Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kinh Tế - Xuất Bản] Chiếc Lexus Và Cây Ô Liu | Thomas L. Friedman (HOÀN)

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 23-3-2013 19:26:15 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8
(tiếp theo)

Những gì diễn ra ở Đông Nam Á ngày nay tương tự như sự hình thành các cấu hình bên ngoài của các hệ thống tài chính phương Tây, trong nhiều trường hợp đó là sự học vẹt. Họ thiếu một yếu tố nội tại - thành phần chủ chốt của một hệ điều hành. Đó là cảm giác và tri thức cơ bản về cách thức những thị trường tự do và cùng với nó - một xã hội dựa trên thị trường tự do - hoạt động ra sao. Những xã hội và thị trường tự do không hoạt động theo ý muốn của bất cứ cá nhân hay nhóm cá nhân nào - mà theo quy luật giá trị chỉ thuộc về thị trường tự do. Những tập đoàn kinh doanh Hàn Quốc, gọi là chaebol, trước đây đáng lẽ sẽ không tài nào tạo ra các tỷ lệ nợ trên vốn sở hữu khổng lồ, nếu họ không có những quan hệ thân quen với các quan chức chính phủ, những người cũng muốn tham gia chấm mút tí chút. Những khoản tín dụng lớn đã giúp chaelbol lớn mạnh nhanh chóng, nhưng rồi sau đó, đã gục ngã.

Cựu Thủ tướng Hàn Quốc Lee Hong Koo kể cho tôi rằng phải mất nhiều năm thì chính phủ của ông ta mới hiểu ra điều đó: "Năm 1995, tôi là Thủ tướng khi Hàn Quốc được gia nhập Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và thu nhập bình quân đầu người là 10.000 đô-la hằng năm, chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi đã đến đích. Chúng tôi cho rằng chúng tôi đã tốt nghiệp phổ thông hạng ưu và trở thành sinh viên đại học. Nhưng những chuẩn mực cần có ở một giai đoạn khi lên giai đoạn tiếp thì phải khác đi. Chúng tôi đã không nhận thức được bộ máy quan liêu cồng kềnh mà chúng tôi đã rất tự hào, thay vì là một động lực tích cực đã trở thành chướng ngại to lớn. Chúng tôi đã sống với một công thức: sản xuất hàng loạt cộng xuất khẩu bằng tăng trưởng và thành công. Chúng tôi đã học được điều này là sai lầm trong cuộc khủng hoảng những năm 90, nhưng học phí phải trả cao quá. Chúng tôi nhận thấy tư bản nay đang nắm quyền kiểm soát. Trong những năm 90 đã xuất hiện một trào lưu toàn cầu hóa các nguồn vốn, nhưng chúng tôi đã không sửa sang và chuẩn bị cho các thể chế chính phủ và nhà nước để ứng phó kịp thời với thị trường vốn toàn cầu. Chúng tôi không có đủ các cơ chế thích hợp để đối phó. Chúng tôi không có khả năng đề phòng. Chúng tôi đối xử với các ngân hàng như thể chúng là một tổ chức dịch vụ xã hội, một nhánh của chính phủ. Chúng tôi đã cho rằng tiền không phải để làm ra tiền. Chúng tôi chỉ nghĩ tiền sinh ra từ sản xuất và chức năng của ngân hàng là xúc tiến tăng trưởng, vậy ngân hàng chỉ là một phần của bộ máy quan liêu của nhà nước. Chúng tôi đã không hiểu rằng ngân hàng và sự chuyển dịch vốn chính là trái tim của nền kinh tế thời mới, và chúng cần phải được cải tổ."

Kinh tế gia của Đại học havard Dani Rodrik đã chứng minh trong nghiên cứu của ông ta rằng "vấn đề quan trọng không phải là toàn cầu hóa hay không mà toàn cầu hóa như thế nào. "Các nước đã xây dựng cho mình các hạ tầng tài chính và luật pháp chi tiết, trung thực và đáng tin cậy đã đạt những vị thế vững vàng để có khả năng phòng thủ trước sức tấn công của nạn đầu cơ tiền tệ, phá hoại đồng nội tệ của họ. Họ có thể đứng vững khi phải đối phó với việc bầy thú gấp gáp rút vốn. Họ có khả năng nhanh chóng hàn gắn các vết thương và chấn động kinh tế do việc rút vốn gây ra. Nhưng cũng có một số ngoại lệ. Một đất nước có hệ điều hành và phần mềm đúng đắn cũng có thể gặp khó khăn - trường hợp Thụy Điển hồi năm 1992 hay Hoa Kỳ khi gặp phải những trục trặc về đầu tư và các khoản vay trong nước chẳng hạn. Nhưng cả Thụy Điển lẫn Hoa Kỳ đều đã phục hồi nhanh chóng nhờ có những hệ điều hành và phần mềm chất lượng cao. Alan Greenspan trong nhiều phát biểu của ông đã nói rằng những quốc gia có hệ điều hành và phần mềm tiên tiến "thường có khả năng chống lại những cuộc tấn công của giới đầu cơ tiền tệ vì những hệ thống tài chính của họ được xây dựng chắc chắn nhưng uyển chuyển để đối phó với những cơn rút vốn nhanh chóng và quy mô lớn và thông qua các chính sách hữu hiệu, tổ chức được những cuộc phản công."

Với những lý do kể trên hiện đang xuất hiện những nhận thức mới trong hàng ngũ lãnh đạo các nước đang phát triển, cho rằng điều họ cần hiện nay không đơn thuần là những thị trường mới nổi, mà phải thêm "một xã hội mới (nổi)", thối lối nói của Đại sứ Mỹ tại Hunggary Donald Blinken. Không thể tư nhân hóa một nền kinh tế trong một khoảng trống quyền lực chính phủ và xã hội. "Nếu đặt thị trường lên trên xã hội", Blinken nói, "thì chắc chắn sẽ dẫn đến sai lầm và thất vọng".

Vì thế điều thiết yếu là cả các nhà đầu tư lẫn các chính trị gia phải mở rộng tầm nhìn trong cách họ định nghĩa thế nào là một thị trường mới nổi, bằng cách xem xét các yếu tố thiết lập nên một xã hội mới. Hồi tưởng lại, sai lầm lớn nhất mà thế giới gây cho nước Nga, khi nó thế chỗ Liên Xô, là đã cho rằng việc Nga quá độ sang hệ thống toàn cầu chỉ mang đặc tính "tài chính", và đã để cho duy nhất IMF đứng ra giúp đỡ - cải tổ chỉ gói trọng trong việc cho phép thị trường tự do quyết định các mức giá cả của hàng hóa và nhiều lĩnh vực khác.

Chủ tịch Ngân hàn gThế giới James Wolfensohn đã đề nghị phải điều chỉnh các phương pháp đánh giá các quốc gia, từ mức chỉ chú trọng vào các thông số tài chính - GDP, GNPO, thu nhập bình quân đầu người - sang việc "thiết lập một công thức kế toán mới" đo đếm tiềm lự của một đất nước thông qua tiềm lực và khả năng của xã hội trong đất nước đó. Các nước cần được xếp hạng thông qua các tiêu chuẩn chất lượng quản lý, hệ thống tư pháp, thủ tục giải quyết khiếu kiện, mạng lưới phúc lợi xã hội, pháp quyền và các hệ thống quản lý kinh tế.

Cái gọi là những cuộc cải cách "thế hệ thứ hai" để hình thành một xã hội mới, đòi hỏi mức độ kiên nhẫn và tính cần cù cao. "Thời trước", một viên chức Ngân hàng Thế giới nói với tôi, "bạn đến một đất nước đang phát triển, vào gặp Thống đốc Ngân hàng trung ương của họ và đưa ra một lời khuyên đơn giản: "đừng có in nhiều tiền đến thế". Sau đó sang gặp Bộ trưởng Tài chính và nói, "đừng có gây thâm hụt ngân sách đến thế, để ngân hàng có thể ngưng in ấn tiền mặt". Nói cách khác, bạn chỉ cần đến gặp hai người, đưa ra hai lời khuyên. Ngày nay, chúng tôi hiểu là cần phải làm hơn như vậy." Để thực hiện những cải tổ thế hệ hai - đưa một đất nước từ chỗ là một thị trường mới sang thành một xã hội mới - bạn cần sự đóng góp của nhiều nhân tố, và cần sự đồng thuận rộng rãi hơn nhiều về mặt chính trị.

Nhìn nước Mỹ, người ta nhận xét rằng đó là một cỗ maý do các thiên tài thiết kế để thậm chí những ngu ngốc cũng có thể điều hành. Điều ngày nay các nước đang phát triển cần Mỹ giúp đỡ không phải là viện trợ. Mà là kiến thức, để hiểu về nguồn gốc thực sự của sự thịnh vượng của Mỹ; sự kết hợp giữa một hệ điều hành đúng đắn - các thị trường tự do - cộng với các loại phần mềm thích hợp, cơ cấu và sự đồng thuận chính trị đặng có thể bảo vệ tài sản và sáng tạo, đảm bảo một sân chơi công bằng trong đó những kẻ làm ăn có lãi thường sẽ thắng cuộc, và thiết lập những hệ thống an sinh xã hội để hứng đỡ và giúp những người phải chịu thua thiệt.

Trong khi có nhiều loại kiến trúc sư phương Tây bàn bạc về việc thiết lập một ngân hàng toàn cầu và những định chế quản lý toàn cầu để kiểm soát Bầy Thú Điện Tử, thì lãnh đạo các nước đang phát triển đang dần hiểu ra rằng những thứ đó sẽ không giúp gì cho họ nếu họ không có được các chính quyền địa phương chất lượng cao. Họ sẽ bất lực nếu không có luật ngân hàng và nền lập pháp để xây dựng luật, các nhà hành pháp và cơ cấu pháp chế để thực thi luật và các toà án để xử án cho đúng luật. Họ cần phải chú trọng để tự mình xây dựng các nền móng đó chứ không chỉ ngồi chờ giải pháp từ một thứ chính quyền toàn cầu. Trong khi các nhà thông thái ở phương Tây chưa kịp nhận ra, thì các quốc gia, vốn trải qua cuộc khủng hoản gkinh tế những năm 90, đã nhận thức sâu sắc về điều này.

"Nhiều tiếng nói, nhiều tiếng hô lớn, vang lên, cho rằng hội nhập đã diễn ra quá nhanh và quá mức - đặc biệt trên các thị trường tài chính", Tổng thống MexicoErnesto Zedillo nói với tôi hồi mùa Đông 1997. "Không. Tôi thì tôi tin vào điều ngược lại. Toàn cầu hóa mang đến những thách thức mới nhưng cũng cho chúng ta nhiều cơ hội tốt đẹp. Việc tư bản di chuyển nhanh có thể gây hiểm họa, nhưng bằng cách vào đó mà nói rằng chúng ta cần kiểm soát chúng, thì thật hoàn toàn sai lầm". Tất nhiên, ông ta nói, chúng ta cần một IMF mạnh để cứu giúp trong những cơn nguy cấp và baó động về những lệch lạc ở các quốc gia hay ở các công ty. Nhưng rốt cuộc, Tổng thống Zedillo nói, "những khoản tài chính lớn sẽ được rót vào một hệ thống tài chính nội địa, hoặc trở thành nguồn hỗ trợ các ngân hàng nội địa". Vậy điều kiện tiên quyết, ông nóithêm, là bạn có tổ chức được những bộ máy chính trị và tài chính để điều hành toàn bộ các khâu hoạt động đó hay không.

Trong Chiến tranh Lạnh các quốc gia không quan tâm nhiều đến đặc tính của các hệ điều hành hay của các phần mềm mà hàng xóm của họ sử dụng, vì giữa họ vớ nhau đã không thấy nhiều mức độ hội nhập. Ngày nay trong toàn cầu hóa Bầy Thú Điện Tử có thể nhanh chóng hơn nhiều trong việc lan truyền bất ổn và ảnh hưởng xấu từ nước này sang nước khác. Học thuyết Domino ngày nay được ứng dụng trong lĩnh vực tài chính là chủ yếu, thay vì chính trị.

Chính vì thế người ta có chút lo lắng khi nghe về "sự phục hồi" của những nền kinh tế Á châu sau giai đoạn 1997-98. Phục hồi không phải do những nước đó đã tiến hành cải cách để nâng cấp hệ điều hành của họ từ DOScapital 1.0 lên 6.0. Trong nhiều trường hợp, do những đồng nội tệ của những nước này đã trở nên có giá trị rẻ mạt khiến họ hưởng lợi khi xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Hoa Kỳ, một thị trường có như cầu nhập khẩu cao, đặc biệt các mặt hàng điện tử và máy tính, từ Đông Á.

Tạp chí Phố Wall (số ngaỳ 28/10/1999) đã đăng bài về Rini Soewandi, người Indonesia, được bổ nhiệm đứng đầu hãng lắp ráp xe hơi Astra International - một công ty suýt bị xóa sổ trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế Á châu. Người phụ nữ này đã nêu rõ những nhận thức trong giớ kinh doanh Á châu về những cải tổ cần có để phát triển, nhưng cũng nói rõ về những khó khăn khi thực hiện những cải tổ đó.

"Tôi là người theo trường phái Hoa Kỳ trong kinh doanh, nhưng trong thâm tâm, tôi là một người Java", cô Soewandi, 41 tuổi, cho biết. Bài báo của tờ tạp chí nói tiếp: "Cô Soewandi đang thực hiện một bước nhảy vọt, cố gắng cải tổ tận cốt lõi hoạt động kinh doanh cũa hãng Astra, một trong những công ty lớn nhất và lâu đời nhất ở Đông Nam Á. Công muốn biến công ty này từ chỗ là một tập đoàn theo lối câu lạc bộ trở thành nhữn tập đoàn kinh doanh theo lối Mỹ có cổ phần phát hành công cộng.. Cuộc cải tổ Astra đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc tranh đấu mới ở Đông Nam Á thời sau khủng hoảng. Sau khủng hoảng, nhiều công ty ở vùng này đã mở mắt và cố gắng giải đáp bài toán: làm thế nào để tồn tại lâu dài trong một thị trường mới mẻ. Nhiều công ty đã làm ngơ trước bài toán này, họ cho rằng sự phục hồi sau khủng hoảng đối với họ thế là đủ. Nhưng Astra đã đứng ra đương đầu với bài toán đó và tiến hành cải cách tư duy kinh doanh - chuyển từ tình trạng hoang phí sang thực thi nguyên tắc minh bạcg, từ cơ cấu tập đoàn khỏe mẽ sang thành một thực thể năng động, tận dụng các cơ hội trên thị trường. "Chúng tôi phải chạy đưa với thời gian", cô Soewandi nói, "chúng tôi phải làm hai việc lớn trong cùng một lúc - tồn tại sau khủng hoảng và sáng tạo một mô hình kinh doanh toàn toàn mới để hướng đến tương lai. Đối với một công ty thì làm một việc cũng đã là khó, huống gì cả hai".

Trong khi thế giới rõ ràng mong muốn được thấy các đối tác Á châu của họ quản lý môi trường kinh tế nội địa, thì Hoa Kỳ và các nước khác ngày càng có ít đi khả năng đứng ra giúp đỡ họ trong việc xây dựng các phần mềm thích ứng. Á chây phải tự gánh vác công việc của họ. Ngoại trưởng Hoa Kỳ thường qua lại các nước bằng máy bay như con toi, nhưng để xây dựng các phần mềm trong đất nước của bạn, thì bạn phải chạy đi chạy lại như con thoi, đôn đáo, trên một chiếc xe taxi - chạy từ Bộ Tư pháp sang thị trường chứng khoán, sang Bộ Thương mại rồi đến trụ sở của các công ty. Đó là những nhiệm vụ nhỏ, liên quan đến từng chi tiết của nền chính trị hoặc ngoại giao của mỗi đất nước mà có lẽ các nhà ngoại giao ở đó xưa nay chưa từng làm.

Cung cách thực hiện cải cách sẽ ra sao? Trong điều kiện hoàn hảo thì mỗi một xã hội cần phải tự xây dựng và vận hành bằng các cơ chế phần mềm trước đã, trước khi kết nối với Bầy Thú Điện Tử. Nhưng đó chỉ là điều trong mơ. Quá trình kết nối ngày nay mang tính hỗn loạn hơn nhiều - hai bước tiến rồi một bước lùi. Chúng ta đều biết rằng đó là một quá trình trong đó các nước như Nga, Brazil hay Thái Lan, kết nối chút ít với bầy thú, rồi hành hạ chúng một chút, rồi ngược lại, chịu bị chúng cấu xé, cả hai bên học một vài bài học, cùng cải tổ, lại móc nối, lại hành hạ, thiết lập một quá trình mới để tiến lên, với hy vọng cả hai bên ngày một không hơn. Đây sẽ là cả một quá trình tiếp thụ kiến thức kéo dài - có thể mất cả thời gian của một thế hệ như ở nước Nga - và quá trình này sẽ bao trùm toàn bộ các diễn biến trong các nền chính trị nội địa và các quan hệ quốc tế trong toàn cầu hóa.

Trong quá trình biện chứng đó, các siêu thị tài chính và Bầy Thú Điện Tử có thể nắm vai trò quan trọng hơn so với vai trò siêu cường của nước Mỹ trong việc thúc đẩy các cải cách chính trị. Thật lý tưởng nếu mỗi một phong trào dân chủ đều được một người hùng như Andrei Sakharov chỉ đạo. Cũng thật lý tưởng nếu mỗi một đất nước đều được một người như James Madison dẫn dắt tới một chế độ pháp quyền. Nhưng trong thực tế hiện nay, động cơ dẫn dắt công cuộc cải tổ có thể nằm trong tay các tổ chức tài chính như Merril Lynch. Chương tiếp theo sẽ giải thích về điều này.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 24-3-2013 17:17:27 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9
CÁCH MẠNG TOÀN CẦU

Câu chuyện thứ nhất: Mùa đông 1998 tôi đến phỏng vấn Thủ tướng Thái Lan, ông Chuan Leekpai. Nửa đùa nửa thật tôi bắt đầu cuộc phỏng vấn bằng cách nhìn ông ta ở đầu bàn bên kia và nói: "Thưa ông Thủ tướng, tôi xin thú thật một điều. Tôi là người đã giúp vào việc lật đổ người tiền nhiệm của ông - nhưng thậm chí tôi cũng không biết tên ông ta là gì. Lúc đó tôi ngồi trong tầng hầm nhà tôi, theo dõi trên màn hình thấy giá trị đồng baht Thái Lan đang tụt xuống (và cũng theo dõi người tiền nhiệm của ông mất dần khả năng quản lý kinh tế Thái Lan). Vậy là tôi gọi điện cho hãng môi giới tài chính, nói họ rút tiền đầu tư của tôi ra khỏi các thị trường mới nổi ở Á châu. Giờ đây tôi cũng có thể bán bản thân ông, thông qua Internet, nhưng tôi đã tham vấn công ty môi giới tài chính. Dường như tình thế giờ đây cho thấy một đô-la một lá phiếu, thưa Thủ tướng. Ông nghĩ thế nào về việc bản thân Tom Friedman là một cử tri của mình?"

Vị Thủ tướng cười, nhưng ông ấy biết ý tôi muốn nói gì: tham gia nền kinh tế toàn cầu và kết nối với Bầy Thú Điện Tử tương tự như chuyện niêm yết đất nước bạn lên thị trường chứng khoán. Tương tự như việc chuyển đất nước của bạn thành công ty cổ phần chỉ có điều cổ đông bây giờ không chỉ là công dân nước bạn. Họ là thành viên của Bầy Thú Điện Tử, cho dù họ đang sống ở đâu. Và như tôi đã nói trước đây, họ không chỉ bốn năm mới đi bỏ phiếu một lần. Họ bỏ phiếu hàng ngày hàng giờ qua quỹ tương hộ, quỹ hưu trí, qua người môi giới và ngày càng trực tiếp hơn, qua mạng Internet.

Câu chuyện thứ hai: Mùa thu 1997, tôi sang Moskva cùng một đoàn doanh nhân và học giả người Mỹ. Trong nhóm của chúng tôi có Donald Rice, cựu Giám đốc sản xuất của Teledyne, một tập đoàn kỹ thuật cao của Mỹ, nay đứng đầu một hãng công nghệ sinh học. Trong chuyến đi có lần Rice kể với tôi rằng ông ta đã bàn bạc về các cơ hội làm ăn với một thương nhân người Nga, người có mong muốn tìm một đối tác công ty Mỹ. Rice là một thương gia dày dạn kinh nghiệm, trước khi bàn tiếp, ông ta hỏi vị thương nhân người Nga một câu đơn giản: " Anh đã nộp thuế chưa?" Người Nga này lúng túng, trả lời rằng cũng không hẳn. Xin lỗi, Rice đã nói với anh ta, vì nếu anh không nộp thuế thì không có cách nào có thể hợp tác, vì công ty của Rice là công ty hùn vốn từ dân chúng, nếu một trong những đối tác chi nhánh của công ty trốn thuế , thì điều đó sẽ bị ghi lại trong sổ sách của công ty trong mùa kiểm toàn hàng năm. Vậy thì thương nhân người Nga giờ đây chỉ có duy nhất một lựa chọn. Anh ta có thể là một công dân tồi ở nước Nga, tiếp tục trốn thuế và làm ăn một mình, hoặc anh ta sẽ trở thành một công dân tốt nộp thuế và trở thành đối tác của một tập đoàn hùng mạnh, kỹ thuật cao, của Hoa Kỳ. Ngày kết nối với Bầy Thú Điện Tử, thì các quốc gia càng có thêm cơ hội để lựa chọn, như đối với thương nhân người Nga nọ - hợp tác với bầythú, tuân thủ các điều kiện của chúng, hoặc cứ tự nhiên làm ăn đơn lẻ và chấp nhận tình thế là các nguồn vốn của họ sẽ cạn dần, hết dần khả năng tiếp cận kỹ thuật và khiến mức sống của dân chúng ở đó đi xuống.

Hai câu chuyện trên minh họa rõ ràng những ảnh hưởng chồng chéo mà toàn cầu hóa gây ra đối với quá trình dân chủ hóa. Nói chung, Bầy Thú Điện Tử sẽ buộc các nước kết nối phải lắp đặt các phần mềm và hệ điều hành mới, dựng lên nền móng của các chế độ dân chủ. Đồng thời, bầy thú và những siêu thị tài chính nhanh chóng trở thành hai trong số các thế lực lớn nhất trên thế giới có khả năng can thiệp và đe dọa mạnh mẽ các quốc gia. Chúng tạo cho dân chúng một cảm giác rằng bất cứ nền dân chủ nào họ có được trong nước, bất cứ lựa chọn nào họ thực hiện trong các cuộc tuyển cử địa phương hay toàn quốc, bất cứ thế lực nào được cho rằng đang kiểm soát xã hội của họ - tất cả (những yếu tố đó) chỉ là ảo tưởng - lực lượng tối hậu quyết định đời sống chính trị của họ chính là Bầy Thú Điện Tử cùng các siêu thị tài chính rộng lớn, vô hình và được điều khiển từ xa.

Nghịch lý của toàn cầu hóa cho thấy viễn cảnh một ngày nào đó bầy thú sẽ tiến vào tỉnh lỵ của bạn, súng trong tay, đò cho được một nền pháp quyền, rồi đến hôm sau chứng lừng lững ra đi, giống như trong phim King Kong, đè bẹp những ai vướng mắc trên đường di chuyển. Một ngaỳ nào đó chúng cư xử như thời năm 1776, rồi sang hôm sau, chúng thay đổi thái độ như thời 1984. Xin giải thích cho bạn vì sao chúng có thể đồng thời làm được cả hai việc cùng một lúc.

***

Tôi xin gọi quá trình trong đó bầy thú giúp xây dựng những nền móng của dân chủ với cái tên "cuộc cách mạng từ phía trên", hay "cách mạng toàn cầu". Lần đầu tiên tôi phát hiện ra cách mạng toàn cầu là trong một chuyến sang Indonesia năm 1997 khi thời đại Suharto đang dần lụi tàn. Dùng cơm tối với Wimar Witoelar, người dẫn một chương trình truyền hình Jakarta được đông đảo ưa thích, anh ta kể cho tôi về thế hệ trẻ trong giới trung lưu của Indonesia. Anh nhận xét rằng phần đông những thanh niên từ 20-30 tuổi được giáo dục chu đáo trong giới thượng lưu đều chia sẻ ước mơ làm giàu, nhưng tránh không bị tham nhũng; họ muốn có dân chủ, nhưng không muốn xuống đường tranh đấu vì dân chủ. Thế hệ đó hiểu rằng trong thời Suharto sẽ không thể có một cuộc cách mạng dân chủ được trên ban xuống, nhưng họ hoảng sợ trước khả năng một cuộc cách mạng dân chủ từ dưới lên, vì nếu dân nghèo thành thị đứng dậy thì đời sống sẽ bị phá vỡ, trê nên nguy hiểm. Vậy thì chiến lược thời nay là cần có một cuộc các mạng từ trên cao, một thứ cách mạng toàn cầu. Chiến lược đó chọ phép họ làm tất cả những gì cần thiết, vô tình hay hữu ý, để hội nhập Indonesia vào hệ thống toàn cầu. Họ hy vọng nếu trói buộc Indonesia vào những định chế và thị trường toàn cầu - như Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Pizza Hut, APEC, ASEAN, Merrill Lynch, PricewaterhouseCooper hay những tổ chức phi chính phủ [NGO] - họ có thể nhập khẩu từ những tầm cao đó những tiêu chí và những hệ thống trên nền pháp lý mà cả chính phủ lẫn dân chúng ở Indonesia đều không tài nào sáng lập ra.

Chẳng hạn, báo chí Indonesia đã không thể trực tiếp chỉ trích chế độ Suharto về nạn con ông cháu cha thay vào đó, họ hăm hở đăng tải tin nói rằng Hoa Kỳ và Nhật Bản đã đưa Indonesia ra tòa án WTO để phê phán nhà máy quốc doanh sản xuất xe hơi của nước này - nhà máy lúc đó nằm dưới quyền của ông con trai của Tổng thống và được bảo hộ thuế quan, vi phạm các điều kiện của WTO. Chiến lược của các nhà cách mạng toàn cầu, nói tóm lại, là thu nhỏ chế độ Suharto bằng cách phóng đại, toàn cầu hóa toàn thể xã hội Indonesia. Nhà phân tích quân sự người Indonesia Juwono Sudarsono miêu tả cách mạng toàn cầu trong đó "thị trường toàn cầu sẽ áp đặt lên chúng tôi những tiêu chí và kỷ luật kinh doanh mà không đời nào chúng tôi có thể tự thiết lập". Một nhà cải tổ người Indonesia khác nói điều đó một cách đơn giản hơn. Ông ta nói ông ta cùng con trai ông trả thù Suharto mỗi tuần một lần "bằng cách đến ăn ở tiệm McDonald's".

Thông thường thì cơ quan hoạch định chính sách đối ngoại theo lối truyền thống, thuộcphái cực tả hay cực hữu, thường coi nhẹ sức mạnh của Bầy Thú Điện Tử và của toàn cầu hóa trong việc thúc đẩy dân chủ hóa. Michael Mandelbaum, một chuyên viên về chính sách đối ngoại thuộc Đại học John Hopkins cho biết: "Chúng ta vẫn còn sống với hình ảnh của các cuộc cách mạng năm 1776, 1789, 1917, và 1989, mọi người vẫn cho rằng dân chủ chỉ có thể có được khi dân chúng nổi dậy đạp đổ một chính phủ tham nhũng nào đó. Chẳng hạn những người Minutemen nổi lên ở Lexington, những đám đông Paris đạp cửa ngục Bastille, Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, hay Sức mạnh của dân chúng ở Philippines. Như vậy, khi nói đến dân chủ hóa, chưa ai tưởng tượng ra cái cảnh một thương gia nước ngoài đến và nói với chính phủ của chúng ta rằng ông ta không kiếm ra đủ tiền để tạo công ăn việc làm cho các công dân của đất nước nếu chính phủ không thiết lập các điều khoản bảo hộ cho luật pháp, tuân thủ các tiêu chuẩn kế toán quốc tế và thực hiện minh bạch hóa."

Việc Hoa Kỳ không thường xuyên thúc ép Trung Quốc phải dân chủ hóa, hay dân chúng Trung Quốc không nổi dậy hàng ngày để đòi phải được tham gia viết bài cho tạp chí Phố Wall châu Á không có nghĩa là mầm mống của một quá trình dân chủ hóa chưa được thai nghén ở Trung Quốc. Chúng ta quen nhìn dân chủ hóa như một sự kiện - giống như hình ảnh bức tường Berlin sụp đổ - nhưng thực ra dân chủ hóa là cả một quá trình.

Tất nhiên để quá trình đó thành công với sự ra đời của một nền dân chủ tự do, ngoài sức mạnh từ thị trường nó cần được nhiều thế lực khác tiếp sức, Larry diamond, đồng Tổng biên tập của tạp chí Dân chủ, một trong những học giả nghiên cứu sâu các khuynh hướng dân chủ hóa trên thế giới, nói như vậy. Bầy Thú Điện Tử là một lực lượng cần, như chưa đủ. "Điều quan trọng là Chính phủ Hoa Kỳ phải lên tiếng, thường xuyên và thúc bách, bênh vực dân chủ hóa", ông nói tiếp. "Điều quan trọng là Liện Hiệp châu Âu và Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc [UNDP], và những mạng lưới ngày càng rộng mở của các tổ chức phi chính phủ theo dõi và xúc tiến nhân quyền và các sáng kiến dân chủ hóa trong các khu vực kinh tế mới trỗi dậy. Điều quan trọng là quá trình toàn cầu hóa về thông tin sẽ cho người ta hiểu biết nhiều hơn về cảnh sống của đồng loại của họ. Điều quan trọng là phát triển kinh tế ở các nước đang tạo ra những tầng lớp trung lưu, những người tiếp tục đòi hỏi để được đóng góp vào việc hoạch định chính sách và đa nguyên về chính trị. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi một quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người trên 15.000 đô-la đều là một nước dân chủ tự do, trừ Singapore, hiện đang là một chế độ hạn hẹp trong một thành phố, nhưng chính nó, hầu như chắc chắn sẽ trở thành dân chủ một khi có sự thay đổi về thế hệ. Điều quan trọng là sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc không còn một mô hình nào khác, ngoài mô hình dân chủ tự do".

Bạn cần phải làm cho những yếu tố kể trên cùng kết hợp.

Luận điểm đơn giản của tôi là trong số các động lực do Diamond liệt kê ở trên, bầy thú và các siêu thị tài chính có thể là những động lực quan trọng nhất trong thời toàn cầu hóa, để thúc đẩy dân chủ hóa. Lý do là bầy thú có khả năng vượt rào, vào sâu bên trong hệ thống chính phủ và điều hành của đất nước, những nơi mà các chính phủ nước ngoài và các tổ chức nhân quền không thể tiếp cận. Bầy thú có thể tăng áp lực và khó có chínhphủ nào chống lại chúng được. Bầy thú làm như thế cũng vì lợi ích của bản thân chúng và khiến cho các chính phủ và các bên hữu quan nhận rõ rằng làm như vậy cũng là vì lợi ích của chính họ.

Bầy thú vượt rào vào các quốc gia không chỉ để tuyên truyền dân chủ. Không phải vậy. Chúng coi trọng tính ổn định, khả năng xét đoán tương lai, sự minh bạch và khả năng di chuyển và bảo vệ tài sản cá nhân khỏi bị tịch biên hay rơi vào tay tội phạm. Và để đảm bảo những điều kiện trên, bầy thú cần các nước đang phát triển cài đặt các phần mềm và hệ điều hành - những thành phần cấu tạo nên dân chủ. Trong thế giới ngày nay bạn không thể đi từ Mao sang Merrill Lynch mà thiếu những con người như Madison. Hãy xem xét một cách chi tiết về cách thức làm thế nào mà bầy thú có thể áp đặt những thành phần của một nền dân chủ.

TÍNH MINH BẠCH

Tạp chí Phố Wall cho biết khi các quan chức tài chính của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và 11 quốc gia Á châu gặp nhau ở Malaysia hồi tháng 11 năm 1997, họ thấy Ngân hàng Trung ương Malaysia đã cho dựng một tấm bảng thông tin, cái loại mà bạn có thể thấy ở các sân bóng đá giải NBA. Trên tấm bảng đó, người Malaysia cho các vị khách quan sát sự hoạt động của dự trữ tiền tệ của nước này, chứng minh là kinh tế của họ làm ăn không đến nỗi tồi.

Không phải nước nào cũng đã làm như vậy - dựng những tấm bảng chỉ số kinh tế ở cửa khẩu sân bay - hay có lẽ họ sẽ làm được điều đó trong tương lai. Bầy thú trong những năm gần đây, đã biết cách đòi hỏi cho được, thường làm theo cách làm dữ, tính minh bạch trong báo cáo tài chính của các nước. Những nước có móc nối với bầy thú dần dần cũng nhận thức, cũng theo cách trả giá đắt rằng nếu họ càng chuẩn bị chu đáo, cung cấp đầy đủ thông tin về giao dịch tài chính, thì sẽ giảm đi khả năng khiến cho bầy thú phật lòng, phản ứng đột ngột và kéo nhau rút ra.

Bạn hãy coi Bầy Thú Điện Tử như một đàn linh dương đang tìm ăn ở một đồng cỏ châu Phi vậy. Khi còn đầu đàn phát hiện một vật di chuyển trong bụi cây gần đó thì nó sẽ không thầm thì với con linh dương bên cạnh, "Này, tao thấyhình như có con sư tử đang lẩn quất trong bụi cây." Không có chuyện như vậy. Con linh dương đó sẽ lồng lên chạy, khiến cả đàn lao theo, và nó cũng sẽ không chạy một đoạn ngắn rồi dừng lại. Chúng sẽ chạy thẳng qua biên giới, sang một nước bên cạnh và sẽ đè bẹp tất cả những sinh vật nhỏ nhoi trên đường di chuyển. Vậy thì làm thế nào để bạn có thể đề phòng đất nước của bạn khoỉ những tai họa như vậy? Trả lời: Bạt cắt bớt bụi rậm đi, làm cho lối đi quang quẻ, để lần sau, khi bầy linh dương nhìn thấy những vật gì lay động chúng sẽ nghĩ: "Không sao đâu. Ta thấy nó rồi. Chẳng qua là một con thỏ thôi". Hay nếy thực sự có sư tử đến thì bầy thú có thể thấy nó từ xa, và di chuyển sang một nơi khác trong đội ngũ và không giày xéo lung tung cả một vùng rộng lớn. Hoặc, nếu có cơ hội, bầy thú sẽ tự tổ chức thành một đội hình thiện chiến, khiến cho sư tử phải hoảng sợ mà bỏ chạy. Tính minh bạch ở đây cho phép bầy thú có được thông tin sớm hơn, để có làm điều gì tự vệ, chúng sẽ làm một cách có kỷ luật. Trong thế giới tài chính, điều này hàm ý sự khác biệt giữa xuống giá chút ít và bị sụt giá đến mức phải mất hàng tháng hay hàng năm mới hồi phục được.

Khi kinh tế của Hàn Quốc gặp khó khăn vào tháng 12 năm 1997, nước này công bố là dự trữ tiền tệ là ở mức 30 tỷ đô-la, nhưng trong thực tế họ chỉ có 10 tỷ đô-la. Và khi bầy thú phát hiện ra điều đó, thì chúng bỏ chạy. Cũng trong thời gian đó Chính phủ Seoul nói với IMF rằng toàn bộ vốn vay ngắn hạn từ nước ngoài là 50 tỷ đô-la. Nhưng một tuần sau đó họ nói lại, con số thực tế là 100 tỷ đô-la. Ối giời!

Sự thiếu minh bạch kiểu đó, như lời Richard Medley, một chuyên viên phân tích mức mạo hiểm chính trị cho các công ty tài chính, đã tạo ra những cơn hỗn loạn tồi tệ nhất. Thiếu minh bạch, ông ta nói, "chính là yếu tố tạo ra nhan nhản những người mang ảo tưởng cũng như đầu óc bi quan". Hãy nhìn Thái Lan, Hàn Quốc hay Nga trong đầu thập niên 90. Khi còn vàng son, sự thiếu minh bạch trong các nền kinh tế đó đã tạo ra một hạng người ảo tưởng, thổi lên những bong bóng, khiến người ta dồn tiền vào những nơi này, tin rằng họ có thê 3thu lãi năm sau cao như năm trước. Mặc dù những khoản tiền đầu tiên được sử dụng đúng đắn vào các nhà máy có lãi, những khoản tiền sau đó đã được dồn vào những khu du lịch hoang phí và những cơ sở không thuộc nhu cầu. "Bạn không thể có những phân tích đúng đắn khi phải làm việc trong những hệ thống thiếu minh bạch", Medley nói. "Khi [bầy thú] bị nhiễm những ảo tưởng lạc quan ở đất nước của bạn, chúng sẽ thi nhau đấu giá, kích giá lên cao chót vót. Những người có ảo tưởng lạc quan sẽ khuyên, "nhắm mắt vào mà mua, và chắc chắn, nhảy xuống cái bể đó bạn sẽ được an toàn vì trong bể có nước". Tai họa là ở chỗ đó. Sự thiếu minh bạch khiến cho những người ảo tưởng tiếp tục kích giá, phóng đại tiềm năng. Rồi đến khi chúc đầu nhảy xuống thì tất cả những cơn mộng mơ về dự trữ ngoại tệ và mức lãi dự phóng, hết thảy đều sụp đổ".

Bạn đi từ chỗ tin tất cả đến chỗ không còn tin gì. Những kẻ vỡ mộng trở nên hoảng loạn - anh ta ngờ rằng giờ đây khắp mọi nơi, đâu đâu cũng tiền ẩn những khoản nợ xấu, những khoản nợ không có trên sổ sách. Trong mỗi đàn thú đều có những loại cả tin và loại đa nghi, và nếu tai họa xảy ra thì cơn lồng lộn của bầy thú sẽ bị những con thú đó làm cho tồi tệ hơn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 24-3-2013 17:19:55 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9
(tiếp theo)

Bầy Thú Điện Tử đã dạy bài học đó cho nhiều quốc gia trong những năm gần đây. Ngày nay, Bộ Tài Chính của Hàn Quốc gửi một email một ngày đến cho các nhà đầu tư có hoạt động liên quan tới dự trữ tiền tệ của nước này, trong đó nêu thật rõ mức dao động vốn tư nhân. "Người Hàn Quốc, từ chỗ coi tính minh bạch không là gì cả, quay sang cho rằng tính minh bạch là tất cả, "giám đốc quản trị một quỹ đầu tư ở phố Wall nói với tôi, "nếu chúng tôi cần, thì họ cũng có thể chuyển cho cả một dự báo thời tiết." Rich Johnson, người đứng đầu phòng đầu tư của Offitbank, một ngân hàng ở New York nói: "Khi sang Brazil, tôi nói với họ: "tôi cần thấy mọi thứ". Tôi giải thích thẳng thắn, "Không phải cho riêng tôi. Tôi là bạn của quý vị. Tôi tin quý vị. Nhưng làm thế nào để quý vị haỹ giúp tôi thuyết phục những kẻ hoài nghi?" Và những kẻ hoài nghi giờ đây đang nói với chúng ta: "Nếu không cởi bỏ hết trang phục cho chúng tôi xem xét mọi nơi trên thân thể của bạn, thì tôi sẽ không đời nào giao tiền vào tay bạn đâu, vì quá khứ của bạn là cả một lịch sử thiếu minh bạch và gây nhiều thất vọng. Nêu không có tính minh bạch thì sẽ không có tiền. Tôi muốn được xem kỹ sổ sách của bạn. Xem ngược xem xuôi, xem ban ngày rồi đến đêm cũng xem". Ngày nào tôi cũng tập hợp thông tin của tất cả các lĩnh vực trong kinh tế Brazil. Cuối ngày bao giờ tôi cũng nhận một báo cáo về những khoản lưu động vốn của Brazil trong ngày hôm đó. Tôi biết những gì xảy ra trong tài khoản thương mại của họ, trong tài chính, điều gì đã được chứng minh và ảnh hưởng tới mức lãi suất chính thức của ngân hàng trung ương và những gì xảy ra trong thị trường giao dịch của ngành du lịch Brazil. Báo cáo đó do một công ty tư nhân địa phương gửi đến, bao gồm những thông số chính thức từ ngân hàng nhà nước. Tôi có thể đầu tư thêm nếu hiểu rõ hoạt động trong các nhà băng nước này - mặc dù vẫn có những mức mạo hiểm nhỏ. Vì nếu có đầy đủ thông số tôi sẽ tính được các chi phí để đền bù rủi ro, và tôi có thể đổi ý nếu thấy không thuận lợi; nếu không tính toán có cơ sở thì tôi chỉ việc đoán mò, như thế chắc chắn sẽ phá sản."

Và một khi cam kết cho phép bầy thú được soi xét bản thân, bạn không còn đường thoát ra nữa, vì nếu làm như vậy, bạn sẽ phải trả giá đắt.

CÁC CHUẨN MỰC

"Nếu viết về lịch sử các thị trường vốn của Hoa Kỳ," Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers có lần nhận xét, "tôi xin gợi ý rằng điều giản đơn nhưng quan trọng bậc nhất, khiến hình thành những thị trường vốn, đó là tập hợp các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung. Chúng ta cần thực hiện chúng trên môi trường quốc tế. Một rong những thành công nhỏ nhưng đầy ý nghĩa của IMF thể hiện qua việc một thầy giáo ở Hàn Quốc dạy môn kế toán kể với tôi là trước kia lớp học của ông trong kỳ mùa đông chỉ có 22 học trò, nhưng năm nay [1998] số lượng học trò là 385. Chúng ta cần điều đó ở quy mô doanh nghiệp. Chúng ta cần điều đó ở quy mô quốc gia".

Một lý do khiến cho sự bùng nổ số lượng các khóa kế toán ở Hàn Quốc có lẽ là do Bầy Thú Điện Tử. Sau cơn khủng hoảng 1997-1998, chúng đã đòi hỏi phải có sự đào tạo các tiêu chuẩn kế toán đồng bộ ở mọi nơi. Khi nhìn sâu vào các công ty ở Hàn Quốc, Thái Lan hay Indonesia, chúng không thể hiểu được các dữ liệu kế toán, vì không có các bảng cân đối kế toán tổng hợp, tập hợp số liệu phản ánh hoạt động của các đơn vị và chi nhánh, khiến không thể thấy hết được tổng tài sản cũng như tổng số nợ, chưa nói số liệu các tài sản và nợ ngoài sổ sách.

Càng di chuyển đầu tư vào nhà máy hoặc các thị trường các nước, càng có thêm các nước muốn móc đầu tư từ bầy thú, càng có thêm các công ty nội địa muốn phát hành cổ phần trên thế giới, thì chúng càng phải chịu áp lực, buộc phải đào tạo để thích nghi với những tiêu chuẩn của thế giới về nghiệp vụ báo cáo tài chính.

Hãy tham khảo một ví dụ tôi tìm thấy trong tạp chí Hemispheres của hàng không United Airline, số tháng 12 năm 1997. Tạp chí đăng tải về một trong những công ty phần mềm máy tính phát triển nhanh nhất thế giới, Infosys, của Ấn Độ. Tạp chí viết: "Chìa khóa dẫn đến thành công của công ty là việc họ xóa bỏ những chính sách và truyền thống hoạt động của Thế giới thứ ba vốn dĩ đã khiến các công ty khác của Ấn Độ hoạt động khập khiễng và xúc tiến móc nối với Thế giới thứ Nhất, điều đó tạo thuận lợi rất nhiều cho khách hàng. "Từ đầu, chúng tôi đã quyết định sẽ không có sự nhập nhằng giữa tài sản công ty và của cá nhân", Narayana Murthy, người sáng lập và chỉ đạo của công ty cho biết. Có nghĩa là không ai được phép dùng xe công ty vào nhu cầu cá nhân - đây là một bước tách khỏi truyền thống kinh doanh của Ấn Độ. Ở Ấn Độ xưa nay các nhà quản lý công ty thường lạm dụng tài sản của công ty cho nhu cầu cá nhân. Các kỹ sư điện của công ty thường đến làm cho tư gia của các xếp lớn hơn. Nhân viên đi làm về thường kết hợp đón con cái của các xếp lớn và thậm chí trông coi các cháu đó luôn. Các phòng tài chính giúp các nhân viên mua địa ốc cho nhân viên công ty. Nhân viên công ty thường phải chịu làm những chuyện như vậy vì không có lựa chọn nào khác. Hoàn cảnh đó đã khiến cho môi trường sáng kiến và cải tiến trở nên bị cô lập, xa lánh. Những vụ đó khôngxảy ra ở Infosys. Infosys là công ty Ấn Độ đều tiên cho công bố kết quả kiểm toán hàng năm chỉ một tuần sau khi kết thúc năm tài chính; là công ty đầu tiên cho công bố các báo cáo tài chính hàng quý sau khi kiểm toán; và là công ty đầu tiên tuân thủ các Nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung của Hoa Kỳ và các đòi hỏi về sổ sách của Ủy ban Giao dịch Chứng khoán Hoa Kỳ. "Những báo cáo về tài chính và kế toán của Infosys đã tạo ra những chuẩn mực để các công ty khác noi gương và tuân thủ", một nhà phân tích đã đánh giá như vậy về Infosys".

Khuynh hướng trên đang được giới môi giới Internet thúc đẩy. Buôn bán trên mạng, theo lời John T. Wall, Chủ tịch NASDAQ International, "chắc chắn khiến tăng hơn nữa hoạt động soát xét trình độ quản lý của các chính phủ và công ty. Một khi con người ta có thể đầu tư ra nước ngoài và thực hiện giao dịch trên mạng, họ sẽ đòi hỏi nhiều hơn thông tin về các công ty, và sau đó muốn biết liệu họ có tin được những số liệu đó hay không. Liệu những thông số tài chính có được lập nên theo đúng tiêu chuẩn kế toán quốc tế hay không? Chất lượng quản lý công ty đó đến đâu? Những yếu tố đó góp phần cân đối mức thuế vụ và các hệ thống pháp luật hữu quan."

Theo một nghiên cứu của Hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên Hiệp Quốc, một phát hiện trong cuộc khủng hoảng 1997-98 ở Á châu cho thấy phần đông trong số năm hãng kế toán lớn của Hoa Kỳ, khi tham gia kiểm toán ở các hãng tài chính làm ăn thua thiệt ở vùng này, đã không công bố những khó khăn, trục trặc mà thân chủ của họ gặp phải. Lý do chính của vụ này, theo bài đăng trên The New York Times ngaỳ 17/11/1998, là các hãng kế toán đó đã không áp dụng vào châu Á những nguyên tắc kế toán chặt chẽ và chi tiết giống như họ thực hiện ở Hoa Kỳ. Và nguyên nhân chính cho thấy các hãng kế toán lớn - như Pricewaterhouse Cooper hay Ernest & Young - đã vào làm ăn ở châu Á bằng cách mua sáp nhập các hãng kế toán vốn có ở vùng này, những cơ sở mà khách hàng của họ chỉ muốn thực hiện những quy tắc tài chính lỏng lẻo. Thực tế giờ đây không còn như vậy. Ngân hàng Thế giới đã đề nghị những hãng kế toán của Mỹ không được phê duyệt các hoạt động kiểm toán mà không tuân thủ những tiêu chuẩn quốc tế hiện hành. Nếu kiểm toán do các chi nhánh và đối tác địa phương của họ thực hiện thì chỉ những đối tác đó được ký vào - và giới đầu tư nước ngoài hãy cảnh giác. Nghiên cứu của Liên Hiệp Quốc cho biết kiểm toán tồi không phải là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, nhưng kiểm toán đúng đắn sẽ giúp phát hiện các lỗi lầm sớm và có thể giúp giảm hậu quả tai hại mà cuộc khủng hoảng gây ra.

Khi chúng ta đi dần vào một thế giới nơi Internet định hình cho thương mại, thì những tiêu chuẩn quốc tế ngày càng trở thành đòi hỏi lớn lao hơn, vì một lý do chủ yếu: vào lúc bạn quyết định dùng Internet để bán hàng hay cung cấp dịch vụ, từ lúc mở trang mạng đầu tiên, bạn đã trở thành một công ty toàn cầu - dù bạn có ở Ấn Độ, Ý hay Indianapolis. Làm ăn trên Internet tức là làm ăn trên toàn cầu. Vì thế bạn phải có tầm suy nghĩ toàn cầu và làm sao để có thể thu hút những người mua trên thế giới mua món hàng của bạn. Và bạn phải đảm bảo cho khách hàng tin rằng bạn sẽ giao hàng đúng hạn và an toàn, số tài khoản tín dụng của họ được bạn giũ kỹ lưỡng, tiền được chuyển đúng nguyên tắc quốc tế, luật lệ và quy tắc hành xử được tuân thủ và những thủ tục và vấn đề liên quan tới kế toán và thương mại được thực hiện theo thông lệ quốc tế. "Càng có nhiều thương vụ được thực hiện trên Internet từ khắp nơi trên trái đất, thì cung cách làm ăn ở nhiều nơi càng được hòa đồng và tiêu chuẩn hóa", Bob Hormats, Phó chủ tịch hãng Goldman Sachs International lập luận.

Tôi đã nếm trải điều này khi sang Sri Lanka hồi cuối năm 1999. Khi đến nơi vào buổi sáng, tôi đi xe chừng hai tiếng ra ngoài Thủ đô Colombo, đến thăm một trong những nhà máy dệt lớn nhất của Sri Lanka. Con đường đến nhà máy không đủ rộng, khiến chúng tôi phải chật vật tránh xe cộ và gia súc. Khung cảnh tiêu biểu của miền nhiệt đới. Rốt cuộc, chúng tôi đến được làng Pannla; nhà máy dệt hiện đại này đóng cạnh làng, với những nhà xưởng khang trang tươi màu sơn, thảm cỏ cắn xén đẹp đẽ và hệ thống ăng ten vệ tinh - khu nhà máy trông giống như vừa rơi từ sao Hỏa. Nhà máy này là của Slimline, một hãng dệt Sri Lanka, chuyên nhận hợp đồng từ các siêu thị Victoria's Secret và của Marks & Spencer. Toàn bộ nhà máy được lắp đặt máy vi tính và được nối mạng Internet với chuỗi siêu thị Victoria's Secret để thực hiện thương mại điện tử. Tổng cộng có 1.400 nhân viên, phần nhiều là nữ, tuổi từ 18, họ ngồi làm việc bên hàng hàng những máy khâu. Ai cũng mặc đồng phục và những phụ nữ mang thai thì đội mũ đỏ - họ được phép làm việc chậm hơn người khác. Nhà máy được gắn điều hòa không khí và rất sạch đến mức có thể bày đồ ăn ra sàn. Ngày công dài tám tiếng nhưng cường độ lao động khá cao - mỗi công nhân phải hoàn thành định mức tính từng phút. Mỗi dây chuyền sản xuất được một máy tính theo dõi và định mức trung bình phải được thực hiện, nếu công nhân mong có thưởng. Lương công nhân trung bình là 80-100 đô-la một tháng, bao gồm cả ăn sáng. Hiện có một danh sách mọi người xếp hàng vào xin việc. Về điều kiện sản xuất, đây là một nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. Nếu không nói đến lương bổng thì tôi sẵn sàng cho con gái tôi xin vào làm ở đây.

Tôi hỏ Mahesh Amalean, chủ nhà máy, vì sao phải trang bị đẹp đẽ như vậy? Vì sao không phải chỉ là một xưởng đơn sơ? Chẳng phải ông ta sẽ thu lãi cao hơn nếu giảm chi phí trang bị cho xưởng? Không, ông ta trả lời, không được - vì lý do toàn cầu hóa. Biện pháp duy nhất giúp cho Sri Lanka tồn tại trong ngành dệt, đối phó với cạnh tranh từ những nơi rẻ mạt hơn như Trung Quốc và Brazil, là bước lên bậc thang chất lượng, sản xuất hàng chất lượng cao cho các hãng bán lẻ hàng hiệu danh tiếng trên toàn cầu. Ông ta giải thích, chạy đua để làm hàng rẻ với Bangladesh chẳng hạn, không phải là điều hay. Phương pháp duy nhất để giữ quan hệ với các hãng hàng hiệu lớn trên toàn cầu là phải sản xuất những sản phẩm có chất lượng ngày càng cao, cải thiện liên tục điều kiện lao động. "Những hãng hàng hiệu ngày nay đòi hỏi không những hàng chất lượng cao, giá rẻ và điều kiện lao động cho công nhân cũng phải tốt hơn", Amalean giải thích. Điều đó không hẳn vì Victotia's Secret bỗng chốc trở nên quan tâm đến phúc lợi xã hội mà vì giới tiêu dùng và sinh viên Hoa Kỳ ngày càng trở nên quan tâm đến các lợi ích xã hội sau khi họ chứng kiến những chiến dịch lớn phản đối những cơ sở hãng xưởng có điều kiện làm việc tồi, bóc lột công nhân. Những người tiêu cùng đó giờ đây tuyên bố với các siêu thị rằng họ không dùng những mặt hàng sản xuất trong những hãng xưởng bóc lột nhân công. Nói cách khác, một trong những lý do chính dẫn tới việc Sri Lanka cải thiện chất lượng các nhà máy dệt của họ không phải là muốn dựng chứng ngại chống toàn cầu hóa, mà bởi vì trong nền kinh tế toàn cầu ngày nay, để sống sót, các nhà sản xuất ở Sri Lanka đã phải ràng buộc bản thân họ với các hãng bán lẻ lớn ở phương Tây. Càng làm như vậy, nhà máy của họ càng phải được nâng cấp để khớp với những tiêu chuẩn mà hiện nay giới tiêu dùng phương Tây đòi hỏi. "Khi những nhân viên phụ trách mua bán của Victoria's Secret và các hãng khác đến thăm nhà máy, một trong những điều trước tiên họ hỏi chính là điều kiện làm việc của nhà máy", Amalean nói. "Họ phải chất vấn, vì đó là điều khách hàng của họ muốn biết".

Vài ngày sau khi thăm nhà máy dệt, tôi đến ăn sáng với một nhóm các nhà doanh nhiệp Internet trẻ. Nhiều người trong bọn họ phàn nàn là một lý do cho thấy các công ty non trẻ của họ không sáng tạo được các phần mềm mới là vì hiện nay chưa có luật lệ địa phương nào về vấn đề bản quyền để chống việc đánh cắp các sáng tạo. Họ cũng phàn nàn về việc Microsoft chưa muốn vào thị trường Sri Lanka vì hiện nay nước này chưa có luật bảo vệ tác quyền. Về điều này, Lalith B. Gamage, đứng đầu Viện Công nghệ Thông tin của Sri Lanka phát biểu thẳng thắn rằng để thu hút Microsoft và các hãng công nghệ lớn, chính phủ đang gấp rút thông qua một dự luật bảo vệ tác quyền. Và ông ta hứa với những người ngồi xung quanh là đạo luật đó sẽ được thông qua trong vòng một năm. Khi lắng nghe những bàn cãi như vậy, tôi nghĩ rằng không rõ Bill Gates có biết về ảnh hưởng của công ty của ông ta ở đất này ra sao không.

Giải pháp toàn cầu như trên không chỉ xuất hiện ở các nước đang phát triển. Có lẽ ví dụ lớn nhất thế giới về cách mạng toàn cầu, áp đặt các tiêu chuẩn quốc tế ở mọi nơi, thể hiện trong quyết định của Liên Hiệp châu Âu ấn định một đồng tiền chung, một ngân hàng chung và một hệ thống tiêu chuẩn tài chính chung - một tấm áo nịt nạm vàng chung - cho toàn bộ thành viên của Liên hiệp. Đối với Ý, một đất nước mang tiếng có một chính phủ tham nhũng và thiếu hiệu lực, thì Liên hiệp Tiền tệ châu Âu, ra đời năm 1999, là một thứ của trời cho. Liên hiệp này buộc nước Ý phải mặc chiếc áo nịt bằng cách chuyển giao một số chức năng của chính phủ Ý sang cho Ngân hàng châu Âu, đóng tại Frankfurt. Đài phát thanh của nhà nước đã phát một bản tin từ nước Ý năm 1997 về việc người dân Ý - sau một thế hệ chịu đựng việc chính phủ quản lý tiền tệ yếu kém - đã hối thúc để Liên hiệp châu Âu vào quản lý đất nước của họ, mario Abate, một luật sư thương mại người Ý được trích dẫn, " Một trong những hiệu quả trong thấy của việc gia nhập đồng tiền chung châu Âu, đồng euro, là sự xuất hiện của nhiệm vụ tôi gọi là "việc quét dọn nhà cửa" - chính phủ đã bị buộc phải ra tay giải quyết thâm hụt ngân sách, kiểm soát lạm phát và chi tiêu của chính phủ. Họ bị buộc phải làm điều đó. Và hiển nhiên, khi làm điều đó, nền kinh tế sẽ được lợi và đó là điều tôi rất tán thành". Abate nói thêm rằng đa số dân chúng Ý có lẽ sẽ rất mừng khi các viên chức châu Âu đích thân sang quản lý đất nước của họ. Không thấy có sự phản ứng nào từ nước Ý nhằm vào những trung tâm quyền lực của châu Âu đóng ở Brussels, Frankfurt và Strasbourg. "Có nhiều hiềm khích nhắm vào Rome hơn", Ablate kết luận, "vì đối với chúng tôi, Rome là tượng trưng của một trung tâm tội phạm. Họ ăn cắp tiền của chúng tôi. Chúng tôi coi đó là hành động ăn cắp, vì họ thu tiền và không thấy trả lại". Bộ trưởng Tài chính Ý, ông Vincenzo Visco nói với tờ báo La Republica vào đầu năm 1999 khi đồng euro bắt đầu được lưu hành, rằng từ nay "sẽ không còn những trò lố bịch xấu bụng" trong giới chính trị gia và doanh gia người Ý, những người trước đó đã thể hiện "quá thừa những hành vi phi pháp". Liên hiệp tiền tệ châu Âu, ông ta nói thêm, "có nghĩa là chúng tôi sẽ không còn có thể chấp nhận những tiêu chuẩn thấp kém chỉ vì chúng làm chúng tôi dễ sống hơn".

Đó chính là lối nói của một nhà cách mạng toàn cầu.

THAM NHŨNG

Nếu muốn tìm hiểu xem hệ thống toàn cầu hóa giúp làm giảm tham nhũng ra sao, thì xin đọc những bản tin nói về cuộc đảo chính quân sự ở Pakistan ngày 12/10/1999. Điều gì đã xảy ra? Cuộc đảo chính là ví dụ điển hình về xung đột mang động cơ chính trị, trong hàng ngũ thượng lưu ở nước này. Tướng Pervez Musharraf đã liều lĩnh điều quân vào vùng Kasmir do Ấn Độ kiểm soát, có lẽ với hy vọng rằng một khi cả Pakistan và Ấn Độ đều có vũ khí hạt nhân thì làm như vậy, thế giới sẽ vào can thiệp và giúp xây dựng một giải pháp cho Kashmir. Ông ta đã tính sai. Thế giới không vào và lực lượng của ông đã bị quân Ấn Độ đẩy lui. Thủ tướng Pakistan Nawaz Sharif đã phủi trách nhiệm trong vụ Kashmir và đổ lỗi cho lực lượng vũ trang, và cách chức Tướng Musharraf. Tranh chấp quyền lực diễn ra, trong đó Musharraf và quân đội đã lật đổ Thủ tướng Sharif. Một câu chuyện rất xưa.

Nhưng điều mới mẻ đã xuất hiện khi Musharraf lên cầm quyền. Khi đó ông ta bắt đầu hiểu rằng đối với dân chúng, điều gì là quan trọng nhất - đối với họ Kashmir không quan trọng, chống tham nhũng mới là điều họ đòi hỏi. Tham nhũng tràn lan đã hoành hành dưới thời chính phủ Sharif. Vậy thì Tướng Musharraf, đáng nhẽ đã đăng quang và trở thành nguyên thủ quốc gia hợp pháp, giương cao ngọn cờ dân tộc chủ nghĩa Hồi giáo, đòi chủ quyền dân tộc... đã chọn con đường khác. Ông thanh minh cho việc tiếm quyền bằng cách tự giới thiệu bản thân là một con người trong sạch, hứa đào tận gốc rễ nạn tham nhũng ở Pakistan. Tướng Musharraf thậm chí cho công bố bản khia thuế của ông để chứng minh rằng ông trong sạch. Ông ta biết sẽ có hai loại người sẽ lắng nghe - dân chúng trong nước, những người đã quá chán ngán chính phủ cũ, và thành viên của Bầy Thú Điện Tử, đang kiểm soát những nguồn tài chính mà ông ta cần để giúp tăng trưởng trở lại. Trong lịch sử, có bao giờ một vị tướng đảo chính, tiếm quyền rồi ngay lập tức cho công bố những khoản ông ta nộp thuế? Thay vì thanh trừng các nhân vật cánh tả hay cánh hữu, ông ta đã cam kết rằng chính phủ sẽ truy tìm tất cả những kẻ thiếu nợ, trốn thuế và lừa đảo tài chính. Tờ báo Washington Post (21/10/1999) đăng tải rằng vài ngày sau đảo chính, ngân hàng tư nhân lớn nhất của Pakistan đã đăng một quảng cáo trên trang nhất của một tờ báo: "NHỮNG KẺ THIẾU NỢ CHÚ Ý! CƠ HỘI CUỐI CÙNG - HÃY TRẢ NỢ! NẾU KHÔNG SẼ PHẢI CHỊU HẬU QUẢ." Tôi tự nhủ: không hiểu đây là một cuộc đảo chính của quân nhân Pakistan hay là một cuộc đảo chính của giới quản trị tài chính của nước này?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 24-3-2013 17:21:36 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9
(tiếp theo)

Đó không còn là một điều dị thường.

Cách mạng toàn cầu đang tạo ra cái giá rất cao mà những đất nước dung túng cho nạn tham nhũng phải trả. Vì tại sao bạn phải đầu tư vào nước X, nơi bạn phải đút lót tất cả mọi người kể cả bà con của họ, trong khi bạn có thể vào đầu tư ở nước Ý, nơi bạn chịu chi phí lao động tương tự, nhưng không bị phải đút lót? Bầy Thú Điện Tử đã nói với mỗi quốc gia: "Nếu bạn không tập hợp được một đám khách hàng ổn định và xây dựng được một tập hợp các cơ hội bền vững để đầu tư, không sao, chúng tôi sẽ đi nơi khác, và trong một thế giới không còn rào cản, chúng tôi đi đâu cũng được". Đối với bầy thú, tham nhũng cũng là một trạng thái thiếu khả năng tiên liệu, vì bất cứ thương vụ nào cũng có thể đổ bể nếu một ai đó đút lót một ai đó, và đó là điều bầy thú căm ghét hơn hết.

Derek Shearer, đại sứ Hoa Kỳ tại Phần Lan trong những năm 90 đã tận mắt chứng kiến việc cách mạng toàn cầu đẩy những người Nga vao hai lựa chọn: hoặc kiểm soát nạn tham nhũng hoặc chịu nghèo đói và kém phát triển mãi mãi. "Trong cương vị đại sứ Mỹ ở Phần Lan, nhiệm vụ của tôi là gặp gỡ các doanh nhân Phần Lan và khuyến khích họ đầu tư vào nước Nga - vì đó là yếu tố quan trọng góp phần ổn định vùng biên giới giữa hai nước", đại sứ Shearer nói. "Nhưng những người Phần Lan đó đáp lại: "Chắn chắc rồi, chúng tôi sẽ vào làm ăn với người Nga. Họ có thể mang xe tải sang đây mua bất cứ thứ gì cũng được, miễn là họ mang theo vài bao tải tiền mặt để thanh toán. Nhưng chúng tôi sẽ không sang làm ăn bên đó. Quá tham nhũng và quá nguy hiểm. Tại sao chúng tôi lại phải sang đó nhỉ? Chúng tôi có thể sang Hungary, Cộng hòa Czech hay Estonia để kiếm tiền và được bảo đảm có thể thu lãi. Vì sao chúng tôi lại phải bận tâm với người Nga khi hoàn cảnh của họ như vậy?" Tôi lại giải thích, "Rồi, rồi, nhưng quý vị nên đầu tư ở đó để giữ ổn định khu vực". Và họ nhìn tôi bằng con mắt lạnh lẽo. Giờ đây tôi không còn làm cho chính phủ nữa và đang tư vấn cho một số công ty đầu tư ở phố Wall. Hôm trước họ hỏi tôi về chuyện đầu tư ở nước Nga và tôi trả lời, "quên đi". Nếu nhìn bằng con mắt thương gia, không dính dáng gì đến chính sách đối ngoại thì đúng là chẳng tội gì phải đầu tư ở nước Nga. Người Phần Lan có cái quyền của họ chứ".

Đôi lúc những tiêu chuẩn cao do bầy thú áp đặt có thể gây sốc thậm chí trong các nền kinh tế tiên tiến. hãy xem bài báo trên tờ Washington Post (20/01/1998), viết từ Tokyo có tựa đề "Nhà lập pháp Nhật Bản treo cổ tự vẫn trong khách sạn". Bài báo kể chuyện Shokei Arai thành viên Quốc hội Nhật Bản, tâm điểm của một vụ bê bối tham nhũng đã treo cổ tự vẫn trong buồng khách sạn ở Tokyo, vài giờ trước khi sắp bị bắt. Chiều sâu trong nội dung câu chuyện là hai điểm chủ yếu: "Có những lo lắng trong giới chính trị gia rằng Arai có thể để lại những bằng chứng tội phạm liên lụy đến những người khác... Hiện không thấy có dấu hiệu nào chứng tỏ ông ta để lại những tư liệu như vậy, nhưng tại một cuộc họp báo tối thứ tư vừa qua, ông ta đã phàn nàn rằng những ủy viên công tố chỉ lọc riêng bản thân ông ta ra để truy tố. Arai nói với báo chí rằng hãng môi giới tài chính Nikko Securities bảo đảm với ông rằng họ chi tiền cho ông cũng như cho hàng trăm khách hàng khác. Thương gia Nhật bản trong chỗ riêng tư đã nói rằng họ bị choáng khi thấy những gì xưa nay là thông lệ trong làm ăn thì nay đã đột ngột thay đổi. Một thời giới quan chức nhà nước thường được chiêu đãi rượu chè thả cửa cùng các công ty. Trong những buổi như vậy người ta giải thích rằng quan chức và thương gia có thể trao đổi, một cách không chính thức, những thông tin cần thiết. "Những tài khoản VIP" và những khoản lại quả là điều bí mật mà ai cũng biết, giới thương gia nói - và viện công tố cho đến nay đã làm ngơ trước những chuyện đó. [Bình luận viên chính trị Minoru] gắn những hành động cương quyết gần đây với một nhóm công tố viên trẻ trung, mới mẻ và hăng hái, những người được du học ở nước ngoài. "Họ bắt đầu có lối nghĩ phương Tây, và coi thông lệ khoản đãi các quan chức chính phủ như hiện tượng không thể chấpnhận được trong thông lệ quốc tế, Morita nói (đoạn in nghiêng là của tác giả)".

Robert Shapiro, Chủ tịch hãng Monsanto, có lần đã nói với tôi rằng công ty của ông không đi đầu trong cuộc chiến chống hoạt động tham nhũng, nhưng đã thực hiện nguyên tắc không lót tay. Và ông ta cho rằng làm như vậy công ty của ông gieo những hạt giống trên thế giới, chia sẻ cùng những người theo cùng một giá trị. "Chúng tôi tuyển rất nhiều nhân viên ở nhiều nước và trở thành trường đào tạo cho họ," Shapiro nói. "Nhiều nhân viên ở các nước khác làm việc cho chúng tôi thấy khó có thể tin rằng chúng tôi thực sự nghiêm túc trong việc chống tham nhũng, và chắc chắn chúng tôi sẽ không bao giờ tiếp tay cho những kẻ gây chiến trên thế giới."

Thực tế đã có và bao giờ cũng có những ngoại lệ, đặc biệt một khi cạnh tranh trở nên quyết liệt hơn. Những ước mơ làm giàu bằng những doanh nghiệp khả nghi cũng nhiều hơn. Theo một nghiên cứu của Quốc hội Mỹ, Citibank đã rất hăng hái bắt tay làm ăn với raul Salinas de Gortari em trai cựu Tổng thống Mexico, đến mức đã bỏ qua thông lệ kiểm tra, giúp ông ta kín đáo chuyển một ngân khoản 100 triệu đô-la ra khỏi Mexico. Hiện tại thì những hiện tượng như thế mới chỉ ở mức ngoại lệ. Khuynh hướng chủ yếu trên thế giới không đi theo hướng đó. Bộ luật về hành vi tham nhũng ở nước ngoài ra đời năm 1977 coi hành vi của các công ty Mỹ đút lót để làm ăn ở nước ngoài là phi pháp. ngày 20/11/1997 29 quốc gia thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), trong đó có các quốc gia dân chủ và phát triển hàng đầu, đã chấp nhận nhiều phần trong bộ luật chống tham nhũng của Hoa Kỳ. Theo các quy tắc mới của OECD, các hãng của Nhật Bản và châu Âu không được phép lót tay các viên chức nước ngoài để thắng thầu, và họ cũng sẽ thấy khó khăn hơn trong việc cân đối tiền đút lót với các khoản miễn thuế, vốn dĩ được hợp pháp hóa ở Pháp và Đức. Mặc dù vẫn còn những kẽ hở trong những quy tắc mới mẻ đó, nhưng chúng đánh dấu một thắng lợi của những con bò đực của nước Mỹ trong Bầy Thú Điện Tử, những kẻ đã cho rằng họ mất rất nhiều hợp đồng, trị giá hàng tỷ đô-la vào tay các công ty Nhật Bản và châu Âu chỉ vì không đút lót.

TỰ DO BÁO CHÍ

Trung Quốc sẽ có một nền báo chí tự do. Cách mạng toàn cầu là động lực dẫn đến điều đó. Vâng, lãnh đạo Trung Quốc chưa biết được điều này, nhưng họ đang bị xô đẩy theo hướng đó. Hãy nhìn những gì xảy ra trong hai tuần cuối cùng của năm 1996. Trong năm 1996, hai thị trường chứng khoán sôi động nhất của Á châu nằm ở Trung Quốc - Thượng Hải và Thẩm Quyến. Từ ngày 1/4 đến ngày 9/12 chỉ số chung của Thượng Hải tăng 120 phần trăm và của Thẩm Quyến tăng 315 phần trăm. Một lý do khiến hai thị trường này tăng tốc là vì chúng hầu như được thả nổi, và một lý do khiến chúng được thả nổi là vì Trung Quốc chỉ có một hệ thống kiểm soát giao dịch chứng khoán thô sơ, và họ hầu như không có lấy một tờ báo tài chính độc lập, trong sạch và có trách nhiệm để có thể đánh giá cao những cổ phần lành mạnh và vạch trần những công ty làm ăn bất chính - những công ty không công bố kịp thời, chính xác và công khai những thông số tài chính của họ. Những tờ báo như Barron's Fortune, Business Week, the Far Eastern Economic Reviem, The NewYork times và The Wall Street Journal chính là những tờ báo có trách nhiệm theo dõi chặt chẽ những vụ như vậy. Vào tháng 12 năm 1996 chính phủ Trung Quốc nhận thấy hai thị trường Thượng Hải và Thẩm Quyến lung lay - vì hàng loạt các hoạt động đầu cơ và giao dịch khả nghi - nhưng họ chỉ có một thứ công cụ để đối phó: báo chí nhà nước. Vậy là vào ngày 16/12/1996, tờ Nhân dân nhật báo đăng một xã luận cảnh báo rằng một số cổ phần trên hai thị trường đã bị kích lên tới mức "vô lý" và "bất thường".

Hãy đoán xem điều gì đã xảy ra? Ai ai cũng thi nhau bán lập tức, giá trên hai thị trường sụt và rất nhiều người trong giới đầu tư nhỏ chịu mất mát - nhiều đến mức cảnh sát được phái đến để giữ trật tự khi giới đầu tư tập hợp để chống đối trước cửa các hãng môi giới ở nhiều thành phố Trung Quốc. Tạp chí Wall Street Journal của Á châu đăng tin "bên ngoài một hãng môi giới ở Bắc Kinh, một công nhân ca thán rằng anh ta bị mất 20.000 tệ (khoảng 2.400 đô-la) trong tuần đó. "Trước ngày Nhân dân nhật báo đăng bài, thì vẫn có sự cân đối giữa mua và bán", một người đàn ông mặc áo da tuyên bố trước một đám đông vài chục nhà đầu tư đang tỏ vẻ đồng tình. "Sau đấy không còn ai dám mua nữa. Thị trường đang chìm xuống".

Người cảm thấy tức tối nhất trên thế giới không phải là người vừa bị mất việc. Người cảm thấy tức tối và đau đớn nhất thế giới là người có cảm giác họ bị lừa hết toàn bộ số tiền dành dụm mà anh ta đi làm kiếm được. Qua thời gian, lãnh đạo Trung Quốc sẽ không thể kiểm soát và theo dõi những thị trường đang nóng lên trên đất Trung Hoa; họ cũng không thể phòng vệ cho dân chúng khỏi nạn lừa đảo để đến mức phải nổi dậy chống chính phủ, nếu họ không thiết lập những định chế thích hợp với thị trường tự do - chẳng hạn một cơ quan giám sát đầu tư và một nền báo chí tự do và có trách nhiệm do một cơ chế pháp quyền bảo vệ. Tóm lại, họ cần cách mạng toàn cầu. Không phải ngẫu nhiên mà Đài Loan một nơi có nền báo chí tự do nhất Á châu chính là nơi chịu đựng tốt nhất và phòng đỡ hiệu quả nhất trong cơn khủng hoảng 1997-98.

Hiện tại có 30 triệu dân Trung Hoa sở hữu chứng khoán. Nhiều đến như vậy nên đã xuất hiện hàng loạt các tờ báo và tạp chí chui, theo dõi thị trường chứng khoán, vì những nhà đầu tư giờ đây đòi hỏi phải có những thông tin kinh tế trung thực. "Chúng bắt đầu như những bản tin mách nước do các phòng nghiên cứu trong các nhà môi giới đầu tư soạn thảo, được chuyển bằng fax đi mọi nơi," Seth Faison, Trưởng phân xã của The New York Times tại Thượng Hải giải thích. "Tin tức kinh tế và thị trường và thông tin của một số công ty và cổ phần, hoặc một vài tin về một kế hoạch mới của một bộ nào đó ở Bắc Kinh. Nhiều phần là đồn đại, nhưng một số lời đồn lại hóa chính xác. Những loại báo này phục vụ đông đảo dân chúng tham gia mua bán chứng khoán nhưng không trông cậy gì vào tin tức trên báo chí nhà nước". Điều sẽ xảy ra nếu Chính Phủ Trung Quốc chính thức cho phép báo chí tự do đưa tin kinh doanh thì những tờ báo như tờ Siuthern Weekend sẽ lợi dụng khe hở đó lồng vào các trang báo tin tức mang tính chính trị, chỉ trích tham nhũng và nạn lộng quyền chính trị. Đó chính là cách một nền báo chí tự do sẽ ra đời ở Trung Quốc

THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VÀ CỔ PHIẾU

Về cơ bản có ba phương pháp cho phép các doanh nghiệp có thể huy động vốn: vay tiền ngân hàng, bán cổ phần và phát hành trái phiếu. Điều quan trọng là một đất nước có đủ ba khả năng này để nếu ngân hàng trục trặc, bạn sẽ tìm đến thị trường cổ phiếu và trái phiếu. Nếu thị trường trái phiếu ứ đọng thì bạn tìm đến ngân hàng hoặc thị trường chứng khoán. Giải pháp tay ba này giúp phân tán mức rủi ro tài chính và tăng năng lực cho hệ thống tài chính ứng phó với những cơn sốc. Nhưng thường ta chỉ thấy các nước đang phát triển chỉ có một, nhiều lắm là hai trong số ba yếu tố, khiến cho nền tài chính của họ không lấy gì làm ổn định.

Hãy nhìn các con hổ Á châu. Có một đặc điểm chung khi một nước lâm vào các cơn khủng hoảng, đó là: tỷ lệ tiền tiết kiệm nội địa cao và mức chính phủ nợ nước ngoài thấp. Dân chúng không muốn tiêu tiền và chính phủ không muốn vay tiền. Như thế hay quá? Không hẳn. Ở những nước mà dân chúng ham thích tiết kiệm thì tiền của họ chỉ nằm trong các ngân hàng địa phương, vì các dạng quỹ đầu tư, quỹ hưu bổng và thị trường trái phiếu hầu như không tồn tại ở dạng thô sơ. Các ngân hàng địa phương chịu tồn đọng những lượng tiền lớn, và điều duy nhất họ có thể làm là đem tiền đó cho các công ty địa phương vay mượn. Dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng, họ ném tiền tới tấp, thậm chí vào những người mượn tiền cho những dự án chưa đạt tiêu chuẩn. Hơn nữa khi ngân hàng gặp khó khăn, thậm chí bị cải tổ như trường hợp ở Thái Lan thì rất khó cho các công ty vay tín dụng mới, vì không có thị trường trái phiếu, trong khi cổ phiếu của họ lại chưa kịp phát hành. Chính vì thế Hồng Kông và Singapore đã quyết định mở thị trường trái phiếu - mặc dù tiền tiết kiệm trong ngân hàng rất nhiều - vì họ muốn thị trường trái phiếu đó cung cấp cái gọi là "vốn kiên nhẫn", - tín dụng dài hạn cho các công ty, tránh những điều kiện ngặt nghèo ngắn hạn do ngân hàng ấn định. Thêm nữa, thị trường trái phiếu cũng giúp cho những người gửi tết kiệm ở Hồng Kông và Singapore đầu tư vào những quỹ đầu tư và hưu bổng có khả năng trả lợi tức cao hơn lãi suất tiết kiệm trong ngân hàng.

Bầy Thú Điện Tử lâu nay đã khuyến khích việc thiết lập thị trường trái phiếu, để chúng kiếm ăn và cũng vì những nguyên tắc tài chính của loại thị trường này cho phép tăng cường mức độ minh bạch và dân chủ hóa trong nền tài chính. Thị trường chứng khoán và trái phiếu giúp cho các công ty tránh được việc phải quỵ lụy trước một nhóm nhỏ các viên chức ngân hàng, để hùn vốn. Một khi các công ty lệ thuộc nặng nề vào việc vay mượn ngân hàng - đặc biệt ở những nơi có những hệ thống tư bản làm ăn lối móc ngoặc, trong đó chủ ngân hàng cấu kết với doanh nhân và quan chức chính phủ - họ có thể tránh những dòm ngó và căn vặn, điều họ thường gặp phải trong thị trường chứng khoán và trái phiếu. Hoạt động của các công ty cho phát hành cổ phiếu và trái phiếu phải chịu sự giám sát và đánh giá hàng ngày: trái phiếu của họ nằm trong tay một đám đông dân chúng đa dạng, và được các công ty xếp hạng độc lập đánh giá, trong khi cổ phần của họ được các nhà đầu tư nặc danh mua bán trên một thị trường tự do. Khả năng duy nhất để trái phiếu và cổ phiếu của bạn được xếp hạng trong một thị trường được giám sát, đó là bạn phải thực hiện chính sách kê khai hoạt động và tài sản đúng đắn. Và nếu bạn muốn cuốn hút các nhà đầu tư quốc tế lớn và muốn được các hãng kiểm toán lớn như Moody's, Duff & Phelps Credit Rating Co. hay Standard & Poor's xếp hạng thì những báo cáo tài chính của bạn phải được xây dựng trên cơ sở các thông lệ quốc tế. Sự trừng phạt sẽ đến rất nhanh nếu vi phạm xảy ra.

Hãy xem bài báo sau đây trên tờ Washington Post ngày 15/11/1998, viết từ Paris: Câu chuyện bắt đầu với Serge Tchuruk, một thương gia danh tiếng ở Pháp thông báo trong cuộc họp giữa buổi ăn sáng với các nhà đầu tư quốc tế là mức lợi tức của tập đoàn viễn thông Alcatel của ông thực ra thấp hơn mức dự đoán vài tuần trước đó. Bầy Thú Điện Tử không thích cái sự ngạc nhiên như vậy. Trong khoảng thời gian từ bữa ăn sáng đến khi kết thúc giao dịch chứng khoán ngày hôm đó, cổ phần Alcatel giảm 38 phần trăm giá trị - mức sụt giảm cao nhất trong ngày - các quỹ đầu tư và hưu bổng quyết định rút vốn và bỏ rơi Alcatel. Ký giả của bài báo Anne Swardson tiếp theo đã mô tả việc Bầy thú sắp xếp lại những tập tục thương mại ở châu Âu: "Trong vài năm qua, người nước ngoài đã buộc nhiều công ty phải thay đổi cung cách quản lý, cải cách hệ thống kế toán, hòa nhập với quy mô thế giới, sử dụng tiếng Anh - ngôn ngữ thương mại quốc tế - vào các cuộc họp hội đồng quản trị. Nói chung quản lý ở châu Âu, vốn dĩ thờ ơ với người ngoài, nay trở nên năng động, chú ý và quan tâm đến cổ đông hơn".

Điều tôi khoái nhất là sau khi biết Alcatel bị bầy thú trừng phạt, Tchuruk đã lên máy bay, bay sang London rồi từ đó nhảy lên một chuyến máy bay khác bay sang New York để gặp các cổ đông của các quỹ đầu tư, thanh minh với họ để khôi phục lòng tin.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 24-3-2013 17:26:17 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9
(tiếp theo)

"Ông ta rất lấy làm hối lỗi, nhưng điều đó không còn quan trọng nữa", một trong những nhà đầu tư có mặt trong bữa ăn sáng ở Paris nói với tờ báo, "vì vào lúc đó, chúng tôi đã bán hết các cổ phiếu [Alcatel] chúng tôi có".

DÂN CHỦ HÓA

Nhìn chung Bầy Thú Điện Tử sẽ tăng áp lực đòi dân chủ hóa do ba lý do chủ yếu - tính uyển chuyển, tính hợp pháp và khả năng phát triển bền vững. Xin giải thích: bầy thú càng lớn lên thì nền kinh tế toàn cầu càng hoạt động trơn tru và cởi mở hơn, khiến bạn càng phải trở nên uyển chuyển hơn trong việc tận dụng quan hệ với bầy thú đồng thời bảo toàn bản thân bạn trước những cơn lồng lộn của bầy thú. Mặc dù lúc nào cũng có thể tìm thấy ngoại lệ, nhưng tôi tin một điều rằng quy luật chung cho thấy hệ thống quản lý càng được dân chủ hóa, chịu trách nhiệm và cởi mở, thì hệ thống tài chính của bạn càng ổn định, tránh được những diễn biến đường đột. Khi xuất hiện những cú sốc hay những diễn biến đường đột, hệ thống quản lý và nền tài chính của bạn sẽ uyển chuyển và tự thích nghi với tình hình và đòi hỏi mới nhanh hơn. Xã hội của bạn càng cởi mở và dân chủ thì bạn sẽ tiếp nhận góp ý và ý kiến nhanh hơn, và thêm cơ hội để bạn sửa đổi các hoạt động trong trung hạn, tránh được việc bị dồn vào chân tường. Mặt khác nếu có trục trặc trong công ty của bạn, thì khả năng uyển chuyển linh động sẽ giúp cho bạn tuyển những giám đốc mới và đuổi thẳng cánh những giám đốc cũ vô tác dụng.

Hơn nữa, khi đất nước của bạn phải cải tổ giữa đường thì càng dân chủ sẽ càng tạo khả năng cho chính phủ chia sẻ cùng dân chúng những khó khăn trong cải tổ. "Hãy nghĩ tới những điều các nhà lãnh đạo Đông Nam Á tuyên bố với dân chúng của họ trong thời hậu Chiến tranh Lạnh thế giới thứ hai", Larry Diamond, một học giả về chủ đề dân chủ cho biết. "Họ nói với dân chúng: "Các người hãy giao quyền tự do của các người cho chúng tôi và câm họng lại, và tôi sẽ cho các người các cơ hội để làm giàu". Thật dễ dàng khi thấy dân chúng không quan tâm tới chính trị khi con thuyền đang nổi, và dân chúng cảm thấy họ có thể giao phó nhiệm vụ chính trị cho người khác, miễn là không ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo của họ. Vâng, điều đó có thực, trong 30 năm, nhưng một khi sự tăng trưởng trở nên lung lay thì khả năng phân phối phúc lợi xã hội và của cải vật chất cũng không còn nguyên vẹn. Và dân chúng nhận thấy rằng họ không thể giao phó việc quản lý chính trị cho ai khác - lúc đó, những dàn xếp như trên sẽ đổ vỡ. Hậu quả là những gì dân chúng đã nói với các chính phủ ở Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc, và sắp tới sẽ là Trung Quốc, rằng nếu chính phủ không đảm bảo khả năng tăng trưởng nếu nhà nước không làm đúng theo thỏa thuận trước kia, thì dân chúng sẽ đòi hỏi phải có một thỏa thuận mới, trong đó, dân chúng sẽ có vai trò quan trọng hơn trong cung cách điều hành đất nước. Nhưng, một khi có vai trò lớn hơn, nên dân chúng sẽ chịu đựng được những hy sinh lớn lao hơn khi hệ thống chính phủ được cải tổ và nâng cấp. Và chính vì thế dân chúng sẵn sàng tỏ ra kiên nhẫn hơn trong việc chịu đựng các khó khăn kinh tế, hơn là người ta dự đoán. Do nền chính trị được cởi mở và dân chủ hóa, ít nhất thì dân chúng có cảm giác rằng họ trực tiếp và được bình đẳng, tham gia khắc phục khó khăn. Họ trở thành người tham gia chính trong cuộc chơi".

Trong số những quốc gia Á châu đã chính thức móc nối với Bầy Thú Điện Tử (Trung Quốc, hiện thiếu một đồng tiền có khả năng chuyển đổi và một thị trường vốn cởi mở, là quốc gia chưa thực sự móc nối vào với bầy thú), những nơi có những hệ thống dân chủ và ít tham nhũng nhất - Đài Loan, Hồng Kôg, Singapore, Australia - đã thua thiệt ít nhất trong cuộc khủng hoảng 1997-98. Những quốc gia có hệ thống dân chủ nhưng tham nhũng - Thái Lan và Hàn Quốc - chịu thua thiệt ở mức cao hơn, nhưng do có những nền dân chủ, họ có khả năng phản ứng nhanh trong cuộc khủng hoảng mà không phải trải qua những cuộc nổi dậy của dân chúng. Họ đã dùng lá phiếu để bầu một hệ thống quản lý và những phần mềm tốt hơn. Sau khi chịu đựng cơn lồng lộn của bầy thú hồi mùa thu năm 1997, Thái Lan đã bầu cho một chính đảng trong sạch và dân chủ nhất ở đất nước này và đã thông qua một hiến pháp mới, cấp tiến và chống tham nhũng. Hiến pháp mới của Thái Lan lần đầu tiên quy định rằng các chính trị gia nước này phải công khai hóa tài sản cá nhân của họ trước và sau khi cầm quyền và mỗi người trong số họ sẽ phải chịu luận tội nếu hơn 50.000 cử tri ký vào một yêu sách đòi hỏi điều tra về tham nhũng nhằm vào người đó. Thái Lan cũng đã thông qua đạo luật Tự do Thông tin đầu tiên ở Á châu, cho phép báo chí Thái Lan hăng hái sử dụng luật này để theo dõi các bộ trưởng - một điều trước đó chưa từng có ở nước này. Một viên chức của Ngân hàng Thế giới ở Bangkok quan sát và nói với tôi: "Hiến pháp mới của Thái Lan sẽ không đời nào được Quốc hội phê chuẩn nếu không có cuộc khủng hoảng ngành ngân hàng ở đây. Không đời nào. Cuộc khủng hoảng ngân hàng đã khiến cả nhà vua lẫn quân đội thúc đẩy để có Hiến pháp mới, điều xưa nay họ vẫn rụt rè". Hàn Quốc đã phản ứng ra sao? Họ bầu lên Kim Dea jung, một nhân vật dân chủ và tự do nhất, người mà trước cuộc khủng hoảng chưa chắc được chọn để làm nhân viên bắt chó.

Quốc gia Đông Nam Á mang tính toàn trị và tham nhũng cao nhất, Indonesia dưới thời Suharto, là một đất nước thiếu uyển chuyển nhất, thiếu khả năng nhất trong việc cài đặt các phần mềm, và là quốc gia rốt cuộc đã rệu rã - chính vì những đám đông dân chúng không muốn chịu đựng những đau đớn trong cải tổ, họ không còn cảm thấy chính phủ là người của họ nữa. Khi đồng nội tệ của Indonesia bị mất giá vào năm 1998, và IMF nói họ chỉ cứu giúp nếu nước này cắt chi tiêu của chính phủ, Tổng thống Suharto đã nói những lời sau đây với dân chúng: "Các bạn ạ, chúng ta phải thắt lưng buộc bụng. Chúng ta cùng hội cùng thuyền". Và dân chúng đã giận dữ đáp lại: "Ông Tổng thống, chúng ta không cùng hội cùng thuyền trong chuyện chia nhau những lệ phí đường bộ, việc xây các khách sạn, dựng hãng hàng không và các công ty taxi mà ông và con cái của ông đang nắm giữ. Ông hãy ráng chịu nhé".

Sau cùng, tìm kiếm và hiểu biết các hệ điều hành và phần mềm mới trên giấy tờ thì chưa đủ, điều khiến chúng trở nên bền vững chính là đặt chúng vào một hệ thống dân chủ hay đang được dân chủ hóa. Diamond lập luận: "Các quốc gia đang cố gắng tìm cách, móc nối vào Bầy Thú Điện Tử với những phần mềm tốt, hệ thống pháp quyền và tính trách nhiệm - nhưng lại không thực hiện thường xuyên quy chế bầu cử tự do - sẽ không theo kịp bầy thú trong giao đoạn dài hơi. Bởi vì bạn không thể duy trì một phần mềm tốt trong một chế độ toàn trị, một chế độ mà bản thân nó không tự chịu trách nhiệm, không giao phép tự do lưu thông thông tin, không cho phép một nền tư pháp độc lập hoạt động để thanh trừng tham nhũng và không cho phép tổ chức tuyển cử tự do đặng có thể thay đổi bộ máy quản lý về chính trị".

Chỉ bầu cử không thôi cũng không đủ để đảm bảo quản lý đúng đắn; Nga và Pakistan là hai minh chứng cho điều đó. Ngược lại nếu chỉ cài đặt các hệ điều hành và phần mềm hiện đại trong một đất nước nhưng không tổ chức bầu cử thường xuyên và tự do để có thể xóa bỏ các vị lãnh đạo tham nhũng, thì cũng hỏng việc. Chính vì thế các vị lãnh đạo thông thái trong các nước đang phát triển sẽ là những người hiểu nhanh nhất rằng nếu không được bầy thú giúp đỡ thì sẽ không có tăng trưởng, nếu không có các phần mềm và hệ điều hành đúng đắn thì bầy thú sẽ không đến, và nếu không có tuyển cử tự do thì sẽ không xây dựng được các cơ chế quản lý đúng đắn.

Trong khi cái lô-gic về cách mạng toàn cầu khiến tôi lạc quan tin rằng bầy thú ngày càng đóng góp nhiều hơn vào quá trình dân chủ hóa, thì thực tế vẫn khiến người ta phải thận trọng. Không có chuyện cứ trực tiếp móc nối với bầy thú thì các phần mềm sẽ tốt hơn, hệ điều hành và dân chủ sẽ được mặc nhiên chuyển đến cho bạn. Bạn phải tự hành động. Xây dựng phần mềm về cơ bản là một quá trình mang tính chính trị, có con người thực tham gia và phải chịu những kháng cự mang tính chính trị, kinh tế, lịch sử và văn hóa. Không có đường tắt và dân chúng thường phải chật vật mới học được những bài học mới. Hoa Kỳ được như ngày hôm nay là nhờ có 200 năm thăng trầm với những chu kỳ khủng hoảng trong việc đầu tư vào ngành đường sắt, những đổ bể trong hệ thống ngân hàng, những cuộc phá sản lớn, độc quyền sinh ra và độc quyền bị tiêu diệt và vụ vỡ thị trường chứng khoán năm 1929 và vụ khủng hoảng tín dụng và các khoản vay trong những năm 80. Không có chuyện nước Mỹ bẩm sinh đã trở nên giàu có.

Một lần tôi hỏi Anatoly Chubais, kiến trúc sư của cuộc cải tổ kinh tế nửa vời ở nước Nga, về những khó khăn nước này gặp phải khi chuyển sang kinh tế thị trường.

"Chúng tôi đã không có đủ người có kinh nghiệm quản lý nhà nước kiểu mới, thiếu công nghệ và thiếu thị trường, vì chúng tôi vốn dĩ không có thị trường", ông ta trả lời. "Chính thuật ngữ "thị trường" đã bị cấm sử dụng ở Liên Xô. Tôi không phải là một người già, nhưng tôi vẫn nhớ một người bạn, một kinh tế gia hồi năm 1982 đã mất việc khi viết một bài báo trong một tạp chí khoa học trong đó ông ta dùng từ "thị trường"."

Điều sau đây mới thật đáng sợ. Ngay cả khi bạn hiểu thế nào là thị trường, ngay cả khi bạn đã viết được phần mềm mới, bạn phải tiếp tục nâng cấp chúng, không ngừng. Điều gì sẽ xảy ra khi bạn có được hệ điều hành DOScapital 6.0?

Bạn sẽ phải bắt tay vào xây dựng DOScapital 7.0.

Julia Preston, phóng viên The New York Times tại Mexico một lần đã kể với tôi về một cuộc gặp mặt của các du kích quân Zapatista, nhóm nông dân chống đối những ảnh hưởng của thương mại tự do và toàn cầu hóa ở Mexico. Du kích Zapatista đã mở một cuộc họp ở vùng rừng miền nam Mexico với chủ đề "Diễn đàn liên lục địa hỗ trợ nhân văn và chống chủ nghĩa tự do kiểu mới." Phiên họp cuối cùng diễn tra trong một sân vận động lấm bùn đất và do thủ lĩnh Zapatista "Phó tư lệnh Marcos" - một nhân vật kết hợp giữa Robin Hood và Ralph Nader - chủ tọa. Phiên họp kết thúc bằng những hồi trống - và đứng trước đám đông hoan hô, những du kích quân Zapatista tuyên bố kẻ thù lốn nhất của nhân loại là Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đóng ở Geneva, kẻ đã xúc tiến tự do thương mại và đòi chấm dứt bảo hộ mậu dịch.

Câu chuyện này nhắc nhở tôi rằng trong khi là nhân tố đóng góp cho dân chủ hóa, Bầy Thú Điện Tử và những siêu thị tài chính sẽ đồng thời tạo những ảnh hưởng ngược lại. Chúng gây ra một cảm giác đang lan truyền, đặc biệt những môi trường dân chủ, rằng ngay cả khi có dân chủ, thì dân chúng vẫn có khả năng mất quyền kiểm soát vận mệnh của họ, vì thậm chí những chính phủ được bầu cũng phải chịu bó tay trước các thế lực thị trường mang đầy tính áp đặt.

Bầy thú càng sinh sôi, trưởng thành, nhanh nhẹn và có nhiều ảnh hưởng hơn, Stephen J. Kobrin, chuyên gia của Viện toàn cầu hóa Wharton lập luận, "thì những công dân càng cảm thấy tâm điểm của sự kiểm soát kinh tế và hoạch định chính trị dần dần được chuyển từ mức địa phương, nơi nó được kiểm soát, lên tầm toàn cầu, nơi không một ai đứng ra kiểm soát và không một ai trông coi. Khi chính trị mang tính địa phương, lá phiếu của bạn còn có ý nghĩa. Nhưng khi quyền lực dời sang khu vực đa quốc gia, thì sẽ không còn tuyển cử nữa và không còn ai để cho bạn bầu".

Không còn nghi ngờ gì là trong hệ thống toàn cầu hóa, nơi quyền lực được các nhà nước và siêu thị chia sẻ, một khía cạnh nhất định của việc hoạch định chính trị sẽ được chuyển từ trong nước ra khu vực thị trường toàn cầu, nơi không một ai, không một nước nào hay định chế nào có thể nắm toàn quyền - chí ít thì điều này chưa xảy ra. Hãy nhớ lại bao nhiêu lần bạn được nghe cụm từ "Thị trường nói... ", "Thị trường đang đòi hỏi... , và "Thị trường không cảm thấy yên tâm.."

Yaron Ezrahi, một nhà nghiên cứu lý thuyết chính trị người Israel nói: "Những quyền lực mang tính quyết định nhất trong lịch sử thường ẩn giấu trong lô-gic không mang tính người - chẳng hạn Chúa trời, quy luật tự nhiên, luật của thị trường - và chúng bao giờ cũng phản kháng khi sự bất tương xứng không thể chịu đựng được về tinh thần xuất hiện. Kỷ nguyên Khai Sáng chính là thời toàn cầu khoa học và triết lý và sự phản kháng đã xuất hiện khi những tên trộm, những kẻ tội phạm, những kẻ lừa đảo và những kẻ bóc lột thanh minh rằng tất cả những điều chúng làm là nhân danh khoa học và biện chứng. Toàn cầu hóa ngày nay cũng có thể như vậy. Nhiều người sẽ coi đó không hơn gì một thứ mặt nạ do những kẻ thượng lưu nào đó tron gkinh tế sử dụng để tước đi của con người ta quyền được phát ngôn. Chính vì thế mà một số người đã lập luận rằng giới toàn cầu hóa trong mỗi xã hội đều muốn rằng trước tiên họ sẽ mua chuộc giới truyền thông, vì họ muốn quy phục những người dân có khuynh hướng bất phục toàn cầu hóa, biến họ thành những người tiêu dùng. Biến chính trị thành một môn thể thao mang tính thưởng ngoạn chính là một trong những qua trình hỗ trợ cho toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa biến công dân từ chỗ là nhân vật chính trở thành những kẻ đứng ngoài cuộc nhưng lại có ảo tưởng là mình vẫn ở trong cuộc".

Càng ngày dân chúng trong một nước có cảm giác rằng hệ thống toàn cầu hóa được chỉ đạo từ xa, thì họ càng có lý do để chống đối những người tuyên truyền cho toàn cầu hóa. Bộ trưởng Kinh tế Yousef BoustrosGhali của Ai Cập có lần đã phát biểu: "Toàn bộ quá trình toàn cầu hóa rất dễ mang tính mị dân. Những người chống lại cải cách sẽ chỉ vào những người muốn mở cửa kinh tế để đón đầu tư nước ngoài rằng, "thằng cha này là phản lại sự nghiệp của chúng ta, vì hắn muốn mở cửa hệ thống để đón người ngoài". Và bạn sẽ nói, "Vâng, nhưng để cho các thị trường tự điều chỉnh giá cả thì sẽ đạt hiệu quả cao hơn". Và những người chống đối lại quay ra nói, "Đừng có rồ dại? Thị trường là do người nước ngoài kiểm soát. Làm sao chúng ta có thể để cho thị trường nội địa của chúng ta tự định giá khi chúng bị người nước ngoài kiểm soát?"

Quả thực một trong những thách thức lớn nhất khi xây dựng lý thuyết chính trị trong kỷ nguyên toàn cầu hóa là làm thế nào để người dân hiểu rằng họ có thể tự quyết, không những về hoạt động của chính phủ của họ mà còn về một số quyền lực toàn cầu hiện đang nhào nặn cuộc sống của họ. "Các thế lực thị trường và các định chế nhà nước thường khác nhau về tư cách hành xử, vậy thì cần phải có một nền dân trí mang tính quyết định để có thể phòng ngừa những bất công xảy ra", Ezrahi nói, "Vai trò quyết định đó chính là cốt lõi của xã hội công dân và nền quản lý dân chủ - bảo vệ và xây dựng sinh hoạt công cộng và tập thể. Tai họa sẽ đến nếu bạn để cho cuộc sống cộng đồng và tập thể bị chi phối bởi những thế lực nằm bên ngoài nền chính trị của đất nước của bạn". Môn học xã hội công dân cho con cháu chúng ta sẽ phải vượt khỏi khuôn khổ các chủ đề về chính phủ địa phương, bang và liên bang, sang những chủ đề liên quan tới mối quan hệ giữa các nước và các siêu thị tài chính, quan hệ giữa nhà nước và các cá nhân được trang bị những công nghệ tiên tiến, và quan hệ giữa những cá nhân đó với các siêu thị tài chính. làm sao chúng ta có thể đối phó với một thế giới trong đó Bầy Thú Điện Tử có khả năng hàng ngày bầu chọn các chính phủ, trong khi các chính phủ đó không thể bỏ phiếu trực tiếp quyết định hành xử của bầy thú? Ai sẽ là người quản lý quan hệ giữa bản thân tôi và Internet, quan hệ giữa bản thân tôi và những siêu thị tài chính và quan hệ chính phủ của tôi với các siêu thị tài chính? Xin mô phỏng lời nói của Larry Summers, đây là tình thế "bế tắc cả ba mặt mang tính toàn cầu"

Có một lợi thế bạn có thể thấy trong hệ thống toàn cầu hóa đó là nó không phân biệt đối xử - nó có thể khiến cả quốc gia yếu kém cũng như quốc gia hùng mạnhcó cảm giá bất lực và chịu chỉ đạo của những thế lực không bị kiểm soát và cũng không được lựa chọn. Tôi đã đến gặp Bộ trưởng Tài chính Mexico, ông Guillermo Ortiz ngay sau khi đồng peso của nước này bị phá giá năm 1995. Ông ta ngồi bên bàn, gắn chặt vào máy vi tính, trên màn hình, ông ta thấy từng giây, từng giây, đồng tiền này mất giá, giống như một bệnh nhân đang suy tim.

"Hãy ngưng chiến", Oriz nói với thị trường thế giới. "Chúng mày đánh tao đến chết rồi. Ngưng lại, đừng có bán rẻ (peso) nữa". Khi tôi hỏi ông ta có cảm nghĩ như thế nào khi bị các thị trường toàn cầu hành hạ, đeo đuổi ông ta để khoác lên cho ông chiếc áo nịt nạm vàng, Ortiz khoác tay chỉ vào màn hình của ba chiếc máy vi tính trước mặt, chỉ mức lên xuống từng giây của peso, và nói: "Có những ngày tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Thỉnh thoảng tôi phải chuyển sang làm việc ở một phòng khác, để không bị những màn hình này phân tâm".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 27-3-2013 19:18:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10
TẠO LẬP, THÍCH NGHI VÀ NHỮNG CÁCH TƯ DUY MỚI KHÁC VỀ QUYỀN LỰC

Redmond, Wash., 21/10/1997 - Đáp lại những lời cáo buộc của Bộ Tư pháp, Tập đoàn Microsoft hôm ngay thông báo rằng họ sẽ mua Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ với giá chưa được tiết lộ: "Đó là sự tăng trưởng tự nhiên trong kế hoạch của chúng tôi", Chủ tịch Microsoft Bill Gates nói. "Đó sẽ là một dàn xếp tốt đẹp cho mọi người".

Đại diện của Microsoft cùng Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã tổ chức một cuộc họp báo tại Phòng Bầu Dục của Nhà trắng và trấn an giới báo chí rằng những thay đổi sẽ được giữ ở "mức tối thiểu". Chính phủ Hoa Kỳ sẽ trở thành một chi nhánh trực thuộc Microsoft.

Một đợt phát hành cổ phiếu lần đầu dự định sẽ được tiến hành vào tháng bảy sang năm, và dự kiến Chính phủ Liên bang sẽ có lãi, muộn nhất là vào "quý 4, năm 1999" theo lời Tổng giám đốc Microsoft Steve Ballmer.

Trong một thông báo liên quan, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố ông "sẵn lòng và hăng hái" chấp nhận chức Phó tổng giám đốc Microsoft, và sẽ tiếp tục quản lý Chính phủ Mỹ, trực tiếp nằm dưới quyền Bill Gates. Được hỏi là ông nghĩ thế nào về việc chuyển giao quyền lực hành pháp thiêng liêng của đất nước vào tay Gates, Clinton cười và nói ông thấy "nhẹ người". Ông nói tiếp rằng Gates có một "quá trình làm việc tuyệt vời" và công dân Hoa Kỳ nên "hoàn toàn ủng hộ và tin tưởng" Gates. Có tin cho biết trong cương vị mới ở Microsoft, Clinton sẽ thu nhập cao hơn nhiều lần mức lương tổng thống 200.000 đô-la hiện nay.

Gates coi đề nghị cho dời Quốc hội Mỹ về Redmond là "nhảm nhí", mặc dù ông có nói là sẽ vạch quyết định quản trị chính phủ từ đại bản doanh của Microsoft. Gates nói tiếp rằng cả Thượng viện và Hạ viện "dĩ nhiên" sẽ bị giải tán. "Microsoft không phải là một nền dân chủ", ông nhận xét, "nhưng hãy xem chúng tôi làm ăn tốt ra sao". Khi được hỏi về những lời đồn đại về chuyện hãng này có thể mua luôn Chính phủ Canada, Gates nói, " Chúng tôi không bác bỏ tin nói rằng đàm phán đang diễn ra". Đại diện của Microsoft đã kết thúc cuộc họp báo bằng tuyên bố rằng các công dân Hoa Kỳ sẽ được giảm thuế, hưởng thêm các dịch vụ của Chính phủ và được giảm giá khi mua các sản phẩm Microsoft.

Nói thêm về Microsoft: Sáng lập năm 1978, Microsoft (Mã số MSFT trên thị trường NASDAQ) là hãng đứng đầu thế giới về các phần mềm dùng cho máy tính cá nhân và các chính phủ dân chủ. Công ty cung ứng nhiều dạng sản phẩm và dịch vụ đến dân chúng, doanh nghiệp và cá nhân. Sản phẩm được thiết kế để hàng ngày, người dùng thích dùng và thấy dễ dàng hơn trong công việc tận dụng lợi thế của máy tính cá nhân và xã hội tự do.

Nói thêm về Hoa Kỳ: Sáng lập năm 1780, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là đất nước thành công nhất trên lịch sử thế giới, và đã trở thành biểu tượng của dân chủ và cơ hội trong hơn 200 năm. Đại bản doanh ở Washington, D.C., Hoa Kỳ nay trở thành một chi nhánh của tập đoàn Microsoft.

Bản tin hài hước về Microsoft,

tác giả khuyết danh, đăng trên Internet.

----------------------

Một ngày mùa thu năm 1995 tôi đọc tờ Financial Times và một bức ảnh trên trang nhất lôi cuốn sự chú ý của tôi. Trong ảnh là Bill Gates, Chủ tịch Microsoft trò chuyện với Giang Trạch Dân, Chủ tịch Trung Quốc. Chú thích của bức ảnh gây cảm tưởng rằng đây là một cuộc họp thượng đỉnh của hai nhà lãnh đạo thế giới. Chú thích viết hai vị đã nói chuyện "thân mật" ngược hẳn với cái không khí trong cuộc gặp mặt của họ trước đó 18 tháng. Tôi nghĩ, Bill Gates gặp Giang Trạch Dân tận hai lần trong vòng 18 tháng - trong khi xưa nay Bill Cliton chỉ gặp Giang có một lần. Cũng không phải ngẫu nhiên. Dường như người Trung Quốc tin rằng đã đến lúc họ cần Bill G hơn là Bill C. Và ai có thể trách họ được? Người Trung Quốc lấy làm phật lòng khi thấy bản dịch tiếng Trung của hệ điều hành Window 3.1 lại do các nhà ngôn ngữ máy tính Đài Loan thực hiện - sử dụng kiểu chữ và bộ mã Đài Loan. Không gì có thể khiến Trung Quốc lục địa tức giận hơn là chuyện Đài Loan gọt giũa phần mềm và hệ điều hành cho toàn bộ các máy tính của người Trung Quốc. Hậu quả là nhà chức trách Trung Hoa cho phong tỏa các cửa khẩu không cho hệ điều hành Window 95 vào thị trường của họ cho đến khi Microsoft chấp nhận để cho phiên bản phần mềm tiếng Trung do Microsoft và một công ty máy tính trên lục địa cùng sản xuất.

Đọc bài báo và chú thích của nó, tôi có ý nghĩ là liệu đã đến lúc những thuộc tính của công ty và của đất nước nay được hòa lẫn vào nhau. Cũng giống như việc móc nối công ty của bạn vào nền kinh tế toàn cầu, nay bạn đưa đất nước của bạn vào thị trường chứng khoán - như một công ty có cổ đông trên toàn cầu. Điều này làm cho đất nước có cảm giác giống một tập đoàn sản xuất và kinh doanh. Dân chúng cư xử như những cổ đông, lãnh đạo thì như các giám đốc và nhà phân tích chính sách đối ngoại thì hành động như các cơ quan giám sát mức tín dụng khả tín.

Trong khi đó, Internet tiếp tục trở thành bộ phận cấu thành trong cuộc sống của công dân, công dân sẽ tiếp tục gây áp lực lên các chính phủ và hệ thống luật pháp, buộc chúng phải hoạt động với tốc độ Internet. Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh, khoảng cách giữa công ty và chính phủ là có, nhưng không lớn, IBM và General Motors đã hoạt động giống như cung cách của chính phủ liên bang hay như điện Kremlin vậy. Giờ đây khoảng cách hầu như không còn - chính vì thế nhu cầu cho hình thức chính phủ điện tử tăng lên. Tại sao bạn phải chờ suốt sáu tiếng tại một văn phòng của huyện lỵ để được gia hạn bằng lái xe, trong khi bạn có thể mua cả một chiếc xe hơi trên mạng? Ngày lại ngày, dân chúng sẽ đòi hỏi dịch vụ của nhà nước Hoa Kỳ phải nhanh hơn và dễ sử dụng hơn, nhanh như dịch vụ họ có được khi vào mạng Hoa Kỳ (America Online). Khi chúng ta thấy được cách sống của đồng loại thì các chính phủ sẽ phải hứa hẹn với mỗi chúng ta những điều tương tự, những điều tốt đẹp hơn, mà ta thấy có ở nơi khác. Và để làm việc đó, chính phủ phải ứng xử theo cung cách của công ty. Nói cách khác dân chúng càng đòi hỏi chính phủ hoạt động nhanh và hiệu quả như Amazon.com thì chính phủ càng phải tổ chức hoạt động giống hoạt động của công ty Amazon.com

Mặt khác, các bộ máy nhà nước chịu áp lực phải hoạt động giống như các công ty vì trong thời đại toàn cầu hóa, hơn bao giờ hết, các quốc gia phải lựa chọn giữa sự thịnh vượng - tùy thuộc vào các chính sách mà họ theo đuổi - với khả năng công dân của họ tự động đòi hỏi bằng được sự cải thiện quản lý để được thịnh vượng. Khi dân chúng ngày càng nhận thức thấy chính phủ của họ chỉ sử dụng hệ điều hành DOScapital 1.0 trong khi chính phủ láng giềng đang có phiên bản 6.0, họ sẽ chất vấn: Vì sao? Dân chúng sẽ hiểu là không như thời kỳ Cách mạng Công nghiệp, các quốc gia ngày nay không còn bị lệ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vào địa lý hay lịch sử. Ngày nay bất cứ nước nào cũng có thể kết nối vào Internet, tìm kiếm tri thức từ đó và tổ chức đào tạo; bất cứ nước nào cũng có thể tìm đến những nhà đầu tư nước ngoài để thu hút tiền vào những dự án hạ tầng của nó; bất cứ nước nào, sau một thời gian, cũng có thể áp dụng hệ điều hành DOScapital 6.0. "Trong năm nay, nền kinh tế nào tăng trưởng nhanh nhất thế giới?" Tổ chức Economist Intelligence Unit đặt câu hỏi hồi năm 2000. "Mozambique. Mozambique có nền kinh tế có tốc độ tăng nhanh nhất trong bốn năm qua. GDP tăng bình quân 10%. Botswana trong cùng thời gian tăng bình quân 7% một năm. Mặc cho những khó khăn ở châu Phi như khí hậu và bệnh dịch, ổn định chính trị và những chính sách tài chính đúng đắn và những cải cách thương mại có thể tạo ra phép màu, thậm chí ngay tại các quốc gia nghèo nhất".Mozambique và botswana đã lựa chọn sự thịnh vượng. Giáo sư Michael Porter của Trường Kinh doanh thuộc đại học Havard có lần đã phát biểu: "Sự giàu có của một quốc gia ngày nay là thành quả cơ bản của sự lựa chọn tập thể. Vị trí, tài nguyên thiên nhiên và sức mạnh quân sự không còn là những yếu tố quyết định. Thay vào đó, cung cách mà nhà nước và dân chúng lựa chọn việc tổ chức và điều hành kinh tế, điều hành những bộ máy quản lý và loại hình đầu tư cho mọi người, tất cả sẽ quyết định mức thịnh vượng của quốc gia".

Trong toàn cầu hóa nếu các quốc gia lựa chọn sự thịnh vượng giống như cách các công ty lựa chọn,thì họ phải có những chính sách và kỹ năng gì? Trong phần cuối của chương này sang đến chương sau, dựa vào tham khảo những công ty và nhà nước thành công nhất trên thế giới, tôi sẽ liệt kê một danh sách các chính sách và kỹ năng đó. Ngày nay, khi đến một đất nước, để đánh giá sức mạnh kinh tế và tiềm năng của đất nước đó, trước hết, tôi đặt hai câu hỏi.

TÌNH HÌNH KẾT NỐI MẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC HAY CỦA CÔNG TY CỦA BẠN RA SAO?

Tháng 10/1995 tôi bay sang Redmond, Washington, để phỏng vấn nhân vật số hai của Microsoft, Tổng giám đốc Steve Ballmer. Tôi hỏi ông một câu đơn giản: Microsoft là công ty quan trọng nhất Hoa Kỳ ngày nay, vậy Microsoft đo lường như thế nào về quyền lực trong cách nghĩ của mình? Khi nhìn ra thế giới, những nước nào mà Microsoft cho rằng mạnh nhất và vì sao? Ballmer hồi đó đã đưa ra một lời đáp đơn giản: "Chúng tôi đánh giá quyền lực bằng một tỷ lệ - số máy vi tính trên số hộ gia đình". OK, tôi nói vậy hãy cho tôi xem bản đồ của Microsoft phân hạng quyền lực trên thế giới. Ông ta nói khu vực Microsoft tăng trưởng nhanh nhất là Á châu, nơi Hàn Quốc có mức sở hữu máy vi tính cao nhất theo số hộ. Tỷ lệ ở Nhật Bản đang tăng lên, ông ta nói, nhưng Microsoft rất hứng khởi khi nhìn vào Trung Quốc.

"Sao ông có thể ưa thích Trung Quốc?' Tôi hỏi, "dân chúng ở đó thu nhập có 50 đô-la mỗi tháng".

"Ồ, anh không hiểu", Ballmer trả lời. Ông ta đến bên một tấm bảng đen, gạch hai vạch ngắn vào một bên, hai vạch ngắn ở bên kia, hai vạch ngắn ở chân bốn vạch đó và một vạch cuối cùng ở đáy, rồi nói: "Hai ông bà ngoại, hai ông bà nội, rồi tới hai bố mẹ, tất cả tập trung tiết kiệm để mua hệ điều hành Window 95 cho một cháu bé". Chính thế, chính sách dân số ở Trung Quốc đang hậu thuẫn cho Microsoft.

"Ông nói tiếp đi, còn nơi nào khác trên thế giới?" Tôi hỏi.

Ballmer nói Brazil và Ấn Độ cũng đang chạy theo, số lượng máy tính trên số gia đình tăng nhanh. Nhưng Trung Đông là vùng không thấy động tĩnh, suốt từ Ma Rốc sang tới Pakistan, ngoại trừ Israel, nơi Microsoft có một trung tâm phát triển máy tính - một mức quyền lực khác hẳn - và Arập Sêút nơi người Ai Cập đang chạy phần mềm Microsoft cho các hãng đa quốc gia. Tây Âu có tiềm lực mạnh được phân bố ở khắp nơi, Ballmer nói, ngoại trừ một nước - Pháp. "Tôi không muốn nói là (Pháp) bị tụt hậu", Ballmer nói, "đây là nơi vốn dĩ số lượng máy tính so với số dân là cao, nhưng thời đó qua rồi".
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 27-3-2013 19:19:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10
(tiếp theo)

Tôi gọi tấm bản đồ của Ballmer là "Chính sách đối ngoại 3.1". Ba năm sáu đó, 1998, tôi quay lại để cập nhật thông tin. Lần này tôi vào Thung lũng Silicon và hỏi chuyện các giám đốc các công ty hàng đầu đóng ở đó - Intel, Sun và Cisco - và các giáo sư khoa cơ khí của đại học Stanford, xem họ đo lường quyền lực như thế nào? Thật thú vị, tôi thấy mọi thứ thay đổi nhanh quá. Họ nó vào năm 1998, Thung lũng Silicon không còn chỉ đo đạc theo tỉ lện máy tính trên số hộ dân nữa - họ đo bằng "mức kết nối máy tính".

Điều quan trọng giờ đây, họ nói, là đất nước của bạn nối máy tính đến được những đâu, vào tận đâu, vào công ty, trường học và các tụ điểm, giải trí, và cài đặt mạng nội bộ Intranet và với Internet và World Wide Web. Mức độ kết nối thường được đo kích thước các giải tần ở mỗi nước: công suất của cáp, đường điện thoại và cáp quang để truyền tải liên lạc bằng kỹ thuật số - những bộ mã hiệu gồm số 1 và 0 - trong các mạng liên lạc. Trong những năm 80, phương châm của máy tính là "bộ nhớ dù lớn bao nhiêu cũng vẫn chưa đủ", thì phương châm máy tính trong thời đại mạng là "Giải tần dù lớn bao nhiêu cũng không thừa".

Càng nhiều giải tần thì mức nối kết càng cao. Nếu bạn muốn biết mức độ kết nối của đất nước của bạn bạn hãy đo chúng bằng thông số " Megabits trên đầu người" - giải tần có tổng số dung lượng cao đến đâu chua cho số lượng người dùng tiềm năng. Megabits/người giờ đây cùng với số máy tính/hộ dân, trở thành một thước đo chủ yếu đo đạc tiềm lực mà Thung lũng Silicon sử dụng. Chúng sẽ cho bạn biết mức độ thông tin được phân bổ trong dân chúng và trong mối liên lạc giữa dân chúng và bộ máy lãnh đạo. Công ăn việc làm, tri thức và tăng trưởng kinh tế sẽ đến với những xã hội có mức kết nối cao bằng các giải tần - vì trong những đất nước đó người ta có thể dễ dàng quy tụ, chuyển giao và chia sẻ tri thức để thiết kế, sáng tạo, sản xuất, bán, cung cấp dịch vụ, liên lạc, giảng dạy và giải trí. Khả năng kết nối nay trở thành hiệu quả sản xuất.

Brian Reid, thành viên quản trị của hãng Digital Equipment Corportation, một trong những người có công đầu trong việc xây dựng Internet đã nói với báo The New York Times (tin ngày 8/12/1997): "Trong kỷ nguyên thông tin, giải tần là hệ thống chuyển tải mà trên đó các công ty bán sản phẩm của họ. Hồi những năm 90 giải tần có tầm quan trọng đối với doanh nghiệp không kém gì mạng đường xe lửa hồi 1890, hay những cảng biển hồi 1790. Đó là phương thức để cho bạn bán hàng".

John Chambers của hãng Cisco thích nhận xét rằng những công ty và những đất nước phát triển nhanh trong nền kinh tế Internet là những nơi người ta nắm bắt được tầm quan trọng của nó và nhanh chóng nối mạng trước khi những nơi khác trở tay. Nếu bạn làm được điều đó nhanh hơn các đối thủ của bạn, Chambers nói, thì bạn có thể nói với họ là "Anh đã chậm chân".

Khi chúng ta nhanh chóng tiến vào một thế giới mà Internet định hình thương mại, giáo dục và thông tin, thì chỉ còn hai loại thương vụ tồn tại: thương vụ Internet và thương vụ phản Internet. Thương vụ Internet là những hoạt động diễn ra trên mạng: mọi thứ từ bán sách báo đến môi giới và đánh bạc; hay những dịch vụ được Internet hỗ trợ, từ việc tư vấn quản lý đến việc kiểm soát hàng tồn kho. Thương vụ phản Internet là những gì không thể thực hiện trên mạng - như nấu ăn, cắt tóc và luyện thép - và những dịch vụ được thực hiện như thể chống lại Internet: những siêu thị hàng hóa và những chuỗi cà phê Starbucks chẳng hạn. Starbucks và các siêu thị hàng hóa chống lại các thương vụ Internet vì chúng được hưởng lợi từ một thực tế: ngày càng có nhiều người ở nhà làm ăn trên mạng... Những người này sau khi nhìn máy tính quá lâu sẽ muốn ra khỏi nhà đến siêu thị, xuống phố lớn và vào hàng cà phê để họ có thể trực tiếp cọ xát với người khác, ngửi mùi vị khác, nếm món gì đó hay cảm nhận điều gì đó. Hàng hóa bao giờ cũng cần được trưng bày cho người ta tự sờ mó được hay cảm nhận; dân chúng bao giờ chẳng muốn thâm nhập cộng đồng, dù đó là ở trên phố hay trong siêu thị.

Khi Internet trở thành xương sống của thương mại, giáo dục và liên lạc toàn cầu, chất lượng và quy mô của hoạt động trên mạng trong các nước sẽ góp phần xác định sức mạnh kinh tế của các nước đó. Vậy theo những tiêu chí mới đó thì ngày nay ai thành công, và ai thất bại? Thung lũng Silicon lo sợ trước Đài Loan, khi còn hòn đảo này trưng ra khả năng sáng tạo, kết nối và thực trạng kinh doanh năng động, tất cả tập trung tận dụng công nghệ mới. Nếu Đài Loan được bán như một thứ cổ phần, tôi sẽ là người mua. Hoa Kỳ, Anh, Canada, Australia, Bắc Âu, Iceland, israel, Ý, Singapore, Costa Rice và Ấn Độ cũng nằm trong tiêu chuẩn đó. Costa Rica đang thực hiện một chính sách cung cấp cho mỗi học sinh trung học của họ một địa chỉ email. Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đang phát triển nhanh sau khi họ bị tụt hậu trước đó. Không còn lâu nữa ta sẽ thấy Singapore không còn là nơi duy nhất tổ chức cuộc thi "Hoa hậu Internet". Một chú thích dưới bức ảnh hoa hậu Internet người Singapore đăng trên tờ USA Today (19/1/1999) ghi: "Singapore thực sự nghiêm túc phát triển kỷ nguyên digital nên đã tổ chức thi Hoa hậu Internet. Stella Tan (người ngồi) đã thắng cuộc hồi tháng Tám. Điều kiện dự thi là các thí sinh phải mặc đồng phục doanh nhân và biết thiết kế mạng".

Từ Bert part đến Bill Gates; cỡ vòng eo lạc hậu rồi - giờ đây là giải tần Internet.

Câu hỏi lớn tiếp theo: sau đây là gì? Sau tỷ lệ máy tính trên số hộ gia đình và mạng điện toán trên đầu người, cái gì sẽ được dùng làm chuẩn mực để đo đếm sức mạnh kinh tế?

Câu trả lời gồm hai mức: "Evernet", một thế giới trong đó chúng ta có thể vào mạng ở mọi nơi, mọi lúc - thông qua một số thiết bị thông tin như: máy truyền hình, máy tính, máy nhắn, fax, lò nướng bánh mì hay email... chẳng hạn.

Tất cả những đồ dùng chạy bằng điện giờ đây đang được lắp các phần mềm, nối với các hệ thống mạng trong tư gia hay văn phòng của bạn. Evernet sẽ đến khi Internet không còn bị giới hạn ở máy vi tính mà có thể được sử dụng qua nhiều thiết bị thông tin khác. Bạn sẽ tự quyết định truy cập ra sao? Qua đồng hồ đeo tay, máy điện thoại di động hay máy tính, hoàn toàn tùy thuộc ở bạn.

Khi Evernet trở thành trào lưu, thì thước đo dùng để đánh giá các quốc gia chính là khả năng kết nối mạng của đất nước. Tiêu chuẩn sẽ là khả năng dân chúng được vào mạng, vào lúc nào, vào ở đâu và những dịch vụ cung cấp qua mạng sẽ phong phú đến đâu. Chẳng hạn có bao nhiêu người trong hộ của bạn có thể sử dụng thiết bị chuyển hóa âm thanh, tiếng nói thành chữ nghĩa trên màn hình - một dịch vụ trên mạng - để họ có thể giao thiệp bằng âm thanh qua mạng? Evernet có thể cho phép đến đâu việc giao lưu trực tiếp bằng hình ảnh, âm thanh, đối thoại trực tiếp với nhau từ khắp nơi trên quả đất với chi phí tối thiểu? Có bao nhiêu cơ sở giáo dục trên đất nước của bạn mở những khóa học trên mạng để mọi người từ khắp mọi nơi đều được vào học? Trình độ mã hóa của Evernet giỏi giang đến đâu để những thông số và chi tiết của thẻ tín dụng được giữ bí mật khi giao dịch, tránh những kẻ cắp trên mạng? Những thiết bị truy cập được thiết kế tiện lợi đến đâu để người ta có thể bỏ túi khi đi lại?

CÔNG TY HAY ĐẤT NƯỚC CỦA BẠN CÓ QUYỀN TẠO LẬP HAY CHỈ ĐÓNG VAI TRÒ THÍCH NGHI?

Mặc dù nối mạng Evernet trở thành đòi hỏi cần thiết để công ty hay đất nước của bạn khuyếch trương kinh tế, điều đó vẫn chưa đủ. Đó mới chỉ là một nửa của câu chuyện về đánh giá tiềm lực. Nửa kia chính là khả năng công ty hay chính phủ của bạn tận dụng, một cách hoàn hảo và sáng tạo, lợi thế của mạng điện toán Evernet. Sức mạnh không những sẽ đến với những nơi được nối mạng nhiều nhất, mà sẽ đến với những người có khả năng tập hợp các công ty, chính phủ, vốn, thông tin, người tiêu dùng và các tài năng vào một liên minh được nối mạng, tất cả để sản sinh các giá trị mới. Có thể là giá trị về thương mại. Có thể là giá trị (sức mạnh) thể hiện ở địa lý và chính trị, liên minh do chính phủ đứng đầu. Có thể là những giá trị nhân văn - quyền của người lao động, bảo vệ môi trường - loại liên minh do các nhà hoạt động nhân quyền điều phối.

Trong hệ thống đó, các công ty, chính phủ và các nhà hoạt động sẽ trở thành điều mà John Hagel III của công ty McKinsey gọi là những nhân tố "tạo lập" hoặc "thích nghi". Những nhân tố tạo lập và những công ty chính phủ và các nhà hoạt động có vai trò khởi đầu những luật lệ và hoạt động tương hỗ, quản lý một hoạt động nhất định trong thế giới Evernet - một hoạt động sinh lãi, gây một cuộc chiến, hay gây áp lực để một chính phủ hay một công ty phải tôn trọng nhân quyền hơn nữa. Nhân tố thích nghi là những công ty, chính phủ và các nhà hoạt động đứng ra tuân thủ những luật lệ và hoạt động tương hỗ đã được khởi đầu, họ áp dụng có sửa đổi, dựa trên những đặc điểm riêng của họ. Một khi liên hệ với nhau chặt chẽ và được nối vào Evernet, sức mạnh sẽ được tập trung vào tay các nhân tố tạo lập lớn nhất. Bạn đã thấy trên thế giới các cuộc tranh đấu để lựa chọn các công ty, chính phủ và các nhà hoạt động hay các cá nhân, để trở thành các nhân tố tạo lập, đưa ra các tiêu chuẩn và luật lệ - bởi một khi bạn giới thiệu một tiêu chuẩn mới trong một thế giới có liên hệ chồng chéo và không còn rào cản, thì phạm vi ứng dụng của nó sẽ rất rộng. Nó có thể ảnh hưởng tới phong cách ứng xử và thói quen mua bán của một lượng khổng lồ người tiêu dùng từng bên này sang bên kia trái đất.

Một ví dụ hay về một nhân tố tạo lập trong kinh tế đó là eBay, một trang dịch vụ đấu giá trên Internet. Không rõ từ đâu đến, nhưng trong vòng ba năm, nó đã đưa ra một hệ thống luật lệ và thủ tục giao lưu để điều tiết việc khách hàng vào mua bán trên mạng. eBay đưa người bán và người mua ngồi lại với nhau và tạo một khu chợ để họ giao dịch, nằm ngoài tất cả những quảng cáo và rao vặt hay những trung tâm giao dịch thông thường. Mỗi người vào bán hàng ở eBay được khách hàng của anh ta/ hay chị ta bầu tín nhiệm/ hay bất tín. Bạn không thể lừa đảo vì nếu làm như thế dù chỉ một lần, thì tất cả những khách hàng khác trên khắp nơi sẽ biết ngay, và rất khó cho bạn vào bán hàng lần sau. Một khi xuất hiện những tiêu chuẩn như của eBay, thì sự cạnh tranh sẽ được chuyển sang một lĩnh vực khác hoặc câu hỏi tiếp theo sẽ là: ai là người có thể áp dụng tiêu chuẩn của eBay một cách hữu hiệu nhất. Và giờ đây bạn không chỉ thấy có những cá nhân vào mua bán ở eBay một cách đơn lẻ, bạn có thể thấy cả những công ty được dựng lên để vào giao dịch trong trang mạng này. Bạn muốn nhiều người khác áp dụng tiêu chuẩn của bạn và hưởng lợi từ đó, vì làm như thế sẽ tạo được sự ổn định và sự cam kết giữa các bạn hàng, đồng thời sẽ xuất hiện những sáng kiến liên quan và không ngừng cải thiện tiêu chuẩn bạn đề ra. Sự xuất hiện của Evernet sẽ cho phép người ta thiết lập ra nhiều dạng eBay khác trong nhiều ngành - xây dựng dân dụng cho tới việc mua bán sắt thép hay đồ nhựa. Những chợ đầu mối như vậy quy tụ kẻ bán người mua trong một ngành nhất định - cho phép mua, bán, trao đổi hiệu quả cao hơn trên quy mô toàn cầu và cho phép chia sẻ kỹ năng buôn bán. Nếu công ty hay đất nước của bạn trở thành nhân tố tạo lập của một hay nhiều chợ đầu mối như vậy - E-Steel (thép), E-rubber(cao su), E-cement (xi măng) - trong thế giới Evernet, thì đó sẽ là một nguồn sức mạnh thực sự. Bởi vì phạm vi hoạt động của các thị trường đó là toàn cầu, và một khi đã hình thành, như eBay chẳng hạn thì khó lòng phá đi được. Trong mỗi ngành chỉ có một hai chợ như vậy mà thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 27-3-2013 19:20:55 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10
(tiếp theo)

Microsoft là một nhân tố tạo lập khác. Nó đã quy tụ người tiêu dùng và các công ty vào một tấm lưới, dùng công nghệ, tiêu chuẩn, phần mềm và các hệ điều hành bao phủ lên họ. Để trở thành một nhân tố tạo lập, bạn phải có tài thu hút nhiều các nhân tố thích nghi. Nhưng chìa khóa để thu hút nhiều nhân tố thích nghi đến với tiêu chuẩn của bạn là ở chỗ bạn phải có khả năng sáng tạo ra nhiều giá trị cho những người khác - một sản phẩm mới, một giá trị nhân văn hay một tập hợp các luật lệ mang tính địa - chính trị. Nếu người ta trở nên miễn cưỡng đứng trong mạng lưới của bạn, trước sau họ cũng phản kháng, bước khỏi đó và tìm đến một hệ giá trị khác. Vậy thì một điều mà nhân tố tạo lập cần phải hiểu đó là liệu anh ta có để phần cho những người khác - một chút thức ăn trên bàn - để những người khác cảm thấy có lợi trong việc áp dụng những tiêu chuẩn của anh ta hay không. Hay là, anh ta tham lam, ngấu nghiến ăn hết phần của mọi người, hưởng hết lộc mà tiêu chuẩn của anh ta mang đến. Nếu eBay thiết lập cả một thị trường mới để làm ăn, nhưng lại bao biện hết các thương vụ có lời thì dần dần, người ta sẽ chẳng thấy gì hay ho trong eBay nữa, họ bỏ đi, và eBay sẽ sụp đổ. Lòng tham của Microsoft và tính miễn cưỡng khi để dành cơ hội cho những người khác như hãng Netscape chẳng hạn, trong việc cho hãng này sử dụng hệ điều hành của Microsoft, đã dẫn tới vụ khiếu kiện của Bộ Tư pháp dành cho Microsoft theo luật chống độc quyền - đồng thời khiến cho các hãng khác tạo lập những tiêu chuẩn Internet mới. Chìa khóa để trở thành một nhà tạo lập là đừng có tham lam như lợn - như Microsoft.

Không phải bất cứ nhà tạo lập nào ban đầu đã có ý tưởng tạo lập. Hãng máy tính Dell là một ví dụ. Khởi đầu là một nhân tố thích nghi, Dell đã tận dụng những kỹ thuật sẵn có của IBM, thích nghi chúng bằng một loạt kỹ thuật sản xuất đầy sáng tạo. Dell trở thành một phần của dây chuyền của IBM. Sau đó Dell trở thành một nhân tố tạo lập. Dell đã sáng lập ra những phương thức mới sử dụng Internet để đến với khách hàng và quản lý các nhà phân phối và tài sản của hãng. Làm như thế Dell đã hình thành được một dây chuyền của riêng họ và IBM quay lại trở thành một kẻ tự thích nghi khép mình vào những kỹ thuật sản xuất và quản trị dựa trên Internet do Dell sáng chế.

Nguyên tắc như trên cũng được áp dụng trong lĩnh vực địa - chính trị. Hoa Kỳ ngày nay là một nhân tố tạo lập về mặt địa - chính trị. Nói Hoa Kỳ chịu trách nhiệm về toàn cầu thì hơi quá, nhưng đây là một đất nước có khả năng cao nhất hiện nay để có thể nhào nặn các liên minh để quản trị nền toàn cầu hóa theo thể thức địa-chính trị. Chẳng hạn, trong thế giới ràng buộc hơn hiện nay, Hoa Kỳ đã huy động các mặt, tiền, thông tin và sức mạnh quân sự để có thể vào cứu những người dân Albania ở Kosovo, khi họ bị Nam Tư trục xuất, năm 1999. Hoa Kỳ đã sáng lập khá nhiều luật lệ trên đó Tổ chức Thương mại Thế giới hoạt động và theo đó Trung Quốc có thể gia nhập tổ chức này. Hoa Kỳ đã định hình phản ứng của Liên Hiệp Quốc đối với Tổng thống Saddam Hussein của Iraq. Các nước NATO ngoài Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nga thường là những nhân tố thích nghi, mặc dù có lúc họ chỉ thích nghi một cách miễn cưỡng.

Hoa Kỳ và Anh là hai nhân tố tạo lập ra chiếc áo nịt nạm vàng cùng những siêu thị tài chính. Trong thế giới ràng buộc hiện nay, những luật lệ liên quan tới chiếc áo nịt nạm vàng đã trở thành khuôn mẫu, tiêu chuẩn được áp dụng rộng rãi nhất cho việc tăng trưởng. Những luật lệ đó cũng đã tạo ra những hệ thống giá trị qui định các hành xử trong thương mại và dịch vụ - từ đó Hoa Kỳ và Anh là hai nước được hưởng lợi rất nhiều. Ngày nay càng có nhiều quốc gia khác nhận thức thấy lợi ích của việc mặc chiếc áo nụt và họ cũng đã đưa ra những sáng kiến mới - làm cho việc mặc chiếc áo đó dễ chịu hơn.

Trong thế giới thương mại, chìa khóa để trở thành một nhà tạo lập trên lĩnh vực địa - chính trị là cần phải tỏ ra rộng lượng và hào phóng, để các quốc gia khác có thể thấy được những lợi ích của việc thích nghi với những luật lệ và tiêu chuẩn do bạn đặt ra, cho bản thân họ cũng như sự ổn định khu vực họ đang sinh sống. Hoa Kỳ có thể trở thành một nhà tạo lập tham lam nếu họ nói với thế giới: "Các vị phải thích nghi với chiếc áo nịt nạm vàng và mở cửa cho phép tự do thương mại. Và khi đó, chúng tôi sẽ xuất khẩu tất cả những gì chúng tôi có thể sang đất nước của các vị và chúng tôi chỉ cho phép các vị xuất một vài thứ sang Hoa Kỳ". Nói như thế thì sẽ không thuyết phục được các nước mặc lên cho họ chiếc áo nịt và sẽ khiến họ tự xây dựng lấy một hệ tiêu chuẩn mới. Những nhà tạo lập địa- chính trị không tồn tại được lâu chính là những kẻ đã vơ vét quá nhiều cho bản thân họ và không để phần cho những người khác thích nghi và sáng tạo.

Điều ít được hiểu mà cũng rất lý thú là cũng những nguyên tắc áp dụng cho các nhân tố tạo lập và thích nghi cũng có thể được áp dụng đối với giá trị nhân quyền, hoạt động xã hội, công tác từ thiện và hoạt động môi trường. Tất cả các hình thái nhóm tư nhân, chính phủ, cá nhân được trao quyền và các công ty ngày nay đều có thể trở thành những nhân tố tạo lập các quy tắc và liên minh để có được sự quản trị tốt hơn trong những lĩnh vực kể trên ở mức cao hơn bao giờ hết. Nhưng nhiều nhà hoạt động đã không hiểu ra cơ hội đó.

Hãy cân nhắc: khi nước Mỹ vào cuối thế kỷ 19 đang chuyển mình từ một tập hợp các vùng kinh tế bán tự trị hội nhập thành một nền kinh tế quốc gia, nó đã đồng thời cho ra đời thể chế liên bang như ngày nay người ta thấy. Dự trữ Liên bang, Ủy ban Giao dịch Chứng khoán, Ủy bản Thôn gtin Liên bang và những định chế khác đã ra đời trong thời kỳ đó. Một nền kinh tế quốc gia cần phải có những định chế giám sát nó, theo dõi và quản lý nó về luật pháp. Khuynh hướng tự nhiên cho thấy cần phải có một cơ chế giám sát toàn cầu hóa. Có nghĩa là khi chúng ta chuyển mình từ những nền kinh tế bán tự trị trở thành một nền kinh tế hội nhập toàn cầu thì chúng ta cũng cần phải có một thứ chính phủ theo dõi, giám sát và quản lý toàn cầu về pháp lý.

Nhưng đạt một bước nhảy từ mức thể chế địa phương lên mức thể chế toàn quốc trong khuôn khổ một quốc gia vẫn dễ dàng hơn nhiều so với việc hội nhập từ mức quốc gia lên tới những định chế toàn cầu. Hai trở ngại sẽ xuất hiện khi bạn đi lên toàn cầu: Vấn đề chủ quyền - dân chúng một nước sẽ rất miễn cưỡng khi phải chịu sự chỉ đạo từ các chính trị gia và viên chức từ một nước khác, những người mà họ không duy trì được giám sát bằng cách này hay cách khác. Trở ngại thứ hai nằm trong bản thân hệ thống toàn cầu hóa. Trong một thế giới không có rào cản, được dựng lên quanh hệ thống Evernet, khả năng của một chính quyền toàn cầu, vươn tay ôm trọn quyền quản lý, ấn định những loại thuế và quy tắc hành xử cho các quốc gia sẽ bị hạn chế - dù đó là lực lượng cảnh sát quốc tế Interpol truy tìm những giao dịch tài chính phi pháp trên Internet từ quần đảo Cayman đến quần đảo trên biển Manche, hay là Tổ chức Thương mại Thế giới cố gắng đặt quy chế thương mại trên toàn cầu. Ngày mỗi ngày càng nảy sinh ra những khu vực mà bộ máy chính phủ theo lối thông thường không với tay đến được.

Do đó khi bàn tới việc tuân thủ những tiêu chuẩn toàn cầu - bảo tồn thiên nhiên, quyền con người, giao dịch tài chính và điều kiện lao động cho công nhân - những nhân tố tạo lập sẽ không nắm vai trò một chính quyền toàn cầu, ít nhất là trong tương lai gần. Vậy chúng ta sẽ phải làm gì? Chúng ta không thể làm ngơ trước những vấn đề đó và chúng ta cũng không muốn để mặc chúng cho thị trường quyết định. Vậy chúng ta tiến đến một vấn đề then chốt: Làm thế nào để có được một sự quản lý toàn cầu trong những chủ đề lớn như môi sinh, nhân quyền, giao dịch tài chính và điều kiện lao động, mà không phải lập nên một chính quyền toàn cầu? Làm thế nào để chúng ta điều hành và quản trị pháp lý những lĩnh vực mà nhân loại và cộng đồng thực sự coi trọng nhưng không cần phải dùng tới một thứ cảnh sát toàn cầu?

Câu trả lời là một sự hiểu biết, một tri thức rằng trong một thế giới được kết nối, các cá nhân, cộng đồng, giới tiêu dùng, các nhà hoạt động và các chính phủ đều có quyền lực như những nhà tạo lập - để định hướng và hình thành các hệ giá trị cho nhân loại. Bạn sẽ rất ngạc nhiên khi thấy có thể tăng cường được sự quản lý toàn cầu mà không cần phải sinh ra một chính phủ toàn cầu. Tuy nhiên để làm được thế cần phải có một tư duy mới giành cho việc huy động các hệ quyền lực. Cần có một lối nghĩ làm thế nào có thể tận dụng được sức mạnh của Internet, người tiêu dùng, và hoạt động của các công ty đa quốc gia, những tập đoàn muốn bảo vệ thương hiệu của họ trên toàn thế giới.

Tôi xin đưa ra một vài ví dụ. Một trong những vấn đề lớn nảy sinh trong thời toàn cầu hóa là việc làm thế nào chúng ta có thể xử lý đúng đắn quyền lợi của người lao động và điều kiện lao động ở những xưởng thợ ở các nước đang phát triển. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, trong khi nhiều nhà hoạt động nhân quyền vẫn tập trung vào vấn đề tự do ngôn luận, bầu cử và việc viết báo chống đối, dân chúng ở các nước đang phát triển tiếp tục chú trọng vào quyền của người lao động, công ăn việc làm, quyền được tự tổ chức đoàn đội và quyền được hưởng những điều kiện làm việc thích đáng. Đơn giản là đối với những người lao động trên thế giới, sự đàn áp từ phía các cai lao động họ phải chịu đựng trước đây giờ được thay thế bởi sự đè nén đến từ những ngày tư bản hoạt động ngoài vòng kiểm soát, những kẻ đang di chuyển thường xuyên các cơ sở sản xuất từ nước này sang nước khác, chuyên tìm tòi những nơi có chi phí rẻ mạt nhất.

Những người lao động đó cần được giúp đỡ một cách thực tế. Nhưng hiện nay không có một chính quyền chung nào trên thế giới để họ trông mong vào, chính quyền có thể chỉ đạo và giám sát điều kiện lao động chung cho mọi người. Trong nhiều năm, các chủ xưởng người Mỹ đã thông qua các mối quan hệ của họ ở Quốc hội, ngăn chặn việc đưa tiêu chuẩn lao động của Mỹ sang áp dụng trong những xưởng thợ của họ ở nước ngoài. Đồng thời, những xưởng dật áo từ miền nam bang Carolinechuyển hoạt động sang Guatemala, một địa phương nơi không có tiêu chuẩn lao động riêng, thêm nữa tại đó, Tổ chức Lao động quốc tế cũng chẳng có ảnh hưởng gì. Đó là trường hợp người lao động không được hưởng bất cứ tiêu chuẩn nào, cả địa phương lẫn toàn cầu, như đã được đề cập vào năm 1996, trong một nhà máy ở Honduras gia công sản phẩm cho thương hiệu Kathie Lee Gifford. Chờ đợi để có một chính quyền toàn cầu giúp đỡ trong trường hợp đó quả là vô vọng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 27-3-2013 19:23:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10
(tiếp theo)

Đối diện với thử thách như vậy, cộng đồng nhân quyền cần phải được trang bị hiện đại hơn, cũng giống như các tay thợ sản xuất vũ khí trước kia nay phải học cách sản xuất xe hơi hay máy nướng bánh, thay vì xe tăng. "Trong Chiến tranh Lạnh", Michael Posner, đứng đầu Ủy ban Luật gia vì Nhân quyền, lập luận, "vấn đề chính là buộc các chính phủ phải chịu trách nhiệm khi họ vi phạm luật lệ và nguyên tắc. Ngày nay, vấn đề là làm thế nào khiến các công ty tư nhân phải gánh trách nhiệm về việc đối xử với công nhân của họ, khi mà quyền lực chính phủ khắp toàn cầu giảm đi, hoặc bản thân các chính phủ (Trung Quốc chẳng hạn) cũng tham gia các thương vụ và do đó không thể mong đợi họ giữ vai trò giám sát và trọng tài".

Trong một thế giới như vậy, các nhà hoạt động cần phải học cách tận dụng toàn cầu hóa. Họ cần học cách bắt buộc các công ty phải ứng xử tử tế hơn bằng cách dùng internet để vận động giới tiêu dùng trên toàn cầu. Tôi xin gọi đó là "giải pháp mạng dành cho nhân quyền," và đó là tương lai của các nhà hoạt động. Đó là giải pháp từ dưới lên hay ngang hàng chứ không phải được ấn định từ trên xuống. bạn trao quyền cho bên dưới, thay vì chờ đợi quyền hạn được rót từ trên, bằng cách hình thành một liên minh mà có thể tổ chức một hệ thống quản lý tốt hơn mà không cần một chính quyền toàn cầu.

Một thử nghiệm như thế rõ ràng đã xuất hiện vào cuối năm 1999. Từ những tranh cãi xung quanh vụ Kathie Lee Gifford đã nảy sinh một liên minh mới, mang tên Hiệp hội vì sự công bằng cho Người lao động (FLA). Hiệp hội này đã quy tụ các cố gắng của Chính phủ Hoa Kỳ, các nhà hoạt động cho quyền của công nhân như Uỷ ban Luật gia, giới lao động ngành quần áo và sinh viên Mỹ. Hiệp hội hoạt động như sau: Phần lớn những công ty và giới hoạt động trong ngành quần áo trên toàn cầu thống nhất với nhau về một hệ tiêu chuẩn lao động tối thiểu trong các nhà máy, bao gồm việc giảm thiểu lao động trẻ em và hạn chế giờ công và ngày công. Họ cùng thỏa thuận về một hệ thống giám sát theo đó những giám sát viên độc lập được pháp vào thanh tra đột xuất trong các nhà máy. Các điều tra và giám sát viên được cơ quan FLA cất giấy phép hành nghề, họ là những người đại diện cho các tổ chức khác nhau, từ các nhóm tôn giáo cho đến nhân viên giám sát tín dụng của Pricewaterhouse Cooper. FLA cho phát hành những báo cáo hàng năm về việc các công ty tuân thủ các nguyên tắc lao động ra sao. Báo cáo được lưu hành trên Internet và sẽ được tạp chí Báo cáo của Người tiêu dùng (Consummer Reports) đăng tải. Nếu một công ty chấp hành đúng qui định, họ sẽ được gắn một nhãn FLA lên sản phẩm của họ và người tiêu dùng sẽ phân biệt giữa các thương hiệu - sẽ mua sản phẩm nếu họ muốn ủng hộ điều kiện lao động trong ngành quần áo, và từ chối không mua những sản phẩm không có nhãn hiệu của FLA. Hơn 100 trường đại học đã tham gia vào liên minh và đòi các hiệu sách của họ - bán áo phông, sản phẩm may mặc - chỉ bán sản phẩm mang nhãn FLA. Hy vọng là sẽ có ngày các tiệm bán lẻ lớn sẽ làm theo.

Chương trình như trên se không một sớm một chiều cải cách hết được các điều kiện lao động. Nhưng đó là một sự khởi đầu - đưa ra một hệ thống có quy tắc và thể lệ mới trong toàn bộ ngành dệt trên thế giới. Và nó được hình thành không phải do một chính phủ ấn định, mà bằng cách hình thành được một liên minh mà có tiềm năng khiến mỗi người tiêu dùng trở thành một nhà hoạt động nhân quyền và khiến các tổng công ty toàn cầu không còn chỗ nào để lẫn trốn nữa.

"Thật ngạc nhiên khi thấy trong quá khứ cách nhà hoạt động bị mê hoặc ra sao", Paul Gilding, cự phụ trách tổ chức Hoà Bình Xanh, hiện đang tư vấn cho nhiều công ty đa quốc gia về chủ đề phát triển bền vững, "Trước đây, bạn sẽ xuống đường, vận động dân chúng trong cộng đồng, gây áp lực để chính quyền thay đổi luật pháp, rồi thì các công ty sẽ chống đối, sau đó hai bên cùng nhau thỏa hiệp và trong vòng năm năm, mọi sự sẽ thay đổi. Giờ đây chúng tôi không còn thời gian nhiều đến thế".

Những nhóm hoạt động tạo được thay đổi lớn ngày nay là những nhóm có khả năng khống chế được các lợi ích kinh tế của các công ty và người tiêu dùng, dùng khả năng đó để bảo tồn môi trường, cải thiện quyền của người lao động để tăng cường nhân quyền - thay vì đứng ra chống đối trực tiếp các công ty. Có nghĩa là hoạt động, hợp tác cùng các công ty và người tiêu dùng, cơ bản là chứng minh cho các công ty thấy rằng họ vừa có thể kiếm lợi vừa bảo tồn được môi sinh. Các nhà hoạt động sẽ cho họ hiểu rằng nếu họ không có những hành động bảo vệ môi sinh và quyền lợi của nhân công, thì các tổ chức hoạt động sẽ tổ chức một chiến dịch vận động, thông qua Internet, liên lạc với giới tiêu dùng ở khắp thế giới để tẩy chay hàng hóa và dịch vụ. Lợi nhuận kinh tế đang là đòn bẩy quyền lực lớn hiện nay. Nhưng đó không phải là đòn bẩy duy nhất. Luật pháp và quy tắc vẫn là yếu tố quan trọng. Chính phủ vẫn là quan trọng. Chính phủ vẫn cần phải thông qua luật lệ theo chiều hướng bảo vệ quyền lợi của toàn thể xã hội, chứ không phải chỉ riêng một nhóm người tiêu dùng hay các nhà hoạt động. Nhưng thông thường cung cách tốt nhất để mọi người cùng tuân thủ luật lệ chính là sử dụng dụng đòn bẩy, áp lực kinh tế - sự chuyển hóa của chính hệ thống toàn cầu hóa - theo hướng xây dựng hơn là phá hoại.

Trong những năm đầu của thập nhiên 90, WTO đã phản đối việc Hoa Kỳ cấm tiêu thụ loại cá ngừ bị đánh bắt bằng lưới cũng bắt luôn cá heo. Họ nói sự cấm đoán đó là sự bế quan về thương mại. Quyết định của WTo rõ ràng đã khiến các nhà môi trường đau lòng. Một số các nhà hoạt động đã công kích WTO, đặc biệt trong các cuộc họp tại Seatle vào cuối 1999. Tuy nhiên một số khác quyết định liên hiệp lại và trở thành một những nhân tố tạo lập ra một giá trị mới - phương châm là dân đánh cá không nên giết cá heo chỉ vì để bắt cá ngừ với chi phí thấp. Kết quả là trong các tiệm tạp hóa của Hoa Kỳ, người ta chỉ thấy có bán loại cá ngừ hộp được dán nhãn "cá heo (đã) được bảo vệ". Làm thế nào mà họ đạt được kết quả đó, trong khi WTO chỉ trích Hoa Kỳ là bế quan thương mại? Vì những nhà hoạt động thông minh đã lách được sự tài phán của WTO và sáng lập ra một phương thức ứng xử mới. Họ vận động giới tiêu dùng và sử dụng Internet để gây áp lực, buộc các công ty đánh cá phải dùng loại lưới có thể bảo vệ được cá heo nếu không muốn mất khách hàng; nhờ đó, rất nhiều cá heo đã được bảo vệ. Tiêu chuẩn đánh cá bảo vệ cá heo tuy vậy vẫn chưa thật hoàn hảo; Một số ngư dân vẫn lách luật và một số công ty đã không tuân theo tiêu chuẩn đó. Nhưng sự xuất hiện một tiêu chuẩn mới như vậy quả là một cải thiện lớn, từ thời đánh cá vô tội vạ trước đó; đó là kết quả của việc các nhà hoạt động đã sáng lập một hệ tiêu chuẩn mới, sử dụng giải pháp liên kết mà không cần đến sự can thiệp thực sự của chính phủ. "Quyết định đặt tiêu chuẩn an toàn cho cá heo chính bắt nguồn từ công luận trong giới tiêu dùng", Michael Mullen, người phát ngôn thuộc công ty StarKirt tuna nói với tôi, "Trong một tuần, chúng tôi đã nhận được khoảng một ngàn cú điện thoại và 300 email của người tiêu dùng về việc này".

(trong chương 13 "Người Tháo dỡ", tôi sẽ nói chi tiết về phương thức vận động trên được những tổ chức lớn như Bảo tồn Quốc tế áp dụng để cứu nhiều khu vực như các cánh rừng nhiệt đới ở Brazil hay các sông hồ lớn nhất thế giới.)

Hãy xem xét thêm một ví dụ của chiến lược nói trên áp dụng vào một lĩnh vực hoàn toàn khác - xóa đói giảm nghèo. Tôi xin giới thiệu một trang mạng mang địa chỉ www.planetfinance.org. Đó là đứa con tin thần của Jacques Attali, một giám đốc ngân hàng người Pháp, người đã nhận thức rằng toàn cầu hóa đã tiếp sức cho ông trở thành một nhà tạo lập ra những chiến lược mới trong cuộc chiến chống nghèo đói trên toàn cầu. PlanNet Finace hoạt động như sau: Hiện có khoảng 1,3 tỷ dân sống ở mức 1 đô-la/ngày. Một điều mà chúng ta ai cũng biết đó là một trong những phương thức hữu hiệu nhất để xoá nghèo đói cho họ là cho vay những khoản vay nhỏ - từ 100 đến 1.000 đô-la. Khoản tiền đó thường vào tay phụ nữ và hầu như không cần đến tài sản thế chấp. Những người được vay dùng tiền đó để mua máy may, xe đạp để chuyển rau quả của họ ra chợ, trang thiết bị để mở một tiệm cắt tóc ở một vùng quê nghèo ở Bangladesh chẳng hạn. Bản thân những người đó có nghị lực để xóa nghèo, nhưng họ không có nguồn vốn cơ bản, và đó chính là lý do họ cần đến các khoản vay nhỏ. Những người cần vốn thường không được nối mạng và máy vi tính, nhưng các ngân hàng và những tổ chức viện trợ đang giúp đỡ họ thì có điện thoại và khả năng nối mạng. Công ty PlaNet Finance hiện cung cấp dịch vụ nối mạng cho 7.000 các nhóm trợ giúp tài chính nhỏ trên thế giới.

"Trước hết", ông Attali giải thích, "PlaNet nối mạng với thật nhiều các tiểu ngân hàng, để họ liên lạc và chia sẻ kinh nghiệm trên mạng. Sau đó, chúng tôi giúp các nhóm chưa lên mạng được cài đặt giống trường hợp ở Benin. Tiếp theo, chúng tôi tổ chức một hệ thống đánh giá mức khả tín, tương tự như Moody's, đánh giá tiềm lực của các tiểu ngân hàng, dựa vào các tiêu chuẩn đạo đức làm việc, hiệu quả giúp đỡ người nghèo và khả năng tài chính của họ. Tiếp theo chúng tôi thành lập một trường đại học trên mạng để đào tạo kỹ năng cho họ và cũng trên mạng, chúng tôi mở một thị trường để những người khách hàng của các tiểu ngân hàng (người vay để sản xuất) có thể bán các sản phẩm của họ trên mạng. Và sau cùng chúng tôi tổ chức PlaNet Bank để hỗ trợ tín dụng cho các tiểu ngân hàng đó và sẽ thu hút các nhà hảo tâm đến trang mạng của chúng tôi để đóng góp tài chính cho các dự án mà các tiểu ngân hàng tài trợ, họ có thể giám sát xem tiền tài trợ được sử dụng ra sao".

Một khi PlaNet Bank có thể xếp hạng và kết nối các tiểu ngân hàng qua Internet, nó có thể giúp họ giảm thứ chi phí đáng kể nhất - chi phí theo dõi và xử lý các nguồn vốn cho vay nhỏ nhoi của họ. Hy vọng là một tiểu ngân hàng được trang bị một thiết bị thông tin, giống như của hãng chuyển phát nhanh Fedex sử dụng theo dõi các bưu kiện, có thể cùng một lúc theo dõi được hàng trăm những món cho vay và lãi suất từ chúng. Nếu chi phí hành chính và giao dịch giảm xuống thì những khoản vốn cho vay có thể được quy tụ và bán cho các đại ngân hàng trên thế giới. Các tiểu ngân hàng thườn đặt mức lãi suất 4-5%/tháng với các khoản vay, để thanh toán các chi phí, đòi hỏi người vay hoàn vốn nhanh chóng để họ có thể quay vòng cho người khác. Thị trường như vậy với mức lãi như vậy sẽ hấp dẫn các ngân hàng lớn - một khi chi phí giao dịch được cắt bỏ. Và điều đó sẽ tạo nhiều thay đổi. Hiện nay nhu cầu để có được các khoản vay nhỏ thật là lớn, nhưng tiền vốn chỉ tùy thuộc vào các nhà hảo tâm cá nhân và mức đóng góp của chính phủ. Thế nhưng hãy tưởng tượng với mức 20 tỷ đô-la tín dụng từ các ngân hàng lớn cung cấp, bạn có thể chu cấp tín dụng cho 100 triệu dân nghèo đang có mức sống 1 đô-la/ ngày.

Đó là phương cách để bạn biến đổi thế giới - sử dụng toàn cầu hóa để đối phó với chính nó. Trở thành một nhà tạo lập, người không cần đợi đến khi có một chính phủ toàn cầu để chống nghèo đói, mà thay vào đó, sử dụng một hệ thống mới vận động những đại gia lạnh lẽo và vị kỷ, hoạt động trên thương trường tham gia làm từ thiện nhưng lại kiếm được lợi nhuận. Bằng cách biến các ngân hàng thành những nhân tố thích nghi với khái niệm mới như của PlaNet Finance và tạo cho họ những cơ hội kiếm tiền, bạn đã mở ra một loạt các cơ hội mới để xóa đói giảm nghèo.

"Có một câu ngạn ngữ cổ, "Nếu bạn tặng một người một con cá, bạn đã giúp họ một bữa ăn. Nhưng nếu bạn dạy cho người đó cách câu cá, bạn sẽ khiến người đó được no ấm cả đời". Ông Attali nói. "Chúng tôi hiện có hàng triệu dân nghèo đã được dạy cho cách câu cá. Hiện họ chưa có cần câu. Nhưng thông qua PlaNet, chúng tôi sẽ trang bị cần câu cho rất nhiều người trong số họ".

Trong một thế giới được kết nối mạng và không còn rào cản, tương lai thuộc về những nhân tố tạo lập và thích nghi - họ là những công ty hay ngườ tiêu dùng, cường quốc hay những cá nhân được trao quyền.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 28-3-2013 21:21:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 11
MUA ĐÀI LOAN, GIỮ LẠI Ý, BÁN PHÁP

Trong khi việc nối mạng và học cách trở thành nhân tố tạo lập hay thích nghi là những biện pháp thiết yếu quyết định sức mạnh của đất nước hay của một công ty trong thời đại Internet, một số yếu tố khác cũng sẽ trở nên quan trọng - những yếu tố quyết định tầm ảnh hưởng của những nhà tạo lập hay thích nghi. Chương này được dành cho việc phân tích những yếu tố đó. Chúng là gì? Vì sao những đất nước hay những công ty có những yếu tố đó chính là nơi bạn cần đầu tư và lưu vốn, trong khi những công ty hay những đất nước không có những yếu tố đó lại là nơi bạn sẽ rút vốn ra. Tôi xin phân tích chúng trong danh sách tôi gọi Chín thói quen của những quốc gia hiệu quả cao.

Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh, các nước trong cùng một khu vực địa lý thường đã phát triển theo cùng một nhịp. Các nước Tây Âu phát triển cùng một nhịp, châu Mỹ la tinh theo một nhịp khác, các con Hổ châu Á theo một mức khác, Đông Âu khác và châu Phi có nhịp phát triển riêng. Những khác biệt lớn về phát triển thể hiện khi ta so sánh các khu vực khác nhau. Đông Á đã trưởng thành; Mỹ La tinh đi trước một bước; Trung Đông trì trệ, ngoại trừ những nơi có nguồn dầu lửa trời cho và châu Phi tiếp tục suy sụp. Trong những năm 50, Ai Cập và Hàn Quốc khởi đầu với mức thu nhập bình quân đầu người ngang nhau, nhưng tới những năm 90 thì có một hố cách biệt khá lớn giữa hai nước này.

Điều chúng ta sẽ thấy trong hệ thống toàn cầu hóa chính là sự tiếp tục của những khuynh hướng nói trên, điều khác biệt hiện nay là ở chỗ phân biệt đang ngày càng tăng ở nhiều vùng và nhiều nước trong ngay cùng một khu vực - vì có những nước đã lựa chọn theo hướng thịnh vượng, kết nối mạng, trở thành nhân tố tạo lập và thích nghi, trong khi những nước khác lại từ chối không làm theo. Chẳng hạn bạn sẽ thấy một hố ngăn cách ở Trung Đông giữa Tunisia - trong những năm 90 đã tự mặc chiếc áo nịt nạm vàng, ký một hiệp định tự do mậu dịch với Liên hiệp châu Âu và thích nghi với nhiều thói quen của các nước hiệu quả cao - và một số láng giềng Ả rập của Tunisia, những nước đã không làm như vậy. Và bạn cũng sẽ thấy những "khu vực nóng" trong cùng một nước, như những vùng duyên hải của Trung Quốc xung quanh Thượng Hải, hay vùng Bangalore ở Ấn Độ nơi mà mức thu nhập và lối sống vượt xa những vùng lân cận - đến mức người ta có cảm giác chúng đã trở thành các quốc gia khác biệt. Những khoảng cách giữa các nuớc phát triển và khoảng cách giữa các vùng trong nội tại các nước đang phát triển có thể trở thành nhưng nơi nhạy cảm về chính trị torng thế giới mới. Lớp người làm ăn thành đạt trong một nước hay một khu vực sẽ có tầm ảnh hưởng cao hơn so với tầm quan trọng về vị trí địa lý hay chính trị của nước đó hay khu vực đó, dẫu cho chúng thuộc thế giới thứ nhất hay thế giới thứ ba.

Như đã nói tới trong chương trước, những đất nước và công ty làm ăn giỏi nhất thường bắt chước các thói quen của nhau. Vậy, sau khi đặt hai câu hỏi cơ bản khả năng nói mạng của đất nước hay của công ty của bạn ra sao; và đất nước hay công ty của bạn là nhân tố tạo lập hay thích nghi? - tôi đưa ra sau đây chín câu hỏi để đo sức mạnh kinh tế và tiềm năng của đất nước hay công ty của bạn.

CÔNG TY HAY ĐẤT NƯỚC CỦA BẠN PHÁT TRIỂN NHANH ĐẾN MỨC NÀO?

Klaus Schwab thuộc Diễn đàn Kinh tế Thế giới ở Davos có lần nhận xét: "Chúng ta đang di chuyển từ một thế giới cá lớn nuốt cá bé, sang một thế giới những kẻ nhanh chân sẽ diệt những kẻ chậm chân. "Ông ta hoàn toàn đúng. Bởi vì trào lưu dân chủ hóa, những rào cản đối với hầu hết các thương vụ giờ đâu đang nhanh chóng bị hạ thấp, và kết quả là tốc độ, cho phép những sản phẩm từ khâu sáng chế sang khâu sản xuất hàng loạt, đã được nâng lên trông thấy. Nếu vì những lý do xã hội, văn hóa hay chính trị, mà công ty hay đất nước của bạn không sẵn sàng cho phép những giải tỏa theo công thức của Shumpeter [phá cũ xây mới] để đón đầu các cơ hội trong các thi trường mới đang xuất hiện, thì nó sẽ tụt hậu. Không phải vô ích mà Bill Gates tuyên bố rằng ở hãng Microsoft: Trong bốn năm, tất cả các sản phẩm của Microsoft sẽ trở nên cổ lỗ. Câu hỏi duy nhất là ai sẽ khiến chúng trở thành cổ lỗ - bản thân Microsoft hay những đối thủ của nó. Nếu bản thân Microsoft tự khiến chúng trở thành cổ lỗ thì công ty này sẽ thành đạt. Nếu một trong những đối thủ của Microsoft khiến cho sản phẩm của hãng trở thành cổ lỗ, thì Microsoft sẽ gặp tai họa. Bill Gates suýt nữa đã khiến Micorsoft thành quá đát khi đưa ra kết luận rằng Internet sẽ không phải là tương lai của điện toán. May cho anh ta, anh ta đã tỉnh ngộ ra trước thời hạn bốn năm.

Không cần ai phải giải thích vấn đề tốc độ cho những quản đốc cao cấp của hãng điện toán Compaq - họ sống chết dựa vào tốc độ. Compaq khởi đầu bằng cách đi nhanh hơn IBM trong việc thải bỏ sự cũ kỹ một cách sáng tạo. Nó hầu như đã tiêu diệt IBM một cách sáng tạo. Chuyện rằng: vào năm 1985, Hãng Intel cho ra đời linh kiện xử lý 386, có tốc độ nhanh gấp đôi so với đời 286 trước đó. Toàn bộ chiến lược kinh doanh của Compaq là nhằm trở thành nhân tố đi đầu về ứng dụng kỹ thuật mới. Có nghĩa là cứ mỗi lần Intel chế tạo được một loại vi mạch xử lý mới nhanh hơn - không chỉ trong mức từ 286 lên 386, thậm chí một kiểu mới trong cùng thế hệ, tăng được 5 MHz - Compaq sẽ phải là hãng đầu tiên lắp ráp những linh kiện đó vào các máy vi tính, để bàn và xách tay, của họ để bán trước tiên trên thế giới.

Trong những năm 80, khi một máy tính cá nhân đời mới được tung ra, chúng sẽ được bán trước tiên ở Hoa Kỳ, vài tháng sau là châu Âu, rồi sau đó mới sang đến Ấn Độ rồi Trung Đông. Người ta đã thường giả định là những thị trường ở châu Âu và Á đã bị che chắn khỏi những phát kiển ở Mỹ. Compaq là hãng đầu tiên phát hiện rằng điều đó là không đúng - rằng một sản phẩm mới cần phải được giới thiệu cùng một lúc ở mọi nơi trên thế giới. Và do đó nếu Intel cho ra đời một chip vi tính, dân chúng biết được khi đọc báo hay qua Internet, thì ngay ngày hôm sau, họ sẽ mong được thấy chúng lắp đặt trong các máy tính xách tay hoặc để bàn, trong các cửa hàng nơi họ đến mua. "Vào ngày hôm đó, bạn phải có máy bày bán ngay trong đại lý của bạn", Enrico Pesatori, Phó chủ tịch Compaq phụ trách tiếp thị cho biết, "và nếu bạn chỉ để chậm mất hai tuần, bạn sẽ bị coi là chậm chạp, bị coi là để lỡ cơ hội thu khoản lợi nhuận từ hàng "độc", hàng xuất hiện trước tiên trên thị trường".

Chính vì thế Compaq đưa ra một hệ thống lắp đặt nhanh chóng cá clinh kiện vi mạch mới. Hãng này giữ môt quan hệ thân mật với Intel chính vì thế các kỹ sư của hãng có thể phỏng theo mẫu linh kiện mới của Intel để nhanh chóng sớm thiết kế các bộ phận của vỏ máy, khiến cho khi đi vào sản xuất họ tốn rất ít công sửa hay điều chỉnh chi tiết vỏ máy, sau đó chuyển thành phẩm mới đến người tiêu dùng nhanh hơn và sớm hơn các hãng khác. Compaq giữ được khả năng đi tiên phong cũng bẳng cách duy trì kích cỡ vỏ máy theo một tiêu chuẩn chung, trong khi điều chỉnh liên tục nâng cấp tốc độ vi xử lý và các phần chương trình thích hợp cho chúng. Kết quả là Compaq liên tục giảm được giá thành bằng cách sử dụng thiết kế ít thay đổi (quy luật: sản phẩm càng tồn tại lâu trên thị trường thì linh kiện của nó càng rẻ đi) và chỉ lắp đặt bộ vi xử lý liên tục mới, nhanh nhất. Và do tốc độ xử lý là đầu tàu quyết định giá thị trường của máy tính, Compaq đã nhanh chóng tăng mức lợi nhuận - nhờ duy trì vỏ máy cũ và thành phần ngày càng rẻ về giá thành, tốc độ của bộ vi xử lý ngày càng tăng, và giá bán ngày càng tăng. Và hãng này liên tục tăng cường độ sản xuất. Lợi nhuận tăng khiến Compaq có khả năng hạ giá vì thế đã vào chiếm thị phần của IBM.

Ngược lại, IBM đã phát triển chậm chạp. Họ bao giờ cũng muốn giới thiệu kỹ thuật mới một cách đồng bộ, vỏ máy mới, linh kiện mới, tốc độ mới. Chính vì thế khi Intel đưa ra chip 386 và mời IBM lắp đặt, IBM đã không muốn lắp con chip đó vào vỏ máy lúc đó họ đang sản xuất - loại IBM AT, [AT viết tắt của hai từ công nghệ tiên tiến], đang dựa vào chip cũ 286. IBM muốn chờ cho đến khi bán hết máy 286 rồi mới cài 386 vào vỏ mới - loại PS/2. Vì sao? Vì IBM là công ty lớn nhất, ghê gớm nhất và vào thời Chiến tranh Lạnh, IBM có thừa thời gian để làm theo những gì họ muốn.

Thời đó IBM, dưới sự lãnh đạo của John Akers, là một công ty kiêu ngạo, có cơ cấu giống cơ cấu của Liên Xô về nhiều mặt. Toàn bộ công ty được tổ chức hoạt động nhằm đạt mục tiêu doanh thu và lời lãi trong kế hoạch của chủ tịch công ty đề ra. Do đó về đối nội, toàn bộ công ty chú trọng không phải vào những đòi hỏi của thị trường - đòi hỏi kỹ thuật mới cần phải được lắp đặt áp dụng ngay - họ chú trọng vào ý muốn của Ban lãnh đạo IBM: đảm bảo doanh số và tốc độ tăng trưởng nhất định nào đó. Điều mà IBM không hiêủ được lúc đó là những rào cản chống lại những doanh nghiệp mới vào cạnh tranh đang dần được xóa đi và chìa khóa đi đến thành công là khả năng duy trì lâu dài mẫu mã của sản phẩm - duy trì các thiết kế càng lâu dài càng tốt để cắt bớt chi phí thiết kế mới, nhưng chú trọng hơn vào những yếu tố mà dân chúng trông mong vào, đó là khả năng tăng tốc độ xử lý cho máy. Mặt khác, IBM bị mê hoặc bởi cung cách làm việc của chính họ. Thương vụ của IBM cho mãi tới những năm 70, là cho các công ty thuê các hệ thống máy tính chủ. Và nếu cứ hai năm một lần, hãng cho ra đời một hệ máy tính mới, thì họ có thể cài đặt toàn bộ linh kiện và kỹ thuật mới và bán với giá cao hơn. Nhưng loại máy tính cá nhân dần đã trở thành những sản phẩm khác hẳn. Khách hàng mua máy cá nhân không muốn thích nghi với cả một hệ máy tính mới phải thay đổi hai năm một lần. Họ chỉ mong máy tính của họ chạy nhanh hơn. Nghe lời khách hàng, Compaq hiểu - và nhanh chóng hành động. IBM chỉ nghe theo chính bản thân họ, hành động chậm chạp - trở nên trì trệ.

"IBM lúc đó hoạt động trong một mẫu thương vụ cũ kỹ. Nó không hiểu là với mặt hàng mới là cả một thể thức mới được áp dụng", Echkard Pfeiffer, Chủ tịch Compaq từ 1991 đến đầu 1999, cho biết, "khi Intel đưa ra chip 386 và nói với IBM, "hãy dùng nó đi" và IBM trả lời "không". Vậy Intel đến gặp Compaq và chúng tôi đã trả lời, "chúng tôi sẽ dùng". Chính vì thế chúng tôi làm ăn với Intel từ ngày đó".

Cuộc cạnh tranh đã kết thúc vớ việc Compaq đớp một miếng lớn từ thị phần của IBM. "Tôi cho rằng cách đây mươi mười lăm năm thì việc kết hợp chặt chẽ với Intel về vi xử lý không phải là đòi hỏi lớn cho lắm", Pfeiffer nói thêm. "Vì mọi người lúc đó không có cái cảm giác phải tiến cho nhanh. Họ noí, "Tốt thôi, tôi sẽ chờ một hay hai tháng. Có thể tôi sẽ kiếm thêm được chút lời lãi từ những sản phẩm cũ tôi đang bán". Ngày nay nếu có bộ xử lý mới nào ra đời thì chúng tôi ngay lập tức phải vắt chân lên cổ để chạy để nâng cấp sản phẩm".

Cuối những năm 80 đầu 90, Compaq có thể thiết kế sản phẩm của họ nhanh hơn các đối thủ, vì thế họ giới thiệu sản phẩm với khách hàng nhanh hơn, thu lợi nhuận nhanh hơn. Earl Mason, lúc đó phụ trách tài chính của Compaq, nói với tôi vào cuối năm 1998: "Nếu anh có thể liên tục giảm thời gian tính từ lúc thanhtoán một đô-la cho một nhà phân phối với thời gian anh thu vào một đô-la từ một khách hàng, thì vòng quay tài sản sẽ tăng tốc đến một độ anh có thể huy động được một lượng tiền mặt... - Từ cuối 1985 cho tới quý một năm 1998, mức tăng tốc đó đã cho phép chúng tôi nâng lượng tiền mặt từ 900 triệu đô-la lên tới bẩy tỷ đô-la. Có khái niệm: nếu hoạt động nhanh thì anh sẽ làm lớn. Và nếu anh là người to xác nhưng làm ăn chậm chạp thì là anh thất bại".

Lạy thánh, đó chính là điều xảy ra cho hãng Compaq chưa đầy một năm sau khi tôi phỏng vần Mason. Compaq tăng trưởng đến mức họ không hoạt động nhanh chóng nữa - bởi vì họ đã không bắt kịp với cuộc cách mạng tiếp theo. Do không hiểu được toàn bộ ý nghĩa của Internet, để khiến mô hình tiếp thị và sản xuất của họ thích ứng, Compaq đã đi tụt lại sau đối thủ chính của họ là hãng Dell. Dell đã đi đầu trong việc dùng hình thức bán hàng qua điện thoại để gắn khâu tiếp thị với sản xuất và biến mỗi máy tính cá nhân thành thiết bị đặt riêng theo ý khách hàng để mỗi khách hàng đều có thể tự điều chỉnh theo ý họ. Bằng cách bán trực tiếp cho khách hàng, tránh được khâu bán buôn trung gian và chi phí trung gian, Dell bao giờ cũng có thể tăng thêm công suất, tốc độ vận hành của máy so với khoản tiền khách hàng bỏ ra. Và khi Internet phát triển, Dell là hãng đầu tiên tiếp thụ và hội nhập Internet vào tất cả các khía cạnh kinh doanh của họ.

Internet giúp Dell kiểm kê hàng hóa nhanh hơn và hữu hiệu đến mức họ không cần phải lắp ráp máy mới khi chưa nhận được đơn hàng từ khách. Các nhà cung cấp được liên hệ qua Internet. Khi nhận đơn đặt hàng Dell sẽ nhanh chóng báo để bên cung ứng thu xếp linh kiện. Dell có thể phối hợp để thu mua nguyên liệu từ khắp nơi trên thế giới vào các cơ sở sản xuất và họ chỉ cần dự trữ mức nguyên liệu đủ cho sáu ngày sản xuất . Làm như vậy Dell tiết kiệm được rất nhiều tiền và thêm khả năng cải tiến ứng dụng của máy cho khách hàng một cách nhanh chóng và bớt chi phí hơn. Dell không chỉ đơn thuần sử dụng Internet, mà họ tận dụng, coi Internet là xương sống của sự liên lạc nội bộ, liên lạc giữa hãng và khách hàng và nhà cung cấp nguyên vật liệu - tốc độ hoạt động nhờ đó tăng lên nhanh chóng. Trong khi đó Compaq ngược lại đã gắn bó quá lâu với mô hình sản xuất truyền thống với những kho hàng và quan hệ trung gian và bán buôn, làm ngơ trước vai trò của Internet. Thế là Dell đã gây ra cho Compaq điều mà Compaq gây ra cho IBM trước kia.

Và mọi sự xảy ra thật là nhanh. Lúc đó tôi đang viết bản thảo đầu tiên của cuốn sách này. Tháng 8/1998, tôi đã xuống Houston để phỏng vấn lãnh đạo của Compaq. Trên tường của văn phòng giám đốc có tạp chí Forbe có bài trang bìa ca ngợi Compaq là công ty được quản lý giỏi nhất Hoa Kỳ trong năm 1997. Một tháng sau đó tôi đến một hội nghị ở Stanford và tình cờ gặp John Chambers của Cisco. Ông ta hỏi tôi đang làm gì, tôi trả lời tôi muốn dùng Compaq như điển hình của loại công ty phát triển nhanh trong một chương của cuốn sách tôi đang viết.

"Sai lầm lớn", Chambers nói. "Anh nên dùng Dell". Tôi giật mình. Nhưng muộn rồi. Tôi đã trót theo đuổi điển hình Compaq. Lúc đó tôi vừa mới phỏng vấn toàn bộ ban lãnh đạo của Compaq. Nhưng Chambers, công ty của ông là nhà sản xuất chiếc hộp đen gắn máy tính với Internet, là người biết được sự khác biệt giữa Dell và Compaq trước khi thị trường biết điều đó. Ông ta có thể thấy Compaq đang tụt hậu và trong một thế giới phát triển nhanh thì người ta sẽ nhanh chóng nhìn ra khoảng cách của sự tụt hậu như vậy. Ấn bản đầu tiên của cuốn sách này được phát hành vào ngày 21 tháng 4 năm 1999. Một tuần trước khi sách được đem ra bán ở hiệu sách, thì những người điều hành cao cấp nhất của Compaq bao gồm Pfeiffer và Manson bị hội đồng quản trị của hãng sa thải khi mức lợi nhuận quý một của hãng năm đó được thông báo chỉ bằng một nửa mức các nhà phân tích dự đoán.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách