Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kinh Tế - Xuất Bản] Chiếc Lexus Và Cây Ô Liu | Thomas L. Friedman (HOÀN)

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 19-3-2013 20:09:17 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3
(tiếp theo)

Chính vì thế nên tối thích nói, sự trao đổi thông tin cho chúng ta những lăng kính để quan sát thế giới ngày nay, nhưng chỉ những lăng kính thôi vẫn chưa đủ. Chúng ta cũng cần hiểu chúng ta đang quan sát điều gì và để làm gì. Chúng ta đang quan sát và tìm xem sự mưu cầu vật chất tốt nơn và bản sắc cá nhân và cộng đồng - khởi nguồn từ Cựu ước - đang phát triển ra sao trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay. Đó chính là tấn kịch giữa xe hơi Lexus và cây Ô liu.

Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh, khả năng gây hại cho cây Ô liu của bạn đến từ một cây Ô liu khác. Nói cách khác, người hàng xóm của bạn một hôm chạy sang, giận dữ nhổ bật cây Ô liu của bạn và trồng vào đó một cây Ô liu của anh ta. Hiểm họa kiểu đó ngày nay chưa hẳn đã qua đi, mặc dù nó không còn xảy ra trên nhiều phần trên hành tinh này. Nhưng hiểm họa lớn nhất đối với cây Ô liu của bạn lại đến từ chiếc xe hơi Lexus - từ những thế lực thị trường và công nghệ mang thuộc tính đồng hóa, tiêu chuẩn hóa và vô danh, tất cả hình thành nên hệ thống kinh tế toàn cầu hóa ngày nay. Có những điều trong hệ thống này giúp cho chiếc Lexus trở nên hùng mạnh, chà đạp tất cả các hàng cây Ô liu trên con đường nó đi qua - phá vỡ biên giới các cộng đồng, lăn bánh qua các miền môi trường hoang sơ và xô đẩy dập vùi các giá trị truyền thống. Những điều đó làm nảy sinh phản kháng từ các hàng cây Ô liu. Nhưng cũng có những khía cạnh trong hệ thống toàn cầu hóa tăng cường sức mạnh cho những cộng đồng chính trị nhỏ nhoi và kém cỏi nhất, có thể tận dụng kỹ thuật mới và thị trường để bảo tồn những cây Ô liu, những giá trị văn hóa và bản sắc của mình. Đi về nhiều nơi trên thế giới trong những năm gần đây, tôi quan sát thấy nhiều cuộc vật lộn, kéo co và bập bênh giữa cây Ô liu và chiếc Lexus.

Cuộc vật lộn giữa chiếc Lexus và cây Ô liu trong hệ thống toàn cầu hóa được thể hiện trong cuộc trưng cầu dân ý tại Na Uy năm 1994 về vấn đề nước này có nên gia nâh5p Liên hiệp châu Âu hay không. Sự kiện này hẳn là một bước đi quyết định đối với dân Na Uy. Dù sao, Na Uy nằm trong châu Âu. Đó là một nước phát triển, giàu có và có buôn bán nội vùng châu Âu khá lớn. Gia nhập Liên hiệp châu Âu là điều đương nhiên về kinh tế đối với Na Uy trong tình hình toàn cầu hóa. Nhưng cuộc trưng cầu dân ý đó đã thất bại vì có nhiều người dân Na Uy cảm thấy gia nhập EU tức là xoá bỏ quá nhiều bản sắc và lối sống Na Uy, mà nhờ dầu thô trên biển Bắc Na Uy, họ có đủ khả năng duy trì mà không cần vào EU. Nhiều người dân Na Uy nhìn vào EU và nói với nhau: "Để tôi hỏi xem có đúng không. Người ta muốn tôi đem bản sắc Na Uy của tôi bỏ vào trong cái nhà bếp châu Âu nơi quan chức châu Âu sẽ nấu thành món bò kho châu Âu, bán ra bằng tiền euro tại nghị viện châu Âu tại thủ đô châu Âu... nơi có các nhà báo châu Âu đưa tin ư? Xin lỗi, không có đâu. Tôi thà là dân quê ở Na Uy còn hơn. Tôi thà bám giữ lấy cây Ô liu độc đáo của tôi còn hơn, dù về kinh tế có chịu thua thiệt chút đỉnh."

Một cuộc kháng cự khác của cây Ô liu đến từ Pháp, vào năm 1999, qua lời kể của phóng viên Anne Swardson, báo Wahington Post. Câu chuyện kể về Philippe Folliot, trưởng làng St. Pierre-de Trivisy, Tây Nam nước Pháp, có dân số 610 người. Folliot và hội đồng dân biểu của thị trấn này áp mức thuế 100% lên mọi chai Coca-Cola bán tại thị trấn để trả đũa việc Hoa Kỳ áp đặt mức thuế đối với loại phô ma Roquefort chỉ sản xuất ở vùng tây nam nước Pháp gần St. Pierre-de-Trivisy. Trong khi quết phô ma Roquefort lên bánh mì, trưởng làng Folliot nói với phóng viên Swardson, "Phô ma Requefort được chế biến từ sữa của một loài cừu đặc biệt, được sản xuất ở một nơi duy nhất trên đất Pháp và bằng một phương pháp không nơi nào có. Đó thể hiện sự tương phản đối với toàn cầu hóa. Bạn có thể mua Coca-Cola ở bất cứ nơi nào trên thế giới và vẫn có hương vị giống nhau. Đó tượng trưng cho việc các công ty đa quốc gia của Hoa Kỳ muốn đồng hóa tất cả các hương vị trên toàn thế giới. Đó chính là điều chúng tôi chống lại."

Tuy nhiên, một sự hòa đồng giữa chiếc xe Lexus và cây Ô liu trong câu chuyện sau đây do Glenn Prickett, một Phó chủ tịch của nhóm môi trường Bảo tồn Quốc tế kể cho tôi. Đó là khi ông ta đến thăm làng người da đỏ bộ tộc Kayapo mang tên Aukre, nằm ở một vùng sâu trong rừng mưa nhiệt đới Amazon của Brazil, nơi người ta chỉ đến được bằng máy bay loại nhỏ. Prickett kể: "Đặt chân xuống khỏi máy bay thì thấy cả làng ra đón, trong trang phục truyền thống và để trần, họ bôi mặt mũi, nhưng lại dội những chiếc mũ bóng chày có thêu logo khác nhau. Tôi đến cùng nhóm Bảo tồn Quốc tế để thị sát tiến độ xây dựng một trạm nghiên cứ sinh học đặt ở thượng nguồn. Dự án có sự tham gia của người Kayapo. Người Kayapo, bằng vũ lực, đã bảo vệ nhiều phần của vùng Amazon trong nhiều thế kỷ. Giờ đây, họ đang học để bảo vệ nó thông qua liên minh với các nhà khoa học, môi sinh và những doanh nhân có ý thức về xã hội. Làng của họ có con phố chính nhỏ, trên đó có cửa hàng của Bảo tồn Quốc tế và một chi nhánh của hiệu Body Shop, thuộc một hãng làm xà phòng bảo vệ sinh thái. Sau hai ngày làm việc ở trạm nghiên cứu, chúng tôi kéo về làng để hoàn tất một số việc. Chúng tôi đã tổ chức một phiên chợ ngoài trời, bán những vật phẩm văn hóa của người Kaypo, đồ cổ, thúng mủng, đao kiếm, mũi tên, cung nỏ. Nhóm của chúng tôi sẽ mua hết các mặt hàng đó với giá đắt, trả bằng đô-la Mỹ. Rồi chúng tôi đến tụ tập trong ngôi nhà trung tâm, ngôi nhà rất cổ, có lẽ được dựng lên từ thời tiền sử. Khi ở trong nhà cùng với các già làng, tôi để ý thấy họ đang xem TV, nối với một ăng ten chảo. Mấy già làng chuyển kênh liên tiếp giữa một trận bóng đá và một kênh thương mại có chiếu về giá vàng lên xuống trên thế giới. Những người dân da đỏ muốn kiểm tra và cân đối chắc chắn mức lệ phí họ đòi từ một doanh nghiệp khai thác vàng đang hoạt động trên rìa đất của họ, dựa trên mức lên xuống của giá vàng thế giới. Sau đó những người dân làng dùng tiền thu được để đảm bảo cho lối sống độc đáo của họ trên mảnh đất Amazon nhiệt đới này."

Một cuộc tranh đấu chật vật của chiếc xe Lexus với cây Ô liu khác tôi đã chứng kiến tại trụ sở khối NATO ở Brussels. Tôi đang ngồi trên chiếc ghế bành ở hành lang chờ một cuộc hẹn. Gần đó là một nhà báo nữ người Nga, trò chuyện bằng tiếng Nga trên điện thoại di động. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là cái cảnh cô này đi đi lại lại gần chiếc máy bán Coca-Cola tự động, phía dưới một chiếc TV, kênh CNN, trên TV chiếu cảnh quân Nga đột nhập vào Pristina, Kosovo - trước cả lực lượng NATO. Nhà báo Nga, bước quanh máy bán Coca-Cola, phía dưới màn ảnh CNN, nói tiếng Nga vào điện thoại di dộng trong khuôn viên của NATO, trong khi Kosovo đang rực cháy - đầu óc tôi không thể chứa hết mọi mâu thuẫn của khung cảnh này.

Một câu chuyện khác trong đó cây Ô liu bóc lột chiếc xe Lexus được ghi trong tạp chí The Economist ngày 14-8-1999, nhan đề "Những kẻ côn đồ trên mạng". Bài báo viết, "Cục Tình báo Hình sự Quốc gia cho rằng bản chất côn đồ bóng đá ngày càng trở nên tinh vi là nguyên nhân vụ bạo lực có tổ chức hồi tuần trước giữa hai nhóm cổ động viên từ Millwall và Cardiff City. Các băng đảng vốn kình chống nhau nay có vẻ quay ra phối hợp, thông qua Internet, để tổ chức địa điểm cho các cuộc ẩu đả. Thông tin được chúng trao đổi qua các trang web công khai và hạn chế. Một số trang còn tường thuật trực tiếp vụ ẩu đả ví dụ: Paul Dobb tường thuật: "Cuộc đấu đã bắt đầu khi tôi viết những dòng này". Bản thân anh ta là một tay côn đồ chơi ma túy khét tiếng mà giới côn đồ trên mạng cũng như cảnh sát đều nhẵn mặt. Cảnh sát hiện đang truy cập những trang mạng tương tự, hy vọng tìm ra những kế họach ẩu đả sắp tới.

Chuyện viễn Tây trên mạng điện toán toàn cầu!

Trường hợp cây Ô liu khai thác xe Lenus được thể hiện vào mùa hè năm 1999. Câu chuyện kể về cương lĩnh phân biệt chủng tộc của Adolf Hitler thể hiện trong hồi ký Cuộc đời tôi. Tập hồi ký bị chính phủ Đức cấm lưu hành ở nước Đức. Bạn không được phép bán cuốn sách ở bất kỳ hiệu sách nào hay in ấn ở bất cứ đâu trên đất Đức. Nhưng người ở Đức lại có thể đặt mua cuốn sách trên Internet qua trang mạng Amazon.com. Cuốn sách được gửi đến trực tiếp cho độc giả mà chính phủ Đức không có cách nào ngăn cản được. Thực tế cho thấy nhiều người ở Đức mua cuốn sách đến nỗi vào mùa hè năm 1999, cuốn Cuộc đời tôi nằm trong danh sách 10 ấn phẩm bán chạy nhất của Amazon.com cho thị trường Đức. Lúc đầu Amazon.com từ chối, không chấp nhận lệnh cấm gởi cuốn sách vào Đức, giải thích rằng bản dịch Anh ngữ của cuốn sách không phải là đối tượng cho Đức kiểm duyệt, thêm nữa họ giải thích Amazon.com không phải là người đứng ra phân biệt ai là người đáng đọc cuốn sách, ai không. Tuy vậy, sau khi chuyện này xảy ra, Amazon.com đã phải hứng chịu hàng tấn email từ khắp thế giới chỉ trích họ, khiến họ phải ngưng bán các tác phẩm của Hitler.

Cây Ôliu vu cáo chiếc xe Lexus rồi đến lượt chiếc xe Lexus vu cáo trở lại... đó là câu chuyện về việc thử nghiệm hạt nhân ở Ấn Độ hồi cuối những năm 1990. Mùa xuân năm 1998, Đảng dân tộc chủ nghĩa Bharatiya Janata (BJP) vừa đắc cử đã quyết định cưỡng lại ý muốn của toàn thế giới và nối lại công cuộc thử nghiệm vũ khí hạt nhân của Ấn Độ. Khẳng định quyền của Ấn Độ được thử nghiệm hạt nhân chính là nền tảng của cương lĩnh tranh cử của BJP trước đó. Tôi đến Ấn Độ ngay sau khi những cuộc thử nghiệm diễn ra. Tôi trò chuyện với người giàu, người nghèo, công chức cũng như những thành phần phi chính phủ, dân nghèo ở nông thôn cũng như dân ăn diện thành phố. Tôi cố đợi để gặp được những người Ấn có thể có quan điểm, "Anh biết không? Những cuộc thử nghiệm như thế thật ngu xuẩn. Chúng tôi không tăng cường được an ninh hơn, không những thế chúng tôi lại phải trả giá, bị trừng phạt". Tôi chắc rằng những cảm giác như vậy là có, nhưng không tìm được ai bộc lộ nó ra. Ngay cả một số chính khách người Ấn, những người lên án việc thử nghiệm là một hành vi hiếu chiến và rẻ tiền của chính phủ Hindu theo đường lối dân tộc chủ nghĩa, cũng không bộc lộ cảm giác đó. Họ nói thử nghiệm là phương thức duy nhất để Ấn Độ đạt được những gì họ muốn từ phía Hoa Kỳ và Trung Quốc: đó là SỰ KÍNH NỂ. Tôi nhận ra cốt lõi của vấn đề này khi đến gặp Swami Agnivash, một nhà hoạt động cho nhân quyền, người thường quấn cà sa. Ngồi xếp bàn trò chuyện trong căn hộ đơn sơ của ông ta ở thủ đô Delhi tôi nghĩ, "Chắc rằng ông này sẽ chỉ trích chuyện thử nghiệm thôi". Nhưng vừa vào đầu câu chuyện, Swami đã đưa ra một tuyên bố: "Chúng tôi là Ấn Độ, đất nước lớn thứ nhì trên thế giới! Quí vị không thể xem thường chúng tôi. Ấn Độ không cảm thấy bị Pakistan đe dọa, nhưng trong toàn cục cuộc chơi quốc tế ta thấy Ấn Độ đang bị cái trục Trung Quốc-Hoa Kỳ cho ra rìa". Ngày hôm sau, tôi đến Dasna, ngôi làng ở phía bắc New Delhi để tìm hiểu thêm. Dasna là ngôi làng nghèo nhất tôi từng thấy ở Ấn Độ. Không thấy ai đi giày. Người nào người nấy da bọc xương. Trên đường phố, lượng trâu bò và xe đạp chiếm đa số, hơn là xe hơi. Không khí nồng nặc mùi phân bò được dùng làm chất đốt. Nhưng người dân ở đây thích thú về màn trình diễn hạt nhân của chính phủ. "Chúng tôi có dân số 900 triệu người, và chúng tôi không vì chuyện cấm vận mà chết", Pramod Batra, một bác sĩ 42 tuổi sống ở làng, tuyên bố. Ông nói tiếp: "Cuộc thử nghiệm liên quan tới lòng tự trọng, mà lòng tự trọng quan trọng hơn đường sá, điện và nước. Nó cho cùng chúng tôi đã làm gì? Nổ một quả bom. Cũng như thể bắn một phát súng lên trời thôi. Chúng tôi có làm hại đến ai đâu".

Ở khung cảnh toàn cầu hóa ngày nay, tuy tinh thần cây Ô liu của Ấn Độ dường như lan tràn và chế ngự cái ước muốn về xe Luxus, nó cũng khiến nảy sinh một cái giá Ấn Độ phải trả trong một thời gian dài. Khi ở New Delhi, tôi trọ trong khách sạn Oberoi, nơi tôi có thể bơi trong bể bơi của khách sạn sau mỗi ngày đi lại trong cái nóng 37,7 độ. Ngày đầu tiên trong khách sạn, khi tôi sải tay bơi ếch trong bể, có một phụ nữ người Ấn Độ bơi trong làn bên cạnh. Lúc nghỉ ngơi, chúng tôi bắt chuyện làm quen, bà ta nói bà là quản lý văn phòng đại diện ở Ấn Độ cho Salomon Brothers-Smith Barney, một ngân hàng đầu tư lớn của Hoa Kỳ. Tôi tự giới thiệu bản thân là một bình luận viên sang Ấn Độ để viết về những ảnh hưởng từ những cuộc thử nghiệm hạt nhân của Ấn Độ.

"Ông có biết ai đang đến thăm thành phố không?" Bà ta hỏi tôi khi cùng bơi. "Không", tôi lắc đầu, đáp, "Ai vậy?"
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 19-3-2013 20:11:49 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3
(tiếp theo)

"Moody's", bà nói. Moody's Investors Service là một tổ chức quốc tế đánh giá tín dụng và xếp hạng kinh tế của các quốc gia, theo thứ hạng A,B và C, để những nhà đầu tư toàn cầu hiểu kinh tế nước nào làm ăn được và ở đâu làm ăn kém cỏi. Nếu nền kinh tế của nước bạn bị xếp hạng thấp thì bạn sẽ phải trả lãi suất cao hơn khi vay quốc tế. "Mood's đã cử một đoàn sang đây để tái xếp hạng nền kinh tế Ấn Độ," bà ta nói.

"Ông có nghe thấy đánh giá của họ ra sao chưa?" Bà ta hỏi.

Tôi nói tôi chưa nghe thấy gì.

"Ông nên thử kiểm tra xem sao," bà ta nói, rồi bơi đi luôn.

Tôi quả có đi kiểm tra. Hoá ra đoàn điều tra của Moody's đã bí mật đến và bí mật đi thám thính, không khác gì các nhà khoa học Ấn Độ bí mật chuẩn bị cho thử nghiệm quả bom hạt nhân của họ vậy. Tôi không dò được kết luận của họ ra sao, nhưng đêm tôi rời Ấn Độ, mẫu tin thứ tư trong bản tin tối lọt vào tai tôi. Mẩu tin nói do tình hình ngân sách thiếu phương hướng và thổi phồng của chính phủ Ấn Độ, cùng cuộc thử nghiệm hạt nhân và sự trừng phạt của Hoa Kỳ, Moody's đã hạ thấp thứ hạng kinh tế của nước này từ "Mức đầu tư", nghĩa là an toàn cho các nhà đầu tư toàn cầu, xuống "Mức phải xem xét thêm", nghĩa là không an toàn. Hãng xếp hạng kinh tế Standard & Poor's cũng hạ mức kinh tế Ấn Độ từ "Ổn định" xuống "Tiêu cực". Điều này có nghĩa là bất cứ công ty nào của Ấn Độ muốn mượn tiền từ các thị trường tài chính nay sẽ phải trả mức lãi suất cao hơn. Và bởi vì Ấn Độ có mức vốn tiệt kiệm thấp, nên việc vay mượn từ bên ngoài bao giờ cũng thiết yếu cho đất nước cần khoảng 500 tỷ đô-la trong vòng thập niên tới cho việc xây dựng hạ tầng cơ sở để có thể cạnh tranh quốc tế.

Đành rằng cây Ô liu chiếm thượng phong ở Ấn Độ trong một thời gian, nhưng đã khiến cho nước này trả một giá đáng kể, trong thời toàn cầu hóa. Bạn không thể vượt ra khỏi toàn cầu hóa. Trước hay sau thì chiếc xe Lexus sẽ đuổi kịp bạn. Một năm rưỡi sau ngày Ấn Độ thử hạt nhân, tôi đọc trong tờ Wall Street Journal (số ra ngày 7-10-1999) có hàng tít sau đây: "(Đảng) BJP của Ấn Độ chuyển yêu tiên sang kinh tế". Bài viết cho biết BJP lên cầm quyền trong hai năm trước "kêu gọi Ấn Độ khẳng định tiềm lực hạt nhân - một lời hứa được thực hiện hai tháng sau đó, khi một loạt các vụ thử vũ khí diễn ra và đã làm Ấn Độ phải chịu sự trừng phạt trên toàn cầu và sự ngừng trệ về đầu tư vào nước này". Khi tái đắc cử, Thủ tướng Ấn Độ, ông Atal bihari Vajpayee không đợi cho kết thúc kiểm phiếu, đã phát tín hiệu ngay về ưu tiên mới của ông: cải cách kinh tế. "Trọng tâm là xây dựng một sự đồng thuận quốc gia để tiếp nhận vốn toàn cầu, theo thông lệ của thị trường cùng những chi tiết của chúng. Hãy xúc tiến cạnh tranh để giành đầu tư", Thủ tướng Vaipayee tuyên bố với tờ báo Indian Express.

Thêm một ví dụ cho thấy sự cân bằng giữa hai thế lực xe Lexus và cây Ô liu, tôi xin được dẫn ra sau đây. Trong chuyến bay hãng hàng không Gulf Air từ Bahrain sang London, một kênh truyền hình trong khoang hạng thương gia chỗ tôi ngồi có hệ thống định vị, chỉ cính xác cho hành khách cự ly và vị trí của chiếc máy bay di chuyển so với thánh địa Mecca. Sử dụng hệ thống định vị qua vệ tinh, màn hình cho thấy chiếc máy bay bay ở vị trí nào và vị trí thánh địa dịch chuyển đến đâu khi máy bay chuyển hướng. Điều đó giúp cho các hành khách người Hồi giáo, cầu nguyện năm lần mỗi ngày, hướng chính xác về thánh địa Mecca mỗi khi họ trải thảm ra để cầu nguyện. Trong chuyến bay, tôi để ý thấy nhiều hành khách ngồi gần tôi quỳ cầu nguyện, và hệ thống định vị giúp họ quay đầu chính xác về hướng Mecca.

Trường hợp chiếc xe Lexus không đếm xỉa đến cây Ô liu trong thời toàn cầu hóa được thể hiện trong một bộ phận máy tính mà bạn tôi gửi cho tôi. Mặt sau của bộ phận máy tính có in: "Bộ phận này được sản xuất ở Malaysia, Singapore, Philippines, Trung Quốc, Mexico, Đức, Hoa Kỳ, Thái Lan, Canada và Nhật Bản. Nhiều nước cùng sản xuất cùng một linh kiện nên chúng tôi không xác định chính xác nguồn gốc của sản phẩm".

Trường hợp chiếc xe Lexus chế ngự cây Ô liu được ghi lại trong một mẩu tin trong tạp chí Sport Illustrated số ngày 11-8-1997. Mẩu tin có nội dung: "Đội bóng đá Câu lạc bộ Llansantffaid, xứ Wales, có lịch sử 38 năm thi đấu, nay đã đổi tên thành đội "Giải pháp mạng toàn diện" để đổi lấy khoản tài trợ 400.000 đô-la từ một công ty điện thoại di động".

Chiếc xe Lexus hợp tác với cây Ô liu trong toàn cầu hóa được dẫn giải trong một bài viết trên tờ Washington Post, số ra ngày 21-7-1997. Bài này viết rằng các sĩ quan phản gián người Nga phàn nàn là họ phải trả gấp đôi để tuyển một điệp viên CIA hợp tác với họ, so với mức giá CIA trả để sử dụng điệp viên người Nga. Một viên chức thuộc Cục An ninh Liên bang Nga (tiền thần là KGB) phát biểu với điều kiện không tiết lộ danh tính, đã nói với hãng thông tấn Itar-Tass rằng cần 1 triệu đô-la để mua một gián điệp người Nga, trong khi đó, diệp viên CIA rao giá là họ có thể "bán mình" với giá 2 triệu đô-la.

Trong khoảng thời gian có bài báo này, tờ báo Yediot Aharonot của Israel đăng một bài mà theo tôi, đó là câu chuyện tình báo đầu tiên săn được trong buổi thị trường tự do. Các biên tập viên của Yediot đã sang Moskva và mua một số tấm ảnh chụp từ vệ tinh của người Nga chụp các căn cứ tên lửa Scud tại Syria. Sau đó tờ báo đã thuê một chuyên gia Hoa Kỳ, hoạt động độc lập phân tích các bức ảnh này. Tờ Yediot đã đăng toàn bộ phóng sự này như một phát hiện của riêng họ về đe dọa tiềm tàng từ Syria nhằm vào Israel. Họ không phải sử dụng nguồn tin từ chính phủ để kiểm chứng cho phát hiện này. Ai cần gián điệp khi đã có tiền?

Và sau cùng là dẫn chứng mà tôi thích nhất về "Cuộc gây hấn giữa xe Lexus và cây Ô liu trong kỷ nguyên toàn cầu hóa", nói về người con của Abu jihad. Tôi đến tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Amman, Jordan, hồi năm 1995. Khi ngồi ăn trưa một mình trong khách sạn Amman Marriott, một chàng trai người Ảrập từ đâu xuất hiện, đến bên bàn và hỏi tôi, "Ông là Tom Friedman phải không?" Tôi trả lời phải.

"Ông Friedman", chàng trai lịch sự nói tiếp, "ông biết cha tôi".

"Cha của anh là ai?" Tôi hỏi lại.

"Cha tôi là Abu Jihad".

Abu Jihad, tên thật là Khalit al-Wazir, một trong những người Palestine đã cùng Yasser Arafat sáng lập phong trào el-Fatah và sau đó nắm giữ Tổ chức Giải phóng Palestine, PLO. Abu Jihad, nghĩa là "Người cha của cuộc tranh đấu", là biệt hiệu của ông ta, ngườ chỉ huy trưởng các hoạt động quân sự của Palestine ở Li Băng và vùng Bờ Tây sông Jordan, trong thời gian tôi còn là phóng viên tờ The New York Times ở Beirut. Tôi đã gặp ông ta ở Beirut. Người Palestine coi ông ta là một anh hùng; người Israel coi ông là một trong những kẻ khủng bố nguy hiểm nhất của Palestine. Một đội hành quyết người Israel đã giết Abu Jihad trong phòng khách nhà ông ở Tuy-ni-di ngày 16 tháng 4 năm 1988. Họ bắn hàng trăm viên đạn vào người Abu Jihad.

"Vâng, tôi biết cha anh rất rõ - có một lần tôi đã đến thăm nhà anh ở Damascus", tôi nói với chàng trai, "Còn anh, bây giờ đang làm gì?"

Chàng trai trao cho tôi một danh thiếp. Trên đó ghi: "Jihad al-Wazir, Giám đốc điều hành, Trung tâm Thương mại Thế giới, Gaza, Palestine".

Đọc danh thiếp, tôi tự nhủ, "Thật lạ lùng. Vật đổi sao dời nhanh đến như vậy".

Thách thức trong thời toàn cầu hóa đến với đất nước và con người là làm sao dung hòa được giữa việc bảo tồn bản sắc, quê hương và cộng đồng... đồng thời nổ lực hết mức để tồn tại cho được trong hệ thống thế giới. Bất cứ xã hội nào muốn thịnh vượng về kinh tế đều phải cố gắng chế tạo cho được xe Lexus và lái chúng ra thế giới. Nhưng người ta cũng đừng bao giờ ảo tưởng rằng chỉ tham gia tích cực vào kinh tế thế giới không thôi mà có thể tạo được xã hội lành mạnh. Nếu hội nhập đạt được trong điều kiện phải hy sinh bản sắc của một đất nước, nếu các cá nhân cảm thấy họ bị mất gốc trong cơn lốc toàn cầu, thì họ sẽ phản kháng. Họ sẽ vươn dậy và ngăn cản quy trình này. Do đó sự sống còn của toàn cầu hóa phụ thuộc một phần vào nỗ lực của chúng ta xây dựng sự cân bằng giữa phát triển và cội nguồn. Một đất nước không có những rặng cây Ô liu khỏe khoắn sẽ không bao giờ có được cảm giác nguồn gốc được duy trì hay an tâm để có thể đón nhận và hội nhập với thế giới. Nhưng một đất nước mà chỉ có những rặng Ô liu không thôi, chỉ lo giữ cội rễ, mà không có xe Lexus, thì sẽ không bao giờ tiến xa được. Giữ cân bằng giữa hai yếu tố nói trên là một cuộc vận lộn triền miên.

Có lẽ vì thế trong nhiều câu chuyện trong cuốc sách này, có thể bạn sẽ thích cây chuyện do anh bạn học của tôi Victor Friedman, người đang giảng dạy quản trị kinh doanh tại Viện Ruppin, Israel. Một hôm tôi gọi điện chào hỏi Victor, anh ta nói thật mừng vì tôi đã gọi, vì anh đã đánh mất số điện thoại của tôi. Hỏi vì sao, thì Victor trả lời rằng anh đánh mất cuốn sổ tay điện tử, trong đó có lưu giữ chi tiết liên lạc của bè bạn, địa chỉ, số điện thoại và kế hoạch làm việc trong hai năm sau đó. Victor kể lại những gì đã xảy ra.

"Chúng tôi có một máy tính để bàn, nhưng nó bị hỏng. Tôi mang đến tiệm ở Hadera [thị trấn ở trung tâm Israel] để sửa. Hai tuần sau đó, tiệm này gọi điện cho tôi nói máy đã được chữa xong. Tôi bèn cho cuốn sổ điện tử vào trong cặp da và lái xe đến Hadera để mang máy tính về. Tôi rời khỏi tiệm, bê chiếc máy tính cùng cặp da, trong cặp là cuốn sổ điện tử. Khi đến xe, tôi để chiếc cặp da xuống vỉa hè, mở thùng xe và hết sức cẩn thận, đặt chiếc máy tính vào trong xe. Rồi tôi lên xe, mở máy chạy luôn, quên chiếc cặp da ở trên vỉa hè. Ngay khi vào văn phòng, tôi nhận ngay ra là để quên chiếc cặp da. Tôi nhanh chóng gọi điện cho cảnh sát ở Hadera, nói với họ là "đừng có cho nổ chiếc cặp của tôi". [Cảnh sát Israel được lệnh cho nổ tung những gói, bọc, cặp hay những đồ vật gây ngờ vực để quên trên lối đi và vỉa hè, vì đó là cách mà người Palestine gài bom gây tử thương đối với nhiều dân thường Israel. Dân chúng Israel cũng được huấn luyện kỹ về chuyện này, đến mức nếu bạn để quên thứ gì thì nhiều khi chỉ sau một phút, cảnh sát đã được báo.] Tôi biết sẽ không có ai lấy cắp chiếc cặp đó cả. Ở Israel, bọn trộm sẽ không bao giờ sờ mó tới một thứ đồ để trên lối đi. Nhưng tôi gọi cho cảnh sát muộn quá. Một cảnh sát viên nói với tôi rằng một đội của họ đã đến hiện trường và "đã xử lý nó rồi". Khi tôi đến đồn cảnh sát thì được nhận lại chiếc cặp da xinh đẹp của tôi với một vết đạn gọn gàng bắn xuyên qua giữa cặp. Điều làm tôi khổ tâm nhất là hỏng mất cuốn sổ tay điện tử. Cuốn sổ Geniues OP 9300 bị bắn trúng. Toàn bộ cuộc sống của tôi được lưu trong đó mà tôi không có bản sao lưu. Tôi xin lỗi cảnh sát vì đã gây ra chuyện đó nhưng họ nói: "Đừng buồn, chuyện đó xảy ra với bất cứ ai". Hàng tuần lễ sau, khi đi lại trong trường, chiếc cặp với vết đạn khiến tôi phải ngưng lại để suy nghĩ thêm. Phần lớn học trò của tôi đang ở trong quân ngũ Israel, mỗi khi nhìn thấy chiếc cặp có lỗ đạn, họ lại phá lên cười, vì họ đã biết chuyện gì đã xảy ra".

Sau khi kể xong câu chuyện, Victor nói, "Nhân tiện, nhớ gửi cho tôi địa chỉ emal nhé. Tôi cần bắt đầu ghi một cuốn sổ tay mới".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 20-3-2013 09:49:44 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4
... Rồi những bức tường theo nhau sụp đỗ

Mùa hè năm 1998, Guilherme Frering, Chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn khoáng sản Brazil mang tên Caemi Minercao e Metalurgia miêu tả cho tôi những thay đổi đáng kinh ngạc của nền kinh tế Braxil trong thập niên trước đó. Ông ta chêm vào một nhật xét: "Ông có thấy, bức tường Berlin cũng sụp đổ trên đất này. Đó không những là sự kiện riêng của châu Âu, nó cũng là sự kiện toàn cầu, bức tường cũng đổ ngay trên đất Brazil. Sự thay đổi lớn lao trong kinh tế Brazil diễn ra đúng vào lúc tường Berlin sụp đổ".

Để minh họa cho luận điểm đó, ông ta kể lại câu chuyện sau: Tháng 11 năm 1988, những người thợ luyện thép muốn đấu tranh đã biểu tình trước nhà máy luyện thép của Công ty Thép Quốc gia (CSN) thuộc chính phủ đặt tại Volta Redonda, tây bắc Rio de Janeiro và là xí nghiệp luyện thép lớn nhất của Nam Mỹ. Khoảng 2.500 thợ thép người Brazil chiếm giữ xí nghiệp đòi tăng lương và giảm giờ làm từ 8 tiếng xuống còn 6 tiếng mỗi ngày. Xung đột giữa công nhân và cảnh sát địa phương leo thang tới mức quân đội Brazil được phái đến. Ba người thợ bị thiệt mạng và 36 người khác bị thương trong cuộc giành giật chiếm quyền kiểm soát nhà máy. Quân đội khép cho công nhân tội "hoạt động chống phá theo lối du kích ở thành thị", khi công nhân dùng gạch đá, bom xăng, gâỵ sắt và súng để bảo vệ công ăn việc làm và lợi nhuận theo biên chế nhà nước của họ. Trong quãng thời gian 21 năm dưới chế độ độc tài ở Brazil, kết thúc vào năm 1995, các tướng lĩnh nắm quyền của đất nước rất coi trọng việc quản lý nhà máy luyện thép khổng lồ này, đến mức họ ra tuyên bố coi vùng Volta Redonda là "Thị trấn thuộc lợi ích an ninh quốc gia", và trực tiếp bổ nhiệm chứ Thị trưởng của thị trấn. Sau khi giải thích câu chuyện trên, Frering chua thêm: "Khoảng bốn năm sau cuộc chống đối đẫm máu đó, khi bức tường Berlin sụp đổ, chính những người công nhân của CSN lại đòi nhà máy phải được tư nhân hóa, vì chính họ hiểu rằng đó là con đường duy nhất giúp cho nhà máy tiếp tục khả năng cạnh tranh và giữ được công ăn việc làm cho họ. Ngày nay, CSN được hoàn toàn tư nhân hóa và trở nên có cổ đông lớn nhất, tham gia trong công cuộc tư nhân hóa các nhà máy lớn của chính phủ Brazil".

Nhận xét của Frering khiến tôi bừng tỉnh: Tất nhiên rồi, ông ta nói đúng! Bức tường Berlin không chỉ sụp đổ ở thành phố Berlin. Nó sụp cả ở phương Đông lẫn phương Tây, phía Bắc cũng như phía Nam, sụp xuống đầu nhiều đất nước, nhiều công ty, và dường như chúng sụp cùng một lúc. Chúng ta đã chỉ chú ý vào việc bức tường sụp ở phương Đông vì sự kiện này lúc đó mang đầy kịch tính và dễ thấy: qua bản tin tối trên TV, một bức tường xi măng rạn vỡ rồi sụp xuống.

Nhưng trên thực tế các bức tường Berlin khác trên khắp thế giới cũng đang theo nhau đổ sập, mặc dù người ta thường không thấy được tận mắt, chính điều đó khắc họa nên kỷ nguyên toàn cầu hóa và hội nhập. Vậy câu hỏi quan trọng là: Điều gì đã lay đổ những bức tường đó? Hay như các cháu nhà tôi có thể hỏi, "Bố ơi, toàn cầu hóa từ đâu đến?"

Tôi xin bắt đầu câu trả lời như thế này: thế giới của Chiến tranh Lạnh tựa như một cánh đồng lớn bị xé lẻ dọc ngang bởi những hàng rào, tường chắn, hố sâu và ngõ cụt. Người ta không thể đi nhanh, đi cho hết được cánh đồng mà không bị những thứ như tường Berlin hay bức màn sắt hay khối Vacsava hay các hàng rào thuế quan hay kiểm soát tài chính, cản chân. Và trong khuôn khổ từng lô đất trên cánh đồng đó, các quốc gia gìn giữ các thể loại chính trị, kinh tế và văn hóa độc đáo của họ. Họ có thể thuộc về thế giới thứ nhất, thứ hai hay thứ ba. Họ có thể duy trì các hệ thống kinh tế khác nhau - một nền kinh tế cộng sản theo kế hoạch của nhà nước, một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hay một nền kinh tế thị trường tự do. Và họ cũng duy trì các hệ thống chính trị khác nhau - bao gồm từ mức dân chủ tới mức độc tài, từ mức toàn trị đến quân chủ lập hiến rồi áp chế toàn phần. Sự khác biệt có thể sâu sắc, thậm chí như trắng và đen, vì có nhiều bức tường dày để bao bọc sự khác biệt đó - những bức tường khó mà đi xuyên qua được.

Lay chuyển những bức tường đó là ba sự thay đổi lớn - thay đổi cung cách chúng ta liên lạc với nhau, trong lề lối đầu tư và trong cách thức tìm hiểu về thế giới. Những thay đổi đó được sinh ra, ấp ủ trong thời Chiến tranh Lạnh rồi đạt đến mức tới hạn vào cuối thập niên 1980. Khi đó, chúng được kết hợp thành một cơn lốc, đủ sức phá sập tất cả những bức tường của hệ thống Chiến tranh Lạnh, giúp cho thế giới tập hợp lại với nhau, xé bỏ ngăn cách tạo lập được một cánh đồng thẳng tắp. Ngày nay, cánh đồng này được mở rộng hơn, với tốc độ nhanh hơn, ngày càng có nhiều bức tường sụp đổ và nhiều quốc gia bị hút vào. Chính vì thế ngày nay không còn khái niệm thế giới thứ nhất, thứ nhì hai thứ ba nữa. Ngày nay chỉ còn là thế giới phát triển nhanh, và thế giới phát triển chậm chạp - thế giới của những người bị đào thải sang bên hề hay của những người tự chọn theo lối sống biệt lập không muốn nhập vào cánh đồng rộng lớn nói trên. Những người đó có thể cho rằng, cái thế giới ấy đi nhanh quá, đáng sợ quá, đồng hóa nhiều quá hay đòi hỏi nhiều quá. Và đây là chi tiết của từng sự thay đổi

DÂN CHỦ HÓA TRONG CÔNG NGHỆ

Thứ trưởng Tài chính Hoa Kỳ Larry Summer thích kể câu chuyện rằng vào năm 1988 ông ta hoạt động cho chiến dịch tranh cử tổng thống của ứng cử viên Michael Dukakis. Một hôm ông ta được cử sang Chicago để nói chuyện thay cho Dukakis. Ở đó ông ta được nhân viên của Dukakis cấp một chiếc xe hơi, trong đó, bạn bình tĩnh nhé... có chiếc điện thoại.

"Tôi nghĩ, vào năm 1988 mà trong xe có chiếc điện thoại di động thì thật tuyệt", Summers kể lại. "Tôi dùng điện thoại đó gọi để khoe với vợ rằng trong xe của tôi có chiếc điện thoại di động".

Chín năm sau, 1997, Summers, lúc đó đi công cán cho Bộ Tài chính thăm đất nước Bờ Biển Ngà, vùng Tây Phi. Trong chuyến thăm chính thức này, một nhiệm vụ của ông ta là khánh thành một dự án y tế do Mỹ tài trợ ở một ngôi làng trên thượng nguồn của Thủ đô Abidjian. Theo dự án, ngôi làng này, khi đó chuẩn bị khánh thành một hệ thống các loại giếng nước di động. Người ta chỉ vào làng bằng cách đi ca-nô. Summers, một vị khách to béo đến từ Hoa kỳ được phong chức già làng danh dự của người Phi, và được mặc trang phục truyền thống Phi châu. Điều làm Summers nhớ nhất đó là trên đường rời làng ra đi, bước xuống chiếc ca nô thì một viên chức của Bờ Biển Ngà trao cho ông ta một chiếc điện thoại di động và nói, "Washington muốn hỏi ông một điều gì đó". Chín năm, từ chỗ thốt lên thán phục khi thấy điện thoại di động trong xe hơi, nay Summers lại thấy điện thoại di động trên chiếc thuyền độc mộc ở vùng Tây Phi hẻo lánh.

Những cuộc phiêu lưu với điện thoại di động của Summers diễn ra cho thấy sự thay đổi quan trọng đầu tiên, được hình thành trong thời Chiến tranh Lạnh - sự thay đổi về cách thức chúng ta liên lạc với nhau. Tôi xin gọi nó là "quá trình dân chủ hóa trong công nghệ", khiến cho ngày càng có thêm số người dùng máy vi tính tại nhà, modem, điện thoại di động, hệ thống viễn thông cáp và kết nối internet, để có thể vươn dài liên lạc của họ, sang nhiều nước khác. Nhờ đó họ được tìm hiểu thông tin kỹ càng hơn với chi phí rẻ hơn bao giờ hết.

Có một ngân hàng ở Valley Spring, Washington, D.C., đã mời chào khách hàng rất nhiều dịch vụ giao dịch qua Internet và điện thoại. Quảng cáo của ngân hàng này tóm tắt quá trình dân chủ hóa nói trên: "Hãy để chúng tôi lập nhà băng trong ngôi nhà của quí vị". Do quá trình dân chủ hóa công nghệ, chúng ta nay có dịch vụ ngân hàng, văn phòng, tòa báo, nơi giao dịch chứng khoán, nhà xưởng và dịch vụ đầu tư, trường học, tất cả có thể cùng ngự trị trong mỗi căn nhà nơi chúng ta sinh sống.

Dân chủ hóa công nghệ là sản phẩm của một loạt phát kiến được tập hợp lại trong những năm 1980, bao gồm vi tính hóa, viễn thông, thu nhỏ, kỹ thuật nén và số hóa. Chẳng hạn, tiến bộ trong công nghệ vi xử lý giúp cho máy vi tính tăng công suất gấp đôi sau mỗi chu kỳ 18 tháng, trong suốt thời gian 30 năm qua. Tiến bộ trong công nghệ nén làm cho số lượng thông tin lưu trên các đĩa máy tính tăng 60% mỗi năm, tính từ 1991. Trong khi đó chi phí để lưu một megabite dữ liệu đã giảm từ 5 đô-la xuống còn 5 xu, làm công suất máy tính tăng lên và giá của chúng giảm xuống - giúp cho có thêm nhiều người được sử dụng máy vi tính. Những cải tiến trong công nghệ viễn thông đã giảm dần được chi phí điện thoại hay truyền dữ liệu, đồng thời tăng tốc độ truy cập, mở rộng vùng phủ sóng và tăng sức tải và bộ nhớ các dữ liệu mỗi lần giao dịch qua điện thoại, cáp hoặc sóng radio.

Không những bạn có thể gọi đến bất cứ nơi nào, bạn còn có thể gọi từ bất cứ nơi đâu, từ máy tính xách tay, từ trên đỉnh núi, từ máy bay khi đang di chuyển hay từ nóc nhà của thế giới, đỉnh Everest. Những khả năng đó xuất hiện sau khi công nghệ đã thu nhỏ được kích thước cỡ máy vi tính, máy điện thoại và máy nhắn tin. Những thiết bị thông tin có thể được di chuyển tới những vùng xa xôi hẻo lánh và cung cấp cho những người dân có mức thu nhập thấp. Tháng 7 năm 1998 tạp chí Golf đăng bài cho hay có nhiều sân golf bắt đầu cho lắp đặt hệ máy tính Spyder-9000 trên các xe chơi golf, "cho phép người chơi golf theo dõi kết quả cuộc chơi qua hệ thống điện tử và đo đạc cự ly bằng kỹ thuật số, xem xét các lỗi bi, theo dõi những lời mách nước cách chơi, cách đánh. Hơn nữa họ có thể đặt bữa ăn trưa, kiểm tra giá chứng khoán và xem các chương trình TV thương mại". Chỉ có một việc chúng không làm được là trực tiếp đánh bóng vào lỗ hộ bạn thôi.

Những sáng tạo đó đã thúc đẩy và ngược lại, được tăng cường bởi cuộc cách mạng kỹ thuật số. Kỹ thuật số hóa ra là phép mầu nhiệm cho phép chúng ta chuyển hóa giọng nói, âm thanh, phim, tín hiệu truyền hình, âm nhạc, màu sắc, hình ảnh, ngôn ngữ, tài liệu, thông số, ngôn ngữ máy tính và bất cứ loại hình dữ liệu nào... thành những bit dữ liệu, rồi truyền chúng qua đường điện thoại, vệ tinh và cáp quang đi khắp thế giới. Những ký tự máy tính là đơn vị đo đếm dùng trong vi tính, thể hiện đơn giản bằng sự kết hợp khác nhau của những tập hợp gồm hai con số 1 và 0. Số hóa có nghĩa là chuyển âm thanh, hình ảnh và con số hay mẫu tự mã hóa chúng thành những tập hợp gồm 1 và 0, truyền chúng qua một điểm khác, nơi chúng được giải mã trở lại thành nguyên bản. Nicholas Negroponte, tác giả cuốn sách Kỹ thuật số đưa ra cách giải thích rất hình tượng về công nghệ số hóa: "Tựa như chúng ta vừa tìm ra cách sấy khô và làm đông lạnh một ly cà phê sữa một cách hoàn hảo, sau đó, cho nước vào thì thứ đồ đông lạnh lại trở lại nguyên hình dáng và hương vị của một ly cà phê như trước, như vừa được pha, trongbất cứ quán cà phê nào của người Ý". Và Negroponte nói thêm rằng chúng ta có thể làm khô và đông lạnh nhiều thứ khác, bằng cách chuyển hóa chúng "từ nguyên tử thành ký tự vi tính", từ hình ảnh và âm thanh sang những số 1 và số 0, truyền chúng đến nhiều nơi khác nhau với chi phí rẻ hơn bao giờ hết".

Hãy tưởng tượng về quá trình đó như sau: Bộ vi xử lý và máy tính tựa như một thứ lò luyện kim có khả năng nung tất cả các vật liệu hình thành từ các nguyên tử thành bits. Vệ tinh, đường điện thoại và cáp quang là những đường ống dẫn đi từ lò luyện này đến mọi nơi trên thế giới. Những đường ống này ngày càng trở nên tinh vi hơn - như người ta thường nói là tăng và mở rộng các "băng thông", công cụ để đo đếm số lượng tập hợp của 1 và 0 được truyền trong một giây - chúng ta cũng có thể dùng đường ống để truyền tải nhiều hơn nữa các nguyên tử, mà lò luyện đã "luyện cán" chúng lại thành bits.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 20-3-2013 09:51:10 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4
(tiếp theo)

Quá trình số hóa là kiến thức trọng tâm để hiểu về quá trình toàn cầu hóa ngày nay và về những điều làm nó trở nên đọc đáo. Chúng ta cần ngưng lại ít phút để nghe một ví dụ cụ thể về hoạt động của quy trình số hóa. Bạn bốc điện thoại ở New York, quay số của người bạn ở Bangkok. Khi bạn nói vào ống nghe, áp suất từ hơi thở của bạn đập vào màn chắn trong ống nghe. Màng chắn này rung theo nhịp bạn đang nói. Màng chắn này được gắn với một nam châm, nằm bên cạnh một cuộn dây điện [cuộn cảm]. Khi màng chắn kích thích nam châm, từ trường của nam châm tạo một dòng điện trong cuộn dây cáp. Từ trường lên xuống tùy theo độ lên xuống của giọng nói và khiến dòng điện trong cuộn cảm cũng lên xuống theo. Vậy là ta có âm thanh từ miệng ta được đổi thành những tín hiệu điện từ lên xuống như làn sóng theo một biên độ tùy theo độ cao thấp của giọng nói. Bạn có thể thấy điều này khi âm thanh được một máy ghi dao động ghi lại.

Làm thế nào có thể biến sóng điện thành những bits của vi tính để truyền tải? Về cơ bản bạn tưởng tượng những bước sóng lên xuống theo một khung nhất định. Bạn xẻ những bước sóng thành những phần cực nhỏ, đánh số những phần đó, sử dụng đơn vị 1 và 0. Chẳng hạn, độ cao 10 có thể được biểu hiện thành 11110000 và độ cao 11 là 11111000 và tiếp tục... Mỗi đơn vị 1 và 0 được dịch thành một nhịp đập của bước sóng, và khi được xâu chuỗi với nhau sẽ được biến đến như một cột sóng hình vuông. Không như sóng âm thanh anolog, lên xuống như hình những làn sóng biển, dễ bị bóp méo và phân tán trong quá trình truyền tải, sóng hình vuông kỹ thuật số chỉ lên khi là 1 và xuống khi là 0. Điều đó làm cho thiết bị tiếp nhận đón nhận và hiểu được chúng. Thiết bị này chỉ việc hỏi, nó lên hay nó xuống - thay vì cố gắng đọc cho được một làn sóng uốn lượn. Điều này giải thích tại sao những bản sao kỹ thuật số có độ sắc nét hơn và vì sao những gì được truyền qua hệ thống mã hóa 1 và 0 từ miệng của bạn, từ máy fax hay từ máy tính sang bên kia được, giải mã nguyên vẹn.

Nhưng giả sử bạn là người lắm lời. Và bạn chăm chú nói chuyện mãi mê với người bạn ở Bangkok. Vậy là sẽ có nhiều bộ mã số 1 và 0 cần được truyền tải. Phép mầu nhiệm của công nghệ mới cho phép "nén" các tập hợp 1 và 0. (Máy vi tính của bạn sẽ thể hiện 8x1 hay 8x0, thay vì 1111111 hay 0000000.) Giờ đây ta có giọng nói của bạn được nén lại thành những gói bits. Đã đến lúc phải truyền tải chúng. Ta có thể dùng nhiều các. Đơn giản nhất là phóng ra một dòng điện, theo quy chế 1 vôn cho 1, và hai vôn cho 0. Hay ta truyền chúng qua đường cáp quang, dùng thiết bị có chức năng phát ra những luồng ánh sáng: một luồng ánh sáng đại diện cho 1, tắt đi đại diện cho 0. (Một đĩa CD đơn giản là một đĩa nhựa bọc màn nhôm. Người ta đục một lỗ trên đĩa để thể hiện 1 và chừa phần còn lại, phẳng để thể hiện 0. Máy chạy dĩa CD sẽ chiếu một tia la de vào từng rãnh của chiếc đĩa đọc những tập hợp 1 và 0, rồi chuyển hóa chúng lại thành những âm thanh đẹp đẽ vốn có khi được ghi ban đầu.) Hay chúng ta có thể dùng sóng radio, sóng cao cho số 1 và sóng thấp cho số 0. Dùng phương tiện gì đi nữa, công nghệ kỹ thuật số giúp cho chúng ta có những bản sao hoàn hảo.

Quay trở lại cuộc nói chuyện giữa bạn và người bạn ở Bangkok, giọng của bạn được chuyển thành những tín hiệu truyền bằng ánh sáng qua hệ thống cáp quang, khi sang đến Bangkok, tín hiệu được giải mã từ những 1 và 0, quay trở lại những âm thanh, tiếng người tác động vào cuộn cảm ứng trong ống nghe của người bạn Bangkok. Khi cuộn cảm ứng được tác động, tạo điện trường, lay động tấm màng chắn, tác động vào áp suất không khí biến thành giọng nói hồn nhiên của bạn. Thật mầu nhiệm! Giống ly cà phê của Negroponte vậy.

Khi nói về quá trình vi tính hóa, kỹ nghệ thu nhỏ thiết bị, viễn thông và số hóa đã tạo ra quá trình dân chủ hóa công nghệ, ý tôi muốn nói tới việc chúng giúp cho hàng trăm triệu người trên thế giớ liên hệ với nhau để trao đổi thông in, kiến thức, tiền bạc, ảnh gia đình, giao dịch tài chính, âm nhạc và các chương trình truyền hình bằng những cung cách trước đây chưa từng có. Ngày trước, nếu bạn sống ở New York, con của bạn sống ở Australia vừa sinh cháu bé. Thường trong trường hợp đó con của bạn sẽ phải đi mua một máy ảnh, mua phim, chụp ảnh cháu bé, rửa ảnh, cho ảnh và phong bì thư, dán tem và gửi cho bạn. Nếu may mắn bạn có thể được xem hình của cháu sau đó 10 ngày. Giờ đây chuyện đó không còn cần thiết nữa. Con của bạn sẽ chụp ảnh cháu bé bằng máy ảnh kỹ thuật số, lưu ảnh vào đĩa mềm, sửa ảnh trên máy vi tính và gửi ảnh cho bạn qua Internet - mọi thứ khi cháu bé chưa đầy 10 giờ tuổi.

Cựu Chủ tịch Hãng Truyền hình NBC Lawrence Grossman tóm tắc gọn gàng quá trình dân chủ hóa công nghệ như thế này: "In ấn biến chúng ta thành độc giả. Photocopy biến chúng ta thành những nhà xuất bản. Truyền hình biến chúng ta thành khán giả. Và công nghệ số hóa cho phép chúng ta trở thành các hãng truyền thông".

Quan san của Grossman làm nổi bật một nhân tố khiến cho toàn cầu hóa thời nay khác hẳn với các thời đại trước đây. Nói đơn giản, công cuộc dân chủ hóa công nghệ đã cho phép "toàn cầu hóa sản xuất". Ngày nay, ai cũng có thể trở thành một nhà sản xuất. Toàn cầu hóa thời nay không còn cho thấy việc các nước đang phát triển vận chuyển nguyên liệu thô sang các nước phát triển, để những nước này tinh chế thành sản phẩm, rồi lại chở chúng quay lại. Ngày nay, nhờ có dân chủ hóa công nghệ, nhiều quốc gia khác nhau đã có cơ hội tự quy tụ công nghệ mới, nguyên liệu và vốn, để phát triển trở thành các nhà sản xuất hay nhận hợp đồng gia công những sản phẩm hay dịch vụ với độ phức tạp cao - thêm một yếu tố gắn bó các quốc gia trên thế giới với nhau. Tôi sẽ bàn thêm sau về yếu tố này. Có thể nói dân chủ hóa công nghệ đã giúp cho Thái Lan, trong vòng 15 năm, từ một đất nước trồng lúa, thu nhập thấp trở thành quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về công nghệ sản xuất xe vận tải, cạnh tranh với Detroit, và là nước đứng thứ tư trên thế giới trong việc sản xuất xe gắn máy.

Dân chủ hóa công nghệ không chỉ đơn thuần áp dụng cho xe hơi và xe gắn máy. Như Teera Phutrakal, một nhà quản lý quỹ hỗ tương ở Bangkok có lần nói với tôi: "Tại quỹ của của chúng tôi, chúng tôi không việc gì phải tự sáng chế chiếc bánh xe, chúng tôi nhập khẩu nó. Một vài trong số những công nghệ chúng tôi nhập rẻ gấp 10 lần so với giá của công ty mẹ phải thanh toán. Chẳng hạn, hệ thống liên lạc hồi âm tự động cho khách hàng, khi khách hàng gọi vào, bấm số 1 để tìm hiểu giá trị tài sản của quỹ, bấm 2 để nghe giá chào, và bấm 3 để ra lệnh bán. Nếu bạn muốn mua hay chuộc lại các cổ phiếu, bạn có thể thực hiện giao dịch qua hệ thống điện thoại. Toàn bộ thiết bị và linh kiện chúng tôi nhập có giá rất rẻ. Chúng tôi chỉ cần chờ người khác cải tiến chúng ở nước khác. Đây là vẻ đẹp thực chất của toàn cầu hóa. Chúng tôi là những nhà sản xuất địa phương, có kiến thức địa phương, nhưng nay chúng tôi được trang bị công nghệ ở tầm toàn cầu".

Dân chủ hóa công nghệ đồng thơi có nghĩa là tiềm năng làm giàu sẽ được san sẻ theo vị trí địa lý. Chúng giúp cho nhiều sắc dân ở nhiều vùng sâu vùng xa những cơ hội để họ tiếp cận và áp dụng kiến thức. Tại Kuala Lumpur, tôi gặp một nữ thương gia người Hoa gốc Hồng Kông, chị kể với tôi có một lần gọi vào một số điện thoại Hồng Kông để gặp dịch vụ trợ giúp kỹ thuật cho khách hàng của hãng vi tính Dell, và gặp một nhân viên nói rất sõi tiếng Quan Thoại. Chị thương gia này nói với nhân viên ở trung tâm Hồng Kông hôm đó mưa nhiều và hỏi rằng có mưa ở gần văn phòng Dell hay không. Nhân viên này nói ở vùng văn phòng Dell không mưa, vì văn phòng này thực ra nằm ở Penang, Malaysia, cách Hồng Kông hàng vạn dặm. Nhân viên đó là người Hoa gốc Malaysia, làm việc cho Dell Hồng Kông trong khi sống ở Penang, Malaysia. Đó là thành quả của dân chủ hóa công nghệ.

Ấn Độ cũng đang nhanh chóng trở thành một văn phòng cho toàn thế giới. (Theo tờ The Economist, số 18-9-1999, các tổng đài viên Ấn Độ đóng ở Ấn Độ nhưng lại phục vụ cho khách hàng của tập đoàn GE Capital. Một ngày nào đó họ có thể gọi khách hàng ở bang Texas, chấn vấn vì sao khách hàng chậm trả tiền vào thẻ tín dụng. Nhưng tôi không cảm thấy thoải mái khi nghe những nhân viên người Ấn lại quay ra "thay tên của họ bằng tên lối phương Tây và bắt chước phương ngữ tiếng Anh từ những vùng của khách hàng họ phục vụ".) Hàng không Thụy Sĩ đã chuyển toàn bộ các văn phòng kế toán của họ, bao gồm các máy tính từ địa bàn Thụy Sĩ đắt đỏ sang Ấn Độ rẻ hơn nhiều, để tận dụng nhân công lương thấp trong các khâu thư ký, lập chương trình và kế toán.

Nhờ có kỹ thuật số hóa và nối mạng vi tính, những công việc như vậy có thể được thực hiện ở mọi nơi, những nơi có số đông các sinh viên tốt nghiệp các trường Anh ngữ. Đó có lẽ là cơ hội cho Ấn Độ, Pakistan, Philippines, Nam Phi và các cộng đồng nói tiếng Anh khác trên khắp các nước đang phát triển. Dịch vụ mạng quốc tế của hàng không Anh Bristish Airways đóng ở Mumbai, Ấn Độ có chức năng phụ trách hồ sơ của lượng khách đi lại thường xuyên. Selectronic, một công ty điện toán ở Delhi nhận các chỉ dẫn được ghi âm từ các bác sĩ đóng tại Hoa Kỳ thông qua đường dây miễn phí, ghi chúng lại và gửi nội dung bằng văn bản đến một tổ chức chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ. Tờ Tạp Chí Kinh tế Viễn Đông số ngày 2-9-1999 cho biết công ty American Online (AOL) hiện có 600 nhân viên phục vụ khách hàng người Philippines đóng tại Manila để mỗi ngày trả lời từ 10.000-12.000 cú điện thoại của khách hàng nhờ chỉ dẫn và thanh toán. Khách thường gọi từ Hoa Kỳ, chiếm khoảng 80 phần trăm số người dùng email của AOL. Chi nhánh của AOL tại Philippines trong năm 1999 trả cho các nhân viên địa phương có trình độ đại học khoảng 5,5 đô-la mỗi ngày, tờ tạp chí viết tiếp, vị chi là 35% cao hơn mức lương tối thiểu ở đất nước này, nhưng chỉ bằng lương của một công nhân thiếu tay nghề ở Mỹ làm việc trong một giờ. Mức lương như vậy là thấp, nhưng đó là khởi điểm để tiến tới một thế hệ người Philippines vươn tới một "Thế giới đi nhanh", và bạn có thể đánh cuộc rằng những nhân viên có năng khiếu trong số đó một ngày nào đó, sẽ ra đi và mở một công ty vi tính, gọi là POL chẳng hạn, để cạnh tranh với AOL. Sự lan tràn nhanh chóng công nghệ phục vụ khách hàng và liên lạc qua vi tính có thể là nền tảng cho sự tăng tốc sắp tới ở châu Á. Nhưng để tham gia, những nước như Thái Lan, một nước đã lọt cào trò chơi toàn cầu bằng cách mời chào các dây chuyền sản xuất giá thành thấp, sẽ phải nâng cấp giáo dục và dạy nghề trong dân chúng để họ có thể cạnh tranh và chiếm lĩnh các dịch vụ và việc làm liên quan đến viễn thông và vi tính.

Một lần tôi ngồi trầm ngâm với Geoff Baehr, phụ trách thiết kế mạng vi tính của công ty Sun Microsystem, bàn về vấn đề: khả năng quá trình dân chủ hóa công nghệ và phương tiện sản xuất như hiện nay rồi sẽ đi đến đâu? Càng nghĩ chúng tôi càng thấy điên rồ. "Giờ đây chúng ta có thể dùng mạng điện toán để cung cấp các dịch vụ mà trước đây chưa từng được trao đổi, thông qua Internet, vậy tại sao chúng ta không outsource chính phủ của chúng ta luôn nhỉ?' Baehr đặt câu hỏi. Hãy nghĩ mà xem - hãy giao việc điều hành lính biệt kích và vệ sĩ cho người Nga. Bạn có thể để cho người Ấn Độ làm kế toán giữ sổ sách cho bạn và người Thụy Sĩ hãy làm công việc phục vụ khách hàng. Bạn hãy giao nhà băng trung ương cho người Đức. Người Ý chịu trách nhiệm thiết kế mẫu giày dép của bạn. Người Anh quản lý các trường trung học. Người Nhật có thể phụ trách tiểu học và lái tàu hỏa cho bạn...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 20-3-2013 09:55:20 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4 (tt)
DÂN CHỦ HOÁ TÀI CHÍNH

Dân chủ hóa công nghệ chắc chắn tăng cường cho sự thay đổi quan trọng thứ hai đang điều hành toàn cầu hóa, đó là sự thay đổi trong cung cách chúng ta đầu tư. Tôi xin gọi đó là "Dân chủ hóa tài chính". Nhiều năm trong thời Hậu Chiến tranh Lạnh các khoản cho vay lớn ở nội địa cũng như quốc tế được các ngân hàng thương mại và đầu tư và các công ty bảo hiểm lớn đảm nhiệm. Những định chế sang trọng đó bao giờ cũng muốn giao tiền cho các công ty có hoạt động ổn định và tài chính lành mạnh và được xếp hạng "đáng đầu tư". Điều đó khiến cho việc cho vay rất mất dân chủ. Ngân hàng làm ăn theo lối cổ điển thường duy trì khái niệm hạn hẹp về việc ai là người đáng cho mượn tiền. Và nếu bạn là người mới vào cuộc, muốn vay tiền thì điều đó có nghĩa bạn phải có một "tay trong" trong các ngân hàng hay một công ty bảo hiểm nào đó. Những định chế tài chính thường là do các giám đốc quản trị và những ban quản trị có bản chất trì trệ nắm giữ. Những người đó không thích rủi ro và không quyết đoán khi ứng phó với các thay đổi trên thị trường.

Dân chủ hóa tài chính thực ra bắt đầu từ cuối thập niên 1960 với sự ra đời của thị trường "thương phiếu." Đó là những trái phiếu mà các tập đoàn công ty phát hành ra công chúng để thu hút vốn. Sự ra đời của thị trường trái phiếu làm nảy sinh một số yếu tố đa nguyên trong thế giới tài chính và xóa bỏ sự độc quyền của các nhà băng. Tiếp đó, vào thập niên 1970, xuất hiện khái niệm "thế chấp" để cho phép dân chúng vay tiền mua nhà trả dần. Các ngân hàng đầu tư khi đó bắt đầu đến tiếp xúc với các nhà băng và các công ty tài chính chuyên trách việc cho vay để phục vụ khách hàng mua địa ốc. Họ mua lại toàn bộ các khoản cho vay, chia chúng thành các trái phiếu giá 1.000 đô-la mỗi phiếu và mời những người dân thường như bạn và tôi và bà cô của bạn đóng tiền để mua. Chúng ta có cơ hội để hưởng chút ít lãi suất từ loại trái phiếu khá là an toàn này, khi mà lãi suất và vốn ban đầu cho bạn sẽ được các khách hàng vay tiền mua nhà trang trải hàng tháng. Chứng khoán hóa trên thực tế đã giúp cho rất nhiều công ty và cá nhân tiếp cận được mức tài chính cho phép họ đầu tư hay làm ăn.

Tuy nhiên thập niên 1980 mới là lúc dân chủ hóa tài chính bùng nổ. Người đạp đổ rào cản cuối cùng chính là ông vua trái phiếu Michael Milken, một con người thông minh, lanh lợi và cũng hư hỏng nặng nề. Milken, tốt nghiệp Trường Thương mại và Tài chính Wharton, Đại học Pennsylvania, lúc đầu làm việc cho hãng môi giới chứng khoán Drexel ở Philadelphia năm 1970. Thời gian đó không thấy các ngân hàng hay định chế tài chính nào đếm xỉa tới việc mua các "trái phiếu rẻ mạt", do các công ty hết thời làm ăn hoặc các thương vụ thiếu kinh nghiệm bỡ ngỡ bước vào đời phát hành. Milken cho rằng các ngân hàng lớn như vậy thật là ngu. Anh ta thực hiện một số tính toán riêng: tham khảo một số nghiên cứu không mấy nổi tiếng về chủ đề trái phiếu rẻ mạt và kết luận như sau: Những công ty không được xếp hạng "đáng đầu tư", nếu vay được tiền thì thường phải chịu mức lãi từ 3-10 phần trăm cao hơn mức thông lệ.

Nhưng trên thực tế, nếu so sánh với các công ty làm ăn ổn định (được xếp hạng - blue chip) mà trái phiếu ít sinh lời thì tỷ lệ phá sản của các công ty tầm tầm này chỉ cao hơn chút ít. Chính vì thế, cái gọi là trái phiếu rẻ mạt tạo một khả năng kiếm tiền cao trong khi mức rủi ro cũng không mấy cao hơn. Và nếu bạn dồn nhiều loại trái phiếu tầm tầm này vào cùng một quỹ đầy tư, thì dù một vài trong số chúng có đổ bể, không thanh toán được, thì phần còn lại vẫn sẽ sinh lãi cho bạn ở mức 3-4 phần trăm cao hơn lãi suất của trái phiếu các công ty được xếp hạng, và hầu như mức rủi ro không tăng. Tạp chí Business Week số tháng 3 năm 1995 cho biết: Milken được trang bị bằng vốn hiểu biết nói trên, "thực hiện một sứ mệnh khó khăn, đó là thuyết phục cho được thế giới toàn những kẻ hoài nghi rằng anh ta tìm ra được một phương pháp đầu tư mới ngon ăn".

Do việc các nhà băng và các công ty đầu tư truyền thống có thái độ hoài nghi và tiếp tục lảng tránh thương vụ mới này, Milken nhanh chóng chuyển từ việc kinh doanh duy nhất trái phiếu các công ty bị tụt hạng, sang cuộc bao mua trái phiếu của hàng loạt các công ty thuộc loại "có vết" - công ty có độ rủi ro cao, công ty bị khánh tận, công ty mới nhập cuộc, những doanh nhân và các hãng mới thành lập hiện chưa vay được tiền từ các ngân hàng lớn, và thậm chí các công ty tài chính "cướp biển" muốn sáp nhập công ty khác nhưng lại không có tiềm lực tài chính. Khi mua xong, Milken bán những trái phiếu của các công ty đó cho các quỹ đầu tư, quỹ hưu bổng và cá nhân các nhà đầu tư. Những người này nhận ra rằng Milken đã có quyết định đúng đắn khi làm như vậy - mức thu nhập cao hơn trong khi rủi ro không mấy cao hơn. Điều đó giúp cho bạn, cùng tôi và cùng người cô của bạn mua trái phiếu, đầu tư, và tài trợ được các thương vụ mới mẻ, nhiều bên cùng có lợi.

Rất nhiều những thương vụ kiểu đó đã tạo nên những chấn động đối với các công ty và công nhân của họ. Tuy nhiên, không bao lâu sau đó, linh cảm của Milken được nhân đại trà. Một làn sóng trái phiếu rẻ mạt xuất hiện, trở thành ngành công nghiệp bán trái phiếu có mức lãi cao, động viên được tiền nhàn rỗi trong dân chúng.

Một chu trình dân chủ hóa tài chính quốc tế tương tự cũng xuất hiện trong giai đoạn này. Qua nhiều thập niên các nhà băng lớn chuyển những khoản tiền khổng lồ cho các chính phủ và tập đoàn ngoại quốc vay mà chỉ ghi giá trị các khoản vay trên sổ sách ở mức gốc. Có nghĩa là nếu nhà băng của bạn cho một nước hay một công ty vay 10 triệu đô la, thì trên sổ sách chỉ ghi lại khoản tiền vay phải trả là 10 triệu đô la, chứ không có gì xác nhận là đất nước đó hay công ty đó có tài sản gì giá trị 10 triệu đô-la để cho bạn xiết nợ, nếu họ không thanh toán đầy đủ. Trong trường hợp nhà băng cho vay trực tiếp và chỉ ghi lại khoản nợ, thì một đất nước-con nợ như Mexico chẳng hạn gặp khó khăn tài chính, như thời năm 1982, do họ vay tiền nước ngoài để tăng tiêu dùng trong nước cho dân chúng thì nhà băng sẽ chịu nhiều bất trắc. Tổng thống Mexico có thể đã bay sang New York, quy tụ hơn 20 ngân hàng lớn đã cho đất nước của ông vay tiền và tuyên bố như sau: "Thưa các quý vị, chúng tôi đã bị khánh tận. Và quý vị có biết câu ngạn ngữ này không: nếu một người vay của bạn 1.000 đô-la thì đó là vấn đề của anh ta. Nhưng nếu một người vay bạn 10 triệu đô-la, thì đó là vấn nạn của bạn. Vâng, chúng tôi chính là vấn nạn của quý vị. Chúng tôi không thể thanh toán cho quý vị. Vậy xin quý vị làm ơn đàm phán lại, thay đổi hạn định thanh toán và tiếp tục cấp thêm tín dụng cho chúng tôi". Và chủ các ngân hàng không còn cách gì hơn là gật đầu chấp nhận, bàn lại một vài phương thức gia hạn tín dụng (thông thường với mức lãi suất cao hơn).

Liệu các chủ nhà băng có lựa chọn nào khác không? Mexico chính là chuyện của họ, và các chủ nhà băng không đời nào quay lại giải thích cho các cổ đông của họ là tài sản thế chấp cho khoản vay 10 triệu đô-la của Mexico là số không. Tốt nhất là họ hẳn cứ tiếp tục cáng đáng gánh nặng Mexico. Và 20 ngân hàng cùng ra tay chung sức để quản trị khoản vay này và tiếp tục ngồi lại với nhau để bàn phương cách giải quyết.

John Page, thời đó là một nhà kinh tế làm việc trong Phòng Mỹ la tinh của Ngân hàng Thế giới, đã giải thích cho tôi chính xác về quy trình giải quyết vấn đề Mexico. Là người nói được tiếng Tây Ban Nha, Page đã vào Mexico năm 1982 và gặp Jose Angel Gurria, Cục trưởng phụ trách tín dụng công của Bộ Tài Chính nước này. Gurria là một con người huyền thoại trong việc thuyết phục các ngân hàng - từ những ngân hàng lớn ở New York cho tới các ngân hàng nhỏ ở bang Texas, miền Tây nước Mỹ - về việc gia hạn tín dụng cho Mexico.

"Một hôm, tôi ngồi trong văn phòng của Gurria, nói chuyện với ông ta bằng tiếng Tây Ban Nha, thì điện thoại reo", Page nhớ lại. "Đó là Chủ tịch một ngân hàng ở Texas, người bị Gurria thuyết phục trợ giúp tài chính cho Mexico. Ông ta hơi hoang mang khi nghe tin kinh tế Mexico có trục trặc. Đang nói chuyện với tôi bằng tiếng Tây Ban Nha như thế, mà Gurria chuyển ngay sang nói tiếng Anh thật là sõi. Gurria nói: "Ê, Joe, may mà anh gọi điện... Không, không, dừng lo. Mọi thứ dưới này ngon lành. Tiền của ông rất an toàn. Gia đình độ này thế nào?... Hay lắm. Con gái làm ăn ra sao rồi? Con bé vẫn đi học à?... Rất hay là đã nói chuyện được với bạn. Cứ gọi tôi lúc nào cũng được. Giữ liên lạc nhé!" Sau đó, rất tự nhiên, Gurria quay lại nói chuyện với tôi bằng tiếng Tây Ban Nha. Như vậy, trong 30 giây đồng hồ, ông ta đã giải quyết cả một vấn đề với một nhà đầu tư quan trọng".

Nhưng có điều nực cười đã xảy ra trên con đường toàn cầu hóa. Thị trường các khoản nợ quốc tế được "chứng khoán hóa", tựa như trường hợp các công ty và mối lái của Milken. Khi châu Mỹ La tinh lâm vào một cuộc khủng hoảng nợ nần nữa hồi cuối thập niên 1980, Bộ trưởng Tài chính Mỹ lúc đó là Nicholas Brady đã ứng dụng công thức Milken. Năm 1989, những khoản nợ của Mỹ La tinh được chuyển đổi thành các trái phiếu được chính phủ Mỹ đảm bảo. Những trái phiếu đó sau đó được các nhà băng giữ lại làm tài sản, hay bán ra cho công chúng, cho các quỹ hỗ tương và các quỹ hưu bổng với mức lãi suất sao hơn thông lệ. Như vậy, bỗng nhiên, tôi, bạn và bà cô được mua một phần nợ của Mexico, Brazil hay của Argentina - hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các quỹ hưu bổng. Những trái phiếu như vậy được mua bán hàng ngày, với giá trị lên hay xuống, tùy thuộc vào mức lên xuống trong kinh tế mỗi nước. Tiền không còn đóng băng trên sổ sách như trước. Joel Korn, người đứng đầu chi nhánh Bank of America tại Brazil nhận xét: "Những gì Brady làm thực sự là một cuộc cách mạng. Thời trước ông ta, Bộ Tài chính Hoa Kỳ chỉ có gây sức ép, buộc các ngân hàng và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đổ tiền tới tấp vào các nước Mỹ La tinh. Điều này Brady đã làm là đưa ra một giải pháp dựa vào thị trường. Các ngân hàng được chính phủ Mỹ bảo đảm để tiếp tục gia hạn tín dụng cho các nước Mỹ La tinh, với điều kiện những nước này phải cải tổ kinh tế. Sau khi gia hạn tín dụng, thay vì ôm trọn các khoản nợ trong sổ sách của họ, các nhà băng phân phối chúng lại thành các khoản trái phiếu được chính phủ bảo đảm và bán ra cho dân chúng. Như vậy sân đã được mở rộng cho hàng ngàn tay chơi non trẻ mới mẻ. Đối với con nợ, thay vì phải đối phó với một ủy ban của nhóm 20 ngân hàng lớn nọ, họ phải chịu trách nhiệm trước hàng ngàn các nhà đầu tư tư nhân và các quỹ đầu tư. Điều này đã mở rộng được thị trường, khiến cho nó uyển chuyển hơn và đồng thời tăng thêm vô khối sức ép lên các quốc gia mang công nợ. Dân chúng mua và bán trái phiếu hàng ngày, tùy thuộc vào mức giá trị của chúng lên xuống. Và cũng hàng ngày, người ta xếp hạng các loại chứng khoán đó. Và những người mua, bán và xếp hạng chứng khoán là những người nước ngoài, nằm ngoài vòng ảnh hưởng của Brazil, Mexico và Argentina". Những người sở hữu trái phiếu không như những nhà băng. Họ không việc gì phải tiếp tục chu cấp cho con nợ để đảm bảo các khoản vay trước đó. Ngược lại, nếu kinh tế của đất nước-con nợ trì trệ, trái phiếu sẽ mất giá, chủ trái phiếu sẽ bán trái phiếu ra, nói lời vĩnh biệt, và mang tiền đầu tư và trái phiếu của những đất nước làm ăn tốt hơn.

Cho nên khi Mexico lâm vào khủng hoảng do lạm tiêu năm 1995, rất nhiều các chủ trái phiếu của Mexico đã bán tháo các trái phiếu của họ, khiến trái phiếu này sụt giá, và Gurria lúc đó không còn có thể kêu cứu tới 20 ngân hàng đảo nợ nữa. Khoản nợ của Mexico đã được dân chủ hóa và tay nhiều người. Vậy Mexico đã phải kêu cứu Bộ Tài Chính Mỹ. Và Chú Sam đã đặt điều kiện khắc nghiệt với Mexico, kết quả là nước này phải dành khoản dự trữ dầu lửa của họ làm vật thế chấp. Điều kiện lúc đó cho việc Hoa Kỳ ứng cứu đó là kinh tế Mexico phải được cải tổ và phát triển như kinh tế bang New Mexico của Hoa Kỳ. Ngay sau đó, hàng loạt các nền kinh tế đang trỗi dậy bắt đầu bán trái phiếu theo công thức Brady, thường tính bằng tiền đô-la Mỹ. Ngày nay có 16 quốc gia phát hành trái phiếu kiểu Brady với tổng giá trị là 150 tỷ đô-la. Chuyện chính phủ phát hành công trái cho người nước ngoài thì không có gì mới. Chuyện này diễn ra đã nhiều năm. Nhưng điều đáng nói ở đây là việc các món công trái nay được phân phối rộng rãi vào tay các cá nhân, quỹ đầu tư và quỹ hưu bổng. Hồi đầu thế kỷ 20, chỉ có các gia đình giàu có mới tham gia vào thị trường công trái. Giờ đây, quỹ hưu bổng của quận Cam [California], hay người gác trường thậm chí bạn và tôi và bà cô của bạn cũng có thể tham gia mua bán công trái.

Đó là hiện tượng dân chủ hóa trong việc cho vay tín dụng, và tại Hoa Kỳ, nó trùng hợp với quá trình dân chủ hóa trong quy chế đầu tư. Điều này có xuất xứ từ cuộc cải cách quỹ hưu bổng và sự ra đời của các tài khoản hưu bổng cá nhân 401(k). Hoa Kỳ đang chuyển mình từ một đất nước trong đó các công ty đảm bảo hưu bổng cho nhân viên thông qua một hệ thống "các lợi tức cố định", sang một chế độ trong đó, các công ty chỉ đảm bảo "sẽ đóng góp" cho hưu bổng của nhân viên. Trong trường hợp đó, nhân viên có quyền hoán chuyển, mua bán các khoản đầu tư cho hưu bổng, tái đầu tư theo ý muốn để có thể sinh lãi nhiều hơn. Cong người ta thời nay sống lâu hơn, họ lo lắng rằng khi về hưu thì an sinh xã hội cho họ còn được bao nhiêu, họ sẽ quay sang sử dụng đồng tiền trong các quỹ hưu bổng và đầu tư một cách năng động hơn. Cha mẹ của quý vị có lẽ chả hiểu quỹ hưu bổng của họ sẽ được đầu tư vào đâu. Trong khi thời nay, công nhân được mời chào một loạt các hình thức đầu tư, giải thích đầy đủ mức lãi suất và rủi ro, và người lao động hoán chuyển đồng tiền của họ chẳng khác việc đặt tiền trong các vòng quay rulô trong sòng bạc, tăng đầu tư vào các loại quỹ làm ăn khấm khá và khiến cho các loại quỹ làm ăn tồi hơn đi đến chỗ khánh kiệt.

Hãng môi giới chứng khoán trên Internet mang tên E*Trade đã tung ra một quảng cáo có thể minh họa cho quan điểm này. Quảng cáo bắt đầu bằng hình ảnh một anh chàng ngồi trong chiếc xe hơi mui trần, chiếc gậy đánh golf lộ ra ở băng ghế sau. Anh ta dừng xe bên vệ đường theo lệnh của cảnhsát. Thấy cớm bước lại và bắt đầu cuộc đối thoại sau đây:

Cớm: "Chào ông".

Chàng trai: "Tôi hiểu rồi, hiểu rồi. Trình bằng lái và đăng ký xe phải không ạ".

Cớm: "Ôi, Kirk Brewer. Tôi những mong được nói chuyện với anh".

Chàng trai: "Nói chuyện với tôi?"

Cớm: "Vâng, anh là quản trị viên của quỹ Large Cap".

Chàng trai (vênh váo): "Ồ vâng".

Cớm: "Tôi thấy anh lọt vào danh sách 10 quỹ hỗ tương hàng đầu".

Chàng trai: "Vâng".

Cớm: "Nhưng không phải là danh sách 5 hãng hàng đầu".

Cảnh sát quay lại và nhìn và các cây gậy đánh golf ở băng ghế sau của xe.

Chàng trai có điệu bộ lo lắng: "Dạ... vậ..ng".

Cớm: "Hãy cất ngay những cây gậy đánh golf và quay lại đi làm việc đi".

Rồi sau đó có một giọng nói cất lên: "Hãy khiến cho các quản trị viên tài chính của bạn làm việc hăng say hơn. Đây là thời điểm các bạn tham gia Trung tâm Quỹ Hỗ tương E*Trade".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 20-3-2013 18:14:08 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5
Suy giảm hệ miễn nhiễm Microchip

NHỮNG KẺ ĐỘC TÀI RỒI TRƯỚC SAU CŨNG RA ĐI

Những kẻ bắt khách hàng phải chờ lâu sẽ sụp đổ còn nhanh hơn

Một quảng cáo trên tờ The Wahington Post, của Star Power, công ty điện thoại viễn thông và Internet, đang cạnh tranh với Bell Atlantic.

Bạn sẽ không có cảm giác chiến thắng

Bạn sẽ không bao giờ cảm thấy hòa vốn

Bạn sẽ không tài nào rời khỏi cuộc chơi

Phương châm làm ăn trên Internet

(Thương mại) điện tử hay là chết

Phương châm khi đưa công ty của bạn vào thế giới Internet

------------------------------------------------------------------

Giờ đây có người nói, "Vâng, thì những thay đổi trong cung cách người ta liên lạc, đầu tư và nhìn nhận thế giới, khiến toàn cầu hóa làm lợi cho những con người và xã hội phát triển, vậy đối với những con người và xã hội khác trên hành tinh thì sao? Tại sao cứ khăng khăng nói toàn cầu hóa trong khi đa số nhân loại vẫn sống trong các làng bản. Họ không có điện thoại, và chả bao giờ sờ được vào máy tinh, nữa là gửi email?"

Đúng là toàn cầu hóa chưa thực sự xuất hiện trên phạm vi toàn cầu. Còn lâu lắm mới đến lúc ai ai cũng lên mạng được (tuy vậy mỗi tuần có chừng 300.000 người mới bắt đầu vào truy cập trên mạng). Nhưng toàn cầu hóa đã được hình thành thực sự trên toàn cầu, theo nghỉa: hầu như ai cũng cảm nhận được nó, gián tiếp hay trực tiếp - đó là những áp lực, những gò bó và những cơ hội để áp dụng dân chủ hóa công nghệ, tài chính và thông tin - trọng tâm của toàn cầu hóa. Chen Yuan, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Trung Quốc một lần đã nói với tôi: "Mỗi một đất nước đều có một phần phát triển chậm. Ngay cả ở Mỹ, nếu đi từ (Thủ đô) Washington xuống Virginia bạn vẫn thấy những làng mạc vùng núi. Nhưng bạn không thể coi chúng chưa nằm trong toàn cầu hóa. Ở Trung Quốc cũng vậy.

Đúng thế. Nếu có một nơi nào chưa hẳn đã hòa nhập vàp toàn cầu hóa thì đó là bản Gujialingzi nhỏ xíu ở đông bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Tôi đến đó năm 1998 trong phái đoàn quan sát tuyển cử vùng nông thôn Trung Quốc. Nhưng lúc đó tôi có một ý đồ riêng - quan sát toàn cầu hóa từ bên ngoài và kết quả là: tôi đã không làm được điều đó. Tôi không đi thoát khỏi toàn cầu hóa, vì chính nó đã lan tỏa tới vùng đó, vùng hẻo lánh nhất mà tôi được biết. Khi đoàn chúng tôi đến Gujialingzi, toàn bộ dân chúng trong độ tuổi bầu cử đã tập trung ở một sân trường. Họ đến để nghe hai ứng cử viên tuyên truyền tranh cử chức trưởng bản. Bản này nghèo lắm: ngay lớp học cũng chỉ có nền đất. Bản này thuộc tỉnh Cát Lâm, trung tâm của vành đai công nghiệp của Trung Quốc trước đây. Nay vành đai này nhanh chóng bị han rỉ vì những khu công nghiệp ở đây không còn khả năng cạnh tranh trên thế giới và chính phủ trung ương ở Bắc Kinh không còn sức để bao cấp sản xuất cũng như phúc lợi xã hội nữa.Cũng có thể chính vì thế mà khi hai vị ứng cử viên trưởng bản đứng lên phát biểu tranh cử, họ làm như thể đang tranh cửa chức thị trưởng của thị trấn luyện thép trung tâm Ohio (Hoa Kỳ).

Đầu tư là cựu trưởng bản, Li Hongling. Trích đoạn bài phát biểu của ông ta như sau: "Thưa dân bản, xin tự giới thiệu lại, tôi 47 tuổi, đảng viên Cộng sản, trình độ trung học cơ sở. Tôi muốn cống hiến cho bản này. Như bà con đã biết, tôi giúp cho bản ta phục hồi sau cuộc Cách mạng Văn hóa. Ở mọi nơi, ai cũng thấy mồ hôi công sức của tôi. Tôi đã đến từng nhà, thảm khảo ý kiến mọi người. Tôi chưa bao giờ dùng tiền công để tiệc tùng. Tôi xử lý mọi việc đúng luật. Tôi hứa sẽ cải thiện trường tiểu học và tăng thu nhập của chúng ta. Nếu được bầu tôi cam kết sẽ vận chuyển rau quả của bản ta ra tỉnh nhanh hơn. Tôi sẽ cải thiện tinh thần trong bản. Chúng ta cần thêm cây cối và hệ thống cáp quang để mọi người đều có một máy điện thoại. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ, tôi sẽ sửa chữa các khuyết điểm của mình. Đây chính là hợp đồng giữa tôi và bà con".

Sau tràng pháo tay lịch sự, đối thủ của ông ta, Liu Fu, lên diễn đàn. Ông ta nhập cuộc ngay với đề tài nữ quyền: "Trước hết tôi xin nói ngày mai là Ngày Phụ nữ Quốc tế và xin chúc mừng các bà các cô. Tôi năm nay 51 tuổi, trình độ phổ thông cơ sở.Tôi là chủ doanh nghiệp đậu phụ. Tôi yêu mến dân bản. Sự nghèo của quý vị cũng là điều nhục nhã đối với tôi. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tôi sẽ lật sang một trang sử mới. Tôi hứa sẽ giảm tệ đánh bạc và đĩ điếm trong bản và tạo thêm công ăn việc làm. Tôi sẽ không ngạo mạn. Tôi sẽ cắt giảm ngân sách hành chính để tiết kiệm tiền cho bà con. Tôi sẽ không nhận của đút lót, và ngay cả thủ trưởng của tôi là dân thành phố đến, tôi cũng sẽ không đưa ông ta đi chiêu đãi. Chúng ta tiệc tùng nhiều quá. Trong mười năm qua tôi không đi ăn tiệc và không động đến một giọt rượu nào cả. Tôi sẽ giữ gìn tiền bạc quý vị đóng góp. Không một cán bộ nào của bản được phép dùng tiền công để lên tỉnh. Tôi sẽ mang công nghệ đến bản ta. Tôi hứa sẽ phổ biến công nghệ chế biến đậu phụ đến từng quý vị. Tôi sẽ đào thêm giếng. Cách mạng Văn hóa đã bỏ phí của chúng ta mất 10 năm. Chúng ta cần phải suy nghĩ các phương pháp để cải thiện đời sống. Tôi sẽ chấm dứt tệ duy ý chí. Như đồng chí Đặng Tiểu Bình nói: "Mèo trắng, mèo đen, đều được, miễn là chúng bắt được chuột". Tôi sẽ cải thiện hệ thống trường học. Tri thức rất quan trọng. Nếu u mê thì không thể xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Và tôi sẽ giúp mấy anh chàng độc thân trong bản, không có tiền, cưới vợ. Tôi sẽ giúp quý vị giàu hơn! Cùng tiến".

Trong khi dân bản bỏ phiếu và chờ kết quả, tôi khảo sát chút ít trước cửa phòng phiếu, hỏi dân chúng xem họ thích bài phát biểu nào hơn. Tay hàng thịt đội mũ thời Mao Trạch Đông bước ra khỏi đám đông và phát biểu công khai: "Khi (ứng cử viên mới) tuyên bố anh ta không bao giờ dự yến tiệc, tôi tin anh ta. Không bao giờ nên chiêu đãi các quan chức ra tỉnh làm việc. Vì thường đó là tiền của chúng tôi đóng góp".

Một người dân bản khác chêm vào: "Ở Bắc Kinh người ta giảm biên chế chính phủ. Ở đây cũng phải vậy... ông ấy nói đúng, chúng tôi cần có cáp quang. Xưa nay chúng tôi không có dịch vụ điện thoại".

Làm thế nào mà biết về cáp quang? Tôi hỏi người này.

"Tôi không biết, chỉ nghe về nó", ông này nhún vai.

Tôi cũng nhận một câu trả lời tương tự ở bản Heng Dao bên cạnh, khi chúng tôi sang để nghe vận động tranh cử. Cựu trưởng bản ở đây phát biểu: "Tôi đã có nhiều cố gắng thiết thực để dẫn dắt bà con làm giàu. Thu nhập hàng năm của chúng ta hiện nay là 2300 tệ. Ngân sách chính quyền thấp hơn nhiều. Và trong nhiệm kỳ của tôi, tôi đã giảm biên chế nhiều cán bộ. Nếu được bầu, chúng tôi sẽ tiếp tục áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, thành lập thêm các xí nghiệp và tăng cường của cải vật chất... [vì] toàn thế giới đã trở thành một thị trường trao đổi hàng hóa đồng nhất".

Tôi hỏi ông ta làm sao có được những ý tưởng như vậy. Bản này chỉ có một máy điện thoại. Ông ta nói: "Tôi đọc báo. Tôi nghe đài... chúng tôi hiện có một xí nghiệp sản xuất khung cửa sổ. Hiện tại chỉ phục vụ khách hàng nội địa, nhưng người ta nói là nếu chúng tôi cải tiến chất lượng sản phẩm, chúng tôi sẽ có thể bán chúng ra nước ngoài".

Toàn cầu hóa chưa hẳn lan khắp toàn cầu ư?

Tip O'Neil nói sai rồi. Tất cả các thể loại chính trị không còn bị bó hẹp nữa. Chính trị giờ đây mang ảnh hưởng của toàn cầu. Không cứ nước nào cũng cảm thấy họ là một phần của toàn cầu hóa, nhưng nước nào cũng vậy - trực tiếp hoặc gián tiếp đều bị toàn cầu hóa ảnh hưởng đến. Chính vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Đông Đức, Liên Xô, tư bản Á châu, các ngành công nghiệp quốc doanh của Brazil, cộng sản Trung Quốc, hãng General Motors và máy tính IBM hoặc đã sụp đổ hoặc bị buộc phải cải tổ gần như cùng một thời gian. Chúng bị một thức virus tấn công, loại virus khiến cho tường Berlin cùng nhiêù loại tường Chiến tranh Lạnh khác sụp đổ. Chúng đã mắc thứ bệnh tôi gọi là hội chứng Suy giảm hệ miễn nhiễm Microchip [Microchip Immune Deficciency Syndrome - MIDS]. Đây là một chứng bệnh mang tính chính trị trong thời toàn cầu hóa. Chứng này có thể tấn công các công ty hay nhà nước lớn nhỏ, phía đông hay tây, phía nam hay bắc. Nếu phải định nghĩa về hội chứng này trong từ điển y học, thì tôi sẽ viết như sau:

"MIDS: một chứng bện có thể nhiễm vào bất cứ hệ thống phù nề, phì nộn và xơ cứng của thời Hậu Chiến tranh Lạnh. MIDS thường nhiễm vào các nhà nước và công ty không được tiêm chủng miễn dịch trước các làn sóng do công nghệ vi mạch (microchip) tạo nên cũng như những làn sóng dân chủ trong thông tin, tài chính và công nghệ đã tạo nên một thị trường nhanh hơn, cởi mở hơn và phức tạp hơn, có những giá trị mới. MIDS xuất hiện khi một đất nước hay một công ty tỏ ra ngày càng thiếu khả năng tăng năng suất, lương, điều kiện sống, tri thức và tính cạnh tranh; chúng trì trệ trong việc áp dụng những thách thức đến từ thế giới hiện đại. Những đất nước và công ty miễn nhiễm MIDS thường vẫn duy trì cung cách làm ăn thời Chiến tranh Lạnh - trong đó chỉ có một nhóm đứng đầu giữ chặt mọi thông tin và vạch tất cả các quyết định, còn những người ở tầng giữa và dưới đáy chỉ đơn thuần thực hiện các quyết định đó, sử dụng các mảng thông tin hạn hẹp hơn. Liều thuốc duy nhất mà ta biết để chữa chứng suy giảm hệ miễn nhiễm Microchip có thể được gọi là "quá trình dân chủ hóa thứ tư". Đây là sự dân chủ hóa trong hoạch định chính sách và đáp ứng thông tin và phi tập trung hóa quyền lực, tất cả giúp cho có thêm dân chúng torng một nước hay nhân viên trong một công ty chia sẻ kiến thức để thực nghiệm và cải cách nhanh chóng hơn. Điều này khiến họ theo kịp những đòi hỏi ngày càng tăng của người tiêu dùng trên thị trường. Họ thường đòi hỏi hàng hóa và dịch vụ rẻ và hợp sở thích của họ hơn. MIDS có thể dẫn tới sự diệt vong đối với các đất nước và công ty, nếu không được chữa trị thích hợp. (Xem thêm các trường hợp Liên Xô, Đông Đức và Công ty Pan Am)".

Ở mức độ nào đó, hội chứng MIDS không có gì mới. Kinh tế thị trường nhiều thế kỷ qua đã giết đi nhiều công ty làm ăn kém cỏi, thiếu khả năng áp dụng công nghệ mới và không theo kịp những đòi hỏi ngày càng tăng trong giới tiêu thụ. Hoặc không đáp ứng được các đòi hỏi mới trong điều kiện sức lao động và vốn ngày càng giảm. Nhung thay đổi trong công nghệ, đầu tư và thông tin đã khiến cho quá trình này tăng tốc đột ngột vào những năm 80, buộc các công ty và đất nước phải tiến nhanh hơn để tránh căn bệnh MIDS. Bạn hãy nhìn nhận chúng như một cuộc chuyển hóa có ba giai đoạn:

Quá trình này bắt đầu trước khi các bộ vi xử lý và vi mạch cho phép xuất hiện máy tính cá nhân, trước khi máy tính cá nhân giúp ra đời các quá trình dân chủ hóa công nghệ, tài chính và thông tin. Đây là thời kỳ sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, kéo dài cho tới những năm 70. Đó là thời kỳ cho phép các chính phủ và các doanh nghiệp quá tải và thiếu hiệu quả tồn tại, vì mọi người hoạt động trong một sân chơi được bảo hộ. Alan Greenspan mô tả hệ thống bó hẹp của thời Chiến tranh Lạnh trong một phát biểu sau đây:

"Những sự điều chỉnh lúc đó đi chậm. Thương mại quốc tế chỉ chiếm phần nhỏ trong kinh tế nội địa. Các hàng rào thuế quan hạn chế cạnh tranh, và kiểm soát về vốn làm tắc nghẽn những giao lưu tiền tệ qua biên ải. Nhìn lại, môi trường kinh tế đó thiếu tính cạnh tranh, yên ả và dĩ nhiên, đã không mấy đe dọa những ai có chút ít tài năng. Quả thực trước khi công nghệ máy tính làm xuất hiện các hệ thống tự động hóa, thì các công việc lặp đi lặp lại, những người thợ thiếu tay nghề đóng vai trò chính và hưởng mức lương cao trong tương quan với thợ lành nghề. Trong cái thế giới ít đòi hỏi này, các chính phủ đã có khả năng thiết lập hệ thống an sinh xã hội va cho ra đời những chính sách về thu nhập công bằng".

Tuy nhiên, Greenspan nói thêm, mức sống trung bình thời đó thấp hơn mức đáng có và sự đa dạng của sản phẩm trên thị trường không theo kịp những thay đổi trong đòi hỏi của giới tiêu thụ, nếu so với thực trạng thời nay - thời của microchip. Những rào cản không cho một loại doanh nghiệp lấn sang một ngành khác đã khiến cho những thay đổi diễn ra chậm chạp hơn và ít rủi ro hơn. Nhưng dẫu cho chi phí lao động và giá thành sản phẩm thời đó có cao hơn và thiếu linh động hơn, thì một bộ phận không nhỏ của xã hội hiện đại ngày nay vẫn còn lưu giữ những nỗi nhớ về chúng - về cái thời đồ đá yên ả.

Một ví dụ đặc trưng của cái môi trường kiểm soát kinh tế đó thể hiện ở nền kinh tế chỉ huy, điều hành từ thượng tầng của nhà nước Xô Viết. Mục đích của kinh tế Liên Xô không phải là đáp ứng đòi hỏi của người tiêu dùng, mà là ấn định sự kiểm soát của chính phủ trung ương. Vì thế mọi thông tin thường đi từ dưới lên và mệnh lệnh đi từ trên xuống. Tại một nhà máy sản xuất giường của Liên Xô, các quản đốc được trung ương trả lương không theo số giường họ tiêu thụ được, mà theo số lượng thép nguyên liệu họ sử dụng. Số lượng giường được bán phản ánh sự thỏa mãn của người tiêu dùng. Số lượng thép sản xuất và sử dụng chính là hình ảnh của quyền lực nhà nước - đó chính là điều duy nhất nhà nước Liên Xô quan tâm tới, trong thời Chiến tranh Lạnh. Và trong suốt Chiến tranh Lạnh, do mức độ thay đổi và thông tin đều bị kiểm soát chặt chẽ, Liên Xô đã tồn tại.

Tôi sẽ không bao giờ quên được chuyến tháp tùng Ngoại trưởng Bakers vào năm 1992 đến Chelyabinsk-70, một phức hợp chế tạo bom hạt nhân của Liên Xô, nằm ở phí đông rặng núi Ural - một nơi tuyệt mật, không bao giờ được ghi trên bản đồ Liên Xô. Đây được ví như trung tâm Los Alamos của người Nga, cái nôi của các chuyên viên hạt nhân của đất nước này. Điều tôi nhớ nhất xảy ra khi chúng tôi nghỉ đêm tại khách sạn Tháng Mười ở thị trấn Sverdlovsk gần đó. Khi vào thang máy khách sạn tôi thấy số các tầng được đánh thứ tự 1,3,4,5,6,7,8,9,2. Ai đó đã quên không ghi số 2 vào nên sau đó gắn 2 vào vị trí cạnh số 9. Bấm số 2 thì người ta vẫn lên được tầng 2 dù nó ở vị trí số 10. Khách sạn nằm trong một tổ hợp quân sự tinh vi nhất của người Nga như vậy đấy! Chỉ có trong một hệ thống bị chia rẽ, trì trề và bị kiểm soát của thời Chiến tranh Lạnh thì mới có lối đánh số thang máy như vậy.

Hãng IBM trong những năm 70 và 80 cũng hoạt động giống như người Xô Viết - theo kế hoạch của trung ương. Cấp trên lệnh cho cấp dưới sản xuất sản phẩm nào và báo cho dưới sản phẩm nào nên cung cấp cho người tiêu thụ. Một lần tôi hỏi John Chambers, Chủ tịch Hãng Cisco System, ông ta thấy làm việc cho IBM thời bao cấp ngày trước ra sao. Charmbers nói, đó là thời những năm 80, thời mà IBM quả đã bắt đầu một chính sách mở cửa, cho phép nhân viên chất vấn sếp, sếp phải trả lời, nếu không thỏa mãn thì nhân viên có thể lên sếp lớn hơn để chất vấn tiếp. "Một lần tôi đã thử làm như vậy", Charmbers nhớ lại, "và một anh bạn cùng hãng gọi tôi ra một chỗ và nói, "mày thoát được lần này là may rồi, lần sau đừng làm thế nữa nhé". Có một lúc tôi nói với một trong mấy sếp rằng lô hàng họ muốn có sẽ không làm vừa lòng khách hàng đâu và sẽ rất tốn nguyên liệu, nhưng ông này không muốn nghe. Ông ta bảo tôi, "tiền thưởng của tôi nằm trong lô hàng đó đấy, vậy hãy mang chúng ra cửa hàng và bán cho chạy".

IBM tồn tại được lúc đó là bởi những bức tường ngăn chặn cạnh tranh trong công nghệ máy tính còn rất cao, những công ty trì trệ vẫn có thể mắc lỗi, và dù thậm chí làm ăn yếu kém vẫn sống nổi. Những đất nước như Liên Xô, sở dĩ vẫn tồn tại được là do các bức tường che chắn thông tin còn cao lắm - những kiến thức của dân chúng Xô Viết về cuộc sống bên ngoài không nhiều - cho nên điện Kremlin có thể tồn tại, mắc lỗi và chịu thất bại, nhưng vẫn tồn tại trong một thời gian dài.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 20-3-2013 18:15:37 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5
(tiếp theo)

... Cho đến những năm 80.

Giai đoạn hai của cuộc chuyển hóa với hội chứng MIDS xuất hiện vào thời gian đó và bắt đầu công phá cái thế giới chậm chạp lười biếng đó. Ở mức chính phủ và doanh nghiệp, dân chủ hóa công nghệ, tài chính và thông tin đã hội tụ vào cuối những năm 80, tạo ra những hiệu quả và quy mô kinh tế mới đáng ngạc nhiên và đồng thời làm sản sinh một môi trường thương mại hoàn toàn mới mẻ - không gian điện toán. Cuộc chuyển biến này được biết đến như một cuộc Cách mạng Thông tin. Nó sẽ được biết đến như một bước nhảy vọt trong công nghệ, trăm năm mới có một lần, tương tự như phát minh ra năng lượng điện, tạo bước ngoặt lớn lao, bứt khỏi quãng lịch sử trước đó.

Có nhiều cách để tóm lược những tác động của Cách mạng Thông tin, và ba trào lưu dân chủ nói trên, vào thương trường. Nhưng với tôi, chúng được gói gọn vào hai khái niệm giản đơn: Thứ nhất, chúng nhấn chìm rào cản để mọi người thâm nhập vào bất cứ ngành kinh doanh nào bằng cách giảm đáng kể chi phí để cho phép người mới nhập cuộc. Nhờ đó chúng tăng cường cạnh tranh và cắt ngắn quãng đường của sản phẩm từ khâu thử nghiệm đến khâu sản xuất hàng loạt. Thứ hai, Cách mạng Thông tin đưa các doanh nghiệp đến gần khách hàng hơn, tạo cho khách hàng một thứ quyền năng để nhanh chóng phản hồi về chất lượng hàng hóa và nhu cầu mới nảy sinh của họ; khách hàng thời nay có thể nhanh chóng bỏ rơi những doanh nghiệp không làm theo ý khách hàng.

Xin đi vào chi tiết. Ba quá trình dân chủ hóa giúp tháo gỡ những rào cản vì hiện nay chỉ cần một máy vi tính cá nhân, một thẻ tín dụng, một đường điện thoại, modem, máy in màu, đường truyền Internet, trang mạng và một tài khoản chuyển tiền nhanh qua bưu điện, bất cứ ai cũng có thể ngồi tại nhà khởi sự doanh nghiệp của mình. Ví dụ: mở một nhà xuất bản, hãng bán lẻ, bán buôn qua catologue, thiết kế thời trang cho thị trường toàn cầu hoặc dịch vụ tư vấn. Họ có thể lập một tờ báo, dịch vụ quảng cáo, phân phối, môi giới chứng khoán, sòng bạc ảo, quỹ tín dụng, tiệm sách, mua bán xe hơi hay quần áo. Chỉ qua một đêm sau khi thành lập, ngay sáng hôm sau, những dịch vụ như vậy với chi phí thành lập rất rẻ có thể cạnh tranh trên toàn cầu. Bạn có thể đang sống trong cùng một dãy nhà với ba tiệm sách độc lập như: Barnes & Noble, Crown Books và Borders - nhưng ngay sáng hôm sau, bạn có thể khiến họ sập tiệm khi mở một hiệu sách của riêng, mang tên "Borderless Books" (tiệm sách xuyên biên giới), sử dụng Internet và đặt cho nó cái tên là Amazon.com chẳng hạn. Quả thực, Amazon.com đã được hình thành trong bối cảnh dân chủ hóa công nghệ (máy vi tính tại gia), dân chủ hóa tài chính (thẻ tín dụng cho mọi người) và dân chủ hóa thông tin (Internet cho mọi người). Nó không những là một tiệm sách phục vụ thói quen mua sách cụ thể ở từng địa phương mà còn là dịch vụ mở cửa 24/24, ai ai ở khắp các múi giờ cũng có thể vào mua.

Một khi hiện tượng như vậy xuất hiện trên đất Mỹ và lan tràn trên toàn thế giới, nó đánh dấu khả năng trong đó bất cứ một sản phẩm hay dịch vụ nào cũng có thể nhanh chóng biến đổi từ giai đoạn "hàng độc" - chỉ một hai nơi sản xuất được, có giá trị gia tăng cao, mức lãi lớn - sang giai đoạn "sản xuất hàng loạt" trở thành hàng hóa thương mại trên diện đại trà. Khái niệm đại trà cho thấy những mặt hàng như vậy đều có thể được bất cứ nhà sản xuất nào thực hiện - sự khác nhau là ở chỗ: ai sẽ là người sản xuất có giá thành rẻ nhất. Biến phát minh của bạn thành một mặt hàng đại chúng kể ra cũng có những bất lợi vì làm như thế mức lợi tức thặng dư sẽ giảm đi, bạn sẽ phải đối phó với nhiều sự cạnh tranh mới. Giải pháp duy nhất trong trường hợp đó là bạn phải đảm bảo cho sản phẩm hay dịch vụ của bạn rẻ nhất, bán được nhanh nhất, bán liên tục, nếu không, bạn sẽ bị tiêu diệt.

Trong thế giới Chiến tranh Lạnh đầy những rào cản, quá trình đại trà hóa sản phẩm khá chậm, khoảng 10 dặm/giờ, vì những rào cản từ khâu phát minh đến khâu bán đại trà khá lớn, phần nhiều do các quốc gia đã thi hành bế quan tỏa cảng. Trong toàn cầu hóa, quá trình này có tốc độ 110 dặm/giờ, vì những bế quan tỏa cảng phần nhiều đã bị loại bỏ. Và vì chúng ta đang tiến vào thời đại Internet, tốc độ của sự biến đổi từ phát minh đến thương mại hóa trở nên nhanh hơn, có thể so sánh với tốc độ đường truyền Internet - tương đương với tốc độ ánh sáng. Chẳng phải vô cớ mà những tay tổ trong công nghệ Internet cho rằng cạnh tranh trên mạng là "thuyết tiến hóa Darwin ứng dụng vào cách chất kích thích tố".

Đó là do hiện nay Internet đang tạo ra một điều kiện giống như môi trường cạnh tranh hoàn hảo, Edward Yardeni, Kinh tế trưởng của Ngân hàng Deutsche Bank giải thích. Ông nói thêm, "Trong môi trường cạnh tranh thuần khiết, không có rào cản đối với lính mới, không có sự bảo hộ dành cho những hãng xưởng làm ăn yếu kém, và ai ai (cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng) cũng đều thu thập được thông tin đầy đủ và công bằng. Những yếu tố như vậy tình cờ lại hiện hữu trong thương mại Internet... Internet triệt tiêu chi phí cho so sánh chất lượng hàng hóa xuống còn zero. Khách hàng ngày có khả năng nhanh chóng tìm ra hàng hóa và dịch vụ ở đâu rẻ nhất. Trong nền kinh tế mạng toàn cầu, nhà sản xuất chịu được chi phí thấp nhất sẽ có khả năng báo giá thấp nhất cho bất cứ ai trên hành tinh này". Ngược lại, trong nền kinh tế có công nghệ thấp, theo Yardeni, thì chi phí để tìm kiếm các mức giá thấp của cùng một mặt hàng khá cao. Bạn phải trèo qua nhiều bức tường, vượt nhiều rào cản để tìm mức giá phải chăng, và điều đó phản ánh lợi thế sẵn có của các công ty làm ăn lâu đời và có danh tiếng ở từng địa phương. Hiện nay các nhà sản xuất, các dịch vụ và tiệm bán lẻ có thể đấu giá để giành các thương vụ ở nhiều nơi trên thế giới. Ngược lại, người tiêu dùng có thể tìm được mức giá thấp nhất ở bất cứ nơi nào. Trong quá khứ, các công ty kiếm tiền trong tình trạng khách hàng thiếu thông tin và thiếu phương tiện kỹ thuật để tìm thông tin. Internet đã vĩnh viễn thay đổi tình trạng đó. Ngày nay doanh nghiệp nào muốn tiếp tục kiếm tiền bằng sự lệch lạc thông tin giữa kẻ mua và người bán, thì chính họ đang tự huyễn hoặc bản thân.

Chính vì thế Internet là điều kỳ diệu của người tiêu dùng và là hiểm họa đối với nhà sản xuất và người bán hàng. Ở một mức nào đó, doanh nghiệp sản xuất thành công ngày nay cần trở thành một thứ cơ sở dịch vụ. Có nghĩa họ phải học cách ứng dụng công nghệ mới để giảm chi phí, tinh giảm bộ máy điều hành và tăng tốc cải tiến chất lượng để đáp ứng mức đòi hỏi tiếp theo của trào lưu Cách mạng Thông tin - việc người tiêu dùng đòi hỏi sản phẩm phải đúng sở thích của cá nhân họ. Con người là tổng hòa của xương và thịt, chứ không phải là những con số. Nên họ liên tục đòi hỏi và có khả năng trả thêm chút ít cho những dịch vụ và sản phẩm đúng ý muốn của họ. Chính vì thế, ngoài mục đích cải thiện hoạt động của mình, mỗi công ty đều phải dùng Internet để tiết kiệm thêm thời gian, dành sức lực và tài chính để cải tiến mẫu mã của sản phẩm cho đúng ý người tiêu dùng. Sở thích riêng của khách hàng không bao giờ là hàng hóa thương mại, chính vì thế sản phẩm theo đúng sở thích cá nhân bao giờ cũng có giá.

Sang lĩnh vực môi giới chứng khoán, bạn có lẽ nghĩ rằng đây là ngành có mức giá trị gia tăng cao và lợi tức nhiều. Nhưng một khi 50 dịch vụ môi giới cùng xuất hiện trên không gian điện toán và cùng báo giá thấp hơn nhiều so với hãng Merrill Lynch, họ tư vấn miễn phí trên mạng, thì bạn có thể thấy ngành môi giới đã trở thành một thứ hàng hóa thương mại. Nếu bạn muốn tồn tại trong ngành môi giới, bạn sẽ phải ứng dụng kỹ thuật để nắm bắt được nhu cầu cá nhân của khách hàng và thân chủ, học thêm về cách tiếp thị những dịch vụ chứ không chỉ cổ phiếu hay trái phiếu, ví dụ tư vấn và đánh giá đi đến quyết định kinh doanh đúng đắn cho khách hàng. Hãng Merrill Lynch rồi sẽ phải giảm phí giao dịch vì hiện nay, nhờ không gian điện toán, những rào cản cạnh tranh đã sụp đổ và xuất hiện thêm khá nhiều đối thủ mới. Nhưng hãng này vẫn có thể tồn tại nếu tung ra những dịch vụ chất lượng cao hơn kèm đường dây tư vấn trực tiếp đến cá nhân của từng thân chủ. Đó là lĩnh vực mà khách hàng bao giờ cũng sẵn sàng chi trả.

Một khi hàng rào bảo vệ doanh nghiệp của bạn sụp đổ nhanh chóng như hiện nay, bạn không thể dự đoán đối thủ của bạn từ đâu đến. Mọi khi hàng rào đổ xuống, sẽ ngày càng xuất hiện thêm nhiều quan hệ tương tác. Xin đưa ra một ví dụ có thực: Một hôm, lật vài trang tạp chí, tôi thấy một quảng cáo về một hệ thống camera kỹ thuật số đời mới của hãng Sony. Tôi ngạc nhiên: "có thực là mẩu quảng cáo này về Sony? Sony chưa bao giờ dính dáng đến dịch vụ máy ghi hình và phim.Tôi nghĩ xưa nay Sony chỉ quan tâm đến dàn stereo, máy walkman hay đĩa CD mà thôi". Nhưng, đúng là ngày nay Sony quan tâm đến máy ảnh thật. Nhưng thế nào là đĩa CD? Chẳng qua là một đĩa nhựa, được gắn mã kỹ thuật số và khi được quét bằng một tia sáng đặc biệt, sẽ làm xuất hiện nhạc và lời. Nếu xét theo phương diện đó, thì một khi Sony thuộc về kỹ nghệ kỹ thuật số thì hãng này có thể tham gia vào bất cứ công nghệ nào có dính dáng đến kỹ thuật này. Điều này khiến tôi quay trở lại mẫu quảng cáo vừa nói, về hệ máy ảnh Mavica. Mẩu quảng cáo có ba tấm hình: trước hết là chiếc máy ảnh, chụp hình tĩnh giống như thứ máy ảnh truyền thống, chỉ khác là thay vì dùng phim,. máy ghi dữ liệu bằng số. Quảng cáo nói: "Đây là máy ảnh của bạn". Bên cạnh đó, thay vì phim là hình chiếc đĩa mềm 3,5 inch của Sony sản xuất, được chú thích "đây là phim của bạn." Và cạnh đó là hình chiếc máy vi tính, trên màn hình là ảnh cháu bé vừa được chụp, chú thích: "Và đây là bưu điện của bạn".

Hãy thử suy nghĩ về mẫu quảng cáo này và những gì được chú thích. Dường như chúng kể một câu chuyện: Một buổi sáng có người trong hãng Sony thức giấc và thốt lên, "Ê, chúng ta có một nhà máy sản xuất tất cả những đồ thuộc về kỹ thuật số, chúng ta xưa nay chỉ số hóa âm thanh hay âm nhạc. Vì sao chúng ta lại không số hóa hình ảnh nhỉ? Vì sao chúng ta không trở thành Sony kiêm Kodak? Với máy ảnh kỹ thuật số, ta có thể chụp ảnh, lưu dữ liệu trên đĩa mềm, cài vào máy vi tính, rồi xử lý để hoặc tự dùng máy in để in". Rồi lại có ai đó ở phòng giao nhận hàng hóa của hãng nói, "và cũng có thể gửi những hình ảnh như thế qua email đi khắp thế giới. Vì kỹ thuật số cho phép khách hàng của chúng ta sửa chất lượng của ảnh rồi thông qua modem, gửi ảnh đến họ hàng của họ ở năm châu bốn biển. Vậy thì chúng ta có thể vừa là Sony, vừa là Kodak,lại vừa là Federal Express".

Sau khi xem mẩu quảng cáo này, tôi tự nhủ: "Không rõ người của hãng phim Kodak nghĩ gì về điều này?" Sau đó, trên đài, tôi nghe được một quảng cáo của Kodak, tung ra một công nghệ xử lý ảnh trên Internet. Dường như Kodak đang làm ra vẻ đang chuyển hóa thành một công ty máy vi tính đồng thời sản xuất phim. Điều đó lại khiến tôi băn khoăn không hiểu hãng máy tính Dell và Compaq có lo ngại không. Nhưng tôi lại tìm được những quảng cáo của Dell và Compaq: hiện nay họ không chỉ bán máy vi tính. Hiện nay họ đồng thời cung ứng "các giải pháp dùng vi tính" dùng cho việc quản trị doanh nghiệp và sản xuất. Hai hãng này đã tự xưng là các nhà tư vấn kinh doanh, đồng thời cung ứng máy vi tính. Thật vậy các quảng cáo của Compaq không đơn thuần có hình ảnh chiếc máy tính, mà thường có lời tuyên truyền: "Compaq - Câu trả lời tốt hơn". Điều đó khiến tôi liên tưởng đến mấy người bạn làm việc trong hãng tư vấn Pricewaterhouse Coopers. Tôi đã hỏi xem họ có lo lắng chuyện hãng Compaq nhảy vào lĩnh vực tư vấn hay không? Bạn tôi nói họ chỉ lo lắng việc Goldman Sachs, ngân hàng đầu tư nay đang giới thiệu với khách hàng các giải pháp tiết kiệm tiền đóng thuế bằng cách sử dụng các phương pháp kinh doanh thay thế để chịu mức thuế thấp hơn. Price waterhouse Coopers hiện đang lo lắng các ngân hàng đầu tư nhảy vào lĩnh vực tư vấn thuế vụ. Bạn tôi gợi ý tôi nên đọc thêm về chủ đề này. Tôi bèn tìm đến hiệu sách Borders Books để tìm sách, nhưng vợ tôi nói: chẳng việc gì phải tự thân đến hiệu sách, vì chúng ta đã có Amazon.com - "tiệm sách không biên giới", ở dưới rầng hầm của chúng tôi. Thế là tôi xuống tầng hầm, vàotrang web Amazon.com. Tiệm này không những bán sách báo mà còn bán cả CD. và tôi lại nhủ thầm: "Nhưng bán CD là việc của Sony cơ mà?"

Điều này làm tôi liên tưởng đến việc tiếp thị cuốn sách này. Tôi đến New York để bàn việc bán sách với Farrar, Straus và Gilroux, nhà xuất bản chuyên về loại sách bìa cứng. Tôi ngồi cạnh Mark Gates, một chuyên viên bán hàng của công ty. Khi chúng tôi nói chuyện bán sách báo, và Mark lộ vẻ lo lắng. Vì sao? Anh ta nói: "Tôi vừa đến Books Brothers để tìm mua một bộ com-lê. Tôi đến quầy bán com-lê thì thấy ở đó bày đầy ấn bản cuốn sách mới nhất của Michael Jordan, cuốn Dành cho những kẻ hâm mộ môn bóng rổ. Chúng được bày bán trong quầy quần áo dành cho nam giới. Tôi hỏi quầy trưởng: "Chỗ các ông không phải là nơi bán sách báo. Ông nghĩ thế nào nếu tiệm sách của chúng tôi tổ chức bán com-lê?" Ông ta cười, cũng tỏ vẻ hơi xấu hổ, nhưng sau đó nói với tôi: "Gần đây ông có nhìn vào hóa đơn tiền điện của ông không? Hãng Consolidated Edison đang rao bán sách của Jordan, giảm giá 40% nhân Noel, bạn chỉ cần trả tiền cho họ chung với tiền điện là họ sẽ gửi sách đến!" Tôi cảm thấy tuyệt vọng thật sự. Tôi năm nay 46 tuổi rồi. Tôi muốn làm việc thêm ít nhất là 19 năm nữa. Nhưng tôi không biết có còn tìm thêm được khách hàng trong từng ấy năm không. Tôi nghĩ chắc là không. Các đường dây dịch vụ buôn bán giờ đây đang chồng chéo đan xen với nhau".

Tờ The New York Times vào thời gian này đăng một hàng tít thực sự gây ấn tượng trong tôi - nói về việc hãng AT&T tung ra một loạt các dịch vụ mới, hàng tít này viết: "AT&T: Thứ gì cũng có" Hình như ngày nay ai ai cũng có thể trở thành một người đa năng và tham gia bất cứ lĩnh vực nào. Ai nấy đều có liên quan và có quyền lợi chồng chéo lẫn nhau.

Chính vì lẽ đó mà ngày nay nạn nhân trước tiên của MIDS chính là những hệ thống nặng nề, trì trệ như Liên Xô và IBM. trong một thế giới không có rào cản, những hệ thống như vậy không còn khả năng liên hệ với khách hàng và không thể thích nghi được với tốc độ thay đổi nhanh chóng của thị trường. Nạn nhân tiếp theo chính là những hệ thống có đặc điểm tương tự như hệ thống trung ương chỉ huy lối Xô Viết - những nền kinh tế được nhà nước điều phối chặt chẽ ở châu Mỹ La Tinh, hệ thống nhà nước phúc lợi của Canada và Tây Âu và những tổng công ty lớn, chậm biến đổi, đóng ở Bắc Mỹ. Vào cuối thập niên 90, virus MIDS đã chuyển sang Á châu và tấn công vào những nền kinh tế có cơ chế nặng nề do nhà nước điều tiết ở Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc và thậm chí cả ở Hàn Quốc và Nhật Bản.

TRAO TRÁCH NHIỆM

Hiện nay chúng ta đang trải qua giai đoạn mới nhất của cuộc tiến hóa chịu ảnh hưởng MIDS. Giờ đây là kỷ nguyên toàn cầu hóa trong đó chính phủ và các công ty đang tự tái cấu trúc để tận dụng ba cuộc cách mạng dân chủ hóa, - hoặc tránh né chúng, để rồi phải chịu những hậu quả nặng nề. Cũng trong giai đoạn này, chúng ta thấy hình thành quá trình dân chủ hóa thứ tư - dân chủ hóa trong hoạch định chính sách và tản quyền đồng thời chia sẽ thông tin. Đó chính là biện pháp đế giảm khả năng mắc virus MIDS.

Để hiểu được khái niệm dân chủ hóa hoạch định chính sách - tàn quyền - chia sẻ thông tin, mời bạn liên tưởng tới trường hợp Liên Xô, một ví dụ điển hình nhất. Chính quyền Xô Viết tập trung toàn bộ chức năng lãnh đạo vào một bộ phận nhỏ ở trung ương. Toàn bộ chính sách đều do trung ương quyết định. Trung ương truyền đạt cho bạn những gì bạn được phép nghĩ, hành động, tuân thủ, và chỉ đạo ý thích của bạn. Trung ương quy tụ toàn bộ các đầu mối thông tin - dữ liệu được truyền tới trung ương và chỉ có một nhóm nhỏ đầu não mới biết được bức tranh toàn cảnh. Trung ương chỉ đạo chiến lược - những gì quyết định vận mệnh của đất nước được một nhóm nhỏ quyết định.

Quá trình dân chủ hóa thứ tư - dân chủ hóa việc vạch quyết định và phân quyền, chia thông tin - sẽ giúp cho việc cải cách trung ương và khai thông liên lạc thông tin trên và dưới. Mỗi một đất nước hay một công ty thành đạt đều đã cải tổ bộ máy lãnh đạo của họ theo lối khác nhau chút ít, tùy theo biến động trên thị trường, dân số, địa lý và mức phát triển cụ thể. Hãng máy tính Dell hiện nay tập trung hóa toàn bộ chức năng tài chính kế toán, cung ứng và phân phối sản phẩm dành cho hoạt động ở châu Âu, vào duy nhất một trung tâm đóng ở Ireland. Hãng này tập trung các hoạt động trên không vì mục đích kiểm soát mà vì đòi hỏi tiết kiệm chi phí và tăng cường năng suất hoạt động. Mặt khác Dell giao quyền vạch kế hoạch và chính sách cho nhiều trung tâm và cá nhân có trách nhiệm cung ứng và dịch vụ hàng hóa đóng ở mỗi quốc gia châu Âu, vì những trung tâm này gần với khách hàng nhất và có khả năng thay đổi và phát triển dịch vụ cho đúng ý khách hàng.

Trong giai đoạn toàn cầu hóa nhanh chóng và phức tạp hiện nay, thông tin giúp cho việc hình thành các giải pháp cho khách hàng không nằm ở cơ quan đầu não của các công ty, mà nằm ở vòng ngoài, do chính những cơ sở tiếp thị và buôn bán trực tiếp trên thị trường tiêu thụ. Nếu công ty của bạn không cho phép những chuyên viên buôn bán và tiếp thị ở vòng ngoài được quyết định và chia sẻ thông tin họ nắm được, thì công ty của bạn sẽ gặp khó khăn. Nhưng Warren Bennis, trong cuốn Lãnh đạo các tài năng, đánh giá: "Không có cá nhân nào trong chúng ta thông minh hơn cả nhóm chúng ta cùng hiệp lực".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 20-3-2013 18:17:03 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5
(tiếp theo)

Xin tóm tắt sự thay đổi này bằng cách hình dung một tấm biển đặt trước mặt mỗi lãnh đạo công ty ở Hoa Kỳ - tấm biển: "Tôi chịu trách nhiệm". Phương châm này được phổ biến trong thời Chiến tranh Lạnh vì khi đó thông tin được truyền lên đầu não, và nhân viên ở dưới chỉ việc ngồi đợi quyết định từ trên xuống. Nhưng ngày nay, các tổng giám đốc tài năng phải là những người hiểu rõ nhiệm vụ của họ là xây dựng chiến lược phát triển, hình thành luật lệ làm việc, phát động phong trào ở các khâu chủ yếu và giành cho các quản đốc ở tuyến đầu - trên thị trường và quan hệ trực tiếp với khách hàng - vạch những quyết định cụ thể của riêng các nhân họ.

Do đó tấm biển ghi phương châm làm việc của các tổng giám đốc ngày nay không còn là "Tôi chịu trách nhiệm", mà là "Tôi giao trách nhiệm". Tôi, giám đốc, sẽ vạch chiến lược, móc nối mọi người, đưa mọi người vào guồng máy, khởi động guồng máy. Nhưng các bạn, nhân viên, phải thu thập thông tin, chia sẽ thông tin và vạch tất cả các quyết định, nhanh chóng, kịp thời và thích ứng với thị trường.

Robert Shapiro, Chủ tịch Hãng Monsanto là một điển hình của một giám đốc theo trường pháo cải tổ đầu não của công ty để phân tán trách nhiệm xuống nhân viên. Đứng không xa khuôn viên, văn phòng của ông diện tích như phòng của người thư ký, giải thích: "Ngày trước nếu có một sự kiện nào xảy ra đâu đó trên thế giới, chỉ có những nhân viên cấp dưới chứng kiến hay được biết, mà thông thường chỉ có họ mới biết. Họ quan sát được những diễn biến trên thị trường và sự thay đổi trong thị hiếu của khách hàng. Thông tin như vậy được truyền lên trên, thông qua những khâu trung gian, tùy theo mức độ: nếu những người quản lý trung gian không thấy họ bị đe dọa bởi những thông tin như vậy thì họ sẽ chuyển tiếp lên trên nữa; còn nếu cảm thấy quyền lợi cá nhân của họ bị đe dọa thì họ sẽ dấu nhẹm đi. Đặt giả thuyết nếu mọi chuyện trôi chảy, thông tin này được chuyển tới cấp quyết định đi nữa, thì cũng có khi đã trở thành lỗi thời. Hoặc có khi tam sao thất bản. Và tồi tệ hơn, thủ trưởng lại dựa trên những kinh nghiệm và kỹ năng lỗi thời của bản thân để vạch quyết định. Điều này là khả dĩ trong một thế giới mà ai ai cũng làm như vậy, chậm một chút, thiếu nhạy bén một chút cũng không sao. Nhưng cái thế giới đó nay không còn nữa".

"Cho nên điều hiện nay chúng tôi đang làm, là cải tổ bộ máy lãnh đạo của Monsanto", Shapiro nói tiếp: "Chúng tôi không chỉ phân trách nhiệm xuống dưới, cho phép mọi người tự giác quyết định. Cũng không có nghĩa là lãnh đạo ngồi chơi. Lãnh đạo giờ đây phải nhạy bén hơn, thu tập nhân tài và sẵn sàng thích nghi với những thay đổi trên thị trường. Ngày trước, tôi lãnh đạo vì tôi nắm được nhiều thông tin nhất, chính vì thế tôi có được tầm nhìn mà không một ai khác trong công ty có được, chính vì thế tôi vạch quyết định, ai cũng phải nghe. Ngày nay với email, Internet và Intranet, những nhân viên ở tuyến đầu nắm được thậm chí nhiều chuyện hơn tôi. Thậm chí nếu muốn, tôi cũng không che dấu được thông tin đối với họ. Thành ra hệ thống nào còn muốn chỉ huy, kiểm soát nhân viên hay dân chúng của họ bằng việc hạn chế thông tin, thì rồi đây sẽ thất bại. Giờ đây mọi người đều phải cùng nhau chia sẻ trách nhiệm và cùng hành động. Tôi cảm thấy giờ đây mình phải lắng nghe mọi người nhiều hơn, vì họ có nhiều thông tin hơn và vì thế ý kiến của họ có cơ sở hơn. Giờ đây tôi có thể nói chuyện thật cụ thể với những nhân viên ở tuyến đầu, những người có kinh nghiệm cụ thể với khách hàng. Họ có thể góp ý thẳng với tôi, thay vì phải qua những khâu trung gian và chuyển tiếp... Là lãnh đạo cao nhất của công ty, tôi giờ đây có trách nhiệm đảm bảo cho các giám đốc, quản đốc được huấn luyện đầy đủ về văn hóa, giá trị và chiến lược của công ty, để rồi khi thu thập dữ liệu, họ có những nền tảng cụ thể để đánh giá các định hướng. Huấn luyện những định hướng chiến lược của công ty cho các giám đốc và quản đốc là nhiệm vụ của tôi thời nay".

Bố vợ của tôi là Matthew Bucksbaum là Chủ tịch của General Growth Properties, một công ty địa ốc chuyên xây các chuỗi siêu thị, đã tổ chức thử nghiệm ý đồ cải tổ của Shapiro. Công ty của ông đóng đại bản doanh ở Chicago nhưng quản lý 130 siêu thị ở khắp nước Mỹ. Mỗi siêu thị có một giám đốc, sống tại địa phương. Mỗi năm các giám đốc họp đại hội với nhau một lần. Trong đại hội năm 1999, Matthew đeo một chiếc khuy áo có dòng chữ "Tôi giao trách nhiệm", và ông tặng cho giám đốc quản trị của mỗi siêu thị một chiếc khuy áo có dòng chữ "Tôi chịu trách nhiệm".

Đó là phương cách của Matthew phòng chống virus MIDS để bức tường Berlin khỏi sập trên đầu ông. Mỗi một công ty đều phải làm điều đó bằng cách của mình. Tôi đã sưu tập và xin trình bày sau đây ba ví dụ - trường hợp một nông dân bang Minnesota, một tiểu thương ở Baltimore và một chuyên viên Internet.

Garyy Wagner, 44 tuổi, cùng hai người anh của mình sở hữu một đồn điền rộng 4.200 mẫu ở thung lũng Red River, bang Minnesota. Vào những năm 90, Gary nhận thấy một điều từ thị trường: hoặc là anh phải tăng cường đầu tư, nâng quy mô sản xuất và mở rộng bán hàng ra toàn cầu, hoặc là anh phải chịu để cho người vào nuốt chửng doanh nghiệp của mình. Anh em nhà Wagner không muốn bị nuốt chửng, họ xoay sang tìm biện pháp để cải thiện kỹ thuật. Có lẽ do bố mất sớm và phải bắt đầu quản lý trang trại ngay khi mới 24 tuổi, Gary Wagner trở nên một người thích các ý tưởng mới. Năm 1993, hãng nghiên cứu nông nghiệp Agleader đến gặp và giới thiệu cho anh một công nghệ mới - một máy đo sản lượng lúa mì, dùng microchip, gắn vào máy gặt liên hoàn, có thể đo chính xác sản lượng thóc của từng mét vuông trên ruộng. Đồng thời thiết bị này truyền tín hiệu với một vệ tin mà từ đó có thể định vị chính xác tọa độ của máy gặt đập của Gary trên mặt đất. Khi so sánh hai thông số nói trên, Gary có thể tính được chính xác sản lượng lúa mì được gặt đập trên mỗi mẫu ruộng.

Phải mất một thời gian thì mới tính toán được như vậy. "Một nhân viên lập trình cùng ngồi với tôi trên máy gặt đập", Gary cho biết, " đã ghi chép các dữ liệu vào máy tính, khi cùng tôi di chuyển trên cánh đồng, sau đó về khách sạn tính toán, rồi lại đến để đi cùng tôi kiểm tra lại". Một khi họ hình thành được một chương trình đo đếm như vậy, thì kết quả thật bõ công.

"Nhưng điều trong thấy thật đáng ngạc nhiên", Gary nói. "Bằng mắt thường thì đúng là ruộng của tôi thửa nào cũng giống nhau. Nhưng khi đo chính xác thì thấy sự chênh lệch rõ rệt về sản lượng của từng khu vực, tới mức 150 đô-la mỗi mẫu, từ đó suy ra mức lời lãi hay thua lỗ của từng mẫu ruộng. Phát hiện đó đối với tôi quý như vàng. Vì dựa vào đó, mỗi mùa vụ, tôi có thể lựa chọn trồng cây giống gì. Nhờ vào phương pháp đánh giá bằng vi tính, chúng tôi có thể xác định giống gì sẽ phát triển tốt nhất ở mảnh ruộng nào".

Thời trước, Gary phải hoạt động trong cơ chế nông nghiệp tập trung hóa. Thông tin từ cơ quan chức năng chuyển xuống cho anh. Anh ta mua các giống lúa từ các công ty khác nhau. Các công ty này cung cấp giống dựa theo các thông tin chung chung đánh đồng từ ở mức: đất này thì giống này đất kia thì giống kia. Nay, một khi biết được sự khác nhau của sản lượng trong mỗi khu vực trong trang trại của mình, Gary đã lựa chọn giống thích hợp cụ thể cho từng mẫu ruộng khác nhau trên mảnh đất của anh. Trên thực tế anh đã phân quyền và sử dụng thông tin tùy thuộc vào sự khác nhau về chất đất và sản lượng dự tính trên từng mảnh đất cụ thể của anh. Anh quyết định cụ thể giống lúa, mức nước, mức phân bón thích hợp đến từng mẫu ruộng. Tất cả những thông tin như vậy rồi được tập trung hóa, lưu giữ và được thông báo từ vệ tinh, vì vậy mỗi khi ra ruộng, qua vệ tinh, Gary biết chắc chắn cần bao nhiêu phân bón, độ đạm trong phân là bao nhiêu, nước từng nào là vừa. Điều đó giúp anh tiết kiệm được khá nhiều và tập trung bón thúc, thâm canh tăng vụ - giảm hóa chất trong phân hóa học bảo vệ môi trường và tăng năng suất, làm nặng thêm túi tiền.

"Thay vì phải dùng thông tin chung chung, dựa trên các dự báo theo mức bình quân được đánh giá theo lối tập trung hóa, chúng tôi đã tìm ra được thông tin và giải pháp cụ thể đi sâu xuống tận công việc trên chất đất của mỗi mẫu ruộng", Gary nói. "Tiền học phí cao nhưng đó là sự đầu tư đúng đắn đối với chúng tôi. Giờ đây thật bõ công. Thực sự mà nói, hiện chúng tôi đang cạnh tranh với mấy anh láng giềng và chúng tôi cần phải có bí quyết. Ai cũng có máy gặt đập liên hoàn, máy cày cấy, cũng dùng chung một nguồn nước và có đất đai, điều phân giữa chúng tôi và người khác đó là chúng tôi có tri thức".

Với tri thức, giờ đây Gary có thể giao việc thật cụ thể cho nhân viên của anh, để tập trung vào xây dựng chiến lược phát triển, mở rộng đất đai để không bị nuốt chửng.

Anh nói, "trước đây, nhân viên khảo sát địa chất chỉ đến lấy mẫu theo lối xác suất rồi kết luận chung. Giờ đây tôi có thể nói cụ thể với họ lấy mẫu đất ở đâu, so sánh ra sao và đối chiếu với dữ liệu theo dõi từ vệ tinh để kiểm tra đích xác chất lượng thổ nhưỡng. Vậy nếu tôi muốn tìm một khu vực đất thuần chủng cho một giống lúa đặc biệt, tôi sẽ nhờ họ đo đạc chính xác nơi tôi muốn. Tôi có thể chỉ đạo cho họ làm cụ thể, thay vì tự đi mà làm lấy. Con đường duy nhất để phát triển có lãi là phải tăng cường tri thức. Và nếu tôi có thể chứng minh cho nhà băng hiểu những phương pháp cải tiến kỹ thuật của mình thì họ sẽ sẵn sàng hơn trong việc cho tôi vay thêm tiền để đầu tư".

Gary wagner hiện vận là người đi dầu trong phong trào mang tên "trồng cấy chính xác". Đa số láng giềng của anh vẫn còn hồ nghi. "Tôi nghĩ nếu ông già tôi còn sống, ông ta tất sẽ rất quan tâm đến chuyện cải tiến kỹ thuật. Nhưng chắc ông cũng không bao giờ cho phép tụi tôi tiến nhanh như vậy", Gary nói. "Hiện tại chỉ có anh em tôi, mà tôi là người chỉ đạo, không có ông sếp lớn nào quanh đây, nên chúng tôi có thể mở mang đầu óc và áp dụng chút ít kỹ thuật mới. Cộng đồng những người làm ăn theo lối trồng cấy chính xác hiện còn rất nhỏ, nhưng chúng tôi liên lạc với nhau qua Internet. Hiện tại chúng tôi lập một chat room để cùng trao đổi kinh nghiệm".

Những gì diễn ra đối với người nông dân bang Minnesota cũng diễn ra đối với, Valley Lighting, Inc., một doanh nghiệp có 35 nhân viên ở Baltimore, do Jerry Portnoy làm chủ.

"Chúng tôi chuyên phân phối các hệ thống đèn và ánh sáng", Portnoy nói với tôi hồi năm 1999. "Chúng tôi cung cấp nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất điện dân dụng và các hãng địa ốc chuyên xây dựng các dự án thương mại lớn, trên cơ sở đấu thầu cạnh tranh và thương thuyết. Chúng tôi đấu thầu, thiết kế và hạch toán, làm mọi khâu để cung cấp cho khách hàng với giá cả hợp lý nhất. Và chúng tôi chỉ thành công khi tặng thêm cho khách hàng những dịch vụ đi kèm. Anh có thể hỏi, làm thế nào mà một công ty cấp vật liệu đèn lại gia tăng được dịch vụ? Xin nói là chúng tôi có thể cung cấp những giải pháp cho các hệ thống ánh sáng có giá thành thấp nhất và hợp túi tiền nhất theo đúng đòi hỏi của khách hàng".

Đầu những năm 90, ngay sau khi bức tường Berlin sụp đổ, Portnoy theo dõi thấy thị trường của ngành điện có thay đổi.

"Lúc đó có cảm giác như có người vừa kéo tấm màn cửa sổ để ánh sáng lọt vào, kết thúc một kỷ nguyên tăm tối", anh nói. "Khách hàng của chúng tôi thay đổi thái độ, trở nên đòi hỏi nhiều hơn; có những người xưa nay chỉ tặc lưỡi là đặt hàng, nay không thấy đến; có người xưa nay chỉ đến gặp chúng tôi, nay lại dở dói đòi các hãng cung cấp phải đấu thầu để lấy hợp đồng. Các nhân viên bán hàng đến nói với tôi, "chúng tôi không thể kiếm được đơn đặt hàng, cạnh tranh khiếp quá, hoặc mỗi khi kiếm được thì lời lãi chẳng ra sao cả". Tôi đã nghĩ, "nguy rồi", nhưng chúng tôi quả thực không hiểu chuyện gì xảy ra. Và như anh nói đó, tường Berlin đang sụp xuống đầu mà chúng tôi không biết".

Trong bối cảnh đó, Portnoy và đối tác của anh quyết định hành động. Họ giành ra 100.000 đô-la, trợ giá cho việc giảm mức lãi sản phẩm xuống còn một nửa. Chẳng hạn nếu một thương vụ đạt được với mức lãi thấp hơn bình thường, thì người bán hàng được chu cấp thêm một khoản bù từ quỹ 100.000 đô-la.

"Điều mà tôi thử nghiệm", Portnoy nói, "là đo đếm xem chúng tôi có thể cắt ngân sách và tăng năng lực kinh doanh đến mức nào. Thêm nữa chúng tôi dò xem thị trường đang biến đổi ra sao. Thực hiện những hợp đồng mới với mức giá thành thấp hơn, chúng tôi có khả năng mua nguyên liệu thô, sản xuất với hiệu suất cao hơn và cung cấp dịch vụ cho khách hàng, giảm giá nhưng vẫn có lãi. Và một điều lý thú đã xảy ra. Bộ phận sản xuất của chúng tôi hoạt động tốt hơn, vẫn đáp ứng được các hợp đồng, với doanh thu không thay đổi và không cần phải động đến khoản tiền nào trong quỹ trợ giá. Họ duy trì được lòng tự trọng của mình, không ai muốn bị phải trợ giá. Họ phải làm việc nhiều hơn để đảm bảo hiệu quả sản xuất như trước, và nhiều người trong bọn họ có khả năng làm được điều đó. Tuy vậy, khách hàng tiếp tục trở nên khó tính hơn trước nhiều và nhiều khi khiến chúng tôi phải đau đầu. Sau thập niên 80, ai trong chúng tôi cũng nghĩ mình là thiên tài, nhưng bỗng nhiên, bung!! Khách hàng coi chúng tôi chỉ là một thứ dịch vụ cung cấp hàng hóa thông thường. Chúng tôi tiếp tục cải tiến, nhưng khách hàng không lấy thế mà hàm ơn. Họ nói, "dịch vụ tốt, nhưng rổi sao nữa?" Họ là những người bỏ tiền ra, nên bao giờ cũng đi tìm những nơi giá rẻ nhất. Toàn bộ ngành xây dựng trở thành một thứ hàng hóa, không ai trong đó còn được hỗ trợ và bao cấp. Vào thời gian giữa thập niên 90, nhân viên bán hàng phàn nàn rằng họ phải chịu mất một số khách hàng truyền thống. Họ phải đấu thầu rất nhiều nơi, tăng cường khá nhiều dịch vụ, để có thể thu hút và giữ được khác, và kiếm được cùng một mức lợi nhuận. Chính vì thế họ không còn nhiều thời gian để nghiên cứu các hạng mục công việc và khai thác chính xác khả năng lời lãi trong từng hợp đồng. Và xin nhớ cho, bí quyết của việc đấu thầu là nắm được thông tin và có tri thức dồi dào. Càng hiểu thêm được ngóc ngách của từng công việc, bạn càng có thêm khả năng tiết kiệm và đảm bảo được mức lãi suất khiến bạn có thể tồn tại".

Năm 1994, công ty Valley Lighting chưa đến nỗi lỗ, nhưng đạt mức lãi thấp hơn trước nhiều. MIDS đã xuất hiện. Rõ ràng các quá trình dân chủ hóa tài chính, thông tin và công nghệ đã làm thay đổi cơ bản môi trường kinh doanh của công ty và biến nhiều khu vực dịch vụ truyền thống thành các loại hàng hóa.

"Tôi quan sát và nhận ra rằng từ trước đến lúc đó, chúng tôi hoạt động trong một môi trường thiếu thốn thông tin", Portnoy cho biết. "Chúng tôi không có đủ thông tin và tri thức để tồn tại trong thị trường mới mẻ đó. Xưa nay, bao giờ chúng tôi cũng đảm bảo cung cấp cho khách hàng mức giá trị cao hơn là mức giá thành họ phải thanh toán. Trong tình thế hạn chế về tài chính ngày nay, nếu chúng tôi đảm bảo cung cấp 90 phần trăm đòi hỏi của khách với giá thành là 70 phần trăm, thì có thể cạnh tranh với đối thủ - những người chỉ cung cấp 70 phần trăm đòi hỏi của khách mà vẫn lấy giá là 70 phần trăm. Như thế chúng tôi có thể tồn tại. Tôi hiểu rằng cần phải duy trì khả năng đó trong môi trường mới".

Và công ty này tiến hành cải tổ thực sự, Portnoy thuê một nhà tư vấn điện toán 20.000 đô-la để tìm một loại phần mềm trên thị trường để giúp cho việc quản trị và hoạt động của công ty nhanh chóng và thông minh hơn, khiến duy trì được giá trị gia tăng trong dịch vụ với khách hàng và chống lại khả năng bị biến thành một thứ hàng hóa.

"Sau khoảng một năm tìm kiếm, chúng tôi không tìm ra một chương trình phần mềm nào đáp ứng được 50 phần trăm nhu cầu của mình. Chúng tôi quyết định tự viết phần mềm riêng cho mình", Portnoy giải thích. "Tôi không biết gì về viết chương trình điện toán. Nhưng hai nhân viên chủ chốt của tôi tự học được công nghệ đó. Từ mức nghiệp dư, họ trở nên say mê chế tạo phần mềm. Tôi đã thuê một lập trình viên chuyên nghiệp, người đã hợp tác cùng nhân viên của tôi, cho ra đời một chương trình điện toán phục vụ chính xác những đòi hỏi và theo hướng chiến lược của công ty. Tôi không biết làm sao họ làm được việc đó; việc của tôi chỉ là duyệt chi tiền cho họ hoạt động - đó là một nhiệm vụ nặng nề. Toàn bộ chi phí vào khoảng 350.000 đô-la. Nhưng nó đã cứu công ty của tôi. Chương trình điện toán mới cho phép nhân viên bán hàng và tài vụ hiểu thấu được ngóc ngách của từng hạng mục công việc, từ đó họ thiết kế và viết các tài liệu đấu thầu nhanh chóng hơn và hiệu quả hơn. Quá trình đơn giản hóa khiến họ chỉ việc điền vào một bộ mẫu hồ sơ có sẵn, tiết kiệm được thời gian. Quan trọng hơn, toàn bộ hệ thống mang tính tương tác và chuyển tiếp, trong đó khâu báo giá tự động chuyển thành hóa đơn bán hàng và lệnh xuất hàng cũng như khâu bảo trì. Tất cả những dữ liệu đó có thể đồng thời xuất hiện trên màn hình, giúp các nhân viên không phải lần giở từng khâu, ngược trở về trước để dò và kiểm tra. Một dữ liệu nhất định, một khi được nạp vào máy sẽ được dùng một cách nhất quán cho nhiều dự án. Ban đầu chúng tôi chỉ có những máy vi tính hoạt động độc lập. Nay chúng tôi có hệ thống các máy quy tụ thành mạng tích hợp. Trong sáu tháng đầu năm 1998, doanh thu và lãi của chúng tôi tăng 33 phần trăm, với số lượng nhân viên không đổi. Nếu cùng một số lượng nhân viên không đổi mà tăng lãi được một phần ba, thì khi tăng cường nhân viên, mức lãi sẽ lên cao hơn và doanh nghiệp sẽ được mở rộng. Trong khung cảnh cạnh tranh cá lớn nuốt cá bé hiện nay thì doanh nghiệp của bạn phải lớn, nhanh nhẹn và giàu tri thức hơn đối thủ, thì mới mong thành công. Không rõ có giữ được như vậy vĩnh viễn không, nhưng tôi biết một điều, tôi đang tồn tại, cho đến một ngày nào đó có người nào phát triển hơn tôi".

Như thế thì chức năng của tổng giám đốc thay đổi ra sao? Tôi hỏi Prtnoy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 20-3-2013 18:18:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5
(tiếp theo)

"Thành thực mà nói thì nay hiểu biết của tôi về tình hình kém hơn trước, nhưng điều đó không phải là trở ngại. Tôi giao trách nhiệm cho người của mình. Họ quyết định nhiều hơn và họ nắm được nhiều thông tin hơn. Nhân viên bán hàng của tôi không hưởng theo hoa hồng. Họ phối hợp thành một đội hình, họ hợp tác, cùng làm việc và không cạnh tranh đấu đá chống nhau. Họ biết là nếu công ty làm ra tiền, thì họ sẽ có thu nhập. Đó là điều khiến họ chia sẽ thông tin nhanh nhạy hơn với nhau. Ai trong số họ cũng trau dồi thêm thông tin và chính vì thế,họ có nhiều thẩm quyền hơn. Họ có thể cùng nhau bàn bạc xem gói thầu nào đáng theo đuổi và khả năng thắng lợi ra sao, gói thầu nào thu lãi cao và gói nào dễ hoàn thiện. Và quan trọng hơn là từ khi có chương trình máy tính mới, ai ai cũng có thời gian suy nghĩ và nghiên cứu, thay vì suốt ngày cứ phải tính toán tỷ mẩn, dò đi xét lại. Họ có thể quản trị được công việc, thay vì công việc quản trị bản thân họ. Công ty tôi hiện giống như một tập hợp các doanh nghiệp cá nhân trong đó ai cũng có quyền quyết định. Công việc của tôi hiện nay là giúp đỡ cho các nhân viên củng nhau làm việc, giúp đỡ họ, trang bị cho họ và để họ làm theo cung cách hiệu quả nhất".

Trách nhiệm khởi đầu từ đó.

Câu chuyện sau cùng. Chiến lược tồn tại sau khi tường Berlin sụp đổ - điều bạn sẽ nghe rất nhiều trong những năm tới - có thể được tóm tắt bằng một quảng cáo năm 1999 của Tổng công ty Tin học. Đầu đề của quảng cáo là: "Bạn chờ đợi thương mại điện tử đến bao giờ?" Nội dung của mẩu quảng cáo là: "Trong mỗi doanh nghiệp đều tiềm ẩn một cơ hội thương mại điện tử. Khả năng chuyển động nhanh hơn và tiến xa hơn. Khả năng giúp khai thác những thời cơ mới trong nền kinh tế điện tử. Nếu chần chừ quá lâu, bạn sẽ để mất đi cơ hội đó".

Trong những năm 80, Internet là điều khá mới mẻ. Đến những năm 90, nó trở thành một công nghệ thật hữu dụng. Và tới thời điểm thiên niên kỷ mới, Internet trở thành điều thiết yếu trong công việc làm ăn. Chính vì thế vào năm 2000, Phố Wall căn vặn vác công ty với câu hỏi: hệ số IQ của quý vị là gì? Chỉ số Internet, chứ không phải chỉ số thông minh, của quý vị là bao nhiêu? Quý vị có hiểu rằng Internet không phải là một thứ đồ chơi, một khúc ruột thừa trong hoạt động doanh nghiệp? Hay đó chính là một công cụ không thể thiếu được, giúp cho quý vị giao dịch với khách hàng, nhà cung ứng vật liệu và các công ty hữu quan khác? Alan Greenspan nói nhờ có Internet, các công ty có thể nắm được nhanh chóng thông tin về những thay đổi của thị hiếu khách hàng trên thương trường thời nay, về tình trạng cung cấp vật tư và kỹ thuật và tình trạng sản phẩm trong các dây chuyền sản xuất. Điều đó khiến các nhà sản xuất có thể nhanh chóng thanh lý các loại sản phẩm kém giá trị, gạt bỏ các loại thiết bị không cần thiết, tăng cường tri thức cho công nhân để họ cải tiến sản phẩm đáp ứng từng khía cạnh chi tiết trong thị hiếu của khách hàng. Khi ngày càng có thêm các công ty nhận thức được điều đó thì một ngành nghề mới xuất hiện. Tôi xin gọi đó là nghề bác sĩ Internet. Những bác sĩ đó có tư cách như Tổng công ty Tin học. Họ là đội ngũ những nhân viên cấp cứu, để các tổng giám đốc các công ty gọi đến than phiền: "Trời ơi, Internet là gì vậy? Nó tác động thế nào đến doanh nghiệp của tôi và làm thế nào tôi có thể ứng phó bây giờ?"

Alan S.Coben là một trong những bác sĩ Internet đầu tiên. Trong lĩnh vực Internet, ông ta có vai trò tương tự bậc thầy Hippocrates trong ngành y. Ông đứng đầu một đội ngũ quản trị, chữa trị những trục trặc trên mạng cho các khách hàng ngành viễn thông của Cisco System, hãng máy tính xây dựng mạng Internet cũng như tự phát triển vào mạng lưới Internet. Khi một công ty gọi số "911 - xin đượ cấp cứu". Cisco cử Alan Cohen đến để "chẩn đoán và bốc thuốc" điều trị mạng Internet của công ty đó. Ông nói trong khi thị trường để bán sản phẩm Internet thật là lớn, thì có một thị trường lớn hơn nhiều, dành cho việc đào tạo và tư vấn cho các công ty các sử dụng thật hiệu quả Internet trong những khâu như giao dịch với khách hàng, nhà cung cấp sản phẩm và quản trị nội bộ.

"Động lực đầu tiên khiến tổng giám đốc của một công ty gọi bác sĩ Internet là sự hoang mang - họ lo sợ rằng thương mại điện tử đe dọa mô hình làm ăn của họ", Cohen nói. "Tôi là một bác sĩ Internet. Thứ bác sĩ có thể tư vấn cho bạn trong một vài mức độ. Bác sĩ tồi chỉ chuyên nhằm vào hiện tượng ngoại khoa. Bác sĩ giỏi thường nhìn vào tận gốc rễ. Thỉnh thoảng một công ty gọi đến nói với chúng tôi: "Chúng tôi làm ăn còn yếu kém. Chúng tôi muốn dùng Internet để bán được thêm nhiều hàng hóa. Hãy giúp đỡ". Điều đầu tiên tôi nói với họ là "Lý do bạn làm ăn yếu kém, không bán được hàng trên mạng chưa hẳn là do bạn không có một chiến lược bán lẻ trên Internet đúng đắn. Hãy đặt chuyện thương mại điện tử sang một bên đã. Dường như nhân lực của bạn làm ăn chưa hữu hiệu. Hình như quan hệ giữa bạn và các hãng cung cấp chưa được lành mạnh cho lắm. Trước hết bạn cần có Internet để khắc phục những trở ngại như vậy. Sau đó chúng ta sẽ nói chuyện thương mại điện tử".

"Phần nhiều giám đốc các công ty tìm đến chúng tôi là những người không nhận thấy Internet hay công nghệ thông tin chính là cốt lõi của doanh nghiệp của họ", Cohen nói tiếp, "Các công ty thường bị chia làm hai phần - phần sản xuất và bán sản phẩm, và phần còn lại thuộc những khâu khác, trong đó thông thường bao gồm bộ phận sử dụng Internet và công nghệ thông tin, riêng rẽ, không gắn với khâu sản xuất và bán hàng. Trong nhiều công ty, chức năng CIO (Trưởng bộ phận thông tin) được hiểu ngầm là mang ý nghĩa ngồi chơi xơi nước. Công nghệ thông tin thường được mệnh danh là "chi phí", và "chi phí", theo thói thường, bao giờ cũng cần được giảm bớt. Tại Cisco, chúng tôi đặt ra một trường phái mới và khuyến khích người khác học theo. Khi có cú điện thoại cấp cứu 911 đến, chúng tôi trước hết sẽ giải thích với khách hàng một số hướng giải quyết. Tôi xin liệt kê như sau:

"Quy luật thứ nhất: Để thành công trong thương mại điện tử, chính quý vị phải là một doanh nghiệp điện tử. Quý vị không thể đem gắn Internet vào bất cứ bức tường nào ở đâu đó. Internet phải thâm nhập vào bất cứ lĩnh vực nào mà quý vị đang hoạt động. Trước hết là loại bỏ việc sử dụng giấy má. Xin lỗi, không dùng giấy má. Nếu muốn liên lạc với tôi thì hãy dùng email và Internet, không viết trên giấy. Cisco hiện bán phần lớn sản phẩm của mình trên mạng. Khách hàng vào trang của Cisco để đặt hàng trực tiếp, như thế tránh được nhiều lỗi thông tin: xảy ra khi khách hàng phải sao chép lại giấy tờ của người khác. Một khi thông tin đã được nạp vào hệ thống, không ai vào để sửa, chúng sẽ đến thẳng bộ phận cung ứng, đến thẳng nhà máy. Những nhân viên của Cisco vốn dĩ phải đánh máy, nạp thông tin từ khách hàng nay không cần phải làm thế, họ có thêm thời gian tiếp xúc, trao đổi và góp ý với khách hàng cũng như tiếp thụ nhu cầu của khách. Các nhà cung cấp của Cisco cũng nắm được thông tin của khách hàng, nhờ đó họ chuyển đầy đủ nguyên liệu trực tiếp đến các nhà máy của Cisco, điều đó giúp tránh tình trạng thừa thãi nguyên vật liệu. Cisco cũng đưa lên website của mình các thông tin và dịch vụ tư vấn cho khách hàng - khách hàng như vậy được tư vấn để tự giải quyết những trục trặc giản đơn và kỹ sư của Cisco được giải phóng và tập trung vào những vấn đề phức tạp hơn và vào khâu bảo trì sản phẩm hậu mãi. Tất cả nhằm tiết kiệm thời gian, tránh những khâu vô hiệu quả".

"Cisco cũng nạp toàn bộ hồ sơ lương, thưởng và chi phí cho nhân viên lên mạng, nhờ đó, chỉ trong vòng chưa tới một phút, nhân viên của hãng có thể truy thu tiền công tác và tra cứu lương thưởng của họ đạt được. Nhân viên của hãng được truy lĩnh tiền công tác chỉ hai ngày sau khi nạp hồ sơ lên mạng nội bộ. Vừa rồi chúng tôi vừa sáp nhập thêm một công ty mới. Khi đó, chúng tôi cử một đoàn đến thăm công ty này. Khi về, chúng tôi mô tả công ty và kế hoạch mua sáp nhập trên email cho các quản đốc của hãng, và đưa ra quyết định cuối cùng trong cuộc họp ban lãnh đại. Cisco đạt được chiến lược như thế cũng vì khi mới thành lập công ty phát triển nhanh quá, không tuyển kịp nhân lực. Chúng tôi đã chuyển dần từng khâu kinh doanh lên mạng, thực hành tự động hóa, và Internet/Intranet là nơi khách hàng, nhà cung ứng vật liệu, cơ quan tuyển dụng, nhân viên bán hàng và các kỹ sư có thể lấy thông tin và trực tiếp giao dịch. Và như vậy, chúng tôi không dùng đến giấy má nữa".

Cisco là công ty có hệ liên lạc nội bộ chặt chẽ bằng mạng điện toán giữa các khâu quản lý, sản xuất, kế toán và bán hàng. Họ không cần phải chờ đến thời điểm cuối mỗi quý để biết được khuynh hướng và thực tế hoạt động của công ty, hay mức lãi lỗ của từng phòng ban. Liên hệ chặt chẽ đến mức bất cứ thời điểm nào và trong vòng một giờ đồng hồ họ có thể kiểm toán và hạch toán toàn bộ hoạt động của hãng.

Quy luật thứ hai, Cohen cho biết, là: Biến tổng giám đốc thành một nhà truyền giáo của thế giới Internet. Hãy khiến ông ta hay bà ta chị trách nhiệm về sự thành công của thương mại điện tử trong công ty của bạn. Người ta ai ai cũng lắng nghe sếp của họ. Nhưng trong hoàn cảnh này, nếu vị sếp này không gắn bó với Internet và thương mại điện tử thì chẳng cần ai phải đoái hoài đến ông/bà ta làm gì. Jack Welch của hãng General Electric là người đặt hạn cho các giám đốc của ông phải xây dựng cho được chiến lược sử dụng Internet. Lệnh này đi từ trên xuống, mang tính bắt buộc, cũng vì một nỗi lo rồi đây Internet sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với các doanh nghiệp. Hơn nữa, thay đổi trong lãnh đạo doanh nghiệp là yếu tố chính, dẫn tối thay đổi bản chất và nội dung doanh nghiệp. "Là một bác sĩ Internet khi tiếp xúc với các công ty khách hàng, tôi thường phát hiện ra những nhân tố muốn cải tổ, muốn gắn thành công trong bước đường công danh của anh ta trong công ty với thương mại điện tử", Cohen mói. "Nếu có ông chủ công ty nào nói, "Hãy giúp chúng tôi giải quyết cho xong cái vụ Internet này, để tôi còn giữ ghế", thì đó không phải là người chúng tôi muốn giúp đỡ. Chúng tôi muốn thấy những con người dám chịu chơi đến cùng, tạo ra một khuynh hướng năng động và thay đổi toàn cục trong công ty của mình".

"Quy luật thứ ba là: Công khai hóa thông tin. Hãy cho phép mọi người vào tìm hiểu bất cứ thông tin gì vào bất cứ lúc nào. Bạn cần có đạo luật tự do thông tin áp dụng trong các công ty để nhân viên, nhà cung cấp và khách hàng vào truy cập. Một khi khách hàng vào truy cập nguồn hàng và hồi sơ rồi đặt hàng cho họ, chính họ sẽ tiết kiệm thời gia và tăng cường hiệu quả làm ăn của hãng. Đa phần, khách hàng chính là người viết được đơn đặt hàng chính xác nhất. Khách hàng vào trang của chúng tôi có thể tìm ngay được thông tin và thông số họ cần. Không những mua hàng của chúng tôi, khách hàng còn có dịp nhận xét về chất lượng, cung cách phục vụ. Chúng tôi học thêm được từ đó và những khách hàng tiềm năng cũng có được những thông tin như vậy.

"Quy luật thứ tư: Huấn luyện và khuyến khích khách hàng và nhân viên luôn truy cập trang web của công ty. Mỗi khi có một khách hàng gọi điện đến hãng, tổng đài của chúng tôi sẽ gợi ý, "quý vị có biết rằng có thể tìm thấy nhiều giải đáp cho thắc mắc của quý vị, thậm chí giải đáp cho câu hỏi vừa rồi trên mạng của chúng tôi mà không cần phải xếp hàng chờ đợi để gặp nhân viên?" Chúng tôi cũng đã thiết lập một trường đại học trên mạng để đào tạo nhân viên và khách hàng cũng như nâng cấp các kỹ năng của nhân viên công ty. Những người muốn xin việc chỗ chúng tôi đều có thể vào các trang này để hiểu biết thêm về công ty". Càng có thêm những lớp học thông thường biến thành các khóa học trên mạng, càng có thêm khách hàng truy cập lấy thông tin và tự khắc phục khó khăn thay vì phải đợi nói chuyện với nhân viên của hãng, thì Cisco càng thu hút thêm nhiêù khách hàng và hoạt động với chi phí thấp hơn trước nhiều."

Quả như vậy, Cohen nói, "Chúng tôi đã cải cách chế độ thưởng nhân viên trong hãng bằng cách giao chỉ tiêu là mỗi trưởng phòng phải chứng minh rằng mỗi năm, họ phục vụ nhiều khách hàng hơn với số lượng nhân viên ít hơn trước - và cách duy nhất để làm điều đó, chính là tận dụng Internet. Ngày nay, khoảng 80 phần trăm thắc mắc của khách hàng và các nhà cugn cấp được giải đáp qua mạng. Do vậy, chúng tôi thu hút được nhiều thương vụ hơn, với số nhân viên hỗ trợ kỹ thuật giảm đi. Thêm nữa, đa số những bạn hàng của Cisco giao dịch với hãng qua Internet. Nếu quý vị muốn bán những mặt hàng đơn giản như giấy vệ sinh hay máy tính, quý vị phải có danh mục mặt hàng, catalogues cập nhật trong trang mạng thu mua của chúng tôi và chỉ một cú nháy chuột, chúng tôi có thể so sánh giá cả và bấm một nút nữa chúng tôi có thể đặt hàng. Chúng tôi không mang vác catalogue như trước kia nữa, vì không dùng đến giấy tờ. Quý vị không thể liên lạc với tôi trên giấy trắng mực đen nữa."

Một khi một công ty đã tiến hành áp dụng chiến lược Internet, nhóm của Cohen sẽ xây dựng một loạt các thử nghiệm kiểm tra chất lượng. Ông ta gọi đó là "thí nghiệm xác định thành phần Cholesterol của thương mại điện tử," - đo đếm khả năng ứng dụng mạng của doanh nghiệp đó. "Sau đó một năm, chúng tôi sẽ đo những thay đổi trong cấu trúc hoạt động của doanh nghiệp." ông nói. "Ví dụ, hiệu suất lao động của mỗi nhân viên tăng bao nhiêu? Đối với Cisco, chúng tôi tính được và đã tiết kiệm khoảng 1,5 tỷ đô-la trong thời gian 1996-99 thông qua phương pháp đưa mọi dịch vụ lên Internet. Đánh giá của khách hàng về chuyện cải tiến dịch vụ ra sao? Khách hàng có nhận thấy rằng họ giao dịch với công ty qua Internet thương xuyên hơn và họ thích hơn không? Công ty có khả năng giảm chi phí vận chuyển hàng và vật liệu do đã công khai hóa thông tin với khách hàng và các nhà cung cấp vật tư? Liệu Internet đã giúp khách hàng đặt hàng dễ hơn và nhờ đó, cùng một khách hàng nhưng đã đặt hàng nhiều hơn? Nhân viên bán hàng tăng năng suất bao nhiêu? Và sau cùng, nhân viên công ty cải thiện đời sống và trị giá của công ty tăng bao nhiêu? Thị trường đánh giá chất lượng công ty thay đổi do ứng dụng chiến lược Internet như thế nào?"

Nói một cách khác, thị trường đánh giá ra sao về chiến lược phát triển phòng chống hậu quả của việc bức tường Berlin sụp đổ ra sao?

Nói đơn giản hơn, cố gắng tồn tại trong thời hậu tường Berlin chính là điều mà chí phủ Trung Quốc đang thực thi, thông qua các cuộc bầu cử cấp làng bản, dẫu cho phân nửa số lượng chỉ mang tính hình thức. Bắc Kinh cũng đang cố bàn giao trách nhiệm và quyền quyết định xuống cấp địa phương bởi họ đã hiểu rằng đó là cách duy nhất để giải quyết những vấn nạn kinh tế ở vùng nông thôn, Họ muốn dân bản làng tự bầu ra người của họ và đưa ra những quyết định thiết thân với họ. Lãnh đạo Trung Quốc hy vọng tuyển cử ở địa phương cho ra đời được tầng lớp lãnh đạo tốt hơn, những người hiểu biết hơn về thực trạng nông thôn, và có thể tận dụng nguồn lục tại chỗ, để lý tưởng nhất là tự xây dựng thành công kinh tế nông thôn. Đó là phương pháp tản quyền và phân chia trách nhiệm vạch chính sách trong lĩnh vực kinh tế, chứ không phải trong lĩnh vực chính trị.

Tổ chức bầu cử địa phương sẽ không đủ để khiến kinh tế Trung Quốc phát triển theo tốc độ chính phủ nước này mong muốn. Họ cần xúc tiến nhiều hơn các bước tản quyền. Nhưng tôi chắc rằng đó là những bước cần thiết ban đầu, những người dân bản tôi gặp cũng tin như vậy.

Và hình như tôi chưa nói cho bạn hay ai là người đã thắng trong cuộc bầu cử ở làng Gujialingzi nói ở đầu chương sách này. Chúng tôi đã ngồi chờ hàng tiếng đồng hồ, chờ kiểm phiếu trong một trường học. Tôi không bao giờ quên hình ảnh những nông dân chen chúc ngoài cửa, nhìn qua cửa sổ và quan sát kết quả kiểm phiếu viết bằng phấn trắng trên bảng đen. Dù được phái nữ ủng hộ, Liu Fu, ứng cử viên mới, đã thua, bị người cựu trưởng bản đánh bại. Nhiều người trong số phóng viên chúng tôi sau đó đã hỏi chuyện Liu Fu. Ông ta nói ông buồn vì đã thất bại nhưng ông đã từng chứng kiến nhiều chuyện tệ hại hơn nhiều. Tệ hại hơn rất nhiều. Trong thời Cách mạng Văn hóa ông đã từng bị đấu tố, nhưng giờ đây, sau 20 năm, ông được quyền tranh cử chức trưởng bản. Được hỏi, trong Cách mạng Văn hóa, ông có chịu tuyệt vọng không, Liu Fu trả lời bằng một ngạn ngữ Trung Hoa: "Một bàn tay sao che lấp được mặt trời".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 21-3-2013 17:49:26 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6
Chiếc áo nịt vàng

"Một hai năm nữa, chúng tôi vẫn còn bị ràng buộc nhiều lắm. Chính phủ mới sẽ phải hết sức cẩn thận".

- Umar Juoro, Cố vấn kinh tế của cựu Thủ tướng Indonesia, B. J. Habibie, miêu tả cho báo The New York Times những hạn chế về kinh tế mà chính phủ Indonesia phải tuân thủ, vì nếu nóng vội làm gì đấy, Indonesia sẽ bị IMF và thị trường toàn cầu hóa bóp nát. Tháng 10 năm 1999.


Trong chuyến đi quan sát bầu cử ở Trung Quốc lần đó, tôi cùng người phiên dịch đi lang thang trong làng Heng Dao và ghé vào thăm nhà một người nông dân đã chuyển làm thợ máy cơ khí. Anh này nuôi ngỗng và lợn ở đằng trước nhà, nhưng trong nhà thì sắm đủ dàn stereo và TV màu. Phiên dịch của tôi, một sinh viên lúc đó đang theo học ở Hoa Kỳ phát hiện ra một điều mà tôi không thấy được - không thấy cái loa công cộng nào gần đấy. Dưới thời Mao Trạch Đông, chính quyền mắc loa vào tận gia đình thuộc các "công xã" (tên đơn vị hành chính thời đó), để tuyên truyền và hướng dẫn chủ trương. Chúng tôi hỏi anh nông dân thế loa cất đi đâu hết rồi?

"Năm ngoái chúng tôi gỡ hết xuống rồi", anh này nói. "Không ai muốn nghe từ những cái loa này nữa. Giờ chúng tôi có dàn máy stereo và TV". Điều người nông dân này không nói ra, đó là việc người dân không cần phải nghe những tuyên truyền của Bắc Kinh nữa. Anh ta biết những tuyên truyền đó rồi. Chúng cũng không phải là những lời dạy của Mao Chủ tịch, mà có nội dung đơn giản hơn nhiều: "Hãy tự thân vận động. Kiếm việc làm. Gửi tiền cho gia đình".

Trước đó vài tháng, tôi ở Thái Lan, quan sát một nền kinh tế tư bản theo lối bè cánh đang suy sụp. Tôi thu xếp để phỏng vấn Sirivat Voravetvuthikun, một tay kinh doanh xây dựng địa ốc bị khánh tận trong thời gian Thái Lan chịu khủng hoảng tài chính. Anh và vợ đã trở thành biểu trưng của hậu quả của khủng hoảng Thái Lan - họ phải xin đi bán bánh mì kẹp thịt để sống qua ngày. Từ chỗ giàu có, nay hai vợ chồng phải đi thuê một chỗ trong trung tâm Bangkok, cùng với những người làm cũ của họ dựng một cơ sở bán bánh mì kẹp thịt và giao hàng trên đường phố. Sirivat đến chỗ tôi cổ đeo một hộp đựng thức ăn mà vàng giống như một tay bán rong ở một sân vận động ở Mỹ. Điều tôi nhớ nhất trong buổi phỏng vấn là anh ta không lộ vẻ cay đắng hay tuyệt vọng. Anh nói đất nước Thái Lan đã tự làm hỏng việc. Ai cũng biết thế. Dân chúng giờ đây phải thắt lưng buộc bụng chịu đựng, tiếp tục chương trình và không còn nhiều điều để nói. Tôi hỏi anh ta đã có lúc nào giận dữ hay không? Có lúc nào muốn đốt công sở của chính phủ không, khi thấy tài sản của mình bị mất mát?

Không, Sirivat giải thích: "Chúng tôi không muốn quay về sống nơi rừng rú, ai cũng muốn có đời sống khá hơn, vậy ai cũng phải làm sao để chủ nghĩa tư bản có hiệu quả, không còn con đường nào khác. Chúng tôi phải tự cải thiện và tuân theo quy luật của thế giới... Chỉ có những người biết cạnh tranh mới tồn tại được. Hiện nay có thể phải cẩn đến một chính phủ đoàn kết quốc gia vì gánh nặng của mọi người thật là lớn".

Vài tháng sau đó tôi đến dự một buổi thuyết trình tại Washington của Anatoly Chubais, công trình sư của những cuộc cải cách kinh tế và tư nhân hóa của nước Nga mà nay đã thất bại. Chubais sang Hoa Kỳ để kêu gọi lần cuối cùng những trợ giúp tài chính của IMF sang Nga; trong khi đó hạ viện, Viện Duma của nước này, trong đó phần đông là các dân biểu cộng sản, tiếp tục tự sửa lại những điều kiện mà IMF đặt ra khi cho nước Nga vay tiền. Viện Duma thường chụp cho Chubais cái mũ phản quốc và tay sai của nước ngoài do việc ông ta thúc giục đất nước cải tổ sâu sát hơn về kinh tế và định hướng theo thị trường tự do. Tôi hỏi Chubais ông đáp lại những lời chỉ trích đó ra sao và ông trả lời: "OK", tôi nói với họ, "Chubais là một điệp viên của CIA và IMF. Nhưng quý vị có cách nào khác không? Các vị có sáng kiến gì mới không?" Với câu hỏi đó, Chubais nói, chưa bao giờ ông ta nhận được câu trả lời nào cho đàng hoàng vì những người cộng sản không nghĩ ra được điều gì khả dĩ hơn.

Vài tháng sau đó tôi sang Brazil. Ở đó tôi phỏng vấn Fabio Feldmann, một cựu Bộ trưởng Môi trường của vùng Sao Paulo, Dân biểu Quốc hội Brazil, lúc đó đang vận động tranh cử để trở lại vị trí cũ của ông ở Sao Paulo. Văn phòng của ông ta lúc đó có rất đông các nhân viên vận động tranh cử, đầy các bích chương khẩu hiệu. Feldmann là người cấp tiến. Tôi hỏi ông ta về bản chất của các tranh cãi chính trị ở nước này hiện tại là gì. Ông ta nói: "Những người cánh tả [duy ý chí] ở Brazil đang bế tắc. Thách thức đối với chính quyền liên bang là tìm thêm công ăn việc làm cho dân chúng. Quý vị phải đồng thời tạo ra và phân phối nguồn thu nhập trong dân chúng. Thế nhưng những người cánh tả đưa ra được chương trình gì mới? Không thấy họ đề nghị làm thế nào để tạo ra thu nhập, mà chỉ thấy họ muốn phân phối thu nhập ".

Những câu chuyện trên nói với chúng ta điều gì? Một khi ba quá trình dân chủ hóa đồng thời xuất hiện vào cuối những năm 80, thổi bay những bức tường, chúng cũng thổi bay những lựa chọn mang tính duy ý chí vốn dĩ được dùng để thay thế chủ nghĩa tư bản và thị trường tự do. Người ta nói đến những mô hình thay thế cho thị trường tự do và nhất thể hóa toàn cầu, người ta từng đòi hỏi phải có cải tổ, và rằng cần phải có "con đường thứ ba", nhưng giờ đây không thấy những điều đó là khả dĩ. Giờ đây ta thấy rõ sự phân biệt giữa trào lưu ngày nay so với công cuộc toàn cầu hóa lần thức nhất. Vào thế kỷ 19 cho tới đầu thế kỷ 20 khi cuộc cách mạng công nghiệp và tư bản tài chính hoành hành ở châu Âu và châu Mỹ, nhiều người đã bị sốc khi nghe về cái gọi là sự tàn bạo của chủ nghĩa Darwin và "những cối xay gió của quỷ Satan". Những thế lực đó phá vỡ những trật tự truyền thống, tăng rõ rệt khoảng cách giàu nghèo và dồn nén lên con người biết bao áp lực. Nhưng chúng cũng giúp tăng đến mức chóng mặt mức sống của một tầng lớp đã biết tận dụng thế mạnh của máy móc và công cụ tài chính. Thực tế lúc đó làm sản sinh ra nhiều tranh cãi và học thuyết, vì người ta muốn tạo những tấm đệm bảo vệ giới thợ thuyền trước những con quỷ tư bản và thị trường tự do. Như Karl Marx và Friedrich Engels đã miêu tả tình cảnh thời đó trong Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản: "Cách mạng hóa thường xuyên trong sản xuất, động chạm thường xuyên tới điều kiện xã hội, xuất hiện bất ổn vĩnh viễn và sự gây rối, tất cả giúp phân biệt cho thấy những đặc điểm của giai cấp tư sản thời mới. Những quan hệ truyền thống với định kiến và tư duy cũ kỹ hay đáng tôn kính đều bị quét sạch. Những luồng tư duy mới vừa được sản sinh sẽ nhanh chóng mòn mỏi, thậm chí hóa thạch. Những gì trước đây vững chác nay bị nung chảy, những gì trước đây là thiêng liêng, nay bị tầm thường hóa, và con người đến lúc đã được đánh thức để nhận thức một cách thực tế hơn về giá trị cuộc sống và những mối quan hệ trong nhân loại".

Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc - cùng với sự rạn vỡ của những bức tường bảo vệ nó - những người xưa nay không thích thú gì với mô hình Darwin mà họ cho là tàn bạo, đã không đưa ra được bất cứ lý thuyết nào mới để thay thế cho lý thuyết thị trường tự do. Khi câu hỏi, "hệ thống nào ngày nay là hữu hiệu nhất trong việc tăng cường mức sống?" được đặt ra thì không thấy ai còn bàn cãi ra nữa. Vì câu trả lời duy nhất cho điều đó là: chủ nghĩa tư bản trên nền tảng thị trường tự do. Những hệ thống khác có lẽ đã hữu hiệu hơn trong việc phân chia công bằng và hợp lý hơn các nguồn tài sản, nhưng khi so sánh với chủ nghĩa tư bản cùng thị trường tự do, thì chúng hoàn toàn thất bại trong việc tạo dựng thêm các nguồn tài sản và thu nhập mới. Và đó là điều con người ta ngày càng thấu hiểu. Vậy nói theo cách duy lý thì ngày nay không còn sự phân biệt riêng rẽ giữa bánh chocolate hay kẹo dâu hay chanh yên hay chanh cốm. Ngày nay chỉ còn món kẹo vani mang tên thị trường tự do và Bắc Triều Tiên. Ngày nay món kẹo vani mang tên thị trường tự đo có nhiều loại, nhiều nhãn hiệu, tùy sở thích của bạn, và theo đó bạn vận dụng nhanh hay chậm mà thôi. Nhưng chung cuộc thì phải chăng bao giờ bạn cũng mong cuộc sống khấm khá hơn, mong một thế giới trong đó không còn rào cản, và như vậy, thị trường tự do chính là tư duy duy nhất hiện hữu. Một con đường. Nhiều tốc độ. Nhưng vẫn duy nhất chỉ một con đường.

Một khi đất nước của bạn nhận thức ra điều đó, khi nó nhận thức được các quy luật về thị trường tự do trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay và quyết định tuân thủ, nó sẽ khoác lên mình một thức tôi tạm gọi là chiếc áo nịt vàng. Chiếc áo đó được dệt bằng loại sợi mang đặc điểm kinh tế và chính trị của thời đại toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa có chiếc áo nịt vàng. Nếu đất nước của bạn chưa có thì trước sau cũng sẽ phải may.

Chiếc áo nịt vàng xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1979 do Thủ tướng Anh Margaret Thatcher dệt. Bà sẽ đi vào lịch sử như một trong những nhà cách mạng của nửa cuối thế kỷ 20. Chiếc áo của Thatcher sau đó được Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan cải tiến trong những năm 80, dệt thêm cho nó những loại sợi mới bền hơn. Và chiếc áo phản ánh thời trang của sự kết thúc Chiến tranh Lạnh, một khi ba cuộc dân chủ hóa thổi bay những thứ thời trang khác và những hàng rào bảo hộ chúng. Những cuộc cách mạng do Thatcher và Reagan tạo dựng xuất hiện khi đa số dân chúng trong hai nền kinh tế chủ yếu của phương Tây (Anh và Mỹ) kết luận rằng sự chỉ đạo trực tiếp nền kinh tế của chính phủ không còn có thể đảm bảo tăng trưởng hữu hiệu nữa. Thatcher và Reagan đã kết hợp, vứt bỏ đi nhiều phần chủ chốt của quyền lực quản lý kinh tế trực tiếp của nhà nước thuộc trường phái Xã hội Lớn và nền kinh tế Keynes, và trao quyền quyết định cho thị trường tự do.

Để mang chiếc áo đó, một đất nước phải tuân theo, hoặc tỏ ra sẵn sàng tuân theo những luật lệ vàng sau đây: tăng cường khu vực tư nhân thành đầu tàu để tăng trưởng kinh tế, duy trì mức lạm phát thấp, duy trì giá cả ổn định và giảm biên chế, giảm nhẹ bộ máy quan liêu của nhà nước, cân đối ngân sách dẫu không duy trì được thặng dư, thủ tiêu hoặc giảm hàng rào nhập khẩu, bỏ bớt hạn chế đối với đầu tư nước ngoài, bỏ chế độ quota và độc quyền của các ngành nội địa, tăng xuất khẩu, tư nhân hóa khu vực kinh doanh của nhà nước, thả nổi thị trường tài chính, khiến đồng nội tệ được phép hoán chuyển thành ngoại tệ, mở cửa các ngành công nghiệp, thị trường chứng khoán và cổ phần cho nước ngoài sở hữu và đầu tư trực tiếp, thả nổi kinh tế nội địa cho phép cạnh tranh, xóa bỏ tham nhũng, móc ngoặc và bao cấp trong chính phủ, mở cửa hệ thống thông tin và ngân hàng cho khu vực tư nhân vào cạnh tranh và cho phép dân chúng của họ được tự do đầu tư với đồng tiền hưu bổng của họ ở trong nước cũng như ngoài nước. Tất cả những yếu tối trên dệt thành chiếc áo nịt vàng.

Hơi đáng tiếc là chiếc áo đó chỉ có một cỡ. Nên nó sẽ gây khó chịu đối với một số nhóm nhất định trong xã hội và khiến toàn bộ xã hội phải chịu áp lực thường xuyên giảm thiểu cơ cấu kinh tế và tăng hiệu quả hoạt động. Nó nhanh chóng bỏ rơi người ta nếu họ không mang áo, nhưng nó cũng nhanh chóng giúp con người theo kịp đà phát triển, nếu họ chịu đựng mang cho đúng cách. Người ta không còn có thể õng ẹo lựa chọn nên mặc áo cho đẹp, cho ấm hay cho vừa - thời trang năm nay chỉ còn có một chiếc áo đó thôi.

Một khi đất nước của bạn mặc chiếc áo đó lên người thì có hai điều có có khuynh hướng xảy ra: kinh tế tăng tiến và chính trị xẹp đi. Có nghĩa là về kinh tế, chiếc áo nịt vàng giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân trong dân chúng - thông qua thương mại, đầu tư nước ngoài, tư nhân hóa và việc sử dụng hữu hiệu hơn tài nguyên vật lực của đất nước trước bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Nhưng về mặt chính trị, chiếc áo này thu hẹp khả năng lựa chọn, hạn chế và kiểm soát về chính trị và hoạch định chính sách kinh tế của nhà cầm quyền. Chính vì thế ngày nay rất khó phân biệt được sự khác biết trong chính sách của chính phủ và phái đối lập đưa ra ở những quốc gia đã mặc chiếc áo nịt. Một khi mặc chiếc áo đó lên, chính phủ ở đất nước của bạn chỉ có thể lựa chọn giữa Pepsi và Coca Cola khi hoạch định về chính trị - có thể có chút ít khác biệt trong những khía cạnh nhỏ nhoi, hình thức, một chút đáp ứng truyền thống và văn hóa địa phương... nhưng không bao giờ họ đi ngược hay phủ định được các nguyên lý bằng vàng nói trên. Đối với các chính phủ dù có thuộc những người theo phái dân chủ hay cộng hòa, bảo thủ hay công đảng, phái de Gaulle hay chủ nghĩa xã hội, dân chủ thiên chúa giáo hay dân chủ xã hội - nếu họ không tuân thủ những nguyên tắc chung về quản lý thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ rút vốn và ra đi, lãi suất sẽ tăng và trị giá chứng khoán của đất nước sẽ sụt xuống. Các duy nhất để cử động trong chiếc áo nịt là làm thế nào cho nó giãn ra, và cách duy nhất làm nó giãn ra là người mặc phải lên cân, to béo hơn. Một khi kích cỡ người mặc lớn lên thì số vàng trên chiếc áo sẽ được sản ra nhiều hơn cho xã hội.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách