Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Kinh Tế - Xuất Bản] Chiếc Lexus Và Cây Ô Liu | Thomas L. Friedman (HOÀN)

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 30-3-2013 18:52:42 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16
Tập hợp lực lượng (hay chống đối lại chống đối)

Mùa đông năm 1995, tôi đến Hà Nội. Mỗi buổi sáng khi đi tập thể dục, tôi dạo quanh những ngôi chùa bên hồ Hoàn Kiếm, ngay ở trung tâm Hà Nội; và mỗi buổi sáng tội lại gặp một phụ nữ Việt Nam nhỏ bế ngồi bên lối nhỏ, bên cạnh là một chiếc cân buồng tắm. Chị mời mọi người lên cân để kiếm chút tiền. Và mỗi buổi sáng tôi trả cho chị ta một đô-la và bước lên cân. Không phải vì tôi muốn biết tôi năng bao nhiêu cân - tôi biết rõ trọng lượng của bản thân tôi (và nếu nhớ không lầm thì cân của chị cũng không được chính xác cho lắm). Nhưng, bằng cách bước lên cân, tôi muốn đóng góp cho toàn cầu hóa ở Việt Nam. Đối với tôi, phương châm của người phụ nữ này, mà chị này không nói ra, là: "Có được thứ gì, dù lớn hay nhỏ thì cứ việc bán, đổi chác, cho thuê, thế chấp... làm bất cứ điều gì để kiếm lời, cải thiện đời sống và hội nhập vào cuộc chơi."

Người phụ nữ và chiếc cân thể hiện một thực tế căn bản của toàn cầu hóa, một điều ít được nhắc tới trong những bàn bạc của các nhà quản trị tiền tệ, quỹ đầu tư và những bộ vi xử lý kỹ thuật cao. Đó là: toàn cầu hóa bắt đầu từ tầng lớp dướo, từ hè phố, từ tâm hôn và những hoài bão của con người. Đúng là toàn cầu hóa là kết quả của trào lưu dân chủ hóa tài chính, thông tin và công nghệ, nhưng động lực để lái những trào lưu đó chính là hoài bão của con người - mong muốn có một cuộc sống tốt hơn - cuộc sống có nhiều lựa chọn để đi lên, ăn ngon, mặc đẹp, du lịch, làm việc, đọc sách, viết sách và học thêm. Toàn cầu hóa bắt đầu từ một phụ nữ ở Hà Nội, ngồi bên lề đường, dùng chiếc cân bàn như chiếc vé để gia nhập cái Thế giới đi nhanh đó.

Trong trung tâm Hà Nội ngày nay, một phân vuộng trên hè phố dường như đều có những người buôn bán, hoặc từ mảnh chiếu, từ rương hòm hay từ cửa hiệu của họ. Trên đường phố là những người đã đổi dép guốc để lấy xe đạp, đổi xe đạp sang xe máy, đổi xe máy lấy xe hơi Honda Civc, đổi Civic lấy Camry và thỉnh thoảng có người thậm chí đổi được Camry để lấy xe Lexus. Chúng ta thường nghĩ toàn cầu hóa chỉ đính dáng tới việc một đất nước hội nhập với bên ngoài, hay những gì được áp đặt từ phía trên hay từ bên ngoài, chúng ta thường quên rằng toàn cầu hóa bắt đầu từ những tầng lớp địa phương, từ thâm tâm mỗi chúng ta.

Điều đó giải thích tại sao cùng với sự xuất hiện những sự chống đối nhằm vào những sức ép, sự tàn khốc và thách thức của toàn cầu hóa, là cả một nền tảng dân chúng ở dưới dạng đòi hỏi những phúc lợi từ chính quá trình này. Nền tảng là tập hợp của hàng triệu nhân công, những người bị toàn cầu hóa xô đẩy, nhưng chính họ đã đứng lên, phủi bụi trên quần áo, và gõ cửa toàn cầu hóa, đòi được gia nhập vào hệ thống này. Vì nếu họ chỉ có dù một phần cơ may thì những con rùa sẽ không muốn mãi mãi mình là rùa, những người bị bỏ rơi sẽ không muốn lặng lẽ đi sau, và những người thiếu hiểu biết nay sẽ muốn học thêm. Họ muốn trở thành những con sư tử hay linh dương, họ muốn hưởng chút ít từ toàn cầu hóa, họ không muốn phá bỏ nó.

Tình cờ tôi sang Rio de Janeiro lúc chính phủ Brazil tư nhân hóa công ty điện thoại quốc doanh Telebras. Lúc đó có một cuộc biểu tình trên đường phố Rio chống tư nhân hóa. Nhưng điều là tôi ngạc nhiên là vào này hôm sau, tờ báo Brazil O Globo đăng một phỏng vấn với một trong nhũng người xuống đường biểu tình. Khi được hỏi vì sao anh ta đi biểu tình, người này trả lời anh ta làm thế bởi vì "nghĩ rằng tôi có thể kiếm được một việc làm." Anh chàng này không chống tư nhân hóa, mà chỉ muốn kiếm phần.

Dân chúng có thể chịu đựng được nhiều sức ép từ toàn cầu hóa hơn là người ta tưởng - vì, chẳng hạn những người thợ mỏ Nga, nông dân Mexico và lao động Indonesia hiểu rằng ở một mức nào đó, họ không có lựa chọn nào khác hơn là phải theo kịp vào Thế giới Đi nhanh; phần nữa cũng bởi vì số đông dân chúng không muốn thế giới đó đi chậm lại. Dĩ nhiên, nếu những thế lực thị trường trở nên khó kiểm soát - nếu dân chúng cảm thấy toàn cầu hóa trở nên điên rồ, phá vỡ quan hệ giữa lòng hăng say làm việc và mức cải thiện sinh hoạt và những cải tổ đầy đau đớn và chính sách thắt lưng buộc bụng không đem lại gì cho họ - thì chắc chắn họ sẽ đạp bỏ toàn cầu hóa. Nhưng chúng ta chưa phải đã tiến đến cái mức đó.

Hãy nghĩ về những người thợ ở Nga sau khi Liên Xô sụp đổ - những người bị chậm hàng tuần hay hàng tháng lương. Vì sao họ đã không đốt cháy điện Kremlin? Vì họ trước kia cũng đã làm điều đó và nay họ đã hiểu rằng làm thế cũng vô ích. Lần này họ muốn có một kết cục khác - họ muốn sự thịnh vượng, tự do và những lựa chọn - và họ sẵn sàng hy sinh vì chúng. Câu chuyện về nước Nga mà tôi rất thích, do một nhà kinh tế Nga kể lại cho một người bạn tôi, cho biết có một lính xe tăng người Nga trong một thị trấn nằm sau dãy Urals. Anh này đã lái xe tăng vào trong tòa thị chính để đòi cho được tiền lương nhà nước nợ anh ta. Nhưng khi những người dân thị trấn xúm quanh xe tăng và hỏi liệu anh ta có muốn bắn đổ tòa thị chính hay không thì anh này trả lời không bao giờ - lý do anh ta đi xe tăng vào là vì không có phương tiện giao thông nào khác sẵn có, và anh không đủ tiền để đi taxi. Anh ta chỉ muốn truy lĩnh lương thôi.

Thực tế cho thấy dẫu cho có những sức ép mà chủ nghĩa tư bản toàn cầu gây cho các xã hội, toàn cầu hóa ngày nay đã giúp nâng cao mức sống với tốc độ nhanh và cho nhiêù người hơn bất cứ trong giai đoạn nào trong lịch sử. Chúng đã đưa nhiều dân nghèo nhập được hàng ngũ trung lưu nhanh hơn trước nhiều. Vậy thì trong khi cái hố ngăn cách giàu nghèo đang trở nên rộng hơn - vì những kẻ thành công trong toàn cầu hóa tiến rất nhanh và ngày càng bỏ xa các tầng lớp khác - thì mức sống thuộc loại nghèo khó cũng đang dần được nâng cao hơn, ở nhiều nơi trên thế giới. Nói cách khác, trong khi mức đói nghèo tương đối đang dâng lên ở nhiều nước, thì mức đói nghèo tuyệt đối lại đang giảm đi ở nhiều nơi. Theo báo cáo về Phát triển Nhân loại của Liên Hiệp Quốc năm 1997, mức đói nghèo đã giảm trong vòng 50 năm qua nhanh hơn thời gian 500 năm trước đó. Tốc độ tiến của các nước đang phát triển trong 30 năm qua tương đương với tốc độ của các nước công nghiệp hóa tiến trong cả một thế kỷ. Từ năm 1960, tỷ lệ tử vong lúc sơ sinh, thiếu dinh dương và mù chữ đang giảm xuống đáng kể, trong khi việc cung cấp nước sạch cho dân đang tiếp tục được cải thiện. Trong một thời gian tương đối ngăn, những nước và những vùng mở cửa ra thế giới như Đài Loan, Singapore, Chile, Israel, Chi lê và Thụy Điển đã đạt được mức sống tương đương với Hoa Kỳ và Nhật Bản, trong khi kích thước của giai cấp trung lưu trong các nước như Thái Lan, Brazil, Ấn Độ và Hàn Quốc đã tăng lên, nhờ có toàn cầu hóa.

Mời bạn xem bài sau đây của tạp chí The Economist (8/1/2000):

HÃY CẢNH GIÁC: Các công ty đa quốc gia đang hoành hành, cướp bóc công ăn việc làm, xóa bỏ lương bổng và nói chung đang phá hủy các nền kinh tế địa phương. Đó là những điều giới chỉ trích chống toàn cầu hóa lập luận. Nhưng nếu lạnh lùng nhìn vào những con số thì ta thấy một câu chuyện hoàn toàn khác. Một nghiên cứu đối chiếu của OECED [Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế], nghiên cứu đầu tiên loại này cho ta thấy con số các hãng nước ngoài đóng góp cho các nền kinh tế quốc gia.

Thực tế 1: Các hãng nước ngoài trả lương cho công nhân cao hơn mức lương bình quân - và khoảng cách này ngày càng rộng hơn. Ở Mỹ chẳng hạn, năm 1989, các hãng nước ngoài trả lương cao hơn lương nội địa 4 phần trăm; năm 1996, mức chênh lệch đó là 6 phần trăm.

Thực tế 2: tại phần lớn các nước, các hãng nước ngoài tạo cơ hội việc làm nhanh chóng hơn các hãng nội địa. Tại Hoa Kỳ, nhân lực tại các hãng nước ngoài tăng 1,4 phần trăm trong thời gian 1989-1996, so với con số tăng nhân lực 0,8 phần trăm trong các hãng nội địa. Cả ở Anh và Pháp, nhân lực trong hãng nước ngoài tăng 1,7 phần trăm/năm; trong khi ở các hãng nội địa, nhân công giảm 2,7 phần trăm. Chỉ có ở Đức và Hà Lan thì các hãng nước ngoài mới giảm nhân công.

Thực tế 3: Các hãng nước ngoài đầu tư nhiều vào nghiên cứu và phát triển (R&D) ở những nước họ đầu tư. Năm 1996 mức R&D của nước ngoài chiếm 12 phần trăm tổng vốn dành cho R&D ở Mỹ, 19 phần trăm ở Pháp, và đáng kể nhất: 40 phần trăm ở Anh. Trong một số nước, các hãng nước ngoài dùng doanh thu vào R&D cao hơn là các hãng trong nước. Ví dụ ở Anh, hãng nước ngoài dùng 2 phần trăm doanh thu vào R&D, trong khi hãng nội địa chỉ chi có 1,5 phần trăm cho R&D.

Thực tế 4: Hãng nước ngoài xuất khẩu nhiều hơn các hãng nội địa. Năm 1996 các hãng nước ngoài ở Ireland xuất 89 phần trăm sản phẩm của họ, trong khi các hãng nội địa xuất có 34 phần trăm sản phẩm. Sự chênh lệch ở mức 64-37 phần trăm diễn ra ở Hà Lan, 35,3-33,6 phần trăm ở Pháp và 13,1-10,6 ở Nhật. Ngoại lệ lớn nhất là Hoa Kỳ trong đó hãng trong nước xuất 15,3 phần trăm trong khi hãng nước ngoài xuất 10,7 phần trăm.

Những lợi ích của đầu tư nước ngoài còn cao hơn tại các nước nghèo hơn trong OCED. Ví dụ Thổ Nhĩ Kỳ: tại đó lương trong các hãng xưởng nước ngoài bằng 124 phần trăm lương trung bình; mức nhân công của hãng nước ngoài tăng 11,5 phần trăm/năm, so với con số tăng 0,6 phần trăm trong các hãng xưởng nội địa; và R&D của các hãng nước ngoài cao gấp đôi so với chi phí của các hãng nội địa.

Rõ ràng là trong khi sự chống đối nhằm vào toàn cầu hóa đang còn đó thì sự chống đối này cũng bị kiềm chế vì nguyện vọng của người dân muốn toàn cầu hóa nhiều hơn nữa. Không cần phải là một nhà khoa học chính trị mới biết được điều đó. Chỉ cần bạn đi dạo trên bất cứ phố phường nào, đặc biệt trong bất cứ đất nước đang phát triển nào.

Bạn sẽ gặp Chanokphat Phitakwanokoon, 40 tuổi, phụ nữ người Thái gốc Hoa, bán thuốc lá và bánh bao trong một kiosk trên đường Wireless Road, trung tâm Bangkok. Tôi đã ngụ tại một khách sạn gần đó hồi tháng 12/1997, vào cái tuần mà chính phủ cho đóng cửa phần lớn các quỹ tín dụng của đất nước. Tôi nhờ người phiên dịch đi cùng để đưa tin về phản ứng của những người buôn bán trên hè phố. Người đầu tiên tôi gặp là Chanokphat. Trước hết tôi hỏi chị: "Hàng họ buôn bán thế nào rồi?"

"Sụt mất 40-50 phần trăm," chị buồn rầu trả lời.

Tôi hỏi có bao giờ chị biết ai tên là George Soros, tỉ phú, chủ một quỹ đầu cơ, người bị đổ tội là đã đầu cơ các đồng nội tệ Á châu và khiến chúng sụt giá.

"Không," chị lắc đầu. Chị chưa bao giờ nghe về người này.

"Vậy xin hỏi chị, chị có biết thị trường chứng khoán là gì không?" tôi hỏi tiếp.

"Có," chị nhanh nhẹn trả lời. "Tôi có cổ phiếu của Bangkok Bank và Asian Bank."

"Vì sao chị biết mà lại mua cổ phiếu của chúng?" tôi hỏi.

"Bà con của tôi ai cũng mua, vậy là tôi mua," chị trả lời. "Tôi giữ các cổ phiếu trong ngân hàng, giờ đây chúng chẳng còn mấy giá trị."

Vào phút đó tôi nhìn xuống và thấy chị không đi giày dép gì cả. Có thể chị vứt giày ở đâu đó, nhưng đúng là chị đang đi chân không. Tôi tự nhủ: "Chị này không có giày dép, văn hóa chỉ khoảng lớp năm, vậy mà lại sở hữu cổ phiếu ngân hàng trên thị trường chứng khoán." Có những câu hỏi xuất hiện trong đầu tôi: Những niềm quan tâm của chị ta là gì? Liệu chị có định dẫn đầu một đám biểu tình đến đốt toà trụ sở của IMF, một tổ chức đã ép buộc Thái Lan phải cải tổ và thắt lưng buộc bụng? Hay là, do giờ đây chị này đã hội nhập vào hệ thống, liệu chị có cố gắng làm việc nhiều hơn, tiết kiệm hơn và hy sinh nhiều hơn, thậm chí hy sinh cho IMF, nếu điều đó giúp khôi phục kinh tế Thái Lan? Tôi có cảm giác chị sẽ thực hiện lựa chọn sau. Tập hợp lực lượng là như vậy đó.

Trên phố bạn cũng có thể gặp Teera Phutrakul, đứng đầu một trong những hỗ tương lớn nhất ở Thái Lan. Tôi đến phỏng vấn ông ta và hỏi liệu sẽ có một phản ứng ở Thái Lan nhằm vào các ông chủ nhà băng người Mỹ và phương Tây, những người có thể vào mua chiếm lĩnh các ngân hàng và doanh nghiệp Thái Lan, vì giờ đây tiền Thái mất giá và khá nhiều các doanh nghiệp đang lỗ chỏng vó. Teera nghĩ một lúc rồi trả lời, bằng cách kể cho tôi một câu chuyện: Vài tuần trước đó, một người bạn của ông bị mất ví. Trong ví có những thẻ tín dụng của bốn ngân hàng: American Express, và ba ngân hàng Thái Lan. Người này lập tức đã gọi điện cho các ngân hàng đó để báo về chuyện mất cắp thẻ tín dụng. American Express hỏi nếu anh ta muốn thì họ có thể cấp thẻ mới, gửi Honda ôm, mang đến cho anh ngay hôm đó. Nhưng với các ngân hàng Thái thì cho mãi đến hôm nay, vẫn chẳng thấy họ hồi âm cho anh bạn này.

"Vậy thì," Teera nói, "hãy tự hỏi: "Liệu anh bạn tôi có cần quan tâm xem liệu ba ngân hàng Thái Lan đó bị Citibank mua lại và nâng cấp chất lượng để theo kịp American Express hay không?'
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 30-3-2013 18:54:25 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16
(tiếp theo)

Nhưng còn vấn đề niềm tự ái dân tộc? Ừ thì tự hào, nhưng tự ái này sẽ giảm đi nếu ngân hàng thuê nhân lực Thái Lan và làm ăn có lãi có hiệu quả như Citibank hay American Express. Tập hợp lực lượng là như thế đấy.

Trên phố bạn cũng có thể gặp Liliane, 32 tuổi, một nhân viên xã hội người Brazil sống ở khu Rocinha ở Rio, làm việc cho chính quyền địa phương. Chị cho tôi đi xem một trung tâm trông trẻ em trong khu phố nghèo, và trên đường đi đã giải thích rằng chị đã tiết kiệm hàng năm trời để có thể chuyển gia đình ra khỏi khu phố nghèo đó. Giờ đây gia đình của chị đã kết nối được với Thế giới đi nhanh, và chị không bao giờ muốn thề giới đó bị loại bỏ. Chị nói: "Khi còn nhỏ, tôi thấy tất cả mọi người trong xóm không có TV, họ đến xem nhờ trong một gia đình. Giờ đây tôi chuyển đến chỗ mới, các sở làm là một giờ 20 phút, đi làm lâu hơn trước một tiếng, nhưng đó không phải là nơi ổ chuột và ổ tội phạm. Tôi chuyển gia đình đến đó để tránh xa những tay buôn ma túy. Mỗi tháng gia đình đến đó để tránh xa những tay buôn ma túy. Mỗi tháng, lương của tôi là 900 real. Giờ đây tôi có thể mua một chiếc điện thoại. Nhà chúng tôi là nhà gạch, không còn là nhà lá, và đến cuối tháng vẫn còn để dành được ít tiền. Khi có nạn lạm phát, không ai được mua hàng theo lối khất nợ vì không ai kham nổi mức lãi suất nợ. Ngày nay, ngay cả nghười nghèo cũng có điện thoại, truyền hình cáp và nhà cửa thì có điện vào. Tôi cũng có những vật dụng cơ bản như của người giàu. Giờ đây tôi có thể khiếu nại về [chất lượng] các dịch vụ [công ty điện thoại hay nhà máy điện]. Trước đây chúng tôi không được hưởng những dịch vụ đó, nên không thể khiếu nại chuyện đó được. "Đó chính là hiện tượng tập hợp lực lượng.

Bạn sẽ gặp Fatima al-Abdali, một nhà khoa học nghiên cứu môi trường, chủ của Coffee Valley, quán cà phê Internet nổi tiến nhất thủ đô Kuwait, nơi bạn có thể vừa uống cà phê vừa vào mạng. Tốt nghiệp ở Mỹ, al-Abdali vẫn đeo khăn che mặt theo truyền thống Hồi giáo, nhưng đã trở thành một người hiểu biết cao về Internet. Và chị là một trong những cử tọa trong phiên tôi giảng bài về toàn cầu hóa ở Kuwait vào năm 1997. Sau bài giảng, chị mời tôi đến quán cà phê, cũng để gặp một vài sinh viên ở đó. Khi ngồi vào bàn, tôi nói với chị: "Có một điều tôi không hiểu, xin chị giải thích. Chị trùm khăn che mặt, chắc chắn là một người theo đạo, nhưng lại tốt nghiệp ở một đại học ở Mỹ, và giờ đây đang giới thiệu Internet cho dân chúng Kuwait. Tôi không rõ về sự kết hợp như vậy."

Đại thể câu trả lời của chị là, trong quá khứ có nhiều lần thế giới Ả rập bị nước ngoài xâm lăng, và chính họ cũng mang đến những ảnh hưởng và công nghệ khác lạ. Nhưng, chị nói, lần này thêm một cuộc xâm lăng mới, nhưng lại do chính những người Ả rập gây ra. Họ chiếm giữ công nghệ mới, chứ không để công nghệ mới điều khiển họ. Chị dự định sẽ dùng tấm khăn choàng quanh Internet và muốn những bạn trẻ đến quán chị cũng dùng khăn choàng đúng cách. Tôi kính phục cố gắng của chị. Đừng chống lại nó - hãy tận dụng và chiếm hữu nó.

"Các đây ba năm tôi nảy ra ý nghĩ mở một cà phê Internet," chị nói. "Tôi biết Internet đang tràn đến và nếu tôi không mở một dịch vụ như thế thì sẽ có người khác làm. Tôi nhận thấy chúng ta có thể kiểm soát nó về một số phương diện, vậy thì hãy đào tạo dân chúng về những điều hay của nó, khiến nó hội nhập với văn hóa của chúng tôi, hơn là chịu để nó lũng đoạn. Tôi áp dụng, khiến cho nó thích nghi, và giờ đây tôi đang dần dần giới thiệu về quyền của phụ nữ [ Hồi giáo] trên trang web của mình."

Al-Abdali đã mời một số sinh viên thuộc Đại học Kuwait đến. Một người tình cờ cho biết họ vừa tổ chức bầu cử đại diện sinh viên trong trường và những thành phần chính thống Hồi giáo đã bị các phe độc lập, tự do và thế tục đánh bại. Bầu cử sinh viên là một hoạt động quan trọng trong thế giới Ả rập, vì nó có khuynh hướng tự do nhất, và vì thế chúng bộc lộ rõ nhất về thái độ chính trị của dân chúng, ít nhất là trong thế hệ trẻ. Tôi hỏi Abdul Aziz alSahli, một sinh viên 21 tuổi ngành truyền thông, vì sao những người cực đoan Hồi giáo bị thua phiếu. " Người Hồi giáo cực đoan không còn sức thu hút," anh này nói. "Những phái thế tục đang giúp đỡ sinh viên nhiều hơn trong những chuyện mà sinh viên đặc biệt quan tâm - in ấn, sửa chữa trong kỹ thuật email, sách thư viện, đậu xe. Xã hội giờ đây không còn duy ý chí nhiều nữa. Chúng tôi chỉ muốn đi tìm việc làm." Đó chính là hiện tượng tập hợp lực lượng.

Bạn sẽ gặp hai người bạn Australia của tôi, nhà nghiên cứu khoa học xã hội Anne và chồng là Gerard Henderson. Nhà Hendersons gặp tôi ở Washington và kể với tôi về con gái của họ đang theo học đại học ở Australia: "Johannah, con gái của chúng tôi, 21 tuổi," Gerrard kể. "Một hôm, cháu và bạn ở chung nhà nhận được một lá thư của Telstra, công ty điện thoại Úc, thông báo rằng một phần ba công ty này đã bị tư hữu hóa, và mỗi gia đình Úc dùng dịch vụ Telstra sẽ được phép mua cổ phần của công ty. Cháu gọi điện hỏi ý kiến chúng tôi, và chúng tôi nói, cứ mua đi. Vậy là cháu mua. Cháu có rất ít tiền - lúc đó giá là 3 đô-la Úc một cổ phiếu, và cháu mua 300 cổ phiếu. Cháu nó vẫn chưa được hưởng lương. Cháu có thể trở thành một nhân viên thư viện, hay một cô giáo, hay một người làm công ăn lương chăm chỉ, nhưng cháu là người đầu tiên trong gia đình đứng ra mua cổ phiếu của Telstra. Những công nhân trong công ty Telstra đã mua tổng cộng 90 phần trăm số cổ phiếu, và họ trở nên hiền hòa, không thấy phản đối nhiều trong chuyện công ty của họ bị tư hữu hóa. Dân chúng đã hiểu tầm quan trọng của việc làm như vậy. Chính phủ bảo thủ Úc đã dùng lập luận chống toàn cầu hóa để đánh bại chính phủ lao động của Paul Keating trong năm 1996, để rồi ngay sau đó dang tay chào đón toàn cầu hóa. Không có cách nào khác ngoài chuyện chấp nhận toàn cầu hóa, nếu bạn không muốn bị lạc hậu. Cách đây 10 năm, con gái tôi có lẽ sẽ gia nhập vào dòng biểu tình chống toàn cầu hóa, nhưng với những cổ phiếu Telstra mà cháu nó mua được, giờ đây cháu trở nên quan tâm nhiều hơn đến những gì xảy ra ở phố Wall.'

Đó chính là tập hợp lực lượng.

Nếu những trí thức đang chỉ trích toàn cầu hóa sử dụng thêm thời gian vào việc tìm ra cách tận dụng nó, thay vì tìm cách xé tan nó ra, thì họ có thể nhận ra những điều dễ hiểu - toàn cầu hóa có thể tạo ra những giải pháp và cơ hội cũng nhiều như những khó khăn nó gây ra. Nhưng liệu nó có thể tạo ra giải pháp lớn nhất không? Liệu toàn cầu hóa, với sự trổi dậy của Internet và các công nghệ hiện đại có thể cải thiện đời sống của những người ở dưới đáy xã hội - 1,3 tỷ người đang sống ở mức 1 đô-la/ngày?

Có rất nhiều những lập luận chính trị ngớ ngẩn theo lối thời trang đã xuất hiện, nói về điều đó. Những người chống toàn cầu hóa đã dùng những thông số cho thấy 90 phần trăm, hay tương đương, dân chúng trên thế giới không có điện thoại hoặc chưa bao giờ được gọi điện thoại. Vì lẽ đó, họ lập luận, toàn cầu hóa và Internet sẽ không có tác dụng gì đối với họ - mà chỉ làm tăng khoảng cách giữa họ và phần còn lại của dân chúng thế giới. Đây đơn giản là một lập luận sai lầm.

Trước hết nói về công nghệ. Vào năm 2000 cứ cho rằng phần lớn dân chúng trên hành tinh chưa hề được gọi điện thoại, nhưng thực tế đó sẽ thay đổi vào năm 2005, và sẽ không còn là thực tế vào năm 2010. Theo đánh giá trong ngành viễn thông thì vào khoảng năm 2005, một tỷ những kết nối Internet di động, chi phí thấp sẽ được lắp đặt trên khắp thế giới - thông qua điện thoại di động, máy nhắn tin hay máy tính cầm tay. Và năm 2010 sẽ có khoảng 3 tỷ kết nối mới được lắp đặt. Chúng ta có khoảng một tỷ gia đình trên thế giới, những thiết bị viễn thông sẽ trở nên rẻ tiền hơn, không có lý do gì mà đại đa số những người nghèo trên thế giới lại không được kết nối mạng. (Một người bạn tôi trong ngành kỹ thuật đã đánh giá rằng vào năm 2010 thì khoảng 100 triệu máy nướng bánh mỳ nhỏ, sẽ được lắp Internet, khi đó mọi công cụ điện tử đều sẽ được gắn phần mềm và nối mạng.)

Chính vì thế câu hỏi thực sự là một khi công nghệ được phổ biến rộng rãi thì liệu chúng có góp phần xóa đói nghèo hay không khi các cuộc cách mạng kỹ thuật trước đây đã không làm được? Khi đặt ra câu hỏi này, tôi không có ý nói phải là kỹ thuật hay việc thiếu kỹ thuật mới là yếu tố duy nhất để chống đói nghèo. Tạo ra môi trường ổn định chính trị, pháp luật và kinh tế giúp tăng cường sự hăng say làm ăn, giúp cho dân chúng bắt tay vào kinh doanh và tăng năng suất, chính là những yếu tố tiên quyết để chống đói nghèo ở mọi nơi mọi lúc. Nhà kinh tế Amartya Kumar Sen, đoạt giải Nobel, lập luận rõ ràng trong cuốn sách của ông Phát triển là một quyền tự do - rằng tự do, hay khả năng một người được đưa ra những quyết định trong cuộc sống của anh hay chị ta, không những là phương tiện hiệu quả nhất để xây dựng một xã hội lành mạnh và phát triển, mà là một mục đích tối hậu của con người ta. Khi bạn giao tài sản cho người nghèo, sống trong một môi trường bất ổn về chính trị, như Liberia hay Myanma, thì cũng chẳng lợi lộc gì. Nhưng khi trao tài sản vào tay người nghèo trong một môi trường ổn định và tự do, thì bạn sẽ thấy nhiều kết quả. Chính vì thế, Sen chỉ ra, chưa bao giờ nạn đói xảy ra trong một nền dân chủ, có đa đảng và tự do báo chí, điều này áp dụng cả với Ấn Độ. "Tự do về chính trị," Sen nói, "cho phép những bộ phận yếu ớt nhất trong xã hội được lên tiếng và trao cho họ quyền được đòi hỏi và tiếp nhận những sự hỗ trợ khi xảy ra khủng hoảng."

Những đất nước nghèo nàn như Kenya và Zambia đã tụt hậu trong hệ thống toàn cầu hóa không phải do toàn cầu hóa làm hại họ, mà do họ đã không xây dựng được những hạ tầng chính trị, kinh tế và pháp luật tối thiểu để có thể tận dụng toàn cầu hóa. Sự thịnh vượng không phải đã bỏ họ mà ra đi, mà chính họ đã không tạo ra những điều kiện để giữ nói lại. Những nước như Uganda, Ba Lan hay Hàn Quốc đã có những lựa chọn đúng đắn và đã thu lợi rất nhiều từ toàn cầu hóa. Các quốc gia không bao giờ đơn thuần nhưng phát triển - điều mà chúng thiếu là những chính phủ đúng đắn.

Do vậy chúng ta có thể sửa lại câu hỏi quan trọng kể trên. Có điều gì trong toàn cầu hóa mà có thể tăng cường được quyền tự do và đóng góp vào quá trình xóa nghèo đói, những điều mà những cải cách và tiến bộ kỹ thuật trước đây không thực hiện nổi? Câu trả lời là "có." Tôi đã cố gắng giải thích trong chương 9 và 10 về cách thức toàn cầu hóa có thể giúp cho chính phủ chịu trách nhiệm cao hơn và giúp cho cá nhân, các nhà hoạt động và các công ty những quyền lực mạnh mẽ hơn đặng trở thành những nhà sáng lập trong một thế giới không còn rào cản. Điều đáng nói là người nghèo rồi sẽ hiểu và khai thác điều đó như thế nào. Dẫu có nguy hiểm đến đâu toàn cầu hóa vẫn có thể trao cho những người nghèo một khả năng to lớn hơn để họ có thể tuyên truyền, tập hợp và tự đối phó với sức công phá của chính toàn cầu hóa. Chính điều này giải thích và duy trì sự tập hợp lực lượng trong dân chúng.

Chẳng hạn nhờ có Internet mà không còn chuyện chỉ một vài công ty truyền thông lớn giao tiếp với số đông, mà ngày nay thực tế đang cho thấy số đông đang giao tiếp với số đông. Tôi tìm hiểu điều này từ Chandra Muzaffar, Chủ tịch một tổ chức nhân quyền Malaysia mang tên Phong trào quốc tế vì một thế giới công bằng. Tôi đến gặp người đàn ông Hồi giáo hiền lành này trong văn phòng của ông ở thủ đô Kuala Lumpur. Tôi đến với một mục đích để nghe ông ta chỉ trích toàn cầu hóa, thay mặt cho những người bị hắt hủi và bỏ rơi, những người mà tổ chức của ông đang bênh vực. Nhưng ngược lại tôi đã nhận được một thông điệp nhẹ nhàng và thú vị hơn từ ông ta.

"Tôi nghĩ toàn cầu hóa không phải chỉ là sự tái sinh của chủ nghĩa thực dân," Muzaffar nói. "Những người nói như vậy thật đã không hiểu vấn đề. Sự thể phức tạp hơn thế nhiều. Hãy nhìn quanh. Do toàn cầu hóa, đã có những thành phần văn hóa của những dân tộc bị đè nén lại đang xâm nhập lên phương Bắc. Món ăn phổ biến của người Anh ngày nay không còn là cá và khoai tây rán, mà là món cà ri. Cà ri không còn là món lạ miệng đối với người Anh nữa. Nhưng tôi không chỉ nói đến cà ri. Trong ý thức hệ, hiện nay xuất hiện những quan tâm nhất định đối với những tôn giáo mới. Vậy thì trong khi có cái thế lực thống trị [Mỹ hóa], anh cũng thấy tư tưởng của những người bị thống trị đang lan tràn... Hiện có nhiều cơ hội cho phép những người khác bộc lộ tư tưởng thông qua Internet. Iran kết nối với Internet rất chẵt chẽ. Họ coi đó là một công cụ để họ phổ biến quan điểm của họ. Ở Malaysia, Mahathir được CNN đưa tin [đến khắp thế giới]. Chiến dịch vận động cấm mìn trên đất liền đang được tuyên truyền trên Internet. Đó chính là công của toàn cầu hóa giúp cho những nhóm dân chúng sống ngoài lề. Nói rằng đó là một thứ giao thông một chiều thì không đúng, và chúng ta phải hiểu được sự phức tạp của nó. Dân chúng hoạt động trong nhiều cấp độ khác nhau. Ở một mức họ có thể tức giận vì những bất công mà hiện tượng Mỹ hóa gây cho xã hội của họ, nhưng họ lại bàn về vấn đề đó khi ngồi trong quán McDonald's với con cái của họ, những người đang theo học tại Hoa Kỳ." Tập hợp lực lượng đối mặt với chống đối toàn cầu hóa.

Điều đó là thực tế ngay tại các xã hội phát triển. Tạp chí Forbes - khó có thể gọi là thứ tạp chí bênh vực cho người nghèo - đã đăng một bài rất hay vào tháng 7/1998 sau phim tài liệu của Time Warner - CNN (7/6/98) nói về lực lượng Mũ Nồi Xanh của Mỹ đã dùng hơi ngạt đối với những kẻ phản bội ở Lào năm 1970. Ngay sau bản tin, những cựu chiến binh Mỹ đã tố cáo cái gọi là sự thật về chiến dịch Tailwind dựa trên các báo cáo giả mạo và các nguồn tin mơ hồ. Mặc cho rất nhiều khiếu nại, nhưng tập đoàn truyền thông khổng lồ CNN đã không đưa ra cải chính gì về bản tin. (Những người khổng lồ truyền thông toàn cầu thường không xin lỗi ai, đặc biệt không có chuyện xin lỗi cựu chiến binh.)

""Time Warner có thể đã dự kiến mọi khiếu nại rồi cũng đi vào quên lãng," tạp chí Forbes cho biết. "[nhưng] những cựu chiến binh chiến trường Việt Nam đã sử dụng Internet - vũ khí duy nhất mà họ có. Không có Internet thì có khi phải mất hàng tháng mới có thể tìm ra sự thật, mà đến lúc đó thì chẳng còn ai nghe họ nữa." [Internet] cho phép tôi làm trong ba ngày những việc mà [nhà làm phim CNN] April Oliver làm trong 8 tháng," đại tá không quân Perry Smith (đã nghỉ hưu), một tư vấn quân sự cho CNN, người đã đi khỏi CNN để phản đối phim tài liệu đó. Smith cho biết đêm mà phim tài liệu đó được chiếu, ông ta đã viết xuống một loạt các câu hỏi xung quanh điều gì đã xảy ra hồi đó ở Lào. Chỉ bấm một nút, ông ta đã gửi email đến hơn 300 nguồn tin của riêng ông - "Email được gửi khắp nơi," Smith giải thích. Hồ sơ về chiến dịch Tailwind thời đó là tối mật, vậy là nếu những người cựu chiến binh phải đợi các vị quan liêu trong Bộ Quốc phòng quyết định cho công bố hồ sơ thì sẽ mất nhiều thời gian mới bác bỏ được tư liệu của CNN, và lúc đó thì quá muộn. Nhưng bằng cách dùng email, chi phí hầu như bằng không, các cựu chiến binh đã tập hợp hồi ức của họ từ những binh sĩ có mặt thời gian đó, rồi trong vài ngày cho công bố. Họ quả đã giáng cho CNN một cái tát.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 30-3-2013 18:56:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16
(tiếp theo)

Những cựu chiến binh, nhận tiền hưu trí, trang bị bằng email đã buộc ông Rick Kaplan, Chủ tịch CNN, lương cao, xuất hiện trên chính truyền hình CNN của ông ta, run run giống như một con hươu bị rọi đèn, bác bỏ phim tư liệu đó và xin lỗi lên xin lỗi xuống, để cố gắng giữ cho được công ăn việc làm của chính ông ta, và khôi phục uy tín cho truyền hình CNN. Tỷ số: cựu chiến binh với email: 1- Time Warner-CNN, tập đoàn truyền thông hùng mạnh nhất thế giới: 0.

Trong khi Internet và toàn cầu hóa có thể và sẽ ngày càng tạo ra tự do ngôn luận cho các cá nhân và sự minh bạch trong chính phủ, vì sao tôi lại tin rằng chúng sẽ góp phần một cách độc đáo vào việc xóa nghèo đói? "Vì Internet đến với dân chúng nhanh hơn bất cứ công nghệ nào khác," Alan Hammond, Trưởng khoa học gia của Viện Tài nguyên thế giới giải thích. "Một trang web dịch sang ngôn ngữ Ấn Độ, Trung văn, Swahili và Tây Ban Nha có thể trở thành một khi tư liệu cho khoảng hai tỷ dân. Nó có thể giúp dân chúng, thậm chí những người nghèo nhất, tìm cách thoát khỏi nghèo đói, tạo lợi ích kỹ thuật số thay cho hố ngăn cách kỹ thuật số.

Xin xem một câu chuyện của Iqbal Z. Quadir, ông chủ ngân hàng người Mỹ gốc Bangladesh. "Đầu năm 1993," Quadir kể, "tôi được tuyển vào làm trong một hãng đầu tư ở New York, ở đó tôi và đồng nghiệp cùng phối hợp viết các báo cáo, lưu giữ và chia sẻ chúng trên các đĩa mềm máy tính, lắt nhắt. Sau đó khi các máy tính của chúng tôi được nối vào một mạng nội bộ, giảm được việc phải trao đổi các đĩa mềm, chúng tôi đã viết báo cáo nhanh hơn, làm việc sáng tạo hơn và đầy hứng thú. Điều đó khiến tôi nhớ lại kỷ niệm của tôi trong một ngôi làng ở nông thôn bangladesh trong thời gian chiến tranh giành độc lập của nước này, năm 1971. Chiến tranh nổ ra đầu tiên ở đô thị, khiến gia đình tôi tản cư vào một vùng quê hẻo lánh. Cả vùng đó không có công nghệ hiện đại, ngoại trừ hai chiếc phà máy dùng để chở khách và hàng hóa giữa hai thị trấn, nó dừng bến làng tôi. Trong nhiều tháng, chiến tranh khiến cho dịch vụ chuyên chở bị đình đốn. Khi dịch vụ trở lại thì nó đã khiến cuộc sống vùng tôi thay đổi tích cực. Nông dân và ngư dân bán sản phẩm của họ với giá cao hơn, hàng hóa đa dạng hơn. Sự cải thiện lên đến mức tôi có thể thấy tận mắt, dù cho lúc đó chỉ mới 13 tuổi. Thêm nữa, trong thời gian đó tôi phải đi bộ rất nhiều giữa hai ngôi làng. Cha mẹ nói tôi đi bộ 10 km sang làng bên để nhận ít thuốc men từ một dược sĩ ở đó. Nhưng sau khi đi hết buổi sáng, đến nơi, tôi mới biết là ông dược sĩ đó đã vào thành phố để mua thêm thuốc. Và thế là mất cả buổi chiều tôi đi bộ quay lại làng của mình. Sau đó nhờ có phà nối hai làng mà đỡ phải đi bộ. Khi máy tính trong sở của tôi được nối mạng vào năm 1993, tôi nhớ lại những năm tháng bị phí hoài thời 1971, và thấy nảy sinh một thực tế. Kết nối chính là điều sẽ tăng năng suất, dù đó là chuyển xảy ra trong một văn phòng hiện đại hay trong một ngôi làng nghèo túng; kết nối sẽ tăng tiềm năng; không kết nối sẽ gây tê liệt và thui chột tiềm năng."

"Nếu kết nối đồng nghĩa với năng suất," Quadir nhớ lại. "thì nó cũng là một vũ khí chống nghèo đói. Nhưng dân Bangladesh của tôi năm 1993 đã làm gì để chống nghèo đói? Qua nghiên cứu, tôi thấy Bangladesh đã qua những bước phát triển mà ít cần đến điện thoại, tôi không hiểu được sức người bị uổng phí bao nhiêu trong việc đi lại ở cái đất nước 120 triệu dân đó. Trong 1.000 người dân chỉ có hai người có điện thoại, và trong vùng nông thôn với hơn 100 triệu dân thì hầu như không có điện thoại. Đây là một thực tế phũ phàng vì ngày nay những hình thức kết nối mới đang không ngừng xuất hiện, với Internet và Email, tạo ra những chuyển biến ngay cả ở những nền kinh tế trưởng thành như của Mỹ chẳng hạn. Vào thời điểm này năm 1993, tôi được biết chính phủ bangladesh đang có sáng kiến cấp giấy phép hoạt động cho các dịch vụ điện thoại di động, dự định bắt đầu vào năm 1994. Đây là điều rất phù hợp. Để có được sự kết nối liên lạc trong vùng nông thôn cần phải có một cách thiết lập một hệ thống liên lạc điện thoại - trong trường hợp đó, điện thoại di động là thích hợp nhất - và cần phải có giấy phép của chính phủ. Tôi đã phải hành động thật nhanh. Mặc dù thu hút đầu tư để xây dựng viễn thông ở nông thôn Bangladesh là một việc khó khủng khiếp, nhưng tôi nghĩ phải tìm ra một cách. Nếu kết nối có nghĩa là tăng năng suất, vậy thì cần phải giành trước những phần lời lãi của năng suất đó để có thể trang trải cho việc đầu tư vào kết nối. Điều quan trọng, tôi cứ nghĩ trong đầu, không phải là cần bao nhiêu tiền để cho một làng mua cho được các dịch vụ điện thoại, mà là nếu có những dịch vụ đó thì làng đó sẽ làm ra bao nhiêu tiền. Dân làng sẽ dùng lợi tức từ việc sử dụng dịch vụ để trả cho chính dịch vụ họ được hưởng."

Nhưng làm thế nào để khởi sự?

"Một đốm sáng hy vọng xuất hiện trong bối cảnh đó là định chế mang tên Grameen bank," Quadir kể tiếp. "Ngân hàng chuyên cung cấp các khoản vốn vay nhỏ, hoạt động trong 35.000 làng mạc, có 1.100 chi nhánh và 12.000 nhân viên. Thông thường một phụ nữ sẽ vay 100 hay 200 đô-la, miễn thế chấp từ Grameen Bank để mua, ví dụ, một con bò. Con bò này sẽ cho sữa, chị sẽ bán sữa cho người hàng xóm, kiếm đủ tiền để sống và trả dần khoảng vay ban đầu. Quá trình đó sẽ giúp những người nghèo đói nhất đứng dậy. Đối với tôi, khả năng kết nối có thể được tổ chức theo cách tương tự. Nghĩa là một điện thoại di động cũng giống như "con bò nọ" - ít nhất là trong cách nhìn của người đi vay vốn. Một phụ nữ có thể vay 200 đô-la từ nhà băng, mua một điện thoại di động, dùng nó, đi từng nhà, mời chào dân làng sử dụng, và thu phí, như vậy vừa kiếm ra tiền, vừa có thể trả nợ ngân hàng. Đề nghị của tôi được Muhammad Yunus, người sáng lập Grameen Bank chú ý. Không có ông ta thì chẳng làm được gì. Ông ta khuyến khích và năm 1994, tôi đã bỏ việc ở hãng đầu tư và thuyết phục Joshua Mailman, một nhà đầu tư người Mỹ có đầu óc xã hội, cùng tôi lập một công ty ở New York."

"Hai năm sau, kết quả là ra đời một quan hệ đối tác gọi là Grameen Phone Limited - một công ty cung cấp dịch vụ điện thoại di động cho đô thị và nông thôn Bangladesh. Ngân hàng Grameen chịu trách nhiệm lựa chọn đối tượng phụ nữ để cho vay vốn, dựa vào hồ sơ của họ vay vốn trong quá khứ. Chẳng hạn một phụ nữ đã chứng minh rằng chị có một số kỹ năng nhất định và có khả năng học hỏi thêm, sẽ được hỗ trợ cho vay vốn và mở dịch vụ điện thoại. Một yếu tố khác là nhà của chị nên nằm ở trung tâm một cộng đồng, ở giữa làng. Grameen cũng giúp cho ít nhất là một thành viên trong gia đình mở dịch vụ có thể đọc được ngôn ngữ và chữ số bằng tiến Anh. Mỗi một người làm đại lý điện thoại như vậy trung bình có thể kiếm được hai đô-la một ngày. Và đã có rất nhiều câu chuyện kể về cách sống, cách làm ăn của dân làng thay đổi ra sao kể từ ngày điện thoại xuất hiện trong làng mạc của họ. Chẳng hạn có một phụ nữ suy nghĩ sẽ nuôi một đàn gà lớn hơn, một lối làm ăn mà chưa bao giờ chị dám nghĩ tới vì trước kia nếu gà ốm thì đã không thể gọi thú y cho kịp thời. Một người đàn ông muốn mở rộng vườn chuối của ông vì giờ đây ông có thể dùng điện thoại để hỏi thăm dò giá cả thị trường để quyết định thời điểm bán sản phẩm. Một người mẹ đã dùng điện thoại để gọi bác sĩ và đã cứu được đứa con của chị, cháu bị sốt cao. Những người dân Bangladesh lưu lạc làm ăn phương xa trên khắp thế giới giờ đây có thể gọi về nói chuyện với bà con gia đình họ, và kiểm tra xem tiền họ gửi về có đến tận tay người thân. Cả một sự tác động xã hội tích cực do liên lạc đem lại. Khi có những người phụ nữ nghèo đói nhất giờ đây có thể cầm trong tay phương tiện liên lạc toàn cầu, những làn sóng tiến bộ đã xuất hiện trong những làng bản xa xôi hẻo lánh. Ngay cả những người tương đối giàu có cũng tìm đến căn nhà của người phụ nữ nghèo khó để được sử dụng dịch vụ điện thoại."

Quadir cho biết anh rút được nhiều bài học từ kinh nghiệm đó. Một điều rõ ràng là kỹ thuật số đã cho ra một lối tư duy mới và những mô hình làm ăn mới thích hợp với các nước nghèo. Nhưng cần phải có những định chế mới trong những quốc gia đó để có thể cung cấp công nghệ tới người dân thường để bản thân họ có thể tận dụng được sức mạnh kỹ thuật. Đó là điều GrameenPhone đã thực hiện. Bài học khác cho thấy không thể có cái gọi là "phát triển kinh tế: nếu không có tinh thần doanh nghiệp. Tinh thần doanh nghiệp là sức mạnh quan trọng nhất để nâng bậc các quốc gia và điều mà Internet và toàn cầu hóa có thể làm, với chút ít trí tưởng tượng, là đã khiến cho những người nghèo nhất ở Bangladesh có được tinh thần kinh doanh này.

"Theo định nghĩa thì nước nghèo thường có đông dân nghèo, những nước này cần xác định dân nghèo của họ cũng chính là một trong những nguồn sức mạnh để đưa đất nước tiến lên," Quadir kết luận. "Nói cách khác, một chiếc điện thoại di động cũng là một "con bò" đối với người cung cấp dịch vụ điện thoại, nhưng nó có thể là một "con ngựa" đối với làng đó, con ngựa giúp kéo cả làng ra khỏi nghèo đói."

Những câu chuyện trên cho chúng ta thấy thực tế: một đằng toàn cầu hóa sản sinh ra tâm lý thờ ơ xa lánh khi các thế lực và ảnh hưởng phát triển tới mức gần như vô hình và khó hiểu, một đằng nó cũng tạo ra những tiến bộ thực tế. Nó có thể tiếp cận những tầng lớp thấp nhất trong xã hội, tạo cho những người dân nghèo yếm thế những lợi thế, cơ hội và nguồn tài nguyên mới để họ có thể tự sáng tạo.

Những câu chuyện trên cũng giải thích vì sao những phản ứng chống lại toàn cầu hóa cho đến nay vẫn chưa lôi cuốn được đông đảo quần chúng để phá tan toàn cầu hóa. Quá nhiều người dân vẫn còn muốn có hệ thống toàn cầu hóa, họ tiếp tục tìm đường để hội nhập vào hệ thống đó, dù cho quá trình hội nhập có khó khăn đến đâu. Bởi vì có quá nhiều người dân ở các nước đang phát triển tin rằng toàn cầu hóa là công cụ để họ nhanh chóng tìm ra một cuộc sống khá hơn, một công cụ hữu hiệu hơn tất cả những gì xưa nay họ có được. Liệu ai cũng tìm được công việc mình ưa thích? Chắc chắn là không. Liệu ai ở Sri lanka cũng sẽ được trả lương cao như những người sống ở Seattle không? Không. Nhưng liệu những cơ hội việc làm do Bầy Thú Điện Tử tạo ra ở các nước phát triển có hay hơn những công việc khác, nảy sinh từ cảnh nghèo khó, từ việc bóc lột tình dục từ trẻ em không? Chắc chắn rồi. Những cơ hội việc làm đó là những bước đầu tiên cho dân nghèo bước khỏi cảnh nghèo túng? Chắc chắn. Nhà kinh tế Paul Krugman đã thẳng thắn chỉ ra: "Sự thật trần trụi cho thấy mỗi điển hình phát triển kinh tế thành công trong thế kỷ trước - mỗi khi có một quốc gia hăng say làm ăn để tiến lên sự thịnh vượng, hay ít nhất đã đạt được mức sống khá hơn - đã diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa; có nghĩa là họ đã sản xuất cho thị trường toàn cầu thay vì chỉ tự cung tự cấp. Nhiều công nhân tham gia sản xuất cho thị trường thế giới đã không được trả lương xứng đáng theo mức của Thế giới Đi nhanh. Nhưng không thể nói rằng họ đã bị toàn cầu hóa làm cho đói khổ... thì bạn đã quên rằng chính họ là những người rất nghèo, trước khi họ nhận được công việc phục vụ xuất khẩu. Và nếu nghĩ như thế thì bạn cũng đã làm ngơ trước một sự thật là những ai không vào được toàn cầu hóa thì nghèo kém hơn nhiều so với những ai được vào." (Slave, 23/11/1999)

Chính vì thế mà rất nhiều đại diện từ các nước đang phát triển đã rất lo buồn tại hội nghị thượng đỉnh WTO tại Seattle năm 1999 khi Hoa Kỳ và các nước phát triển khác đã dọa cắt họ khỏi mậu dịch toàn cầu nếu trong một thời gian ngắn họ không cải thiện được quyền lợi cho công nhân và tình hình môi trường của mình - mặc dầu những thông điệp đó chẳng qua là một thời trang chính trị do các nghiệp đoàn thợ thuyền Hoa Kỳ đề ra để kêu gọi giảm bớt thương mại với các nước có mức lương công nhân còn thấp. Nếu không có mức lương thấp đó thì các nước đang phát triển không thể bước những bước đầu tiên vào nấc thang phát triển, điều kiện tiên quyết cho phép họ cải thiện tiêu chuẩn môi trường và đời sống công nhân. Vì thế những phản ứng chống toàn cầu hóa trong hàng ngũ những trí thức phương Tây đã và đang mạnh hơn những phản ứng trong hàng ngũ công nhân ở các thị trường mới nổi. Những công nhân ở đó có thể không thích nhiều điều thuộc về toàn cầu hóa, nhưng họ có còn giải pháp nào tốt hơn không? Chưa ai biết được.

Có lúc những khẩu hiệu trên đường phố Seattle và những bức tranh bôi bẩn lên tường được báo chí tung ra thành tin tức đáng chú ý. Nhưng có lúc những sự im lặng cũng rất đáng chú ý. Là một phóng viên, sự thành công đối với bạn là khả năng phân biệt được sự khác nhau giữa hai sự việc nói trên. Tôi thấy mẫu tin quan trọng nhất từ châu Á và Nga trong năm 1998 và 1999 là sự im lặng tương đối trong hàng ngũ những tầng lớp trung lưu và dân nghèo ở Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia và Liên Xô cũ. Họ chấp nhận sự phát quyết về thị trường tự do - chấp nhận rằng đất nước của họ có những khó khăn liên quan tới hệ điều hành và các phần mềm, và họ sẵn sàng chịu bị trừng phạt và cố gắng đưa ra những điều chỉnh cần thiết.

Giai đoạn này kéo dài bao lâu thì khó mà đoán trước, nhưng nó gây bối rối trong số những người dự đóan về sự thất bại của toàn cầu hóa. Sau mỗi cơn hỗn loạn trong kinh tế toàn cầu, sau mỗi cuộc thử nghiệm hạt nhân của Ấn Độ, sau mỗi cuộc họp thượng đỉnh của WTO, những chuyên gia nói trên đều kết luật rằng toàn cầu hóa đã bị "cáo chung," hệ thống toàn cầu hóa đang đổ vỡ và dân nghèo sẽ vùng lên chống lại nó. Toàn cầu hóa bao giờ cũng là khái niệm bị chôn vùi trong trí óc của những người không hiểu về nó, không hiểu về hoài bão thực sự của con người. Những người chống toàn cầu hóa chắc chưa bao giờ gặp những người như Liliane hay Teera, Chandra hay Iqbal, hay cô con gái của nhà Hendersons hay những người thợ mỏ ở Nga, chưa nói đến người phụ nữ nhỏ nhắn ở Hà Nội. Khi nào tất cả những con người nói trên bỏ cuộc, không muốn gia nhập Thế giới Đi nhanh, tuyên bố rằng họ thích quay về những hệ thống cũ kỹ, đóng cửa và bị kiểm soát, và khi họ bỏ cuộc không muốn tìm đến một cuộc sống tốt hơn - cho bản thân hay cho con cháu của họ - thì tôi sẽ đầu hàng, chấp nhận toàn cầu hóa bị "diệt vong" và rằng những người chống đối toàn cầu hóa thắng cuộc.

Nhưng cho đến ngày đó thì cho phép tôi được chia sẻ với bạn một điều bí mật nhỏ, tôi thu lượm được khi trò chuyện với những con người nói trên: "những người nghèo đói trên trái đất" chỉ muốn đến cho được Disney World - chứ không còn muốn dựng chiến lũy. Họ muốn có Vương quốc Mầu nhiệm chứ không muốn trở thành Những người khốn khổ. Và nếu bạn có thể xây dựng được những môi trường chính trị và kinh tế mà tạo cho họ được chỉ một chút hy vọng, rằng bằng cách làm việc hăng say và hy sinh thì sẽ đến được Disney World và thưởng thức Vương quốc Mầu nhiệm - thì phần lớn những người đó sẽ gắn bó với cuộc chơi toàn cầu hóa lâu, lâu hơn mức bạn tưởng tượng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 30-3-2013 19:01:42 | Chỉ xem của tác giả
PHẦN IV
Chương 17
HOA KỲ VÀ TOÀN CẦU HOÁ
Sự phấn khích hợp lý

Khi Alan Greenspan, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang đưa ra đánh giá nổi tiếng vào đầu năm 1997, cảnh tỉnh những nhà đầu tư ở thị trường chứng khoán Hoa Kỳ trước "sự phấn khích vô lý," trong cung cách họ kích giá của các cổ phiếu lên vượt quá các tính toán giá và lãi, tôi đã viết một cột báo, trong hình thức một bức thư gửi ông Greenspan, coi ông ta là một bác sĩ tư vấn cho tờ báo. Cột báo của tôi bắt đầu như sau: "Thưa bác sĩ Greenspan, tôi có một chứng bệnh tồi tệ. Tôi cảm thấy hớn hở một cách vô lý về thị trường chứng khoán Hoa Kỳ mà không cách gì kìm lại được. Tôi biết ông đã nói "phấn khích một cách vô lý" thì sẽ không tốt cho sức khỏe, và tôi đã thử chữa bằng rất nhiều phương pháp: Thôi miên, thuốc an thần, bán đổ bán tháo. Thậm chí đã đọc lại bài phát biểu của ông hồi năm 1987. Nhưng vẫn không qua khỏi chứng bệnh đó. Mỗi lần tôi sang châu Âu hay Nhật Bản, thì khi quay về tôi lại muốn đầu tư thêm nhiều vào thị trường Hoa Kỳ. Làm ơn hãy giúp tôi. Trân trọng. Ký tên Người đầu tư qua hệ thống điện tử."

Sau đó tôi nói tiếp rằng tôi không biết về cái mức độ hoạt động đúng đắn mà thị trường chứng khoán của Hoa Kỳ phải tuân thủ, và tin rằng nếu Hoa Kỳ không tiếp tục thực hiện những biện pháp căn bản như tăng năng suất và giữ lãi suất cùng lạm phát ở mức thấp, thì giá cả trên thị trường chứng khoán sẽ đi xuống. Nhưng điều tôi muốn nói là nếu có những sự nhiệt tình thái quá thể hiện ở các thị trường của Hoa Kỳ, thì đó là vì không những ở đó có nhiều những "sự phấn khích vô lý", mà còn có cả những phấn khích có lý về nước Mỹ.

Do thường ra nước ngoài nhiều và ít khi ở gần phố Wall, tôi thường nhìn nước Mỹ từ bên ngoài - và tôi thường chứng kiến những thái độ niềm nở có lý mà thế giới dành cho nước Mỹ. Sự niềm nở đó được xây dựng trên logíc sau đây: Nếu coi toàn cầu hóa là một hệ thống quốc tế chủ đạo ngày nay, và nhìn vào những đóng góp từ các công ty và nhà nước cho hệ thống đó, thì bạn có thể kết luận rằng Hoa Kỳ có nhiều tài sản nhất và ít nợ nần nhất trong hệ thống, hơn bất cứ nước lớn nào khác. Đó là điều tôi gọi là sự phấn khích có lý. Cảm giác chung trong giới đầu tư toàn cầu cho thấy trong khi nhiều nơi ở châu Âu và châu Á vẫn đang phải cố gắng điều chỉnh xã hội của họ để thích nghi với toàn cầu hóa, trong đó có những nơi chỉ mới bắt đầu, thì Chú Sam đã chạy được một quãng dài và đang tiếp tục tiến rất nhanh.

Một cách dễ hiểu để phân tích sự phấn khởi có lý nói trên là hãy đặt vấn đề sau đây: Nếu cách đây một trăm năm, đến gặp một nhà địa lý kiêm kiến trúc sư, bạn nói với ông ta rằng vào năm 2000 sẽ có một hệ thống thế giới gọi là "toàn cầu hóa," thì ông ta sẽ thiết kế một đất nước như thế nào để có thể cạnh tranh và thắng được trong thế giới đó? Câu trả lời sẽ là đất nước đó sẽ rất giống nước Mỹ ngày nay. Nghĩa là:

Trước hết, ông ta sẽ thiết kế một đất nước có vị trí địa lý có sức cạnh tranh lý tưởng. Ông sẽ thiết kế một cường quốc của cả Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, thoải mái trông ra cả hai hướng, ở trên bộ thì nối với Canada và Mỹ La tinh, khiến cho nó có thể tương tác được với ba thị trường chủ chốt của thế giới - Á, Âu và Mỹ. Thật tiện lợi.

Ông ta sẽ thiết kế một đất nước có dân cư đa dạng, đa văn hóa, đa sắc tộc, đa ngôn ngữ, những người có quan hệ tự nhiên với tất cả các lục địa trên trái đất, nhưng đồng thời được gắn bó bởi chỉ một ngôn ngữ - tiếng Anh - một thứ tiếng chủ chốt dùng trên Internet. Ông ta sẽ đặt vào đất nước này ít nhất là năm nền kinh tế địa phương nhưng chỉ một đồng tiền chung, đồng đô-la, cũng là đồng ngoại tệ mạnh, làm dự trữ ngoại tệ cho tất cả các nước trên thế giới. Một đồng tiền chung cùng với năm nền kinh tế địa phương là thứ tài sản quý báu, vì khi một vùng kinh tế gặp khó khăn thì lại có một vùng kinh tế khác ăn ra làm nên để bù đắp, lấp đi những khoản thiếu hụt trong chu kỳ thương mại. Đó là một điều tiện lợi.

Ông ta sẽ thiết kế một đất nước có những thị trường tư bản hữu hiệu, đa dạng và đầy sáng tạo, nơi gọi vốn mạo hiểm được coi là một nghệ thuật đáng trân trọng, khiến cho bất cứ ai có sáng kiến (dù có vẻ hợp lý hay vô lý) trong nhà bếp hay ngoài gara cũng có thể tìm được người tài trợ cấp vốn. Thật là hay. Vì khi nói đến tốc độ, thì không đâu nhanh bằng các thị trường vốn của Hoa Kỳ trong việc ném tiền đầu tư cho những sáng kiến mới. Nếu bạn so sánh danh sách của 25 công ty lớn nhất châu Âu cách đây 25 năm với danh sách 25 công ty lớn nhất châu Âu ngày nay - thì thấy tên các công ty trong hai danh sách đó gần như không đổi. Nhưng nếu là như vậy đối với trường hợp Hoa Kỳ, thì thấy phần lớn trong danh sách ngày nay là các công ty mới mẻ, khác xưa. Tất nhiên các thị trường tài chính của Mỹ, với việc thường xuyên đòi hỏi thu lợi nhuận ngắn hạn và thu nhập theo quý, thường không muốn các tổng công ty "tốn tiền" vào những hoạt động dài hạn. Điều đó đúng. Nhưng cũng chính những thị trường đó có thể trong vòng một đêm ném tiền cho một cá nhân, tài trợ cho một người có chút ít ý tưởng chưa chín muồi, để sau đó người này cho ra đời một mẫu máy vi tính đời mới. Massachusetts có khu vực cấp vốn cho sáng tạo quy mô bằng cả châu Âu cộng lại. Các nhà tư bản tài trợ cho sáng tạo là những nhân vật quan trọng nhất thời nay; không chỉ vì họ là những nguồn tiền bạc. Những người giỏi nhất trong số họ có thể cung cấp các kỹ năng để lập công ty. Họ có rất nhiều kinh nghiệm và thấu hiểu những giai đoạn mà các công ty trải qua để phát triển, và họ sẽ hỗ trợ trong nhưng khâu đó - những điều quý báu không kém gì tiền bạc.

Kiến trúc sư của chúng ta chắc chắn sẽ thiết kế một đất nước có môi trường pháp lý và luật lệ trung thực nhất thế giới. Ở đất nước này các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu được hoạt động trên một sân chơi công bằng, với tương đối hiếm các hiện tượng tham nhũng, với rất nhiều luật lệ bảo vệ cho bất cứ người nước ngoài nào vào đầu tư, kiếm lời và chuyển tiền ra ngoài bất cứ lúc nào. Đất nước sẽ có nền pháp chế giúp cho thị trường và các hợp đồng được thực hiện và đảm bảo việc bảo vệ tác quyền cho các sáng chế. Các thị trường vốn của Hoa Kỳ ngày nay không những hữu hiệu hơn so với thị trường ở các nước khác, mà còn được coi là minh bạch nhất. Các thị trường chứng khoán ở Hoa Kỳ không chấp nhận chuyện giữ bí mật, những công ty được niêm yết sẽ phải thường xuyên báo cáo về thu chi, kiểm toán, lỗ lãi để có thể dễ dàng phát hiện và trừng phạt về những sai lầm trong quản lý và sử dụng tài lực.

Ông ta sẽ thiết kế một đất nước có hệ thống luật và tòa án để xử phá sản, khuyến khích những ai làm ăn thất bát có thể tuyên bố phá sản và rồi lại bắt đầu từ đầu, làm đi làm lại, để rồi có ngày sẽ thành công, như Amazon.com chẳng hạn - họ sẽ không phải đeo đẳng tiếng xấu trong cuộc đời của họ. Trong Thung lũng Silicon, John Doerr, một nhà tư bản tài trợ cho sáng tạo, cho biết, "thất bại cũng không sao, và trong thực tế, điều quan trọng là bạn hãy ngã khi đang dùng tiền của người khác." Trong Thung lũng Silicon, phá sản được coi là điều cần thiết và là một phần của chi phí cho sáng tạo, đó là thái độ khiến cho người ta chấp nhận mạo hiểm. Nếu không biết ngã thì sẽ không đứng vững được. Harry Sall, người sáng lập một trong những hệ thống sữa chữa phần mềm thành công nhất trong khu này, sau nhiều lần công ty của ông chết đi sống lại, đã nói với tôi trong một lần cùng uống cà phê ở Palo Alto: "Quan điểm ở đây cho rằng cứ mỗi lần ngã là một lần nên khôn. Chính vì thế những người ở đây khi thử nghiệm một điều gì đó mà thất bại, thì lần sau, khi họ đứng dậy thì họ dễ dàng tìm thấy tài trợ hơn lần trước. Người ta sẽ nói, "anh ta lần trước đã bị phá sản? Tôi cuộc rằng anh ta đã học được điều gì từ đó, và thế là tôi lại bỏ tiền đầu tư vào cho anh ta".

Ở châu Âu phá sản sẽ là tiếng xấu gắn cho bạn suốt đời. Làm gì thì làm, đừng có tuyên bố phá sản khi ở nước Đức: vì bạn, con cái của bạn, rồi cháu chắt của bạn sẽ phải mang tiếng trong xã hội người Đức. Nếu phải tuyên bố phá sản ở Đức thì tốt nhất là rời bỏ nước này mà đi. (Và bạn sẽ được chào đón ở Palo Alto.)

Nhân chủ đề đó, nhà thiết kế của chúng ta chắc chắn sẽ thiết kế một đất nước sẵn sàng chào đón dân nhập cư mới, về nguyên tắc sẽ cho phép bất cứ ai lên được bờ biển nước Mỹ, thì theo hiến pháp, sẽ được đối xử như dân chúng trong nước. Điều đó khiến đất nước này có thể tận dụng được những bộ óc giỏi nhất thế giới, tập trung chúng vào những công ty, trung tâm y tế và các trường đại học. Khoảng một phần ba các kỹ sư và nhà khoa học ở Thung lũng Silicon là những di dân, sinh ra ở nước khác, những người đã đến đó, nghiên cứu rồi lại chuyển giao sản phẩm và giá trị khoa học ra thế giới. AnnaLee Saxenian, chuyên gia về đô thị của Đại học California ở Berkeley cho biết nghiên cứu của Viện Chính sách California năm 1996 tìm ra rằng: Di dân Trung Quốc và Ấn Độ trực tiếp điều hành 1.786 công ty kỹ thuật cao của Silicon, doanh thu tổng cộng 12,6 tỷ đô-la và 46.000 nhân viên. Donald Rice, cựu lãnh đạo công ty Teledyne, đã thành lập một hãng công nghệ sinh học, hãng UroGenesys vào năm 1997 để nghiên cứu các phương pháp chữa các bệnh tuyến tiền liệt. Ông ta đặt công ty mới của mình ở Santa Monika, California. Một hôm ông miêu tả cho tôi về đội ngũ nhân viên của ông: "Chúng tôi có 19 nhân viên. Ba trong số đó sinh ra ở Việt Nam, hai nhà khoa học và một nhân viên hành chính; hai người sinh ở Canada, cả hai là nhà khoa học; một người sinh ra ở Nhật, nghiên cứu; một khoa học gia sinh ở Peru; một khoa học gia sinh ở Malaysia; một khoa học gia sinh ở Trung Quốc; một khoa học gia sinh ở Iran; một sinh ở Ấn Độ. CÒn lại là người sinh ở Mỹ. Tôi không thể tìm một đất nước nào khác trên thế giới mà có thể có một đội ngũ như vậy." Đúng thế. Có ai đó đã cố gắng để vào quốc tịch Nhật Bản bao giờ chưa? Hay là quốc tịch Thụy Sĩ? Để trở thành người Nhật bạn hầu như phải là người sinh ra ở Nhật. Để trở thành người Thụy Sĩ bạn hầu như phải là người sinh ra ở Thụy Sĩ. Để trở thành người Mỹ bạn chỉ cần muốn thành người Mỹ. Nhưng khi quốc tịch chỉ là vấn đề pháp luật, không liên quan gì đến sắc tộc, chủng tộc hay quốc gia, thì sẽ dễ dàng hơn cho một đất nước thu phục tài năng. Một người bạn tôi trong Thung lũng Silicon hay nói: "Tôi không sợ người Nhật hay người châu Á nào khác. Người gốc Á của chúng tôi lúc nào cũng sẽ thành công hơn người Á ở châu Á."

Càng thu hút nhiều công nhân lành nghề sang nước bạn thì đất nước càng có cơ thành công. Nói về nước Mỹ, tôi mong muốn không chỉ thu hút những người giàu có và có trí tuệ. Tôi sẽ không bao giờ từ chối một thuyền nhân Haiti. Những người thông minh đến mức có thể dùng các thùng sữa để làm thành chiếc bè và vượt biển sang đến bờ của nước Mỹ sẽ đều là những người tôi muốn tiếp nhận. T.J. Rodgers, Tổng giám đốc điều hành công ty Cypress Semiconductor, khi phàn nàn về những hạn chế do Quốc hội Mỹ áp đặt đối với chế độ visa cho các kỹ sư nước ngoài vào làm việc, đã nhận xét: "Người thắng và kẻ thua trong thời đại thông tin chỉ khác nhau về đầu óc. Nhưng có những vị thượng nghị sĩ của chúng ta không nhìn ra điều đó, họ muốn đẩy những tri thức của thế giới ra xa để rồi chính những trí thức đó, từ đất nước của họ, sẽ trở thành những đối thủ cạnh tranh với chúng ta. Bốn trong số 10 chủ tịch của hãng chúng tôi vối là di dân. Khoảng 35 phần trăm các kỹ sư của tôi là người di dân. Phó chủ tịch của tôi phụ trách nghiên cứu - người đã thiết kế chíp vi tính tiên tiến nhất của hãng - là người đến từ Cuba." Liệu bạn có muốn công việc trong đất nước của bạn chỉ do các chuyên viên nội địa đảm trách, hay bạn muốn vươn tới số 10 phần trăm các chuyên viên giỏi nhất thế giới? Hoa Kỳ ngày nay là đất nước duy nhất làm được điều đó. Nhật Bản, Thụy Sĩ, Đức - họ không có truyền thống di dân thực sự, và đó là điểm yếu của họ.

Nhà kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước với hệ thống chính trị dân chủ và liên bang, đặc điểm uyển chuyển, cho phép tản quyền chính trị và do đó khuyến khích các vùng và địa phương điều chỉnh chính sách của họ với các khuynh hướng trên thế giới, mà không phải đợi sự phê duyệt của chính quyền liên bang. Một hệ thống liên bang - với 50 bang có khả năng cạnh tranh và thử nghiệm để tìm giải pháp cho các vấn đề giáo dục, an sinh xã hội và y tế - là một thế mạnh trong toàn cầu hóa. Nó được dùng để thử nghiệm, tìm tòi nhằm ứng phó với tính phức tạp của các vấn đề nói trên.

Nhà kiến trúc đó chắc chắn sẽ tạo ra một đất nước có thị trường lao động linh hoạt nhất thế giới - thị trường cho phép nhân công di chuyển từ vùng kinh tế này sang vùng khác, cho phép các công ty tương đối dễ dàng tuyển dụng hay sa thải nhân công. Trong một thời kỳ phát triển nhanh chóng thì khả năng di chuyển dễ dàng thật là quan trọng. Ở Hoa Kỳ, hôm nay bạn mất việc ở Maine thì ngày mai bạn có thể tìm được việc mới ở San Diego, nếu bạn sẵn sàng đi lại. Nếu ở Tokyo mà bạn mất việc hôm nay thì theo tôi bạn không nên tìm việc mới ở Seoul ngày hôm sau. Nếu ngày hôm nay bạn bị mất việc ở Munich, ngay cả khi châu Âu đã trở thành một liện hiệp với đồng tiền và thị trường chung, thì bạn vẫn rất khó tìm việc ở Minlan vào ngày hôm sau. Đó là những khó khăn nhãn tiền đối với thế giới ngoài nước Mỹ.

Hơn nữa, càng dễ dàng sa thải công nhân thì các hãng xưởng càng dễ dàng tìm người mới. Điều đó có vẻ nghịch lý lại được dùng để giải thích cho những tiến bộ - trong những năm 90, Hoa Kỳ nhờ có chính sách nhân lực uyển chuyển đã vượt châu Âu và Nhật Bản rất nhanh chóng trong việc hấp thụ cách mạng thông tin vào nền kinh tế. Hãy tự hỏi một câu đơn giản: Vì sao trong khi công nghệ, với Internet và máy tính cá nhân sẵn có cho mọi quốc gia phát triển, vậy mà có quốc gia tận dụng chúng nhanh nhẹn vào thương mại, trong khi có những quốc gia khác không làm được điều đó? Câu trả lời ngắn gọn là phần lớn các công nghệ mới đó đã làm tăng năng suất của một nhà máy, và mức sống trong một xã hội, bởi vì chúng giúp loại bỏ bớt nhân lực. Các robot làm việc hiệu quả hơn so với công nhân làm bằng tay trong dây chuyền sản xuất. Thiết bị trả lời tự động trong điện thoại của bạn làm việc hiệu quả hơn nhân viên trực tổng đài. Nói cách khác, chìa khóa để vào cách mạng thông tin không phải là do nó làm tăng chi phí cho đầu ra, mà là nó làm giảm chi phí nhân công cho đầu vào - tiết kiệm và tăng hiệu quả sản xuất. Công việc làm bằng tay giảm đi. Có nghĩa là nếu có một thứ môi trường văn hóa và xã hội cho phép bạn giảm bớt nhân lực bằng cách áp dụng công nghệ mới thì bạn sẽ kiếm lời do tăng năng suất, tăng lợi nhuận, tăng tài sản và sau cùng sẽ tăng công ăn việc làm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 30-3-2013 19:03:03 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17
(tiếp theo)

Tất cả các yếu tố đó tập hợp trở thành một đất nước có khả năng cạnh tranh. Hoa Kỳ ngày nay đã có được một nền văn hóa và xã hội trong đó cho phép phá cũ, sáng tạo và xây mới. Alan Greenspan một lần đã chỉ ra rằng vào giữa năm 1999, mỗi tuần có khoảng 300.000 việc làm ở Mỹ bị công nghệ mới xóa sổ. Nhưng chính công nghệ mới đã tạo ra 300.001 việc làm mới trong một tuần sau đó, cũng ở Mỹ. Chính vì thế nạn thất nghiệp ở Mỹ vẫn được giữ ở mức thấp. Các công ty Mỹ dễ dàng sa thải nhân viên, dùng máy móc thay thế họ, không ngần ngại mua kỹ thuật mới. Nhưng khi làm điều đó, họ có thêm khả năng dễ dàng tuyển dụng nhân viên mới.

Ngược lại, ở châu Âu và Nhật Bản, rất khó có thể sa thải công nhân. Hãy tưởng tượng khi linh kiện tự động trả lời điện thoại được sử dụng giúp bạn có thể dẹp đi 10 nhân viên tổng đài. Nhưng một công ty ở Tây Âu sẽ mua linh kiện đó nhưng vẫn giữ 10 nhân viên tổng đài đó lại, hoặc trả rất nhiều tiền đền bù cho họ thôi việc. Kết quả sẽ là hoặc công ty đó rất ngần ngại trong việc tuyển người mới, hoặc ngần ngại trong việc mua và áp dụng kỹ thuật mới vì nó sẽ không đủ tiền để mua kỹ thuật đồng thời trả lương cho những nhân viên mà kỹ thuật đó thay thế nhưng vẫn nằm lại công ty, hoặc có thể họ ra đi nhưng phải được đền bù nhiều. Như vậy đầu tư mới sẽ không mang lại lợi nhuận đáng kể. Nhân nói về đều này ta có thể nhân xét rằng bước ngoặt trong lịch sử Hoa Kỳ trước khi bước sang thiên niên kỷ mới là khi Ronald Reagan quyết định sa thải toàn bộ số nhân viên hoa tiêu hàng không đã đình công vào năm 1981. Không một sự kiện nào lớn hơn thế trong việc đánh dấu sự thay đổi trong tương quan lực lượng giữa chủ và nhân viên, mở đường cho các công ty Mỹ mặc sức sa thải nhân viên, áp dụng kỹ thuật, rồi lại mặc sức tuyển lao động mới. Chẳng có thế mà sau đó, hàng triệu việc làm ở Mỹ đã bị xóa sổ đồng thời hàng triệu việc làm mới được hình thành cũng ở Mỹ trong những năm 90. Trong khi đó các thị trường nhân lực ở châu Âu tiếp tục trì trệ, và mức thất nghiệp đứng ở 12 phần trăm.

Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước trong đó ngườ ta căm ghét những tập đoàn được chính phủ bảo hộ, buộc mỗi công ty và mỗi ngân hàng phải vật lộn để tự tìm chỗ đứng, nhưng sự độc quyền thì sẽ không được dung tha. Đó là điều quan trọng, bởi vì khi một công ty Mỹ, như Microsoft chẳng hạn, trở thành đầu tàu được ngưỡng mộ trên thế giới, thì nó vẫn phải ra trước cơ quan chống độc quyền của Bộ Tư Pháp Mỹ để chịu chất vấn. Đó là một trong những thế mạnh tiềm ẩn lớn nhất của Mỹ. Những người cho rằng để bảo tồn sức mạnh, nước Mỹ sẽ phải dung túng những công ty như Microsoft chẳng hạn - cho nó làm gì tùy ý - đã hoàn toàn sai lầm. Thực tế cho thấy một nhóm người trong Bộ Tư Pháp, lương 75.000 đô-la Mỹ mỗi năm, có thể đứng ra thách thức Micosoft, một công ty lớn nhất nước Mỹ, và thắng cuộc - đó chính là nguồn sức mạnh của Mỹ. Bao giờ cũng có thể có một công ty khác xuất hiện, cạnh tranh với Microsoft, một khi cơ quan chống độc quyền của Bộ Tư Pháp vẫn còn đó và có khả năng dẹp bỏ các tập đoàn độc quyền, và một khi vẫn có những chánh án như Thomas Penfield Jackson, dũng cảm phân xử và kết án các tập đoàn độc quyền. Điều trớ trêu là tháng 11 năm 1999, khi Jack phán quyết rằng Microsoft có hành vi độc quyền và gây hại đối với người tiêu dùng ở Mỹ, trùng vào tuần lễ kỷ niệm 10 năm Bức tường Berlin sụp đổ. Những người đạp đổ bức tường đó đã nóng lòng mong đợi những gì bên kia bức tường? Chắc chắn là họ mong những thứ mà Bill Gates bán - Windows, Disney World, McDonald's và một cuộc sống tốt đẹp. Nếu có một điều những xã hội hậu công sản nhận ra trong vòng 10 năm qua, thì đó chính là việc pháp chế đóng vai trò nền móng của sự thịnh vượng của nước Mỹ. Như nước Nga đã nhanh chóng nhận thấy nếu không có nhà nước pháp quyền thì sẽ không có thịnh vượng. Chính hệ thống quản lý bằng luật pháp của Hoa Kỳ, trong đó không một cá nhân hay công ty nào đứng trên luật pháp, là cốt lõi của phong cách Mỹ. Cũng như những người khác, tôi rất buồn khi nghe tin có người Trung Quốc bị tố cáo đã đánh cắp các bí mật hạt nhân của Mỹ hồi năm 1999. Không thể dung tha được điều đó. Nhưng tôi cũng cảm thấy nếu quả thực họ đã làm điều đó thì cũng vô ích. Vì bí mật lớn nhất của chúng tôi - nguồn sức mạnh của người Mỹ - là điều mà không ai có thể đánh cắp. Đó là lối sống Mỹ. Nhưng nếu họ bắt đầu bắt chước lối sống đó, thì tôi sẽ bắt đầu lo lắng. Nếu họ chỉ đánh cắp các bí mật quân sự thì họ phải hiểu rằng, ngay sau khi bị mất cắp, thì hệ thống của chúng ta sẽ cho ra đời một phát kiến tốt hơn.

Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước có lòng bao dung với những người có lối sống khác thường, ví dụ những anh chàng để tóc kiểu đuôi ngựa, hay những cô nàng gắn vòng lên cánh mũi, chính họ cũng có thể là những người giỏi toán và giỏi thiết kế phần mềm vi tính. Hoa Kỳ là đất nước mà phút trước có người đứng lên bỏ cuộc: "Điều đó không thể làm được, "thì sẽ có ngay một người khác bước vào tuyên bố: "Tôi vừa thực hiện thành công điều đó." Avram Miller, Phó chủ tịch của hãng Intel, nói: "Người Nhật không hiểu được điều đó, vì họ chú trọng sự đồng bộ. Nếu phải sản xuất hàng tỷ mặt hàng giống hệt nhau, thì người Nhật là chuyên gia hàng đầu trên thế giới, và chúng tôi vì thế cứ nghĩ họ là thần đồng. Nhưng ngày nay, thế giới không muốn có nhiều mặt hàng giống hệt nhau, đồng bộ. Và trong thế giới ngày nay, nơi có người này thích thứ này, người kia thèm thứ khác - và công nghệ cho phép có thể sửa đổi điều chỉnh [cho thị hiếu riêng của từng khách hàng] - thì Hoa Kỳ quả là có lợi thế."

Kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước trong đó các tập đoàn công ty, không như loại ở châu Âu và Nhật Bản giữa những năm 90, sẵn sàng giảm biên chế, rút gọn sản xuất, tư hữu hóa, mở rộng quan hệ đối tác, thay đổi cấu trúc quản lý... để tận dụng các trào lưu dân chủ tài chính, thông tin và công nghệ, và tránh được chứng suy giảm hệ miễn nhiễm đối với microchip. Nước Mỹ xưa kia đã thắng trong cuộc chạy đua trong không gian, ngày nay nước Mỹ đang thắng thế trong cuộc cạnh tranh điện toán. Tính bình quân đầu ngườ, các công ty Hoa Kỳ tiêu tiền vào công nghệ thông tin cao hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới.

Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước làm ăn hăng say và một hệ thống thuế cho phép các nhà đầu tư và nhà cải tiến thành công có thể giữ lại những phần doanh thu của họ do được hưởng ưu đãi thuế, và như thế khuyến khích người ta ngày càng làm giàu thêm. Trong một đất nước lý tưởng, Horatio Alger sẽ không phải là một nhân vật tưởng tượng, mà có thể là người hàng xóm của chúng ta - một người bình thường, kỹ sư của Intel hay America Online khi mới khởi nghiệp, và được trả quyền tùy chọn cổ phiếu nay có giá trị khoảng 10 triệu đô-la.

Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước vẫn bảo tồn được những khu vực môi trường hấp dẫn, mở rộng, những thị trấn nhỏ và xinh để hấp dẫn các nhân lực tri thức. Vì ngày nay, nhờ có Internet, máy fax và dịch vụ chuyển phát nhanh, các hãng công nghệ cao và nhân lực trí thức của họ có thể chạy trốn khỏi những trung tâm thành phố đến đó ở bất cứ nơi nào họ muốn. Có được những thung lũng xanh tươi, gần biển và gần núi là điều lý tưởng. Chính vì thế những bang Idaho, Washington, Oregon, Minnesota và Bắc Carolina đang trở thành các trung tâm công nghệ cao ngày nay.

Kiến trúc sư của chúng ta cũng sẽ thiết kế một đất nước coi trọng sự lưu thông thông tin đến mức nó bảo vệ quyền của cả những người hoạt động trong ngành tranh ảnh khiêu dâm và những kẻ phân biệt chủng tộc tồi tệ nhất. Đó cũng là một lợi thế. Vì trong một thế giới mà thông tin, tri thức, hàng hóa và dịch vụ trôi nổi qua lại nhanh chóng, kể cả trên mạng điện toán, những đất nước duy trì được sự cởi mở, ứng phó được với những hỗn loạn thỉnh thoảng vẫn xảy ra, những đất nước cạnh tranh trên cơ sở tri thức, không lẩn tránh - sẽ có lợi thế. Hoa Kỳ, với Bộ luật Tự do Thông tin, không cho phép chính phủ giữ bí mật được lâu, đã xây dựng được một nền móng văn hóa của sự cởi mở và minh bạch.

Và, quan trọng nhất, kiến trúc sư của chúng ta sẽ thiết kế một đất nước có những công ty đa quốc gia cùng những doanh nghiệp nhỏ tiếp tục nhìn xa trông rộng, nhìn toàn cầu và phát triển trong một môi trường tốc độ nhanh, nhẹ, kết nối, và giàu tri thức. Hoa Kỳ hiện đạt được mức hoàn hảo trong các ngành thiết kế phần mềm, vi tính, thiết kế, tiếp thị qua Internet, ngân hàng thương mại, email, bảo hiểm, cải biến gene, tri thức nhân tạo, ngân hàng đầu tư, y tế, đại học, chuyển phát nhanh, thức anh nhanh, quảng cáo, công nghệ sinh học, truyền thông, giải trí, khách sạn, xử lý rác, dịch vụ tài chính, viễn thông và công nghệ cho môi trường. Đó là thế giới hậu công nghệ, và Hoa Kỳ ngày nay đang đi đầu trong tất cả các ngành hậu công nghiệp.
Trong một thế giới được-thì-ăn-cả, Hoa Kỳ giờ đây đã hình thành ít nhất là một hệ thống được-thì-ăn-nhiều. Điều đó khiến Hoa Kỳ trở thành một siêu cường độc đáo. Sức mạnh của nó đã vượt khỏi mức thông thường. Nó có một đội quân thường trực lớn mạnh, có hàng không mẫu hạm, phản lực, máy bay vận tải vả vũ khí hạt nhân nhiều hơn trước, vì thế, hơn những nước khác, nó có thể chuyển quân đi xa và đi sâu vào thế giới. Việc Hoa Kỳ có máy bay ném bom tàng hình tầm xa B-2 và đang phát triển máy bay tầm gần F-22 có nghĩa là Hoa Kỳ có thể bay vào không phận của bất cứ quốc gia nào mà vẫn không bị phát hiện. Đồng thời, như nói chi tiết ở trên, Hoa Kỳ đã đi đầu trong tất cả những lĩnh vực thuộc thời toàn cầu hóa.

Nhưng xin nhớ cho: Mới một thập kỷ trước, người Á và người Âu dường như chiếm thượng phong, lúc đó ai ai cũng tin rằng Hoa Kỳ đang vào thời suy vong. Giờ đây, như John Neuffer, một nhà phân tích người Mỹ ở Viện nghiên cứu Tokyo nói với báo The New York Times, mọi sự đã xoay chiều: "Nhật Bản chưa thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm, và Hoa Kỳ chưa thấy được bờ vực để rơi."

Điều đó không có nghĩa là sẽ không có cái bờ vực đó. Bao giờ cũng sẽ có loại bờ vực đó. Với bất cứ lợi thế mà Hoa Kỳ tự có, nước này vẫn phải tự sắp xếp những điều kiện và khả năng đúng đắn để có thể cạnh tranh. Hoa Kỳ vẫn phải đảm bảo rằng năng suất - khả năng cung ứng hàng hóa và dịch vụ với giá thấp và chi phí thấp, để tiền lương có thể tăng nhưng lạm phát vẫn bị kiểm soát - tiếp tục tăng. Mức tăng năng suất nhanh chóng ở Mỷ trong những năm 90 là một hiện tượng do tiến bọ kỹ thuật tác động, nhưng giờ đây chưa ai có thể đoán được mức tăng trưởng của Hoa Kỳ sẽ nhanh hay chậm trong thời gian tới. Nhật Bản, hiện nay vẫn còng nhiều thế yếu, nhưng họ vẫn là chủ của nhiều ngành sản xuất rất hiệu quả, với mức tích lũy cao và một đội ngũ nhân lực rất cần mẫn. Nhật Bản vẫn là đầu tàu sáng tạo trong những lĩnh vực như sản xuất dùng kỹ thuật cao, quản lý sản xuất và hàng điện tử. Có rất nhiều thương gia giỏi người Nhật đang bị cơ chế của Nhật khiến cho khó phát huy tài năng. Những sự bấp bênh trong kinh tế vĩ mô của người Nhật trong những năm 90 đã không kích thích tăng trưởng ở nước này - ngược lại chúng đòi hỏi phải có sự điều chỉnh. Khi mà người Nhật và Tây Âu vẫn bám giữ những cơ chế cứng nhắc và bao cấp của họ - khiến cho tư bản không năng động, sáng kiến bị thui chột, thì họ chưa thể là đối thủ của người Mỹ. Nhưng trong toàn cầu hóa, khi nước Mỹ càng tiến xa hơn, thì tôi dự kiến, những nước đó sẽ bắt chước. Những sự điều chỉnh không tránh được này có thể gây đau thương, nhưng là điều bắt buộc đối với họ, nếu họ muốn duy trì mức sống như ngày nay.

Không phải vì trong những xã hội đó không có những bộ óc doanh nghiệp phù hợp với thời đại. Óc của Pháp cũng giống óc của Mỹ. Câu hỏi duy nhất là: bối cảnh kinh tế và xã hội ra sao để phát huy tài năng từ những bộ óc đó? Lý do vì sao nhiều kỹ sư phần mềm người Pháp theo nhau sang Thung Lũng Silicon là vì họ cảm thấy không thể làm ăn được trong hệ thống của nước Pháp ngày nay. Ngày 21/3/1998, tờ Washington Post đăng bài về nạn chảy máu chất xám từ Pháp snag Thung lũng Silicon, chỉ ra nguyên nhân nằm ở chỗ khả năng linh hoạt của hệ thống Hoa Kỳ: Reza Malekzadeh, một sinh viên 24 tuổi, tốt nghiệp từ một trong những đại học về thương mại tốt nhất của Pháp đã chuyển sang Hoa Kỳ, đổi việc làm ba lần trong ba năm và đã trở thành giám đốc điều hành cho hãng Softway International, Inc., tại San Francisco. "Ở Pháp tôi không thể làm được những điều như tôi đang làm ở đây," anh này nói. ""Ở Pháp, đến lúc bạn 50 tuổi mà người ta vẫn nói về bạn như là một [sản phẩm] của cái trường mà bạn đi học. Ở đây người ta chỉ quan tâm tới những gì bạn làm được, không quan tâm đến bạn bao nhiêu tuổi hay đi học trường nào 15 năm trước đây." Anh ta nay là một trong số 40.000 công dân Pháp đang sống ở vùng Bắc California. Nếu hoàn cảnh ở Pháp thay đổi thì chắc chắn những người Pháp đó sẽ lại theo nhau hồi hương, và những người Pháp khác sẽ ít sang Thung lũng Silicon hơn.

Đó là lợi thế mà Hoa Kỳ lúc này cần tận dụng, để đối phó với những khó khăn thực sự: nạn tội phạm trong các thành phố, sự thiếu thốn luật pháp trong việc kiểm soát vũ khí, hố ngăn cách giàu nghèo, trường công lập thiếu vốn, nền văn hóa thích khiếu kiện khiến nản lòng những doanh nghiệp lớn nhỏ, một hệ thống an sinh xã hội không đủ tài chính, một hệ thống thẻ tín dụng khiến cho dân chúng chi nhiều hơn thu rồi lâm vào nợ nần, và cả một hệ thống chính trị ngày càng bị tham nhũng và gây hại khiến các luật lệ về thương mại không còn chặt chẽ. Giải quyết những khó khăn đó sẽ làm cho việc hội nhập toàn cầu hóa sẽ thuận tiện hơn.

Tôi rất hy vọng là Hoa Kỳ sẽ tận dụng một cách thông minh những nguồn tài sản của mình, và tôi không nghĩ chỉ có mình tôi là người có tư tưởng lạc quan đến thế. Nhưng nếu Hoa Kỳ chủ quan thì phát triển sẽ trở thành trì trệ - mặt trời lên thì sẽ có lúc mặt trời lặn. Chính vì thế bao giờ tôi cũng tin vào câu nói của Bộ trưởng Tài chính Larry Summers, nói về Hoa Kỳ trong những năm 90: "Điều duy nhất khiến chúng ta lo sợ chính là khi nghĩ rằng chúng ta không sợ một điều gì cả."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 31-3-2013 09:53:17 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18
Cách mạng Mỹ

Trước sau rồi ai cũng sẽ nói đến McDonald's:

O.J ăn ở đâu trước khi Nicole bị sát hại? McDonald's.

Bộ trưởng Thương mại Ron Brown mời lính Mỹ ăn gì trước khi ông ta từ trần? McDonald's

- Những trích dẫn trong văn phòng báo chí của tổng hành dinh McDonald's, Oak Brook, Illinois

Sao anh lại có thể hô "Mỹ chết đi!" trong khi anh đang mặc quần jeans?

- Một nữ sinh Iran, 21 tuổi, nói với phóng viên John Burns của tờ The New York Times, khi bình luận về việc sinh viên tụ tập chống đối ở Teheran, đánh dấu kỷ niệm lần thứ 20 ngày cách mạng Iran, 4/11/1999.

Ôi, sức mạnh mà thần linh ban cho chúng ta.

Để ta có thể tự xem chính ta bằng con mắt của người khác.

-Robert Burns


Tôi là người tin vào cái triết lý về năm cây xăng trên thế giới. Đúng thế: tôi tin rằng bạn có thể rút gọn các nền kinh tế thế giới ngày nay thành năm cây xăng khác nhau.

Trước hết là cây xăng Nhật Bản. Giá 5 đô-la một gallon. Bốn nhân viên mặc đồng phục và đeo găng tay trắng, hưởng biên chế suốt đời, phục vụ bạn. Họ bơm xăng vào xe của bạn. Họ thay dầu. Họ rửa kính xe, và họ vẫy theo bạn với những nụ cười, bạn ra đi thảnh thơi.

Cây xăng thứ hai nằm ở Mỹ. Giá xăng chỉ có 1 đô-la một gallon, nhưng bạn phải tự bơm lấy xăng, tự rửa kính xe, tự bơm lốp xe. Và khi bạn lái xe ra khỏi đó thì có những kẻ vô gia cư sẽ nhăm nhăm để vặt nắp đậy bánh xe của bạn.

Cây xăng thứ ba ở Tây Âu. Giá xăng cũng là 5 đô-la một gallon. Chỉ có một nhân viên ra phục vụ. Anh ta miễn cưỡng bơm xăng cho bạn, phụng phịu thay dầu, và cằn nhằn suốt buổi rằng nghiệp đoàn của anh ta nói anh chỉ làm có thế - bơm xăng và thay dầu. Anh ta không rửa kính xe. Anh ta chỉ làm có 35 giờ một tuần, mỗi ngày nghỉ trưa một tiếng rưỡi, trong thời gian đó, cây xăng sẽ đóng cửa không phục vụ. Mỗi năm anh ta có sáu tuần nghỉ phép ở vùng phía Nam nước Pháp. Bên kia đường là nơi ở của hai người anh và một ông cậu của anh ta, cả ba người không có công ăn việc làm suốt 10 năm vì chế độ bảo hiểm ở đây trả cho họ hậu hĩnh hơn là công việc trước kia họ có. Họ dành thời gian chơi bóng với nhau.

Cây xăng thứ tư ở một nước đang phát triển. Có 15 nhân viên phục vụ, tất cả bọn họ có quan hệ họ hàng với nhau. Khi bạn lái xe vào thì chẳng ai để ý đến bạn vì họ đang mải nói chuyện với nhau. Xăng có giá chỉ 35 xu đô-la một gallon vì được nhà nước trợ giá. Nhưng trong sáu vòi bơm chỉ thấy có một vòi hoạt động. Những vòi khác bị hỏng. Mọi người đang chờ linh kiện thay thế gửi từ châu Âu sang. Cây xăng có nhà xưởng xộc xệch vì người chủ sống ở Zurich và khi về đã mang theo toàn bộ doanh thu. Nhưng người chủ không biết rằng một nửa số nhân viên của ông ta đêm đến thì vào ngủ trong xưởng và dùng vòi nước rửa xe để tắm táp. Phần lớn những khách hàng ở các nước đang phát triển đi bằng xe Mercedes hoặc xe máy - không có thứ xe nào khác. Nhưng cây xăng vẫn là nơi bao giờ cũng bận rộn, vì có nhiều người đi xe đạp vào dùng bơm miễn phí để bơm săm xe đạp của họ.

Sau cùng là cây xăng trong một nước có nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu bao cấp. Giá xăng ở mức 50 xu đô-la một gallon - nhưng không có xăng trong téc - vì bốn nhân viên ở đó đã đem xăng bán ở chợ đen với giá 5 đô-la một gallon. Chỉ có một nhân viên có mặt làm việc, vì ba người kia đang làm nghề phụ ở đâu đó cũng để phục vụ cho nền kinh tế chợ đen. Mỗi tuần họ có mặt một lần để nhận lương.

Và đại thể, thì trong thời toàn cầu hóa, ai ai cũng bị lôi cuốn tới cái trạm xăng của Hoa Kỳ. Nếu bạn không phải là người Mỹ, không biết tự bơm xăng lấy, thì tôi gợi ý bạn nên sớm đi học cách bơm xăng. Sau chiến tranh lạnh, toàn cầu hóa đang khoác chủ nghĩa tư bản phong cách Anglo-Mỹ và chiếc áo nịt nạm vàng lên toàn thế giới. Nó áp đặt lên toàn cầu thứ văn hóa và hình tượng văn hóa kiểu Mỹ. Nó áp đặt lên toàn cầu cả giá trị lẫn rác rưởi của Mỹ. Nó áp đặt cuộc Cách mạng Mỹ và cây xăng theo lối Mỹ.

Không phải ai cũng thích cây xăng của Mỹ và những điều nó tượng trưng, và bạn hiểu rõ lý do vì sao. Thể hiện trong những cây xăng Tây Âu, Nhật Bản v.v... là những giao kèo xã hội rất khác của Mỹ, và những cách nhìn nhận rất khác nhau về cung cách hoạt động của thị trường, cũng như phương pháp kiểm soát thị trường. Người châu Âu và Nhật Bản tin vào việc nhà nước có quyền kiểm soát dân chúng và thị trường, trong khi người Mỹ thì tin rằng hãy để dân chúng nắm quyền và trả tự do cho thị trường tới mức nhất định, để cả hai tự phân định ra kẻ thắng người thua.

Do những người Nhật, Tây Âu v.v.. không cảm thấy thoải mái trong các thị trường hoàn toàn tự do, với những lợi nhuận và trừng phạt sinh ra trong thị trường này, nên những cây xăng của họ được thiết kế để thể hiện những tấm đệm giữa những sự bất bình đẳng và để phân chia đồng đều các lợi nhuận. Các cây xăng cũng thể hiện truyền thống và giá trị riêng của những cộng đồng của họ. Người Tây Âu thể hiện bằng cách cắt giảm số nhân công, tuyển ít người đi nhưng trả lương cao hơn, thu nhiều thuế hơn, để có thể hỗ trợ cho giới thất nghiệp và làm từ thiện. Người Nhật Bản thể hiện điều đó bằng cách trả lương cho nhân viên ít đi nhưng đảm bảo biên chế cho họ suốt đời, rồi bảo hộ những công việc và phúc lợi thuộc về biên chế đó bằng cách hạn chế các đối thủ cạnh tranh người nước ngoài vào thị trường Nhật Bản. Ngược lại cây xăng của người Mỹ là một nơi thuận tiện cho xe ra vào: khách hàng là thượng đế; cây xăng không phải là nơi bảo tồn các giá trị xã hội; trách nhiệm ở đó là cung cấp xăng với giá thấp nhất. Nếu có thể cho phép không có nhân viên phục vụ ở đó thì càng tốt. Thị trường linh hoạt có thể cho phép dân chúng tìm việc nơi khác. Bạn nói rằng như thế lạnh lùng quá? Cũng có thể. Nhưng dù muốn hay không muốn thì đó sẽ là mô hình mà toàn thế giới đang ngày càng bị buộc phải dùng.

Hoa Kỳ bị mọi người chỉ trích về điều đó vì, trong nhiều phương diện, toàn cầu hóa chính là Hoa Kỳ - hay ít nhất, đó là cách hiểu của dân chúng ở nhiều nơi trên thế giới. Ba cuộc dân chủ hóa phần lớn trưởng thành ở Mỹ. Chiếc áo nịt nạm vàng đã được dệt ở Mỹ và Anh. Bầy Thú Điện Tử do những con bò một phố Wall dẫn đầu. Lực lượng đang gây sức ép khiến các nước phải mở cửa cho phép thương mại và đầu tư tự do là Chú Sam, và lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ đang gìn giữ những thị trường tự do và những tuyến vận chuyển biển trong thời toàn cầu hóa hiện nay, tương tự như cách mà hải quân Anh đã từng làm trong thời toàn cầu hóa lần thứ nhất hồi thế kỷ 19. Joseph Nye, Jr., Hiệu trưởng trường Kennedy của Đại học Harvard đã tóm tắt thực tế đó rất hay, khi ông ta chỉ ra: "Trong những thể hiện gần đây, dấu vết của toàn cầu hóa có thể được tìm thấy ở chiến lược của Hoa Kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và nguyện ước tạo dựng một nền kinh tế quốc tế để ngăn chặn khả năng một cơn khủng hoảng khác, đồng thời đối trọng với Liên Xô và kiềm chế chủ nghĩa cộng sản. Khuôn mẫu căn bản và những sức ép chính trị đòi mở cửa kinh tế là một sản phẩm của sức mạnh và chính sách của Hoa Kỳ. Chúng đã được tiếp sức bởi sự phát triển của công nghệ giao thông và viễn thông. Điều đó khiến cho những quốc gia muốn cưỡng lại sức mạnh của thị trường sẽ ngày càng phải trả giá đắt hơn." Nói cách khác, ngay trong Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã bắt tay vào xây dựng một nền kinh tế toàn cầu để phục vụ mục đích kinh tế và chiến lược của mình. Kết quả là khi cuộc cách mạng thông tin và ba trào lưu dân chủ hóa hợp lực hồi cuối những năm 80, đã xuất hiện một cơ cấu quyền lực có khả năng tiếp thụ những khuynh hướng và công nghệ đó và tiếp tục hỗ trợ cho chúng lan tràn trên khắp thế giới. Như đã nói trước đây, sự kếp hợp giữa sức mạnh và những lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ, kết hợp vớ Cách mạng Thông tin sản xuất tại Mỹ, đã tạo ra thời đại toàn cầu hóa thứ hai và gắn vào đó bộ mặt Hoa Kỳ.

Ngày nay toàn cầu hóa thường có cái tai của chuột Mickey, ăn McDonald's, uống Coke hay Pepsi và sử dụng máy tính IBM PC, dùng hệ điều hành Windows 98, với bộ vi xử lý Intel Pentium II trong một mạng nội bộ nối với Cisco System. Chính vì thế trong khi sự khác biệt giữa toàn cầu hóa và Mỹ hóa thường rất rõ với người Mỹ; không may thay lại chẳng rõ chút nào với những người khác trên thế giới. Trong phần lớn các xã hội, dân chúng không phân biệt giữa sức mạnh Mỹ, hàng Mỹ, những sự tấn công về văn hóa Mỹ, những sản phẩm văn hóa Mỹ với những yếu tố toàn cầu hóa đơn thuần. Chúng đang lẫn vào nhau. Tôi không phải là người muốn đánh đồng giữa toàn cầu hóa và Mỹ hóa - và chỉ muốn nói là những yếu tố đó bị nhiều người lẫn với nhau. Chẳng lạ gì báo Nhật Bản, tờ Nihon Keizai Shimbun đang một hàng tít vào ngày 4/6/1999, về một hội nghị về toàn cầu hóa ở Tokyo, đã nói về một hiện tượng "toàn cầu hóa do Hoa Kỳ khởi đầu." Khi dân chúng từ các nước đang phát triển nhìn vào hệ thống toàn cầu hóa hiện nay, người ta thường thấy một tấm quảng cáo tuyển mộ mang nội dung: CHÚ SAM MUỐN BẠN (để đưa bạn đến với Bầy Thú Điện Tử).

Martin Indyk, Đại sứ Mỹ ở Israel đã kể cho tôi một câu chuyện minh họa rất hay cho điểm này. Là Đại sứ, ông ta được mời đến lễ khai trương một tiệm McDonald's ở Jerusalem. Tôi hỏi ông ta rằng ông đã nói gì trong dịp đó, dịp McDonald's được khai trương ở một thành phố đầy tín ngưỡng, và ông nói: "Thức ăn nhanh dành cho quốc gia phát triển nhanh." Nhưng điểm hay nhất mà ông ta kể lại sau đó là McDonald's đã tặng ông ta một chiếc mũ đánh bóng chày nhiều màu với logo của hãng, và mời ông tới ăn ở tiệm ăn được khai trương nọ. Truyền hình Israel đã tường thuật từng chi tiết của buổi lễ và phát trong bản tin tối của họ. Ở tiệm ăn hôm đó có đông đảo thanh niên Israel. Khi ông Đại sứ chuẩn bị ăn món ăn đầu tiên của tiệm thì một thanh niên Israel bước qua đám đông đến bên ông ta. Thanh niên này mang theo cùng một chiếc mũ của McDonald's, đưa cho ông và nói, "Ông là ông Đại sứ? Xin ông cho một chữ ký lưu niệm."

Hơi ngượng nghịu, Đại sứ Indyk trả lời, "Được thôi. Chưa bao giờ có ai xin tôi chữ ký lưu niệm cả."

Khi vị Đại sứ cầm lấy chiếc mũ và sắp ký lên đó, thanh niên này nói, "Cảm tưởng của ông khi làm Đại sứ cho McDonald's ra sao? Ông được đi lại trên thế giới và khánh thành tiệm McDonald's ở khắp mọi nơi?"

Ngạc nhiên quá đỗi, Đại sứ Indyk nhìn thanh nhiên này vào nói, "Không, không. Tôi là Đại sứ của nước Mỹ - không phải là Đại sứ của hãng McDonald's!"

Thanh niên Israel này bỗng tiu nghỉu. Đại sứ Indyk mô tả điều xảy ra sau đó: "Tôi nói với anh ta, "vậy có nghĩa là anh không muốn chữ ký lưu niệm của tôi nữa phải không?" Và thanh niên này nói: vâng, anh ta lấy lại chiếc mũ và bước đi chỗ khác."

Quả thực là cái quan hệ lúc ghét - lúc thương giữa nước Mỹ và thế giới giờ đây đã trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Đối với một số ngườ, Mỹ hóa toàn cầu hóa dường như là một con đường hấp dẫn, rộng rãi thoải mái đưa họ tới một mức sống khá hơn. Với những người khác, Mỹ hoá - toàn cầu hóa đã hun đúc trong lòng họ một sự ganh tị và căm ghét đối với nước Mỹ - ganh tị khi Mỹ có vẻ giỏi giang trong việc điều khiển con hổ toàn cầu hóa, căm ghét là vì dường như trong cái trục Mỹ hóa - toàn cầu hóa, Hoa Kỳ đang ra roi quất lên các dân tộc khác, bắt họ phải chạy cho nhanh, nối mạng cho nhanh, cắt giảm biên chế cho nhanh để theo kịp nước Mỹ hội nhập vào Thế giới Đi nhanh. Tôi vẫn tin rằng có nhiều người yêu nước Mỹ hơn là ngược lại, nhưng trong chương này, tôi chỉ muốn nói về những người căm ghét nước Mỹ. Tôi muốn nói về một sự chống đối khác, nhằm vào toàn cầu hóa - sự căm ghét đang tăng lên nhằm vào Hoa Kỳ, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, kỷ nguyên được đánh dấu bằng những biểu tượng, thị trường và sức mạnh của nước Mỹ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 31-3-2013 09:54:31 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18
(tiếp theo)

Nhà sử học Ronald Stell có lần đã nói: "Chúng ta tin rằng những định chế của chúng ta phải giam hãm những định chế khác vào đống tro tàn của lịch sử. Chúng ta định hướng cho một hệ thống kinh tế đã thực sự chiến thắng các mô hình sản xuất và phân phối khác - để lại đằng sau những tài sản lớn cũng như những đống rác không nhỏ. Thông điệp văn hóa mà chúng ta truyền đạt thông qua Hollywood và McDonald's lan tràn trên thế giới đã trói buộc và tàn phá các xã hội khác. Không giống như những cuộc chinh phục trước đây, chúng ta không chỉ bắt người khác đầu hàng: Chúng ta khăng khăng buộc họ phải thay đổi, phải giống như chúng ta. Và dĩ nhiên làm như thế là để có lợi cho họ. Chúng ta là những nhà truyền giáo không ngừng nghỉ của thế giới. Thế giới phải trở nên dân chủ. Phải theo tư bản chủ nghĩa. Phải bị ràng buộc vào điện toán toàn cầu. Chính vì thế có nhiều người đã cảm thấy bị đe dọa bởi những gì chúng ta đại diện."

Một chân dung nước Mỹ tiêu biểu được khắc họa trong bức tranh Mái vòm nước Mỹ của tác giả Grant Wood, trong đó đặc tả cảnh một cặp vợ chồng cầm trong tay gậy xỉa rơm, mặt mũi nghiêm trang, đứng trong một trang trại nhìn ra ngoài. Nhưng ngày nay đối với nhiều người, hình ảnh nước Mỹ sẽ là một cặp thanh niên khoảng ngoài 20 tuổi, kỹ sư phần mềm máy tính, tóc dài, đi dép xăng đan, cổ đeo chuỗi hạt, mũi xăm trổ, và chân dính sơn. Đó là hình ảnh của họ khi xuất hiện ở nước ngoài. Họ đến đạp cửa trước của nhà bạn, vào nhà thay đổi vị trí đồ đạc, nhồi vào miệng của bạn đầy một thứ bánh McDonald's, nhồi sọ con cái của bạn những ý tưởng quái lạ, ném một thiết bị thu truyền hình cáp lên TV nhà bạn, gắn một thiết bị nối Internet vào máy vi tính của bạn và nói: "Truy cập hay là chết."

Chúng ta là thế đó. Chúng ta, những người Mỹ, là những vị tông đồ của Thế giới Đi nhanh, là kẻ thù của các truyền thống, là những vị tiên tri của thị trường tự do và cha xứ truyền bá công nghệ cao. Chúng tôi muốn mở rộng những giá trị của bạn lẫn những tiệm bánh Pizza Huts của chúng tôi. Chúng tôi muốn thế giới đi theo sự dẫn đường của chúng tôi và trở nên dân chủ, gắn mạng Internet lên mỗi dụng cụ gia dụng, ai cũng phải uống Pepsi, mỗi máy tính đều phải có hệ điều hành Windows và trên hết - trên hết - ai ai, ai ai cũng phải biết tự bơm xăng vào xe hơi của mình.

Khi bước vào khách sạn Homa Hotel ở trung tâm Teheran, tháng 9/1996, đập ngay vào mắt tôi là một tấm biển. Trên tấm biển là dòng chữ "Đả đảo Mỹ." Đó không phải là một biểu ngữ tạm thời. Đó không phải là một dòng chữ viết bậy. Đó là một tấm biển bằng đá, ốp lên tường.

Tôi tự nhủ, "Kỳ lạ chưa. Tấm biển được gắn trên tường. Dân chúng ở đây thực sự có vấn đề đối với Hoa Kỳ."

Ngay sau đó tôi nhận thấy các bậc trưởng giáo Iran, những người rất quan tâm đến những bước thăng trầm của sức mạnh quân sự và văn hóa Mỹ, đã bắt đầu gọi nước Mỹ bằng cái tên khác, chứ không phải những danh hiệu thường thấy trước kia như "đại quỷ sa tăng" và thành trì của "đế quốc và chủ nghĩa Zion." Người Iran đã bắt đầu gọi nước Mỹ là "thủ đô của sự ngạo mạn toàn cầu." Tôi thấy cách gọi đó thể hiện ngấm ngầm một sự thay đổi. Lãnh đạo Iran dường như đã hiểu sự khác biệt giữa "sự ngạo mạn toàn cầu" và chủ nghĩa đế quốc. Đế quốc chủ nghĩa là khi bạn dùng vũ lực vào chiếm đóng dân tộc khác và ép buộc họ theo bạn. Sự ngạo mạn toàn cầu là khi văn hóa và kinh tế của bạn mạnh đến mức bạn hiểu là không cần phải xâm lăng nước khác mà người ta vẫn phải chịu ảnh hưởng của bạn. Bộ trưởng Tài chính Ấn Độ, ông Shri Yashwant Sinha, có lần đã nói với tôi về quan hệ giữa Mỹ và thế giới ngày nay: "Không còn đối trọng, không còn sự cân bằng. Những gì các vị nói đã trở thành luật lệ."

Và đó là điều ngày nay đang gia cố cho sự kết dính giữa Mỹ hóa và toàn cầu hóa. Điều khiến nhiều người lo sợ về nước Mỹ ngày nay không phải là khả năng Mỹ có thể gửi quân đi mọi nơi, mà là Mỹ có thể truyền bá văn hóa, giá trị, kinh tế và công nghệ và lối sống đến mọi nơi - dù người Mỹ hay người khác muốn hay không muốn. "Mỹ là khác biệt," Josef Joffe, chuyên gia về chính sách đối ngoại người Đức nhận xét năm 1997 trong tạp chí Foreign Affairs. "Nó làm mình làm mẩy và hay lấn lướt. Nhưng nó không đi xâm lược. Nó cố gắng kiểm soát và bẻ cong luật pháp. Nhưng nó không tuyên chiến để chiếm đất và hưởng vinh quang... Hoa Kỳ có một bộ máy quân sự tinh vi nhất, dù không đông nhất. Nhưng rõ ràng là không ai bằng Hoa Kỳ trong những cuộc chơi ngoại giao. Trên bàn ngoại giao, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản, thậm chí Tây Âu không có nhiều tiền đặt cọc bằng Hoa Kỳ. Dân chúng liều chết vượt biển để sang Mỹ, chứ không sang Trung Quốc. Hiện không thấy thanh niên chen chân sang học thạc sĩ quản trị kinh doanh ở Đại học Moskva, hay lại đi ăn mặc hay nhảy đầm theo lối Nhật Bản. Tồi tệ hơn, ngày càng hiếm người muốn theo học tiếng Pháp hay tiếng Đức. Tiếng Anh, giọng Mỹ, đã trở thành thứ ngôn ngữ của thế giới. Một sức mạnh như thế - một thứ văn hóa đang lan tràn ra ngoài và một thứ thị trường theo lối vơ vào - lôi kéo chứ không xô đẩy; thuyết phục chứ không chinh phục. Tồi tệ hơn, một thứ quyền lực không thể bị thu phục, không thể đối trọng. Trong cuộc chơi ngày nay, tất cả các thế lực - châu Âu, Nhật Bản, Trung Quốc và Nga - không thể hợp lực trong cái mô hình liên minh thuở xưa để chống lại Mỹ. Tất cả các trường quay phim của họ không thể thoát khỏi cái vòng khống chế của Hollywood. Không có một tập hợp các trường đại học nào trong số họ có thể lật đổ được ngai vàng của Đại học Harvard... Điều đó giải thích vì sao "Quan hệ đối tác chiến lược" giữa Nga và Trung Quốc đã trở nên quá lỗi thời vào năm 1997. Họ sẽ làm gì được đối với Hoa Kỳ? Boris Yeltsin sẽ không bao giờ muốn thu thập các bí quyết làm ăn và máy vi tính ở Bắc Kinh. Và Trung Quốc sẽ không bao giờ đánh liều bỏ rơi thị trường hàng xuất khẩu quan trọng nhất của họ."

Trong ngắn hạn, tình thế sẽ trở nên tồi tệ hơn vì hố ngăn cách về sức mạnh kinh tế giữa Mỹ và thế giới sẽ ngày càng rộng hơn, trước khi có thể bị thu nhỏ lại. Bạn chỉ cần nhìn vào không gian điện toán để hiểu điều đó. Có một sự tranh cướp đang xảy ra - tranh cướp xem ai chiếm được những trang web mang tính thương mại chiến lược và những đầu mối Internet chủ chốt trên toàn cầu. Chợ Internet là một nơi đấu giá hai chiều với hàng loạt các bên mua đấu giá mua các mặt hàng từ hàng loạt các bên bán. Chúng bắt đầu từ những thị trường lẻ tẻ - những điểm bán bớt các mặt hàng dư thừa như dầu thô, sắt thép, chíp vi tính và những mặt hàng không được đảm bảo tiêu chuẩn. Rồi nhờ công nghệ điện toán, những thị trường lẻ tẻ đó sẽ nhanh chóng được mở rộng thành các siêu thị tinh vi hơn.

Điển hình của các thị trường trong không gian điện toán là trang đấu giá eBay - trong đó người ta có thể ngồi nhà mà mua bán. Nhưng hãy tưởng tượng, eBay được thực hiện trong một loạt các ngành công nghiệp, trong đó hàng hóa và dịch vụ của những ngành đó cũng có thể được trao đi đổi lại giữa người mua và kẻ bán. Chẳng hạn, hiện nay ta có Metalsite.com nơi các hãng xây dựng trên thế giới sẽ hưởng nhu cầu của họ tới các nhà cung cấp sắt thép với giá rẻ nhất. E-Chemicals.com và Chemdex.com đã xuất hiện để trao đổi hóa chất và sản phẩm khoa học ứng dụng. Và rồi sẽ có sớm những E-rubber [cao su], E-plastic [nhựa], E-cement [xi măng], E-paper [giấy], và E-Insurance [bảo hiểm].

Xưa kia một công ty đảm bảo có được một nguồn cung cấp nguyên liệu và phụ tùng đều đặn bằng cách lựa chọn kỹ càng các nhà cung cấp, xây dựng quan hệ lâu dài thông qua sự tín nhiệm, hiểu biết rõ các nhu cầu của nhau. Nhưng khi ngày càng nhiều lĩnh vực đã trở thành hàng hóa, một công ty như IBM chẳng hạn sẽ đưa các yêu cầu chi tiết của họ lên mạng điện toán, chẳng hạn chi tiết chíp vi tính, giấy toilet, thậm chí nguồn năng lượng,... các nhà cung cấp sẽ lên mạng và theo đó đấu giá để nhận hợp đồng cung cấp cho IBM theo đúng yêu cầu. Trong một thế giới không còn rào cản, những trao đổi trên toàn cầu như vậy sẽ trở thành những yếu tố định hình cho luật lệ và các tiêu chuẩn trong đó hàng hóa và dịch vụ được mua bán và trao đổi ở mọi nơi. Và vì Hoa Kỳ dẫn đầu trong không gian điện toán, nhưng hệ thống trao đổi như trên hiện đang được các công ty Mỹ mở ra trên đất Mỹ.

"Hầu hết những điều đó chưa thực sự xảy ra trên quy mô lớn và mọi người chưa có khái niệm rõ ràng về chúng," Joel Cawley, Giám đốc phụ trách Chiến lược Doanh nghiệp của hãng IBM giải thích cho tôi hồi đầu năm 2000. "Nhưng chúng đang dần có tầm quan trọng cao hơn. Người ta phỏng đoán những giao dịch điện tử như thế sẽ chiếm từ 30-40 phần trăm thương mại điện tử vào năm 2004. Một khi những giao dịch điện tử được thiết lập và vận hành được mọi người biết đến thì sẽ quá muộn cho những kẻ muốn bắt chước. Những kẻ thắng là những kẻ biết nhìn xa, có nền móng vững chắc. Lúc đó thì thật là khó và đắt đỏ nếu muốn thay đổi hay xây dựng các điểm giao dịch.

Hãy nhìn hiện tượng Enron (thật ra công ty này sau đó lâm vào tình trạng phá sản- ND). Công ty này đã thiết lập một thị trường trên mạng trong đó các công ty trên thế giới có thể mua bán khí thiên nhiên, điện, than, nhựa, bột giấy, giấy và dầu mỏ - và sẽ có sản phẩm mới là băng thông. Băng thông là đường truyền điện tử trong đó giao thông Internet đi lại. Thông qua các tổng đài Internet của Enron - nơi những người mua và kẻ bán hợp đồng băng thông gặp gỡ nhau - một trường học có đường truyền rỗi rãi trong mùa nghỉ hè sẽ có thể bán lại quyền sử dụng trong thời gian đó cho một công ty có nhu cầu. Những hợp đồng như vậy thường phải mất hàng tháng mới ký được, nay có thể được dàn xếp trong vài giây đồng hồ.

"Chúng tôi là công ty đầu tiên đưa ra dịch vị này để có thể bán khí đốt và điện," Tổng giám đốc Kenneth Lay của Enron cho biết, " nhưng chúng tôi nghĩ thị trường dịch vụ băng thông sẽ trở nên lớn nhất. Hiện nay có giá trị 30 tỷ đô-la, và trong khoảng ba năm tới nó sẽ lên tới 90-100 tỷ đô-la. Và nó sẽ có tầm vóc toàn cầu."

Nền kinh tế Internet dựa trên băng thông, vậy nếu những tổng đài của Enron mà thành công thì sẽ có ý nghĩa như việc khám phá ra dầu mỏ trong không gian điện toán vậy - cho bản thân Enron và cho nước Mỹ.

"Có những lợi thế khi bạn trở thành người đi đầu trong những thị trường toàn cầu kiểu này," Lay nói. "Khi bạn là người đi đầu, bạn nâng được quy mô rất nhanh chóng, và cùng với điều đó là khả năng kinh tế giúp cắt chi phí giao dịch và tăng khả năng thanh toán và khả năng mở ra những thương vụ tinh vi hơn cho bạn. Chúng tôi rồi cũng có các đối thủ, tôi chắc như vậy. Những thời điểm này là lúc kẻ thắng sẽ được ăn cả. Vậy càng sớm đi đầu vào trong các thị trường thì càng có thể định hướng được thị trường. [Và] một khi có một thực thể đứng ra thiết lập một vị trí vững chắc trong loại thị trường toàn cầu đó thì sẽ rất khó có thể lật nhào được nó."

Điều này cũng mang lại hàm ý địa-chính trị. Nếu bạn nghĩ rằng người Âu đã không thích thú gì cung cách làm ăn nào đó của người Mỹ, thì hãy đợi một hai năm, khi họ thức tỉnh và nhận ra rằng các công ty Mỹ đã chiến thắng trong cuộc tranh chấp không gian điện toán, định hình luật lệ và tiêu chuẩn cho cả một hệ thống thị trường điện tử.

Đến lúc đó người Pháp sẽ gọi người Mỹ là gì nhỉ? Vào cuối thế kỷ 20 họ đã cho ra đời một thuật ngữ để gọi Hoa Kỳ. Mỹ không còn là một siêu cường. Người Pháp quyết định rằng Mỹ phải được đặt vào một thể loại riêng. Nước Mỹ, theo nhận xét của một nhà ngoại giao Pháp trong tổng hành dinh NATO nói với tôi, nay là một "quốc gia quá quắt." Chẳng lấy làm ngạc nhiên, khi tôi qua lại trên thế giới tôi, đã nghe người Iran trực tiếp gọi Mỹ là "thủ đô của sự ngạo mạn toàn cầu," nhưng, sau lưng người Mỹ thì dân chúng ở Pháp, Malaysia, Nga, Canada, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Ai Cập, Nhật Bản, Mexico, Hàn Quốc và Đức - và tất cả các nơi khác, đều coi Mỹ cũng vậy. Tổng thống Saddam Hussein của Iraq, cũng như người Iran, thì bao giờ cũng nhạy cảm đối với những thay đổi, dù nhỏ nhất, trong vị thế quốc tế của Hoa Kỳ, đã có những thay đổi trong cách tuyên truyền để nâng bản thân của ông ta lên. Đầu những năm 90, trong cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ nhất, Saddam đã tự coi mình là Robin Hood của người Ả rập, đứng ra cướp của những người Ả rập giàu có để giúp người Ả rập nghèo khó. Trong cuộc khủng hoảng vùng Vịnh lần thứ hai vào cuối những năm 90, Saddam tự coi mình là Luke Skywalker [nhân vật anh hùng trong phim viễn tưởng Star Wars] đứng lên chống lại con Quỷ đế quốc Mỹ. Mỗi khi được phỏng vấn trên truyền hình, Ngoại trưởng Iraq phàn nàn rằng Hoa Kỳ cư xử như cái lối "ngày tàn của Đế quốc La Mã". Đó là nội dung chủ yếu của sự tuyên truyền của Iraq, từ trong chính phủ ra ngoài công chúng. Một hôm tôi xem truyền hình CNN và nghe họ phỏng vấn một "người dân trên đường phố Baghdad," người này nó về nước Mỹ như "một con quỷ khát máu đang hút máu của dân chúng trên toàn thế giới."

OK. OK., vậy là cả thế giới nghĩ rằng những người Mỹ là những kẻ đi bắt nạt mà họ tức tối muốn đá đít. Thì đã sao? Như thế sẽ tác động gì đến quan hệ giữa Hoa Kỳ và những chính phủ khác? Câu trả lời ngắn gọn là quan hệ giữa Mỹ và các quốc gia khác ngày nay đã trở nên phức tạp hơn. Có những nước ra sức vặn mỏ nước Mỹ; có quốc gia thì ngồi mát ăn bát vàng, tận dụng cơ hội - họ để cho nước Mỹ thành một thứ cảnh sát toàn cầu, chi trả những chi phí trong việc đối phó với Saddam Hussein và những nước bất trị khác, thủ lợi trong khi tiếp tục phàn nàn về nước Mỹ; có những nước thì tiếp tục căm ghét sự thống trị của Mỹ; và có những nước thì lặng lẽ thích nghi với điều đó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 31-3-2013 09:56:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18
(tiếp theo)

Trong thực tế, quan hệ của Hoa Kỳ và thế giới trong thời gian bước sang thiên niên kỷ mới không khác gì mối quan hệ của Michael Jordan - trong khi anh ta còn nổi tiếng - với NBA. Mỗi cầu thủ hay đội bóng khác trong hiệp hội đều muốn vượt lên trên Jordan; mỗi cầu thủ hay đội bóng khác đều căm ghét anh ta vì anh ta đã vạch trần những yếu kém của họ; mỗi cầu thủ hay đội bóng khác đều so sánh bản thân với anh ta, và trong thâm tâm đều dùng anh ta làm điển hình; mỗi cầu thủ hay đội bóng khác đều thường xuyên phàn nàn là trọng tài đã thiên vị, bỏ qua những lỗi lầm của Jordan. Nhưng dẫu có thế nhưng không có đội nào muốn Jordan bị thương hay về vườn cả. Vì mỗi lần đi thi đấu, ở đâu có Jordan thì người ta thường bán hết sạch vé. Anh ta là chiếc ống hút, khuấy những cốc nước ngọt mà họ đang uống.

Hãy xem một số ví dụ liên quan đến hiện tượng đó: Khi Antaly Chubais, một trong những công trình sư của chương trình tư hữu hóa của nước Nga, sang đàm phán để IMF tài trợ cứu giúp kinh tế Nga, IMF thường đưa ra những điều kiện ngặt nghèo hơn, và Chubais không có cách nào hơn là phải tuân thủ. Trong đỉnh điểm của những cuộc đàm phán, truyền hình Nga đưa lên chương trìnhKukli, trong đó có những con rối ăn mặc như những lãnh tụ Nga, diễn câu chuyện phỏng theo tích "Cô bé khăn quàng đỏ." Boris Yeltsin là nhân vật bà ngoại, trong khi Thủ tướng Nga lúc đó là Kiryenko là cô bé khăn đỏ. Kiryenko cố gắng đi trước những người khác, để vận động Yeltsin hãy gây ảnh hưởng đối với những kế hoạch cứu vãn về tài chính. Khi Kiryenko đến nhà bà ngoại Yeltsin thì thấy Chubais đã ở đó. Chubais trong vai nhân vật du hành không gian, trên áo đeo logo "IMF" và một lá cờ Mỹ. Chubais là một nhân vật đến từ hành tinh America để chỉ đạo người Nga. Khi Kiryenko nhìn thấy Chubais ở đó bên cạnh Yeltsin, anh ta đã quay ra nói với khác giả, "Chắc là tôi đến muộn quá rồi."

Trong diễn đàn Kinh tế Thế giới Davos 1999, Minoru Murofushi, Chủ tịch tập đoàn thương mại khổng lồ Itochu của Nhật Bản, ngồi cùng bàn chủ tọa với Thủ tướng Nga lúc đó là Yevgeny Primakov. Murofushi, trong khi đang bình luật về những cố gắng của Primakov chống khủng hoảng kinh tế, đã lỡ lời để lộ bản thân mình. Thương gia người Nhật này nói, "Tôi biết là ông Primakov sẽ có cuộc gặp với ông Fischer của IBM - xin lỗi, ý tôi nói là IMF." Ồ, IMF, IBM, khác nhau chỗ nào đâu - đều là của người Mỹ cả mà!

Yuan Ming, Giáo sư quan hệ quốc tế của Đại học Bắc Kinh là một trong những chuyên viên hàng đầu về Hoa Kỳ của Trung Quốc. Có lần bà này nói với tôi một câu chuyện có hàm ý cho rằng Trung Quốc có thể phản ứng đối với sự ngạo mạn của nước Mỹ bằng cách trưng ra sự ngạo mạn của chính mình: "Các nhà lãnh đạo chính trị của chúng tôi khi phát biểu trước công chúng thường không dùng từ "toàn cầu hóa", họ dùng từ "hiện đại hóa." Có một lý do mang tính văn hóa trong đó. Một bài học lịch sử chưa phai mờ trong đầu óc người Trung Quốc là thời thế kỷ trước, đất nước của họ đã bị họng súng của các tàu chiến ép buộc hội nhập với cộng đồng quốc tế - vậy thì toàn cầu hóa không phải là điều người Trung Quốc đang theo đuổi, mà là điều Hoa Kỳ và phương Tây đang áp đặt. Mặt khác, hiện đại hóa là điều chúng tôi có thể kiểm soát được. Kênh truyền hình nhà nước hàng năm có một chương trình dành cho Tết Nguyên đán. Đó là một trong những sự kiện quan trọng nhất trong năm ở Trung Quốc. Gần một tỷ dân xem chương trình này. Thường thường trong chương trình có ca sĩ và những màn trào phúng. Nhưng cách đây ba năm, [1995] chương trình này có một tiểu phẩm trào phúng về hai bố mẹ ở một vùng thôn quê gọi cho con trai của họ đang theo học ở Mỹ. Họ hỏi con trai, "Hôm nay ngày tết, con khỏe không?" Cậu nói rất khoẻ và có kế hoạch sẽ về quê hương sau khi hoàn thành luận án tiến sĩ của cậu ở Mỹ. Bố mẹ rất mừng khi nghe điều đó. Câu thoại mà tôi nhớ nhất là bố mẹ nói với cậu con trai rằng Trung Quốc giờ đây có nhiều điều cũng tốt đẹp như ở nước Mỹ vậy. Họ nói: "Con sang đó rửa bát cho người Mỹ. Giờ đây chúng ta nên có những người Mỹ sang đây rửa bát cho chúng ta."

Ngày 14/12/1997 khi đang bay từ Nhật Bản về Mỹ, tôi đọc phần thư gửi tòa soạn trong tờ japan Times số ngày hôm đó. Tôi rất thích mục này trên báo chí của bất cứ nước nào khi sang đó công cán, vì tôi bao giờ cũng tìm được những mẩu nhận xét rất lý thú. Lần này tôi thấy có thư của thính giả mang tựa đề "Sự xấc ngược của Mỹ," thư này mang ý kiến chung của rất nhiều người. Nội dung viết là: "Không bút nào tả xiết về những chiến thuật ăn hiếp đang tiếp tục của Hoa Kỳ. Lần này, tôi đọc thấy Hoa Kỳ khước từ ký vào bất cứ hiệp định nào [tại Hội nghị về thay đổi khí hậu Kyoto], nếu ba "đòi hỏi" của họ không được đáp ứng... Tôi không bao giờ coi nhẹ thực tế trong lịch sử: Hoa Kỳ thường ra tay "giúp đỡ" nếu có thể - nhưng "đất nước vĩ đại nhất của thế giới" (họ tự xưng, không phải tôi đặt danh hiệu cho họ như thế) phải học hỏi về sự khiêm nhường. Những sự việc gần đây cho thấy nước Mỹ bước lên địa vị vinh quang chỉ là do những thất bại về chính trị và kinh tế của những đối thủ của nó. Nhưng lòng tự hào rồi sẽ dẫn đến sự sụp đổ. Chính phủ Mỹ hãy nhớ điều đó." Ký tên: Andrew Ogge. Tokyo.

Tôi đến Ấn Độ vào năm 1998 sau khi có cuộc thử nghiệm hạt nhân ở đó và Trung tướng Ấn Độ đã nghỉ hưu V.R. Raghavan, vốn là tư lệnh hành quân của Lục quân Ấn Độ, nay là nhà phân tích cho Nhóm Chính sách Delhi, kể với tôi rằng ông vừa tham gia một hội thảo quốc tế về vấn đề hạt nhân. Đến dự gồm đại diện người Anh, Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ, cùng nhiều nước khác. "Vào một lúc giải lao chúng tôi đã đi thăm một ngôi làng nhỏ của Ấn Độ, tôi chỉ cho khách những cửa hiệu, nhà cửa và việc phân bò được sử dụng làm chất đốt," Tướng Raghavan nói. "Nhưng lý thú nhất là khi chúng tôi đến thăm một ngôi trường ở giữa làng. Có khoảng ba chục cháu trên mười tuổi, một vài thầy giáo. Một số vị khách muốn bắt chuyện với họ. Chúng tôi bày bàn ghế và bắt đầu trò chuyện. Có một luật sư trong đám khách hỏi đám trẻ rằng họ nghĩ gì về Hoa Kỳ và Trung Quốc. Không cần chỉ dẫn, những đứa trẻ đó nói Trung Quốc là nước láng giềng vĩ đại của chúng tôi, mặc dù có thời chiến tranh với Trung Quốc, nhưng Trung Quốc bao giờ cũng đứng lên bênh vực kẻ yếu và chúng tôi không có trục trặc gì với Trung Quốc. "Thế còn Hoa Kỳ?" Vị khách hỏi tiếp. Lũ trẻ nói Hoa Kỳ là một kẻ hay ăn hiếp, bắt nạt mọi người và bao giờ cũng chỉ nghĩ cho riêng mình. "Các vị trong đám khách chịu không thể tin được rằng họ đã nghe được những điều đó."

Năm 1997, tôi dự một hội nghị tại Ma rốc mang chủ đề "Toàn cầu hóa với thế giới Ả rập." Hầu hết các đại biểu Ả rập đều được đào tạo theo văn hóa Pháp, đến từ Bắc Phi và Pháp. (Một tri thức Ả rập cộng văn hóa Pháp thường là người có khả năng tồi nhất để hiểu biết về toàn cầu hóa. Tựa như hai lần bị thương vậy - hai thứ văn hóa Pháp và Ả rập đều chống lại toàn cầu hóa). Tôi được yêu cầu phát biểu khái quát về toàn cầu hóa, và tôi đã phát biểu. Sau tôi là một cựu Thủ tướng Algeria, đang sống lưu vong, người được mời phản biện phát biểu của tôi. Dùng tiếng Pháp, ông ta bác bỏ tất cả các luận điểm của tôi. Ông ta nói rằng "cái thứ toàn cầu hóa mà ông nói chẳng qua là một âm mưu của Hoa Kỳ nhằm tiếp tục dìm thế giới Ả rập xuống, không khác gì chủ nghĩa Zion và chủ nghĩa đế quốc." Tôi lịch sử lắng nghe lập luận của ông ta, lập luận kéo dài theo hướng đó, và sau đó tôi đã phản bác lại một cách khiêu khích có chủ định với hy vọng sẽ khiến ông ta vỡ ra chút ít trong đầu. Tôi nói đại thể như sau (tôi đã cắt đi những lời gay gắt): "Thưa ngài Thủ tướng, ông nói toàn cầu hóa là một âm mưu của Mỹ nhằm phá hoại người như ông. Xin để tôi nói với ông một điều - toàn cầu hóa còn tồi tệ hơn. Tồi tệ hơn thế. Ông nghĩ là ở Washington người ta nghĩ đến ông và ngày đêm tính kế để phá hoại ông, gọi điện, dùng đòn bẩy để làm những điều đó. Tôi chỉ ước mong họ làm điều đó. Lạy chúa, tôi những mong họ làm được điều đó. Vì nếu có người làm thế thì có người khác sẽ làm ngược lại và nâng ông lên. Nhưng sự thực là, chúng tôi hoàn toàn không quan tâm đến các vị. Không một phút nào. Chúng tôi hoàn toàn không mảy may đếm xỉa đến quí vị. Đó không phải vì chúng tôi có ác ý. Đó là vì chúng tôi cũng đang bị giam trong cùng những áp lực giống như quý vị, và chúng tôi cũng đang cố tiến cho được một bước đi tới trong cuộc cạnh tranh, cũng giống như điều quý vị đang làm, và cũng như quý vị, chúng tôi rất lo là những thị trường trái phiếu sẽ phản ứng ra sao trong thời gian sắp tới. Chính vì thế tôi ước rằng có thể xác nhận là có một âm mưu muốn làm hại ông. Nhưng tôi không thể... Giờ đây nếu muốn xây dựng một chiếc cầu Hồi giáo đến với con tàu toàn cầu hóa, thì cứ việc. Nếu muốn xây chiếc cầu chủ nghĩa Mao đến với toàn cầu hóa, thì cứ việc. Cầu Jefferson, cứ việc. Nhưng xin hãy hứa một điều - là ông sẽ xây một chiếc cầu, cầu gì cũng được, nhưng phải là cầu. Và đoàn tàu toàn cầu hóa rồi sẽ không chờ quý vị đâu."

Nhưng nếu có một người vùng Bắc Phi chống lại cái cụm Mỹ hóa - toàn cầu hóa thì sẽ có một người khác thích nghi và tận dụng nó. Khi tôi sang Casablanca năm 1997, thì tàu tên lửa USS Carr cũng vào thăm cảng nước này. Tổng lãnh sự Mỹ ở vùng này đã tổ chức chiêu đãi cho các quan chức địa phương và khách mời trên boong tàu, tôi cũng được mời. Trong khi vài cô gái địa phương chen chúc để được chụp ảnh của các thủy thủ và chủ cùng khách ngồi ăn cánh gà bên những lon bia Budweiser, thì tôi được gặp và trò chuyện với Thống đốc vùng Casablanca. Mặc một com lê kiểu cách, viên chức người Ma rốc này, bằng tiếng Pháp, giải thích một cách đầy tự hào về lý do vì sao ông ta gửi hai con của ông đến ngôi trường của người Mỹ ở trong vùng, chứ không đến trường Pháp, nơi xưa kia ông được đào tạo.

"Hai lý do," ông ta nói. "Thứ nhất, trong thế giới tương lai nếu bạn không nói tiếng Anh, thì bạn là người thất học. Thứ hai, hệ thống của Pháp dạy cho bạn thành một người quản trị hành chính. Hệ thống của Mỹ lại dạy cho bạn cách tồn tại độc lập. Đó là điều tôi muốn con tôi phải hiểu."

Mặc dù văn hóa và giáo dục của Pháp ăn sâu vào những thành phố lớn của Ma rốc từ năm 1912, hiện nay có ba trường của Mỹ được thành lập ở đó - học sinh nối đuôi nhau chờ để nhập học. Thật ra hiện nay đang có sự cạnh tranh thực sự về văn hóa giữa Pháp và Mỹ để chiếm con tim và khối óc của thế hệ mới ở Bắc và Tây Phi, vốn là vùng ảnh hưởng truyền thống của Pháp. Và trong sự cạnh tranh đó thì Mỹ đang dần thắng thế - mà cũng không cần cố sức cho lắm. Tất cả là do nhu cầu. "Giáo dục đại học của người Pháp chưa bắt kịp với giai đoạn cách mạng hiện nay," Dominique Moisi, người trước đây dạy học ở trường đại học quản lý nhà nước nổi tiếng của Pháp, Trường ENA, và là một trong những chuyên viên về thời sự quốc tế của nước Pháp.

"Hệ thống của Pháp thưởng cho những người có khả năng tiếp bước vào những con đường đã được mở cho họ. Nó không khuyến khích người ta chống đối hay tự hình thành cá tính. Tâm lý ngày nay cho thấy những thay đổi trong những năm 90 như thế không phải là do Pháp tác động. Hoa Kỳ đã trở thành tấm gương phải chiếu những cảm giác phân vân trong chúng tôi. Nhìn Hoa Kỳ thì chúng tôi chó thể thấy được những gì chúng tôi còn thiếu thốn."

Một phản ứng đại chúng khác đối với Mỹ hóa-toàn cầu hóa ngày nay bắt nguồn từ những nước mà: một mặt thì phàn nàn cay đắng về chuyện Hoa Kỳ lộng hành, mặt khác thì họ ngồi mát ăn bát vàng - hưởng những thành quả mà sức mạnh của Hoa Kỳ mang lại. Người Nhật sẽ nó riêng với chúng tôi rằng Hoa Kỳ "là rất đúng" khi đòi hỏi Trung Quốc phải tuân thủ luật quốc tế về vấn đề bản quyền. Và họ cũng nói với Mỹ rằng các công ty Nhật, như Sony và Nintendo, cũng chịu thiệt thòi về nạn băng đĩa lậu như Disney và Microsoft phải chịu. Nhưng Nhật Bản sẽ không bao giờ đứng ra đối đầu với Bắc Kinh về vấn đề đó. Tokyo sẽ để cho Washington, siêu cường duy nhất ngày nay, làm điều đó trong khi tiếp tục bám áo Hoa Kỳ sang làm ăn với Trung Quốc càng nhiều càng tốt - tận dụng những thua thiệt của người Mỹ do hậu quả của cuộc đối đầu Wasington-Bắc Kinh. Rốt cuộc, nếu Hoa Kỳ thắng cuộc trong việc ép Trung Quốc phải tuân thủ tác quyền, thì Nhật Bản cũng hưởng lợi luôn. Trong tiếng Nhật có thuật ngữ nào chỉ "sự ăn theo" không nhỉ?

Sau cùng có một khuynh hướng trong đó các nước tìm cơ hội làm rối loạn chính sách đối ngoại và kềm chế bớt sức mạnh của Hoa Kỳ, vì cả lý do địa - chính trị truyền thống lẫn để thuần túy tiêu khiển. Ví dụ Nga hoặc Pháp: khi họ càng khó thành đạt bước chân vào "Thế giới Đi nhanh", thì họ quay sang tìm ảnh hưởng ở những nơi khác - bằng cách thách thức chiến lược đối ngoại của Hoa Kỳ ở Bosnia - chớp nhoáng chuyển quân Nga vào Kosovo trước khi quân Mỹ và NATO vào đó, hay đứng ra bênh vực Saddam Hussein ở Iraq. Trong thực tế nước Nga càng yếu đi thì nó càng mong muốn khai thác những khác biệt đối với Mỹ, và người Nga càng muốn chỉ mặt trêu chọc người Mỹ để tiêu khiển - để có cảm giác bình đẳng với người Mỹ. Bình luận viên người Nga Aleksei Pushkov có lần đã nói với tôi: "Thái độ phổ biến ở đây là nước này cần phải là một lực lượng đối trọng nhằm điều chỉnh những tình huống mà ở đó Hoa Kỳ trở nên si mê." Theo tôi thì có thể nói điều đó theo một cách khác. Phương châm của Nga và nhiều nước khác ngày nay là: "Nếu bạn không thể dùng một cuộc chiến tranh để đánh lạc hướng, giảm đi những ưu phiền trong lòng xã hội của bạn thì ít nhất hãy đem người Mỹ ra là bung xung cãi vã."

Tư cách siêu cường duy nhất trên thế giới vẫn không đảm bảo rằng Mỹ làm gì cũng được - những nó đảm bảo một điều: ở đâu Hoa Kỳ cũng bị chỉ trích. Một lần nữa hãy nghĩ đến NBA. Gary Payton là một hậu vệ ngôi sao của đội Seattle SuperSonic. Anh ta là cầu thủ danh tiếng, nhưng không phải là Michael Jordan và anh ta bù vào những khiếm khuyết của bản thân bằng cách bêu rếu các cầu thủ khác, đặc biệt là Michael Jordan. Trong tâm trí tôi, Pháp và Nga ngày nay cũng giống như Gary Payton trong phương diện địa-chính trị - những kẻ bêu rếu lớn nhất thế giới muốn bù trừ cho những gì họ còn khiếm khuyết, đặc biệt đối tượng bêu rếu của họ là Hoa Kỳ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 31-3-2013 09:58:28 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18
(tiếp theo)

Trong bộ phim Duck Soup của anh em nhà Marx, có cảnh trong đó Chico và Harpo trò chuyện với quỷ dữ, đánh giá về Trentino, vị nguyên thủ châu Âu và là đối thủ chính trị của Groucho. Trentino là người đã thuê Chico và Harpo làm điệp viên. Khi Chico và harpo đến văn phòng của Trentino để báo cáo về điệp vụ của họ, cô thư ký lúc đó bước vào văn phòng cầm trong tay một bức điện. Harpo giật bức điện trong tay người thư ký, nhìn ngó nó thật kỹ càng, sau đó xé nát bức điện thành từng mảnh nhỏ, ném xuống đất rồi lắc đầu. Sửng sốt và ngạc nhiên, Trentino quay sang nhìn Chico dò hỏi:"Vì sao hắn làm thế?" Và Chico đáp: "Hắn điên lên là vì mù chữ, hắn không biết đọc."

Cảnh đó khiến tôi nhớ lại một khuynh hướng khác phản ứng lại trào lưu Mỹ hóa-toàn cầu hóa - một khuynh hướng thực sự nguy hiểm. Đó là sự phản ứng của những người đã không chấp nhận Mỹ hóa-toàn cầu hóa hoặc không chấp nhận điều đó vì những lý do chính trị, kinh tế hay văn hóa - họ chỉ muốn xé nát những gì thường xuyên được trưng ra trước mặt họ. Có những Harpo - nam có nữ có, chỉ muốn trắng đen rõ ràng. Họ không muốn quy phục nước Mỹ rồi lại nói xấu nước Mỹ đằng sau lưng. Họ chỉ muốn giữ lối đi cũ kỹ của riêng họ.

Xin phỏng theo lời của Ronald Steel có lần đã nói với tôi, những người trong cơn giận dữ đã coi Mỹ hóa-toàn cầu hóa là một vị khách không mời mà đến: bạn cố đóng cửa vậy mà vị khách lại cứ chui vào qua đường cửa sổ. Bạn đóng cửa sổ nhưng họ lại vào qua đường cáp. Bạn cắt đứt đường dây cáp thì họ lại vào nhà qua đường điện thoại qua Internet. Bạn cắt dây điện thoại thì họ lại vào bằng đường vệ tinh vô tuyến. Bạn ném điện thoại di động đi thì họ vẫn còn đó trên những tấm bảng tin điện tử. Khi bạn gỡ những tấm bảng xuống thì hình ảnh của họ vẫn còn đó trong công sở và nhà máy của bạn. Và không những thế, Mỹ hóa-toàn cầu hóa còn vào tận trong phòng của bạn. Bạn hiện đang ăn nó vào người. Và khi lọt vào nhà của bạn, nó tạo ra khoảng cách giữa bố và con trai, giữa mẹ và con gái, giữa ông bà và cháu chắt. Nó tạo ra một tình huống trong đó một thế hệ có cách nhìn thế giới khác hẳn với thế hệ khác, và chung quy đó là lỗi của nước Mỹ. Chẳng hạn, chủ đề mà nhà triệu phú người Xêút, một kẻ khủng bố, Osama Bin Laden, thường tuyên truyền là: Mỹ cút khỏi bán đảo Ả rập, và cút khỏi thế giới Ả rập nói chung, vì lối sống Mỹ làm bẩn "mái nhà của người Hồi giáo."

Cựu Thủ tướng Ấn Độ I, K. Gujral không như bin Landin, không giống chút nào. Nhưng có một lần tôi trò chuyện với ông ta ở Delhi, ông ta giải thích về những sự khó chịu mà có những người cảm nhận từ việc Mỹ hóa-toàn cầu hóa xâm chiếm gia đình họ. "Tôi thấy có điều tương tự đang xảy ra ở Ấn Độ - sự thay đổi trong cách phục sức và thói quen ăn uống," Gujral nói. "Đứa cháu tôi năm nay bốn tuổi. Vậy mà cháu thường xuyên nhắc đến kẹo cao su, không nhắc đến món ăn Ấn Độ, hay nó nói, "cháu không muốn uống Pepsi, cháu thích Coca." Cháu nó thậm chí nói tiếng Anh nhiều hơn tiếng Ấn Độ. Có ngày tôi hỏi cháu tại sao không nói chuyện với tôi bằng tiếng Ấn Độ, vậy mà nó đi mách mẹ nó là "có phải ông không biết nói tiếng Anh phải không?" Tôi quan sát ứng xử của cháu tôi, vì đó là một ví dụ nhãn tiền. Hôm trước cháu gái tôi nói nó muốn ăn bánh pizza vào ngày hôm sau. Nhưng cháu tôi nói: "Không, không, cháu muốn ăn Pizza Hut cơ."

Ở Thượng Hải, tôi đã phỏng vấn Wang Gouliang, một viên chức hàng đầu của Ngân hàng Giao thông, một trong bốn ngân hàng lớn nhất Trung Quốc. Tôi hỏi đùa rằng ông ta hay thu thập tin tức thế giới từ đâu. Ông ta nói mỗi sáng thư ký của ông thường chuẩn bị một bản tin vắn lấy từ Internet và hãng tin Reuters, nhưng ông cũng thường nhận được nhiều thông tin từ con trai ông.

Và bỗng nhiên, ông ta trở nên hùng biện về mối quan hệ giữa bố và con rồi chuyển sang đả kích Internet.

"Con trai tôi là một tay sành sỏi về Internet. Mỗi khi hắn thấy có điều gì lý thú trên Internet thì hắn thường cho tôi xem," viên chức Ngân hàng người Trung Quốc này nói. "Nhưng những bậc cha chú không nên để cho con cháu xỏ mũi. Con tôi thỉnh thoảng cũng đưa ra những gợi ý, nhưng tôi không thích thú gì với phần lớn những gợi ý đó. Cha không nên nghe theo con cái. Vì như thế sẽ ảnh hưởng tới quyền lực người cha. Tôi nói nó bớt vào Internet đi, tập trung vào học hành."

K. Gujral và Wang Guoliang là những người có học, họ không đến mức điên tiết về những việc đó. Nhưng những người khác thì không thế. Những kẻ giận dữ không tìm được những ý thức hệ thay thế cho Mỹ hóa-toàn cầu hóa. Họ giống như nhận vật Harpo. Họ chỉ muốn xé tan những thông điệp và ném chúng đi. Và không giống những chính phủ yếu đuối của họ, những chính phủ phàn nàn về chú Sam nhưng vẫn "ngồi mát" - những kẻ giận dữ thường sẽ sử dụng vũ lực để phản kháng.

Và điều đó thật đáng sợ. Mỹ hóa-toàn cầu hóa khiến cho họ có thêm lý do để căm ghét nước Mỹ; nó cũng trang bị cho họ thêm sức lực, để trong tư cách cá nhân, họ nổ súng. Toàn cầu hóa đã tăng cường sức lực cho họ thông qua hai con đường:

Thứ nhất, trong cái thế giới đang được kết nối chặt chẽ đến mọi nơi mọi lúc- những kẻ khủng bố có thể tiêm nhiễm đầu óc của nhiều mảng dân chúng hơn. Hãy xem kỳ nghỉ Đông của tôi vào tháng 12/1998: Tôi đi trượt tuyết ở vùng núi Rocky Mountain và tôi thấy bên trong hầu như mỗi chiếc thang trượt tuyết trên đỉnh núi, bao giờ cũng có du khách đang nói chuyện trên điện thoại di động. Một người bạn của tôi đi trượt tuyết những vẫn mang theo một máy nhắn tin, trên máy có thông số giá trị chứng khoán trong các thị trường Dow Jones và những trị giá cổ phần của chính anh ta. Anh ta thường kiểm tra các thông số mỗi khi đi trong thang máy. Khi tôi đang gửi những chương bản thảo của cuốn sách này trong văn phòng hãng chuyển phát nhanh Federal Express sang một nơi khác, dự định đến nơi vào 10 giờ 30 sáng ngày hôm sau, tôi nhìn qua cửa và thấy David Stern, Chủ nhiệm NBA đang bước trên phố, nói máy điện thoại di động, đàm phán để giải tỏa một lệnh phong tỏa NBA. Sau mỗi ngày đi trượt tuyết tôi sẽ về khách sạn, xem truyền hình cáp, dùng thẻ điện thoại AT&T gọi điện cho bè bạn ở Cairo và Jerusalem hoặc quay số AOL 8000 để xem tin tức và kiểm tra xem tôi có email nào mới không. Vào đêm giao thừa năm đó sau khi ăn tối trong một nhà hàng, khi tôi ra nhận áo khoác nơi gửi quần áo, tôi nghe được đoạn đối thoại bực dọc sau đâu giữa một thực khách và hầu bàn: "Anh nói thế có nghĩa gì? Anh không nhận được đăng ký đặt bàn của tôi. Tôi gửi bằng email mấy tuần trước đây! Tên là Ashraf, đánh vần là A-s-h-r-a-f." Trước khi đi ngủ tôi giở báo USA Today và tìm thấy bức ảnh mà bạn thấy ở chương 3 trong cuốn sách này. Trong bức ảnh là một người Do Thái Hasidic gắn chiếc điện thoại di động vào bức tường thiêng liêng ở Jerusalem. Còn nhớ đoạn chú thích: "Shimon Biton áp chiếc điện thoại di động vào Bức Tường phía Tây để một người bà con của anh từ Pháp có thể cầu nguyện tại bức tường thiêng liêng."

Tất cả những điều đó đã diễn ra khi tôi đang trong kỳ nghỉ trên núi!

Hãy tưởng tượng chuyện gì sẽ diễn ra nếu bạn đang ở nhà hay đang đi làm. Chúng ta ngày nay kết nối với nhau ngày càng nhiều. Ngày mỗi ngày có càng nhiều những người dân đón nhận thêm, hay có khả năng đón nhận thông tin về những sự kiện đang xảy ra trên khắp thế giới, sớm hơn vì với tốc độ nhanh hơn. Trong một thế giới như vậy thì chỉ cần một lượng nhỏ thuốc nổ hay vi trùng hay chất uranium đã được làm giàu thì có thể gây hoang mang và phá hoại cho hàng tỷ người cùng một lúc.

Toàn cầu hóa còn tạo điều kiện cho các phần tử khủng bố gây tiếng vang bằng một cách khác. Khi chip vi tính và công nghệ thu nhỏ khiến cho kích thước của thiết bị nhỏ và nhẹ hơn, mọi thứ trở nên nhỏ và nhẹ hơn. Sam Cohen, người sáng chế ra bom Neutron đã nhận xét trên báo The Washington Times (7/6/1998), rằng trong vòng 10 năm kể từ ngày vụ nổ thử nghiệm bom plutonium ở Alamogordo, Hoa Kỳ, các nhà chế tạo bom có thể thu nhỏ kích thước đầu đạn nhưng không thay đổi sức công phá 20 kiloton - xuống 100 đơn vị. Hoa Kỳ đã phát triển một loại đầu đạn cho NATO - một loại đầu đạn có thể được gắn trên súng bazoka, hai người điều khiển, có sức công phá 1/10 kiloton. Người Nga cũng làm được điều đó. Người Mỹ đã khám phá ra điều đó khi Alexander Lebed, cựu Cố vấn an ninh quốc gia Nga nói rằng có 100 vũ khí hạt nhân mini, được biết đến với cái tên "những trái bom trong cặp da," bị đánh cắp từ kho vũ khí của lực lượng đặc biệt của Nga. Chính vì thế mà Geoff Baehr, phụ trách thiết kế mạng của hãng vi tính Sun Microsystems có lần nói với tôi: "Điều tôi lo lắng nhiều nhất và đó không phải là điều nói quá, đó là toàn bộ hạ tầng cơ sở này rất dễ bị phá hoại, không những do nạn tin tặc mà có khi do có người nào đó vào được trong các tổng đài điện thoại. Trong thế giới ngày nay, những kẻ phá hoại có thể vào trong các tổng đài điện thoại phá phách, sau đó về ăn trưa rồi lại quay lại phá tiếp."

Khi kết hợp những kẻ giận dữ mà trào lưu Mỹ hóa-toàn cầu hóa sinh ra, cùng với khả năng toàn cầu hóa trang bị cho con người ta, bạn sẽ hiểu được điều tôi cho rằng là đe dọa trực tiếp đối với an ninh quốc gia của nước Mỹ trong thế kỷ 21: Những kẻ khùng điên được trang bị tối tân. Chính thế, chúng tôi không đơn thuần là một thứ siêu cường bình thường đang đe dọa nước Mỹ trong phần cuối của thế kỷ 20. Đe dọa thực sự đối với nước Mỹ ngày nay là những kẻ điên khùng được trang bị tối tân: chúng căm ghét nước Mỹ hơn bao giờ hết vì lý do toàn cầu hóa và chính những kẻ đó có thể tự ý làm bất cứ điều rồ dại nào, cũng nhờ toàn cầu hóa.

Trong hệ thống Chiến tranh Lạnh, một kẻ điên khùng được trang bị cần phải kiểm soát cả một đất nước trước khi bước ra phá phách toàn bộ thế giới. Nhưng ngày nay, một kẻ điên khùng được trang bị tối tân, dù là đàn ông hay đàn bà, có thể dùng sức mạnh của toàn cầu hóa để, thậm chí, chống lại cả một siêu cường. Trong thời đế quốc La mã, có câu nói: Mọi con đường đều dẫn đến thành Rome - bắc, nam, đông hay tây. Và cũng qua những ngã đường đó mà Caesar vươn dài quyền lực của ông ta. Đó là những con đường to và đẹp. Nhưng có điều buồn cười khi nói về đường sá. Chúng có hai chiều, và khi những kẻ theo Vandal và Visigoth quyết định tấn công Rome thì họ cũng dùng chính những con đường đó. Toàn cầu hóa cũng là tình huống như vậy.

Và những kẻ khùng điên trang bị tối tân thường thuộc nhiều dạng. Họ có thể rất tức giận nhưng không dùng bạo lực. Hoặc tới mức rất tức giận và cũng rất thích bạo lực. Ví dụ cho loại người tức giận nhưng ít dùng bạo lực đó là những tin tặc, những kẻ đã tấn công tờ báo của chúng tôi, The New York Times, một trụ cột của hệ thống nước Mỹ. Ngày 13/9/1998, tin tặc đã vào trang web của tờ báo. Lần đầu tiên tin tặc vào một trang web của một cơ quan thông tin lớn. martin Nisenholtz, Chủ tịch của Công ty Truyền thông Điện tử New York Times kể lại cho tôi: "Chúng tôi vừa đăng bản báo cáo Kenneth Starr về Clinton trên trang web hôm thứ sáu, hôm đó là ngày chúng tôi rất vui. Trang weeb của chúng tôi là trang duy nhất đăng toàn văn báo cáo. Bạn chỉ cần nhất nút là vào được báo cáo. Hôm đó chúng tôi đã đạt mức kỷ lục số lượng người vào trang web của chúng tôi. Tôi cảm thấy thực sự thỏa mãn với những gì chúng tôi đạt được và đã chấp nhận lời mời đến nói chuyện ở Diễn đàn Quốc tế Wharton ở Philadelphia. Vậy đêm hôm sau, thứ bảy, tôi đi xuống Philadelphia. 7 giờ 45 sáng chủ nhật tôi nhận được điện thoại từ biên tập viên trang web, nói rằng chúng tôi bị tin tặc. Tin tặc đã xảy ra một lần trước đó khi một nhóm người đã gửi liên tiếp những yêu cầu làm tràn ngập máy chủ của chúng tôi. Nhưng lần này thì khác. Tin tặc đã vào chiếm giữ toàn bộ trang mạng của chúng tôi, từ đó chúng đăng những thông điệp riêng của chúng trong logo HFG, "Tin tặc cho gái." Chúng đã ghép hình một cô gái khỏa thân vào logo HFG. Chúng tôi chiếm lại trang web và đăng bài đè lên những hình ảnh của chúng. Nhưng chúng sau đó đã chiếm lại và đăng bài đè lên nội dung của chúng tôi. Trong suốt hai tiếng, chúng tôi tranh giành trang mạng của chúng tôi! Bọn tin tặc đã vào chiếm giữ quyền điều khiển máy chủ và đã giữ đầu cầu vào đăng tin trên trang của chúng tôi. Một khi vào được đó, chúng có quyền quản trị và vận hành không khác thẩm quyền của chúng tôi. Chúng tôi đã bàn đến chuyện loại bỏ hẳn trang mạng đó, nhưng tôi không đồng ý. Nhưng sau cùng thì xuất hiện những lý do buộc chúng tôi phải làm điều đó. Vậy là vào lúc 10 giờ 20 sáng, chúng tôi xóa bỏ trang web và cắt đứt những mối liên lạc đăng bài từ bên ngoài. Cung cách tin tặc lọt vào là do họ đã khai thác một con bọ kỹ thuật trong hệ điều hành Unix. Chúng tôi hủy bỏ trang chủ và xây dựng một trang mới từ những máy chủ trinh nguyên, vốn không nối kết với các điểm tiếp cận từ bên ngoài."

Điều tôi thấy lý thú là những thông điệp bọn tin tặc đã đăng trên mạng của báo Times. Lời nhắn gửi đầu tiên là: "CHÚNG TAO NẮM VẬN MỆNH CỦA CHÚNG MÀY." Một phần của lời nhắn được mã hóa bằng những kỹ thuật riêng của chúng. Lối viết tiếng Anh của "Hacking for girlies" được viết thành "H4CK1NG FOR G1RL3Z."Có những âm được thay thế bằng số, như trong phần kết, chúng viết: "R3ST ASSUR3D, W3 WILL B3 BACK SOON." [Chắc chắn sẽ còn gặp lại nhau].

Những tay tin tặc rõ ràng đã hí hửng, gần như Jesse James, trong cái cách cố chứng minh rằng chúng thông thái hơn cả một cơ cấu quyền lực toàn cầu - đại diện bởi The New York Times và trang web của nó. Lời nhắn của chúng có hàm ý rằng bạn có thể giàu có nhưng bạn không thể cạnh tranh với những bộ óc trong thế giới ngầm Internet, dẫu cho chúng không có nhiều quyền lực. Dường như chúng nói rằng những bộ óc của chúng cũng có giá trị ngang ngửa. Có lúc những tin tặc đã viết: "Chúng tao dùng toàn chữ hoa và không dùng thức ngôn ngữ "thời thượng" không có nghĩa là chúng tao là trẻ con, hay cũng không có nghĩa là chúng tao không thể nắm giữ vận mệnh của chúng mày. Đối với những kẻ coi chúng tao là trẻ nhỏ, chứng tỏ có thêm một kẻ đánh giá thấp chúng tao. Hơn nữa, an ninh của chúng mày rồi giờ đây sẽ ra sao? Những "trẻ nhỏ" đã vượt qua được bức tường lửa trị giá 25.000 đô-la của chúng mày, vượt qua hệ thống quản trị mạng dày dạn kinh nghiệm và dày dạn văn bằng học hành trường lớp. Lêu lêu."
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 31-3-2013 10:00:26 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18
(tiếp theo)

Những kẻ tin tặc chỉ đòi hỏi một điều: đó là trả tự do cho Kevin D. Mitnick, một tin tặc khét tiếng đang bị cầm tù sau khi bị FBI bắt giữ vào tháng 2/1995. Mitnick, một thời bị truy lùng gắt gao trên toàn thế giới, bị buộc tội đã chiếm hữu hàng ngàn tập dữ liệu và ít nhất là 20.000 số thẻ tín dụng từ các máy vi tính trên toàn đất nước. Hoạt động trên một máy tính có modem nối với điện thoại di động của y, Mitnick đã bị bắt sau khi xâm nhập vào máy tính của Tsutomi Shimomura, một chuyên viên về an toàn máy tính nổi tiếng, nghiên cứu sinh trong Trung tâm Máy tính San Diego. Shimomura đã giúp đỡ một nhóm các kỹ thuật viên điện thoại và những nhà điều tra liên bang sử dụng thiết bị truy quét sóng điện thoại di động để truy tầm Mitnick.

Những tin tặc đó chẳng qua là những kẻ cực đoan trên Internet. Chúng có những tập tục riêng, tôn thờ những người hùng riêng, có ngôn ngữ riêng, có triết lý riêng và có nguồn động viên tinh thần riêng. Nhưng chúng không có một ý thức hệ chính trị nhất quán để có thể hình thành một hệ thống mới cho thế giới. Chúng giống như nhân vật Harpo. Những kẻ có thái độ nhưng không có ý thức hệ. Họ chỉ muốn phá những trật tự quyền lực hiện có. Họ muống chứng tỏ rằng cái trật tự đó không kiểm soát được họ, và ngược lại, chính họ lại có thể kiểm soát được trật tự đó.

Đi lên một bước thang bạn sẽ thấy có những kẻ điên khùng hơn một chút và ham thích bạo lực hơn một chút. Giống như những du kích quân Hổ Tamil đã tấn công toàn Đại sứ Sri Lanka ở Washington hồi tháng 9/1998. Tờ Washington Post kể lại câu chuyện đó: "Sau khi tòa Đại sứ Sri Lanka mở một địa chỉ email thì những du kích quân Hổ Tamil đã tìm ra một thủ đoạn khủng bố mới. Họ gửi liên tiếp đến tòa đại sứ các email họa giết và những loại email rác rưởi - đến mức các viên chức trong tòa đại sứ không thể dùng được địa chỉ đó để giao dịch công việc được nữa. Một nhà ngoại giao gọi đó là 'khủng bố bằng email." Câu chuyện kể tiếp rằng vào năm ngoái, tòa đại sứ đã phải mời đến một chuyên gia máy tính để lập một chương trình sàng lọc các loại email, đặc biệt lọc ra những email của Những con hổ Giải phóng Tamil Ealam (LTTE). Chiến thuật của những con hổ đó báo cáo về khủng bố toàn cầu của Bộ Ngoại giao xem là một mối đe dọa mới. Báo cáo nói đến một nhóm tự xưng là Những con hổ đen Internet, đã tấn công hồi tháng 8/1997, dùng "vũ khí" email và đã làm tê liệt hệ thống thư tín điện tử của các toà đại sứ. "Nhóm này tuyên truyền trên Internet rằng họ là bộ phận tinh hoa của LTTE, có chuyên môn về "bom cảm tử email," Bộ Ngoại giao cho biết. Nhóm này đã dùng cái gọi là "Tên lửa email chống máy chủ," xác định một địa chỉ email và dùng các biện pháp làm gián đoạn hoạt động đến mức người có địa chỉ đó phải hủy bỏ toàn bộ kết cấu thư điện tử của họ.

Sau cùng, có những kẻ chống đối không những điên khùng mà còn hết sức ham bao lực, và chúng không chỉ dùng có email. Đó là những Harpo có súng. Họ cảm thấy trên thế giới có một hệ thống quản trị, một hệ thống không bao giờ kết nạp họ. Trong quan điểm của họ, Hoa Kỳ, IBM, The New York Times, phố Wall và nền kinh tế toàn cầu là những bộ phận của một khối quyền lực cần bị đánh đổ. Những kẻ điên khùng đó bao gồm giáo phái Aum Shinrikyo (Chân lý Tối thượng) ở Nhật Bản, nhóm Osama bin Laden ở Afghainstan, Kẻ đánh bom nặc danh ở Hoa Kỳ và nhóm Ramzi Yousef ở New York. Aum Shirikyo là người đã răn dạy cho những môn đồ của hắn một hỗn hợp gồm Ấn Độ giáo, Phật giáo và rất nhiều những lý thuyết trên thế giới có dính dáng tới Hoa Kỳ, người Do Thái và những nhà tư bản toàn cầu. Giáo phái này đã giết 12 người, làm bị thương vài ngàn người hồi tháng 3/1995 khi cho xả chất ga sarin độc hại trong một ga tài điện ngầm ở Tokyo. Tuy nhiên, theo tờ The Economist, Aum Shinrikyo đã quy tụ được khoảng một tỷ đô-la tài sản và đã mua được một loại trực thăng tối tân của Nga để có thể rải chất độc hủy diệt. Osama bin Laden, một triệu phú người Ả rập xê út, vào tháng 8/1998 đã chi trả cho những vụ đánh bom vào các Tòa đại sứ của Mỹ ở Kenya và Tanzania, giết hơn 200 người. Hắn đã dùng điện thoại di động và trang mạng Jihad online (JOL) để liên lạc với nhiều nơi trên thế giới. Tờ The New York Times đã đưa tin FBI đã tìm ra trong một máy tính cá nhân của Haroun Fazil, một trong những tay chân của Bin Laden ở Kenya, một điện thư email trong đó mô tả người này theo dõi tình hình thế giới trên truyền hình CNN, dùng Internet để liên lạc với những thành viên khác trong mạng lưới của bin Laden. Trong email đó Fazil tự nhận là "phụ trách thông tin và truyền thông của khu vực Đông Phi."

Ramzi Yousef là kẻ cầm đầu vụ đánh bom tòa Trung tâm Thương mại thế giới ở New York ngày 26/2/1993, giết sáu người và làm bị thương hơn 1.000 người. Hắn có nguồn gốc từ một thế hệ những kẻ giận dữ trong thế giới thứ ba, những kẻ mong muốn làm những điều mà thế hệ cha chú của họ không làm được. Điều đó là đã hướng căm giận của họ vào phương Tây, trả thù cho những rối loạn mà phương Tây gây ra trong xã hội của họ. Họ làm điều đó bằng cách sử dụng công nghệ phương Tây trong khi không chấp nhận giá trị của phương Tây. Họ thích thú với ý tưởng sẽ hấp thụ toàn bộ kỹ nghệ mới, tiêu pha bằng thẻ tín dụng, trong khi tiếp tục giữ lối sống ẩn mình và khăn voan che mặt. Trong khi những kẻ cực đoan Internet chỉ dùng đến chuột máy tính và bọ vi tính làm vũ khí, thì Ramzi và đồng bọn sẵn sàng dùng thuốc nổ và xe tải để chở thuốc nổ. Nhưng họ cũng có một mục đích chung - nhổ vào bộ mặt Mỹ hóa- toàn cầu hóa và đạp đổ nó, sử dụng chính kỹ thuật của toàn cầu hóa để chống lại nó.

Ramzi Yousef thực sự là một kẻ Giận dữ được trao quyền tiêu biểu. Hãy xem xét về bản thân con người của hắn. Đường lối của hắn là gì? Ý thức hệ của hắn ra sao? Rốt cuộc thì hắn là người muốn làm nổ tung hai trong số những tòa nhà cao nhất nước Mỹ. Liệu hắn có muốn thành lập một nhà nước Palestine ở Brooklyn hay không? Hay một nước cộng hòa Hồi giáo ở bang New Jersey? Không. Hắn chỉ muốn làm nổ tung hai trong số những tòa nhà cao nhất của nước Mỹ. Hắn nói trước phiên tòa Liên bang ở khu Manhattan là mục tiêu của hắn là sẽ làm cho một toà nhà nổ tung, rồi sập san làm đổ nốt tòa nhà thứ hai, hòng giết 250.000 dân thườn. Thông điệp của Ramzi Yousef chính là ở chỗ hắn không có thông điệp nào cả, ngoại trừ việc xé bỏ những thông điệp của Hoa Kỳ. Báo the Economist đã đăng "một thời những kẻ khủng bố muốn gây tại họa khiến cho nhiều người biết và ngưỡng mộ nhưng không muốn nhiều người chết." Thời đó qua rồi. Ngày nay, những kẻ khủng bố muốn rất nhiều người chết. Chúng không muốn thế giới thay đổi. Chúng biết rằng sẽ không làm được điều đó, vậy thì chúng muốn phá phách được bao nhiêu thì cứ phá.

Tuy nhiên trong câu chuyện về Ramzi tôi thích một chi tiết đó là Mohammed Salameh, một trong những đồng bọn của Ramzi, sau vụ nổ trung tâm Thương mại, đã quay lại công ty cho thuê xe tải, nơi hắn thuê chiếc xe chở chất nổ. Salameh trước đó đã trả 400 đô-la đặt cọc để thuê chiếc xe, và nay hắn muốn lấy lại số tiền đó, ngay cả khi chiếc xe đã bị hắn làm nổ tung (Hắn giải thích với nhân viên ở đó là xe đã bị đánh cắp.) Đối với Salameh, thế giới có hai mảng khác biệt. Vào buổi sáng bạn có thể đánh bom trung tâm Thương mại, giết được càng nhiều người càng tốt, đó là chân lý thiện thắng ác của bạn; đến chiều bạn lại đến đòi lại tiền, sử dụng những luật lệ của người Mỹ về vấn đề giao kèo. Đó là hình ảnh hay nhất cho thấy những kẻ điên khùng đã tận dụng công nghệ của thế giới hiện đại mà không cần phải chấp nhận giá trị của thế giới đó. Khi bị các công tố viên hỏi rằng vì sao Salameh đã quay lại đòi tiền đặt cọc - Ramzi Yousef trả lời cộc lốc: "Đồ ngu." Quả thực Salameh đã giúp cảnh sát lần ra được Ramzi Yousef. Cảnh sát đã truy ra hắn ở Philippines. Họ vào căn hộ và tìm được chiếc máy tính xách tay Toshiba màu trắng của hắn bỏ lại và tìm được những kế hoạch mới của hắn trong ổ cứng của máy tính. Đó là vào tháng 1/1/1995. trước khi hắn bị bắt giữ. Phần lớn trong bản án của chính phủ Mỹ dành cho Yousef là dựa trên những dữ liệu tìm thấy trong máy tính của hắn - bao gồm các lịch bay, giờ cho nổ và các tài liệu chứng minh danh tính trong đó có ảnh của một số đồng bọn. ( ngoài việc gây nổ trung tâm Thương mại Thế giới hồi năm 1993, hắn còn có kế hoạch đánh bom một loạt các hãng hàng không Mỹ ở châu Á. vào năm 1995). Ramzi Yousef thực sự là một kẻ Giận dữ được trang bị tối tân- một tay giữ thuốc nổ tay kia cầm ổ cứng máy vi tính.

Stephen P.Cohen, chuyên gia về Trung Đông, cho biết điều đáng quan tâm về Ramzi Yousef và những kẻ đang nổi giận trong thế giới Ả rập ngày nay là "họ khi xưa vốn tin rằng họ cần phải lật đổ chính phủ của họ và chiếm quyền, trước khi ra thách thức Hoa Kỳ. Ngày nay, họ đứng khiêu chiến với Hoa Kỳ trong tư cách cá nhân." Toàn cầu hóa không những cho phép những người đó đích thân chống Mỹ. Toàn cầu hóa giúp họ có lý do cũng như nghị lực để làm điều đó. Lý do là việc đất nước của họ không còn đại diện cho cơ cấu quyền lực thực sự nữa. Cơ cấu quyền lực ngày nay mang tính toàn cầu. Chúng nằm trong tay siêu cường Hoa Kỳ và những siêu thị tài chính - chúng đứng ra sai khiến các chính phủ khác. Do đó nếu muốn đánh đổ toàn bộ hệ thống thì bạn phải đánh vào siêu cường đó và các siêu thị đó; không cần động đến những chính phủ như ở Pakistan hay Ai Cập làm gì.

Những điều làm cho những kẻ Giận dữ được trang bị tối tân đó bực dọc không chỉ bao gồm thực tế cho thấy Hoa Kỳ có công nghệ tiên tiến, mà còn ở chỗ Hoa Kỳ tự nhận rằng họ có những hệ giá trị tiên tiến. Trong khi đó thì quan điểm của những kẻ điên khùng đó cho rằng giá trị của Hoa Kỳ chỉ là chủ nghĩa thực dụng lạnh lẽo và lòng ham muốn khôn cùng đối với công nghệ. Đoạn đối đáp sau đây diễn ra vào phần cuối của phiên toà xử Ramzi Yousef, giữa chánh án Kevin Thomas Duffy và bị can. Một kẻ Giận dữ được trang bị tối tân chống lại một siêu cường.

Ramzi Yousef: "ông cứ nói mãi về sự trừng phạt tập thể và giết chóc dân thường... Bản thân các ông là người đi đầu trong việc giết những người vô tội, và các ông là người đầu tiên reo rắc khủng bố vào lịch sử nhân loại khi ném một trái bom nguyên tử giết hàng chục ngàn phục nữ và trẻ em ở Nhật Bản và dùng bom cháy giết hơn 100.000 người, phần lớn là dân thường, ở Tokyo. Các ông đã đốt họ đến chết. Và các ông đã dùng hóa chất, gọi là chất độc màu da cam, giết dân thường ở Việt Nam. Các ông đã giết dân thường và những người vô tội, không phải binh lính, trong mỗi cuộc chiến mà các ông tham gia. Mỹ tham chiến nhiều hơn tất cả các quốc gia khác trong thế kỷ này, vậy mà giờ đây còn cả gan nói về chuyện giết chóc dân thường vô tội. Và giờ đây các ông đã sáng chế ra nhiều cách thức giết hại dân thường. Các ông có cái gọi là trừng phạt kinh tế, mà có thể giết chỉ trẻ em và người già. Ngoài Iraq, các ông đã áp đặt trừng phạt kinh tế đối với Cuba và nhiều nước khác trên 35 năm nay. Công tố viên Chính phủ, trong phần mở đầu và kết thúc của bản án đã gọi tôi là một "kẻ khủng bố." Vâng, tôi là một kẻ khủng bố, và tôi tự hào về điều đó. Và tôi ủng hộ khủng bố khi mà điều đó chống lại chính phủ Hoa Kỳ và Israel, vì các ông còn tồi tệ hơn những kẻ khủng bố; các ông là người đã phát minh ra khủng bố và sử dụng khủng bố hàng ngày. Các vị là những kẻ sát nhân, dối trá và đạo đức giả."

Chánh án Kevin Thomas Duffy đã đáp lại - tựa như đã đòi hỏi Yousef hãy nuốt lấy những cơn giận của hắn: "Ramzi Yousef, anh tự nhận là một chiến binh Hồi giáo. Trong số những người bị giết hay bị hại trong vụ nổ bom Trung tâm Thương mại Thế giới, anh không chỉ ra được một ai trong số họ đã chống lại anh hay chống lại sứ mệnh của anh. Anh không quan tâm, miễn là làm sao giết và làm bị thương càng nhiều người càng tốt. Ramzi Yousef, anh không đáng là một người dương ngọn cờ Hồi giáo. Đức Chúa của anh là thần chết. Đức Chúa của anh không phải là Thánh Allah... Anh không phải là người truyền giáo. Điều duy nhất anh muốn làm là gây chết chóc. Đức chúa của anh không phải là Thánh Allah. Anh tôn thờ cái chết và sự phá hoại. Những gì anh làm không phải vì đức Allah; anh làm những điều đó chỉ để thoả mãn cái tôi méo mó của anh. Anh có thể đã khiến cho những người khác coi anh là một người lính, nhưng những vụ tấn công vào nền văn minh, mà nhờ có nó anh được đứng đây để chịu luận tội, mang mục đích lén lút và để giết chóc những người dân hoàn toàn vô tội.. Ramzi Yousef đến đất nước này làm ra vẻ là một phần tử Hồi giáo chính thống, nhưng anh chỉ quan tâm rất ít hay không quan tâm đến Hồi giáo hay lòng tin của dân Hồi giáo. Thay vào đó, anh không chấp nhận Thánh Allah, mà chấp nhận thứ quỷ dữ vốn anh đã hóa thân vào. Và tôi phải nói là trong thân xác của quỷ dữ anh đã có hành động đúng nghĩa quỷ dữ."

Đối với những người như Yousef thì liệu có lời bào chữa nào dành cho họ không? Thật lý tưởng nếu có những niềm tin cho rằng với những đường lối văn hóa hay kinh tế hay xã hội đúng đắn thì có thể xóa đi những hằn thù và giận dữ trong những lớp người cảm thấy bị Mỹ hóa-toàn cầu hóa đè nén. Những người như Ramzi Yousef đã chịu mất mát nhiều hoặc có những hằn học đến cực độ. Sự thông cảm hay những chương trình xã hội sẽ không cải hóa được họ. Bao giờ cũng có những phần tử cực đoan như Yousef. Giải pháp duy nhất là phải cô lập những kẻ cực đoan đó ra khỏi xã hội lớn. Phương pháp duy nhất là giúp cho các xã hội trên thế giới và các thành viên của chúng được tận hưởng và chia sẻ lợi ích của toàn cầu hóa. Tôi sẽ giải trình việc này trong những chương cuối của cuốn sách.

Tuy vậy, chúng ta không nên có ảo tưởng. Những kẻ điên khùng được trang bị tối tân vẫn đang tồi tại và chúng đại diện cho những đe dọa trực tiếp nhất nhằm vào Hoa Kỳ và sự ổn định của toàn bộ hệ thống. Điều đó không có nghĩa Ramzi Yousef có thể trở thành một siêu cường. Không, không, không. Điều đó có nghĩa là trong thế giới ngày nay có rất nhiều người có thể trở thành những Ramzi Yousef.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách