Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 6360|Trả lời: 32
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] 5 Giờ 25 Phút | Agatha Christie (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả


Tên tác phẩm: 5 Giờ 25 Phút
Tác giả: Agatha Christie
Dịch giả: Vũ Đình Phòng
Độ dài: 31 chương
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn
Thể loại: Trinh thám, hình sự
Nguồn: VNthuquan
Đánh máy: HanAn
Nhà Xuất Bản: nxb Lao Động




MỤC LỤC       


       
Chương 1: LÀNG SITTAFORD
               
Chương 2: BÀN MA

Chương 3: 5 GIỜ 25 PHÚT       
       
Chương 4: THANH TRA NARRACOTT       
       
Chương 5: EVANS       
       
Chương 6: TẠI KHÁCH SẠN BA VƯƠNG MIỆN
       
Chương 7: BẢN CHÚC THƯ
               
Chương 8: CHARLES ENDERBY
       
Chương 9: BIỆT THỰ "HOA HỒNG"
       
Chương 10: GIA ĐÌNH PEARSON
       
Chương 11: EMILY VÀO CUỘC
               
Chương 12: VỤ BẮT GIAM
               
Chương 13: XÓM NHỎ SITTAFORD
               
Chương 14: PHU NHÂN WILLETT
               
Chương 15: VIẾNG THĂM THIẾU TÁ BURNABY
               
Chương 16: ÔNG RYCROFT
               
Chương 17: BÀ PERCEHOUSE
               
Chương 18: THĂM LÂU ĐÀI SITTAFORD
               
Chương 19: NHỮNG GIẢ THIẾT
               
Chương 20: TẠI NHÀ DÌ GARDNER
               
Chương 21: NHỮNG CUỘC TRÒ CHUYỆN
               
Chương 22: CUỘC RÌNH BAN ĐÊM
               
Chương 23: TẠI BIỆT THỰ "HAZELMOOR"
               
Chương 24: THANH TRA NARRACOTT TRANH LUẬN
       
Chương 25: QUÁN GIẢI KHÁT DELLER
               
Chương 26: ÔNG GARDNER

Chương 27: THANH TRA NARRACOTT VÀO CUỘC
       
Chương 28: ĐÔI ỦNG

Chương 29: CHƠI TRÒ "BÀN MA" LẦN THỨ HAI

Chương 30: EMILY GIẢI THÍCH

Chương 31: NGƯỜI ĐÀN ÔNG HẠNH PHÚC

HẾT.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
Đăng lúc 23-7-2013 09:19:03 | Chỉ xem của tác giả
vào ủng hộ chủ thớt 1 phát {:398:}
đọc holmes lâu rồi mà vẫn chưa đọc tác phẩm nào của agatha christie cả *hóng hóng*
hi vọng là sẽ thấy hay ^^
p/s: HAVE A NICE DAY{:412:}

Bình luận

Cám ơn bạn, mình cũng mới chuyển sang đọc tt phương tây chưa quen lối hành văn lắm nhưng được cái mới lạ :))))  Đăng lúc 23-7-2013 04:43 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
Đăng lúc 23-7-2013 18:57:35 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 1


LÀNG SITTAFORD


Làng Sittaford hẻo lánh, vào một buổi chiều mùa đông lạnh lẽo, bão tuyết sắp kéo đến, trong tòa lâu đài đang được cho thuê của đại úy hải quân Trevelyan, có sáu người đang chơi trò “bàn ma”. Hồn ma hiện về yêu cầu được nói chuyện với thiếu tá Brunaby - một người bạn thâm giao của Trevelyan - và thông báo cho Brunaby biết đại úy Trevelyan đã chết vì bị ám sát. Tất nhiên, không một ai trong sáu người đang tham gia trò chơi thật sự tin vào điều này, tuy nhiên họ không khỏi băn khoăn lo lắng, nhất là thiếu tá Brunary, vốn là người rất thân thiết với đại úy Trevelyan. Khổ nỗi, đại úy Trevelyan, sau khi cho phu nhân Willett thuê tòa lâu đài này, đã dọn tới ở tạm tại thị trấn Exhampton cách đó khoảng 10 cây số. Ở Sittaford lại không có điện thoại để có thể hỏi thăm tin tức. Mặc kệ bão tuyết đang kéo đến, Brunary quyết định lội bộ đến nhà bạn mình…

Xỏ chân vào đôi ủng cao su xong, thiếu tá Brunaby cài thêm khuy áo cổ chiếc măng tô dày. Xách ngọn đèn bão, ông thận trọng hé mở cửa ngó ra ngoài quan sát.
Phong cảnh bên ngoài khiến ông thấy sao giống hệt hình vẽ trên những tấm bưu thiếp chúc mừng lễ Noel. Đã bốn ngày nay trên toàn nước Anh tuyết rơi mảng lớn, riêng trong quận Dartmoor này, tuyết dày đến vài mét. Dân nước Anh đâu đâu cũng than phiền nạn nước đóng băng làm vỡ ống dẫn, và thợ chữa đường nước bỗng nhiên được quý như vàng.
Trong ngôi làng Sittaford hẻo lánh trên vùng núi, như tách rời khỏi thế giới bên ngoài này, thời tiết mùa đông càng khắc nghiệt hơn gấp bội.
Viên thiếu tá hưu trí dũng cảm mở cửa, hít đầy khí lạnh vào hai lá phổi, lấy tinh thần. Thốt lên một câu văng tục, ông kiên quyết bước lên lớp tuyết dày. Chặng đường đi không dài. Chỉ mấy phút sau ông Burnaby đã đến một cổng sắt. Bước qua cổng, ông đi thẳng lên bậc thềm một tòa nhà đồ sộ xây bằng đá hoa cương.
Một cô hầu ra mở cửa, rất niềm nở chào khách rồi giúp ông tháo tấm khăn quàng dày đã cũ, quấn kín cổ và nửa mặt.
Sau đó, cô hầu dẫn ông thiếu tá vào phòng khách. Thiếu tá Burnaby bỗng có cảm giác như ông là diễn viên sân khấu và người ta vừa thay đổi phông màn bài trí.
Tuy lúc này chưa đến ba giờ chiều, nhưng các rèm cửa sổ đã buông xuống, ánh đèn điện tỏa sáng khiến mọi đồ đạc lấp lánh, và ngọn lửa đang cháy lách tách trong lò sưởi. Hai phụ nữ quý phái, một già một trẻ, trong hai bộ váy áo dạ tiệc đứng lên tiếp đón người cựu sĩ quan.
Người phụ nữ có tuổi nói:
- Chào thiếu tá Burnaby, thời tiết thế này mà ông vẫn đến đây với chúng tôi, quý hóa quá.
- Còn tôi, cũng xin cảm ơn bà đã có nhã ý mời tôi, thưa phu nhân Willett.
Viên thiếu tá bắt tay bà chủ và cô con gái bà.
- Tôi mời cả anh Garfield và ông Duke. Cụ Rycroft cũng hứa sẽ đến dự buổi tiếp khách tối nay của tôi, nhưng tôi e thời tiết này chưa chắc ông cụ đã tới được. Chúng ta phải thông cảm với tuổi tác của ông cụ. Thời tiết quả là tồi tệ quá sức. Nếu không tìm ra cách tiêu khiển, khéo chúng ta đều phát điên lên mất. Violette, con bỏ thêm một khúc củi nữa vào lò sưởi đi.
- Tiểu thư để tôi làm cho - thiếu tá Burnaby lịch sự đứng lên.
Dáng điệu thành thạo, ông đưa khúc gỗ vào đúng vị trí cần thiết rồi lại ngồi xuống ghế xa lông bà chủ nhà vừa đưa tay mời.
Thiếu tá Burnaby kín đáo liếc nhìn xung quanh, ngạc nhiên thấy phòng khách này đã lại đổi cách bày biện, khác hẳn hôm trước, nhưng ông không nhớ được là những thứ gì đã được chuyển chỗ.
* * *
Mười năm trước đây, đại úy hải quân Trevelyan, sau khi về hưu, đã quyết định về sống ở nơi thôn dã. Từ lâu ông vẫn ao ước có ngày được đến sống ở vùng Dartmoor, và lần này ông nhằm Sittaford, một làng nhỏ nằm trên sườn núi, giữa một vùng hoang vu chỉ toàn đất cằn với những bụi cây dại, cách xa các làng và nông trại xung quanh. Viên đại úy hải quân tậu một khu đất lớn, xây một tòa nhà đồ sộ, đầy đủ tiện nghi, và gọi nó một cách to tát là "lâu đài”. Ông lắp cả một máy phát điện để lắp đèn và chạy máy bơm nước. Rồi nhằm mục đích kinh doanh, ông xây thêm bên cạnh con đường dẫn đến cổng sắt của lâu đài sáu ngôi nhà nhỏ, mà ông gọi là biệt thự.
Ngôi biệt thự gần lâu đài nhất ông nhường cho người bạn chiến đấu cũ, thiếu tá Burnaby. Dần dần năm ngôi biệt thự kia cũng bán được, bởi bao giờ cũng có những người, vì lý do này khác, muốn tìm nơi hẻo lánh để sống.
Làng nhỏ Sittaford có một phố lèo tèo, gồm ba ngôi nhà rách nát, một lò rèn, một hiệu bánh kẹo kiêm trạm bưu điện xã. Từ đây ra thị trấn Exhampton phải đi theo một con đường núi dài mười cây số, nhiều đoạn rất dốc khiến người ta phải dựng biển ghi chú bên đường: "Xe gắn máy cẩn thận! Đường dốc nguy hiểm”.
Như chúng ta đã thấy, đại úy về hưu Trevelyan như thế là khá giàu. Tuy vậy ông ta vẫn không bỏ được thói say mê cố hữu, là kiếm tiền. Hồi cuối tháng Mười vừa rồi, một hãng môi giới nhà đất ngoài thị trấn Exhampton gửi thư đến hỏi xem ông đại úy có bằng lòng cho thuê tòa "lâu đài' của ông không? Một bà khách hàng của hãng muốn nghỉ mùa đông năm nay ở đó.
Phản ứng đầu tiên của đại úy Trevelyan là từ chối thẳng thừng. Nhưng rồi suy nghĩ lại, ông viết thư trả lời hãng môi giới nhà đất kia, yêu cầu cho biết thêm chi tiết. Hãng trả lời rằng người muốn thuê tòa nhà của ông là một phụ nữ góa chồng, tên là phu nhân Willett. Bà cùng cô con gái mới từ châu Phi về, muốn nghỉ mùa đông năm nay tại vùng Dartmoor.
- Đúng là điên! - đại úy Trevelyan kêu lên với ông bạn thiếu tá - Ông đồng ý với tôi không, Burnaby?
Thiếu tá Burnaby đồng ý, nói thêm:
- Nếu ông không muốn cho thuê tòa nhà này thì mặc xác bà ta. Bà ta muốn đi đâu thì đi, cho bà điên khùng ấy chết rét ở một nơi nào đó! Đúng là bà ta có ý nghĩ quái đản? Mới ở châu Phi nóng như lò lửa mà về đây lại định nghỉ mùa đông ở cái làng Sittaford lạnh buốt này?
Nhưng cuộc bàn luận chỉ dừng lại ở mức đó. Thói tham tiền đã thắng. Đại úy Trevelyan tính, trường hợp cho thuê tòa "lâu đài” này giữa mùa đông có lẽ sẽ không bao giờ có, tội gì không kiếm thêm một món. Ông bèn viết thư hỏi xem bà khách kia có thể trả ông bao nhiêu.
Cuối cùng ngã giá là mỗi tuần mười hai ghi-nê. Viên đại úy bèn thuê một ngôi nhà nhỏ bên rìa thị trấn Exhampton để ở tạm, nhường tòa "lâu đài" đồ sộ cho phu nhân Willett.
- Bà ta đúng là loại vứt tiền qua cửa sổ! - đại úy Trevelyan nói.
* * *
Buổi chiều tháng Mười hai đó, thiếu tá Burnaby nhìn người phụ nữ thuê nhà, thầm nghĩ bà ta hoàn toàn không có vẻ "điên" chút nào. Trái lại, phu nhân Willett, vóc cao, điệu bộ hơi kiểu cách quá mức, nhưng nét mặt rất thông minh, hóm hỉnh. Có vẻ bà ta thích ăn mặc lòe loẹt và tiếng Anh bà ta nói có mang âm sắc của tiếng Anh các thuộc địa, nhưng bà ta tỏ ra hoàn toàn mãn nguyện về cuộc sống ở nơi heo hút này. Thêm nữa, bà ta có vẻ rất giàu và không hề thích cô đơn. Những chi tiết đó làm thiếu tá Burnaby rất khó giải thích.
Mới đến đây, phu nhân Willett lập tức tỏ ra là con người phóng khoáng, thích giao du. Bà ta liên tiếp tổ chức tiệc tùng mời khách, và mời nhiệt tình nhiều khi đến mức nài ép. Đặc biệt, bà luôn nhắc thiếu tá Burnaby thường xuyên đến đây "coi như ông vẫn ở tòa nhà này”. Khốn nỗi, viên thiếu tá có tính không thích phụ nữ. Nghe đâu hồi trẻ ông đã một lần bị thất tình đau đớn, cho nên bây giờ ông kiên quyết từ chối thái độ kết thân của bà khách thuê nhà.
Phu nhân Willett đã ở đây được hai tháng, và nỗi ngạc nhiên của mọi người xung quanh cũng tan dần.
Bản chất thiếu tá Burnaby ít nói, ông lặng lẽ quan sát bà chủ nhà, không mặn mà tiếp chuyện lắm. Nhìn bà mẹ xong, ông đưa mắt nhìn cô con gái bà, tiểu thư Violette Willett - một thiếu nữ xinh đẹp, nhưng hơi gầy. "Có lẽ mốt bây giờ là như thế chăng?" ông thiếu tá thầm nghĩ.
Cuối cùng, phu nhân Willett nói:
- Hai mẹ con tôi bàn nhau, chưa chắc ông đã đến. Hẳn ông đã định không đi chứ gì, thưa ông thiếu tá?
- Hôm nay là Thứ sáu, xin phu nhân hiểu cho.
- Thứ sáu thì sao? - phu nhân Willett ngạc nhiên hỏi.
- Bởi Thứ sáu là ngày tôi đến nhà ông bạn Trevelyan, còn ông ấy đến tôi vào Thứ ba... Hai chúng tôi đã thành lệ như thế từ rất nhiều năm rồi.
- Ra thế. Nhưng từ ngày ông thiếu tá ra ở ngoài thị trấn Exhampton, hai ông vẫn giữ lệ đó sao?
- Đúng thế. Vì đó là những buổi tối hai chúng tôi được hưởng cái thú ngồi với nhau, và cả hai đều không muốn bỏ cái thú đó, dù chỉ một lần.
- Hình như hai ông có cách giải trí là giải các bài điền ô chữ vào bài thơ hồi văn thì phải? - Cô Violette hỏi.
- Tôi giải thích ô chữ, còn đại úy Trevelyan thì giải bài hồi văn. Mỗi người say mê một thứ. Tháng trước tôi được giải thưởng về giải ô chữ đấy, ba cuốn sách dày.
- Tuyệt vời! Vậy thì ông giỏi quá đấy! Sách hay chứ thưa ông?
- Tôi chưa đọc.
Phu nhân Willett nói:
- Cái chính là ông được giải.
Cô Violette hỏi:
- Nhưng ông thường ra thị trấn bằng cách nào? Ông có ôtô chứ?
- Không. Tôi cuốc bộ.
- Thật không? Từ đây ra thị trấn Exhampton đến mười cây số kia mà?
- Đó là một thứ thể dục rất tốt. Cả đi cả về chỉ hai chục cây số, thấm vào đâu? Vừa khỏe người lại chống được béo bệu.
- Chà, hai mươi cây số! Hai ông quả là hai nhà thể thao cừ khôi đấy, đúng vậy không, thưa thiếu tá Burnaby?
- Thời trẻ, mùa đông nào hai chúng tôi cũng sang Thụy Sĩ chơi các môn thể thao mùa đông, còn mùa hè chúng tôi chơi môn thể thao leo núi. Bà và cô chưa nhìn thấy đại úy Trevelyan trượt băng đấy! Bây giờ hai chúng tôi đã già, không chơi những môn thể thao đó được nữa.
Cô Violette hỏi:
- Cháu nghe nói thời trẻ ông là vô địch môn đánh cầu trong quân đội, phải không ạ?
Mặt viên thiếu tá đỏ ửng lên như con gái:
- Cô nghe ai nói?
- Đại úy Trevelyan.
- Ông ấy nói lăng nhăng đấy mà. Ngoài trời lúc này ra sao nhỉ?
Biết viên thiếu tá đang ngượng, cô Violette tế nhị lảng ra của sổ. Hai mẹ con vén rèm lên, nhìn ra quang cảnh u ám bên ngoài.
Phu nhân Willett nói:
- Hình như sắp có một trận mưa tuyết lớn. Trời âm u lắm. Tôi đoán trận mưa tuyết này sẽ dữ dội lắm đây.
Cô Violette reo lên thích thú:
- Nếu vậy thì tuyệt. Cảnh tuyết rơi có thứ gì đó hết sức lãng mạn. Bây giờ con mới được nhìn thấy tuyết đấy.
- Dở hơi! - Bà mẹ mắng yêu cô con gái - Các ống dẫn nước đều bị vỡ thì còn lãng mạn nỗi gì?
Thiếu tá Burnaby hỏi:
- Vậy ra từ nhỏ cô toàn sống ở châu Phi, thưa tiểu thư Violette?
Vẻ hớn hở trên mặt cô gái trẻ đột nhiên biến mất. Cô buồn rầu đáp.
- Vâng. Đây là lần đầu tiên cháu được về Anh. Và cháu thấy nước Anh thật tuyệt vời.
Vậy mà mới trở về tổ quốc đã chui và cái nơi heo hút này? Quả thiếu tá Burnaby không sao hiểu nổi hai mẹ con bà Willett này.
Cửa phòng khách mở, một đầy tớ gái vào báo tin:
- Thưa bà chủ, cụ Rycroft và ông Garfield đã đến.
Một cụ già da mặt nhăn nheo bước vào, theo sau là một chàng trai trẻ trung, tươi tắn, da mặt hồng hào.
Anh ta nói:
- Tôi phải khó khăn lắm mới kéo được ông cụ sang đây đấy. Tôi phải cam đoan với cụ là sẽ không để cụ bị ngập trong tuyết. Chà! Trong nhà này ấm cúng quá! Chào phu nhân và tiểu thư! Gỗ để dùng đốt đêm Noel mà phu nhân đem cho vào lò sưởi chiều nay đấy phải không?
- Quả là nếu không có anh bạn trẻ này, tôi không sang được đây - Cụ Rycroft gạt đầu nói rồi kính cẩn bắt tay phu nhân Willett - Chào tiểu thư Violette! Cô thấy đã đúng mùa đông thật chưa? Phải công nhận mùa đông năm nay có dữ dội hơn mọi năm.
Cụ bước đến gần lò sưởi đang cháy bùng bùng trò chuyện với bà chủ nhà, còn chàng trai Garfield thì bám lấy cô Violette.
- Cô có nghĩ chúng tôi nên tổ chức một cuộc trượt tuyết không?
- Môn thể thao tốt nhất đối với anh là quét đống tuyết trước cửa nhà ấy.
- Thì sáng nào tôi chẳng phải quét nó? Cô nhìn hai bàn tay tôi chai sạn lên đây này.
- Bà cô anh thế nào rồi?
- Vẫn thế... Thỉnh thoảng tỉnh táo được vài phút, nhưng rồi đâu lại vào đấy. Tôi đành chịu kiên nhẫn thôi! Năm nào trước khi quyết định về đây thăm bà cụ tôi cũng rất ngại. Nếu không vì chuyện thừa kế thì tôi chẳng phải khổ thân thế này. Nhưng cô biết không, chỉ cần một lần lễ Noel tôi không về với bà cụ là rất có thể bà cụ sẽ gạt tên tôi trong bản chúc thư và điền vào đấy tên một bệnh viện chuyên chữa bệnh cho mèo. Bà cụ nuôi những năm con, hôi rình. Vậy mà tôi cứ phải bấm bụng vuốt ve chúng để lấy lòng bà cụ.
- Tôi thích nuôi chó hơn nuôi mèo.
- Tôi cũng thế.
Cô hầu bước vào, báo tin:
- Thưa bà chủ, ông Duke đã đến!
Duke là người tậu ngôi "biệt thự” cuối cùng trong sáu ngôi biệt thự kia. Ông mới dọn đến đây trong tháng Chín vừa rồi. Con người to béo nhưng lành hiền này dồn toàn bộ thời gian vào công việc làm vườn. Láng giềng của ông, cụ Rycroft lại mê nuôi chim, cho nên hai người hợp nhau, rất thân thiết với nhau. Cụ Rycroft luôn kể với mọi người rằng ông láng giềng Duke của cụ rất đáng yêu, không hề có tham vọng cao xa nào. Thật ra, khó ai biết ông Duke là người ra sao, biết đâu ông chẳng là một nhà kinh doanh lớn, nay rút về ẩn dật?
Chưa ai dám hỏi thẳng ông, vả lại biết cũng chẳng để làm gì. Trong cái làng nhỏ heo hút này, rất cần giữ mối quan hệ tốt với nhau.
Ông Duke hỏi thiếu tá Burnaby:
- Chắc thời tiết xấu quá, nên hôm nay là Thứ Sáu ông cũng đành nhịn không ra thị trấn Exhampton?
- Vâng. Tôi chắc đại úy Trevelyan cũng biết như thế nên không mong tôi.
Phu nhân Willett rùng mình nói.
- Mùa đông nào ở đây cũng bị cầm chân thế này kể cũng buồn.
Thiếu tá Burnaby lại tò mò nhìn bà chủ.
Vừa lúc đó, cô hầu bưng khay trà và bánh vào.

Bình luận

cám ơn em ^^  Đăng lúc 23-7-2013 07:07 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 18:44:20 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2

BÀN MA


Dùng bữa trà xong, phu nhân Willett đề nghị mọi người chơi bài bridge.
- Hiện ta có sáu người. Hai người phải chờ ván sau vậy.
Mắt anh chàng Garfield sáng lên:
- Đúng rồi. Mời bốn vị chơi trước, tôi và cô Violette xin chờ.
Nhưng ông Duke bảo ông không biết đánh bài bridge.
Garfield thất vọng nhìn ông.
Phu nhân Willett bèn nói ngay:
- Vậy thì ta nghĩ cách giải trí khác.
Garfleld nói:
- Hay chơi trò "bàn ma". Lúc nãy, trên đường đi đến đây, tôi và cụ Rycroft chợt nhớ đến trò chơi ấy. Một buổi chiều u ám như thế này, không trò gì thích hợp hơn là trò chơi ấy.
Cụ Rycroft nói:
- Tôi là hội viên hội Khoa học huyền bí, cho nên tôi có phân tích cho cậu trai trẻ này hiểu rằng đấy không phải là thứ trò tiêu khiển đơn giản, và hoàn toàn không phải là mê tín dị đoan.
- Tôi thì cho là trò nhảm nhí - thiếu tá Burnaby khẳng định.
Cô Violette vội nói:
- Nhưng là một trò chơi hết sức thú vị. Không ai buộc phải tin... Chơi cho vui ấy mà. Còn ông thì thế nào, thưa ông Duke?
- Tôi thì sao cũng được.
- Vậy ta tắt hết đèn đi, rồi khiêng một cài bàn ra đây. Không phải bàn ấy đâu, thưa mẹ... Bàn ấy nặng quá, không thích hợp.
Người ta khiêng ở phòng bên cạnh sang một chiếc bàn nhỏ đánh véc ni bóng loáng, đặt trước lò sưởi. Mọi người ngồi vào xung quanh. Phòng khách tối om, chỉ còn ánh lửa trong lò sưởi hắt lên.
Thiếu tá Burnaby ngồi giữa phu nhân Willett và cô Violette. Đối diện với cô gái là anh chàng Garfield.
Trên môi viên thiếu tá nở một nụ cười giễu cợt. "Thời mình còn trẻ, người ta chơi trò đoán vật trao tay", ông thầm nghĩ và nhớ lại cô gái tóc vàng ông đã nhân lúc chơi, nắm bàn tay cô dưới gầm bàn. Trò chơi đoán vật trao tay kia thú vị hơn trò chơi này nhiều.
Mọi người im lặng lắng nghe. Chỉ có những tiếng cười khúc khích rất khẽ.
- Xem chừng không có hồn nào đang đi ngang qua đây.
- Im, rồi sẽ có!
- Đề nghị không ai nói gì nữa.
- Sao lâu thế này?
- Suỵt!
Chiếc bàn bắt đầu động đậy. Mọi người rùng mình, cảm thấy như có một luồng khí lạnh chạy xuyên qua thân thể.
- Hồn nhập rồi đấy. Anh hỏi trước đi, Garfield.
- Được thôi, nhưng hỏi gì?
- Hỏi có phải hồn đấy không? - Violette gợi ý.
- Có phải hồn đấy không? - Garfield hỏi.
Bàn lắc một cái.
- Nghĩa là "có" - Violette giải thích - Nếu lắc hai lần tức là "không”.
- Hồn là ai?
- Không có trả lời.
- Anh bảo hồn xưng danh đi.
- Nhưng làm sao biết được?
- Đếm số lần bàn gõ.
- A, tôi hiểu. Vậy hồn tên là gì?
Bàn lắc rất mạnh.
- A,B,C,D,Đ,E, G, H,I... "I" hay "J"?
- Hỏi lại hồn xem. "I" phải không?
Bàn lắc mạnh.
- Vậy là "I” rồi. Bây giờ hồn nói tiếp đi.
Tên hồn là "IDA".
- Hồn muốn nói với ai ở đây không?
- “Có”.
- Ai? Tiểu thư Violette phải không?
- "Không”.
- Hay phu nhân Willett?
- "Không”.
- Cụ Rycroft?
- "Không”.
- Hay tôi?
- "Đúng”.
- Còn hồn tên là gì?
Chiếc bàn lắc, thành chữ "D.I.A.N.A”.
- "Diana" là ai? Anh biết “Diana” là ai không?
- Không, mà hay là...
- Đấy, anh ta biết đấy.
Mọi người cười rộ lên.
Thiếu tá Burnaby đang nghĩ đến trận mưa tuyết dữ dội sắp rơi đêm nay. Chưa bao giờ ông thấy một mùa đông tuyết rơi nhiều như thế này.
Ông Duke thì chăm chú nhìn chiếc bàn. Các hồn đều không quan tâm đến ông, chỉ toàn nói với hết Violette lại Garfield.
Hồn cho biết cô Violette sẽ sang ltalia, cùng với một thanh niên. Không phải phụ nữ mà là thanh niên. Tên anh ta là gì? - "Leonard"!
Tiếng cười lại rộ lên.
- Chính cô đẩy cài bàn - Anh chàng Garfield tố cáo.
- Thề là không. Anh nhìn đây, tôi giơ hai tay lên, vậy mà bàn vẫn động đậy đấy thôi.
- Không phải cô Violette đâu - Cụ Rycroft nói - Không khí trang nghiêm thế này, ai dám làm thế.
Mọi người im lặng, chiếc bàn không nhúc nhích.
Đột nhiên bàn lại động đậy.
- Một hồn khác chăng?
- Hồn vừa mới đến phải không?
Chiếc bàn lắc mạnh:
- "Phải".
- Hồn muốn nói chuyện với ai phải không?
- "Phải".
- Với tôi? - Garfield hỏi.
- "Không'.
- Vậy với ai? Với thiếu tá Burnaby?
- "Đúng”.
- Hồn muốn nói với ông đấy, thưa ông Burnaby. Hồn cho biết tên hồn được không?
Chiếc bàn lắc lư liên tiếp.
- “T”, “R”, “E”, “V”…
- Thế nghĩa là sao? "TREV" không có nghĩa gì hết.
- Có đấy - phu nhân Willett nói - Nghĩa là ông Trevelyan.
- Đại úy Trevelyan?
- "Đúng”.
- Hồn muốn gì về ông đại úy?
- “C”, “H”, Ế”, “T”
- Chết?
Nhưng lần này hồn không chỉ gõ một hay hai tiếng mà gõ thành chữ “T”.
- "T" nghĩa là sao? Là ông Trevelyan phải không?
- "Phải".
- Hồn bảo ông Trevelyan đã chết?
Bàn lắc mạnh:
- "Đúng”.
Một người nào đó thét lên, và tất cả đều rùng mình.
Garfield lại hỏi, lần này giọng anh ta run rẩy.
- Có đúng là hồn muốn nói rằng ông Trevelyan đã chết?
- "Đúng”.
Mọi người im lặng. Không ai biết phải có thái độ thế nào trước sự kiện này.
Trong lúc đó chiếc bàn vẫn tiếp tục lắc:
- “B”, “Ị”, “Á”, “M”, “S”, Á”, “T”.
Phu nhân Willett thét lên một tiếng kinh hoàng, rồi rụt tay ra khỏi mặt bàn.
- Trò chơi này khủng khiếp quá. Tôi không tham dự nữa.
Ông Duke lên tiếng, ông hỏi "hồn” rất rành rọt.
- Hồn nói chính xác là ông đại úy Trevelyan đã chết, và bị ám sát?
- "Đúng”.
Garfield cũng rút tay ra khỏi mặt bàn.
- Chuyện vớ vẩn ấy mà.
Nhưng giọng anh ta run rẩy.
- Ai làm ơn bật đèn lên hộ - Cụ Rycroft nói to.
Thiếu tá Burnaby đứng dậy, bật công tắc. Đèn sáng lên, soi rõ những khuôn mặt tái nhợt. Mọi người nhìn nhau, chưa hiểu thế nghĩa là sao.
Garfield lên tiếng trước, anh ta cố làm ra vẻ bình tĩnh.
- Một trò đùa ấy mà!
Bà Willett nói:
- Nhưng là thứ đùa quá khủng khiếp.
Garfield vội thanh minh:
- Không phải tôi. Xin thề không phải tôi.
Thấy mọi người đưa mắt nhìn mình, cô Violette vội nói:
- Đời nào tôi dám đùa với chuyện chết chóc!
Thiếu tá Burnaby cười khẩy:
- Chắc có người nghĩ là tôi? Tôi không bao giờ có kiểu đùa ác hiểm như thế.
Mọi người bối rối nhìn nhau.
Thiếu tá Burnaby đứng dậy, bước ra cửa sổ, vén rèm ngó ra ngoài.
- Năm giờ hai mươi nhăm - Cụ Rycroft nhìn lên đồng hồ treo tường, trịnh trọng nói.
Cụ đưa cánh tay lên, điều chỉnh lại giờ trên đồng hồ đeo tay của mình, như thể cụ cho rằng chuyện vừa qua là một sự kiện hệ trọng.
Phu nhân Willett nói, giọng ngượng nghịu:
- Ta dùng một chút rượu chứ, thưa các vị? Cậu Garfield, cậu bấm chuông gọi đày tớ hộ tôi.
Garrleld bấm chuông.
Cô hầu bưng khay rượu và cốc vào. Không khí dịu đi một chút.
Garfield giơ cao ly rượu:
- Xin chúc sức khỏe!
Mọi người chạm cốc, trừ một người vẫn đăm chiêu nhìn ra ngoài cửa sổ.
- Thiếu tá Burnaby, ly của ông đây!
Viên thiếu tá như thể giật mình, từ từ quay mặt lại.
- Cảm ơn, thưa phu nhân. Tôi không uống.
Rồi ông ta lại nhìn ra cửa sổ một lúc lâu. Cuối cùng ông bước đến chỗ mọi người đang tụ tập gần lò sưởi.
- Tôi phải về thôi, thưa phu nhân Willett.
- Nhưng ông không định ra thị trấn Exhampton đấy chứ?
- Tôi phải ra.
- Nếu ra thì cũng để mai, chứ đêm nay mưa tuyết thế này, đường xá ngập tuyết đi sao được?
- Bà tha lỗi, thưa phu nhân Willett, nhưng nhất định tôi phải ra đấy ngay đêm nay. Giá như có điện thoại...
- Ông muốn gọi điện thoai?
- Đúng thế... Thú thật, tôi muốn... tôi muốn xem ông bạn của tôi có bình yên không? Chuyện vừa rồi tôi cho chỉ là mê tín vớ vẩn... tôi không tin, nhưng dù sao...
- Trong khắp cái làng Sittaford này làm gì có ai mắc điện thoại đâu?
- Đúng thế. Chính vì không gọi điện thoại được nên tôi buộc phải đi.
Mà cũng không ai chịu chở ôtô ông đâu, tuyết dày như thế này…
Trong làng Sittaford chỉ có một chiếc ôtô duy nhất của bác Elmer thợ rèn, một chiếc Ford tàng, và mỗi khi ai thuê bác ta chở đều phải trả bằng giá cắt cổ.
- Tôi không tính đi ôtô. Hai chân tôi đủ khỏe để đưa tôi ra đến thị trấn Exhampton. Bà yên tâm, thưa phu nhân Willett.
Tất cả mọi người đều lên tiếng can.
- Không được đâu, thiếu tá Burnaby! Tuyết sắp bắt đầu rơi từng mảng lớn đấy, ông không nhìn thấy sao?
- Tôi biết, nhưng phải sau đây ít ra là một tiếng đồng hồ. Tôi sẽ ra đến đó trước khi trời đổ mưa tuyết lớn.
Phu nhân Willett nghiêm giọng nói.
- Tôi không cho ông đi ra thị trấn đâu, ông Burnaby!
Quả là hà Willett hoảng hốt thấy ông khách quyết định làm một điều liều lĩnh như vậy. Nhưng không ai can nổi. Thiếu tá Burnaby nhất quyết cuốc bộ ra thị trấn Exhampton để xem người bạn cựu chiến binh già kia có làm sao không.
Burnaby mặc tấm áo măng tô dày, thắp ngọn đèn bão rồi bước ra ngoài trời tối đen.
- Tôi sẽ ghé qua nhà lấy chai whisky - ông nói lúc ra đến cửa - Tối nay tôi sẽ ngủ ở nhà đại úy Trevelyan. Tôi biết tôi làm thế này là dở hơi, nhưng xin phu nhân và các vị thông cảm, đừng lo gì cho tôi hết. Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ nữa là cùng, tôi sẽ có mặt ở ngoài thị trấn Exhampton. Tôi hy vọng ông Trevelyan bạn tôi vẫn bình yên.
Ông Duke cau mày:
- Tôi cũng về thôi.
- Thế là hỏng mất một buổi tối - Phu nhân Willett thở dài - - Violette, con bảo cất cái bàn ấy đi, mẹ không muốn chơi cái trò khủng khiếp ấy nữa. Mà tôi rất sợ thiếu tá Burnaby làm sao giữa đường. Thời tiết xấu như thế này! Mà việc gì ông ấy phải lo kia chứ, tất nhiên đại úy Trevelyan không làm sao rồi.
Mọi người đều phụ họa theo, tán thành. Tuy nhiên, không ai cảm thấy thật sự yên tâm. Nếu chẳng may đại úy Trevelyan gặp phải tai họa đó thì sao?...
Và nếu như...
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 18:45:47 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3

5 GIỜ 25 PHÚT

Hai tiếng rưỡi sau, nghĩa là khoảng gần tám giờ tối, cây đèn bão cầm tay, khom người để tránh những mảng tuyết quất vào mặt, thiếu tá Burnaby loạng choạng lê chân trên lối đi dẫn vào ngôi biệt thự "Hazelmoor", nơi đại úy Trevelyan thuê ở tạm.
Đã một tiếng đồng hồ rồi, mưa tuyết dữ dội. Viên thiếu tá kiệt sức, thở hổn hển. Toàn thân run rẩy, ông giậm chân, thổi phù phù vào hai bàn tay lạnh cóng, đưa lên ấn nút chuông điện.
Đợi một lúc không thấy gì. Vài phút sau, ông ấn chuông lần nữa.
Vẫn không thấy động tĩnh.
Bấm chuông lần thứ ba, ông giữ nguyên ngón tay trên núm một lúc lâu. Tiếng chuông trong nhà reo vang một lúc lâu, nhưng trong nhà vẫn im ắng, không có một biểu hiện nào là có người.
Bối rối, thiếu tá Burnaby đứng thẫn thờ một lát, rồi quyết định quay ra, đi về phía trung tâm thị trấn Exhampton. Đi được khoảng một trăm mét, ông đến một đồn cảnh sát.
Thiếu tá Burnaby ngập ngừng một lát rồi đẩy cửa bước vào. Thấy người thiếu tá cựu chiến binh, đồn trưởng Graves đứng lên, ngạc nhiên:
- Chào thiếu tá Burnaby? Trời mưa tuyết thế này mà ông đi đâu vậy?
- Anh Graves này, tôi bấm chuông nhà đại úy Trevelyan mấy lần mà không thấy ai trả lời.
- Phải rồi, bây giờ tôi mới nhớ ra, hôm nay là Thứ sáu. Vậy là thiếu tá cuốc bộ từ làng Sittaford xuống đây ư? Hẳn đại úy Trevelyan không nghĩ là ông thiếu tá lại ra đây được.
- Nhưng tôi vẫn ra đấy thôi. Như tôi vừa kể, tôi bấm chuông mấy lần mà không thấy ai ra mở cửa.
- Lạ đấy nhỉ - viên đồn trưởng cảnh sát chau mày - Tôi không tin ông đại úy đi đâu vắng giữa lúc thời tiết tệ hại thế này.
- Đúng thế, không thể có chuyện đại úy Trevelyan đi đâu.
- Chà, thế thì lạ đấy...
Thiếu tá Burnaby có vẻ bực mình thấy viên đồn cảnh sát lề mề:
- Anh định làm thế nào bây giờ, Graves?
- Làm thế nào à?
- Chứ còn gì nữa? Ta phải tiến hành biện pháp nào chứ?
Viên cảnh sát suy nghĩ.
- Thiếu tá nghi là ông đại úy có chuyện gì à? Để tôi thử gọi điện cho ông ấy xem sao.
Graves nhấc máy điện thoại xin số. Nhưng đầu dây bên kia vẫn im lặng, không ai nhấc máy. Đợi một lát vẫn không thấy gì, đồn trưởng Graves gác máy, nói:
- Chắc ông đại úy bị ốm nặng. Chỉ có một mình ở nhà. Có lẽ ta sang rủ ông bác sĩ đến đó xem sao.
Nhà ông bác sĩ ngay gần đó. Hai vợ chồng bác sĩ Warren vừa bắt đầu ngồi vào bàn ăn bữa tối. Nghe viên cảnh sát trưởng nói, ông ta thầm khó chịu, nhưng vẫn nhận lời đi. Bác sĩ khoác tấm áo măng tô rất dày, xỏ chân vào đôi ủng cao su, quàng khăn len lên trùm nửa mặt. Bên ngoài tuyết vẫn rơi dồn dập từng mảng lớn.
Bác sĩ càu nhàu:
- Trời với đất! Tôi hy vọng các ông không lôi tôi đi một cách vô ích. Đại úy Trevelyan khỏe như vâm, không ốm đau bao giờ.
Thiếu tá Burnaby không đáp.
Đến trước cửa biệt thự "Hazelmoor”, họ đập cửa. Không thấy gì.
Bác sĩ Warren bèn gợi ý, thử đi vòng ra phía sau, vào lối cửa sổ:
- Cửa sổ dễ phá hơn cửa chính.
Viên cảnh sát Graves đồng ý, thế là ba người đi vòng ra phía sau nhà. Bên sườn nhà còn một cửa ra vào nữa, nhưng cũng rất kiên cố, không phá được. Họ bèn giẫm lên bãi cỏ đi về phía sau.
Đột nhiên bác sĩ Warren kêu lên:
- Cửa sổ kia mở toang!
Đúng thế, một ô của sổ mở toang. Một đêm lạnh giá như thế này, có họa điên mới mở cửa sổ. Một chút ánh sáng trong nhà tỏa ra.
Ba người đến chỗ cửa sổ cùng một lúc. Thiếu tá Burnaby leo lên, chui vào trước, tiếp đến cảnh sát trưởng Graves.
Vào đến trong nhà, hai người không ai nói với ai một lời nào. Lát sau, viên thiếu tá rú lên kinh hoàng. Bác sĩ Warren vội chạy đến.
Họ nhìn thấy đại úy Trevelyan nằm dưới đất, úp mặt xuống sàn nhà, hai tay bắt chéo. Đồ đạc trong nhà bừa bộn: các ngăn kéo đều bị lôi ra, giấy tờ tung tóe khắp nơi. Họ xem xét cửa sổ lúc nãy chui vào, thấy cửa sổ có vết phá. Bên cạnh thi thể viên đại úy là một túi bằng vải xanh lá cây, đựng đầy cát, đường kính khoảng năm centimét.
Bác sĩ Warren quỳ xuống bên cạnh thi thể đại úy Trevelyan. Một phút sau, ông đứng lên, mặt tái xanh.
- Chết rồi sao? - thiếu tá Burnaby hỏi.
Bác sĩ gật đầu, rồi quay sang viên cảnh sát:
- Bây giờ tôi làm theo lệnh ông. Tôi cứ khám nghiệm tử thi hay phải chờ thanh tra đến? Ngay bây giờ tôi có thể khẳng định rằng nạn nhân chết do vỡ xương sọ.
Bác sĩ trỏ túi cát.
Thiếu tá Burnaby nói khẽ:
- Đại úy Trevelyan dùng túi cát ấy để chẹn bên dưới cánh cửa cho khỏi gió lùa.
- Xem chừng - cảnh sát trưởng nói - đây là một vụ án mạng.
Ông ta bước đến bàn, nhấc máy điện thoại.
Thiếu tá Burnaby đến gần bác sĩ:
- Đại úy Trevelyan chết được bao lâu rồi? Liệu ông có đoán được chưa?
- Khoảng hai tiếng... cũng có thể ba...
Thiếu tá Burnaby liếm cặp môi khô khốc:
- Theo ông thì có thể đại úy Trevelyan chết vào lúc năm giờ hai mươi nhăm phút được không?
Bác sĩ sửng sốt nhìn người cựu thiếu tá.
- Nếu phải xác định cho đúng giờ nạn nhân chết, thì tôi đoán có thể vào khoảng thời gian đó.
Rồi ông ta nhìn viên thiếu tá, chưa hiểu tại sao ông này lại hỏi câu lúc nãy.
Thiếu tá Burnaby lê bước đến chiếc ghế tựa, ngồi xuống. Vẻ kinh hoàng hiện lên trên vẻ mặt, ông ta lẩm bẩm:
- Năm giờ hai mươi nhăm? Lạy Chúa tôi! Vậy ra là đúng sao?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 18:46:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4

THANH TRA NARRACOTT


Sáng hôm sau, có hai người đứng trong ngôi biệt thự "Hazelmoor".
Thanh tra cảnh sát Narracott đưa mắt nhìn xung quanh, cau mày suy nghĩ, nói:
- Chà, đúng là như thế.
Thanh tra Narracott đem sử dụng vào trong nghề điều tra của ông tính lô gích và óc quan sát nhạy bén. Ông không bỏ qua một chi tiết nào, và đã khám phá ra nhiều vụ án mà người khác phải bó tay. Người ta bảo viên thanh tra này có cái mũi thính của loài chó săn. Vóc cao lớn, vẻ mặt điềm đạm, giọng nói nhẹ nhàng và kéo dài của dân miền Devonshire, với cặp mắt màu tro như thể lúc nào cũng nhìn ra nơi xa lắc.
Được giao điều tra vụ án này, thanh tra Narracott đã đáp chuyến tầu đầu tiên buổi sáng sớm, chạy từ thị xã Exeter đến đây. Nếu đường xá không đến nỗi nào, ông đã lên ôtô đi từ trước khi trời sáng.
Bây giờ, thanh tra Narracott đang đứng trong phòng giấy của nạn nhân, đại úy Trevelyan, cùng với trung sĩ cảnh sát Pollock, nhân viên đồn cảnh sát thị trấn Exhampton.
Một tia nắng mùa đông yếu ớt rọi vào gian phòng. Cách cửa sổ chừng một trăm mét là hàng rào, bên ngoài hàng rào là sườn đồi thoai thoải phủ tuyết rất dày.
Thanh tra Narracott lại cúi xuống nhìn thi thể nạn nhân một lần nữa. Bản thân tập luyện điền kinh, thanh tra Narracott đánh giá cao những bắp thịt cuồn cuộn của đại úy Trevelyan. Đầu nhỏ, chòm râu cắt thành nhọn bên dưới, đại úy Trevelyan có vẻ chưa đến năm mươi tuổi, mặc dù thật ra ông đã sáu mươi.
Viên thanh tra nói:
- Vụ án mạng này khá phức tạp đây.
- Thế ạ? - viên trung sĩ kêu lên.
Thanh tra Narracott quay sang anh ta:
- Theo anh thì thế nào, trung sĩ?
- Quả thật, tôi...
Trung sĩ Pollock gãi gáy. Bản chất thận trọng, anh ta chưa đưa ra nhận định nào.
- Theo thiển ý của tôi, thì thủ phạm đã phá cửa sổ chui vào, lục lọi gian phòng này. Đại úy Trevelyan lúc đó ở trên gác, nhưng tên gian không biết, tưởng trong nhà không có ai...
- Phòng ngủ của nạn nhân ở đâu?
- Trên gác. Ngay trên đầu gian phòng này.
- Vào mùa này, bốn giờ chiều trời đã tối, trung sĩ ạ. Nếu nạn nhân đang ở trên gác, tất ông ta phải bật đèn, và tên gian lúc chui vào qua của sổ, ắt phải nhìn thấy ánh đèn chứ?
- Vậy ông thanh tra cho rằng nạn nhân đợi hắn?
- Trừ phi là kẻ mất trí, còn không ai đột nhập vào một ngôi nhà có đèn sáng. Nếu kẻ gian phá cửa sổ để đột nhập, hắn phải tin rằng trong nhà không có ai.
Trung sĩ Pollock lại gãi gáy:
- Kể ra cũng vô lý, nhưng...
- Trung sĩ nói tiếp suy nghĩ của cậu đi.
- Theo tôi phỏng đoán thì khi nghe thấy tiếng động dưới nhà, nạn nhân chạy xuống xem chuyện gì. Tên gian nghe thấy tiếng chân bước trên cầu thang bèn vớ túi cát, nấp sau cánh cửa. Đúng lúc đại úy Trevelyan bước vào, tên gian liền quật túi cát lên đầu ông ta, từ phía sau…
- Cách giải thích của cậu phần nào có lý. Đúng là nạn nhân bị đánh từ phía sau, lúc ông ta nhìn ô cửa sổ. Nhưng giả thuyết của trung sĩ chưa làm tôi thỏa mãn chút nào.
- Vậy ạ?
- Tôi không tin có kẻ gian phi nào đột nhập vào nhà người ta ăn trộm vào năm giờ chiều.
- Hẳn y ngẫu nhiên thấy có cơ hội thuận lợi...
- Đây không phải là chuyện ngẫu nhiên. Thấy rõ thủ phạm đã cố tình tạo ra khung cảnh một vụ đột nhập ăn trộm. Nhưng nếu là trộm, đầu tiên hắn phải mò đến chỗ nào? Tất nhiên đến tủ đựng thìa nĩa bằng bạc.
- Nhưng ở đây cũng đúng là như thế.
- Nhưng tại sao hắn lật tung mọi thứ lên: các ngăn kéo, giấy tờ tung tóe? Rõ ràng có một sự bố trí nhằm đánh lừa chúng ta.
- Đánh lừa?
- Trung sĩ ạ, cậu thử nhìn cửa sổ kia xem. Không phải bị phá, mà... chỉ bị hung thủ cạo nhẹ mặt gỗ bên ngoài để giả như hắn phá cửa sổ chui vào.
Trung sĩ Pollock xem xét kỹ cửa sổ rồi thốt lên một tiếng bực tức.
- Thanh tra nói đúng - anh ta nói bằng giọng kính phục - Ai ngờ được hắn hiểm độc đến thế.
- Một kẻ muốn đánh lạc hướng chúng ta: nhưng hắn đã không thành công.
Viên trung sĩ rất biết ơn viên thanh tra về hai chữ "chúng ta". Chính nhờ thái độ tế nhị đó mà thanh tra Narracott luôn chinh phục được cảm tình của cấp dưới.
- Vậy theo ông thanh tra thì hung thủ rất thông thuộc nơi này?
- Hoàn toàn thông thuộc - viên thanh tra nói - Chỉ có một điều lạ duy nhất, là đúng hắn vào theo lối cửa sổ thật. Theo báo cáo của đồn trưởng Graves thì trên sàn nhà trong gian phòng này có những vết giầy, và đến giờ vẫn còn những chỗ ướt, do tuyết dính vào giầy tan ta thành nước. Đồn trưởng Graves nhìn thấy những vết giầy ngay khi ông ta mới bước vào đây, và ông ta còn khẳng định, trên sàn nhà chỗ cửa chính không có vết chân ấy. Có nghĩa đại úy Trevelyan đã mở cửa sổ cho hung thủ vào theo lối đó. Ta có thể kết luận hung thủ là người quen của nạn nhân. Trung sĩ, cậu là người ở đây, liệu cậu có biết, đại úy Trevelyan có ai hằn thù không?
- Thưa ông thanh tra, tôi không biết. Tôi chỉ biết đại úy Trevelyan là người keo kiệt, hám tiền. Người ta có thể không ưa ông ta, nhưng thù thì tôi đoán không có ai.
- Không có kẻ thù - thanh tra Narracott chậm rãi nhắc lại, dáng suy nghĩ.
- Ít ra thì cũng trong vùng này.
- Cậu nói đúng... Hiện chúng ta còn chưa biết hồi làm sĩ quan hải quân, đại úy Trevelyan có gây thù gây oán với ai không? Theo kinh nghiệm của tôi thì một người đã gây thù gây oán ở một nơi, sau này đến nơi khác cũng vẫn gây tiếp những thù oán mới. Nhưng ta không nên coi đó là quy luật. Bây giờ ta thử xem xét loại động cơ thứ hai, thường hay gây ra án mạng: động cơ tiền. Đại úy Trevelyan giàu phải không nhỉ?
- Vâng, ông ta rất nhiều tiền, nhưng keo kiệt. Mỗi khi có chuyện quyên góp, là rất khó moi được tiền trong túi ông ta.
- Ra thế!
Trung sĩ Pollock nói thêm:
- Giá không có trận mưa tuyết tai hại này, chúng ta có thể tìm dấu chân giầy của hung thủ, có phải dễ dàng hơn nhiều không?
- Trong nhà này, ngoài đại úy Trevelyan có còn ai nữa không?
- Không. Trong vòng năm năm gần đây, ông ta chỉ giữ có một người giúp việc, một cựu binh sĩ hải quân. Hồi ông ta còn ở trên làng Sittaford, vẫn có thêm một phụ nữ hàng ngày đến dọn dẹp nhà cửa, còn cậu cựu binh sĩ hải quân kia, cậu ta tên là Evans, thì đảm nhiệm phần bếp núc. Nhưng cách đây chừng một tháng, cậu ta cưới vợ. Chuyện này làm ông đại úy rất khó chịu. Tôi đoán đấy cũng là một trong những nguyên nhân khiến ông ta cho thuê tòa lâu đài trên làng Sittaford của ông ta. Đại úy Trevelyan rất không muốn có người phụ nữ nào trong nhà. Vì nhà cậu Evans kia chỉ cách đấy vài chục bước chân trên phố Fore, cho nên cậu ta có thể hàng ngày đến hầu hạ ông chủ. Cậu ta hiện đang có mặt tại đây, ở phòng bên cạnh. Thanh tra muốn gặp cậu ta không? Câu ta khai là hôm qua, cậu ta ra khỏi nhà này từ lúc hai giờ rưỡi, vì ông chủ bảo không cần đến cậu ta trong ngày nữa.
- Tôi sẽ thẩm vấn anh ta. Chắc anh ta sẽ cung cấp cho chúng ta được một số thông tin bổ ích.
Trung sĩ Pollock ngạc nhiên nhìn cấp trên. Anh ta ngạc nhiên về giọng nói của thanh tra Narracott.
- Ông thanh tra cho rằng...? - trung sĩ vừa bắt đầu nói.
- Tôi cho rằng vụ án này phức tạp hơn chúng ta tưởng lúc ban đầu nhiều.
- Sao vậy, thưa thanh tra?
Nhưng thanh tra Narracott từ chối nói rõ hơn.
- Cậu bảo anh người làm hiện có mặt ở đây?
- Vâng. Cậu ta đang ngồi chờ bên phòng ăn.
- Tốt. Anh ta là loại người thế nào?
Trung sĩ Pollock thấy nên kể các sự kiện hơn là miêu tả con người.
- Cậu Evans này đã từng phục vụ trong hải quân, nhưng lành hiền, không cãi cọ với ai bao giờ.
- Có rượu chè không?
- Có uống nhưng chỉ ở mức độ bình thường.
- Vợ anh ta ra sao? Liệu ông đại úy này có quá vồn vã với cô vợ người làm công không?
- Chuyện đó thì hoàn toàn không! Đại úy Trevelyan không thuộc loại đàn ông hám gái. Thậm chí ông ta còn ghét phụ nữ nữa kia.
- Anh chàng Evans này trung thành với ông chủ cậu ta chứ?
- Mọi người ở đây đều cho là như vậy. Vả lại nếu cậu ta có gì xấu thì mọi người biết ngay. Thị trấn Exhampton này chỉ có ít dân, mọi người đều biết rõ nhau.
- Hãy tạm thế - thanh tra Narracott nói - Bây giờ tôi sang thẩm vấn sơ qua anh người làm Evans rồi xem xét nốt các chỗ khác trong ngôi nhà này. Sau đấy chúng ta sẽ đến gặp thiếu tá Burnaby ở khách sạn Ba Vương miện. Câu ông ta nhận xét về thời điểm xảy ra vụ án làm tôi chú ý. Năm giờ hai mươi nhăm... Tại sao ông ta biết được chính xác giờ xảy ra án mạng? Hẳn còn có điều gì đó ông ta chưa nói cho chúng ta biết.
Hai người đi ra phía cửa.
Trung sĩ Pollock vẫn vừa đi vừa nhìn số giấy tờ tung tóe dưới sàn nhà, nói:
- Tôi không sao hiểu nổi hung thủ tạo hiện trường giả này để làm gì?
- Điều tôi băn khoăn lại là thứ khác, trung sĩ ạ. Đó là cái của sổ kia kìa.
- Cửa sổ?
- Đúng thế. Tại sao hung thủ lại vào theo lối cửa sổ? Nếu là người quen của đại úy Trevelyan, và ông vui vẻ tiếp, thì sao hắn không gõ cửa chính và đi vào bằng của ấy? Ngoài ra sân tuyết phủ dày như thế, tại sao hắn đi vòng ra lối sau nhà để vào theo đường cửa sổ cho khó khăn? Hẳn phải có một động cơ nào đó.
- Hay hắn không muốn ai nhìn thấy hắn vào nhà? - trung sĩ Pollock gợi ý.
- Chiều tối hôm qua, mấy ai ra đường làm gì? Trừ phi có chuyện cấp thiết lắm, còn người ta ngồi ru rú trong nhà bên cạnh lò sưởi chứ. Hẳn hung thủ có một động cơ nào đó mà chúng ta chưa biết... Nhưng rồi chúng ta vẫn sẽ biết thôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 18:48:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5

EVANS


Thấy hai quan chức cảnh sát vào phòng ăn, Evans kính cẩn đứng lên. Vóc thấp, to ngang, anh ta có hai cánh tay rất dài, và theo thói quen, hơi nắm lại. Anh ta cạo râu ria sạch sẽ, và cặp mắt anh ta giống như mắt lợn con. Tuy nhiên toàn thân anh ta toát ra một vẻ lành hiền và thông minh, làm lu mờ hình dạng xấu xí của anh ta.
Thanh tra Narracott thầm tóm tắt ấn tượng về Evans như sau: "Thông minh, ranh ma, thực tế. Có vẻ hơi buồn".
- Anh tên là Evans? - Thanh tra bắt đầu hỏi.
- Vâng, thưa ông.
- Tên đầy đủ?
- Robert Henry Evans.
- Tốt. Anh biết những gì về vụ án này?
- Tôi hoàn toàn không biết gì, thưa ông thanh tra. Đến giờ tôi vẫn không làm sao hiểu nổi: ông đại úy bị giết ngay trong nhà ông ấy!
- Anh nhìn thấy ông Trevelyan lần cuối cùng là khi nào?
- Hôm qua, tôi ra khỏi nhà này vào khoảng hai giờ trưa. Tôi đã thu dọn xong bát đĩa bữa ăn trưa của ông chủ, và chuẩn bị thức ăn bữa tối, như hai ông thấy đấy. Đại úy bảo không cần tôi đến trong ngày nữa.
- Và khi ông chủ của anh nói như vậy anh có thấy ngạc nhiên không?
- Bình thường, tôi đến đây làm từ bảy giờ sáng, đến hai giờ chiều thì về. Không phải hôm vào cũng vậy, nhưng rất nhiều hôm ông chủ bảo tôi không phải đến đây buổi chiều.
- Nghĩa là khi thấy đại úy Trevelyan bảo không cần đến đây vào buổi chiều, anh không ngạc nhiên chút nào?
- Vâng, đúng thế, thưa ông thanh tra. Tôi không đến đây thêm lần nào cũng vì thời tiết quá xấu. Đại úy Trevelyan là một ông chủ rất tốt, miễn là người làm công chịu khó thực hiện mọi công việc ông sai. Tôi rất biết ơn tính nết đó của ông chủ tôi.
- Đại úy Trevelyan cụ thể đã nói với anh như thế nào?
- Đại úy nhìn ra cửa sổ nói: "Hẳn ông Burnaby chiều nay sẽ không đến. Mưa tuyết thế này, chắc chắn làng Sittaford ngập trong tuyết, không thể đi đâu ra ngoài làng được. Từ nhỏ, chưa bao giờ tôi thấy một mùa đông như thế này".
Burnaby là bạn thân thiết của ông chủ tôi, ông ấy xưa kia là thiếu tá, nhà hiện nay ở trên làng Sittaford. Hai người đã thành lệ, cứ chiều thứ Sáu, ông Burnaby đến nhà ông chủ tôi đánh cờ bạc rồi chơi giải các câu đố về thơ hồi văn. Chiều Thứ Ba thì ông chủ tôi đến nhà ông Burnaby. Chưa bao giờ hai ông bỏ cái lệ ấy. Lúc nhìn ra cửa sổ và nói câu ấy, ông chủ tôi nói thêm: "Cậu về đi, sáng mai mới cần đến đây".
- Đại úy không nói là đang đợi ai khác ngoài thiếu tá Burnaby nữa?
- Không. Ông chủ tôi không nói gì về chuyện ấy.
- Anh không nhận thấy chiều hôm qua ông chủ anh có vẻ gì khác mọi ngày sao?
- Tôi không nhận thấy, thưa ông.
- Hình như anh mới cưới vợ phải không, Evans?
- Vâng được hai tháng... cô ấy là cháu bà Belling, chủ khách sạn Ba Vương miện.
- Và đại úy Trevelyan không tán thành việc anh lấy vợ?
- Thậm chí ông chủ tôi còn nổi cáu. Được cái cô Rebecca vợ tôi hiền lành, lại nấu bếp rất giỏi. Trước kia, tôi đã hy vọng ông chủ nhận cả cô ấy cùng vào làm ở đây, nhưng ông chủ tôi dứt khoát từ chối, bảo rằng ông không chịu nổi thấy một người phụ nữ trong cái nhà này. Đang trong tình trạng ấy thì cái bà ở châu Phi mới về nước kia ngỏ ý xin thuê tòa lâu đài của ông chủ tôi trên làng Sittaford để nghỉ vụ đông này. Từ khi ông chủ tôi thuê ngôi biệt thự ngoài thị trấn này để ở, ngày nào tôi cũng đến làm, hy vọng ông chủ thay đổi ý kiến, và sau này khi quay lên làng Sittaford, sẽ nhận vợ tôi cùng vào hầu hạ.
- Anh có biết tại sao ông đại úy lại ghét phụ nữ đến thế không?
- Không, thưa ông. Tôi cho rằng do ông chủ tôi e thẹn. Nhưng cũng có thể do ông chủ tôi đã vấp phải một chuyện thất tình đau xót thuở trẻ.
- Đại úy Trevelyan chưa hề kết hôn bao giờ?
- Chưa, thưa ông.
- Ông ấy có họ hàng chứ?
- Vâng. Một bà chị hiện ở thị xã Exeter, và hình như có một hoặc vài người cháu.
- Có người nào trong số đó đến đây thăm đại úy không?
- Không, thưa ông thanh tra. Theo tôi biết thì hình như ông chủ tôi có chuyện bất hòa với bà chị ông ấy ở thị xã Exeter.
- Bà chị ấy tên gì?
- Phu nhân Gardner, nếu tôi nhớ không sai.
- Anh biết địa chỉ bà ấy không?
- Không, thưa ông.
- Có lẽ chúng tôi sẽ tìm thấy địa chỉ đó trong đống giấy tờ của đại úy Trevelyan. Anh Evans này, hôm qua từ bốn giờ chiều trở đi, anh ở đâu và làm những gì?
- Tôi ở nhà thưa ông.
- Nhà anh ở đâu?
- Cuối phố này, số nhà 85 phố Fore.
- Anh hoàn toàn không ra khỏi nhà?
- Không, thưa ông. Chiều tối qua trận mưa tuyết dữ dội quá.
- Tôi biết. Ai có thể xác nhận lời khai vừa rồi của anh?
- Vợ tôi, thưa ông.
- Nhà chỉ có hai anh chị thôi à?
- Vâng, thưa ông.
- Thôi được, hãy tạm thế.
Anh chàng cựu chiến binh hải quân ngập ngừng một chút rồi hỏi:
- Tôi có thể thu dọn sơ qua ở đây được không?
- Không. Cần phải để nguyên như thế này.
- Vâng, tôi hiểu, thưa ông thanh tra.
- Và anh cũng đừng ra khỏi đây vội, trong khi tôi chưa xem xét xong ngôi nhà này. Rất có thể tôi cần hỏi thêm anh điều gì đó.
- Vâng, thưa ông.
Thanh tra Narracott đưa mắt quan sát phòng ăn. Trên bàn vẫn còn số thức ăn Evans chuẩn bị cho chủ ăn bữa tối. Một đĩa lưỡi lạnh giá, món dưa ngâm dấm, pho mát, bánh quy, và một xoong canh. Trên tủ ăn có ngăn đựng vài chai rượu, một bình nước khoáng Seltz, và hai chai bia. Có cả nhiều chiếc cúp thể thao, và ba cuốn sách dày mới toanh.
Thanh tra Narracott xem xét vài chiếc cúp, cúi xuống đọc những dòng chữ ghi trên lớp kim loại.
- Qua đây thì thấy đại úy Trevelyan đã từng là vận động viên thể thao xuất sắc - ông nói.
- Đúng thế, thưa ông. Chủ tôi là một nhà thể thao cừ khôi đấy.
Thanh tra Narracott đọc tiếp tên các cuốn sách. Đó là những tiểu thuyết. Tình ái quyết định, Những chàng trai vui tính ở Lincoln, và Những tù binh của ái tình.
- Xem chừng thẩm mỹ của ông đại úy không cao gì mấy.
Evans bật cười, nói.
- Thưa ông thanh tra, những cuốn sách đó đâu phải ông chủ tôi mua để đọc? Đấy là phần thưởng trong cuộc thi đố vui của một tờ báo. Đại úy Trevelyan đã gửi mười câu trả lời, dưới mười cái tên khác nhau, trong đó có cả tên tôi, bởi vì ông chủ tôi cho rằng địa chỉ của tôi, 85 phố Fore, là một địa chỉ tốt để tờ báo kia chọn tặng giải. Tên và địa chỉ nghe càng quen thuộc bao nhiêu, người dự thi càng có nhiều khả năng nhận giải thưởng bấy nhiêu. Quả đúng như vậy, vì một lần tôi đã được giải... nhưng không phải là hai ngàn bảng, mà chỉ ba cuốn sách... thứ sách họ bán ế... và các hiệu sách giữ tiếng đều không nhận bày bán.
Thanh tra Narracott cười rồi dặn lại Evans đừng đi đâu vội, ông tiếp tục quan sát ngôi nhà. Góc phòng kê một tủ lớn, ông mở ra, thấy trong đựng đủ loại vật dụng chẳng ăn nhập gì với nhau: hai đôi giày trượt tuyết, hai mái chèo, khoảng một chục cặp ngà hà mã, bó cần câu, hộp lưỡi câu, cây gậy đánh gôn, một chiếc vợt ten-nít, mảnh da hổ. Điều này chứng tỏ trước khi giao nhà cho khách thuê, đại úy Trevelyan sợ tính bép xép của phụ nữ, đã khuân tất cả những gì ông quý về nơi ở tạm này.
Thanh tra Narracott nói.
- Khuân đến đây những thứ chợ trời này làm gì kia chứ? Bởi ông đại úy chỉ cho thuê tòa lâu đài kia có mấy tháng mùa đông, có phải thể không nhỉ?
- Vâng đúng thế, thưa ông.
- Sao ông ấy không cất các thứ này vào cái tủnào đó ở Sittaford rồi khóa lại?
Đây là lần thứ hai Evans lại nhăn mặt:
- Tính ông chủ tôi như thế đấy. Lâu đài Sittaford thiếu gì tủ kia chứ, nhưng ông đại úy chỉ lo ai lấy mất những thứ này.
Thanh tra Narracott thấy đây là một cơ hội tốt để ông hỏi một câu ông muốn hỏi từ lâu:
- Bà Willett thuê lâu đài đó là người quen biết lâu năm của đại úy Trevelyan phải không?
- Không phải đâu, thưa ông. Hai người hoàn toàn không biết nhau.
- Anh biết chắc như thế không?
- Chủ tôi không nói... nhưng tôi tin là tôi biết rõ.
- Tôi hỏi anh câu đó vì tôi lấy làm lạ, ai lại chọn cái làng hẻo lánh trên vùng núi lạnh giá này để nghỉ mấy tháng mùa đông? Hơn nữa, do đâu bà Willett kia biết có tòa lâu đài ấy?
- Chỉ là do hàng môi giới nhà đất Williamson giới thiệu.
Thanh tra Narracott cau mày. Việc thuê tòa nhà ở làng Sittaford vào mùa đông vẫn làm ông thấy khó hiểu.
- Bà Willett có đến gặp ông đại úy?
- Vâng. Bà ấy đến gặp để ông chủ tôi đưa bà ấy đi xem tòa lâu đài.
- Thế là... - Viên thanh tra cảnh sát ngưng lại một chút. - Họ thấy mến nhau chứ gì?
- Bà khách có vẻ rất hài lòng, xem xét rất kỹ cả tòa lâu đài lẫn các đồ đạc bên trong.
- Còn ông đại úy?
Evans cười toác miệng:
- Bà khách có niềm nở đến mấy thì cũng vẫn không làm ông chủ tôi tươi lên chút nào. Chủ tôi giữ thái độ lịch sự, chỉ có vậy thôi. Và sau đấy bà Willett bao nhiêu lần mời ông chủ tôi đến chơi, ông chủ tôi đều từ chối thẳng thừng.
- Nghĩa là bà ấy có mời?
- Thậm chí bà Willett còn dặn ông chủ tôi, bất cứ lúc nào tiện đường cũng cứ ghé vào chơi, không cần câu nệ, báo trước gì hết.
- Nghĩa là bà ấy rất muốn gặp đại úy Trevelyan?
Thanh tra Narracott vẫn tự hỏi, tại sao bà Willett lại muốn thuê tòa nhà ở Sittaford? Liệu có phải để gặp gỡ đại úy Trevelyan không? Và hẳn bà ta không ngờ sau đấy ông đại úy lại dọn ra ở tạm ngoài thị trấn Exhampton. Hẳn bà ta đinh ninh ông đại úy sẽ giữ lại một phòng để tạm ở, hoặc sang ở chung một thời gian với ông bạn, thiếu tá Burnaby, nhà ngay gần đấy.
Câu trả lời của Evans không giúp gì thêm trong việc ông thanh tra muốn biết về mối quan hệ giữa bà Willett với ông đại úy.
Evans vẫn nói tiếp:
- Bà Willett có tính thích tiếp khách. Không ngày nào bà ta không mời khách đến ăn uống, chơi bời.
Thanh tra Narracott tính sẽ phải gặp người phụ nữ kỳ lạ kia trong thời gian gần nhất. Việc bà ta đột nhiên đến vùng này là điều cần nghiên cứu thấu đáo.
- Pollock - ông nói với trung sĩ cảnh sát - Ta lên xem trên gác đi.
Ra khỏi phòng ăn, đợi cánh cửa khép lại, trung sĩ Pollock khẽ hỏi thanh tra Narracott:
- Ông thanh tra thấy cậu ta thế nào?
- Có vẻ chân thật... nhưng chưa thể kết luận ngay được. Có điều đã rõ, anh ta không hề khờ dại chút nào.
- Tôi còn cho là cậu ta rất khôn ngoan ấy chứ.
- Lời khai của anh ta khá minh bạch và tôi cảm thấy anh ta nói thật. Nhưng chúng ta chưa nên đánh giá vội, trung sĩ ạ.
* * *
Tầng hai có ba phòng ngủ và một buồng tắm. Hai phòng trống rỗng, có vẻ đã lâu không ai ở. Phòng thứ ba, đại úy Trevelyan dùng làm phòng ngủ. Hết sức sạch sẽ, ngăn nắp. Thanh tra Narracott mở các tủ và ngăn kéo. Chỗ nào cũng trật tự đến mức khó có thể chê. Rõ ràng đại úy Trevelyan là người cẩn thận, tỉ mỉ. Thanh tra vào phòng tắm, cũng ngăn nắp, sạch sẽ đến mức lý tưởng.
- Không có gì đặc biệt.
- Vâng, đúng thế.
- Pollock, cậu thử ngó xem các giấy tờ dưới phòng làm việc một cái. Có thể cho Evans về. Nếu cần hỏi gì cậu ta tôi sẽ đến nhà sau.
- Vâng, thưa ông thanh tra.
- Cho họ đem thi thể nạn nhân đi được rồi đấy. Trên đường về tôi sẽ ghé vào gặp bác sĩ Warren. Nhà ông ta ngay gần đây, phải không nhỉ?
- Vâng.
- Bên này khách sạn Ba Vương miện phải không?
- Không, bên kia.
- Thôi được. Tôi về khách sạn đã. Cậu tiếp tục công việc của cậu đi, Pollock.
Trung sĩ Pollock ghé vào phòng ăn báo cho Evans về. Thanh tra Narracott đi nhanh ra khỏi nhà, hướng về phía khách sạn Ba Vương miện.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 18:50:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6

TẠI KHÁCH SẠN BA VƯƠNG MIỆN


Trước khi gặp thiếu tá Burnaby, thanh tra Narracott phải chịu đựng một loạt những câu kể lể dài dòng vô bổ của Belling, chủ khách sạn Ba Vương Miện. Người phụ nữ to béo này có kiểu nói một mạch, bắt người nghe phải nghe cho hết những chuyện con cà con kê của bà ta rồi bà ta mới chịu để yên.
- Chào ông! Thật không thể ngờ ông Trevelyan lại gặp phải một nỗi bất hạnh tàn bạo như thế. Cái bọn trộm cắp đáng nguyền rủa kia là cứ phải bỏ tù hết. Tôi không sao chịu nổi cái giống ấy. Bọn chúng rất sợ chó, vậy mà ông Trevelyan lại không chịu khó nuôi lấy một con để trông nhà và bảo vệ chủ. Mà hôm qua mưa tuyết dữ dằn quá, thành thử chỉ cách nhà hai chục mét cũng không ai nghe thấy gì hết...
- Thiếu tá Burnaby hiện có ở đây không? Tôi gặp ông ấy được chứ?
- Có đấy, thưa ông Narracott - bà chủ khách sạn đáp - Thiếu tá Burnaby hiện đang ăn điểm tâm bên phòng ăn. Tội nghiệp ông ấy quá. Đêm qua phải ngủ mà không được mặc đồ ngủ. Tôi là phụ nữ, lại góa chồng, làm gì có quần áo ngủ của đàn ông mà cho ông ấy mượn kia chứ? Cái chết của người bạn thân thiết làm ông ấy thành như người mất hồn. Cả hai ông đều tốt, duy ông đại úy lại quá keo kiệt. Tôi vẫn cứ bảo sống trên làng Sittaford heo hút ấy rất nguy hiểm, vậy mà bây giờ ông lại gặp tai họa sau khi xuống dưới thị trấn này. Đúng là định mệnh. Sống trên nơi hẻo lánh thì không sao, vậy mà xuống nơi có người này người nọ thì lại chết...
- Đúng thế, thưa bà Belling - thanh tra Narracott đành phải ngắt lời bà quả phụ thích nói kia - Khách hôm qua nghỉ ở khách sạn của bà là những ai? Có người nào không phải trong vùng này không?
- Khoan đã… Phải rồi, có hai ông nhà buôn, kiểu chào hàng ấy mà, tên là Moresby và Jones, và một ông khách trẻ người London. Có vậy thôi. Chẳng là mùa này ở đây yên tĩnh mà... Ôi, tôi suýt quên, còn một ông khách trẻ đến đây bằng chuyến tàu hỏa cuối cùng, hiện ông ta còn đang ngủ.
- Chuyến tàu cuối cùng?... Chuyến đến ga lúc mười giờ đêm phải không, thưa bà... Nếu vậy cứ để ông ta ngủ. Nhưng ông khách từ London đến? Bà biết ông ta không?
- Không. Hôm qua tôi gặp ông ta là lần đầu tiên. Không phải dân buôn đâu, trông dáng điệu cử chỉ là biết ngay. Tôi quên mất tên ông ta rồi. Nhưng có ghi trong sổ đấy. Sáng nay ông ấy đã rời khỏi đây từ sớm, đáp chuyến tàu đi Exter lúc sáu giờ mười. Chính tôi cũng thắc mắc, ông ta đến đây để làm gì không biết?
- Bà không hỏi ông ta làm nghề gì à?
- Không.
- Thời gian nghỉ ở đây, ông ta có đi đâu không?
- Có. Đến đây lúc giờ ăn trưa, thì khoảng bốn giờ chiều ông ta đi đâu đó, mãi sáu giờ rưỡi mới về.
- Bà không biết ông ta đi đâu à?
- Không. Chắc đi dạo thôi. Lúc đó trời chưa đổ trận mưa tuyết lớn, nhưng cũng không phải thích hợp cho việc đi dạo.
- Bà vừa bảo ông ta đi khỏi khách sạn lúc bốn giờ và về lúc sáu giờ rưỡi! Chà, nếu vậy tôi thấy lạ đấy. Bà có thấy ông ta nói gì đến đại úy Trevelyan không?
Bà chủ khách sạn lắc đầu mạnh mẽ:
- Không, thưa ông Narracott. Một là ông ta lầm lì chẳng nói chẳng rằng, như thể muốn tránh gặp mọi người... và trong nét mặt ông ta như đang băn khoăn điều gì...
Thanh tra Narracott lấy cuốn sổ ghi khách vãng lai, lật ra xem.
- James Pearson, London. Chỉ có vậy thôi. Chúng tôi đành phải tiến hành một cuộc điều tra nhỏ về ông James Pearson này vậy.
Rồi viên thanh tra sang phòng ăn. Thiếu tá Burnaby ngồi một mình, ngoài ra không có ai khác, và đang uống tách cà phê đen, trước mặt là tờ Thời báo mở rộng.
- Xin lỗi, ông là thiếu tá Burnaby?
- Vâng.
- Tôi là thanh tra Narracott, ở sở cảnh sát Exter.
- Chào ông thanh tra. Cuộc điều tra tiến triển tốt chứ?
- Vâng, tôi có thể khẳng định điều đó.
- Tốt lắm - viên thiếu tá lạnh nhạt nói, thậm chí giọng còn có vẻ hoài nghi.
- Xin ông cho hỏi vài câu, được không thưa thiếu tá Burnaby?
- Được chứ. Tôi sẽ cố trả lời đầy đủ nhất.
- Theo ông biết thì đại úy Trevelyan có ai thù hằn không.
- Hoàn toàn không có.
- Theo ông, người làm công cho ông ấy, Evans, có phải là người lương thiện không?
- Rất lương thiện, và ông đại úy rất tin tưởng cậu ta.
- Liệu có mối bất hòa nào giữa hai người xung quanh việc anh ta lấy vợ không?
- Hoàn toàn không. Chỉ là đại úy Trevelyan lo cô vợ Evans phá rối cuộc sống độc thân của ông ấy.
- Nhân đây xin hỏi, đại úy Trevelyan chưa hề kết hôn lần nào hay sao? Xin ông thiếu tá cho biết, đại úy có để lại chúc thư, nói tài sản của ông ấy sẽ để lại cho ai hưởng không?
Thiếu tá Burnaby vội vã đáp:
- Trevelyan có để lại chúc thư.
- Vậy là ông biết?
- Tất nhiên rồi, vì Trevelyan ủy thác cho tôi làm công việc thực hiện chúc thư đó.
- Ai là người được hưởng quyền thừa kế?
- Tôi không thể nói rõ được.
- Đại úy Trevelyan có nhiều tài sản không?
- Ông ấy giàu hơn người ta tưởng rất nhiều.
- Đại úy có họ hàng không?
- Có. Một bà chị, và theo tôi biết thì mấy đứa cháu cả trai lẫn gái. Trevelyan rất ít khi gặp họ, nhưng giữa ông ấy và gia đình bà chị không có xích mích gì.
- Hiện bản chúc thư ai giữ?
- Văn phòng hai công chứng viên ở thị trấn Exhampton, tên là Walter và Kirkwood.
- Thưa thiếu tá Burnaby, vì ông là người thực hiện chúc thư, ông có thể cùng đi với tôi đến gặp hai viên công chứng ấy không? Tôi muốn biết càng sớm càng tốt nội dung bản chúc thư ấy.
Thiếu tá Burnaby ngước mắt nhìn viên thanh tra:
- Có chuyện gì vậy? Bản chúc thư có tầm quan trọng trọng vụ án này hay sao?
Thanh tra Narracott chưa vội ngả bài ngay:
- Vụ án phức tạp hơn chúng tôi phỏng đoán lúc ban đầu. Tôi muốn hỏi thêm một câu nữa. Thưa thiếu tá Burnaby, hình như tối hôm qua, ông có hỏi bác sĩ Warren là phải chăng vụ án mạng xảy ra lúc năm giờ hai mươi nhăm, có chuyện đó không?
- Nhưng như thế thì sao? - thiếu tá Burnaby đột nhiên vặn lại.
- Do đâu thiếu tá đoán vụ án mạng xẩy ra vào giờ đó mà không phải vào giờ khác?
- Nghĩa là sao, tôi chưa hiểu?
- Căn cứ vào đâu thiếu tá đoán vụ án mạng xảy ra vào một giờ chính xác đến như vậy?
- Tôi rất có thể đoán là sáu giờ kém hai mươi nhăm, hoặc bốn rưỡi lắm chứ.
- Tất nhiên rồi - viên thanh tra công nhận.
Thanh tra Narracott nghĩ không nên tranh luận với thiếu tá Burnaby lúc này.
- Việc đại úy Trevelyan cho thuê tòa lâu đài ở Sittaford làm tôi rất khó hiểu.
- Xin nói ngay là tôi cũng không hiểu.
- Ra thế!
- Và không phải chỉ tôi, mà mọi người khác cũng không ai hiểu.
- Những người ở làng Sittaford?
- Làng Sittaford và thị trấn Exhampton. Bà ta đúng là điên khùng.
- Cả về cách sống và cách ăn mặc?
- Đúng thế.
- Thiếu tá rất quen biết bà ấy?
- Đúng thế. Tôi ngồi ở nhà bà ấy đúng vào lúc...
- Lúc làm sao? - Thấy viên thiếu tá ngưng câu nói lại giữa chừng, thanh tra Narracott liền hỏi.
- Không làm sao cả.
Thanh tra Narracott chăm chú nhìn thiếu tá Burnaby một lúc lâu, do thấy viên thiếu tá lúng túng, có vẻ sắp lộ ra điều gì đó. Một điều mà ông rất muốn biết.
"Rồi sẽ đến lúc mình biết" - thanh tra Narracott thầm nghĩ.
Làm ra vẻ thản nhiên, ông nói to.
- Nghĩa là chiều hôm qua thiếu tá ngồi trong lâu đài Sittaford. Bà khách thuê kia đã ở đó được bao lâu rồi?
- Khoảng hai tháng.
Có vẻ muốn xóa đi những câu bất cẩn của mình, viên thiếu tá tỏ ra mau miệng hơn trước.
- Bà ta ở đó cùng với cô con gái, đúng vậy không?
- Đúng thế. Bà ta góa chồng.
- Bà ta có nói tại sao bà ta chọn thuê toà lâu đài đó trong mùa đông này không?
Thiếu tá Burnaby gãi mũi:
- Bà ta nói rất nhiều... về phong cảnh thiên nhiên hiếm có ở đây... về tính thích sự cô đơn của bà ta... về đủ thứ khác. Tuy nhiên...
Viên thiếu tá cựu chiến binh dừng lại tìm chữ.
Thanh tra gợi ý:
- Thiếu tá cũng cảm thấy việc bà ta về nghỉ đông tại Sittaford là không bình thường?
- Đúng thế. Một phụ nữ giàu có, mặc theo mốtthời trang mới nhất, lại có một cô con gái xinh đẹp, giá như nghỉ ở khách sạn Ritz hoặc khách sạn Claridge thì hợp hơn nhiều.
- Nhưng bà ta không sống cô độc, đúng vậy không? Bà ta không có vẻ cần... lẩn trốn?
- Đúng thế. Trái lại là đằng khác. Bà ta liên tục mời chúng tôi đến nhà. Mà ở cái làng Sittaford nhỏ xíu, đâu có đông đúc để có thể viện cớ người này mời người khác mời để khước từ lời mời của bà ta? Cho nên nhiều khi láng giềng rất khó xử.
- Chắc bà ta có thói quen từ hồi sống ở thuộc địa?
- Tôi cũng đoán thế.
- Thiếu tá có nghĩ rằng có thể bà ta quen biết viên đại úy Trevelyan từ trước không?
- Trước đó bà ta không hề quen biết Trevelyan.
- Nghe ông nói có vẻ quả quyết.
- Trevelyan có kể với tôi nghe khi bà ta đến Sittaford.
- Rất có thể bà ta đến đây cốt để nối lại mối quan hệ trước kia với ông đại úy?
Cách đặt vấn đề của thanh tra Narracott quá mới mẻ và đột ngột, khiến thiếu tá Burnaby phải suy nghĩ một lát.
- Thú thật chưa bao giờ tôi nghĩ đến khả năng đó. Nhưng tôi không tin là có chuyện ấy. Tôi thấy bà ta xởi lởi, thích mở rộng giao du chỉ là do thói quen của những người đã sống lâu năm ở các nước thuộc địa.
- Tôi hiểu. Đại úy Trevelyan tự thuê xây tòa biệt thự Sittaford?
- Đúng thế.
- Ngoài ông ấy ra, không có ai khác đến ở đấy? Tôi muốn nói là ông đại úy chưa cho ai thuê nó bao giờ.
- Chưa.
- Có nghĩa không phải do ông đại úy rao cho thuê? Quả là điều khó hiểu! Nhưng theo tôi thì tòa lâu đài đó không liên quan gì đến vụ án mạng, mà đó chỉ là một trùng hợp ngẫu nhiên... khiến tôi chú ý. Còn ngôi biệt thự đại úy Trevelyan thuê ở thị trấn này là của ai?
- Biệt thự "Hazelmoor" là của bà Larpent, một phụ nữ đứng tuổi, không chồng, mùa đông thường ra thành phố Cheltenham, thuê một ngôi nhà tại đó để ở. Thông thường bà ta khóa cửa để đấy, rất ít năm có người thuê.
Vậy là cuộc gặp thiếu tá Burnaby không giúp gì thêm cho thanh tra Narracott. Ông chán nản, hỏi thêm câu cuối cùng:
- Việc thuê đó là do hãng Williamson môi giới, đúng vậy không?
- Đúng.
- Hãng môi giới nhà đất này đóng tại thị trấn Exhampton này?
- Đúng thế. Văn phòng của hãng này ngay gần văn phòng ông công chứng.
- Thế thì, nếu ông không phiền, xin thiếu tá đi với tôi đến văn phòng công chứng, và tiện đường, ta ghé vào văn phòng hãng Williamson, được không?
- Ông muốn đi ngay bây giờ?
Thiếu tá Burnaby đã ăn xong bữa điểm tâm từ lâu, bèn đứng lên đi theo thanh tra Narracott.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 18:58:57 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7

BẢN CHÚC THƯ


Tại văn phòng hãng môi giới nhà đất Williamson, một người đàn ông trẻ tuổi, vẻ mặt lanh lợi đứng lên đón khách.
- Chào thiếu tá Burnaby.
- Chào anh.
- Vụ án mạng thật khủng khiếp, phải không thưa thiếu tá? - anh ta kêu lên, có vẻ muốn trò chuyện - Đã bao nhiêu năm, ở thị trấn Exhampton này chưa xảy ra vụ nào ghê rợn đến như vậy...
Thiếu tá chặn dòng thác lời lẽ kia lại:
- Xin giới thiệu với ông, thanh tra Narracott.
- Rất hân hạnh...
Viên thanh tra nói:
- Ông có thể cung cấp cho tôi một số thông tin được không? Chính ông đã môi giới việc thuê tòa lâu đài ở làng Sittaford?
- Cho bà khách của chúng tôi, phu nhân Willett? Vâng đúng thế.
- Xin ông cho biết một số chi tiết xung quanh việc thuê nhà đó. Bà khách đến nhờ ông giới thiệu hay trước đó bà ta đã biết có tòa lâu đài đó?
- Bà ấy gửi thư hỏi chúng tôi... Xin ông chờ cho một chút... - Anh ta mở ngăn kéo, lấy ra một hồ sơ - Thư gửi từ khách sạn Carlton, London.
- Trong thư, bà khách có nói cụ thể đến lâu đài Sittaford không?
- Không. Bà ấy chỉ ngỏ ý muốn nghỉ vụ đông năm nay trong vùng núi Dartenson, và đề nghị tôi giới thiệu cho một tòa nhà có tối thiểu tám phòng ngủ. Gần ga xe lửa hay gần một thành thị nào không quan trọng.
- Lâu đài Sittaford có được đăng ký cho thuê ở hãng của ông không?
- Không. Nhưng đấy là tòa nhà duy nhất trong khắp vùng này đáp ứng đúng những yêu cầu của bà khách hàng. Bà ấy còn nói rõ với hãng chúng tôi là sẵn sàng trả tiền thuê tới mười hai ghi-nê một tuần. Do thấy như vậy chúng tôi bèn liên hệ với đại úy Trevelyan. Đại úy đồng ý và công việc được thu xếp ổn thỏa.
- Bà Willett chưa cần xem tòa nhà?
- Bà ấy không cần. Nhận được thư trả lời là bà ấy ký ngay vào bản hợp đồng. Rồi hôm đó, bà thuê ôtô đến đây, thỏa thuận trước với ông đại úy về vấn đề những tấm khăn trải và những bộ thìa nĩa bằng bạc, đồng thời thăm tòa nhà.
- Bà khách tỏ vẻ hài lòng?
- Lúc quay lại hãng chúng tôi, bà ấy cho biết là bà ấy rất hài lòng về tòa lâu đài Sittaford.
- Ông có nhận xét gì về bà khách đó không? - viên thanh tra hỏi, chăm chú nhìn người đàn ông trẻ tuổi.
- Trong nghề chúng tôi, chúng tôi đã quen không ngạc nhiên về chuyện gì bao giờ.
Sau câu trả lời mang tính triết lý ấy, thanh tra Narracott cùng thiếu tá Burnaby cáo từ.
* * *
Lát sau họ bước vào văn phòng hai công chứng viên Walter và Kirkwood. Người bảo vệ cho biết ông Kirkwood vừa đến, và mời hai vị khách vào phòng giấy.
Kirkwood đã đứng tuổi, vẻ mặt hiền lành. Sinh trưởng ở thị trấn Exhampton, ông ta đã nối nghiệp ông nội và cha trong nghề công chứng này. Ông ta đứng dậy, lấy vẻ mặt đau buồn, đưa tay bắt tay thiếu tá Burnaby:
- Chào ông thiếu tá Burnaby. Quả thật là một câu chuyện thương tâm. Tội nghiệp đại úy Trevelyan!
Ông ta nhìn thanh tra Narracott vẻ dò hỏi, thiếu tá Burnaby bèn giới thiệu thanh tra Narracott.
- Vậy ra ông được giao điều tra vụ án?
- Vâng, thưa ông Kirkwood. Và tôi đến đây để hỏi vài điều cần làm rõ.
- Rất hân hạnh nếu có thể giúp ích ông thanh tra được điều gì - viên công chứng nói.
- Tôi muốn biết chi tiết về bản chúc thư của đại úy Trevelyan. Hình như bản chúc thư đó được cất giữ tại văn phòng của ông?
- Vâng.
- Đã lâu chưa?
- Khoảng năm hoặc sáu năm trước đây. Lúc này tôi chưa thể nói chính xác.
- Thưa ông Kirkwood, tôi muốn biết càng sớm càng tốt tên những người được đại úy cho hưởng thừa kế. Điều này rất quan trọng đối với chúng tôi.
- Thật vậy sao? Tôi lại không nghĩ như vậy. Nhưng ông thanh tra biết rõ vấn đề ấy hơn tôi.
Ông ta đưa mắt nhìn thiếu tá Burnaby.
- Thiếu tá Burnaby và tôi là hai người nhận trách nhiệm thi hành bản chúc thư. Nếu ông thiếu tá thấy không có gì trở ngại...
- Tôi không có gì trở ngại.
- Nếu vậy, tôi xin thỏa mãn yêu cầu của ông thanh tra.
Nhấc máy điện thoại trên bàn giấy, Kirkwood nói câu gì đó. Hai phút sau, nhân viên đem vào một chiếc phong bì to, dày, đưa chủ. Khi nhân viên đã đi ra, Kirkwood mở phong bì bằng con dao dọc giấy, lôi ra một văn bản, rồi hắng giọng, đọc rành rọt:
“Tôi, Joseph-Arthur Trevelyan, cư trú tại lâu đài trong làng Sittaford, quận Devon, ngày 13 tháng Tám 1926, có nguyện vọng sau khi chết như sau:
1. Tôi chỉ định ông John Edward Burnaby, cư trú tại xóm "biệt thự” trong làng Sittaford, và ông Frederic Kirkwood, công chứng viên tại thị trấn Exhampton, là hai người chịu trách nhiệm thi hành bản chúc thư này.
2. Tôi cho Robert Henry Evans, đầy tớ trung thành của tôi, khoản tiền là một trăm (100) bảng, nếu cho đến ngày tôi qua đời anh ta vẫn còn làm việc cho tôi.
3. Biếu ông John Edward Burnaby, để tỏ lòng quý mến tình bạn với ông, toàn bộ số giải thưởng thể thao của tôi, kể cả những bộ đầu và da thú, những chiếc "cúp" và các giải thưởng khác.
4. Tôi trao toàn bộ các bất động sản nào không trái với các điều khác trong bản chúc thư này cho hai người thi hành bản chúc thư, để hai người đó đem bán.
5. Khoản tiền bán được, hai người thi hành chúc thư sẽ dùng để trả phí tổn cho tang lễ, phí tổn trong việc thi hành chúc thư, và thanh toán các món nợ nếu lúc đó tôi còn mắc. Aau đó chia thừa kế theo lời ghi trong bản chúc thư này.
6. Toàn bộ số tiền còn lại được chia làm bốn phần.
7. Một phần trao cho chị ruột tôi, Jennifer Gardner.
Ba phần còn lại dành cho ba người con của bà chị quá cố của tôi. Mary Pearson.
Tôi, Joseph-Arthur xác nhận bản chúc thư này là ý nguyện cuối cùng của tôi.
CHỮ KÝ CỦA NGƯƠI LÀM CHÚC THƯ VÀ CỦA HAI NGƯỜI LÀM CHỨNG
Ông Kirkwood đưa bản chúc thư cho thanh tra Narracott.
- Hai trong số các nhân viên của tôi đã có mặt, chứng kiến việc ký lên bản chúc thư này.
Viên thanh tra đọc lại bằng mắt bản chúc thư.
- … Bà chị đã quá cố, Mary Pearson. Thưa ông Kirkwood, ông vui lòng cho biết thêm một số chi tiết về bà Pearson này.
- Bà ta đã mất cách đây khoảng một chục năm, còn ông chồng của bà, một nhân viên ngân hàng, đã mất trước cả vợ. Theo tôi biết, chưa bao giờ bà đến đây gặp ông Trevelyan...
- Pearson... - viên thanh tra lẩm bẩm - Còn một điều nữa, trong bản chúc thư không thấy nói cụ thể trị giá tài sản của đại úy Trevelyan là bao nhiêu. Theo ông thì số tài sản, toàn bộ khoảng bao nhiêu?
- Câu hỏi của ông rất khó trả lời...
Giống như mọi người làm nghề pháp lý khác, ông Kirkwood này chuyên biến những vấn đề đơn giản nhất cũng thành phức tạp. Ông nói:
- Ngoài lâu đài ở Sittaford, ông đại úy còn sở hữu một dinh cơ trong vùng Plymouth. Chưa kể khi thi hành bản chúc thư, sẽ còn nảy sinh nhiều diễn biến khác.
- Tôi chỉ cần con số gần đúng.
- Tôi không dám liều lĩnh đưa ra một con số nào hết...
- Thí dụ hai chục ngàn bảng chẳng hạn. Liệu có đến thế không?
- Hai chục ngàn? Thưa ông thanh tra kính mến. Trị giá toàn bộ tài sản của đại úy Trevelyan phải gấp bốn lần con số đó là ít. Nếu ông nói tám chục hoặc chín chục ngàn nghe còn tạm được.
Thiếu tá Burnaby nói chen vào:
- Tôi đã nói với ông ấy rồi: đại úy Trevelyan giàu hơn nhiều so với người ta tưởng.
Thanh tra Narracott đứng dậy:
- Thưa ông Kirkwood, vô cùng cảm ơn ông đã bỏ công giúp dỡ chúng tôi.
- Nhưng ông tin rằng những thông tin này giúp ích được ông trong việc tìm ra hung thủ? - Công chứng viên Kirkwood hỏi.
Nhưng thanh tra Narracott hoàn toàn không muốn thỏa mãn trí tò mò của ông công chứng.
- Trong những vụ án như thế này, chúng tôikhông được quyền bỏ qua một chi tiết nào. Nhân đây, xin hỏi thêm, ông biết địa chỉ của bà Jennifer Gardner và của gia đình Pearson không?
- Tôi hoàn toàn không biết gì về gia đình Pearson, còn địa chỉ bà Jennifer Gardner thì tôi có đây: Biệt thự "Hoa hồng", đường Waldon, thị xã Exter.
Viên thanh tra cảnh sát ghi địa chỉ đó vào cuốn sổ tay.
- Chà, lại thêm một loạt công việc nữa đây. Bà Mary Pearson đã quá cố có mấy con, thưa ông Kirkwood?
- Theo tôi biết thì ba: hai gái một trai, hoặc hai trai một gái, tôi không nhớ chính xác.
Thanh tra Narracott nhét cuốn sổ vào túi, xin cáo từ.
* * *
Ra đến đường, đột nhiên ông quay sang viên thiếu tá, nhìn thẳng vào mắt ông này.
- Bây giờ chỉ có hai chúng ta. Ông có thể cho tôi biết sự thật về cái "năm giờ hai mươi nhăm" kia chứ?
Viên thiếu tá đỏ mặt.
- Tôi đã nói với ông mấy lần rồi...
- Nhưng tôi chưa thỏa mãn. Ông còn giấu tôi một sự thật nào đó. Thiếu tá Burnaby, việc ông nói đến cái giờ đó với ông bác sĩ không thể không có lý do... Tôi tin rằng tôi đã đoán được đằng sau câu nói đó là cái gì rồi.
- Nếu đã biết, sao ông còn phải hỏi tôi?
- Một người nào đó đã đến gặp đại úy Trevelyan vào giờ đó... và ông biết có chuyện đó, đúng thế không?
Viên thiếu tá im lặng. Rồi ông ta lầu bầu:
- Tôi phản đối. Tôi không biết gì cả.
- Ông cẩn thận đấy, thiếu tá Burnaby! Ông biết anh chàng tên là James Pearson chứ?
- James Pearson? Là ai vậy? Một người cháu của đại úy Trevelyan chăng?
- Tất nhiên rồi. Đại úy Trevelyan có một người cháu trai tên là James Pearson.
- Điều ấy tôi không biết. Tôi biết Trevelyan có mấy người cháu, nhưng tôi không biết tên.
- James Pearson đã nghỉ trong khách sạn Ba Vương Miện đêm qua. Rất có thể ông đã nhận ra anh ta.
- Tôi không nhận ra ai cả. Mà tôi cũng chưa bao giờ gặp một đứa cháu nào của đại úy Trevelyan.
- Nhưng ông biết là chiều hôm qua ông đại úy có chờ một trong mấy người cháu ấy đến đây thăm ông ta?
- Tôi đã bảo tôi hoàn toàn không biết kia mà - viên thiếu tá giận dữ quát lên.
Mấy người đi đường quay mặt lại nhìn họ.
- Tại sao ông không chịu tin tôi, ông thanh tra? Tôi hoàn toàn không biết chuyện một người cháu Trevelyan đến đây gặp ông ấy. Tôi chỉ biết mấy người cháu ấy hiện đang sống tại Tombouctou!
Thanh tra Narracott sửng sốt. Thái độ giận dữ của viên thiếu tá khiến ông thấy rõ ông ta không nói dối.
- Nếu vậy "năm giờ hai mươi nhăm' nghĩa là sao?
- Tốt nhất là tôi đành kể toàn bộ câu chuyện với ông vậy.
Thiếu tá Burnaby tỏ ra ngượng ngừng, ông khẽ ho thông cổ họng rồi nói:
- Thật ra tôi không tin những chuyện nhảm nhí ấy. Mình là người hiểu biết, đâu có thể tin chuyện mê tín ấy được…
Rồi thái độ mỗi lúc một ngượng ngùng, ông kể:
- Chẳng là để chiều ý thích của bà ấy, nhiều khi con người ta phải chơi cái trò ngu xuẩn ấy.
- Trò gì chẳng hạn, thưa thiếu tá?
- Chúng tôi đã chơi trò "bàn ma".
- Ra thế!
Thế là thiếu tá Burnaby, vừa luôn miệng thanh minh là mình không tin, vừa kể lại hiện tượng kỳ lạ diễn ra chiều hôm qua tại lâu đài Sittaford, trong phòng khách bà phu nhân thuê lâu đài của đại úy Trevelyan.
Thanh tra Narracott kinh ngạc.
- Cái bàn đánh vần tên "Trevelyan" và chính do đấy mà ông tìm đến nhà ông ta và phát hiện vụ án mạng?
Thiếu tá Burnaby lấy khăn tay lau mồ hôi trán.
- Tất nhiên rồi... Lúc đó tôi vẫn chưa tin. Nhưng hôm qua là Thứ sáu, cho nên tôi quyết định cứ thử ra thị trấn Exhampton để gặp ông bạn xem sao.
Tuy viên thiếu tá ra sức thanh minh là ông ta không tin nhưng thanh tra Narracott thấy rõ là ông ta bị ấn tượng rất mạnh về điều "hồn ma" cho biết. Chẳng thế, ông ta lại quyết định cuốc bộ mười cây số giữa lúc trời mưa tuyết rất lớn, và đường xá thị ngập tuyết, để "xem" ông bạn thân thiết ra sao? Nghĩ như vậy, nhưng chính bản thân thanh tra Narracott cũng không biết nên cắt nghĩa hiện tượng kia thế nào. Chẳng lẽ trò chơi "bàn ma" kia lại chứa đựng phần nào sự thật? Dù sao thì đây cũng là lần đầu tiên ông chứng kiến một trường hợp có thật. Nếu sự phát hiện của "hồn ma" kia xác nhận nguyên nhân khiến ông thiếu tá ra thị trấn Exhampton, thì nó cũng không liên quan gì đến vụ án mạng. Thanh tra Narracott đã lý luận như vậy, bởi đối với ông thế giới trần gian quan trọng hơn thế giới ma quỷ.
Nghề của ông là khám phá các vụ án.
Mà công việc đó không thể dựa vào các sức mạnh siêu nhiên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 29-7-2013 19:00:16 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8

CHARLES ENDERBY


Liếc nhìn đồng hồ đeo tay, thanh tra Narracott thấy ông cần phải đi ngay cho kịp chuyến tàu đến Exter, bèn cáo lỗi với thiếu tá Burnaby, rồi chạy ra ga.
Viên thiếu tá cựu chiến binh quay về khách sạn Ba Vương Miện. Vừa bước vào cửa, ông đã thấy một chàng trai tóc chải bóng loáng, mặt tròn trĩnh trông như đứa trẻ, chạy ra niềm nở đón ông.
- Ông là thiếu tá Burnaby?
- Vâng, chính tôi.
- Nhà số 1, khu biệt thự Sittaford?
- Đúng thế.
- Tôi là người của báo Tin Điện, tôi...
Không để chàng nhà báo nói thêm lời nào, ông thiếu tá đã nổi cơn thịnh nộ, quát tháo như ở ban chỉ huy xưa:
- Im ngay! Tôi thừa biết các anh cùng bè lũ các anh rồi! Không một chút kín đáo nào hết! Không một chút tế nhị nào hết! Các anh thấy đâu có xác chết là lao đến không khác gì đàn kền kền. Nhưng tôi báo trước, các anh đừng hòng moi được ở tôi bất kỳ một thông tin nào hết! Nếu cần biết gì, mời các anh đến gặp cảnh sát. Và ít nhất cũng phải biết lịch sự, là đừng quấy rối bè bạn của nạn nhân.
Không hề tự ái, chàng trai nở một nụ cười hết sức niềm nở:
- Ông lầm rồi, thưa ông thiếu tá. Tôi hoàn toàn chưa biết gì về vụ án mạng ông vừa nói đến.
Anh ta nói chưa hoàn toàn thật. Không ai hiện có mặt trong thị trấn Exhampton nhỏ bé này dám bảo chưa hề biết gì về vụ án mạng.
- Tôi được tòa soạn báo Tin Điện cử đến đây để trao cho thiếu tá tấm ngân phiếu năm ngàn bảng, đồng thời tỏ lời khen ngợi thiếu tá là người duy nhất giải đáp chính xác câu đố của báo chúng tôi.
Thiếu tá Burnaby sửng sốt.
- Chúng tôi hy vọng thiếu tá đã nhận được bức điện chúng tôi báo tin mừng này?
- Điện à? Anh bạn trẻ thân mến, làng Sittaford chúng tôi bị ngập trong tuyết dày tới hai mét. Đã bao nhiêu ngày nay chúng tôi không nhận được một thư từ, điện báo nào từ bên ngoài.
- Nhưng ít ra thiếu tá cũng đọc được tin này trên số báo Tin Điện sáng nay chứ?
- Chưa. Hôm nay tôi chưa đọc báo.
- Tôi hiểu... Vụ án mạng đã làm thiếu tá choáng váng. Nạn nhân là bạn thân thiết của thiếu tá, hình như thế?
- Đúng. Đó là một ông bạn thân nhất của tôi.
- Một cái chết đau đớn! - chàng trai nói vẻ thông cảm.
Sau đó anh ta lấy trong túi áo ra một tờ giấy màu da bò gấp tư, kính cẩn trao thiếu tá Burnaby.
- Xin thiếu tá nhận cho, kèm theo lời khen ngợi của báo Tin Điện chúng tôi.
Thiếu tá Burnaby nhận tấm ngân phiếu, nói câu duy nhất thích hợp trong hoàn cảnh này:
- Tôi muốn mời ông uống một cốc gì đó, thưa ông...
- Enderby. Tôi là Enderby Charles. Tôi đến đây từ chiều hôm qua, với ý định trao tận tay người đoạt giải. Và báo chúng tôi muốn đăng một bài phỏng vấn nhỏ. Độc giả của chúng tôi đang quan tâm đến ý kiến người đoạt giải. Nhưng mọi người đều can tôi đến làng Sittaford. May mà ông thiếu tá có mặt ở thị trấn này, và tôi được tin ông thiếu tá nghỉ tại khách sạn Ba Vương Miện. Tìm ông thiếu tá không khó khăn gì, ở đây ai cũng biết thiếu tá.
- Ông muốn dùng gì, ông Enderby?
- Bia.
Thiếu tá Burnaby gọi hai cốc bia.
- Ai cũng bàn tán về vụ án mạng này - Enderby nói - Một vụ án mạng hết sức bí hiểm.
Thiếu tá Burnaby có vẻ rất lúng túng. Ông khó chịu với thằng cha nhà báo ba hoa này, nhưng anh ta đem đến cho ông năm ngàn bảng, cũng phải lịch sự với anh ta đôi chút.
- Nạn nhân có ai thù ghét ông ta không, thưa thiếu tá?
- Không.
- Nhưng cảnh sát không tin hung thủ chỉ là một tên kẻ trộm.
- Sao anh biết?
Anh chàng nhà báo không trả lời câu hỏi.
- Nghe bảo chính thiếu tá là người phát hiện ra việc nạn nhân bị giết.
- Đúng thế.
- Khi nhìn thấy ông bạn đã chết, hẳn thiếu tá kinh hoàng chứ?
Câu chuyện cứ diễn ra theo cái điệu ấy. Không muốn cung cấp thông tin nào cho anh chàng nhà báo, thiếu tá Burnaby chỉ trả lời bằng hai từ đơn giản "Có" hoặc "Không" những câu hỏi rất khôn khéo của anh ta. Thái độ lịch sự của Enderby lát sau làm Burnaby dần dần thấy mến. Cuối cùng, ông ta đứng lên, cáo lỗi, bảo cần ra bưu điện.
- Xin thiếu tá vui lòng ký nhận cho tôi về tấm ngân phiếu.
Thiếu tá Burnaby ngồi xuống bên cạnh bàn, ký vào tờ biên nhận, đưa cho anh chàng nhà báo.
- Thế là xong, cảm ơn thiếu tát - Enderby nói, nhét tờ giấy vào túi áo.
Thiếu tá Burnaby hỏi:
- Bây giờ ông về London chứ?
- Chưa đâu, thưa thiếu tá. Tôi muốn chụp vài tấm ảnh ngôi biệt thự của thiếu tá tại làng Sittaford, trong đó có hình thiếu tá đang cho lợn ăn hoặc xén tỉa cây hoa, hoặc làm một việc gì đó mà thiếu tá thích làm. Độc giả sẽ rất vui được biết người đoạt giải nhất cuộc thi này hình dạng ra sao. Tôi còn muốn hỏi xem thiếu tá định dùng số tiền năm ngàn bảng kia vào việc gì? Cách sử dụng càng độc đáo bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nếu thiếu tá từ chối trả lời, độc giả chúng tôi sẽ thất vọng lắm đấy.
- Đồng ý thôi, nhưng thời tiết này ông chưa thể lên làng Sittaford được đâu. Mưa tuyết quá dữ dội, khiến con đường ngập tuyết dày, không xe ôtô nào đi được, ít nhất trong vòng ba ngày nữa.
- Tiếc quá! - chàng nhà báo nói - Vậy tôi đành lưu lại ở thị trấn này thêm vài ngày nữa vậy. Dù sao thì món ăn ở khách sạn Ba Vương Miện cũng không đến nỗi nào. Hẹn gặp lại, thưa thiếu tá!
* * *
Enderby ra phố, đi về phía nhà bưu điện đánh điện về tòa soạn, báo tin là anh sẽ gửi tin và bài chi tiết về vụ án mạng ở Exhampton.
Suy nghĩ một chút, nhà báo Enderby quyết định tìm gặp người đầy tớ của đại úy Trevelyan để phỏng vấn. Sau khi hỏi được địa chỉ của Evans, anh chàng phóng viên đến số nhà 85 phố Fore. Bây giờ Evans trở thành nhân vật quan trọng, mọi người đều thi nhau trỏ nhà anh ta.
Enderby gõ cửa. Người mở cửa cho anh trông có vẻ lính hải quân đến nỗi Enderby nhận ra ngay.
- Anh là Evans? Tôi được thiếu tá Burnaby giới thiệu đến.
- Thế ạ?... - Evans ngập ngừng một giây rồi nói.
- Mời ông vào.
Enderby vào. Một phụ nữ trẻ, tóc đen, má hồng, nhanh nhẹn đi đi lại lại trong nhà. Enderby đoán là vợ Evans.
- Ông chủ anh chết một cách đau đớn quá - Enderby nói.
- Vâng, quả là ghê tởm.
- Anh đoán hung thủ là ai?
- Theo tôi, là một tên trộm tầm thường.
- Nhưng người ta đã loại khả năng ấy rồi.
- Vậy à?
- Đúng thế. Ngay từ đầu, cảnh sát đã khẳng định những dấu vết của một cuộc đột nhập kiểu ăn trộm là do hung thủ cố tình tạo ra để đánh lạc hướng điều tra.
- Ai nói với ông như thế?
Thật ra chàng nhà báo Enderby biết được điều này do cô hầu phòng trong khách sạn Ba Vương Miện là em vợ của ông cảnh sát trưởng Graves, nhưng anh đáp:
- Thanh tra cảnh sát. Ông ta không bị lừa một cách dễ dàng như thế đâu.
- Vậy họ nghi cho ai? - Cô vợ Evans lo lắng bước lên hỏi.
- Rebecca, em đừng hoảng hốt lên như thế - chồng cô nói.
Cô vợ nói tiếp:
- Mấy ông cảnh sát bao giờ cũng độc ác và ngu xuẩn.
Rồi cô liếc nhìn Enderby:
- Ông là cảnh sát à?
- Không đâu! Tôi là nhà báo, làm ở báo Tin Điện. Tôi đến đây để trao thiếu tá năm ngàn tiền thưởng giải nhất cuộc thi của báo chúng tôi vừa rồi.
- Vô lý! - Evans kêu lên - Báo có chấm thưởng công bằng không đấy?
- Anh nghi ngờ à?
- Đại úy Trevelyan chủ tôi luôn bảo, chẳng bao giờ phần thưởng được chấm cho người đoán trúng nhất. Vì vậy ông chủ tôi thường dùng địa chỉ của tôi để tham dự các cuộc thi của báo chí.
Enderby khích để Evans nói. Thế là anh chàng cựu binh sĩ hải quân ngây thơ kia kể luôn chuyện ông chủ anh ta được giải ba cuốn truyện. Enderby thích thú thầm nghĩ, thế là trên các cột báo sẽ đăng đầy những bài tường thuật của anh ta do người đầy tớ của nạn nhân cung cấp chất liệu. Nhưng đồng thời Enderby cũng thầm nghĩ, tại sao cô vợ của Evans có vẻ lo lắng như vậy. Liệu có phải do tính đa nghi của loại người thiển cận giống như kiểu cô ta không?
Evans nói:
- Ông là nhà báo, mong ông tìm giúp cho ra kẻ đã giết ông chủ tôi, bởi tôi nghe nói các nhà báo thường giúp được cảnh sát rất nhiều trong việc tìm ra thủ phạm các vụ án.
Cô vợ nói thêm:
- Chắc chắn là một tên trộm, chứ còn ai nữa? Khắp thị trấn này không ai muốn làm hại ông chủ chúng tôi.
Enderby đứng dậy.
- Tôi phải đi đây. Nếu anh chị cho phép, thỉnh thoảng tôi sẽ ghé vào gặp anh chị, trao đổi về tất cả những chuyện này. Nếu ông đại úy là người đã giật được giải thưởng ba cuốn tiểu thuyết của báo Tin Điện, thì báo tất phải có bổn phận góp phần vào việc điều tra hung thủ đã giết ông đại úy.
Enderby chào hai vợ chồng Evans rồi đi ra.
“Vậy thủ phạm là ai”? - chàng nhà báo vừa đi vừa lẩm bẩm một mình - “Mình không tin là Evans. Rất có thể chỉ là một tên trộm! Nhưng như thế thì vụ án tầm thường quá. Trong vụ án không có bóng dáng một người đàn bà nào! Thật đáng tiếc! Mình phải tìm cho ra một chi tiết nào "giật gân” mới được! Đây là cơ hội ngàn năm có một để mình thăng tiến, không được bỏ qua! Thiếu tá Burnaby sẽ kể cho mình nghe mọi thứ, chỉ cần mình ra vẻ kính trọng ông ta là được. Hay mình gợi chuyện về trận thủy chiến trên biển Transvaal? Mấy ông sĩ quan hải quân già ấy thích người ta nhắc lại chiến tích của họ lắm. Hay đấy, mình dùng cách đó sẽ tha hồ có rất nhiều chất liệu để viết bài”.
Mang đầy dự tính trong đầu, chàng trai Enderby chậm rãi bước về phía khách sạn Ba Vương Miện.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách