Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
Thu gọn cột thông tin

[Lịch Sử - Xuất Bản] Bài Học Israel | Nguyễn Hiến Lê (HOÀN)

[Lấy địa chỉ]
 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2013 09:47:20 | Xem tất
Chương 8
Chiến tranh thứ nhì năm 1956 giữa Israel và Ả Rập

Các nguyên nhân xung đột

Cả hai bên Israel và Ả Rập đều biết rằng Hiệp ước năm 1949 chỉ tạo được một cuộc hưu chiến. Israel cần có một thời gian để tổ chức, kiến thiết quốc gia mà Ả Rập cũng cần có một thời gian để củng cố lại lực lượng. Vấn đề giải quyết như vậy chưa ổn vì còn nhiều nguyên nhân xung đột quá:

1. Trước hết là vấn đề biên giới

Người Ả Rập không chịu nhận biên giới đó: thiệt hại cho họ. Mà cũng không ai tin rằng biên giới sẽ vĩnh viễn như vậy; nó không tự nhiên, nó rất kỳ dị, không thể trường cửu được.

Chính quyền Israel có lẽ hả dạ vì được hưởng phần đất lớn nhất và mong được yên ổn trong một thời gian để khai thác hết nó đã, nhưng một số người Do Thái tham lam tuyên bố rằng đất đai của họ vẫn còn chật hẹp quá. Một ngày kia họ sẽ lớn lên - mà họ mau lớn làm sao! Trong có mấy năm cả triệu Do Thái ở khắp thế giới đổ về Israel thì chiếc áo họ đành tạm nhận năm 1949 sẽ phải nứt ra. Họ thường nhắc nhau lời Chúa hứa với Abraham trong Thánh kinh: Ta ban cho con cháu ngươi dải đất nằm từ sông Ai Cập (tức sông Nile) tới sông Euphrate và họ hy vọng mở mang bờ cõi từ núi Taurus (ở Tiểu Á) tới kinh Suez nghĩa là muốn nuốt trọn xứ Syrie, xứ Liban, xứ Jordanie, một phần xứ Iraq, xứ Ả Rập Saudi và xứ Ai Cập. Mới có quốc gia mà đã đòi làm thực dân!

Họ bất mãn về cái thẻo Gaza như một lưỡi dao kề bên sườn họ, bất mãn nhất về biên giới ở Jérusalem. Châu thành bị chia đôi, ở giữa là một dải phi chiến, họ mất bức tường Than khóc (nằm trong khu Jordanie). Hai bên dải này quân đội Israel và Ả Rập đi tuần suốt ngày đêm. Từ 1949 đến 1950, Israel đã tố cáo Ả Rập vi phạm hiệp ước đình chiến 1612 lần, Ả Rập cũng tố cáo Israel vi phạm 1348 lần: vượt biên giới, hoặc ở bên này bắn qua bên kia, phi cơ bay trên không phận của nhau, lại có cả vụ đốt phá lẫn nhau nữa. Không ngày nào là trên biên giới Israel- Jordanie không có vụ lộn xộn, nhiều vụ đổ máu xảy ra ngay gần mộ Đức Ki-tô.

Liên hiệp quốc mấy lần đề nghị quốc tế hoá châu thành đó, nhưng không bên nào chịu vì bên nào cũng ngờ rằng Liên hiệp quốc không sao kiểm soát kỹ được, thế nào cũng có sự lén lút đưa người và khí giới vào, như vậy thà cứ giữ hiện trạng mà Israel và Jordanie tự kiểm soát lấy khu vực của mình còn hơn.

Ở biên giới Gaza cũng vậy: luôn luôn có những vụ Ả Rập đương đêm lẻn qua quậy phá Israel rồi rút về; Israel truy kích chớp nhoáng rồi cũng rút về.

2. Thứ nhì là vấn đề dân Ả Rập tản cư

Khi chiến tranh mới bùng năm 1948, Israel cho phát thanh, rải truyền đơn, dán bố cáo yêu cầu dân tộc Ả Rập đừng đi đâu cả, tính mạng tài sản sẽ được bảo đảm. Ai mà tin được sự bảo đảm đó. Với lại đài phát thanh Ả Rập cũng hô hào họ tản cư, và đại bác Ả Rập nã vào đâu thì làm sao phân biệt được Do Thái với Ả Rập. Cho nên dân Ả Rập dắt díu nhau rút qua bên kia biên giới gần hết, trước sau trên nửa triệu. Họ không phải chỉ vì hốt hoảng mà trốn đi, một phần còn vì tinh thần quốc gia, một phần vì sợ những hành động tàn nhẫn của Do Thái nữa như tại miền Deir ở gần Jérusalem.

Chỉ một vụ tản sát - mà trong chiến tranh, tránh sao cho khỏi được - đủ làm cho những người Ả Rập tại các nơi khác không dám ở lại.

Hết chiến tranh chính phủ Israel chỉ cho một số ít người Ả Rập theo đạo Ki-tô trở về, còn những người theo Hồi giáo thì cấm ngặt. Họ cấm là phải, chính phủ nào mà muốn có kẻ địch ở trong nước? Rốt cuộc có đến trên nửa triệu người Ả Rập tản cư ở Jordanie, 220.000 người ở miền Gaza, 100.000 ở Liban, 90.000 ở Syrie, tổng cộng non 1.000.000 người. Không rõ hiện nay ra sao chứ năm 1956 họ vẫn ở tạm gần biên giới, ngày nào cũng đăm chiêu ngóng về cố hương. Những gia đình từ 15 đến 20 người chui rúc dưới những tấm bố căng lên che nắng và mưa, bên cạnh những đống rác. Không có trường học, không có nhà thương. Trẻ em thì đánh giầy ở Amman (Jordanie), mà người lớn thì ở không vì không có công việc gì để làm. Họ sống hoàn toán nhờ sự trợ cấp của Liên hiệp quốc: mỗi năm mỗi người lãnh 37 Mỹ kim, mỗi tháng ba Mỹ kim, phần lớn do Hoa Kỳ và Anh đóng góp. May lắm là họ không đói,(1) Nhưng hình như chỉ 500.000 người được trợ cấp thôi.

Họ có lòng tự ái rất cao, tới trẻ em cũng ăn mặc sạch sẽ, áo vá chứ không rách, và không bao giờ chịu đi ăn xin. Người ta đề nghị cho họ di cư lại các miền phong phú, kiếm công ăn việc làm, như tới Iraq, tới Darhan, tới Kuwait, họ nhất định không chịu, cứ ăn vạ ở đó, khăng khăng đòi về cố hương như các người Do Thái trước kia vậy. Họ chịu nhận cái kiếp lang thang tới nay đã hai chục năm rồi. Chúa của họ bao giờ mới cứu họ? Lịch sử nhân loại sao mà nhiều chuyện bi thảm đến thế.

Họ oán các xứ Ả Rập, Liban, Jordanie, Syrie, Ai Cập đã phản bội họ mà đầu hàng Israel; họ oán Liên hiệp quốc đã hy sinh họ cho Israel.

Không ai có thể trách họ được. Lòng yêu quê hương là một tình cảm mãnh liệt, lý trí không thể thắng nổi. Bảo họ đi nơi khác ở có sướng hơn không, họ đáp:

- Ở đây còn có hy vọng về xứ, chứ đi nơi khác thì bỏ luôn quê cha đất tổ ư? Chúng tôi sống được là nhờ hy vọng. Người Do Thái mất quê hương phiêu bạt mười mấy thế kỷ mà vẫn hướng về Jérusalem, thì tại sao các ông lại bảo chúng tôi quên quê hương được khi chúng tôi xa nó mới có mười mấy năm nay?

Lại thêm nỗi một số chính khách Ả Rập cũng không muốn cho họ đi nơi khác, để các dân tộc Ả Rập luôn luôn nhớ cái nhục chung mà không nguôi cái thù Do Thái.

Quốc vương Jordanie, Abdallah, vì không oán Do Thái kịch liệt như các lãnh tụ Ả Rập khác cũng có lẽ vì Mỹ - Anh hứa hẹn gì với ông ta chăng, năm 1950 muốn tìm một giải pháp, nên thương lượng ngầm với Ben-Gurion, do độc long tướng quân Moshe Dayan làm trung gian để đổi chác đất đai gì với nhau đó, nhưng bị ám sát ngày 21 tháng 7 năm 1951 vì tội “phản dân tộc”.

Thủ tướng Liban là Ayad Soth cũng mất mạng vì muốn điều đình với Israel. Ta nên nhớ Liban là một xứ chịu ảnh hưởng của phương Tây từ thời Trung Cổ và dân một nửa theo Hồi giáo, một nửa theo Ki-tô giáo.

3. Thứ ba là xung đột về tôn giáo.

Một học giả và chính khách Pháp, ông Georges Vaucher, cựu Thư ký Uỷ ban Hồng Thập Tự quốc tế cựu Cao uỷ trong hoạt động quốc tế cứu trợ nạn đói ở Nga năm 1921-1922, sống ở Ai Cập hai mươi lăm năm, trong thế chiến vừa rồi làm đại biểu cho hội Hồng Thập Tổ quốc tế ở Tây Á cho rằng bi kịch Do Thái - Ả Rập khó mà chấm dứt được nguyên nhân không phải tại cái thế Israel chiếm đất, lấn đất, mà còn do tín ngưỡng của hai dân tộc đó nữa.

Người Do Thái nào cũng đọc kinh Cựu Ước, người Ả Rập nào cũng đọc kinh Coran mà trong hai kinh đó có nhiều đoạn làm cho hai dân tộc hiềm thù với nhau.

Chúng ta đều biết rằng khi đắc đạo rồi, muốn truyền bá “Chánh đạo”, Mohamed, nhà sáng lập Hồi giáo gom môn đồ lại mà bảo:

“Từ nay ta sẽ sống và chết với các ngươi, đời ta là đời của các ngươi, máu các ngươi là máu của ta, các ngươi thua là ta thua, các ngươi thắng là ta thắng. Hễ tụi dị giáo tấn công các ngươi thì các ngươi sẽ tắm trong máu của chúng!”

Hiện nay nhiều dân tộc theo Hồi giáo vẫn chưa bỏ cái quan niệm “thánh chiến” nguy hiểm đó.(2)

Đó là trong kinh Coran. Trong kinh Cựu Ước, ông Georges Vaucher đã trích dẫn nhiều đoạn rất có thể làm cho người Ả Rập bực mình mà tôi xin dịch ra dưới đây: (2)

“Ngày đó, đức Jahvé giao ước với Abraham rằng: “Ta cho dòng dõi ngươi xứ này, từ sông Ai Cập (Nile) tới sông cái kia, sông Euphrate, tức đất đai của dân tộc Kinit, Kenesit, Camonit, Kephaim, Amonit,Canan, Cohinlogarit và Gtebunit”.

(Sách Sáng Thế kỷ (4) – chương 15 – Tiết 18 – 21).

Khu đất đó vì vậy mà có tên là đất hứa (Terre promise). Đất Do Thái được đức Jahvé cho lại sống ở đó và đức Jahvé còn hứa đuổi những giống thổ dân để cho Do Thái được sống một mình:

“Ta sẽ không đuổi chúng đi hết trong một năm đâu e rằng đất đó thành đất hoang mất mà loài thú rừng sẽ sinh sản làm hại ngươi (“ngươi” - tức dân tộc Do Thái); mà ta sẽ đuổi chúng dần dần cho tới khi dân số ngươi đông đúc đủ làm chủ đất đó được. Ta sẽ phân định bờ cõi cho ngươi từ Hồng Hải cho tới biển Philistin, từ Sa mạc tới Sông Cái và ta sẽ giao phó dân bản xứ cho ngươi và ngươi sẽ đuổi chúng đi”.

(Sách Ai Cập phát trình ký (6) chương 23 tiết 29 – 31)


Biển Philistin tức là Địa Trung Hải, Sông Cái tức là sông Euphrate. Miền nói trung đoạn đó gồm Sinai, Syne và một phần sa mạc Ai Cập.

Sách Luật lệ ký (7), chương 17, tiết 16 cũng có câu:

“Ngươi phải diệt tất cả các dân tộc mà Jahvé Đức Chúa Trời sắp giao cho ngươi, mắt ngươi đừng đoái thương chúng và ngươi đừng thờ các thần của chúng”.

Đầu chương đó giọng còn mạnh hơn nhiều:

“Khi Jahvé, đức Chúa Trời của ngươi đã dẫn ngươi vô tới xứ mà ngươi sẽ làm chủ, và đuổi khỏi trước mặt ngươi nhiều dân tộc, tức Hetit, Giregasit, Amonit, Canaan, Pheresit, Hevit và Gtebunit, hết thảy là bảy dân tộc đông hơn ngươi và mạnh hơn ngươi; khi Jahvé, đức Chúa Trời đã giao phó cho ngươi, và ngươi đã đánh bại chúng, thì ngươi phải diệt hết chúng đi, đừng kết liên với chúng mà cũng đừng thương xót chúng. Ngươi đừng làm thông gia với chúng, đừng gả con gái cho con trai chúng, đừng cưới con gái chúng cho con trai mình, vì chúng sẽ dụ con trai ngươi lìa bỏ ta mà phụng sự các thần khác, mà cơn thịnh nộ của Chúa Trời sẽ bùng lên mà diệt ngươi trong nháy mắt đấy. Trái lại ngươi phải đối với bọn chúng như vầy: lật đổ bàn thờ của chúng đi, đập bể tượng thần của chúng đi, hạ các ngẫu tượng của chúng xuống, đốt các hình chạm của chúng đi.

Vì đối với Jahvé, đức Chúa Trời thì ngươi là một dân tộc thánh; Ngài đã lựa ngươi làm một dân tộc thuộc riêng về Ngài trong số tất cả các dân tộc trên mặt đất” (…)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2013 09:49:21 | Xem tất
Chương 8
(tiếp theo)

Trong sách “Dân số kỳ”(7) chương 33, tiết 50, cũng dặn phải đuổi dân bản xứ đi, như “nhổ gai trong mắt”, “rút chông trong hông”. Rồi suốt cho tới Sách các “Tiên tri” ở cuối Cựu ước, còn nhiều đoạn làm cho người Ả Rập phải suy nghĩ:

“Ngươi sẽ chiếm được những thành lớn và đẹp mà ngươi không tốn công xáy dựng; sẽ chiếm được những nhà cửa đầy những của cải mà ngươi không mất công mua sắm; sẽ chiếm được những hố mà ngươi không phải đào, những cây nho và cây ô-liu mà ngươi không phải trồng”.

(Sách Luật lệ, chương 6, tiết 10-11).

Tôi biết có, một số người cho trong kinh Cựu ước không chứa những tài liệu sử, mà những người Ki-tô giáo chỉ coi những điều chép trong kinh là những hình ảnh tượng trưng những thực thể siêu việt xảy ra trong thế giới tâm linh giữa Thiện và Ác, giữa Ánh sáng và Bóng tối, và những đoạn Vaucher trích đó nên hiểu theo một nghĩa khác - chẳng hạn, không phải là diệt các dân bản xứ - tức diệt chủng - mà diệt cái ác ở các dân đó, không phải là chiếm nhà cửa, vườn tược mà tìm được hạnh phúc tinh thần:, giải thích như vậy, nghe cũng xuôi xuôi nhưng chắc là không thuyết phục được mọi người, nhất là Ả Rập, và ngay cả đa số tín đồ Do Thái nữa. Nhưng tín đồ này tụng hoài những đoạn kích thích mạnh mê như vậy, sẽ có thái độ ra sao với người Ả Rập?

Sự xác định đi xác định lại rằng dân Do Thái là “dân tộc được lựa chọn”, rằng xứ Palestine và tất cả tài nguyên của nó thuộc quyền của dân tộc Do Thái đã gây ra những hành động quá khích, của một hạng người Do Thái năm 1948.

Sau Hiệp ước 1949, còn một số người Ả Rập sống chung với người Do Thái ở Israel. Khi đi qua những giáo đường của nhau, người Ả Rập nghe người Do Thái tụng những đoạn ở trên, người Do Thái cũng nghe người Ả Rập tụng những câu ca ngợi thánh chiến của Mohamed thì tâm lý họ, ra sao? Tôi chắc rằng có vô số người Do Thái cứ tin theo nghĩa từng chữ trong Thánh kinh và cho rằng nhiều đoạn tiên tri trong đó đã ứng nghiệm, chẳng hạn như những đoạn:

“Đức Jahvé sẽ bắt con cháu ngươi (tức Jacob, một tộc trưởng Israel sinh 12 con trai; thủy thổ của 12 bộ tộc Israel) phiêu bạt, sống chung vớt các dân tộc khác trên thế giới (…) Mà sống với các dân tộc đó chúng sẽ không được yên ổn, không có chỗ ớ đặt chân, sống giữa kẻ lạ, lòng chúng sẽ ưu tư. Đởi sống của chúng sẽ chập chờn vô định và chúng sẽ run sợ ngày rồi tới đêm”

Nhưng rồi đức Jahvé cũng sẽ tha thứ cho con cưng của ngài:

“Ta sẽ gom dân tộc ngươi lại, hỡi Jacob, sẽ gom con dân còn lại của Israel”.

(Sách Michée, chương 2 tiết 12).

“Ta sẽ đem tù dân Israel ta trở về; chúng sẽ xây dựng lại các thành bị phá và ở đó, chúng sẽ lập vườn nho và uống rượu nho, sẽ làm vưởn và ăn trái. Ta sẽ thấy chung nó trên đất của chúng nó và chúng nó sẽ không bị nhổ khỏi đất mà ta ban cho”.

(Sách Amos, chương 8, tiết 14-15).

Chính François Musard, một người Do Thái lai Pháp, tác giả cuốn “Israel, miracle du XX siècle”, còn tin vậy thì trách chi những người Do Thái ít học, như hạng Do Thái ở Yemen, ở Nga, ở Ấn Độ, ở Ả Rập mới hồi hương.

Mà một khi người ta đã tin những lời “tiên tri” đó là linh ứng thì làm sao người ta khỏi nghĩ rằng muốn không bị “nhổ khởi đất” mà Đức Jahvé đã ban cho thì hai triệu dân Do Thái phải tận diệt 50 triệu dân Ả Rập ở chung quanh. Nhưng 50 triệu dân Ả Rập ở chung quanh cũng phải thề với nhau tận diệt hai triệu dân Do Thái ở Israel để trung thành với Chúa Mohamed.

Lúc bình thường thì hạng bình dân, nước nào cũng lo làm ăn, sống yên ổn, rán theo ít nghi thức trong tôn giáo mình, chứ chẳng nghĩ gì đến những ý nghĩa thâm thuý trong các kinh thánh, nhưng khi có những sự xung đột về kinh tế, về chính trị thì luôn luôn có những người dùng đến sức mạnh của tôn giáo, của cuồng tín mà gây những cuộc tàn sát kinh khủng; mà những cuộc xung đột nào giữa hai dân tộc quốc gia ở thời này cũng có tính cách quốc tế luôn luôn có cường quốc này, cường quốc nọ xen vào, huých bên này, xúi bên kia làm hậu thuẫn hoặc đứng ngoài giật dây. Cuộc xung đột Do Thái - Ả Rập không ra ngoài định luật đó.

4. Nguyên nhân thứ tư là tinh thần quốc gia mới Ả Rập.

Sau mấy thế kỷ bị Thổ đô hộ, tinh thần quốc gia của dân tộc xuống rất thấp, họ bị thao túng, không vùng vẫy lên được, nhẫn nhục chịu cảnh đàn áp của Thổ. Trong thế chiến thứ nhất một quân nhân mạo hiểm, một chính khách kỳ tài của Anh, đại tá T.E. Lawrence, qua sống chung với người Ả Rập, được họ tín nhiệm, yêu mến, tôn trọng, gọi là “ông vua không ngôi của Ả Rập”, ông ta hô hào họ đoàn kết với nhau để đuổi Thổ đi rồi hết chiến tranh sẽ được Anh, Pháp trả độc lập cho. Nhờ vậy tinh thần quốc gia của Ả Rập bùng lên được một thời.

Hết chiến tranh, Anh Pháp nuốt lời hứa, họ bị đàn áp, tinh thần đó lại bị nén xuống. Anh lại dùng chính sách “chia rẽ để dễ trị” và sau thế chiến vừa rồi các quốc gia Ả Rập không đoàn kết với nhau được.

Sự thực họ khó đoàn kết với nhau được lắm. Họ có một điểm chung là ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ không được thống nhất, còn giữ nhiều địa phương tính. Một điểm chung nữa là tôn giáo, nhưng Hồi giáo không phải là quốc giáo trong hết thảy các quốc gia, có quốc gia như Liban một nửa theo Hồi giáo, một nửa theo Ki-tô giáo, và lại Hồi giáo có tín đồ ở khắp thế giới chứ không phải chỉ trên bán đảo Ả Rập. Chính thể của họ cũng khác nhau nữa: hiện nay còn hai nước theo chế độ quân chủ: Jordanie và Ả Rập Saudi, còn các nước khác theo chế độ cộng hoà. Về kinh tế, họ cũng cách biệt nhau xa có nước rất nghèo như Ai Cập, chỉ sống về nghề nông mà đất trồng trọt được rất ít, chỉ là một dảì hẹp hai bờ con sông Nile; có nước rất giàu nhờ mỏ dầu lửa như: Ả Rập Saudi, Kuwait.

Tình trạng chia rẽ đó có hại ra sao, đại tá Nasser đã nhận thấy rõ trong cuộc chiến đấu với Ả Rập năm 1949. Ở mặt trận về ông buồn rầu nhận ra rằng mấy chục triệu Ả Rập thua nửa triệu Do Thải chỉ tại năm quốc gia Ả Rập tuy gọi là liên hiệp với nhau mà thực thì mỗi quốc gia chỉ mưu lợi riêng cho mình. Ông đã thấy Ai Cập không chịu giúp Transjordanie để cho Transjordanie thua ở Bab-el-wad; Transjordanie cũng bỏ rơi Ai Cập khi Ai Cập bị vây ở Fallouga; rồi Iraq thấy khó khăn rút lui trước.

Sau bao nhiêu thế kỷ bị ngoại thuộc, lần này là lần đầu tiên các dân tộc Ả Rập có dịp tỏ mặt với thế giới mà đành nuốt hận một cách nhục nhã như vậy thì làm sao còn dám tự hào là dòng dõi của Chéops, của Ramsès, của Mohamed được nữa. Và từ đó Nasser bỏ tinh thần quốc gia cũ hẹp hòi, nuôi một tinh thần quốc gia mới, tức tinh thần Ả Rập. Không có các dân tộc Ai Cập, Iraq, Syrie, Transjordanie, mà chỉ có mỗi một dân tộc Ả Rập thôi. Phải đoàn kết nhau lại thành một khối Ả Rập thì mới mạnh được. Sự đại bại năm 1949 là một cái may cho khối Ả Rập. Nhờ nó mà họ mới phẫn uất chịu suy nghĩ và tìm cách phục hưng.

Ông cùng một nhóm đồng chí, hầu hết là quân nhân hoạt động cách mạng và ngày 25-7-1952 truất được Farouk, quốc vương Ai Cập; hai năm sau, ngày 14-11-1954, ông làm Tổng thống của nước Cộng hoà Ai Cập. Việc đầu tiên của ông là thương thuyết để mời Anh rút quân ra khỏi Ai Cập. Anh hứa trong 20 tháng sẽ rút hết quân. Việc thứ nhì là lo thống nhất các dân tộc Ả Rập. Trong bài tựa cuốn “Sứ mạng của Islam (The Islamic Call) của một chính khách Mohamed, ông tản tụng sứ mạng truyền bá văn minh, nhất là sứ mạng thống nhất các dân tộc Ả Rập của giáo chủ Mohamed.

Đại ý ông bảo trong nửa cuối thế kỷ thử sáu, trước khi Mohamed ra đời thì thế giới sống trong cảnh bất công, trái với đạo Ki-tô, người ta chém giết nhau để tranh của cướp đất. Mohamed xuất hiện, đem lại sự thời bình, sự an toàn cho quần chúng, dạy mọi người thương yêu nhau, hợp tác với nhau. Nasser hô hào tất cả các người Ả Rập, tất cả các người theo Hồi giáo đoàn kết nhau lại thành một mặt trận để tiếp tục sứ mạng của Mohamed đã bị gián đoạn trong nhiều thế kỳ. Và ông hứa còn sống ngày nào thì nhất quyết thực hiện cho được mục tiêu đó. Để phục hưng tinh thần dân tộc Ả Rập, ông chứng thực sức mạnh của Ả Rập.

Trước hết là sức mạnh về dân số: Dân số Ả Rập tuy chỉ có ba bốn chục triệu, nhưng số người theo Hồi giáo thì rất đông, cộng cả lại ở khắp thế giới được 400 triệu người, hơn Mỹ và Nga, chỉ kém Trung Hoa và Ấn Độ, và dĩ nhiên, theo ông, 400 triệu người đó phải đoàn kết với nhau.

Lẽ thứ nhì là địa thế bán đảo Ả Rập rất quan trọng: nó là cái bản lề của ba châu Âu, Á, Phi. Nếu Ả Rập mạnh lên thì nó có thể cầm đầu châu Phi ảnh hưởng lớn đến Âu, Á. ông hăng hái tuyên bố: “Bắc Phi là một phần của chúng ta, và chúng ta cũng là một phần của Bắc Phi”. “Mỗi dân tộc châu Phi đều là anh em và láng giềng với nhau thì người ta có bổn phận phải giúp đỡ lẫn nhau.

Lẽ thứ ba là bán đảo Ả Rập có tới 50% dầu lửa trên thế giới (12), mà dầu lửa là nhiên liệu quan trọng nhất ở thời này. Không những sức sản xuất đã mạnh mà phí tổn lại rất thấp, chỉ bằng một phần tám phí tổn ở Hoa Kỳ.

Vừa mới thu hồi được chủ quyền mà Nasser đã chủ trương như vậy, làm cho nhiều người coi cuốn “The Islamic Call” là một loại với cuốn Mein Kamp (Cuộc chiến đấu của tôi) của Hitler và bảo «Nasser với Hitler» một vần. Chẳng ngoa chút nào.

Muốn liên kết các quốc gia Ả Rập thì không có gì bằng thổi bùng lên ngọn lửa căm thù Do Thái.

Một triệu người Ả Rập tản cư ở biên giới Israel, nỗi nhục thất trận năm 1949, những đoạn gay gắt trong Coran và Cựu Ước sẽ là chất hồ kết chặt tình anh em của các quốc gia Do Thái. Các nhà lãnh đạo Iraq, Syrie, Ai Cập đều hiểu như vậy và nhà nào cũng muốn tiếp tục sự nghiệp của Mohamed nhưng chỉ có Nasser là được đa số dân chúng Ả Rập ngưỡng mộ hơn cả, vì ông là một nhà ái quốc vốn ghét bọn thực dân Tây phương, lại là nhã lãnh đạo có tài nhất, can đảm nhất trong khối Ả Rập: Ngay Ben-Gurion cũng phải nhận như vậy:

“Tôi trọng sự thông minh của Nasser, ông ta là nhà lãnh đạo độc nhất của khối Ả Rập được quần chúng và quân đội ủng hộ”.

Vậy Nasser nuôi cái mộng thống nhất Ả Rập. Có kẻ bảo Ai Cập quả nghèo, không có cách nào phú cường được, dù có khuếch trương kỹ nghệ, cải thiện nông nghiệp thì cũng chỉ đủ bù vào sự gia tăng dân số, cho nên Nasser phải thôn tính các quốc gia Ả Rập khác để chia nguồn lợi dầu lửa của họ, và muốn thôn tính thì phải lập được một công lớn gì cho toàn khối Ả Rập, công đó chì có thể là diệt Do Thái.

Nói vậy là không hiểu ông ta, ông ta có cái mộng lớn hơn nhiều: diệt Do Thái, thống nhất Ả Rập, rồi cầm đầu khối thứ ba, chống hai khối Nga, Mỹ nữa, cho nên mấy tháng sau khi cầm quyền, ông đã chống hiệp ước Bagdad (1955) đo Anh, Mỹ ký với Thổ, Iraq, Iran, Pakistan để chống Nga Sô, lấy lẽ rằng nước yếu mà liên kết với nước mạnh thì chỉ để cho họ lợi dụng, sai khiến thôi; rồi kế đó cùng với Nehru, Tito, Soekarno đi dự hội nghị Bandoeng để thành lập khối Á Phi.

Ông biết mộng đó còn xa vời, việc trước mắt là trừ cái ung nhọt Do Thái đã.

* * *
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2013 09:50:56 | Xem tất
Chương 8
(tiếp theo)

Ả Rập khiêu khích, Do Thái phản công

Ngay từ khi hiệp ước 1949 mới ký xong, các quốc gia Ả Rập đã quyết tâm xé bỏ nó rồi.

Thủ tướng Syrie tuyên bố trước quốc hội Damas:

“Không thể quan niệm rằng có hoà bình với Israel. Người Ả Rập không khi nào chịu hoà bình. Chúng ta đã thua keo đầu. Chúng ta sửa soạn keo sau”.

Quốc vương Jordanie, Hassein, cháu nội của Abdallah cũng nói: “Không khi nào có hoà bình mà cũng không thể thương thuyết gì với Israel được!”.

Bộ ngoại giao Ai Cập cũng bảo: “Chúng ta đây ngưng chiến nhưng chúng ta vẫn ở trong tình trạng chiến tranh với Israel”

Và quốc vương Ả Rập Séoudite là Saud cũng hô hào dân chúng: “Phải bứng Israel cho hết rễ đi. Chúng ta hết thảy là 50 triệu người Ả Rập, nếu cần thì hy sinh 10 triệu người để sống yên ổn trong danh dự”.

Nhất là từ khi Nasser lên làm quốc trưởng thì không ngày nào đài phát thanh Le Caire không hô hào các quốc gia Ả Rập khác đoàn kết nhau lại để diệt Israel.

“Ngày cáo chung của bọn Do Thái đã tới!”

“Israel nhất định sẽ bị xoá bỏ trên bản đồ thế giới!”

“Kẻ thù của Ả Rập là Do Thái.

“Phải diệt đế quốc Israel!”.

“Israel là một quốc gia nhân tạo, sẽ bị tiêu diệt!” v.v…

Các đế quốc Âu, Mỹ tất nhiên đổ thêm đầu vô, hoặc ít nhất cũng lợi dụng cơ hội để bán khí giới cho cả bai bên: Israel và Ả Rập.

Lúc đó (1955) Ai Cập muốn nhờ Mỹ cung cấp khí giới, Mỹ ngại Ai Cập diệt được Israel, thống nhất được khối Ả Rập thì những giếng dầu của Mỹ ở bán đảo Ả Rập sẽ khó giữ được, cho nên do dự, đưa ra những điều kiện khó khăn cho Nasser. Nasser đành quay về phía Nga. Nga từ trước vẫn muốn hất chân Anh, Mỹ ra khỏi Ả Rập, nên vui vẻ nhận lời, tức thì khí giới của Tiệp Khắc (chư hầu Nga) tuôn vào Ai Cập, Jordanie, Iraq (trong chiến tranh Israel - Ả Rập năm 1948-1949, Tiệp đã giúp khí giới cho Israel, vì lúc đó có cảm tình với Israel, ghét Anh và phe Ả Rập được Anh giúp đỡ). Israel tất nhiên cầu cứu với Anh, Pháp), và khí giới hai nước này tuôn vào Tel Aviv, nhưng Anh cũng cần giữ cảm tình với Jordanie, Iraq, không quên giúp khí giới cho hai xứ này.

Bên nào cũng có đầy đủ khí giới thì tất nhiên những vụ xung đột ở biên giới tăng lên: ở Gaza, một số dân Ả Rập tản cư đêm đêm lẻn qua cướp đồ đạc, súc vật mà trước kia họ phải bỏ lại. Quân đội Israel bèn tấn công Gaza, giết 46 người lính và thường dân Ả Rập (1955). Ở bờ sông Jourdain, biên giới Israel - Jordanie, cũng xảy ra thường những vụ nổ súng vào nhau. Cuối năm 1955 một đội quân Do Thái vượt hồ Tibériade, qua biên giới Syrie giết 40 người Ả Rập và cầm tù một số khác.

Liên hiệp quốc cố hoà giải nhưng không sao dập tắt được các cuộc gây hấn.

Năm 1955, chính quyền Israel thấy chiến tranh không sao tránh được, phái Golda-Maeyerson mời Ben-Gurion ở sa mạc Neguev về Jérusalem để lãnh chức Bộ trưởng quốc phòng, ông phải xuất chinh lần nữa và ít lâu sau lại được bầu làm thủ tướng. Chúng ta biết ông là người ưa dùng phương pháp mạnh và bao giờ cũng ra tay thước. Lần này ông cũng chuẩn bị rồi chờ cơ hội.

***

Vụ quốc hữu hoá kênh Suez và chiến tranh Ai Cập - Israel 1956

Cơ hội đã tới ngày 26 tháng 7 năm 1966, Nasser tuyên bố quốc hữu hoá kinh Suez, ông bực mình rằng Mỹ đã hứa giúp ông tiền để xây đập Assouan trên sông Nile. Rồi thấy ông mua khí giới của Tiệp Khắc, xích lại phe Nga mà nuốt lời hứa, nên ông quốc hữu hoá sông Suez để lấy tiền xây đập Assouan. Trước một đám đông 250.000 người ở Alexandrie, Nasser bình tĩnh cho quốc dân hay số lời của kinh Suez năm 1955 là 100 triệu Mỹ kim, mà Ai Cập chỉ được hưởng ba triệu; quốc hữu hoá rồi, Ai Cập hưởng hết số tiền, sẽ xây được đập Assouan mà dân Ai Cập sẽ khỏi bị chết đói. “Anh em nghe tôi này: kinh Suez hiện nay là của Ai Cập. Muốn sao thì sao nó cũng sẽ là của Ai Cập”.

Quần chúng gầm lên la hét, cười, nhảy như điên như dại. Dulles (Mỹ), Eden (Anh) và Mollet (Pháp), tím mặt. Họ doạ dẫm, rồi Mỹ vuốt ve, Nasser nhất định không lùi bước.

Vấn đề đưa ra Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (5-10-1956), giải quyết sắp xong (Tổng Thư ký Liên hiệp quốc lúc đó là Hammarskjoeld) thì bỗng có tin một đội quân nhảy dù Do Thái đáp xuống trung tâm bán đảo Sinai rồi chiến xa túa vào Luhtilla. Cả thế giới ngơ ngác không hiệu tại sao. Nhất là khi hay tin đúng vào giờ đó, Mollet và Eden đã gởi tối hậu thư cho Israel và Ai Cập, buộc phải rút lui về 16 cây số, cách hai bờ kinh Suez để cho liên quân Anh - Pháp tới chiếm đóng từ Port Saïd tới Suez mà bảo vệ sự tự do lưu thông trên kinh Suez.

Nguyên do là Anh, Pháp và Israel âm mưu với nhau tấn công chớp nhoáng Ai Cập để hạ bệ Nasser.

Quốc hữu hoá kinh Suez, Nasser chỉ nhắm vào Mỹ, Anh, Pháp chứ không chủ ý hại Israel. Mỹ biết lỗi vì mình ( nuốt lời hứa với Ai Cập về vụ xây đập Assouan), không có quyền lợi gì nhiều ở kinh Suez, mà lúc đó tổng thống Eisenhower lại sắp ra ứng cử lần thứ hai, nên muốn thu xếp vụ đó cho êm.

Anh, Pháp thì trái lại có rất nhiều quyền lợi nên không muốn hòa giải ngầm, chuẩn bị để đập Nasser.

Israel thấy mấy năm nay Nasser hung hăng quá, nắm lấy cơ hội, tự nguyện làm tay sai cho Anh, Pháp để tấn công Ai Cập, lật đổ Nasser, tin chắc rằng lần này thế nào Ai Cập cũng thua tơi bời và Israel sẽ được sống yên ổn. Có lẽ Israel cũng lo rằng kinh Suez mà quốc hữu hoá thì Ai Cập sẽ cấm Israel dùng nó, thiệt cho Israel.(13)

Ben-Gurion bay qua Paris, tiếp xúc bí mật với Guy Mollet, đề nghị Israel sẽ lấy cớ rằng Ai Cập đưa máy bay và xe tăng vào bán đảo Sinai mỗi lúc một nhiều, nguy cho sự an ninh của Israel, mà sẽ tấn công chớp nhoáng, chiếm bán đảo đó, liên quân Anh, Pháp sẽ có một cớ chính đáng, vị tha để can thiệp, ra lệnh cho hai bên Israel và Ai Cập rút quân ra cách bờ kinh 16 cây số. Tất nhiên Ai Cập sẽ không chịu tuân, Anh, Pháp sẽ đàng hoàng đem quân vô chiếm con kinh và Nasser sẽ bị lật đổ và thế giới sẽ mang ơn Anh, Pháp.

Mollet nghe bùi tai, thuyết phục Eden và bộ ba Anh, Pháp, Israel chuẩn bị rất tỉ mỉ, rất khoa học cuộc chiến mà không cho dân chúng hay để giữ bí mật hoàn toàn.

Lúc chiến tranh nổ ra, Mỹ bực tức mạt sát Anh, Pháp, Israel:

“Họ muốn tiến tới kinh Suez ư? Được, nhưng họ phải đi qua Điện Biên Phủ.

Đảng lao động Anh mắng vào mặt Eden:

- Xuẩn động.

Mendès France cảnh cáo Guy Mollet là sẽ chịu những hậu quả bi thảm…

Nassel bình tĩnh ra lệnh cho quân đội rút lui để mặc Israel chiếm bán đảo Sinai, và sai đánh đắm tàu để bít kinh Suez. Cả thế giới bất bình, đứng về phe Ai Cập, tố cáo Anh, Pháp, Israel là đã gây chiến tranh.

Tướng Moshé Dayan, Tổng tham mưu trưởng quân đội Israel đã tổ chức cuộc xâm lăng một cách chu đáo, tỉ mỉ, mọi việc tính trước từng ngày, từng giờ. Ông lại được Pháp phái ba chiến hạm tới trợ chiến ở bờ biển Israel và Sinai, được Anh, Pháp ủng hộ tinh thần, vì quân đội Anh chưa tới kịp, nên chỉ trong sáu ngày chiếm trọn bán đảo Sinai.

Chiều ngày 29-10-1956, một đội nhảy dù đáp xuống Mitla, một nơi cách kênh Suez 60 cây số. Một đạo quân có chiến xa băng qua sa mạc, sáng hôm sau chiếm được Thamed. Một đạo quân nữa chiếm Ras El Nagb, rồi Nakhel, và trợ lực đội nhảy dù ở Mitla. Một đạo quân thứ ba tấn công Kouseima, Abu Ogeila rồi tiến tới Gifgafa, đẩy lủi được quân đội Ai Cập xuất phát từ kinh Suez..

Ở phía Bắc, một đạo quân nữa chiếm thẻo đất Gaza rồi tiến theo bờ biển tới kinh Suez.

Thiết giáp Israel tiến rất mau. Hai bên đánh sát lá cà ở Mitla. Đồn Oumn Shihan và Oumn Kalef chống cự kịch liệt, nhưng khi chiến xa và bộ binh Israel đã chiếm được đồn Rafah, cắt lực lượng Ai Cập ở Gaza, và chiếm được Misfag vào chiều tối ngày 1-11-1956 thì bán đảo Sinai coi như hết chống cự nổi nữa rồi.

Khi trên không phận Sinai không còn phi cơ Ai Cập nữa, Israel tiến theo bờ vịnh Akaba xuống mũi ở phía nam bán đảo. Từ ngày 2-11-1956 chỉ còn những cuộc tảo thanh nho nhỏ. Oumn Shihan đầu hàng và Israel bắt được 700 tù binh.

Cũng ngày hôm đó quân Israel thắng trận Gifgafa và tiến tới bờ kinh. Hôm sau các giếng dầu của Sinai bị chiếm và ngày 5-11, đồn Shaim Elsheik ở phía nam bán đảo hết chống cự.

Tổn thất của Israel rất ít: 180 người chết, vài trăm thương binh, chỉ có một người bị bắt làm tù binh, một phi công bị thương khi máy bay rơi sau trận tuyến Ai Cập. Nhưng tỉ số sĩ quan chết rất cao vì họ can đảm xung phong tới trước.

Ai Cập mới đầu chiến đấu khá hăng, nhưng bị tấn công bất ngờ, trở tay không kịp; sau được lệnh rút lui về phía tây bờ kinh. Truyền đơn trút xuống đầy đường:

“Hỡi dân chúng Ai Cập!

Chúng tôi bắt buộc phải dội bom các người, bất kỳ là các người ở đâu! (…) Các người đã mắc một tội mà các người sẽ phải trả bằng một giá đắt. Các người đã tin và ủng hộ Gamal Abdel Nasser”


Và họ đã dội bom thật, dội bom một cách tàn nhẫn, suốt ngày đêm, dữ dội hơn cả hồi Đức Quốc xã dội xuống London. Nhưng họ càng dội thì dân chúng càng sát cánh với Nasser, dân chúng Anh, Pháp càng chỉ trích chính phủ, không khí tại Liên hiệp quốc càng nghẹt thở, đòi Israel, Anh, Pháp phải ngưng cuộc xâm lăng lập tức.

Thấy Liên hiệp quốc có những quyết định gấp, chính quyền Anh , Pháp càng quýnh lên, thúc quân đội tiến thật mau, để chiếm trọn Ai Cập ít nhất là Le Caire, Alexandrie, Suez và lật Nasser, trước khi quân đội Bảo an của Liên hiệp quốc can thiệp. Hai bộ tham mưu Anh, Pháp lại hội họp với nhau để bàn về chương trình hành quân, chưa kịp quyết định thì có tin Ben-Gurion chịu ngưng chiến.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2013 09:52:35 | Xem tất
Chương 8
(tiếp theo)

Pháp hoảng hốt: Israel và Ai Cập chịu ngưng chiến thì lấy cớ gì để can thiệp bây giờ? Paris đánh điện hỏi Tel Aviv. Ben-Gurion trả lời Guy Mollet rằng người ta hiểu lầm đấy, hai bên thực sự ngưng bắn nhau, nhưng như vậy không phải là Israel đã chịu nhận sự ngưng chiến về phương diện pháp lý.

Mollet thở ra khoan khoái và liên quân Anh, Pháp lại tiến gấp. Sáng ngày 5-11 tấn công Port Saïd. Ở trên không họ thả dù xuống, ở dưới biển họ nã súng lên. Họ đổ bộ, chiếm từng con đường, từng ngôi nhà một. Ai Cập chiến đấu anh dũng. Trẻ con cũng cầm súng, phụ nữ, thì tiếp tế khí giới.

Mục tiêu của Anh Pháp là chiếm xong Port Said rồi chiếm hai bờ kinh Suez một cách chớp nhoáng, khi Liên hiệp quốc can thiệp thì đã trễ, việc đã xong và có lẽ Nasser cũng bị lật rồi nữa.

Liên hiệp quốc nổi dóa: sẽ mất mặt thôi. Ngày 5-11-1956, Nga đòi các nước phải hợp lực nhau nhất là Nga và Mỹ để chặn đứng “ba tên giặc” đó lại, đừng để cho chúng bôi nhọ cơ quan tối cao của thế giới. Nga tự nguyện sẽ đem không quân và hải quân lại Ai Cập. Đại biểu các nước khác, còn phân vân: “như vậy là tưới thêm dầu vào lửa, chứ không cứu vãn được hoà bình”, thì đại biểu Nga doạ:

- Có thể vụ này gây ra chiến tranh đấy, các ông chịu lấy trách nhiệm với nhau.

Rồi ôm cặp ra về, sau khi phân phát cho mỗi hội viên một bản sao ba bức tối hậu thư của Bulganin gởi cho Mollet, Eden và Ben-Gurion.

Nửa đêm hôm đó Mollet đọc:

“Châu thành và làng mạc Ai Cập bị dội bom một cách dã man… Nước Pháp sẽ ở trong tình trạng ra sao nếu bị những khí giới, ghê gớm của các nước khác tàn phá? Tôi cần cho ông hay rằng…”

Eden đọc:

“Nếu hoả tiễn dội xuống Anh và Pháp thì các ông cho như vậy là dã man: Nhưng hành động của các ông ở Ai Cập hiện nay có khác gì không?”.

Còn Ben-Gurion thì tái mặt:

“Các ông đã tuân lệnh người mà hành động như nhưng kẻ sát nhân mà coi thường sinh mạng dân tộc ông. Tương lai quốc gia Israel lâm nguy đấy? Đại sứ Nga ở Tel Aviv đã được lệnh về Moscow liền”.

Eden và Mollet hỏi nhau, ngờ vực không rõ Nga muốn làm thật hay chỉ doạ già.

Pháp hăng máu nhất, bất chấp tối hậu thư. Anh rụt rè hỏi Mỹ, Mỹ đáp:

- Nếu cứ ương ngạnh giữ thái độ đáng tội đó thì đừng mong chúng tôi giúp nữa. Ngưng chiến ngay đi!

Lúc đó Pháp mới hoảng: Chính phủ Pháp tuyên bố với dân chúng rằng số dầu, xăng dự trữ trong nước đủ dùng trong bốn tháng mà sự thực chỉ đủ dùng có nửa tháng. Kinh Suez đã bít ba bốn ngày rồi, không một quốc gia Ả Rập nào chịu bán xăng cho Anh, Pháp nữa. Chỉ còn mười ngày nữa là hết xăng; các nhà máy, xưởng hãng, xe hơi, phi cơ lấy gì mà chạy, thợ thuyền sẽ thất nghiệp hết, kinh tế Pháp sụp đổ. Nếu Mỹ mà không giúp thì chết chắc chắn. Lúc này mới thấy xăng là máu của quốc gia và vì nó mà minh phải lệ thuộc Mỹ nhiều quá.

- Nếu Nga tấn công thì Mỹ có bênh vực không?

Mỹ trả lời chỉ bênh vực Anh, Pháp trong trường hợp Nga dội bom hay bắn lên chính địa phận của Anh, Pháp: Còn nếu Nga dội bom hay bắn vào quân đội Anh, Pháp ở Ai Cập thì Mỹ không thể can thiệp được.

Eden toát mồ hôi. Suốt đời chính trị của ông, chưa có lần nào khổ tâm, nhục nhã như vậy. Ấn Độ doạ rút ra ngoài Cộng đồng thịnh vượng, Tích Lan sẽ theo chân. Cả khối Ả Rập chửi rủa ông: Dân chúng la ó ông. Một nghị sĩ đảng Lao động bảo ông:

- Nếu chính phủ muốn áp dụng luật rừng rú, thì chính phủ nên nhớ rằng Anh và Pháp không phải là những con thú mạnh nhất trong rừng đâu. Còn nhiều mãnh thú nguy hiểm hơn nữa đương rình ở chúng quanh đấy!”

Ông ta ăn không được, ngủ không được, mắt hõm xuống; chân tay lẩy bẩy, bệnh trái mật tái phát hành hạ suốt đêm ngày, ông ta hào hển bảo Mollet:

- Tôi chịu không nổi nữa. Mọi người bỏ rơi tôi. Các cộng sự viên của tôi, từ chức hết rồi, một vạn người biểu tình ở Trafangar Square đòi tôi về vườn. Ấn Độ, Tích Lan, Canada, Úc đòi tuyệt giao: Mỹ không chịu cung cấp dầu lửa cho tôi nữa. Đồng Bảng chắc phải phá giá thôi. Ghê gớm quá!

Mollet năn nỉ:

- Chỉ còn chút xíu nữa là tới đích mà bỏ dở thì tức chẽt đi được. Gắng lên, ông bạn. Nga doạ già đấy mà. Họ có làm thật thì cũng phải chuẩn bị ít nhất là vài ngày chứ. Chúng mình chỉ cần 48 giờ nữa là chiếm trọn kinh Suez.

• Không, tôi buông xuôi. Tôi đã ra lịnh 19 giờ phải ngưng bắn.

Mollet nói riết, Eden mới chịu hoãn thêm vài giờ nữa và quyết định là đúng 23 giờ 59phút thì ngưng bắn, không được kéo đài thẻm một phút nào nữa.

Mollet liền đánh điện cho Tham mưu trưởng ở Ai Cập:

- Có lẽ sắp có lệnh ngưng bắn vào 24 giờ ngày 6-111. Vậy phải chiếm đất cho thật nhiều vào: Mà lệnh đó là lệnh ngưng bắn chứ không nhứt định là phải ngưng tiến.

Nghĩa là tới 24 giờ ngày 6-11 còn tiến được mà không phải bắn thì cứ tiến, tiến cho thật mau, chiếm được càng nhiều đất càng tốt!

Sáng hôm 6-11, tướng Anh cho đổ bộ lên Port Said rồi liên quân Anh, Pháp tiến theo bờ kinh Suez:

Nhưng tới 14 giờ 22 phút, Mỹ nhận được tin “mật” này:

“Phản lực cơ bay trên không phận Thổ. Không quân Thổ ở trong tình trạng báo động”

Phản lực cơ nào đây mà bay trên đất Thổ? Rồi tiếp hai tin nữa:

“Từ Syrie có khoảng 100 chiếc phi cơ Mig 15 và 100 thiết giáp xa tiến vô cõi”.

“Từ Chypre: Một phi cơ Anh bị hạ ở trên cao 13.500 thước”.

Đích thị là Nga rồi, còn ai vào đây nữa?

Anh cũng nhận được tin:

“Từ Chypre, radar báo rằng có phi cơ bay rất cao ở trên đảo”.

Pháp cũng nhận được:

“Nga xin Thổ cho phép 5 chiến hạm qua eo biển Dardanelles”

“Tin mật: Có 6 tiềm thủy đỉnh Nga. Ở Alexandrie và khoảng 250 người nhái”.

Đúng là Nga làm thật chứ không phải doạ già.

Nguy quá. Anh, Pháp vội đánh điện, cho Tổng tư lệnh quân đội của mình ở chiến trường Ai Cập, bảo phải ngưng bắn đúng 23 giờ 59 phút, không được trái lệnh. Ngày hôm đó họ rán tiến thật mau, nhưng Pháp cứ phải chờ Anh, không dám tiến một mình vì không dám nhận trách nhiệm một mình, mà Anh thì chậm chạp, trục trặc nhiều chuyện. Khi được lệnh ngưng bắn, họ bực tức không hiểu tại sao chỉ còn có 24 giờ nữa là chiếm trọn kinh mà phải ngừng? Và đúng 23: giờ 59 phút, hai đoàn chiến xa tới cây số 147 trên kinh Suez rồi ngừng lại y như “chết giấc” vậy, họ mới tới El Cap, tiến được phần tư đường!

Sau này Anh, Pháp mới hay rằng những “tin mật” đó do một kẻ nào đó loan bậy ra, các bộ Tham mưu của họ hoảng hốt mắc mưu hết! Uổng quả! Chỉ còn 24 giờ nữa!

Nhưng quả thật là Khroushchev đã thành lập một đạo quân tình nguyện gồm 500 phi công và 100 viên chỉ huy biệt động quân, hết thảy đều là những người theo Hồi giáo để qua cứu Ai Cập.

***

Hậu quả của 8 ngày chiến tranh.

Thế là chiến tranh chớp nhoáng nhất trong lịch sử đã kết liễu: trước sau chỉ có tám ngày: từ 17 giờ ngày 29-10 đến 24 giờ ngày 6-11-1956. Quân sĩ Anh, Pháp hận rằng không tiến được tới đầu kinh, nhưng dầu có tiến tới thì cũng vô ích. Người ta sẽ không để cho họ chiếm kinh, họ không còn là cường quốc nữa, mà khắp thế giới, ngay dân chúng họ nữa, kịch liệt mạt sát họ. Cho nên khi Liên hiệp quốc ra lệnh bắt Israel trở về biên giới cũ, bắt Anh, Pháp rút hết quân đội thì Anh, Pháp răm rắp tuân theo, Israel cự nự một chầu, Mỹ doạ cúp “viện trợ”, Ben-Gurion phải cúi đầu.

Đại diện của Israel ở Liên hiệp quốc đưa ra lý do: mấy năm nay các quốc gia Ả Rập không thi hành đúng hiệp ước đình chiến năm 1949, cứ khiếu khích hoài, Israel mấy lần yêu cầu Liên hiệp quốc can thiệp, Liên hiệp quốc không giải quyệt được gì cả, cho tới khi Israel thấy khí giới và quân lính Ả Rập tiến Sinai nhiều quá nguy cho Israel nên Israel phải đảm nhận lấy việc tự vệ. Họ còn nói thêm:

“Từ thượng cổ tới giờ, từ chiến tranh Péloponese, quốc gia nào bị khiêu khích cũng phải phản ứng lại như chúng tôi đã phản ứng, và nhiều khi bằng những phương pháp cương quyết hơn chúng tôi nữa. Ngay như Hoa Kỳ năm 1916, cũng đem quân chính quy tiêu diệt bọn cướp Mễ Tây Cơ quấy phá biên giới Hoa Kỳ kia mà.

Giải thích gì thì giải thích, không ai chấp nhận được luận điệu của họ và rốt cuộc Liên hiệp quốc đã buộc họ phải rút quân về biên giới.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2013 09:54:18 | Xem tất
Chương 8
(tiếp theo)

Ben-Gourion khen Nasser thông minh cũng phải: Nasser chỉ khiêu khích để Israel phải ra tay trước mà lỗi về cả Do Thái. Lỗi về Ben-Gourion đã tính sai một nước cờ, ông đã làm cho khối trung lập, khối Á Phi mất hẳn cảm tình với quốc gia ông. Mấy năm sau Bộ Ngoại giao Israel sai sứ giả đi thăm các nước châu Á để xin thắt chặt lại tình giao hảo; Nehru làm thinh và đứng về phe các quốc gia Ả Rập. Duy có Miến Điện là tỏ chút lòng thông cảm, năm 1959 mời Tổng thống Ben-Zvi qua chơi. Tất cả các quốc gia Ả Rập đều thêm căm thù Israel, và sự xung đột càng gay gắt hơn nữa, chủ trương thống nhất các quốc gia Ả Rập càng thêm vững vàng. Danh của Nasser vang khắp thế giới. Mọi nước gởi lời chức tụng. Các dân tộc Ả Rập coi ông là một vị danh hùng rửa nhục cho họ, thắng được cả Anh, Pháp. Ở Ả Rập Séoudite Syrie, Jordanie đâu đâu cũng thấy hình ảnh Nasser.

Anh mất hết cảm tình của dân Ả Rập, bị Mỹ hất cẳng ở bán đảo Ả Rập. Pháp bị thiệt hại rất nặng: bao nhiêu công trình kinh doanh và xây dựng văn hoá ở Ai Cập trong một thế kỷ rưỡi, nhất đán sụp đổ hết, không còn vớt vát được chút gì cả.

Ngay các công ty Ý, Thuỵ Sĩ, Hy Lạp cũng bị hại lây: họ bắt buộc phải dùng nhân viên Ai Cập trong mọi nhiệm vụ và lần lượt các xí nghiệp ngoại quốc đều bị quốc hữu hoá hết. Nhưng ảnh hưởng lớn nhất là địa vị của Nga ở bán đảo Ả Rập hoá ra quan trọng, mấy chục triệu dân Ả Rập bỗng có cảm tình với Nga. Bán đảo Ả Rập sau thế chiến thứ nhất bị Anh thao túng, quyền lợi của Pháp ở đó kém xa của Anh, Mỹ không có gì, Nga chưa mon men tới được.

Cuối thế chiến thứ nhì, tổng thống Roosevelt o bế được quốc vương Ả Rập Séoudite là Ibn Séoud Arabia và Mỹ được quyền khai thác nhiều giếng dầu rất phong phú, bắt đầu hất chân được Anh, muốn thay thế Anh ở Ai Cập nhưng vì vụng xử, làm Nasser nổi quạu, và Nasser quay về phía Nga.

Nga đã từ lâu muốn mở rộng phạm vi tới bán đảo Ả Rập không phải vì ham các giếng dầu (Nga có dư dầu lửa để dùng rồi) mà vì muốn thu phục chư hầu mà bao vây Tây Âu, tranh giành ảnh hưởng với Mỹ. Nhờ một chính sách khôn khéo, ngược hẳn với chính sách Mỹ - Kremlin dùng kinh tế của Nga để phục vụ chính trị, chứ không như Bạch Cung dùng chính trị để phục vụ kình tế của mình. Nga đã thắng Mỹ một keo rực rỡ năm 1956.

Mỹ vội vàng tìm cách gỡ. Tổng thống Eisenhower, ngày 5-1-1957 liền họp Quốc hội để trình bày một chính sách mới mà người ta gọi là “chủ nghĩa Eisenhower”.

Ông tuyên bố rằng không thế nào để cho các Thánh địa Tây Á ở dưới quyền một cường quốc chủ trương thuyết duy vật vô thần được. Vậy ông xin quốc dân cho ông cái quyền được giúp đỡ các nước Tây Á giữ được sự độc lập của họ, quyền đưa quân đội Hoa Kỳ tới các nước đó để bảo vệ họ nếu họ ngỏ lời xin Mỹ giúp. Muốn cho sự can thiệp của Mỹ được mau chóng, ông xin được toàn quyền sử dụng một ngân quỹ riêng cho tới số tiền 200 triệu Mỹ kim mà khỏi hỏi ý kiến lưỡng viện.

Đề nghị của ông được chấp thuận và sự can thiệp của Mỹ vào bán đảo Ả Rập từ đây hoá ra mau lẹ, trực tiếp. Eisenhower mời quốc vương Ả Rập Séroudite, tức vua Saud qua Washington, tiếp đãi rất niềm nở, y như Tổng thống Roosevelt đã tiếp đãi vua Ibn Séoud, thân phụ của Saud. Eisenhower tặng Saud 250 triệu Mỹ kim, một số khí giới và để đáp lại, Saud để cho Mỹ sử dụng phi trường Dahran thêm năm năm nữa, và hứa về Tây Á sẽ thuyết phục các quốc trưởng Ả Rập khác đứng về phe Mỹ.

Về tới Le Caire, ông ta trình bày «chủ nghĩa Eisenhower» cho Nassel, Choukly Kouatly và Hussein nghe.

Nasser mỉm cười bảo:

- Chủ nghĩa của Eisenhower có điểm sai, ông ta bảo Pháp Anh rút rồi, có một “khoảng trống” ở Tây Á. Làm gì cho khoảng trống, mà giả sử có chăng nữa thì nhiệm vụ lấp khoảng trống đó thuộc chúng mình chứ?

Choukry Kouatly tiếp lời:

- Chính quyền Syrie đã có thái độ dứt khoát về vấn đề đó rồi: không để cho một cường quốc nào can thiệp vào việc nội bộ của chúng ta.

Hussein, quốc vương Jordanie, rụt è đưa ý kiến:

- Đề nghị của Mỹ có lợi là bảo đảm cho chúng mình khỏi bị cộng sản quốc tế hiếp đáp.
Nasser đáp:

- Nga chưa bao giờ tấn công mình cả. Giá chủ nghĩa Eisenhower bảo đảm cho mình khỏi bị mọi cuộc tấn công bất kỳ từ đâu thì là chuyện khác. Nếu Anh, Pháp, hoặc Israel lại tấn công mình nữa thì Mỹ sẽ làm gì? Không thấy chủ nghĩa Eisenhower nói gì về điểm đó?

Choukry Louatly nói thêm:

- Nga có tấn công nước nào ở bán đảo, này thì nước đó chỉ có thể là Israel. Vậy theo chủ nghĩa Eisenhower lúc đó mình sẽ bênh vực Israel à?

Saud không thuyết phục được Ai Cập và Syrie.

Hai nước này, tháng 2 năm 1958, liên kết với nhau chặt chẽ hơn nữa, thành lập nước Cùng hoà Ả Rập thống nhất: Nasser làm tổng thống, cựu thủ tướng Syrie là Sabri El Assali làm phó tổng thống. Yemen, Ả Rập Séoudite có cảm tình với Nasser và Nasser hy vọng sau sẽ liên kết thêm được Jordanie, Soudan, Iraq, có lẽ cả ba xứ Tunisie, Algérie, Maroc ở Bắc Phi nữa.

Nhưng chính sách đô-la của Mỹ cũng lợi hại lắm: dần dần, Jordanie chống ông, Syrie cũng ly khai, Ả Rập Séoudite và Yemen lơ là: có lẽ một phần cũng vì ông vụng về.

Lúc đó tình hình ở bán đảo Ả Rập như sau:

Ảnh hưởng của Nga ngừng lại, ảnh hưởng của Mỹ vẫn mạnh. Nga bênh vực Ai Cập, Mỹ bênh vực Israel một cách kín đáo vì vẫn phải lấy lòng các quốc gia khác: Jordanie, Ả Rập Séoudite, Iraq, Liban. Khối Ả Rập vẫn chia rẽ, mặc dầu họ vẫn không quên mối thù chung là Israel, và Nasser vẫn phải nhắc nhở hoài các dân tộc Ả Rập: “Cuộc chiến đấu của chúng ta chưa chấm dứt, chúng ta có cả một quãng đường dài nữa. Phải lánh xa những kẻ nào chia rẽ chúng ta, vì độc lập mà không đưa tới sự đoàn kết thì thứ độc lập đó không đáng kể gì cả”.

Tóm lại chiến tranh 1956 không giải quyết được vấn đề Ả Rập - Israel; chỉ làm cho nó thêm rắc rối và từ nay nó trở thành một vấn đề quốc tế, có Nga Mỹ xen vô. Ít năm sau thêm cả Trung Cộng nữa vì Mao Trạch Đông vẫn muốn lãnh đạo phong trào cách mạng của các nước nhược tiểu Á-Phi, tranh giành ảnh hưởng với Nga Sô, cũng giúp đỡ Ai Cập khí giới, huấn luyện các đội quân phục kích, phá hoại cho Ai Cập.

Vậy sau bốn nguyên nhân xung đột đã kể ở đầu chương, chúng ta có thể thêm nguyên nhân này nữa: sự tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc.

Chú thích:

1- Theo tài liệu mới đăng trong tạp chí Missi tháng bảy 1961 thì tình trạng của họ nay đã khá một chút; nhưng 40% vẫn phải sống nhờ trợ cấp, mà họ sinh sản rất mau, mỗi nâm có 37.000 trẻ em ra đời, thành thử Liên Hiệp Quốc vẫn phải chịu một gánh nặng.

2- Pierre Gerbet - Les organisations internationales - P.U.F.

3- Gamal Nasser et son équipe – Julliard

4- Genèse

5- Exode mà ở trên, trong vụ tàu Exodus tới dịch là Di cư.

6- Deutéronome

7- Livre des nombres

8- Prophète

9- Coi chương VI phần III cuốn Bán đảo Ả Rập của Nguyễn Hiến Lê 1969.

10- Georges Vaucher, Sách đã dẫn trang 165.

11- Theo bản dịch của Françoise Musar trong Israel, miracle du XXe (Editions Téqui)

12- Ngày nay các chuyên viên Âu Mỹ cho rằng con số đó còn thấp quá. Tây Á và Bắc Phi có 80% dầu lửa trên thế giới.

13 - Coi chương XV cuốn Bán đảo Ả Rập của Nguyễn Hiến Lê

14 – Trong Le roi Saud của Benoist Méchin Albin Michel - 1969
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2013 16:15:29 | Xem tất
Chương 9
Chiến tranh thứ ba năm 1967 giữa Israel và Ai Cập

Tình hình phía Ả Rập

Lịch sử chính trị của bán đảo Ả Rập từ thế chiến thứ nhất, đặc biệt là trong hai chục năm gần đây rối như bòng bong: Các cường quốc tuôn tiền bạc, khí giới vào, ngầm đưa mật vụ vào - bọn này cải trang thành các kỹ sư,con buôn, các nhà khảo cổ tu hành… mua chuộc nhóm này nhóm khác, gây không biết bao nhiêu âm mưu xuất quỉ nhập thần, không biết bao nhiêu cuộc ám sát, đảo chánh, không phải là nhà chính trị chuyên môn về vấn đề Ả Rập thì không sao theo dõi cho kịp để dò được manh mối. Dân chúng Ả Rập đa số thiếu học, dễ tin, cuồng nhiệt, còn nhà cầm quyền thì đa số có tham vọng, thiếu kinh nghiệm mà lại dư thủ đoạn, độc đoán, tàn nhẫn, cho nên bán đảo đó là một đất lý tưởng cho các chính khách phương Tây tranh tài.

Như chương trên tôi đã nói, năm 1958, uy thế của Nasser bắt đầu xuống: mặt trận Ả Rập thống nhất của ông gồm có Ai Cập và Syrie; Iraq và Jordanie thành lập một liên minh Ả Rập để chống lại. Tức thì xảy ra không biết bao nhiêu cuộc xáo trộn kinh khủng: nổi loạn xảy ra ở Liban giữa phe thân Nasser và phe thân Tây phương. Rồi quốc vương Iraq là Faycal bị hạ sát ở Bagdad hôm trước thì hôm sau, vị thủ tướng của ông là Noury Said, thân Tây phương cũng bị giết. Liban cầu cứu với Mỹ và Mỹ cho thả lính nhảy dù xuống Amman, kinh đô Jordanie.

Khrushchev liền can thiệp, hội đàm với Eisenhower, và thủ tướng Liban phải từ chức, tình hình bớt căng thẳng. Nhưng Yemen lại lộn xộn vì Ả Rập Séoudite (ta nên hiểu là Washington và London) tranh giành ảnh hưởng với Ai Cập (hiểu là Moscow). Yemen là xứ quá nhỏ, nên các cường quốc chỉ ủng hộ ngầm tiểu đồng minh của mình thôi, không đến nỗi xích mích quan trọng. Trong khi các quốc gia Ả Rập mải nói chuyện với nhau,: Israel lo kiến thiết, củng cố lực lượng, thừa cơ tháo nước sông Jourdain để dẫn vào các miền khô cháy của họ. Ả Rập phản kháng, doạ dẫm cũng vô hiệu.

Các vụ xung đột ở biên giới xảy ra như cơm bữa và lần nào quân đội Israel cũng “ra tay” một cách cương quyết:

Năm 1964, khối Ả Rập rất chia rẽ về vấn đề Israel: Tunisie ôn hoà nhất, muốn dùng chính sách ngoại giao: Syrie kịch liệt nhất, chỉ đòi dùng võ lực; Ai Cập trung dung đề nghị cứ tạm giữ hiện trạng mà chuẩn bị chiến tranh cho kỹ đã. Để hoá giải hai chủ trương kia, Nasser thành lập một cơ quan giải phóng Palestine mà người cầm đầu là Ahmed Choukeiri: Cơ quan có mục đích quấy rối các miền có dân tản cư Ả Rập tức ở Gaza (400.000 dân tản cư trên một thẻo đất nhỏ độ 300 cây số vuông) và Jordanie, trên một biên giới đài 350 cây số. Cơ quan đóng bản dinh ở Jérusalem, có rất nhiều tiền vì hầu hết các quốc gia Ả Rập đều phải đóng góp một thứ thuế gọi là “thuế hồi hương”, nhờ vậy chỉ trong hai năm thành lập được một đạo quân 16.000 người được Trung Cộng huấn luyện và cung cấp khí giới.

Choukeiri có hồi qua thăm Bắc Kinh, được Chu Ân Lai tiếp đón niềm nở, coi như một lãnh tụ Ả Rập nên về Jérusalem ông ta hăng say, đòi mở cuộc thánh chiến, diệt Israel và tuyên bố “sẽ sẵn sàng bắn phát súng đầu tiên”. Nasser thấy Choukeiri đi quá trớn, vội vàng cải chính, nhưng đã quá trễ.

Tình hình vì vậy mà cực kỳ căng thẳng. Cuối năm 1966, một xe vận tải Israel trúng mìn tại biên giới Jordanie, hôm sau, Israel trả đũa, phá tan một đồn cảnh sát Jordanie, hạ được một phi cơ Jordanie, kết quả: phía Jordanie có 18 người chết và 134 người bị thương.

Nửa tháng sau hai phi cơ MiG-19 của Ai Cập bị hạ ở gần Beerotayim (Israel); Nasser không phản ứng nhưng tố cáo chính quyền Ả Rập Séoudite và Jordanie là nhu nhược.

Kế đó, đạo quân Choukeiri quấy phá biên giới Israel ở phía Syrie; Israel tấn công, hạ 6 phi cơ MiG-21 của Syrie. Syrie uất ức đòi Nasser phải giữ điều ước liên minh quân sự mà giúp đỡ mình.

Ở phía Liban, quân Choukeiri cũng bắn súng cối qua một kibboutz của Israel.

Qua tháng 5 năm 1967, hai bên Israel và Ai Cập đều chuẩn bị chiến tranh.

Sau chiến tranh 1956, do yêu cầu của Ai Cập, Liên hiệp quốc phái 400 quân mũ xanh đóng ở Sinai và Gaza để ngăn các cuộc gây hấn của Israel. Trong hiệp ước có nói rõ rằng nếu một trong hai bên (Ai Cập hoặc Israel) phản đối thì đội quân đó sẽ rút ra. Năm 1967, Nasser dựa vào điều khoản đó đòi họ rút đi, thâm ý là muốn khiêu khích Israel để gây chiến. Tổng thư ký Liên hiệp quốc là U Thant có lẽ hiểu nguy cơ đó, nhưng đành phải giữ đúng hiệp ước. Người ta trách ông quyết định vội vàng, không hỏi ý kiến Hội đồng bảo an. Quân mũ xanh đi, quân đội Ai Cập tới thay thế.

Nassel lại muốn phong toả eo biển Tiran, trong vịnh Akaba, ngăn các tàu Israel tới Elath, cửa ngõ của Israel trên Hồng Hải. Từ mười năm qua kinh Suez bị cấm, Liên hiệp quốc bảo đảm cho Israel dùng hải cảng đó để giao thông với phương Đông. Dầu lửa chở tới Elath, đưa lên xe tải rồi do con đường xa lộ rất tốt Beetcheva người ta gọi con đường này là “kinh Suez cạn của Israel” mà vận chuyển lên Haifa, bị chặn ở phía đó, Israel như bị cắt mất một lá phổi.

Thế là chiến tranh không thể tránh được.

Ngày 20-5-1967, bốn ngàn giáo đường Ai Cập gọi tín đồ dự cuộc Thánh chiến. Ở Gaza, 12.000 quân Choukeiri và một số Fedayin (cảm tử quân), tiến lại sát biên giới Israel. Sứ thần Trung Cộng tới thăm Choukeiri. Ngày 23-5-1967, Nasser tuyên bố phong toả vịnh Akaba.

Ở Washington, Johnson lên tiếng cảnh cáo rằng Ai Cập làm cho tình hình ở Tây Á nguy hiếm và phải chịu trách nhiệm. Tức thì Moscow đáp lại: “Kẻ nào dám xâm lăng Tây Á sẽ đụng phải lực lượng của liên minh Ả Rập và sự kháng cự của Nga Sô”.

Được Nga làm hậu thuẫn, Nasser hoàn toàn vững bụng. Jordanie vốn thân Tây phương, Nasser đưa người vào, quấy rối, tính lật đổ ngai vàng của Hussein. Xứ đó nhỏ và nghèo, chỉ có một triệu rưỡi dân mà nửa triệu là những người Ả Rập Palestine tản cư qua “lúc nào cũng chỉ ngong ngóng có thánh chiến” để hồi hương, cho nên trong nước không bao giờ yên, ngai vàng lúc nào cũng lung lay. Husseìn phải đối phó với ba cuộc đảo chính, dẹp hai cuộc cách mạng, nhờ can đảm và lanh trí mà mười lần thoát chết (2). Ông vua trẻ đó, hồi lên ngôi mới mười bảy tuổi, đáng là dòng dõi Mohamed, ông viết một cuốn sách nhan đề “Làm vua khó thay” (Il est difficile d’e6tre roi – Buchet Chastel – Paris – 1962), trong đó ông tâm sự bằng một giọng thành thực và cảm động.

Từ khi Choukeri lập bản doanh ở Jérusalem, Hussein uất ức vì bị Choukeiri lấn át, nhưng ông không dám phản đối. Bây giờ Nasser đưa quân vô nói là để bảo vệ Jordanie, Hussein biết rằng tính mạng mình lâm nguy, đành phải nuốt hận, thân hành qua Le Caire ký một hiệp ước liên minh, đứng về phe Ả Rập thống nhất.

Vậy là Nasser đã vừa ngoại giao, vừa dọa dẫm, thực hiện được sự thống nhất của khốì Ả Rập. Đầu tháng sáu 1967 hiện có tới mười hai quốc gia Ả Rập đứng sau lưng Ai Cập, tám quốc gia sẵn sàng gởi quân đội qua khi có chiến tranh với Israel: Algérie, Maroc, Kuwait, Yemen, Iraq, Soudan, Jordanie, Syrie; bốn quốc gia kia: Ả Rập Saudi, Tunisie, Lybie, Liban chỉ tỏ tinh thần đoàn kết về chính trị thôi. Ngoài ra hai xứ Hồi giáo nhưng không phải là Ả Rập: Thổ Nhĩ Kỳ và Pakistan ở xa ủng hộ về tinh thần. “Chúng tôi hết thảy đứng về phía Nasser”.

Nasser thấy chưa bao giờ tình hình thuận tiện như vậy

- Về phương diện ngoại giao, Israel có Mỹ và Anh làm hậu thuẫn, nhưng Ả Rập có Nga và Tiệp Khắc. Pháp cung cấp phi cơ Mirage cho Israel nhưng ngày 2-6-1967, tổng thống De Gaulle tuyên bố trung lập và bảo rằng nước nào nổ súng đầu tiên sẽ không được Pháp tán thành, chứ đừng nói là ủng hộ. Vậy là hậu thuẫn hai bên ngang nhau.

- Về phương diện dân số, Ả Rập gồm bảy chục triệu, Israel chỉ có hai triệu rưởi.

- Về phương diện quân số: Ai Cập có 270.000 quân đã tập trung ở bán đảo Sinai 100.000 quân; Syrie đã tập trung ở biên giới bắc Israel 60.000 quân; Jordanie cũng có 60.000 quân do một tướng Ai Cập chỉ huy; Liban cũng có một đạo quân nhỏ; Iraq, Algérie, Kuwait đã gởi những đoàn quân tượng trưng qua. Quân hậu bị của các nước này còn rất nhiều. Vậu quân số nhất định là hơn Israel. Sĩ tốt Ai Cập lại được Nga và Trung Cộng huấn luyện kỹ càng.

- Về vũ khí, trong mười năm nay, Nga, Tiệp Khắc đã cung cấp cho Ai Cập năm trăm phi cơ MiG-17, MiG-19, trực thăng… 1.300 chiếc xe thiết giáp, 175 dàn hoả tiễn, 12 tiềm thủy đỉnh, 7 khu trục hạm. Syrie và Iraq cũng có khoảng 206 phi cơ, 700 xe thiết giáp…

Vậy Nasser tin phần thắng tất về Ả Rập, và đài phát thanh Le Caire không ngớt tuyên bố:

“Hai gọng kìm Egypte và Syrie đã xiết chặt vào cổ Israel”

“Tám họng súng Ả Rập đã chĩa vào Israel”.

“Quân đội chúng ta sẵn sàng giải phóng Tel Aviv”

“Chiến tranh lần này sẽ là chiến tranh toàn điện và mục tiêu của chúng ta là diệt Israel”.

Nhưng lần này Nasser đã tính sai hai nước cờ:

Sự đoàn kết của các quốc gia Ả Rập chỉ có bề ngoài; sau mười chín năm, từ chiến tranh đầu tiên với Israel năm 1948, sự thống nhất hoạt động binh bị vẫn chưa thực hiện được ở phía Ả Rập, tinh thần chiến đấu của các quốc gia không đều nhau, có những đội quân miễn cưõng ra trận.

Nasser tưởng như thế nào Nga cũng can thiệp, nhưng lạ lùng thay, Nga không can thiệp, đứng ngoài ngó Israel đánh quị các lực lượng Ai Cập rồi quay trở lại hạ nốt lực lượng Jordanie, Syrie. Mãi đến phút chót, khi khắp thế giới thấy Israel đã toàn thắng, Nga mới lên tiếng hão. Thành thử Mỹ có hạm đội thứ sáu ở Địa Trung Hải cũng chẳng cần phải can thiệp. Hai đế quốc anh chị đã thoả thuận ngầm với nhau rằng phen này để mặc bọn đàn em đọ sức, mình không nên xen vào. Điều lạ lùng nhất là thái độ không can thiệp đó của Nga, Nasser không đoán ra mà Israel lại biết chắc từ trước, ông Louis Garros trong bài báo đã dẫn bảo rằng “tất cả chính sách của Israel đã dựng trên sự tin chắc đó: Nga sẽ không can thiệp”.

Kết quả là Israel còn thắng lợi to hơn lần trước, làm cho cả thế giới ngạc nhiên một lần nữa.

Lần trước họ chiến đấu chung với Anh-Pháp, lần này họ chiến đấu một mình; lần trước họ chỉ tấn công Ai Cập, lần này họ chiến đấu trên ba mặt trận: Ai Cập, Jordanie, Syrie; lần trước họ mất một trăm giờ để vượt bán đảo Sinai, lần này họ chỉ mất có tám mươi bốn giờ, thực ra sau ba giờ đầu tiên của chiến dịch (ngày 5-6-1967), cán cân lực lượng đã chúc hẳn về phía họ, vì họ đã diệt được gần hết lực lượng không quân của Ai Cập, hoàn toàn làm chủ không phận trên chiến trường, rồi mấy ngày sau đánh tan lực lượng liên minh Ả Rập.

Thật là một kỳ công.

Danh tiếng của độc long tướng quân Moshe Dayan (lần này làm Bộ trưởng quốc phòng) lại càng vang lừng, thậm chí một nghị sĩ Mỹ đã nói đùa rằng phải mời ông qua điều khiển các cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nghe đâu như mấy năm trước đã có lần vi hành qua nước ta, thăm các mặt trận, nhưng chắc ông không rút được nhiều kinh nghiệm mà người Mỹ cũng chẳng học gì được nhiều của ông vì chiến tranh ở hai nơi tính cách khác nhau, nên chiến thuật phải khác nhau, phương pháp tấn công chớp nhoáng của ông trên sa mạc, làm sao có thể áp dụng được ở rừng núi và đồng ruộng Việt Nam.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2013 16:17:31 | Xem tất
Chương 9
(tiếp theo)

Phía Israel

Những tài liệu trên về lực lượng của khối Ai Cập chúng tôi rút trong cuốn “La guerre de six jours” của Samuel Seguev (Calman Levy 1967), một ký giả Do Thái đã tham dự chiến tranh 1956 và theo dõi chiến tranh 1967. Về phía Israel, chúng tôi biết đại lược rằng quân số vào khoảng từ 250.000 tới 300.000 người.

Đêm 23-5-1967, khi Ai Cập phong tỏa eo biển Tiran ở cửa vịnh Akaba, ông Lévi Eshkol, thủ tướng kiêm Bộ trưởng quốc phòng (3) của Israel liền họp nội các hồi 4 giờ sáng để quyết định thái độ. Toàn thể nội các đồng ý rằng phải phản ứng liền, nhưng đa số còn do dự chưa muốn dùng võ lực, hãy dùng đường lối ngoại giao đã. Eshkol yêu cầu các quốc gia có hải quân và thương thuyền ở phương Tây giải quyết vấn đề quốc tế đó, rồi phái sứ giả là Abba Eban qua Pháp, Anh.

De Gaulle khuyên: “Israel đừng nên gây chiến. Nên để vấn đề đó cho tứ cường (tức Mỹ, Nga, Anh, Pháp) giải quyết”

Wilson bảo Anh sẽ hành động theo Mỹ. Còn Mỹ đương mắc kẹt ở Việt Nam, cũng không muốn gây rối thêm ở Tây Á, nhưng hứa sẽ ủng hộ Israel. Johnson sẽ dùng chính sách này để đối phó với Ai Cập: cùng với vài quốc gia có hải quân và thương thuyền sẽ xông bừa vào vịnh Akaba, phá sự phong tỏa và đoàn tàu của Israel sẽ theo vô. Ông bảo Anh, Canada và Hòa Lan đã đồng ý với Mỹ về điểm đó.

Mỹ còn cho Israel hay rằng về quân sự, Israel mạnh hơn, có chiến tranh thì Israel chắc chắn thắng.

Trong khi Eban qua Anh, Pháp thì Bộ trưởng quốc phòng Ai Cập là Mohamed Chams El din Badiane qua Moscow, và Moscow long trọng tuyên bố trong một bữa tiệc: “Nga sẽ giữ tình thân nghị với Ai Cập, sẽ tiếp tục giúp đỡ Ai Cập. Một tục ngữ Ả Rập bảo: “Gặp lúc khó khăn mới biết được bạn trung thành” Chúng tôi đã có dịp chúng tỏ rằng câu đó đúng”. Cuối tháng 5-1967, thủ tướng Syrie cũng bay qua Moscow và cũng được Moscow hứa sẽ giúp đỡ về chính trị và quân sự. Hơn nữa, Moscow còn tăng cường hạm đội Nga ở Địa Trung Hải, nhất định chặn mọi sự can thiệp của Mỹ hoặc Anh

Rồi theo Samuel Seguev trong sách đã dẫn thì trong mấy ngày chiến tranh, đường liên lạc đỏ (4) giữa Moscow và Washington hoạt động liên tiếp: ở cả hai đầu người ta cùng thề với nhau tìm đủ mọi cách tránh mọi cuộc đụng đầu giữa hai cường quốc để cho Tây Á khỏi chìm trong khói lửa”.

Kết luận: Mỹ đã ngầm xúi Israel gây chiến, Nga đã ra mặt xúi Ai Cập và Syrie gây chiến: Mỹ, Anh cung cấp khí giới cho Israel; Nga, Tiệp cung cấp khí giới cho Ả Rập, tha hồ, muốn bao nhiêu cũng được nhưng Mỹ, Nga đã thoả thuận với nhau rồi: sống chung hoà bình, không vì bán đảo Ả Rập mà đọ sức với nhau, cứ đứng ngoài ngó hai con gà nòi đá nhau. Vì có lẽ cả Nga lẫn Mỹ đều tin rằng gà của mình là gà nòi cứng cựa, chắc ăn gà của đối phương.

Nasser cũng tin chắc rằng mình sẽ thắng. Eshkol hình như hơi do dự, bị đa số đảng phái (Israel có tới 11 đảng chính trị) cho là ôn hoà quá, dùng chính sách ngoại giao thì biết bao giờ giải quyết cho xong, mà nước đã đến chân rồi. Dân chúng Israel có vẻ ngờ sự đắc lực của nội các Eshkol, mong đoàn kết dân tộc để cho chính quyền mạnh hơn nên đề nghị thay đổi thành phần nội các, đưa hai vị anh hùng Ben-Gurion và Moshe Dayan lên cầm quyền. Trong mấy năm, nay Eshkol vẫn thù nghịch Ben-Gurion về chính kiến, nên bất bình không chịu. Ménahem Béguin được các đảng phái cử lên thuyết phục Eshkol:

- Thưa Thủ tướng, tôi biết rằng giữa ngài và ông Ben-Gurion có những sự xích mích nghiêm trọng nhưng xin ngài nhớ giữa ông ấy và tôi cũng vậy. Về phần tôi, tôi sẵn sàng quên mọi chuyện cũ để chúng ta đoàn kết với nhau trước kẻ thù chung.

Eshkol đáp:

- Ông Béguin ạ, hai con ngựa Ben-Gurion và tôi làm sao cùng kéo một chiếc xe được. Hoặc là ông ấy, hoặc là tôi.

Sau đó có người đưa ra giải pháp: tách rời chức vụ thủ tướng và Bộ trưởng quốc phòng ra.

Eshkol, vẫn giữ chức thủ tướng, nhưng ghế Quốc phòng sẽ giáo cho Moshé Dayan. Eshkol cũng lại cự nự nữa vì Moshe Dayan thân với Ben-Gurion, ông ta bảo: Mới hôm 24-5, nội các đồng ý với tôi là phải ôn hoà mà sao hây giờ lại bắt tôi chấp nhận Moshe Dayan. Mãi tới khi thấy gần như toàn thể nội các bỏ rơi mình, nhất là khi dân chúng to nhỏ với nhau. Nasser và Hussein thù nhau mà còn hoà giải với nhau kia, tại sao các nhân vật cầm quyền của mình không chịu quên những xích mích cũ của nhau đi, Eshkol mới chịu nhượng một chút, để Moshe Dayan làm phó thủ tướng, Bộ trưởng quốc phòng giao cho Ygal Allon người trong phe của ông ta.

Moshé Dayan không chịu “ngồi chơi xơi nước”, muốn làm cái gì thì làm cho ra trò kia, nếu không làm Bộ trưởng quốc phòng thì sẽ làm tư lệnh đạo quân phương Nam, ở dưới quyền tướng Isaac Rabin, Tổng tham mưu trưởng, học trò của ông.

Mãi tới ngày mồng một tháng sáu, dân chúng nhao nhao lên, biểu tình đòi Moshé Dayan trở về bộ quốc phòng, thì Lehkol mới nhượng bộ, toàn thể nội các hoan hô độc long tướng quân, toàn thể quân đội thở ra nhẹ nhàng, ăn mừng, ca hát, nhảy múa. Họ có được một vị lãnh đạo mà họ ngưỡng mộ và tin tưởng hoàn toàn. Lòng ái, quốc, lòng hy sinh, tinh thần trách nhiệm hiện trên mặt mọi người.

Họ đoàn kết với nhau lạ lùng vì lẽ sống còn của họ, người ta tự nguyện đầu quân: Lệnh động viên ban ra: dân chúng nhập ngũ đủ -100%; ở các binh chủng nhảy dù, và thiết giáp con số lên tới 130%, vì có nhiều người chưa bị gọi mà cũng tình nguyện đầu quân. Không có một lá thư xin phép trong suốt chiến dịch, dù nhà có tang, hay có người cưới hỏi. Phụ nữ dưới 55 tuổi và trẻ em trên 12 tuổi đều được giao phó trách nhiệm. Các nhân viên, đã hồi hưu đều trở lại làm nhiệm vụ cũ để thay thế những người ra mặt trận.

Còn trong quân đội Ai Cập thì trái hẳn, tất cả các địch vụ hành chính đều do các quân nhân nắm giữ và khi cơ cấu, bị rối loạn thì vô phương cứu vãn.

Học sinh trung học Israel đua nhau đào hầm, đổ cát vào bao, dựng các chướng ngại vật, đưa thư. Những người trên 50 nếu không vào tổ chức phòng vệ dân sự hoặc địa phương quân thì giúp đỡ tùy khả năng của mình; người nào biết lái xe thì đi xe - có khi là chính xe của họ - để chở hành khách không lấy tiền. Mọi phương tiện chuyên chở được dùng vào vận tải vũ khí, quân nhu trước hết. Tóm lại là toàn dân được huy động như một tổ ong bị địch vào phá rối mà, cùng hoá ra ong chiến đấu hết.

Bức thang giá trị ở Israel do đó mà thay đổi hết. Bao nhiêu sự cách biệt trong thời bình nhất đán mất hết, ông kỹ sư quên nghề nghiệp, công việc của mình đi, tuân lệnh một thanh niên mà chăm chú nghe cậu chỉ cho cách sử dụng liên thanh. Chú lính liên lạc được các, ông lớn bà lớn săn sóc. Mọi người đứng nối đuôi nhau hiến máu. Hàng ngày người Do Thái ở khắp các nơi trên thế giới xuống phi trường Lydda để tình nguyện nhập ngũ, có sinh viên ở Pháp, kỹ sư ở Anh, nhà buôn ở Hoa Kỳ, nông gia ở Hòa Lan, giáo viên ở Nam Mỹ, bỏ gia đình, công ăn việc làm, về để cứu quốc.

***

Lúc nào cũng sẵn sàng

Moshé Dayan lên giữ bộ Quốc phòng, để tỏ y chí chiến đấu và đoàn kết lòng dân, chứ không thay đổi chiến lược hay chiến thuật. Mọi việc đã chuẩn bị liên tục ngay sau chiến tranh 1956, từ sự đào tạo chiến sĩ mua sắm khí giới, tới việc xây đồn, luỹ, tổ chức tình báo… Mọi cơ quan, quân sự chạy trơn tru như chiếc máy ngày nào cũng được săn sóc kỹ lưỡng; cho nên mấy ngày đầu tháng sáu dân chúng có vẻ xáo động mà quân đội thì rất bình tĩnh.

Đáng khen nhất là cơ quan tình báo. Họ làm cách nào mà thu thập được mọi chi tiết về các đạo quân địch, kiểu phi cơ, phi trường, đường bay, sĩ quan nào chỉ huy, tính tình ra sao, chiến thuật ra sao, thói quen ra sao, giờ nào họ làm việc, giờ nào họ sao nhãng, chỗ nào cơ phi cơ thật, chỗ nào đặt phi cơ giả. Pháo binh bộ binh; thuỷ binh Ai Cập, họ cũng biết rõ từng tí. Nên Moshe Dayan đã phải khen rằng: “Bất kỳ một quân đội nào trên thế giới cũng phải tự hào có được cơ quan tình báo như vậy”.

Còn chiến thuật, thì Ben-Gurion và Moshé Dayan đã nghiên cứu từ mười mấy năm trước.

Khắp thế giới ngạc nhiên rằng hai chiến tranh Israel 1956 và 1967 đều chớp nhoáng mà chiến tranh sau còn chớp nhoáng hơn chiến tranh trước nữa. Nhưng nếu biết rằng sự thắng chớp nhoáng đó là cái lẽ sống còn của Israel thì chúng ta không lấy làm lạ nữa.

Khi Ben-Gurion ra lệnh cho Moshé Dayan lập kế hoạch cho trận Sinai năm 1956, ông ta có dặn kỹ phải làm sao hoàn thành chiến dịch trong hạn từ sáu tới tám ngày vì quân đội Israel chỉ có thời gian đó để hoạt động thôi. Hồi ấy Israel âm mưu Anh Pháp chiếm kinh Suez, tạo nên một tình trạng đã rồi, để Liên hiệp quốc có can thiệp thì cũng trễ, Ben-Gurion tính trên đầu ngón tay, nói với Dayan:

Phải hai ngày Ai Cập mới hiểu việc gì đã xảy ra. Lúc đó Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc họp gấp và ra lịnh cho hai bên ngưng chiến. Nhưng chúng ta không ngưng chiến, cứ tiếp tục tiến binh. Hội đồng bảo an lại họp nữa, lần này làm dữ, doạ dẫm. Và sau cùng chúng ta phải tuân lệnh. Trước khi tuân lệnh, thì chúng ta phải chiếm được trọn bán đảo Sinai. Chiếm trọn bán đảo đó từ sáu tới tám ngày. Làm nổi không?

“Trong vài trường hợp, chỉ cần chiếm một phần đất đai hoặc vài yếu điểm chiến lược là có thế thắng trận được rồi. Trường hợp chiến dịch Sinai, thì phải phá sự phong toả vịnh Akaba, diệt hết các ổ đại bác ở cửa vịnh phía cực nam bán đảo: vì vậy mà phải chiếm trọn bán đảo. Nếu hết kỳ hạn từ sáu đến tám ngày mà chỉ chiếm được chín phần mười bán đảo thì cũng kể như là hoàn toàn thất bại vì vịnh vẫn còn bị phong toả.

Mà muốn chiếm Sinai trong một tuần thì điều cần nhất là sự hành quân phải tiến một hơi, nghĩa là phải dùng những “đạo quân độc lập”, mỗi đạo có một mục tiêu nhất định và tiến tới không nghĩ, làm cho quân Ai Cập không sao cản nổi. Vậy, muốn tiến theo ba đường chẳng hạn thì phải có ba đạo quân có đầy đủ phương tiện để đạt mục tiêu mà không đạo quân nào được trông cậy vào sự giúp đỡ, yểm trợ của đạo quân khác, cũng không trông cậy vào sự tiếp tế quân nhu hoặc tăng cường quân lực. Nghĩa là một khi phát động rồi thì cắm cổ nhào tới đích với bất cứ giá nào: Phải tới đích đúng kỳ hạn. Nếu giữa đường gặp một vị trí của địch mà vì một lẽ nào đó, không diệt trọn được, thì bỏ nó lai, đi vòng và cứ nhắm đích mà tiến. Khi đã chiếm được những vị tới ở cuối cùng chung quanh bán đảo rồi, có còn lại vài ổ kháng cự ở trong bán đảo cũng không sao.

Ngày 3 tháng 6 năm 1967 Moshé Dayan, trong hội đồng nội các trình bày chiến thuật đó: lần này cũng phải chiếm Sinai trong một thời hạn như trước, nhưng cần thay đổi phương pháp một chút để cho Ai Cập không kịp đề phòng.

Ông tính phải ít nhất 72 giờ mới hạ được quân đội Ai Cập. Muốn vậy, trước hết ta phải diệt được không lực của Ai Cập để làm chù được không phận trên chiến trường. Điểm này không có gì lạ, chính Ai Cập cũng nghĩ vậy, chiến tranh trên sa mạc thì không quân đóng vai trò quan trọng nhất. Israel mua được nhiều phi cơ Mirage của Pháp, kiểu mới nhất, bay được 2.000 cây số một giờ, có hoả tiễn không-không, có bộ phận radar rất tinh xảo, tiến bộ. Một phần nhờ những phi cơ đó mà Israel thắng Ai Cập.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Đăng lúc 6-5-2013 16:21:30 | Xem tất
lâu lâu ta mới ghé nhà một lần và lần nào cũng đầy ấp các mẫu thông báo
cuốn sách này đọc hay thật, nói về người Do Thái đồng thời liên tưởng tới Việt Nam ta
Thấy hoàn cảnh của người Do Thái hẩm hương thật và người Việt Nam cũng không kém
Cám ơn bạn đã repost lại, luôn ủng hộ hết mình
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2013 20:35:56 | Xem tất
PHẦN III – QUỐC GIA ISRAËL
Chương 10 (A)
Tổ chức quốc gia Israel

Chính thể dân chủ

Trong bản tuyên bố Độc lập ngày 14-5-1968, có câu: “Quốc gia Israel sẽ xây dựng trên cơ sở tự do, công bẳng và hoà bình… Mọi công dân, không phân biệt tín ngưỡng, chủng tộc, nam nữ, đều được hưởng sự bình đẳng hoàn toàn về các quyền lợi xã hội và chính trị. Quốc gia sẽ bảo đảm sự tự do tôn giáo, tín ngưỡng (1), ngôn ngữ, giáo dục, văn hoá… Quốc gia đó sẽ tôn trọng các quy tắc của Hiến chương Liên Hiệp quốc”.

Vậy Israel là một nước dân chủ, tôn trọng mọi quyền căn bản như các nước dân chủ phương Tây.

Giáo dục cưỡng bách tới 16 tuổi và các bảo hiểm xã hội được tổ chức rất đàng hoàng, không kém các nước văn minh trên thế giới. Tôn giáo có cấm ngặt vài điều như sự kết hôn theo pháp luật, nhưng sau này chắc sẽ có sự thay đổi. Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội (Kenesseth) do dân bầu; Israel không có thượng viện như Anh, Pháp, Mỹ, Việt Nam. Quyền hành chính về tổng thống do Quốc hội để cử. Thủ tướng do tổng thống đề cử, đứng ra lập nội các và các bộ trưởng đều chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

Bầu cử

Công dân trai và gái, Israel cũng như Ả Rập, đủ 18 tuổi thì được bầu cử và đủ 21 tuổi thì được ứng cử vào Quốc hội. Nhưng một số người giữ các địa vị quan trọng bên hành chính, tư pháp, trong quân đội, trong tôn giáo như Viện trưởng viện Giám sát, Giáo trưởng, tham mưu trưởng, không được ứng cử. Các công chức, các sĩ quan, muốn ứng cử phải bỏ chức vụ ít nhất là một trăm ngày trước ngày bầu cử.

Đầu phiếu theo lối phổ thông, trực tiếp, kín và theo tỉ lệ nghĩa là không bầu cho một ứng cử viên mà cho một đảng phái, một chương trình.

Mỗi đảng được đưa ra một danh sách ứng cử viên tối đa là 120 người, tức số dân biểu trong Quốc hội; năm 1959, Israel có độ 2.250.000 người và có khoảng 1.275.000 cử tri; năm 1967, số dân lên giới khoảng 2.700.000 người. Nếu một đảng được 50% tổng số phiếu thì được 60 ghế ở Quốc hội; theo luật thì đảng nào có ít nhất là 1% số phiếu cũng có thể được chia ghế.

Vì một lẽ gì đó - chết hay từ chức - mà thiếu một dân biểu ở Quốc hội thì không cần bầu lại, người kế trong bản danh sách của đảng sẽ đương nhiên được lên thế.

***

Đảng chính trị

Năm 1962, ở Israel có 11 đảng chính trị:

Bảng Mapai, tức đảng công nhân Israel (thành lập năm 1930) chủ trương phục hồi Quốc gia Israel, xây dựng một xã hội theo các quy tắc dân chủ và xã hội, mong được sống hoà bình với các dân tộc Ả Rập, nhưng phải giữ vẹn toàn lãnh thổ: Đảng đó của Ben-Gurion, Moshé Dayan, Golda Meyerso (cũng gọi là Goida Mei), một nữ chiến sĩ hồi Israel mới thành lập làm bộ trưởng ngoại giao. Đảng có uy thế nhất trong nước, lần bầu cử nào cũng dẫn đầu, nhưng cũng chỉ chiếm được non nửa (40-47%) số ghế trong Quốc hội.

Đảng Hérouth thành lập năm 1948, thiên hữu, đối lập với chính phủ (năm 1962), đòi mở rộng lãnh thổ Israel cho tới khi phục hồi được biên giới thời cổ; bênh vực tự do kinh doanh. Đảng này được trên dưới 15 ghế trong Quốc hội.

Đảng Tự do thành lập năm 1961, số ghế lên xuống không đều, từ 21 đến 27 ghế.

Đảng Quốc gia tôn giáo, (chủ trương đúng với tên), số ghế trên dưới 15.

Đảng Mapam (đảng công nhân thống nhất thành lập năm 1947, có khuynh hướng xã hội, thiên tả muốn đoàn kết công nhân Israel và Ai Cập, xây dựng một nền hoà bình lâu dài ở Tây Á, trung lập trên khu vực tôn giáo. Số ghế khá vững (từ 15 tới 19), chưa thấy có cơ khuyếch trương. Trong Quốc hội, đảng đó liên kết với đảng Ả Rập.

Đảng Ả Rập được khoáng 4-5 ghế.

- Đảng Cộng sản (thành lập năm 1948) cũng được 4 - 5 ghế.

Các đảng khác nhỏ hơn, không có đường lối rõ rệt, ảnh hưởng không bao nhiêu.

Quốc hội - Chính phủ

Dân biểu được bầu trong một thời hạn là 4 năm, nhưng Quốc hội muốn tự giải tán để bầu lại lúc nào cũng được.

Quốc hội bầu Tổng thống. Tổng thống được ủy quyền trong năm năm. Tổng thống đầu tiên của Israel là Chaim Weizmann. Năm 1952, Weizmann mất, Quốc hội mời nhà bác học Einstein lúc đó ở Hoa Kỳ lên thay, nhưng Einstein tự xét không hợp với nhiệm vụ đó, đã từ chối vinh dự mà quốc dân muốn tặng ông. Quốc hội bèn bầu Ben-Zvi, ông này được bầu lại năm 1957. Trong chiến tranh 1967, tổng thống của Israël là F. Shazr.

Tổng thống đề cử một người trong Quốc hội để thành lập Nội các, tức thủ tướng. Thủ tướng đầu tiên của Israël là Ben-Gurion. Năm 1962, Nội các Israel gồm 16 bộ.

Quốc hội giữ quyền lập pháp, xem xét ngân sách, có thể tín nhiệm nội các.

Từ trước tới nay chưa có đảng nào chiếm già nửa số ghế trong Quốc hội, nên vài đảng cần liên kết với nhau để ủng hộ nội các và các nội các đều vững.

Tư pháp được độc lập, không bị các đảng phải chi phối, không bị hành pháp thao túng. Các vị thẩm phán, pháp quan không do thủ tướng đề cử, cũng không do quốc dân bầu lập mà do tổng thống đề cử theo ý kiến một Uỷ ban độc lập gồm Chủ tịch Tối cao pháp viện, bộ trưởng bộ tư pháp, một vị khác trong nội các, hai dân biểu trong Quốc hội và hai vị trong Hội đồng Luật sư.

Giám sát viện cũng có tính cách độc lập, do Tổng thống đề cử theo ý kiến của một Uỷ ban trong Quốc hội đại diện của mỗi đảng phái. Giám sát viện giữ quyền trong năm năm và chỉ chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quyền hành rất lớn: kiểm soát tất cả những chi tiêu của Chính phủ, sự thanh liêm, đắc lực của các nhãn viên chính phủ và kiểm soát các công ty quốc doanh hoặc có một phần vốn của chính phủ.

* * *

Tiếp thu và định cư các người hồi hương

Một sự kiện có ảnh hưởng rất lớn tới tình hình quốc tế sau một thế chiến vừa rồi là những đợt tản cư hàng triệu, chục triệu người ở phương Đông cũng như phương Tây. Tây Đức đã tiếp nhận mười ba triệu người di cư; ở Đại Hàn có chín triệu, ở Ấn Độ cũng có thoảng chín triệu, ở Phần Lan, ở Áo non nửa triệu, ở nước ta một triệu, ở Israel hơn một triệu.

Dưới đây là những con số trích trong cuốn “L’intégration des immigrants”(2) của Arthur Saul Suller (nhà xuất bản La Semaine Israelienne, 1965).

Năm 1882-1914 số người hồi hương định cư 50.000-70.000-

Năm 1919-1932 số người hồi hương định cư 126.340

Năm 1933-1939 số người hồi hương định cư 235.170

Năm 1940-1943 số người hồi hương định cư 29.504

Năm 1944 số người hồi hương định cư 15.552

Năm 1945 số người hồi hương định cư 15.259

Năm 1946 số người hồi hương định cư 18.760

Năm 1947 số người hồi hương định cư 22.098

Năm 1948 số người hồi hương định cư 118.984

Năm 1949 số người hồi hương định cư 239.076

Năm 1950 số người hồi hương định cư 159.405

Năm 1951 số người hồi hương định cư 173.901

Năm 1952 số người hồi hương định cư 23.275

Năm 1953 số người hồi hương định cư 10.347

Năm 1954 số người hồi hương định cư 17.471

Năm 1955 số người hồi hương định cư 36.303

Năm 1956 số người hồi hương định cư 54.925

Năm 1957 số người hồi hương định cư 71.100

Năm 1958 số người hồi hương định cư 26.093
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 6-5-2013 20:37:37 | Xem tất
Chương 10 (A)
(tiếp theo)

Năm 1959 số người hồi hương định cư 23.045

Năm 1960 số người hồi hương định cư 23.643

Năm 1961 số người hồi hương định cư 46.650

Năm 1962 số người hồi hương định cư 59.600

Năm 1963 số người hồi hương định cư 62.156

Năm 1964 số người hồi hương định cư 52.456

Năm 1954, dân số miền Nam Việt Nam vào khoảng 9-10 triệu, tiếp thu một triệu đồng bào di cư, mà đã lúng túng. Dân Do Thái năm 1948-1949 chỉ có khoảng 700.000, đương còn phải chiến đấu với Ả Rập, mà phải tiếp thu khoảng 340.000 đồng bào (bằng nửa dân số); hai năm sau lại tiếp thu thêm 300.000 nữa, như vậy là trong có 4 năm dân số tăng lên gấp đôi, từ 700.000 lên tới 1.500.000; ta thử tưởng tượng nhà cầm quyền hồi đó đã phải gặp bao nhiêu nỗi khó khăn. Tới 1946, tổng số người Do Thái hồi hương là trên một triệu.

Một khó khăn rất lớn là những người Do Thái hồi hương thuộc đủ các quốc gia, ông David Catarivas trong cuốn “Israel” (sách đã dẫn) đã làm một bảng liệt kê: chỉ trừ có Zanzibar, còn nước nào trên thế giới cũng có Do Thái hồi hương về Israel. Họ thuộc đủ các nền văn minh, nói đủ các ngôn ngữ có đủ tập quán, phong tục, vậy mà cùng tụ họp nhau ở Israel, làm sao hiểu nhau, tránh hết mọi xích mích; chính quyền làm sao kiếm công ăn việc làm cho họ, hướng dẫn, giáo dục họ để mau thành một dân tộc thống nhất có một ngôn ngữ chung.

Tôi chỉ xin kể một thí dụ. Từ ba ngàn năm nay, dân Do Thái ở Yemen, sống nhờ Ả Rập, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, vẫn giữ đúng phong tục tổ tiên, vẫn học tiếng Hébreu, không biết máy in là cái gì, phải chép tay Thánh kinh để dạy lẫn nhau. Khi nhà cầm quyền Yemen ra lệnh bắt trẻ Do Thái mồ côi để bắt chúng cải giáo, bỏ đạo Do Thái mà theo đạo Hồi, thì người Do Thái nào biết mình sắp chết, cũng lập tức cho gả cưới con, dù chúng chỉ mới vài ba tháng, để chúng thành gia thất, thành “người”, không phải là trẻ mồ côi, mà khỏi bị nhà cầm quyền Ả Rập bắt.

Họ lạc hậu đến nỗi thấy xe hơi là hoảng hốt tưởng nó là quái vật bị ma quỉ điều khiển; thấy nữ y tá chích thuốc là thét, khóc lóc. Vậy mà nhà cầm quyền Israel cũng phải tìm cách chích thuốc ngừa bệnh cho họ trước khi đưa họ lên máy bay về Israel. Người ta phải moi trong Thánh kinh một câu hay vài chữ nào, xuyên tạc ý nghĩa đi rồi giảng cho họ rằng trong thánh kinh đã có dạy phải chích thuốc, họ mới chịu đi cho chích: Họ không tin y sĩ, không tin khoa lọc, chỉ tin Thánh Kinh. Thánh kinh có cho phép làm thì mới được làm, những con người như vậy mà sống chung với những kỹ sư, luật sư Anh, Pháp, Đức…, thì gây ra biết bao vấn đề.

Máy bay đã sẵn sàng cất cánh, mới họ lên, họ khăng khăng từ chối, bảo “Chúa dạy ngày Sabbat không được làm một việc gì cả: tại sao máy bay dám bay?”. Thế là máy bay phải đợi họ. Có một phụ nữ đẻ trên phi cơ đương bay. Họ nhốn nháo cả lên, đốt lửa sưởi ấm nữa mới khổ cho chứ.

Xuống sân bay ở Israel, mỗi người trong bọn họ chỉ có một bọc quần áo và một ve nước; phải đưa họ tới những chỗ tạm cư, tập cho họ làm quen với lối sống hiện đại.

Vụ hồi hương bắng phi cơ đó, người Israd gọi là công tác “Bức thảm bay” (Tapis magique) ở thế kỷ XX, và những người hồi hương cho hành trinh đó là “cuộc hành trình cuối cùng của kiếp lang thang”.

Một người trong bọn họ ghi lại cảm tưởng như sau: “Chúng tôi đương sống trong cảnh đày ải và đợi ngày được Cứu tội mà không biết bao giờ nó đến. Một người trong bọn tôi đi tới kinh đô rồi về báo cho chúng tôi: “Có một quốc gia ở Israel. Chúng tôi không biết tin đó có đúng không. Ngày tháng trôi qua, không có tin tức, dấu hiệu gì nữa. Rồi tin đồn lại tăng lên. Nhiều người từ xa về bảo chúng tôi: “Ở Israel có một ông vua”. Sau đó họ lại tới bảo: Có một đạo quân ở Israel, một đạo quân anh dũng. Sau cùng họ tới và bảo: Có chiến tranh ở Israel, những đau khổ đó bảo rằng Chúa Cứu thế sắp ra đời”. Chúng tôi vẫn ở trong cảnh đày ải, không biết rằng những tin đó có đúng không. Chúng tôi vẫn mong được cứu tội và nóng ruột làm sao (…) Thế rồi một hôm, một mật thư của sứ giả tới: “Đứng dậy, anh em ơi! đứng dậy, giờ đã điểm. Non sông chúng ta đợi các con cái về xây dựng lại những cảnh đổ nát, trồng trọt lại những chỗ bỏ hoang mà cứu rỗi cho non sông và cho chúng ta”.

“Chúng tôi bán hết nhà cửa, đồ đạc… Chúng tôi đem theo những cuốn Thánh pháp và các đồ vật thiêng liêng. Và chúng tỏi sửa soạn thức ăn thức uống để lên đường. Và từ khắp nơi ở Yemen từng bọn người đó tới, nóng lòng muốn thấy đất Israel… Tới nơi người ta gom chúng tôi vào một trại lớn gần châu thành… Chúng tôi nằm la liệt trên cát, từng gia đình một, nóc nhà là vòm trời, bão cát hất tung lên, và chúng tôi cầu nguyện cho cuộc “aliya” (Aliya có nghĩa là lên. Người Do Thái không nói “về” Israel mà nói “lên” Israel như ta nói thượng kinh (lên kinh đô) vì cho Israel là đất cao quí hơn cả các nơi khác. Đi xứ khác, họ bảo là “xuống”) của chúng tôi: “Ước gì cánh chim đại bàng đưa chúng tôi về xứ! Và chúng tôi được bay bổng lên trên không”.

Con chim đại bàng đó là phi cơ của hãng Near East Air Transport (Hãng Hàng Không Cận Đông). Và những con người chất phác chưa bao giờ thấy chiếc xe đạp đó, vui vẻ, tin tưởng bước lên phi cơ, vì trong Thánh kinh đã có câu: “Trên cánh con chim đại bàng, Ta đã đưa các con về với Ta”.

Từ 1948 đến 1960 người Do Thái ở khắp nơi về Israel thành năm đợt.

Đợt đầu từ khi tuyên bố Độc lập cho tới đầu năm 1950, đương chiến tranh mà họ ùn ùn đổ về (341.000 người), phần lớn là những người thoát khỏi cảnh diệt chúng ở châu Âu, rồi tới Do Thái Thổ Nhĩ Kỳ, Yemen, cả Trung Hoa nữa (5.000).

Một phần lớn chiếm những nhà Ả Rập bỏ trống (Ả Rập vì chiến tranh mà phải tản cư), một phần ở tạm trong lều hoặc các căn nhà tiền chế. Một số xung phong ra mặt trận hoặc giúp đỡ trong quân đội, còn thì làm lung ở hậu phương.

Sau khi đình chiến, tình trạng thất nghiệp hoá ra nan giải: chính quyền phải kiếm công việc cho họ làm: sửa chữa nhà cửa, đường sá, xây cất, khẩn hoang…

Đợt thứ nhì, năm 1951-1952 cũng vẫn đông. Người ta phải cấp tốc xây dựng những “làng nấm” (nhà thấp nhỏ, giống nhau, ở trên nhìn xuống như một đám nấm) ở ngoại ô các châu thành và tại những nơi đương phát triển. Họ bắt đầu tự tổ chức đời sống, nhờ sự giúp đỡ của chính quyền.

Đợt thứ ba, số hồi hương giảm xuống, mỗi tháng chỉ còn khoảng 1.200 người (năm 1949, có hồi mỗi ngày phải tiếp thu hàng ngàn người), chính quyền gởi cán bộ lại dạy dỗ họ: dạy tiếng Hébreu, dạy nghề, nhất là nghề nông. Tới giữa năm 1954, tình trạng đã ổn định.

Đợt thứ tư, từ 1954, vì những biến cố xảy ra ở Bắc Phi, số hồi hương lại tăng lên. Chính phủ không đủ tiền, phải hạn chế: cho vô trước những người nào mà đời sống lâm nguy (như bị các nước khác trục xuất, nghi kị), rồi những gia đình nào có một người có nghề đủ sống; còn những người đau ốm tàn tật mà không có thân nhản cấp dưỡng nổi thì không được tiếp nhận. Người ta đưa ngay những người mới vô tới một nơi họ có công việc làm liền.

Đợt thứ năm, từ 1956 gồm những Do Thái ở Ai Cập (vì có chiến tranh Israel - Ai Cập) và Hungary (sau cuộc nổi loạn ở Hungary tháng 10-1956). Người ta gom những người cùng một xứ, cùng một nền văn hoá, để tránh mọi sự xích mích.

Những cuộc hồi hương đó gây rất nhiều khó khăn cho chính quyền nhưng cũng rất có lợi cho Israel, vì người bao giờ cũng tạo ra của cải, một số người Do Thái ở phương Tây còn đem của cải về xứ sở nữa.

Một triệu hai trăm ngàn người hồi hương đã đem sức ra xây dựng Israel trong các xưởng máy, các trại ruộng (điều đáng chú ý là họ không ưa vô các Kibboutz), các trường học, và trong năm 1967 nhờ họ một phần lớn mà Israel đã chiến thắng được khối Ả Rập. Nếu lúc đó Israel không có được trên hai triệu người thì làm sao có thể động viên được 300.000 người để đưa ra ba mặt trận.

Số người Do Thái ở Israel hiện nay vào khoảng hai triệu bảy mà trong số Do Thái trên thế giới vào khoảng hai chục triệu (3) non mười triệu ở Hoa Kỳ và Canada, phần lớn đại phú, giúp đỡ cho đồng bào của họ ở Israel được rất nhiều, về phương diện tài chính cũng như về phương diện ngoại giao vì họ có địa vị cao trong các nước đó; ba triệu Do Thái ở Nga vì tình hình chính trị, cách biệt hẳn với Do Thái ở Israel (hình như chính quyền Nga không cho họ về Israel); ở Pháp và Anh có hết thảy độ một triệu Do Thái, Còn thì rải rác ở khắp các nước trên thế giới.

Đa số những người Do Thái còn ở ngoại quốc đó không muốn về Israel (trừ khi nào có một biến cố lớn như cuộc diệt chủng ở Đức trong thế chiến vừa rồi (điều này chắc không xảy ra được nữa): và như vậy cũng hay cho Israel, vì nếu họ đòi về cả thì không đất đâu để chứa cho hết.

Người Ả Rập hồi hương

Ngoài trên một triệu người Do Thái hồi hương còn phải kể một số người Ả Rập hồi hương nữa.

Tổng số họ với những người Ả Rập không tản cư trong chiến tranh 1948-1949 lên giới 180.000.

Theo Hiến pháp, họ được coi như bình đẳng về mọi phtrơng diện với người Do Thái, không bị kỳ thị về chủng tộc, tôn giáo, nhưng tình cảnh của họ cũng rắc rối và thật khó xử.

Họ là công dân Israel, nhưng cố nhiên, làm sao quên được những đồng bào của họ ở bên kia biên giới, ở Jordanie, Gaza, Syrie, Liban. Có nhiều gia đình một nửa ở Israel, một nửa phiêu bạt ở các quốc gia Ả Rập. Họ phải nhìn những đất đai nhà cửa của đồng bào họ, bà con họ, vì tị nạn bỏ lại mà bị Do Thái chiếm cứ, khai khẩn, nhìn những giáo đường của họ bị tàn phá hoặc bỏ hoang thì lòng nào mà không chua xót? Một số giới Do Thái biết điều, nhân từ, che chở thương hại họ, càng làm cho họ thêm tủi. Mà số đó rất ít, đa số đều nghi kị, khinh bỉ họ. Cho nên luôn luôn họ có mặc cảm tự ti. Họ áp dụng phương pháp làm việc của các người Do Thái, mức sống của họ cao hơn đồng bào họ ở các xứ láng giềng; họ được tổ chức hợp tác xã nghiệp đoàn, được bầu cử, thành lập đảng phái, có ghế trong Quốc hội, và trong Quốc hội, đảng Cộng sản thường bênh vực họ, nhưng họ không được nhập ngũ, và trong những thời chiến tranh giữa Israel và Ả Rập, họ càng thấy bứt rứt, tủi nhục, bị nghi kị làm gián điệp, phản quốc gia đương nuôi họ. Mà nếu không phải là phản Israel thì cũng là phản Islam. Lại thêm cái nỗi ở Israel, luật pháp bắt hôn lễ phải làm ở nhà thờ, vậy là cấm Do Thái kết hôn với Ả Rập là kỳ thị chủng tộc chứ còn gì nữa? Sự sung sướng về vật chất của họ càng làm cho lòng họ thêm bị dằn vặt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách