt cô, và trong giây lát cô như trở lại là người phụ nữ xinh đẹp anh nhìn thấy trên đường Q ở Washington mùa thu năm ngoái. Sau đó nụ cười nhạt dần và với hai cú thúc chính xác, cô phi nước đại qua cánh đồng về phía ngôi nhà.

“Cô ấy đã có những ngày vui vẻ và những ngày tồi tệ”, Carter nói khi nhìn Sarah phóng ngựa đi. “Nhưng tôi chắc rằng anh hiểu điều này”.

“Tôi hiểu”.

“Tôi luôn cho rằng hằn thù cá nhân là phản tác dụng nhất là đối với ngành của chúng ta, nhưng tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho Zizi vì những gì hắn gây ra cho cô ấy”.

“Tôi cũng không tha thứ”, Gabriel nói. “Tôi sẽ ghi nhớ những gì hắn đã làm”.

Họ ăn trưa trong ánh mặt trời dịu nhẹ chiếu trên hiên sau nhà. Sau đó Carter dọn dẹp chén đĩa, còn Gabriel và Sarah đi dạo cùng nhau trong khu rừng đầy bóng râm. Một nhân viên CIA cố gắng theo sau họ, nhưng Gabriel tước vũ khí của anh ta và bảo anh ta quay trở lại ngôi nhà. Sarah mặc quần, đi ủng cưỡi ngựa và khoác áo lông cừu. Gabriel vẫn mặc bộ vest màu xám lúc dự buổi điều trần của các thượng nghị sỹ. Anh cầm khẩu súng của người nhân viên trong tay phải.

“Arian có vẻ không vui vì sự xuất hiện của anh trước Ủy ban”.

“Đúng vậy”.

“Một người nào đó phải chuyển thông điệp về những người bạn Arập Xêút của chúng ta. Còn ai khác ngoài anh? Anh đã cứu được mạng sống của Tổng thống”.

“Không, Sarah, chính cô mới là người cứu Tổng thống. Có lẽ một ngày nào đó đất nước sẽ nhận ra họ có món nợ lớn với cô”.

“Tôi không muốn công khai bản thân quá sớm”.

“Kế hoạch của cô là gì?”

“Adrian chưa kể với anh à? Tôi sẽ gia nhập cơ quan. Tôi nhận ra rằng thế giới nghệ thuật có thể vẫn tồn tại mà không cần đến một người phụ trách bảo tàng”.

“Bên nào? Điệp vụ hay tình báo?”

“Tình báo”, cô đáp. “Tôi đã có đủ kinh nghiệm hoạt động cho cả đời người. Thêm nữa, sẽ không an toàn nếu tôi sớm xuất đầu lộ diện. Zizi đã cảnh cáo tôi về án phạt cho những người phản bội hắn”.

“Hắn có mạng lưới hoạt động vươn xa lắm. An ninh của cô ở Mỹ thì sao?”

“Người ta sẽ cho tôi tên và nhân dạng mới. Tôi được quyền chọn tên. Tôi tự hỏi không biết anh có cho phép tôi sử dụng tên của mẹ anh không?”

“Irene?”. Gabriel mỉm cười. “Tôi rất lấy làm vinh dự. Bà ấy giống cô - một người phụ nữa can đảm phi thường. Lần tới khi cô đến Israel, tôi sẽ cho cô đọc những gì xảy ra với bà trong chiến tranh”.

Sarah dừng bước, mân mê một bông hoa sơn thù du vừa nở rộ.

“Còn anh thì sao, Gabriel? Kế hoạch của anh là gì?”

“Tôi nghĩ cô và tôi có lẽ đi theo hai hướng khác nhau”.

“Ý anh là sao?”

“Tôi e rằng mình không thể nói gì hơn vào lúc này”.

Cô bĩu môi đập nhẹ vào tay anh. “Anh không dự định giữ bí mật với tôi từ giờ phút này chứ?”

“Giờ đây cô đang làm việc cho cơ quan Tình báo của một nước khác, tôi e rằng mối quan hệ của chúng ta sẽ phải có một số…” Anh ngừng lại tìm từ diễn đạt cho đúng bằng tiếng Anh. “Giới hạn nhất định”.

“Thôi nào, Gabriel. Chúng ta có mối dây ràng buộc vượt quá qui tắc liên lạc giữa đặc vụ của các tổ chức tình báo khác nhau”.

“Tôi thấy cô đã bắt đầu sử dụng nhuần nhuyễn những gì được huấn luyện”.

Sarah nói. “Việc này giúp tôi đỡ buồn khi sống một mình ở nông trại này”.

“Cô khỏe không, Sarah?”

“Ban ngày tôi ổn, nhưng ban đêm tôi cảm thấy rất khó khăn”.

“Cô sẽ cảm thấy như vậy trong một thời gian dài. Nhưng làm việc cho cơ quan Tình báo sẽ giúp cô dễ chịu hơn. Cô có biết họ sẽ cho cô làm việc gì không?”

“Đến Arập Xêút ”, cô nói. “Tôi đề nghị như vậy”.

Khu rừng rung chuyển vì loạt sấm từ xa. Sarah hỏi thăm về Julian Isherwood.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

91#
 Tác giả| Đăng lúc 28-11-2013 20:14:25 | Chỉ xem của tác giả
Phần 4: Nhân chứng

Chương 39
Washington

Một tháng sau vụ ám sát Tổng thống, Uỷ ban Thượng viện tổ chức một cuộc họp. Trong bài phát biểu khai mạc, các thành viên cao cấp đảm bảo với người dân Mỹ rằng họ sẽ điều tra đến cùng và không khoan nhượng, nhưng vào cuối tuần đầu tiên, các Thượng nghị sỹ từ cả hai đảng cảm thấy bực mình vì tính thiếu trung thực của lãnh đạo các cơ quan an ninh và tình báo. Các phụ tá của Tổng thống giải thích rất chi tiết làm cách nào lực lượng Hồi giáo cực đoan toàn cầu có thể thâm nhập vào trung tâm vương quốc Thiên Chúa giáo, và làm cách nào Giáo sư Ali Massoudi tuyển mộ được một thanh niên trẻ có tên là Erich Muller và cài hắn vào Đội cận vệ Thụy Sĩ của Giáo hoàng. Nhưng khi đụng đến người vạch kế hoạch hai vụ tấn công vào Vatican - và quan trọng hơn, ai đã trả tiền các hóa đơn - các phụ tá của Tổng thống chỉ có thể đưa ra những ý kiến gián tiếp. Họ cũng không thể giải thích thoả đáng với các thành viên của Uỷ ban về sự có mặt của Gabriel Allon, một người Israel mà bây giờ đã được biết đến là một điệp viên và kẻ chuyên ám sát huyền thoại. Sau nhiều bàn bạc trong Uỷ ban, các Thượng nghị sỹ quyết định triệu tập anh để đích thân hỏi cung. Vì là người nước ngoài, anh không có bổn phận phải tuân theo lời triệu tập nên như nhiều dự đoán, anh đã từ chối xuất hiện. Ba ngày sau, anh bất ngờ đổi ý. Anh báo với các Thượng nghị sỹ rằng mình sẽ điều trần, nhưng với điều kiện phải là một cuộc gặp bí mật. Các Thượng nghị sỹ đồng ý, và yêu cầu anh đến Washinton ngày thứ năm tuần kế tiếp.

Gabriel đi một mình vào phòng điều trần kín. Khi Chủ tịch Uỷ ban yêu cầu anh đứng lên khai tên mình để ghi chép lại, anh đã thực hiện không hề do dự.

“Chủ của ông?”

“Thủ tướng nước Israel”.

“Chúng tôi có nhiều câu hỏi muốn nêu ra với ông, ông Allon, nhưng theo lời của Đại sứ nước ông, ông sẽ không trả lời những câu hỏi mà ngài nghĩ là không phù hợp”.

“Đúng vậy, thưa ngài Chủ tịch”.

Chúng tôi cũng được thông báo rằng ông muốn đọc một bài phát biểu trước khi chúng tôi bắt đầu thẩm vấn”.

“Điều đó cũng đúng, thưa ngài Chủ tịch”.

“Bài phát biểu này có liên quan đến nước các Tiểu vương quốc Arập thống nhất và mối quan hệ giữa Mỹ và họ”.

“Đúng, thưa ngài Chủ tịch”.

“Tôi muốn lưu ý ông, ông Allon. Mặc dù buổi điều trần này được tiến hành bí mật, sẽ vẫn có bản đánh máy những lời nhận xét của ông”.

“Tôi hiểu, thưa ngài”.

“Rất tốt. Ông có thể bắt đầu”.

Sau câu nói này, Gabriel nhìn xuống và bắt đầu đọc bản điều trần . Ở góc xa của phòng, một người đàn ông nhăn mặt. Hercules đã đến Thượng viện Mỹ, anh ta thầm nghĩ. Và mang theo một bao đầy tên tẩm mật đắng.

“Chúc mừng, Gabriel”, Adrian Carter nói. “Anh không thể không làm, đúng không? Chúng tôi cho anh sân khấu, còn anh sử dụng sân khấu đó để phục vụ mình thật tốt”.

“Các Thượng nghị sỹ cần biết bản chất thật sự của đế chế Arập Xêút và sự ủng hộ của nó đối với khủng bố toàn cầu. Người dân Mỹ cần được biết những đồng tiền thu được nhờ bán dầu đó đang được sử dụng như thế nào”.

“Ít nhất anh cũng nên để tên Zizi ra ngoài chuyện này”.

“Tôi có những kế hoạch khác dành cho Zizi”.

“Tốt hơn là anh không nên làm như vậy. Hơn nữa anh cũng nên để mắt canh chừng quả bóng ngay bây giờ”.

“ Canh chừng quả bóng? Câu này nghĩa là gì?”

“Đây là một lối nói ẩn dụ trong thể thao, Gabriel. Anh có chơi môn thể thao nào không?”

“Tôi không có thời gian cho thể thao”.

“Mỗi ngày trôi qua anh lại càng giống Shamron hơn”.

“Tôi sẽ xem đây là lời khen”, Gabriel đáp. “Tôi nên để mắt đến quả bóng nào?”

“Bin Shafiq”. Carter nhìn xéo qua Gabriel. “Có dấu hiệu gì của hắn chưa?”

Gabriel lắc đầu. “Còn phía ông?”

“ Chúng tôi có một chút dấu vết”.

“Có dấu vết nào mà anh có thể tiết lộ với tôi không?”

“Chưa đến lúc”.

Carter lái xe qua cầu Memorial quẹo vào đại lộ George Washington. Họ lái xe trong im lặng một vài phút. Gabriel nhìn ra cửa xe, thầm thán phục cảnh thị trấn Geortown bên kia sông.

“Tôi thấy trong lịch trình bay anh sẽ ghé qua Rome trên đường về Israel”, Carter nói. “Anh dự định thực hiện một nhiệm vụ chưa hoàn tất cho Vatican à?”

“Tôi chỉ muốn dành một chút thời gian bên Donati. Khi tôi rời Rome, ông ấy vẫn chưa tỉnh”. Gabriel nhìn đồng hồ. “Ông đang đưa tôi đi đâu, Adrian?”

“Còn mấy tiếng nữa máy bay mới cất cánh. Chúng ta có thể ghé ăn trưa ở vùng đồng quê chăn ngựa Virginia”.

“Còn bao lâu nữa thì tới nơi?”

“Khoảng một tiếng”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

90#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:33:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 38
Rome

Trạm xá Gemelli còn khá nhiều phòng trên tầng 11 mà ít người biết đến. Chúng là phòng của các cha xứ. Phòng có giường bệnh. Phòng thứ hai có trường kỷ và ghế. Căn phòng thứ ba có nhà nguyện riêng. Hành lang bên ngoài lối vào có bàn dành cho lính gác. Lúc nào cũng có người đứng gác ở đó, ngay cả khi các phòng không có bệnh nhân.

Tối nay, chiếc giường bệnh của nhân vật đứng đầu một tỷ người theo đạo Thiên Chúa La Mã trên khắp thế giới, được dành cho viên thư ký riêng đáng tin cậy của ông. Hàng ngàn người với đức tin mãnh liệt đứng chật ních con đường bên dưới cửa sổ phòng bệnh. Vào lúc 9 giờ, họ im lặng lắng nghe bản tin đầu tiên từ văn phòng báo chí của Vatican. Bản tin cho biết Đức ông Luigi Donati đã trải qua bảy giờ phẫu thuật để chữa trị vết thương gây ra bởi hai viên đạn 9 li. Bản tin mô tả Đức ông đang ở trong tình trạng “cực kỳ nghiêm trọng”, và nói rõ rằng chưa thể xác định được Đức ông có qua khỏi hay không. Bản tin kết thúc bằng thông báo Đức Thánh Cha đang ở bên cạnh ông và dự định sẽ còn ở đó một thời gian nữa. Bản tin không đề cập đến sự có mặt của Gabriel.

Họ ngồi cùng nhau trên chiếc ghế trường kỷ trong phòng khách. Ở phía bên kia cánh cửa mở nối hai phòng, Donati đang nằm bất động và xanh xao. Một đội y tá và bác sỹ vây quanh ông, nét mặt nặng nề. Mắt Đức Thánh Cha nhắm nghiền còn tay thì lần tràng hạt. Một vệt máu lớn loang lổ trên tấm áo trắng của ông. Ông không chịu cởi áo ra. Gabriel nhìn Đức Thánh Cha và nghĩ đến Shamron cùng chiếc áo da sờn rách. Anh hi vọng ông không tự trách mình vì những việc xảy ra hôm nay.

Gabriel nhìn màn hình. Đoạn video về cuộc tấn công, một trong những giây phút kịch tích nhất từng được truyền hình trực tiếp, đang chiếu trên màn ảnh. Đoạn video này được phát đi phát lại. Gabriel đã xem đoạn băng này ít nhất một tá lần, và bây giờ đang xem lại. Anh nhìn thấy Muller nhô người khỏi đám cận vệ Thụy Sĩ, khẩu súng vươn ra trên tay. Anh thấy chính mình rút súng khỏi túi trong áo khoác, và Donati lấy thân mình che chắn cho Tổng thống Hợp chủáng quốc Hoa Kỳ khi Muller nhả đạn. Một phần giây, anh nghĩ. Nếu anh nhìn thấy Muller một phần mười giây trước đó, có lẽ anh đã có thể nhả đạn trước. Donati sẽ không phải nằm đây cận kề cái chết trên tầng 11 của trạm xá Gemelli. Gabriel nhìn Giáo hoàng. Mắt ông không còn nhắm mà nhìn chăm chú lên màn hình tivi.

“Làm sao mà Donati biết để bước ra che cho Tổng thống Mỹ chứ không phải cho ta?”

“Con nghĩ rằng Đức ông biết Muller đã có thể giết Đức Thánh Cha rất gần nếu hắn muốn. Muller sẽ giết Tổng thống trước, và Đức ông hiểu điều đó”.

“Donati hiểu được điều đó chỉ trong nháy mắt”.

“Đức ông Donati là một trong những người thông minh nhất con từng gặp, thưa Đức Thánh Cha”. Gabriel nhìn Donati. “Đức ông đã cứu sống Tổng thống, nhưng có lẽ chính Cha cũng không nhận thức được điều đó khi lấy thân mình che chắn cho Tổng thống”.

“Luigi chỉ ngăn được những viên đạn”, Giáo hoàng nói, “nhưng cậu mới là người cứu ông ấy. Nếu không nhờ cậu, chúng ta sẽ không bao giờ biết cảnh giác về những chuyện như vậy. Làm sao cậu biết bọn chúng sẽ tấn công Vatican một lần nữa?”

“Chúng ta sẽ phải nói về chuyện này vào một ngày khác. Một ngày rất xa trong tương lai”.

“Cậu đang thực hiện một nhiệm vụ, đúng không?”

Gabriel im lặng.

“Erich Muller, một người trong đội lính gác của ta…”. Giọng Giáo hoàng nhỏ dần. “Ta vẫn không tin điều này. Làm sao họ làm được điều đó, Gabriel? Làm cách nào họ trà trộn một tên sát nhân vào đội cận vệ Thụy Sĩ được?”

“Chi tiết khá phức tạp, thưa Đức Thánh Cha, nhưng có vẻ như Muller được tuyển mộ một khoảng thời gian sau khi hắn rời quân đội Thụy Sĩ. Hắn không có công ăn việc làm, nên dành một năm rưỡi du lịch châu Âu và Địa Trung Hải. Hắn trú chân ở Hamburg vài tháng, và thêm vài tháng nữa ở Amsterdam. Hắn là thành viên tích cực tham gia các cuộc biểu tình chống Mỹ, chống Israel. Có lẽ hắn đã cải đạo sang Hồi giáo. Chúng tôi nghĩ rằng hắn được tuyển mộ vào mạng lưới khủng bố do một tên tự xưng là Giáo sư Ali Massoudi tổ chức”.

“Massoudi? Thật vậy sao? Lạy Chúa, Giáo sư Massoudi có nộp một vài bài viết cho ủy ban đặc biệt của ta về việc cải thiện mối quan hệ giữa Hồi giáo và phương Tây. Ta nghĩ có lẽ hắn đã đến thăm Vatican”.

“Cải thiện mối quan hệ giữa Hồi giáo và nhà thờ không phải là một phần trong chương trình hành động thực sự của hắn, thưa Đức Thánh Cha”.

“Rõ ràng là vậy”, Giáo hoàng thừa nhận. “Ta đoán giờ đây chúng ta đã biết ai mở Cánh Cửa Tử Thần cho những tên đánh bom cảm tử hồi tháng Mười. Chính là Muller đúng không?”

Gabriel gật đầu nhìn màn hình khi đoạn phim về vụ tấn công được phát lại.

“Ta tự hỏi không biết bao nhiêu người xem đoạn băng ngày hôm nay”, Giáo hoàng nói.

“Hàng tỷ người, thưa Đức Thánh Cha”.

“Có điều gì đó mách bảo ta rằng những ngày làm điệp viên bí mật của cậu không còn nữa. Chào mừng quay trở về thế giới thật, Gabriel”.

“Thế giới này làm con cảm thấy thoải mái”.

“Dự định của cậu là gì?”

“Con phải trở lại Israel”.

“Sau đó thì sao?”

“Tương lai của con khá bất định”.

Giáo hoàng nhận xét. “Francesco Tiepolo bảo với ta cậu và Chiara đã quay trở lại với nhau”.

“Vâng, thưa Đức Thánh Cha. Hiện tại cô ấy đang ở Israel”.

“Kế hoạch của cậu là gì?”

“Con phải cưới cô ấy trước khi cô ấy lại bỏ con ra đi”.

“Thật là thông thái. Sau đó thì sao?”

“Con mới tính được đến đó thôi, thưa Đức Thánh Cha”.

“Cậu cho phép ta cho cậu thêm một lời khuyên nhé?”

“Dĩ nhiên”.

“Vào lúc này, cậu là người nổi tiếng nhất nước Ý. Một vị anh hùng quốc gia. Có cái gì đó mách bảo với ta đất nước này sẽ rộng tay chào đón cậu. Lần này cậu không phải mang tên Mario Delvecchio nữa”.

“Đến đó rồi hãy tính”.

“Nếu là cậu, ta sẽ xây một cây cầu nối trở lại Venice”.

Giáo hoàng nhìn sững xuyên qua cánh cửa một lúc. “Ta không biết phải làm gì nếu Chúa mang ông ấy khỏi tay ta. Ta không thể quản lý nhà thờ Thiên Chúa giáo mà không có Luigi Donati”.

“Con còn nhớ ngày Đức ông đến Jerusalem tìm con”, Gabriel hồi tưởng. “Khi cùng dạo bước trong Thành Cổ, con đã ngu ngốc bảo rằng Cha ấy là người không có đức tin nếu so với một người có niềm tin thành kính. Nhưng bây giờ con hiểu rằng phải là người có niềm tin mãnh liệt thì mới dám bước ra trước đầu đạn”.

“Luigi Donati là người có niềm tin phi thường. Ông ấy chỉ chưa nhận ra điều này. Bây giờ ta cũng cần có niềm tin. Ta phải tin rằng Chúa sẽ thấy nên để ông ấy bên ta lâu thêm một thời gian nữa - rằng phải cần chấm dứt sự điên loạn này”.

Câu hỏi kế tiếp Giáo hoàng hỏi là câu hỏi ông đã đặt ra với Gabriel sau vụ tấn công tháng Mười.

“Mọi chuyện chấm dứt chưa?”

Lần này Gabriel chăm chú nhìn màn hình mà không nói gì.

Không, thưa Đức Thánh Cha, anh nghĩ. Chưa hẳn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

89#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:31:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 37
(tiếp theo)

“Hàng xóm?”

“Đức Thánh Cha có vẻ không để ý, nhưng Hồng y Ngoại trưởng không thích tiếng súng. Chúng tôi chuyển sang tập bắn vào chủ nhật hay các ngày lễ trong đạo”. Muller đi về phía tủ kim loại, mở khóa. “Súng chuẩn của chúng tôi là khẩu SIG-Sauer 9mm có ổ đạn mười lăm viên”. Anh ta nhìn Gabriel qua vai mình khi mở cửa tủ. “Đây là vũ khí do Thụy Sĩ làm. Rất chính xác… và rất mạnh. Ông có muốn bắn thử không?”

Gabriel gật đầu. Muller lấy khẩu súng, một ổ đạn, cùng một hộp đạn đầy rồi mang đến khu tập bắn. Anh ta bắt đầu nạp đạn, nhưng Gabriel ngăn lại. “Tôi sẽ làm việc này. Cậu ra xem bia bắn giùm tôi”. Người cận vệ Thụy Sĩ gắn bia vào đường dây và kéo đến một nửa đường bắn. “Xa hơn”, Gabriel nói. “Đến chỗ xa nhất”. Muller làm theo lời anh. Đến lúc bia tập bắn được kéo đến phía bên kia đường bắn, Gabriel đã nạp xong mười lăm viên đạn vào ổ, và lắp ổ đạn vào khẩu súng lục. “Ông làm nhanh quá”, Muller nhận xét. “Tay ông chắc phải khéo lắm”.

“Tôi đã luyện tập nhiều”.

Muller đưa dụng cụ bảo vệ tai và mắt cho Gabriel.

“Không cần, cám ơn”.

“Đây là qui tắc trong trường bắn, thưa ông”.

Gabriel quay người không báo trước và nổ súng. Anh tiếp tục bắn cho đến khi súng hết đạn. Muller kéo bia tập bắn lại trong khi Gabriel tháo ổ đạn trống rỗng ra và nhặt ống lót lên.

“Lạy Chúa tôi”.

Tất cả mười lăm phát đạn đều ghim ngay chính giữa bia bắn.

“Ông có muốn bắn nữa không?”. Muller hỏi.

“Đủ rồi”.

“Ông có muốn lấy bao đeo súng ở vai không?”

“Tôi để súng ở túi quần”.

“Để tôi lấy cho ông thêm một ổ đạn”.

“Cho tôi hai ổ. Thêm một hộp đạn nữa”.

Gabriel lấy quần áo từ phòng chỉ huy, rồi vội vã quay lại cung điện Thánh Tông đồ. Anh lên lầu ba và theo Donati đến phòng khách nhỏ có buồng riêng. “Tôi lén lấy lưỡi dao lam đó của Đức Thánh Cha”, Donati nói. “Khăn tắm ở trong tủ dưới bồn rửa tay”.

Gần chín mươi phút nữa Tổng thống mới đến. Gabriel thong thả cạo râu đứng dưới vòi sen vài phút. Bộ quần áo được đội cận vệ Thụy Sĩ chuẩn bị vội vã hoá ra lại rất vừa vặn với anh. Vào lúc 11 giờ, chúng đúng như mong muốn anh bước dọc hành lang trang trí bích hoạ để đến phòng riêng của Đức Giáo hoàng.

Gabriel yêu cầu Donati thêm một việc trước khi đến khu doanh trại đội cận vệ Thụy Sĩ: bản báo cáo cuối cùng của Lực lượng an ninh Vatican và Ý về vụ tấn công tháng Mười được thực hiện. Anh vừa nhâm nhi cà phê và bánh vừa đọc bản báo cáo trong phòng ăn riêng của Đức Giáo hoàng, sau đó anh đảo một lượt các kênh trên truyền hình tìm xem có tin tức gì về mười một xác chết trong ngôi nhà ván ở Thụy Sĩ. Không có kênh tin quốc tế nào đề cập về việc này. Anh đoán rằng đội của Carter đã hoàn thành nhiệm vụ.

Donati đến tìm Gabriel vào lúc 11 giờ 45 phút. Họ cùng nhau đi tới cung điện Belvedere và tìm thấy một văn phòng trống có thể bao quát khu vườn. Một lúc sau, những thân cây bắt đầu vặn vẹo, sau đó hai chiếc máy bay trực thăng cánh quạt đôi xuất hiện, hạ xuống bãi đáp máy bay ở góc xa của thành quốc. Gabriel thấy bớt căng thẳng khi chiếc trực thăng đầu tiên hạ cánh xuống an toàn dưới đầu các ngọn cây. Năm phút sau họ thoáng thấy Tổng thống Mỹ tự tin sải bước về phía cung điện, đi theo ông là vài tá nhân viên an ninh vũ trang đầy đủ, bộ dạng lo lắng.

“Các nhân viên sẽ phải đợi trong vườn”, Donati nói. “Người Mỹ không thích việc này, nhưng đây là nghi thức tiếp đón. Anh có biết là họ đã cố ý cài vài nhân viên Cục Tình báo vào đoàn đại biểu chính thức không?”

“Không phải vậy chứ”.

Donati nhìn Gabriel. “Anh muốn nói với tôi điều gì à?”

“Vâng”, Gabriel nói. “Chúng ta nên quay trở lại cung điện các Thánh tông đồ. Tôi muốn có mặt ở đó trước khi Tổng thống đến”.

Donati quay lại dẫn đường.

Năm phút trước khi Tổng thống tới, họ đã có mặt trong Sala Clementina. Đây là một phòng tiếp khách cao vút với các bức bích hoạ phủ đầy quanh tường. Nó nằm ngay trên phòng riêng của Giáo hoàng. Đức Thánh Cha vẫn chưa đến. Một đội cận vệ nghi thức đứng bên ngoài lối đi rộng, và thêm vài đội nữa mặc thường phục đứng bên trong. Cuối góc phòng dài hình chữ nhật đặt hai chiếc ghế chạm trổ; ở góc bên kia là nhóm phóng viên, nhiếp ảnh gia, và những người quay phim. Tâm trạng chung của họ là không được hài lòng lắm. Các công cụ tìm kiếm và kiểm tra an ninh của cận vệ Thụy Sĩ và Cục Tình báo trở nên gắt gao hơn bao giờ hết, và ba đội quay phim châu Âu không được cho vào phòng vì có những sơ hở nhỏ trong giấy giới thiệu. Báo giới được phép ghi lại những hình ảnh đầu tiên của cuộc gặp lịch sử và phát sóng hình ảnh này trên toàn thế giới, sau đó họ sẽ được đưa ra ngoài.

Donati vào lại trong hành lang chờ Đức Thánh Cha. Gabriel nhìn quanh một lúc, sau đó đi đến phía trước phòng đứng cách chiếc ghế dành cho Đức Thánh Cha vài bước. Trong hai phút kế tiếp mắt anh nhìn lướt qua đám nhà báo, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào không tụ nhiên, hay một khuôn mặt trông có vẻ không hợp chỗ. Sau đó anh làm điều tương tự với các Giám mục trong Hội đồng Hồng y đang đứng bên trái.

Ngay trước lúc giữa trưa, Đức Thánh Cha bước vào phòng trong bộ bạch y, theo sau Donati, Hồng y Ngoại trưởng, và bốn cận vệ Thụy Sĩ mặc thường phục. Erich Muler, người cận vệ đã đưa cho Gabriel vũ khí, cũng nằm trong số những người này. Mắt anh ta dừng một chút trên Gabriel, rồi gật đầu chào nhẹ. Giáo hoàng bước ngang phòng và dừng lại trước ghế ngồi của mình. Donati, cao và nổi bật trong chiếc áo choàng màu đen và khăn choàng cổ màu đỏ, đứng bên cạnh Giáo hoàng. Ông nhìn lướt qua Gabriel, sau đó hướng ánh nhìn về phía cửa khi Tổng thống Mỹ bước vào.

Gabriel nhanh chóng điểm qua đoàn đại biểu chính thức của Tổng thống. Bốn nhân viên Cục Tình báo có mặt trong đoàn này, thậm chí có thể hơn. Sau đó ánh nhìn của anh đảo khắp phòng giống như ánh đèn pha: những phóng viên, các Giám mục trong Hội đồng Hồng y, những cận vệ Thụy Sĩ, Tổng thống, và Đức Thánh Cha. Bây giờ họ đang bắt tay, mỉm cười nồng ấm với nhau trong ánh đèn lóa mắt của máy chụp ảnh.

Sự việc diễn ra nhanh chóng đến nỗi Gabriel không ngờ tới. Sau này nghĩ lại, anh thấy thật ra nếu không nhờ Donati, có lẽ không bao giờ anh có thể nhận biết được tình hình. Mắt Donati bất ngờ mở lớn, sau đó ông bước về phía Tổng thống. Gabriel quay người lại và thấy khẩu súng bên mình. Vũ khí là khẩu SIG-Sauer 9li- bàn tay đang cầm súng chính là của hạ sỹ Erich Muller.

Gabriel rút khẩu súng của chính mình và bắt đầu nhả đạn, nhưng Muller vẫn kịp bắn hai phát. Anh không nghe tiếng la hét hay chú ý đến ánh đèn chớp của máy chụp ảnh. Anh chỉ bắn mãi cho đến khi tên cận vệ Thụy Sĩ nằm chết cứng trên sàn đá cẩm thạch. Các nhân viên Cục Tình báo được ngụy trang trong đoàn đại biểu của Mỹ nắm lấy Tổng thống và đưa ông ra cửa. Pietro Lucchesi, Giám mục thành Rome, Giáo chủ tối cao, người kế nhiệm thánh Peter, khuỵa đầu gối xuống cầu nguyện bên cạnh cơ thể bất động của vị cha xứ cao lớn trong bộ áo choàng màu đen.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách