Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Lịch Sử - Xuất Bản] Hitler Và Trận Đánh Normandie | Hans Speidel (hoàn)

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 20:58:07 | Chỉ xem của tác giả
- 6 -
NHỮNG NHẬN XÉT VỀ CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG CÔNG CUỘC CHUẨN BỊ

Buổi chiều ngày 15 tháng 4 năm 1944, lần đầu tiên khi nghe vị tân Tham mưu trưởng trình bày cảm tưởng của ông lúc ở Tổng hành dinh Fuhrer và về tình hình mặt trận Miền Đông, Thống chế Rommel khai triển thêm những nguyên tắc của ông về chiến lược và về chính trị.

Mặt trận Crimée đã thất thủ, phòng tuyến vùng đông Lỗ ma ni bị bẻ gập. Sự lớn mạnh của tiềm lực Nga đã tạo được những tiến bộ đáng kể sau những vụ chuyển giao vũ khí, quân trang, quân dụng của Anh-Mỹ chiếu theo điều khoản trong hiệp ước cho vay; sự kiện này cho phép đoán trước được những trận đánh quyết định của Nga vào mùa hè. Do “lệnh nguyên tắc” số 1 ngày 13 tháng 1 năm 1940, Hitler đã từ chối không cho cung cấp mọi tin tức về tình hình chung ngay cả cho các vị Tư lệnh các mặt trận. Chính nhờ ở những nguồn tin trung lập, đặc biệt là báo chí Thụy sĩ, và nhờ ở đài phát thanh ngoại quốc, mà Binh đoàn có thể phác họa được một ý niệm về các kết quả của các cuộc hội nghị chính trị của phe Đồng minh và về ảnh hưởng bất thần của những cuộc hội nghị ấy, những kinh nghiệm chiến thuật của Rommel dựa vào cái thế bôn tập của “Sư đoàn Ma quái” của ông (Sư đoàn VII thiết giáp) ở phương Tây[1] và chiến trường Bắc Phi. Hồi tháng 5 và tháng 6 năm 1940, trong cương vị Tư lệnh sư đoàn, Rommel đã vượt sông Meuse ở Dinant, phá vỡ phòng tuyến tăng cường của liên quân Pháp-Bỉ, và là người đầu tiên tiến đến bờ biển Manche rồi bờ biển Đại tây dương. Năm 1941, ông đã ổn định được tình hình Bắc-phi bằng những lực lượng nhỏ yếu của Đức và chuyển sang một cuộc tấn công thắng lợi vẻ vang. Ông chưa thể đúc kết được những kinh nghiệm của ông tại mặt trận Miền Đông nhưng ông đang lưu tâm tổng hợp nó lại và khai thác nó.

Tư tưởng quân sự và chính trị của ông chú trọng vào những biến cố mùa hè năm 1942. Hồi ấy, một cánh quân Đức-Ý tại Phi Châu sau khi chiếm xong Tobrouk, đang ở cách Alexandrie - Le Caire không đầy 100 cây số. Cánh quân này sửa soạn mở mũi dùi về phía kinh Suez và sông Nil để cắt đứt một huyết mạch tiếp tế của Đế quốc Anh.

Lúc ấy, Thống chế yêu cầu bồi dưỡng cho cuộc tấn công vì lực lượng của nó suy giảm một cách đáng sợ, ông đã đòi hỏi rằng vấn đề an ninh của các đường giao thông dành cho việc tiếp viện phải được những lực lượng hải quân không chiến sung mãn của Ý tham gia bảo vệ. Những lực lượng này đã không tới, Hải và Không quân Ý, vì sự thụ động của họ đã vô tình tiếp tay cho quân Đồng minh. Khi Hitler tuyên bố: “Tôi tin tưởng ở Mussolini hơn là ở những tướng lĩnh Đức”, Rommel liền mời ông ta tới để ông ta có một cảm tưởng riêng về chuyện này.

Nhưng, kể từ 1941, Hitler đã không thăm mặt trận nữa. Lộ quân thiết giáp Anh của Montgomery vô cùng hùng hậu hơn quân Đức, xuất trận trong cái thế được bảo đảm tiếp tế, mở cuộc phản công. Nó được yểm trợ bằng một lực lượng không quân mạnh mẽ, một lực lượng mà vào trong thời kỳ này đã phối hợp với hải quân Anh ngăn chặn mọi đường tiếp tế của Đức. Khi Rommel, vì lương tâm trách nhiệm yêu cầu được rút lui khỏi El Alamein, thì Hitler liền gửi cho ông bản công điện chấn động như sau: “Tấn công Le Caire; thắng trận hoặc chết.”

Nhưng Rommel không hề nao núng, hạ lệnh rút lui để cứu vớt những toán quân đã được trao phó cho ông. Thống chế đã nhìn thấy bị đòi hỏi quá nhiều về “những sứ mạng chinh phục hoàn cầu”; những phương tiện đã được hứa hẹn lại không đến tay ông. Ở mặt trận Phi châu, ông ghi nhận được hai kinh nghiệm: một sự kính trọng sâu xa đối với quân lực Anh quốc mà ông xem như một lực lượng quốc tế và sự kinh khi đối với nước bạn Ý đại lợi của mình. Những đoàn quân Anh và quân các nước thuộc địa Anh, theo nhận xét của ông, rất có giá trị về phương diện chỉ huy, kỹ thuật và khả năng tác chiến: khí cụ của họ hơn hẳn Đức kể cả về lượng cũng như về phẩm: ông cũng rất nể phục lực lượng của Hoa kỳ.

Về phần “người bạn Ý”, Rommel đã tỏ ra đề phòng khi có dịp, bằng lời nói cũng như trên giấy tờ và đã rất nhiều lần. Những điều dị nghịch của ông không phải chỉ căn cứ trên đường lối ngoại giao và quân sự của Ý – một đường lối đã đưa đến chỗ thúc đẩy Đức đi vào cuộc phiêu lưu tại miền Ba nhĩ cán- mà còn căn cứ trên sự hiểu biết chính xác về nền tảng chính trị, quân sự, tinh thần và kinh tế của Ý nữa.

Bởi những suy luận như vậy, Thống chế đã đi tới chỗ tương khắc với Adolf Hitler và Bộ Tư lệnh tối cao quân lực: Hitler và bộ Tư lệnh tối cao, trái lại, đã tỏ ra khinh thường, diễu cợt kẻ địch Anh và khen đồng minh Ý hết mình. Sự tương khắc ấy càng tăng thêm kể từ mùa đông 1942 – 1943, khi Hitler đề nghị rút bỏ mặt trận Phi châu và gừi quân sang mặt trận Miền Đông, nghĩa là di chuyển trọng tâm của cuộc chiến trên một điểm chính yếu và rời bỏ chiến trường phụ.

***

Đối với vấn đề nước Pháp, Thống chế đã đề cập tới một cách cần thiết ngay từ khi còn ở Phi châu. Những cuộc thương nghị của bộ Tư lệnh tối cao Quân lực và Bộ Ngoại giao Đức với Đô đốc Darlan và tướng Huntziger hồi mùa đông 1940-1941 và trong năm 1941, nhắm mục đích bảo vệ hậu phương của quân Đức tại Phi châu. Nếu những cuộc thương nghị này không đi tới một kết quả nào thì lỗi đó do bởi những đòi hỏi quá đáng của Hitler, đòi hỏi những điều kiện mà nước Pháp không thể nào thực hiện được. Một đường lối sáng suốt của Đức, bất chấp những yêu sách của Mussolini, có lẽ đã thỏa hiệp được với Pháp để lôi kéo Maroc, Algerie, Tunisie vào trong một hệ thống an ninh Âu-Phi. Nhưng, ít ngày sau vụ El Alomein, các lực lượng Mỹ đổ bộ lên vùng Bắc Phi thuộc Pháp; sự kháng cự của Pháp ngừng lại và sự hòa nhập vào Đoàn quân Phi châu đã xảy ra ngay sau đó.

Thời gian lưu lại trên đất Pháp đã giúp cho Erwin Rommel có thể điều nghiên được xứ sở và dân chúng Pháp. Ông thích phong cảnh nước Pháp; ông có cảm tình chân thật và nồng nhiệt với dân tộc Pháp; theo ý ông thì thật là khó chịu khi duy trì một quy chế đình chiến suốt bốn năm trường, và như vậy, là làm giảm uy tín của chính phủ của Thống chế Pétain một cách có tổ chức về phương diện đối nội cũng như đối ngoại.

Ông tin tưởng ở sứ mạng nước Pháp và ông chủ trương, với mục tiêu cần thiết, hòa giải với Pháp khi đã có hòa bình cũng như không thể đối xử với người Pháp như những kẻ thù. Trong cuộc họp ở Margival ngày 17 tháng 6, ông trình bày ý kiến của ông đối với chính sách chính thức đối với Pháp và nhắc Hitler hãy coi chừng sự thống trị của cơ quan Mật vụ và những phương thức của chương trình Sauckel.

Đây là sự nhận xét của Thống chế Rommel ngày 15 tháng 4 năm 1944 về tình hình quân sự: ở mặt trận Miền Tây, cuộc đánh chiếm của Đồng minh sẽ xảy ra chắc chắn, và có lẽ khó lòng ngăn chặn được nó với những lực lượng đang bố trí. Ở mặt trận Miền Đông, người ta phải phòng trước cuộc tổng tấn công của Hồng quân vào khoảng giữa năm; ở Ý cuộc tấn công của Đống minh sẽ thằng lợi từ từ, liên tục tiến về hướng Bắc và tỉa dần lực lượng Đức. Vì đã biết rõ chiến trường tại Ý, hiểu rõ hoàn cảnh chiến lược, Rommel đề nghị bỏ rơi miền Trung và Nam Ý, chấp nhận một cuộc rút lui về trấn giữ vị trí từ Pise đến Florence và tới Ravenne, nhưng Tổng Tư lệnh tối cao quân lực không nghe lời cứ giữ nguyên vị trí cũ. Thành thử các bờ biển Ý chỉ được phòng thủ yếu ớt và là một mục tiêu dễ dàng cho cuộc đánh chiếm của địch.

Tình hình chính trị còn tuyệt vọng hơn tình hình quân sự. Nước Đức chiến đấu đơn độc: nước Ý đã trở thành đối thủ của Đức; nền độc tài bù nhìn của Mussolini ở miền Bắc Ý không có quyền hành gì ở những nơi khác. Những tin tức từ Phần Lan, Lỗ ma ni, Bảo gia Lợi đưa về, cho thấy sự rối ren và bấp bênh của chính quyền và dân chúng những nơi đó. Không bao giờ người ta lại bắt tay với một kẻ thù duy nhất để loại trừ kẻ thù kia. Đường lối đối ngoại của Đức thiếu sự sáng suốt và tính chất hoạt động cũng như đường lối chiến tranh.

***

Trong những cuộc trò chuyện tại nơi Thống chế Rommel, một số ý kiến của bác sĩ Goerdeler, nguyên thị trưởng Leipzig, được nhắc tới. Những ý kiến này chuyển tới cho Rommel ngày 11 tháng 4 tại Freydenstadt, qua sự trung gian của ông thị trưởng là bác sĩ Strolin. Cuối năm 1943, Goerdeler đã thỉnh cầu Strolin bắt liên lạc với Thống chế. Làm sao thuyết phục được Thống chế thấy rõ sự cần thiết phải dẹp bỏ Hitler và chế độ của ông ta nếu muốn cứu nước Đức và Âu châu. Thị trưởng Stuttgart, đã từ lâu vẫn coi Rommel như một người cương nghị và sáng suốt, rất tha thiết với vấn đề trên, ngay từ lần đầu tiên tiếp xúc với Thống chế hồi tháng 2 năm 1944. Họ đã thảo luận với nhau về những hoạt động hợp pháp khả dĩ thay đổi được chế độ và chấm dứt chiến tranh. Về khía cạnh quân sự, biểu đồ kế hoạch được bổ túc bằng những tin tức do Đại tướng Beck và tướng pháo binh Wagner đưa tới.

Tất cả đều đồng ý là phải tìm ngay ra những lối thoát và phương tiện để chấm dứt chiến tranh trước khi sự tan rã rõ rệt làm cho mọi cuộc đàm phán không thể thực hiện được, Rommel, với bản tính trầm tĩnh nhưng không hề giấu giếm sự kỳ quái của Hitler trên phương diện quân sự cũng như chính trị, sự khinh thường hoàn toàn đối với nhận thức về Âu châu và tình nhân loại thực sự của Hitler.

Chính lúc ấy mà hàng loạt những cuộc hội họp thiết yếu đã diễn ra.

Tư lệnh khu vực Bỉ và vùng bắc nước Pháp, tướng Bộ binh Alexander von Falkenhausen, người “hùng” của Đệ I Thế chiến, là một trong những nhân vật đáng chú ý của mặt trận Miền Tây và của quân đội về phương diện trí thức và nhân đạo. Thống chế Rommel đã từng là phụ tá của ông, khi von Falkenhausen điều khiển trường Bộ binh Dresde. Ông kính trọng con người khôn ngoan này. Trước Đệ I Thế chiến, Falkenhansen là tùy viên quân sự tại Nhật; năm 1934 ông trở thành cố vấn quân sự cho thống chế Tưởng giới Thạch và kế tiếp chức vụ của các tướng von Seekt và Welzell.

Ông hiểu rõ dân tộc Anh cũng như các dân tộc ở Viễn đông. Với bao nhiêu khó khăn trở ngại, ông đã có ý chống lại những huấn thị của Hitler liên quan tới Bỉ và miền Bắc nước Pháp và cố gắng cai trị những vùng đất ấy với tư cách con người có phẩm giá. Nhưng ngày 15 tháng 7 năm1944 ông bị thay thế bởi Khu trưởng Hành chánh (gauleiter) Grobe, và bị bắt giữ sau ngày 20 tháng 7 năm 1944. Von Falkenhausen thấy rằng cái cơ hội thành công của một cuộc đảo chánh đã qua rồi; nhưng dù sao đi nữa, cũng phải triệt để thực hiện sự toan tính đảo chánh để chấm dứt chiến tranh và cứu Tổ quốc ra khỏi sự khổ ải triền miền.

Tư lệnh tại Pháp, tướng Bộ binh Karl Heinrich von Stulpnagel, cũng chia sẻ quan điểm của bạn đồng liêu ông tại Bỉ. Ông đã đẩy mạnh tới mức tối đa, trong lý thuyết cũng như trong thực hành, những sự chuẩn bị cho một cuộc thay đổi tình thế. Karl Heinrich von Stulpnagel là một nhân vật hào hùng; ông có tài thao lược của connhà tướng và tài chuyên môn. Đại tướng Beck, nguyên Tổng tham mưu trưởng, đã chọn ông làm cộng sự viên trong cuộc soạn thảo tập quân kỷ dưới tựa đề: Tác Phong Quân Đội. Tài mẫn tiệp của ông về chính trị đã được tận dụng trông công việc này. Ở ông, khả năng quân sự lão luyện và sự suy luận vững chắc được bổ túc bởi một ý thức tinh tế, thăng bằng. Ngoài ra, ông còn có một trình độ triết học và tài ngoại giao mà ông đã chứng tỏ được khi giữ chức vụ Trưởng khối đặc trách các vấn đề Quân đội Ngoại quốc trong Bộ Tổng tham mưu và khi làm chủ tịch Ủy ban Đình chiến. Ông là một người Đức và một người Âu hoàn toàn theo nghĩa của tiếng đó. Những tình cảm cao thượng của ông về đạo đức đã làm cho ông thấy mình là một nạn nhân thường trực của tính chất vô luân trong chính sách của Hitler. Ngay từ hồi ông cùng với Rommel làm giáo sư trường Võ bị Dresde do Falkenhausen điều khiển, ông đã tỏ ra rất ăn ý với ông Falkenhausen.

Sau những câu chuyện có tính cách chuẩn bị của ông tham mưu trưởng ngày 15 tháng 5 năm 1944, trong một ngôi biệt thự tại Mareil-Marly, gần Saint-Germain, một cuộc họp giữa Rommel và Stulpnagel đi sâu vào vấn đề hơn. Hai người trù liệu những biện pháp chấm dứt chiến tranh tại Miền Tây và tiêu diệt chế độ Quốc xã. Sau khi kiểm điểm qua tình hình chính trị và quân sự, họ ấn định chi tiết của công việc chuẩn bị. Hai vị chỉ huy trưởng khẩn thiết trình bày những nỗi lo ngại về quân sự và chính trị của mình với vị Tổng tư lệnh mặt trận Miền Tây, Thống chế Von Rundstedt. Họ đã được Thống chế lắng nghe với vẻ ân cần. Vào tháng năm, vị tướng Bộ Tổng tham mưu quân lực, tướng pháo binh Edouard Wagner, có nhiệm vụ liên lạc, phối hợp hoạt động của Miền Tây với các sự thiết bị của Tổng tư lệnh Quân đội, đến lô cốt chỉ huy của Binh đoàn. Thống chế Rommel phản đối các kế hoạch và dự định ám sát: Ông không muốn làm cho Hitler biến thành một vị tuẫn thánh. Kế hoạch của ông gồm việc dùng các đơn vị thiết giáp chắc chắn để bắt sống Hitler và sau đó đưa ông ta ra tòa án Đức để xét xử về các tội ác mà ông ta đã phạm phải đối với dân tộc của ông ta và đối với Nhân loại: Dân đã chọn ông ta vậy thì dân sẽ xét xử ông ta.

Gần như mỗi ngày, những nhân vật quan trọng của chế độ đều đến để tỏ bày tự do những ý kiến của mình trong vùng du địa của Bộ tham mưu của Rommel, xa tầm móng vuốt của cơ quan Gestapo và để tìm các phương sách thoát khỏi một tình thế ngày càng trở nên tuyệt vọng. Trong số những nhân vật đó có bác sĩ Dorpmuller, quốc vụ khanh và chỉ huy trưởng Hành chánh Hambourg Kauffmann.

Nhiều tin tức từ mọi từng lớp dân chúng đưa về cũng xác nhận quan điểm đó và bảy tỏ sự tín nhiệm sâu xa đối với Rommel về phương diện nhân phẩm và tư cách quân nhân của ông.

Trong những ngày đầu tháng 5, Ernst Junger, lúc ấy là Đại úy trong bộ tham mưu của vị tư lệnh tại Pháp, mang tới bức giác thư hòa bình, trong đó có một vài điểm ông đã nghiên cứu từ hồi mùa đông 1941-1942. Rommel rất quan tâm tới những ý kiến của Ernst Junger, đặc biệt là tới cái nhận thức về người Hoa Kỳ tại Âu châu, một nhận thức dạt dào một tư tưởng nhân bản Ki tô giáo. Thống chế trù liệu sẽ quảng bá thật rộng rãi tài liệu lịch sử và nhân đạo ấy khi có cơ hội thuận tiện. Trong thời kỳ của Tín ngưỡng Tân ước nầy, lời kêu gọi của Junger gây một sức mạnh gần như thần thoại và đã tìm được những cơ quan nhận chịu sự quảng bá của ông.

Đồng thời bác sĩ Strolin, thị trưởng Stuttgart, theo lời mời của bác sĩ Goerdeler, ngày 14 tháng 4, cũng đã giải bày cùng Thống chế ước muốn có một cuộc họp với Nam tước Constanlin Von Neurath, cựu Ngoại trưởng, cuộc họp mà trong đó cái kinh nghiệm lão thành về ngoại giao của ông cựu Ngoại trưởng sẽ có thể rất hữu ích.

Rommel nhìn thấy ở Neurath một nhà ngoại giao kỳ cựu, chỉ với bản chất quý phái của ông ta thôi, cũng đủ là người đối nghịch với chế độ Quốc Xã. Ngoài ra, Thống chế còn tìm được ở ông ta một con người cùng quê hương xứ sở Souabe[2] với Thống chế. Con trai của Neurath đã ở trong bộ Tham mưu của Thống chế rất lâu tại mặt trận Phi châu. Nhưng một sự xê dịch của Rommel đi tìm gặp Neurath và Strolin khó lòng tránh khỏi con mắt của Mật vụ. Vì vậy cho nên Rommel đã ủy cho tôi lo sự liên lạc với hai nhân vật ấy.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 21:00:10 | Chỉ xem của tác giả
- 6 -
(tiếp theo)

Buổi tối tiếp xúc diễn ra ngày 27 tháng 5 năm 1944 tại Freudenstadt. Mục tiêu của nó nhằm trao đổi những nhận xét giữa mặt trận miền Tây và mẫu quốc. Tôi bắt đầu bằng công việc xác định tình hình quân sự trước cuộc đánh chiếm của Đồng minh. Nhân danh Thống chế tôi đòi hỏi phải nghiên cứu kế hoạch tại Đức để cứu đất nước thoát khỏi tai họa diệt vong. Von Neurath phác họa một biểu đồ về tình hình ngoại giao từ ngày 4 tháng 2 năm 1938, ngày mà ông và Đại tướng Von Fritsch bị giải nhiệm. Ông nhắc lại sự kiêu hãnh của những lời ông đã báo động trước cho Hitler. Bác sĩ Strolin chú trọng tới vấn đề thuộc về trung ương, về cá nhân Hitler và tán đồng ý kiến cho rằng ngoại quốc không muốn điều đình với Hitler dù với giá nào. Chỉ có truất phế Hitler đi mới có thể tạo được một đường lối xây dựng mới. Nhưng phải hành động gấp rút, trước cuộc đánh chiếm của Đồng minh. Vì vậy sự giữ vững phòng tuyến là điều kiện trước tiên cho mọi kế hoạch. Theo ý kiến của bác sĩ Strolin thì Thống chế Rommel là người duy nhất đảm trách được đường hướng chung, không những vì ông là người được dân Đức ưa mến bởi lòng liêm khiết và bởi ông là một tướng lãnh, mà vì ông còn được cả nước ngoài khâm phục bởi tinh thần cao thượng khi cầm quân.

Vì vậy, hai nhân vật trên yêu cầu tôi chuyển lời mời Thống chế hãy sẵn sàng đứng ra cứu vãn nước Đức, hoặc với cương vị tư lệnh Lục quân, hoặc Quốc trưởng lâm thời. Dĩ nhiên Đại tướng Beck và bác sĩ Goerdeler đều là những nhân vật thiết yếu, đủ khả năng đóng vai trò trọng đại của cuộc cách mạng này, nhưng trong những bước đầu khó khăn, phải có một nhân vật có uy tín đối với dân chúng và quân đội như Thống chế.

Hơn nữa, người ta dự liệu những khả năng đàm phán với phe Đồng minh tây phương: nhờ Tòa thánh La mã, nhờ ông Samuel Hoare, Đại sứ Anh tại Madrid, và nhờ Thụy sĩ. Những cuộc thăm dò đã được đưa ra tại La mã, Madrid và Lisbonne, nhưng cho đến nay vẫn chưa có kết quả gì.

Mười ngày sau, Strolin chuyển tới một bản báo cáo về tình hình ngoại giao và những thuận lợi của nó do Von Neurath thảo; những thuận lợi về ngoại giao quả thực còn quá hạn chế.

Người ta thảo luận kỹ càng việc trừ khử Hitler. Trái với ý kiến Thống chế, như ta đã thấy, chỉ muốn bắt Hitler và đưa ra xét xử tại một tòa án Đức, Strolin bàn rộng về quan điểm của Goerdeler và Beck chủ trương một vụ trừ khử khẩn thiết.

Theo họ, Hitler còn sống tức là còn có một mầm mống nguy hiểm về một cuộc tranh chấp chính trị.

Những công việc chuẩn bị cho vấn đề tuyên truyền trong nước và ở các mặt trận cũng đã được phác họa với những nét đại cương.

Cuộc hội ý lần thứ hai đã bàn thêm về sự liên hệ giữa những điểm khác biệt của cuộc kháng cự và đã ấn định một đường dây tin tức gửi đến đồn chỉ huy của Rommel: đường dây nầy tỏ ra chắc chắn và không bị khám phá.

Thống chế chấp thuận nội dung của những cuộc thảo luận ấy, ông báo tin cho Von Neurath và Strolin biết rằng những biện pháp chuẩn bị đã được thực hiện và bản thân ông, không có tham vọng cá nhân, sẵn sàng tham gia tích cực.

Một mưu tính của Mỹ muốn bắt liên lạc với Rommel, nhưng ông không hề hay biết, và chuyện đó chỉ được phát giác ra sau khi chiến tranh chấm dứt. Ngày 19 tháng 5 năm 1944, Đại tá Smart của Mỹ đáp phi cơ tới Vienne và đã tuyên bố trong một cuộc hỏi cung rằng ông ta muốn liên lạc với Thống chế để chấm dứt chiến tranh. Biên bản hỏi cung được ghi chép trong trại tù binh giam các sĩ quan tại Oberursel – Taunus, có ba bản gửi cho Hermann Goering, Goebbels và Bộ Không quân Đức. Rommel không được thông báo: đây cũng lại là một thí dụ về những phương pháp xếp đặt một đường lối chính trị có tính cách “sứ quân” và sự thiếu phối hợp giữa ba bộ Tự lệnh của các binh chủng.

***

Vì vậy trong những tuần lễ trước cuộc đánh chiếm của Đồng minh ý kiến của hầu hết mọi người đều bao quanh vấn đề cứu vớt nền Cộng hòa Đức. Chỉ có ai, đứng trước những giờ khắc vụt biến, trong giai đoạn quyết liệt của vận mệnh, bị bắt buộc phải phấn đấu để đưa ra những quyết định liên quan đến mạng sống nhiều người, đến tình hình chính trị và quân sự mà tầm mức của những quyết định ấy vượt xa khỏi tầm vóc của dân tộc Đức, thì người ấy mới có thể đo lường được sự bối rối trong lương tri các vị Tư lệnh quân sự cùng một hoàn cảnh suy tư như vậy. Những vấn đề mà một ông Hoàng Homburg, một ông Louis Ferdinand và một ông York phải giải quyết cũng có một tầm mức gần giống như những vấn đề của các vị tư lệnh quân sự dưới thời Hitler. Thống chế Rommel cũng giống như Nã phá luân, trong giai đoạn quyết định của lịch sử, phải đáp ứng những đòi hỏi đặt ra cho một kẻ sĩ phu quyền cao tước trọng, và hơn nữa ngoài một tư tưởng quân sự, còn phải đưa ra được một tư tưởng chính trị. Thống chế không phải là một ông tướng võ biền đầu óc hẹp hòi chỉ biết vâng lời như một kẻ thuộc hạ thấp kém, như Schlieffen đã mô tả; ông cũng không phải là một thứ “chuyên viên” để cho Hitler, giống như Robespierre, có thể phán bảo rằng: “Chỉ nhìn thẳng đằng trước là kẻ thù và phía đằng sau là sợi dây để treo cổ hắn ta!”. Ta cũng cần thêm vào đó cái luân lý của một Moltke, một nhân vật mà trong giờ phút cuối cùng đã đặt tình nhân loại lên trên nhiệm vụ người lính và đặt Con người lên trên Nguyên tắc. Trong các buổi đàm luận trong công viên, Rommel thích trích dẫnvới sự châm biếm chua cay, các câu được viết trong cuốn Mein Kampf của Hitler, những câu mà Hitler đã làm cho ý nghĩa hoàn toàn trái ngược trong suốt tiến trình tiến hóa của ông: “Khi một dân tộc bị dắt dẫn đến chỗ diệt vong do bởi các kế sách của một chính quyền gồm những kẻ tiếm đoạt, sự nổi loạn của mỗi người công dân không những chỉ là một quyền, mà là một bổn phận… Quyền của con người phá vỡ quyền của Nhà nước”. Và: “Một lãnh tụ khôn ngoan phải chăm sóc không những đừng để cho cả dân tộc lao đầu vào vực thẳm một cách anh hùng mà phải bảo toàn khối dân tộc ấy. Mọi con đường đưa đến mục tiêu ấy đều đã được vạch ra và sự thiếu sót trong các đường hướng ấy phải được xem như là hành vi trọng tội và xâm hại đến lương tâm.”

Rommel chủ trương rằng, đối với cấp chỉ huy, sự tuân phục phải tìm kiếm các giới hạn của nó trong cảm nghĩ về trách nhiệm đối với Số phận của Dân tộc tại một điểm mà lương tri con người ra lệnh nổi loạn.

Chắc chắn ông hiểu rõ sự khác biệt giữa sự bất tuân phục đối với Thượng đế và sự bất tuân phục đối với con người. Trong lợi ích của chính dân tộc, ông cần phải đảm nhận nhiều trách nhiệm đặc biệt nếu các phương tiện khác không còn nữa. Lại một lần nữa, trong một buổi thuyết trình có bài viết sẵn, ông toan tính cải hóa cách nhìn của Hitler theo lối trên để giúp ông ta quay đầu trở lại. Nhưng lời kêu gọi cuối cùng ấy cũng không đáp ứng cũng như tất cả các lần trước, lúc đó ông tự coi là được giải thệ. Bây giờ ông có bổn phận hành động, dầu cho bổn phận ấy có vẻ như được hành sử để chống lại Tổ quốc. Vả chăng đối với ông, thật rõ ràng rằng, đối với một hành động như vậy, và đối với trách nhiệm siêu hình ấy chỉ có vị Tư lệnh Tối cao là có thể có đủ tư cách để dấn thân vào chứ không phải là một binh sĩ hay một sĩ quan đơn độc, không thể nào có được một cái nhìn sâu rộng. Rommel chịu gánh lấy trách nhiệm về một quyết định cá nhân và gạt bỏ trách nhiệm đơn thuần của một kẻ chấp hành bị Hitler bó buộc. Ông muốn tiết kiệm cho Tổ quốc và cho thế giới những sự hy sinh đẫm máu, bảo vệ cho những thành phố đẹp đẽ nhất và những khu vực đồng quê trù phú của quê hương ông, khỏi bị mất và khỏi bị tiêu diệt. Trong một tình thế như vậy, không bao giờ để cho cuộc chiến xảy ra trên đất Đức; một quyết định như thế sẽ không thể nào bị sửa đổi được ngay cả bởi các điều kiện gay go nhất của một đối thủ không chịu buông tha. “May cho một dân tộc, một hôm Talleyrand nói, tìm được một người biết tạo dựng hòa bình, khi mà người lãnh đạo của ông ta không còn được chấp nhận ngay cả như một người cầm cờ trắng.”

Rommel biết rất rõ ràng rằng thái độ đầy sáng tạo ấy có thể đòi hỏi sự hy sinh chính bản thân của ông, và cũng có thể cung cấp duyên cớ cho một “câu chuyện truyền kỳ về hành động đâm sau lưng” khác. Vả lại, không bao giờ ông sợ hãi sự hy sinh cá nhân mình!

Cũng công khai như Rommel, Von Falkenhausen và Von Stulpnagel đã thông báo các cuộc đàm luận và tư tưởng của họ cho vị Tổng tư lệnh mặt trận Miền Tây, Thống chế Von Rundstedt.

Các sự liên lạc giữa Rommel với Rundstedt và vị Tham mưu trưởng của Thống chế là tướng Blumentritt, được đặt trong sự tín nhiệm lẫn nhau.

Rommel tôn kính Rundstedt là một quân nhân đầy kinh nghiệm của lò đào tạo xưa cũ, là môn đồ quan trọng của Schlieffen. Họ đồng ý với nhau trong các suy luận về toàn bộ chiến lược và chính trị tổng quát. Von Rundstedt là một chiến lược gia có hạng nắm chắc trong tay dụng cụ quân sự. Nhưng trong những năm cuối ấy của cuộc đời ông, có thể là vì tuổi tác đã khá cao nên ông thiếu sự phấn khởi sáng tạo, sự minh bạch trong cảm nghĩ về trách nhiệm đối với dân tộc. Càng ngày người ta càng chú ý nơi ông, sự uể oải nhọc mệt và thái độ chịu đựng chua chát. Chắc chắn là ông khinh thường Hitler, sau các cuộc hội đàm thân mật với Hitler, ông chỉ còn gọi Hitler, bắt chước theo Hindenburg, là “Chú cai người Bohême”.

Trong các cuộc hội kiến mà mục đích là để trình bày các nhu cầu chung với hiện diện của Hitler, ông tuyên bố với Rommel: “Ông còn trẻ, dân tộc biết ông và yêu mến ông. Hành động là việc của ông!”.

Chính như thế Von Rundstedt tự làm lu mờ, không những chỉ trong vai trò của một tướng soái mà còn trong vai trò một nhân vật đúng vào lúc ông phải hoàn toàn dấn thân. Tiếp theo sau sự bất động ngày càng gia tăng của ông, ông trở nên một nhân vật ít được biết đến tại mặt trận Miền Tây, trong khi đó Rommel, nhờ tính khí của một lãnh tụ rõ rệt, tác động bằng cá nhân mình lên hàng ngũ binh sĩ, đã dấn thân không hề ngần ngại.

Ngày 4 tháng 7 năm 1944, vào buổi chiều, Thống chế Von Rundstedt tuyên bố với Rommel rằng ông sẽ không bao giờ đảm nhận chức vụ Tổng tư lệnh nữa. Vậy là khó mà giải thích thái độ về sau của ông: sự tham gia của ông vào cái gọi là tòa án danh dự, sau ngày 20 tháng 7; và tòa án này, do sự tẩy chay của các bạn ông trong quân đội, đã sáng tạo ra các điều kiện tiên quyết để đưa họ ra kết tội trước Tòa án Nhân dân, sự đảm nhiệm một chức vụ Tân Tổng tư lệnh tối ngày 4 tháng 9 năm 1944 và cuối cùng sự đại diện cho Hitler trong tang lễ của Erdwin Rommel đã bị bức tử ngày 17 tháng 10, tại Ulm, nơi mà định mệnh đã lại cho ông, thêm một lần nữa, cơ hội để nói, như Marc Antoine[3], ông vẫn ở trong “trạng thái thụ động về mặt tinh thần”.
Kết quả của tất cả các cuộc thương nghị được ghi dưới hình thức một lịch trình điều động, trước hết lệ thuộc vào sự hợp tác của tướng Von Stulpnagel: ở phía Tây, thiết lập những điều kiện cần thiết cho một cuộc đình chiến với các tướng Eisenhower và Montgomery, không có sự tham dự của Hitler. Đối với các cuộc thương thuyết, Rommel đã tiên liệu các nhân vật sau: các tướng Stulpnagel, Geyr Von Schweppenburg, Hans Speidel, Gerd Von Schwerin, phó Đô đốc Friedrich Ruge, trung tá trừ bị bác sĩ Casar Von Hofacker. Thống chế đã dự trù các điều kiện sau đây cho một cuộc ngưng bắn:

Triệt thoái khỏi lãnh thổ các quốc gia bị chiếm đóng tại miền Tây, rút lui quân lực đóng ở miền Tây hiện đang ở sau bức tường phía tây, trao lại guồng máy cai trị các quốc gia bị chiếm đóng cho Đồng minh. Đình chỉ tức khắc chiến tranh bằng các cuộc không tập trên lãnh thổ Đức quốc! Cuộc đình chiến – chứ không phải là một cuộc đầu hàng vô điều kiện – phải được nối tiếp bằng các cuộc thương nghị nhằm mục tiêu một nền hòa bình đạt được trật tự chứ không phải trong tình trạng hỗn loạn. Thống chế Rommel vẫn đinh ninh là phe Đồng minh sẽ không bao giờ để cho cơ may như thế trôi qua.

Kêu gọi dân tộc Đức trên tất cả các đài phát thanh tại miền Tây: giải thích công khai tất cả về tình hình chính trị và quân sự thật sự và các nguyên nhân đưa đến tình hình đó, mà không nói đến tội ác do Hitler đã phạm phải trong tư cách người lãnh đạo quốc gia.

Các đơn vị quân đội sẽ được thông báo cho biết tính cách cần thiết của các biện pháp nhằm mục tiêu tránh thảm họa.

Tại Đức, bắt giữ Adolf Hitler để đưa ra xét xử trước một tòa án Đức, thi hành bởi các lực lượng chống đối của Bộ Tổng tư lệnh tối cao, hoặc bởi các đơn vị thiết kỵ mà người ta sẽ triệu dụng. Rommel có ý nghĩ là không nên trừ khử Hitler bằng một cuộc mưu sát, nhưng để cho các thẩm phán Đức kết án ông ta. Hủy diệt chế độ độc tài bạo lực quốc xã. Nắm quyền lâm thời tại Đức bởi các lực lượng đề kháng thuộc mọi tầng lớp và kết hợp dân chúng dưới sự lãnh đạo của Đại tướng Beck, cựu thị trưởng bác sĩ Goerdeler, cựu Tổng thống nội vụ và chủ tịch nghiệp đoàn Leuschner.

Cá nhân Thống chế Rommel không ước muốn nắm giữ vai trò lãnh đạo quốc gia nhưng ông sẵn sàng nắm giữ quyền Tổng tư lệnh Quân đội hay Tổng tư lệnh Lục quân.

Không có một chế độ độc tài quân nhân nào cả. Hòa giải nội bộ và một mặt trận thống nhất. Chuẩn bị cho một nền hòa bình lâu dài trong khung cảnh một “Hiệp chủng quốc Âu châu”. Hợp tác với tất cả những người có thiện chí.

Ở miền Đông, tiếp tục chiến đấu nhờ sự chiếm đóng một mặt trận Miền Đông thu ngắn trên một phòng tuyến chạy dài ngang qua từ cửa sông Danube, dãy núi Carpathes, Lemberg, sông Vistule, Mémel. Di tản chiến thuật lập tức ra khỏi Courlande và các khu vực phòng thủ tăng cường khác.

Công cuộc chuẩn bị phải được đẩy mạnh bằng cách nào mà người ta có thể hành động trước khi cuộc đổ bộ của Đồng minh vào Âu-châu. Và điều kiện tiên quyết cho các cuộc thương thuyết sắp đến là sự hiện hữu của một mặt trận Miền Tây thật vững chắc. Đây là niềm ưu tư chính yếu của tất cả mọi người.

Chú thích:

[1] Đọc: “Rommel, con cáo già của sa mạc” Bản dịch Người Sông Kiên và Lê thị Duyên, Sông Kiên xuất bản.

[2] Souabe tiếng Đức là Schuaben, cựu công quốc (duché) của Đức, ngày nay là một đơn vị Hành Chánh ở miền Tây Nam Bavière– thủ đô: Augsbourg.

[3] Marc Antoine: tướng La Mã, người tình của Cleopatre, nữ hoàng Ai Cập
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 21:16:15 | Chỉ xem của tác giả
- 7 -
CUỘC XÂM CHIẾM TỪ NGÀY 6 ĐẾN NGÀY 9-6-1944

Hitler luôn luôn trì hoãn cuộc viếng thăm miền Tây dự định từ lâu của ông. Cũng như Thống chế Rommel một lần nữa muốn trình bày cho ông ta, một báo cáo riêng, và trước cuộc xâm chiếm sắp đến của Đồng minh, trình bày các quan niệm quân sự và chính trị của ông về tình hình và yêu cầu ông ta thi hành các biện pháp chính trị tương ứng.

Được thỏa hiệp với Thống chế Von Rundstedt và sau khi thỏa hiệp trước bằng điện thoại với túy viên của Hitler, tướng Schmundt, sáng ngày 5 tháng 8, ông đi xe đến Obersalzberg: các giới chức cao cấp đã bị cấm không được dùng đường hàng không vì ưu thế không quân của địch. Ông phải báo cáo cho Fuhrer vào ngày 6 tháng 6, nhưng muốn về với gia đình đêm 5 rạng ngày 6 tại Herrlingen, gần Ulm.

Ngày 5 trôi qua một cách êm ả. Tổng tư lệnh miền Tây đã tuyên bố rõ, cũng như bao nhiêu tin tức tình báo khác, rằng cuộc xâm chiếm có thể bắt đầu trong khoảng từ 6 đến 15 tháng 6. Nhiều điện văn bắt được qua máy vô tuyến đã chỉ định nhiều ngày để bắt đầu cuộc đổ bộ, nhưng người ta nghĩ rằng nó sẽ bị chậm trễ.

Các lực lượng kháng chiến F.F.I bên trong lãnh thổ Pháp, báo hiệu cho nhau, đặc biệt là trong vùng Bretagne, bằng truyền đơn. Nội dụng của truyền đơn có thể coi như là một lời kêu gọi bắt đầu một giai đoạn kháng chiến tích cực. Binh đoàn B đã ra lệnh báo động toàn diện mặt trận ngay từ các ngày đầu của tháng 6 một cách thận trọng.

Vào lúc 22 giờ ngày 5 tháng 6 Lộ quân thứ XV lại bắt được mật hiệu cho phép kết luận là cuộc xâm chiếm bắt đầu.

Dĩ nhiên là Lộ quân thứ XV đã lập tức báo động các đơn vị trực thuộc và thông báo cho các Lộ quân đóng kế cận. Tổng tư lệnh Miền Tây được thông báo dấu hiệu bắt được của địch đã không đồng ý đặt toàn thể mặt trận trong tình trạng báo động.

Trong những ngày trước đó, vì lẽ ưu thế của không quân địch có tính cách tuyệt đối cho nên các đơn vị không thám và hải thám đã không thể nào hoạt động được. Các cuộc tuần tiễu trên biển đã không thể thực hiện được trong đêm mồng 5 tháng 6 vì lý do “biển quá xấu”.

Ngay từ bình minh ngày mồng 6, Tham mưu trưởng Binh đoàn B nhận được các tin tức liên quan đến các vụ địch quân nhảy dù xuống vùng Caen và trong vùng đông nam bán đảo Colentin. Trước hết, người ta không biết rõ lắm liệu đây là cuộc đổ bộ các đơn vị không vận quan trọng hay chỉ là việc thả dù các đội liên lạc cảm tử mạnh mẽ để hỗ trợ cho lực lượng kháng chiến tại Pháp. Đặc biệt, chính trong vùng giữa sông Seine và sông Orne, quân dù địch đã lan tràn trong một vùng rộng lớn. Mặc dù vậy, các mệnh lệnh chuẩn bị cũng đã được ban hành. Giữa khoảng 3 và 4 giờ sáng tin tức về các cuộc nhảy dù ngày càng gia tăng. Thêm vào đó, lại có các cuộc ném bom nhằm vào các khu vực phòng thủ kiên cố và dọc theo bờ biển; tin tức về các đội hình không quân mạnh mẽ của địch được thông báo. Các sư đoàn thiết giáp trừ bị sẵn sàng nổ máy. Lực lượng tổng trừ bị độc lập của Quân đoàn I thiết kỵ SS được lệnh liên lạc với quân đoàn của tướng pháo binh Erich Marcks đang trấn giữ vùng bờ biển Calvados và chỉ huy lực lượng trên bán đảo Colentin, cũng như với các sư đoàn tham chiến. Sư đoàn 21 thiết giáp nhận được lệnh tiến vào khu vực chuẩn bị định trước ở phía nam Caen. Bộ Tư lệnh tối cao Lục quân và Bộ Tổng tư lệnh Mặt trận Miền Tây được báo cáo tình hình.

Đến 5 giờ 30, một cuộc oanh kích như sấm sét đổ xuống bờ biển Calvados bởi hàng trăm hải pháo từ biển khơi bắn vào. Các biện pháp phòng vệ tự động, được tiên liệu từ lâu, bắt đầu hoạt động. Các mệnh lệnh đã được chuẩn bị cho Trường hợp Normandie được ban hành.

Tham mưu trưởng Binh đoàn B điện thoại báo cho vị Tư lệnh của mình tại Herrlingen biết tình hình và các biện pháp sơ khởi, vào khoảng giữa 6 giờ và 6 giờ rưỡi. Thống chế Rommel chấp thuận các biện pháp đó. Ông lập tức hủy bỏ đoạn tiếp của cuộc hành trình về Berchtesgaden và ngay từ ngày mồng 6 tháng sáu, vào khoảng từ 16 đến 17 giờ, ông lại xuất hiện tại bản doanh đặt ở La Roche-Guyon.

Đối với ông, không có thể có vấn đề ban hành các chỉ thị chiến lược ngay trong những giờ đầu tiên ấy, khi mà ông chưa được các tin tức tình báo và các đơn vị thám sát đã được tung ngay lập tức khắp tứ phía, báo cáo rõ ràng về tình hình. Phải cố trấn tĩnh và chờ đợi. Nhưng các cú điện thoại liên miên từ Bộ tư lệnh Mặt trận Miền Tây gọi đến chứng tỏ các giới chức cao cấp ấy đang bị xao động, bối rối. Nhiều lần tướng Jodl được viên tham mưu trưởng thông báo tình hình. Ông nầy yêu cầu Jodl cho sử dụng các sư đoàn thiết giáp đặt dưới quyền của Bộ Tổng tư lệnh Lục quân. Từ 6 giờ, tin tức về cuộc đổ bộ được dồn dập gởi về. Mọi tin tức đều phát xuất từ Lục quân vì không một phi cơ nào của Đức có thể bay đến khu vực Normandie. Ngay từ mồng 6 tháng sáu, không quân Đồng minh đã làm tiêu tan mọi toan tính của 70 oanh tạc cơ và 90 máy bay săn giặc lúc đó có sẵn tại miền Tây, và làm cho tất cả mọi phi trường đều bị hỗn loạn. Chiều ngày mồng 6, một trung tâm điểm cỡ lớn của cuộc đổ bộ được kết tạo giữa sông Orne và sông Vire. Tình hình giữa sông Seine và sông Orne vẫn còn mù mờ cũng như trong khu vực rẽ quạt đông nam Cotenlin, nơi đổ bộ của quân nhảy dù Đồng minh mà người ta chưa biết rõ quân số quan trọng như thế nào.

Vì đã chờ đợi cuộc đổ bộ của đối phương bất cứ lúc nào và vì muốn tiêu diệt các lực lượng đổ bộ đầu tiên, để ngăn không cho đối phương tăng cường lực lượng và chiếm đất, ngay từ tháng năm, Rommel đã ra các chỉ thị chính yếu cho sư đoàn 21 thiết giáp trong khu vực Nam Caen là lợi dụng sự yếu kém của địch vào lúc mới đổ bộ để thi hành một “cuộc phản công tự động”. Tất cả các sự kiện có thể xảy ra liên quan đến quân số và lãnh thổ đều đã được tiên liệu trên bản đồ. Như vậy, sư đoàn 21 thiết giáp đã được Rommel đặt vào một vị trí quyết định, nhưng ông thấy các lực lượng thiết kỵ khác từ chối theo lệnh ông. Trong cuộc điện đàm vào buổi sáng với viên tham mưu trưởng của lực lượng ấy, Thống chế nhấn mạnh một lần nữa, một cách khẩn cấp, rằng chắc chắn là ông cần đưa sư đoàn 21 thiết giáp và tất cả các lực lượng trừ bị cơ hữu vào cuộc tấn công nhưng phải đặt chúng dưới một hệ thống chỉ huy duy nhất. Nhưng trước các đề nghị lập đi lập lại, Hitler vẫn không muốn tung ra các lực lượng trừ bị khác: chính vì vậy mà chỉ có sư đoàn 21 thiết giáp tham gia cuộc phản công ngày 6 tháng sáu lúc 10 giờ theo lệnh của Tư lệnh Quân đoàn LXXXIV, tướng pháo binh Marcks.

Đà tiến của thiết giáp đưa họ cho đến bờ biển và cho phép thiết lập liên lạc với các mảnh vụn của sư đoàn 716 vẫn còn giữ vững tại điểm tựa. Khi đối phương đổ bộ quân dù xuống vùng dàn quân của sư đoàn thiết giáp đang tấn công và xuống khu vực đông Caen, một quyết định được ban hành ra lệnh ngưng cuộc tấn công và chuyển hướng đánh hậu tập vào các thành phần địch. Đấy chính là một sự giúp đỡ đối phương mà hậu quả tai hại không lường được, bởi vì thành tích ban đầu không được khai thác. Cuộc tấn công của sư đoàn 21 làm cho đối phương rất khó chịu: đấy là lý do khiến địch tung các đơn vị nhảy dù ra để chống lại các thiết giáp Đức. Về phần Rommel, nhiều lần trong tháng 5 ông đã yêu cầu mà không kết quả, đặt trong vùng Caen và Falaise, quân đoàn 1 thiết kỵ SS với sư đoàn 12 thiết giáp SS Hitler Jugend và sư đoàn thiết giáp Lehr, tất cả đều ở trong tình trạng báo động. Ông muốn trình bày lên Hitler lời yêu cầu nầy một lần nữa vào ngày 6 tháng 6. Sự tham dự ngay tức khắc của quân đoàn nầy cùng với 3 sư đoàn thiết kỵ khác đúng vào lúc hiểm nguy của cuộc đổ bộ của đối phương có thể đưa đến một thành công ở tầm mức địa phương.

Trong đêm mồng 6 tháng 6, nhờ làm chủ tuyệt đối mặt biển và không phận, đối phương đã thiết lập được giữa sông Orne và vùng phía bắc Ryes, một vùng đầu cầu rộng 25 cây số và sâu đến 10 cây số và tại góc đông nam Cotenlin, một vùng đầu cầu thứ hai rộng 15 cây số và sâu 4 cây số.

Trong khu vực chỉ định đầu tiên được nói trên đây trên bờ biển Calvados, Lộ quân thứII Anh cát lợi, dưới quyền chỉ huy của tướng Dempsey, đã cho đổ bộ một sư đoàn dù, và một quân số tương đương với từ 4 đến 5 sư đoàn thiết giáp hay bộ binh. Tại góc đông nam bán đảo Cotenlin, Đệ I Lộ quân Hoa kỳ, dưới quyền tướng Hodges, đã đổ bộ 2 sư đoàn dù, từ 3 đến 4 sư đoàn thiết giáp hay bộ binh. Về phía Đức, binh sĩ đã chiến đấu dũng cảm cho đến phút chót trong các ổ kháng cự xếp theo hàng thẳng và trong các vị trí khởi đầu (sư đoàn 716 và 352).

Trong vị trí tuyệt vọng ấy, họ đã giữ vững, dưới một cơn bão lửa chưa từng thấy, phát xuất từ trên không, trên mặt biển và sau cùng trên đất liền. Một vòm lửa gồm các cỡ vũ khí nặng và siêu nặng phóng ra bởi dàn vũ khí Anh, Mỹ hợp nhất đã đóng khung cả khu vực trên giới hạn phía nam bên trong lãnh thổ Pháp. Không lực Đồng minh thực hiện chừng 25.000 ngàn phi vụ trong cuộc hành quân đổ bộ ngày 6 tháng 6. Phải chính mình sống với biển lửa đạn của Đồng minh từ trên bộ, trên không và trên biển mới biết được hậu quả vật chất tinh thần mà, bất chấp tất cả các phúc trình miệng lẫn báo cáo viết, Hitler không muốn thừa nhận. Phản ứng đầu tiên của ông ta gồm toàn các lời trách móc dễ dàng và các sự can thiệp vụng về hấp tấp. Ông ta tìm những “con dê tế thần”: theo lệnh ông, cả một loạt cấp chỉ huy bị cách chức; Rommel chống lại biện pháp đó.

Sau cùng, vào chiều ngày 6 tháng 6, lúc 15 giờ quân đoàn 1 thiết kỵ SS được đặt dưới quyền sử dụng của ông. Nhưng vì ưu thế tuyệt đối của không lực địch, không còn vấn đề có thể thực hiện các cuộc điều động ban ngày nữa. Trọng tâm của cuộc tấn công của Đồng minh tối hôm đó, có vẻ nằm giữa vùng sông Orne và sông Vire. Giả thuyết cho rằng đối phương nhằm đến việc tung một mũi dùi chọc thủng về hướng Paris, càng ngày càng có vẻ trở thành sự thật. Sáng ngày 7 tháng 6, lực lượng tổng trừ bị của quân đoàn I thiết kỵ SS được giao cho khu vực Caen. Sứ mạng của nó là thực hiện cuộc tấn công chọc thủng phòng tuyến địch mà sư đoàn thiết giáp với các lực lượng hợp nhất của sư đoàn 21, sư đoàn 12 thiết giáp SS và sư đoàn thiết kỵ Lehr không hoàn thành được. Do đó, cần phải đuổi địch quân đã đổ bộ trong khu vực Caen – Bayeux ra khỏi vùng đầu cầu mới thiết lập được và dồn họ trở ra biển. Mặc dù đã tính toán chính xác các giai đoạn và các khu vực tiến quân, nhưng thời khắc ngắn ngủi của đêm tháng sáu không cho phép hoàn tất trong thời gian mong muốn, các cuộc điều quân và công cuộc tiếp liệu. Các cuộc dội bom luân phiên nhắm vào các đường giao thông, đặc biệt là tại các giao điểm đã ngăn cản mọi cuộc di chuyển.

Vì thế cuộc phản công của quân đoàn I thiết kỵ SS chỉ có thể thực hiện vào ngày 9 tháng 6: ngày thứ 3 của cuộc đổ bộ chiếm đóng và thời điểm nguy hiểm của nó đã trôi qua.

Những thảm bom, một hỏa lực liên tục của tàu chiến đối phương đã ngăn cản sự tập trung, trong thời gian mong muốn, quân đoàn I thiết kỵ SS vào khu vực nam Caen. Quân Đức bị tổn thất nặng nề về người và vật liệu, đặc biệt là các máy móc vô tuyến. Điều này lại càng làm cho việc chỉ huy càng thêm khó khăn. Vì lẽ không lực Đức đã hoàn toàn bị loại trừ, các bộ Tư lệnh Đức sử dụng các tin tức ngày càng nghèo nàn để lượng định tình hình địch. Cuộc phản công đụng đầu với một đối phương sẵn sàng trả đũa, và cũng có ưu thế ngay cả trên bộ; nó không tiến triển được chút nào sau một vài thành công có tính địa phương.

Lúc đó, tại vùng đầu cầu trên bờ biển Calvados, Lộ quân thứ II Anh Cát Lợi, đã có khoảng 10 sư đoàn cơ giới và thiết giáp, và Đệ I Lộ quân Hoa Kỳ có từ 8 đến 9 sư đoàn trong bán đảo Cotentin. Đồng minh đã nối kết các khu vực đổ bộ khác nhau trên bờ biển Normandie bằng cách chiếm đóng lãnh thổ phía Bắc và phía Đông Bayeux, lực lượng của họ kết tụ mau hơn là tốc độ đưa các lực lượng trừ bị Đức đến mặt trận; các lực lượng trừ bị này vì thiếu sự yểm trợ của không lực, đã phải di chuyển ngoài các trục lộ giao thông vốn thường bị gây rối. Sự kết hợp giữa các lực lượng Đồng minh với các quân chủng bạn trên biển và trên không đã được thể hiện với sự chính xác dễ sợ, đấy là điều đã được chứng tỏ trong ba ngày đầu tiên.

Từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 6, vì tình hình biến chuyển theo kiểu đột biến, Binh đoàn B đã trình Bộ Tổng tư lệnh miền Tây và Bộ Tư lệnh tối cao Lục quân, các đề nghị cấp thời sau:

Chiều ngày 7 tháng 6, các lực lượng cơ hữu của Lộ quân thứ XV phải được gởi qua bên kia sông Seine về phía Nam. Thế mà Tư lệnh Binh đoàn B thấy mọi cuộc chuyển quân, dù chỉ một sư đoàn thôi, bên trong khu vực trách nhiệm của ông hoàn toàn bị Tổng tư lệnh Lục quân cấm chỉ.

Ngoài ra, Lục quân cũng đề nghị:

Rải quân mỏng hơn ở mặt trận biển Manche, cho gọi 8 Sư đoàn Bộ binh đã được đưa sâu vào vùng trách nhiệm của Lộ quân thứ XV, để tung chúng vào mặt trân phía Đồng minh đổ bộ bằng cách di chuyển ban đêm – hệ thống thiết lộ đã bị phá hủy, - người ta không còn sử dụng được các đoàn xe vận tải nữa. Như vậy, có thể rút các Sư đoàn thiết giáp và trả lại tính cách cơ động trong cuộc điều quân cho chúng, Các đề nghị này thoạt tiên bị từ chối. Chỉ rất lâu về sau – quá trễ - mệnh danh cho phép, đầy vẻ ngần ngại và theo “kiểu nhỏ giọt” mới được ban hành. Nguyên nhân của sự từ chối này là Hitler cũng như Bộ Tổng tư lệnh Lục quân lo ngại sẽ có một cuộc đổ bộ thứ nhì tại bờ biển Manche. Vấn đề cuộc đổ bộ thứ nhì đó đã đóng một vai trò chủ yếu trong sáu tuần lễ đầu tiên của cuộc tái chiếm.

Do các suy tư chiến lược chiến thuật và chính trị, Rommel cho rằng cuộc đổ bộ thứ nhì không có vẻ gì có thể xảy ra, mặc dù các tin tình báo “được cân nhắc từ các giới chức cao cấp” đã phát giác là từ 5 tuần qua, mỗi ngày, đã có từ 30 đến 50 sư đoàn tập trung tại các đảo thuộc Anh quốc.

Lẽ tất nhiên là cần phải chú ý đến lực lượng ấy trong khi ước tính tình hình tổng quát. Phù hợp với các suy luận cũ, Rommel chỉ định khu vực duyên hải giữa sông Seine và sông Somme như là khu vực có thể có cuộc đụng độ. Nhưng từ giữa tháng sáu, Binh đoàn B cho rằng cuộc đổ bộ của Lộ quân thuộc tướng Patton vào khu vực bắc sông Seine và nhất là tại một điểm được tăng cường phòng thủ mạnh mẽ nhất là chuyện khó có thật. Thật vậy, đối phương đã có đủ các đầu cầu giữa sông Orne và sông Vire và dọc theo bờ phía đông bán đảo Cotentin, hơn nữa chúng lại gần như được hoàn toàn nối kết được với nhau. Nhưng Bộ Tổng tư lệnh Lục quân một lần nữa đã chống lại yêu cầu điều động Lộ quân XV và từ chối không cho Rommel bất cứ sự tự do hành động nào. Chính tướng Jodl cũng cho rằng quyết định ấy là sai lầm. Mãi đến giữa tháng 7, Tổng Tư lệnh Lục quân mới ra lệnh di chuyển các sư đoàn không được sử dụng của Lộ quân XV từ mặt trận bờ biển Manche đến Normandie. Nhưng vào lúc đó, ta nên chú ý ngay từ bây giờ rằng, người ta có thể tự hỏi là sử dụng các lực lượng ấy để chuẩn bị cho cuộc phòng thủ sông Seine có phải lợi hơn không nếu người ta muốn, tiếp theo đó, từ bỏ tự do hành động ở miền Tây.

Thống chế Rommel, ngoài ra, còn đề nghị tập trung các sư đoàn tại Bretagne và trên các đảo ngoài khơi đối diện với Anh và đưa chúng về mặt trận Normandie. Theo ông, tại Bretagne, người ta có thể yên bụng với việc đảm bảo an ninh cho bờ biển; bán đảo không còn lợi ích chiến lược nào nữa vì nó đã mất tầm quan trọng của một căn cứ tàu ngầm, về phương diện số lượng và các khả năng làm cho các tàu chiến hữu dụng. Các sự kiện thực tế cho thấy ông có lý.

Các đảo đối diện Anh quốc chỉ được chiếm đóng bởi sư đoàn 319 được tăng cường bởi một trung đoàn thiết giáp, một lữ đoàn phòng không D.C.A và vài đơn vị khác, nghĩa là gần 35.000; người họ bị bắt buộc đầu hàng vào tháng 5 năm 1945 mà không phải chiến đấu gì. Ngay từ năm 1944, do linh tính rất chính xác về số phận không thể tránh được, binh sĩ đã mệnh danh cho sư đoàn đó là “Sư đoàn Gia nã đại”, dường như sự tù đày đã được dành sẵn cho nó. Đề nghị bác bỏ một lần nữa bằng lệnh viết hẳn hoi, và ngày 17 tháng 6, Hitler cấm hẳn mọi đề nghị này.

Một yêu cầu khác nhằm giải tỏa phòng tuyến Địa trung hải “vì lẽ không thể giữ được tất cả” và đưa lên phía Bắc quân đoàn LVIII thiết kỵ đang đóng trong vùng Midi thuộc Pháp, với 4 Sư đoàn thiết giáp (sư đoàn 9 và 11 thiết giáp, Sư đoàn 2 và 17 SS) và việc sắp xếp chưa xong. Nhưng vì lo sợ một cuộc đổ bộ tại Địa trung hải, Hitler cũng như Bộ Tổng tư lệnh Lục quân lại bác bỏ đề nghị này. Mãi đến tháng 7 và tháng 8, các sư đoàn thiết giáp mới được đưa đến phía nam sông Seine: về phương diện chiến lược đó là một cứ điểm được lựa chọn một cách sai lầm.

Nên biết rằng phòng tuyến Địa trung hải, với các lực lượng yếu kém và các bờ biển trống trải, không thể nào có đủ sức chống cự lại một cuộc tấn công nghiêm chỉnh của địch. Trong trường hợp ở đấy cũng có cuộc đổ bộ, cần phải dự trù một chiến lược quy mô di tản toàn thể lực lượng trong vùng Midi của Pháp, rút lui các lực lượng về sau tuyến Seine – Yonne, tách rời tất cả lực lượng trừ bị về sau cánh quân phía Đông. Các yêu cầu này không được cả Bộ Tư lệnh Miền Tây lẫn Bộ Tổng Tư lệnh Quân lực chấp nhận. Rommel đành bó tay và, lại một lần nữa, thấy mình bị ngăn trở trong một kế hoạch có tính cách chiến lược.

Như vậy, giai đoạn đầu tiên của cuộc xâm chiếm chấm dứt với sự thành công rõ rệt của Đồng minh về phương diện quân sự cũng như về phương diện tâm lý. Họ đã trải qua những ngày đầu tiên nguy hiểm một cách dễ dàng mà không gặp một cuộc phản công nào đáng kể, nhờ tính cách vững chắc của sự phối hợp giữa các binh chủng bộ binh, Hải quân và Không quân của họ, và nhờ hiệu năng to lớn của các phương tiện kỹ thuật mới. Vị thế của họ trở lên vững chắc.

Về phía phòng thủ, đối với quân Đức, quân Đồng minh chỉ còn có thể bị đẩy ra biển hay bị cầm chân tại các khu vực đầu cầu nếu người ta có thể tung vào trận đánh một không lực Đức hùng mạnh và các lực lượng Hải quân hoàn toàn tương đương với tàu chiến Đồng minh. Sự thất bại về mặt chiến thuật trong các cuộc điều quân tung vào trận phản công, không phải do Bộ tư lệnh địa phương hay, sau đó, do sự thiếu chuẩn bị của các đơn vị, mà chỉ vì hiệu năng của không lực và hải lực đối phương. Ngay từ những ngày đầu, các lực lượng ấy đã giáng cho quân Đức các đòn gây tổn thất đáng kể về nhiên liệu và đạn dược.

Quân Đồng minh vẫn là chủ nhân ông duy nhất áp đặt quy luật của họ vào trận chiến.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 2-8-2013 21:19:13 | Chỉ xem của tác giả
- 8 -
TỪ 9 THÁNG 6 ĐẾN 24 THÁNG 7 NĂM 1944
CÁC BIẾN CỐ QUÂN SỰ

TRONG THỜI KỲ ĐÓ, CHÚNG TÔI CHỨNG KIẾN các cố gắng của Đức nhằm đẩy đối phương từ các vùng đầu cầu ra biển.

Bộ tham mưu của lực lượng thiết giáp Miền Tây, đóng ở Paris, dưới quyền chỉ huy của Tướng thiết giáp Bá tước Geyr von Schweppenburg, theo đề nghị của binh đoàn B, đã được gọi đến ngày 7 tháng 6. Nhưng mãi đến tối ngày 8, lực lượng này mới đảm bảo được sự chỉ huy từ phía dòng sông Orne cho đến Tilly. Trong vùng này, dưới quyền của lực lượng, có các đơn vị thuộc cánh bên trong các Lộ quân XV và lộ quân VII, với Quân đoàn I thiết kỵ SS. Các mệnh lệnh chiến đấu được ban hành như sau: đẩy lui địch trên đất liền với tất cả mọi đơn vị thiết giáp cơ hữu. Tướng Geyr von Schweppenburg cho lực lượng ngừng nghỉ một khoảng thời gian sau thất bại của Quân đoàn I thiết kỵ SS và chuẩn bị tấn công vào đêm 10 và 11 tháng sáu.

Các mệnh lệnh đã được ban hành với sự hiện diện của Tư lệnh Binh đoàn tại bản doanh bộ chỉ huy thiết giáp, khi Sư đoàn thiết giáp Lehr báo cáo một mũi dùi tấn công của địch phát khởi từ miền Tây. Đấy là một tin tình báo có nội dung phóng đại, khó tránh khỏi trong cuộc hành quân; nhưng nó cũng cần thiết cho công cuộc chuẩn bị các biện pháp phòng thủ. Ít lúc sau báo cáo ấy, bộ tham mưu chiến đấu của lực lượng thiết giáp miền Tây gần như bị hoàn toàn tiêu diệt bởi một cuộc không tập dữ dội của địch, quả thật các trạm truyền tin mới đã bị đối phương khám phá. Lực lượng bị mất tham mưu trưởng, tướng Von Dawans, trưởng phòng hành quân và một số sĩ quan khác. Bộ phận tình báo của thiết giáp bị loại ra khỏi vòng chiến; chỉ có vị Tư lệnh, bị thương nhẹ, chạy thoát cùng với vài binh sĩ. Ông ta chỉ có thể ra mặt trận lại vào ngày 26 tháng 6 cùng với một bộ tham mưu mới, một bộ tham mưu chịu nhiều thiếu sót do tình trạng không được chuẩn bị trước.

Như thế trong những ngày tiếp liền theo cuộc đổ bộ, quân Đức đã không có thể mở được một cuộc phản công được phối hợp đầy đủ, vỉ lẽ lực lượng thiết giáp bị đóng đinh trong vị thế phòng thủ, trước áp lực ngày càng mạnh của lực lượng thiết giáp Anh. Hitler và vị Tư lệnh tối cao của quân lực luôn luôn xía vào hệ thống chỉ huy và, thường muốn ngăn chặn tất cả các cuộc hành quân của đối phương cùng một lúc. Cả một cơn tuyết băng gồm toàn chỉ thị rối rắm từ Tổng hành dinh của Fuhrer giáng xuống các đơn vị. Cùng một lúc, Tổng hành dinh muốn làm tê liệt cuộc tấn công của địch về phía Nam Caen, ngăn chặn một đợt tiến quân của địch từ Bayeux, hướng về phía Nam, cố thủ Cherbourg bằng mọi giá, phá vòng vây bán đảo Cotentin và chặn đứng một cuộc hành quân của địch nhắm vào Bretagne. Sau cùng một mệnh lệnh của Fuhrer đã được ban hành bắt buộc “tiêu diệt” trong từng khu vực một các vùng đầu cầu giữa sông Orne và sông Vire, mệnh lệnh ấy còn đi sâu vào chi tiết đáng kể nhất là vấn đề đưa một lữ đoàn súng cối về phía dòng sông Orne.

Nhưng tất cả các sứ mạng đó phải được thi hành trong tình trạng không có đủ quân trừ bị, không có lực lượng Hải quân và Không quân.

Trong khi các biến cố ấy xảy ra giữa sông Orne và Vire và trọng tâm cuộc chiến có vẻ nằm gần Caen – Bayeux, quân Mỹ toan tính nới rộng vùng đầu cầu của họ trong phần đông nam bán đảo Cotentin. Đối địch với vùng đầu cầu của Mỹ, trước hết là có các thành phần của sư đoàn 243, 91, 77, của sư đoàn 3 nhảy dù, cũng như của các thành phần thuộc sư đoàn pháo, thiết giáp SS và lữ đoàn 30.

Nhưng ở đấy cũng vậy, mặc dù với tài chỉ huy đầy kinh nghiệm của tướng pháo binh Marcks, và cũng vì cùng các lí do như tại Caen, quân Đức không thể nào đạt được một cuộc phản công hiệu quả. Việc đưa lực lượng trừ bị theo từng nhóm rời rạc, về điểm này, cũng ngăn cản sư thành lập một lực lượng tấn công có một sức mạnh nào đó. Lấy một vài chi tiết để làm ví dụ về sự đưa quân tham chiến một cách nhỏ giọt này:

Chúng ta thấy có sự can thiệp vào khu vực chiến trận của: sư đoàn 12 thiết giáp SS vốn đã bị bẻ gãy nhiều mảnh trong ngày 7 tháng 6, sư đoàn thiết giáp Lehr ngày 8 và 9 tháng 6, sư đoàn 77 bộ binh ngày 11, sư đoàn 2 thiết giáp ngày 13, sư đoàn 3 nhảy dù cùng ngày ấy, sau cùng sư đoàn 1 thiết giáp SS ngày 18. Tình trạng cũng tương tự như vậy. Đối với việc tung ra các bộ phận đặc biệt như các đơn vị pháo binh xung phong và các lữ đoàn súng cối: việc này còn thê thảm hơn vì lẽ hệ thống thiết lộ ngày càng bị phá hủy nhiều hơn.

Ngay từ đầu, người ta chỉ có thể tránh được các bất lợi do bởi ưu thế không quân của địch bằng cách giải tỏa hoàn toàn các khu vực của duyên hải phía bắc và phía nam Normandy. Nếu các biện pháp ấy không được chấp nhận, đấy là tại vì trong sự lượng định tình hình tại bộ Tổng tư lệnh tối cao quân lực, người ta luôn luôn nghĩ rằng sắp có một cuộc đổ bộ thứ nhì.

Cuộc phản công chống lại quân Mỹ tại Contentin bị giảm thiểu dần trở thành các cuộc tấn công rời rạc, vả lại, trong phần lớn các trường hợp, khi vừa mới được đưa đến, các lực lượng Đức lập tức được lệnh đổi hướng để giải quyết các điểm bị nguy khốn trong cuộc chiến đấu.

Tình hinh khí tượng trong ngày 9 và 10 tháng 6 quả thật có làm giảm sự can thiệp của không lực địch, nhưng sự ngưng nghỉ này không thể mang lại lợi ích nào cho phía phòng thủ.

Ý định của quân Mỹ nhằm cô lập hóa bán đảo Cotentin và trước hết chiếm Cherbourg ngày càng rõ rệt. Thế mà qua các chỉ thị, Hitler đã tuyên bố rằng việc giữ vững Cherbourg là “có tính cách quyết định đối với cuộc chiến tranh”. Nhưng Cherbourg, dẫu được gọi là pháo đài, đã không có phương tiện phòng thủ tân tiến tại mặt trận trên bộ; hải cảng cũng không đủ quân số để tổ chức phòng thủ. Theo một mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh Quân lực, cuộc dàn quân dự liệu để phòng vệ Cherbourg – sư đoàn 709, 91, 247 và 71 – đã bị cầm chân tại đầu cầu đổ bộ của địch, tại bờ biển phía đông của bán đảo, các lực lượng ấy lại được chỉ thị kháng cự trước địch quân “càng lâu càng tốt” và sẽ vừa chiến đấu vừa rút lui về phía Cherbourg. Mặc cho các sự phản đối được lập đi lập lại của chính Rommel, mệnh lệnh này đã không được rút lại. Chính vì phải thi hành hai sứ mạng song hành ấy mà các sư đoàn bộ binh Đức vốn rất ít tính cách cơ động và không được tiếp liệu, đã bị tấn công dữ dội trong khi rút lui bởi lực lượng thiết giáp địch và phần lớn là bởi không lực đối phương. Mặt khác, không thể nào giữ vững được một khu phòng vệ trên bộ, cũng như trên biển mà không có quân số đầy đủ và không có yểm trợ của Không hay Hải lực. Binh đoàn B chấp thuận những đề nghị của quân đoàn LXXXIV và của lộ quân VII. Các đơn vị ấy yêu cầu đưa các đơn vị đồn trú trong vùng Contentin vào cuộc chiến bằng cách nào tránh cho chúng khỏi bị tiêu diệt: muốn thế, phải di tản chúng về phía nam. Nhưng tất cả các đề nghị ấy đều bị hi sinh cho bóng ma Cherbourg và bị bác bỏ. Luôn luôn có sự lập lại một mệnh lệnh “tử thủ, không được để mất một tấc đất”. Kết quả của những mệnh lệnh và phản lệnh ấy của Bộ Tổng tư lệnh tối cao Quân lực là đợt phá khẩu của Hoa Kỳ tại Saint – Sauveur kéo theo sự tổn thất 4 sư đoàn của Đức. Chính lúc đó, Thống chế Rommel tự ý ra lệnh rút về phía nam các đơn vị còn có thể điều động được và chắn ngang bán đảo Cotentin. Một trận đánh tập trung của sư đoàn 77 bộ binh dưới quyền Đại tá Bacherer, đã thành công trong việc mở vòng vây một cách táo bạo, tiến về phía nam để trám vào lỗ hổng của mặt trận Cotentin. Nhưng thành phố và hải cảng Cherbourg bị thất thủ ngày 25 tháng 6 các ổ kháng cự cuối cùng của Đức bị bắt buộc ngưng chiến đấu ngày 30 tháng 6.

Dẫu sao, việc chiếm giữ quân cảng Cherbourg cũng không phải là chủ yếu nhằm mục đích tiếp liệu cho các lực lượng Đồng minh như bộ Tổng tư lệnh Đức đã tin tưởng ngay từ đầu. Sự sáng chế các hải cảng nhân tạo và sự sử dụng chúng trước bờ biển Calvados đóng một vai trò quyết định hơn. Ngược lại, việc Cherbourg thất thủ là một thành quả tâm lý có tầm quan trọng rộng lớn. Tuy nhiên, mặc dù có ưu thế về mọi mặt, địch quân cũng không đạt được các mục tiêu trong thời gian dự liệu. Một bản đồ tìm thấy trong một người tù binh, trên đó có ghi thời hạn và mục tiêu đặt ra cho quân đội Đồng minh, cho thấy Đồng minh dự liệu Cherbourg sẽ bị thất thủ trong ngày 6 tháng sáu, và sự chiếm giữ phòng tuyến Avranches – Domfront ngày 10. Các cuộc hành quân đã diễn tiến chậm hơn so với thời hạn dự liệu bởi kế hoạch của Tổng tư lệnh Mỹ; các cuộc hành quân ấy cũng đã đòi hỏi nhiều quân hơn.

Sau khi Cherbourg thất thủ. Binh đoàn B biết được ý định của Lộ quân I Hoa Kỳ là một khi các đơn vị được rảnh tay, sẽ chuyển nỗ lực chính đến khu vực Saint-Lô – Carentan, chiếm giữ phòng tuyến Coutances – Saint-Lô, sử dụng nó như tuyến xuất phát cho một mũi dùi tấn công về phía nam và thiết lập liên lạc vững chắc với khu vực đổ bộ của Montgomery tại Normandy. Trong khu vực Bayeux, Lộ quân II Anh quốc không biết rằng đã có một vết nứt rộng và nguy hiểm bị bỏ ngỏ trong nhiều ngày trên phòng tuyến Đức. Ngay lúc ấy, một mũi dùi tấn công về phía nam và đông nam có thể đem lại kết quả quyết định quan trọng và kéo theo sự sụp đổ mặt trận phòng thủ của Đức về phía nam sông Seine. Nhưng cuộc tấn công của Anh lại được chuyển qua hướng đông để tiêu diệt mặt trận Caen bằng một cuộc “tấn công bình thường”. Quân đoàn LXVII thiết giáp của tướng bá tước Funk, vừa được tung ra tham chiến, với sư đoàn 2 thiết giáp (tướng bá tước Von Luttwitz), và sư đoàn thiết giáp Lehr (tướng Bayerlin) đã thành công trong việc bịt kín khe hở về phía nam Bayeux bằng cách tung vào đấy tất cả lực lượng trừ bị cơ hữu.

Nhưng toàn bộ chiến đấu phòng vệ, vì phải đương đầu với ưu thế của địch về phương diện lực lượng trên bộ, trên không và trên biển, đã kéo theo một sự tiêu thụ nhân lực khổng lồ, vì Hitler đã cấm mọi chiến thuật mềm dẻo, ra lệnh một cuộc phòng vệ có tính cách tĩnh tại bất cứ địa điểm phòng thủ nào và ra lệnh giữ vững đầu cầu được tung ra gần Caen bên kia sông Orne, vốn không có một giá trị chiến thuật nào, và là một hệ thống tiêu thụ nhân lực vĩ đại.

Công việc có tính cách co rút chiến thuật này đã để cho đối phương hoàn toàn chủ động; về mọi phương diện nó tạo thành một quyết định tệ hại nhất.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2013 09:07:06 | Chỉ xem của tác giả
- 9 -
CUỘC HỘI NGHỊ VỚI ADOLF HITLER TẠI MARGIVAL NGÀY 17 THÁNG SÁU

ĐẤY LÀ TÌNH HÌNH CHUNG KHI HITLER, RỐT cuộc, nhượng bộ các lời cầu khẩn liên tục của các Thống chế Von Rundstedt và Rommel, và đích thân đến miền Tây để tỉm hiểu tại chỗ tình hình mặt trận và trong trường hợp cần thiết, lấy các quyết định chiến lược ở đấy.

Trong đêm 16 tháng sáu, một cú điện thoại được gọi đến làm chúng tôi ngạc nhiên: hai vị Thống chế cũng như các tham mưu trưởng của họ phải có mặt lúc 9 giờ ngày 17 tại vị trí chiến đấu gần Margival, phía bắc Soissons, để báo cáo cho Fuhrer biết về tình hình. Như vậy thống chế Rommel phải đi 200 cây số về hậu tuyến, trong lúc ông chỉ mới từ mặt trận trở về lúc 3 giờ sáng sau một vòng thanh sát mặt trận lâu 21 tiếng đồng hồ trong vùng Cotentin. Tình trạng cấp bách đã không cho phép thực hiện một biện pháp đặc biệt nào để chuẩn bị cho cuộc tiếp xúc này.

Tổng hành dinh của Fuhrer “W II” được xây cất từ năm 1940 trên một địa danh lịch sử. Cách đó không xa, giao điểm ngã tư Laffaux là một địa điểm, mà trong cuộc Thế chiến thứ nhất, mặt trận chạy vòng từ hướng Đông Tây hướng lên phía Bắc. Từ điểm này con đường Chemin des Dames trải dài, gây ra các cuộc tranh chấp hết sức gay go giữa khoảng hai cuộc Thế chiến, về phía đông, giữa sông Aisne và con kinh nối liền sông Oise với sông Aisne. Tổng hành dinh nằm cách 8 cây số, theo hướng đông bắc Soissons, trong một hầm sâu dưới đất, có một đường sắt đi xuyên qua để hướng về Laon, phía bên kia cửa hầm, trong đó chiếc xe lửa đặc biệt của Fuhrer trú ẩn. Đại bản doanh gồm có các căn hầm bê tông cốt sắt, rộng rãi và được ngụy trang khéo léo. Nhô cao lên một chút là một phòng ăn, từ đó người ta có thể ngắm nhìn cảnh vật xinh đẹp ở xa cho đến nóc nhà thờ Soissons. Hầm trú ẩn của Fuhrer gồm có, dưới mặt đất, một phòng làm việc rộng lớn, một phòng ngủ có phòng tắm, phòng dành cho sĩ quan tùy viên, và các phòng được bảo vệ chống các cuộc không tập được xây cất đặc biệt để làm việc và nghỉ ngơi. Tổng hành dinh này được thiết lập như là một vị trí chiến đấu trong mục đích đánh chiếm Anh quốc năm 1940, nhưng cho đến ngày 17 tháng sáu, nó chưa hề được sử dụng. Đội cảm tử SS luôn luôn theo sát Fuhrer, đã khóa chặt bản doanh này trong khi có cuộc tiếp xúc và đảm bảo an ninh cho toàn diện khu vực.

Hitler cùng với tướng Jodl và đoàn tùy tùng đã đến từ sáng sớm ngày 17 tháng sáu. Ông sử dụng xe bọc thép và khởi hành từ Metz, nơi mà ông từ Berchtesgaden đến bằng phi cơ. Ông có vẻ bơ phờ và mệt mỏi vì thiếu ngủ. Vẻ bối rối nóng nảy, tay ông luôn luôn nhấc kính ra rồi lại mang vào, và cầm lên đặt xuống các cây viết chì đủ màu. Chỉ một mình ông ngồi, lưng còm trên một chiếc ghế đẩu; các vị thống chế thì đứng xung quanh. Sức mạnh sáng tạo ngày xưa của ông có vẻ đã tàn lụi. Sau vài câu chào hỏi ngắn ngủi và lạnh lùng, rồi bằng một giọng chua chát ông lớn tiếng biểu lộ nỗi bất bình của ông về sự thành công của cuộc đổ bộ của Đồng minh tìm kiếm các lỗi lầm của các bớ (bộ?) chỉ huy địa phương. Ông hạ lệnh phải tử thủ pháo đài Cherbourg.

Sau vài lời mở đầu ngắn ngủi, Von Rundstedt nhường lời cho Rommel trong tư cách là Tư lệnh mặt trận nơi xảy ra cuộc đánh chiếm.

Với một sự thẳng thắn hoàn toàn, Thống chế nhấn mạnh đến điểm then chốt của vấn đề phòng thủ: trước ngày 6 tháng sáu, ông đã nói trước và từ đó nhiều lần lập đi lập lại là không thể nào chiến đấu chống lại ưu thế mãnh liệt của kẻ thù trên bộ, trên biển và trên không. Hệ thống thám báo trên không và trên biển của chúng ta đã bị thất bại hoàn toàn, dưới sự che chở mạnh mẽ của các cuộc không tập và hải pháo, địch quân đã thành công trong việc đổ bộ từ biển và từ trên không, dọc theo các bờ biển được tổ chức lỏng lẻo yếu kém, và chiếm Calvados cũng như bán đảo Cotentin. Các sư đoàn tham chiến dọc theo bờ biển không bị đánh “bất ngờ lúc đang ngủ say” như là các tin tình báo mà Bộ Tổng tư lệnh Quân lực đã mua được bằng tiền mặt, trái lại, các lực lượng ấy đã chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng trong các điểm tựa yếu kém. Các bộ chỉ huy và các đơn vị đã nêu gương hy sinh siêu việt trong một trận chiến không cân bằng. Suy luận về tình hình chiến thuật trong vùng Cotentin và so sánh các lực lượng tương ứng của hai bên, Rommel tiên đoán với sự chính xác chỉ xê xích một ngày, thời gian Cherbourg thất thủ, và đòi hỏi một chiến thuật thích nghi.

Tiếp theo đó, cuộc thảo luận xoay qua vấn đề các “pháo đài” theo kiểu Hitler, nghĩa là các thành phố và các điểm tựa được cung cấp thêm điểm phòng thủ và tăng cường mạnh được chọn lựa bất ngờ. Rommel phủ nhận tính cách hữu hiệu của các pháo đài ấy. Ông chống lại sự hy sinh nhân mạng và vật liệu kiểu ấy. Nhưng vô ích, trong cuộc đổ bộ xâm chiếm và trong các cuộc hành quân tiếp theo đó, Ymuiden, đảo Walcheren, Dunkerque, Calais, mũi Gris-Nez, Boulogne, Dieppe, Le Havre, Cherbourg, Saint-Malo, Brest, Lorient, Saint-Nazaire, La Pallice, Royan và cửa sông Gironde được tuyên bố là các “Pháo đài”; khoảng 200.000 người và vô số chiến cụ quí báu bất động hóa trong các “pháo đài” ấy. Đối phương chẳng hề lo âu gì về các “pháo đài” ấy cả. Họ chẳng bao giờ sử dụng lực lượng quan trọng đi đánh chiếm. Các pháo đài đã lọt vào tay đối phương, rất nhiều trong số đó chỉ mất vào tháng 5 năm 1945, sau khi Đức đầu hàng vô điều kiện, quân đội tại đấy bị bắt giữ cả. Vậy là Hitler đã không hiểu biết thêm được gì cả sau các kinh nghiệm tại Stalingrad, tại Tunis, tại Crimée, tại Tarnopol và tại các nơi khác.

Sau đó Rommel trình bày dự định của đối phương như ông đã nghiệm thấy: Đột nhập từ vùng Caen và Bayeux cũng như từ bán đảo Cotentin về phía nam và hướng về Paris, với một cuộc hành quân phụ đới từ Avranches để cô lập hóa vùng Bretagne.

Binh đoàn XXI của Eiseinhower, hành sử quyền chỉ huy thống nhất trên các lực lượng Anh Mỹ đã đổ bộ từ 22 đến 25 sư đoàn thiết giáp, cực kỳ cơ động, gồm 11 đến 13 sư đoàn Anh và từ 10 đến 12 sư đoàn Mỹ. Cuộc đổ quân ào ạt từ 2 đến 3 sư đoàn mỗi tuần vẫn đang được tiếp diễn. Trên tỷ lệ quan sát được giữa ba lực lượng, không ai còn có thể tin tưởng vào một cuộc phòng thủ thắng lợi nữa, các hậu quả đều còn vô định trên toàn thể khu vực phía Tây, càng bất định hơn nữa vì cả phòng tuyến sông Seine lẫn các điểm tựa ở hậu tuyến đều chưa được tổ chức xong. Bộ Tổng tư lệnh đối phương rất có thể, trước tiên, có vẻ chậm chạp nặng nề; nhưng sự thành công, với sự vững chắc của phương pháp và ưu thế trong mọi lãnh vực, chỉ đảm bảo thêm cho thành quả tương lai.

Rommel không tin có cuộc đổ bộ thứ hai tại bắc sông Seine. Một lần nữa, ông đòi hỏi được quyền tự do hoàn toàn trong các cuộc hành quân tại miền Tây, đòi hỏi tung các đơn vị thiết kỵ hạng nhất cũng như không và hải lục vào vòng chiến. Về phương diện chiến thuật, biện pháp cấp bách nhất theo ông, là ra chỉ thị nhằm tung ra một mũi dùi tấn công khẩn cấp vào lộ quân 1 Hoa kỳ cho đến bờ biển phía Tây bán đảo Cotentin và di tản mặt trận Caen về sau sông Orne. Rommel được thống chế Von Rundstedi hậu thuẫn.

Nhưng, bất kể sự lượng định tình hình ấy và bất kể lực lượng càng ngày càng giảm thiểu, Hitler không chịu tin vào thực tại. Với một sự pha trộn kỳ lạ giữa tình trạng điên khùng và trực giác sai lạc, ông ta tiên tri, trong một loạt danh từ bất tận và dưới hình thức tự kỷ ám thị, hiệu quả quyết định vũ khí V[1] vốn đã bắt đầu tham chiến nhằm vào lãnh thổ Anh quốc từ ngày 16 tháng 6. Ông ta ngưng cuộc họp và đích thân đọc cho đại diện báo chí một thông cáo về sự tham chiến đầu tiên của vũ khí V để được loan trên báo chí và đài phát thanh. Cuộc tiếp xúc này được bắt đầu với niềm hy vọng lớn lao của hai vị Thống chế đã bị cắt ngang thành một cuộc độc thoại lộn xộn của Fuhrer.

Lúc đó các Thống chế đòi hỏi đem vũ khí V, sử dụng vào các vùng đầu cầu.

Viên tướng lãnh vũ khí V, tướng Heinemann lập tức được triệu đến. Ông ta phải thừa nhận sự sai lạc không tính trước được của các hoả tiễn ấy - tầm sai có thể lên đến từ 15 đến 18 cây số - và các nguy hiểm của chúng đối với các đạo binh Đức. Trong điều kiện kỹ thuật hiện tại không thể nào nhắm một cách chính xác vũ khí này vào quân đội thù nghịch trên lục địa. Về vấn đề sử dụng chúng để tiêu diệt các hải cảng phía Nam Anh quốc, nơi đảm bảo sự vận chuyển binh sĩ và vật liệu cho lực lượng xâm chiếm, Hitler đã chống lại việc này với các lý do là cần nhắm vào Luân đôn và bắt buộc Anh quốc phải đi tới hoà bình.

Khi các vị thống chế nhấn mạnh một lần nữa vào sự sa sút của không lực Đức, Hitler đáp rằng ông đã bị dối lừa bởi "Bộ tư lệnh và các kỹ thuật gia của Không quân Đức". Nhiều kiểu máy bay khác nhau lần lượt được chế tạo mà không đi đến một kết quả thực tiễn nào.

Hitler tỏ vẻ ngờ vực trước các lời giải thích cảm động của Rommel về tính cách hữu hiệu của vũ khí địch, Thống chế kết thúc bằng cách gằn giọng nhấn mạnh rằng cho đến nay không một giới chức cao cấp nào thân cận của Hitler hay của Bộ tổng tư lệnh tối cao của Lục quân, Không quân hay Hải quân, đến mặt trận để đích thân tìm hiểu tình hình và hiệu quả của vũ khí địch. Bộ Tổng tư lệnh làm việc trong văn phòng; các sự phán đoán về tình hình mặt trận hoàn toàn sai lầm. Rommel nói thêm: "Ngài đòi hỏi chúng tôi tin tưởng, nhưng người ta không tin tưởng vào chúng tôi!". Trước lời trách móc đấy, mặt Hitler đổi sắc nhưng vẫn giữ im lặng.

Đại tướng Jodl lúc đó mới hỏi các đơn vị mới nào của bộ binh, hải và không quân phải được gọi đến và lúc nào. Hitler lại bắt đầu nói về sự tham chiến ồ ạt của các "phi cơ phản lực săn giặc" để bẻ gẫy ưu thế không quân địch tại mặt trận cũng như trên lãnh thổ Đức. Ông ta lưu ý sự sử dụng gia tăng không ngừng vũ khí V. Ông ta cho rằng tình hình ở phía Đông và Đông nam rất vững ổn. Ông ta chìm đắm trong bài diễn văn khoa trương về sự sụp đổ sắp đến của Anh quốc tiếp theo sự tham chiến của vũ khí V và của máy bay phản lực.

Nhưng khi có tin một phi đội địch đang bay đến gần, cuộc tiếp xúc được kết thúc dưới hầm bê tông của Fuhrer, hai vị thống chế, các tham mưu trưởng của họ và tướng Schmundt nhóm lại với nhau, Rommel lợi dụng cơ hội để đưa ra một bài trần thuyết dữ dội về tình hình quân sự và chính trị Đức quốc. Ông tiên liệu sự sụp đổ của mặt trận trước quân xâm chiếm, sự chọc thủng phòng tuyến không thể tránh được về phía Đức, sự sụp đổ mặt trận Ý - La mã đã bị mất từ ngày 4 tháng 6. Ông cũng phát biểu sự nghi ngờ về tính cách vững chắc của trận tuyến miền Đông. Về mặt ngoại giao, ông nêu ra sự cô lập hoàn toàn của Đức quốc, vốn trái ngược với lời tuyên truyền, chỉ có thể đưa tới sự yếu kém nguy hại. Ông kết thúc bằng cách van nài chấm dứt chiến tranh. Sau nhiều lần đánh trống lảng, Hitler ngắt lời ông: "Đừng nên lo đến các vấn đề tiếp theo sau cuộc chiến tranh, nên coi chừng phòng tuyến đang bị xâm chiếm của ông thì hơn".

Đại tướng Jodl khai ngày 6 tháng 6 năm 1946 từ Nuremberg "Nhiều tướng lĩnh trong đó có Rommel và Von Rundstedt đã không ngừng toan tính giải thích cho Hitler tình hình nguy kịch của Đức, ông ta chẳng bao giờ nghe họ".

Hai vị Thống chế nhấn mạnh đến sự cần thiết tuyệt đối phải giải quyết riêng biệt tình trạng nước Pháp, trước hết bằng cách chấm dứt hành động của Sauckel và chế độ độc tài của cảnh sát mật, Hitler cũng gạt bỏ các đề nghị ấy.

Hố ngăn cách giữa Hitler và Rommel càng sâu thêm. Sự nghi ngờ và ngay cả sự ghét bỏ của Fuhrer có vẻ gia tăng thêm nữa.

Cuộc tiếp xúc đã kéo dài từ 9 giờ đến 16 giờ, và chỉ bị gián đoạn bởi một bữa cơm thanh đạm trong đó Hitler ngốn một đĩa đầy ắp gồm cơm và rau mà ông ta đã bắt nếm trước. Trước chỗ ngồi của ông cả một hàng thuốc viên được sắp ngay ngắn và ông lần lượt uống hết viên này đến viên khác. Sau ghế ông, 2 quân nhân SS canh chừng.

Trước khi khởi hành, tuỳ viên của Hitler, tướng Schmundt, bị xúc động bởi các nhận xét của Rommel về sự thiếu sót trong việc tiếp xúc của Bộ Tổng tư lệnh với các mặt trận, đã giao cho Tham mưu trưởng của Binh đoàn B tổ chức một cuộc kinh lý của Hitler vào ngày 19 tháng 6, hướng về phía La Roche-Guyon hay về một điểm khác và triệu tập về đấy tư lệnh các đơn vị khác nhau tại mặt trận để báo cáo riêng cho Hitler. Các biện pháp lập tức được quyết định. Trên đường từ Soissons trở về La Roche-Guyon, tư lệnh quân sự tại Pháp, tướng Stulpnagel được báo cho biết các cuộc tiếp xúc đã diễn ra với sự hiện diện của Hitler. Nhưng khi viên tham mưu trưởng của binh đoàn B gọi điện thoại vào sáng ngày 18 cho tướng Blumentritt tại Saint-Germain để ấn định thời biểu cho cuộc viếng thăm mặt trận của Fuhrer, thì được biết sự kiện bất ngờ là, ngay trong đêm 17 rạng sáng ngày 18 tháng 6, Hitler đã trở về Berchlesgaden. Lý do của cuộc khởi hành hấp tấp này là ngày 17 một hoả tiễn V đã rơi xuống tổng hành dinh của Fuhrer, ít lâu sau khi hai vị thống chế lên đường trở ra mặt trận. Thật vậy, vì bị trục trặc trong bộ phận định hướng, nhiều hoả tiễn V, được phóng đi từ các căn cứ cận duyên, đã hướng về hướng Đông, tuy nhiên cũng đã không gây ra sự thiệt hại trầm trọng nào. Một hoả tiễn đã rơi cạnh hầm bê tông của Fuhrer nhưng không nổ và không gây ra hậu quả nào về vật chất và nhân mạng.

Trong thực tế, hiệu năng của loại hoả tiễn "tuyệt diệu" này, hoả tiễn V1 vẫn không có gì đáng kể so với các cố gắng và chi phí đã tiêu tốn vào đó. Điểm này được xác nhận bởi các tin tức tình báo và bởi cung từ của tù binh Anh quốc bị bắt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2013 09:08:55 | Chỉ xem của tác giả
- 9 -
(tiếp theo)

Riêng về phần cuộc hội kiến với Fuhrer, các kết quả quân sự, chính trị và nhân đạo đều rất là thê thảm Các lời hứa hẹn của Hitler về vấn đề gửi lực lượng trừ bị và trước hết là không lực không bao giờ được thực hiện, trái hẳn với các lời tuyên bố đầy đảm bảo của Fuhrer. Ngày 17 tháng 6, đạo quân trung ương Nga sô mở cuộc tấn công, mặt trận sụp đổ đó đây trên trục lộ Smolensk-Minsk. Lực lượng Nga sô lan tràn sau cuộc tấn công một cách tự do vào các phòng tuyến Đức, tất cả lực lượng tổng trù bị cơ hữu của bộ chỉ huy tối cao quân lực Đức, trước hết là "đạo quân thay thế" được đổ dồn về phía Đông toan tính trám chỗ đê vỡ. Sau cùng, không thể nào nhận được các chỉ thị chính xác của Bộ chỉ huy tối cả quân lực Đức.

Tại Normandie, lộ quân thứ II Anh quốc, vào cuối tháng 6, tỏ vẻ đang tập trung lực lượng nhằm một cuộc tấn công vào Caen, để chọc thủng phòng tuyến phòng thủ về hướng Ba lê và như vậy, để nắm được sự tự do chiến lược. Mức tiêu thụ nhân lực trong các đơn vị Đức mỗi ngày một gia tăng. Nguyên nhân trước hết là vì các cuộc pháo kích được phi cơ hướng dẫn, của các giàn hải pháo chính yếu trên các tầu chiến địch, con số hải pháo này lên đến hơn 300 trong hạm đội Đồng minh, và vì các cuộc không tập liên miên. Ngày 17 tháng 6 Hitler từ chối không cho di tản vùng đầu cầu tại sông Orne về Caen mà các tướng lĩnh đã đề nghị lên ông, chính tại đấy các đơn vị ưu tú nhất của quân lực Đức đã phải hy sinh một cách khốc liệt. Để ngăn chặn mối nguy hiểm đe doạ Caen trong viễn cảnh một cuộc thanh toán rộng lớn cứ điểm này, người ta đã cho gọi từ Hung gia lợi về quân đoàn 2 thiết kỵ SS (dưới quyền chỉ huy tướng Obergruppenfuher SS Bittrich), nhưng sự tiêu diệt hệ thống thiết lộ đã bắt buộc đưa từng phần của đơn vị này về phía Đông Ba lê và bắt buộc các nhóm lẻ tẻ ấy tìm gặp nhau theo từng chặng đường bộ. Đơn vị mới được đặt dưới quyền của đạo quân thiết kỵ miền Tây mới được đưa tham chiến trở lại. Đạo quân này với các lực lượng phối hợp của 3 quân đoàn thiết lỵ (quân đoàn 1 và 3 thiết kỵ SS và quân đoàn 47 thiết kỵ) có nhiệm vụ phải thọc sâu vào mạng sườn và hậu quân của các lực lượng địch quân đang chiến đấu gần Caen, phải cắt ngang lực lượng của Anh quốc không cho rút về bờ biển và tiêu diệt nó. Nhưng biến chuyển mãnh liệt của tình hình và hiệu năng vũ khí địch không cho phép cuộc tấn công này tiến triển đến tầm mức cao độ để đạt mục tiêu chính yếu. Người ta đã không thành công trong việc thay thế các sư đoàn bộ binh cho các sư đoàn thuộc quân đoàn 1 thiết kỵ SS và quân đoàn 47 thiết kỵ. Lý do là, vì các cuộc không tập của địch, các sư đoàn bộ binh không tiến lên hoả tuyến kịp thời. Mặt khác thành phần nhân sự, trang bị và hệ thống chỉ huy của các sư đoàn ấy không cho phép chống cự lâu dài với một đối phương cực kỳ cơ động, được thiết giáp bảo vệ mạnh mẽ, lực lượng thiết giáp này dưới sự che chở của một hoả lực đủ loại vũ khí, có thể với tốc độ chớp nhoáng, đổi phương vị của trọng tâm cuộc chiến đấu của họ một cách dễ dàng.

Cuộc tấn công của quân đoàn 2 thiết kỵ SS - sư đoàn 9 và 10 thiết kỵ SS sau cùng cũng chỉ có thể được tung ra với một sự hỗ trợ yếu kém của sư đoàn khác. Từ 29 đến 30 tháng 6, đơn vị ấy bị đóng đinh tại chỗ bởi hoả lực tập trung của các thiết giáp địch, của pháo binh hạng nặng thuộc các cỡ lớn nhất, của hải pháo và của không lực địch. Nếu cuộc tấn công này không đạt được mục tiêu định đã định, ít ra nó cũng làm cho tình hình địa phương được củng cố ổn định. Lúc đó, Hitler trách các sư đoàn là thiếu sáng kiến, kinh nghiệm và sức mạnh. Điều này rất là bất công, các đơn vị ấy đã làm tất cả những gì có thể làm được.

Sự tiêu hao cũng đã biểu lộ theo một nhịp độ hãi hùng nơi các đơn vị mới được đưa ra tham chiến.

Thật vậy, bộ tư lệnh có ý định đưa ra các sư đoàn bộ binh thay các sư đoàn thiết giáp để có thể tung các sư đoàn cơ giới này vào các cuộc hành quân di động càng nhiều càng tốt trên tầm mức 5555555555555555 thực hiện tại Berchlesgaden. Một lần nữa, Rommel trình bầy quan điểm riêng của ông: bởi các lý do đã ghi nhận trước đây, ông cho rằng ít có dấu hiệu rõ ràng thuận lợi cho việc loại bỏ Hitler bằng một cuộc mưu sát và vẫn chủ trương bắt Hitler để đưa ra xét xử trước một toà án Đức. Ông giao cho đại tá Finckh sửa soạn tại tổng hành dinh và trong nội địa Đức quốc, sự phối hợp cực kỳ cần thiết, tất cả các biện pháp cần thi hành và yêu cầu báo cho ông biết kết quả trong thời hạn ngắn nhất. Mặt khác ông ước tính rằng vấn đề có tính cách quyết định này cũng được thảo luận cùng lúc tại nhiều nơi. Theo ông, cần phải ấn định thời điểm nổi dậy, với sự chính xác đầy đủ, để đảm bảo cho công cuộc chuẩn bị được tỉ mỉ và do đó, đảm bảo được sự thành công. Chính ông có ý định đích thân đến gặp Hitler để đưa ra các yêu cầu bó buộc dưới hình thức một tối hậu thư.

Chính các binh sĩ ngoài mặt trận cũng bắt đầu xầm xì. Tư lệnh sư đoàn 116 thiết giáp, tướng Schwerin, đã gửi một bản nhận định liên quan đến tình hình quân sự và chính trị. Nhân danh các binh sĩ thuộc quyền, ông đòi hỏi chấm dứt chiến tranh và thay đổi chế độ Quốc xã. Sư đoàn thiết giáp của ông, ông nói sẵn sàng can thiệp chống lại nội thù. Đấy cũng là trường hợp đối với sư đoàn 2 thiết giáp dưới quyền của tướng von Luttvitz.

Các thống chế Von Runsdtedt và Rommel trong các cuộc tiếp xúc liên tiếp đã hoàn toàn đồng ý với nhau về nhận định rằng tình hình đã chuyển qua thế thảm hoạ không những chỉ ở miền Tây mà còn trên tất cả mọi mặt trận. Họ lại khẩn khoản xin yết kiến Hitler. Ngày 28 tháng 6 hai vị thống chế nhận được lệnh khẩn cấp về Berchlesgaden báo cáo tình hình, đến nỗi họ phải trải qua suốt một đêm dùng xe hơi đi ngang qua vùng Bavière, vì lẽ họ bị cấm sử dụng đường hàng không. Hai vị thống chế đã đến Berchlesgaden vào trưa 29 tháng 6, nhưng lại phải chờ đợi đến tối mới được Hitler tiếp kiến. Cuộc đàm luận đã xẩy ra ngay giữa một số đông tham dự. Hitler không trả lời một yêu cầu nào do hai vị tư lệnh nêu ra, nhất là khi hai vị khẩn nài hãy chấm dứt chiến tranh vì biến chuyển của tình hình tổng quát. Hitler lại lảng tránh bằng cách tuyên bố sự can thiệp của vũ khí tuyệt diệu mới. Cứ theo lời của Fuhrer, các vũ khí ấy chắc chắn sẽ mang lại chiến thắng sau cùng và toàn diện. Mặc dù các điều mong ước của họ được bày tỏ nhiều lần, Hitler vẫn không chịu nói thẳng với hai vị thống chế. Ông ta không mời họ ăn cơm và thình lình mời họ rút lui. Rommel trình bầy vấn đề thêm một lần nữa với thống chế Keitel:

"Tình hình sa sút mau lẹ, một chiến thắng toàn diện mà Hitler đã nói đến ngay ngày hôm nay, là chuyện phi lý. Trái lại phải phòng ngừa sự thảm bại toàn diện. Do đó, bằng tất cả mọi phương tiện, từ bỏ những lợi lộc đã thủ đắc được và mọi mơ tưởng, cần phải chấm dứt ngay lập tức cuộc chiến tại Miền Tây và giữ mặt trận phía đông. Vấn đề là giữ cho Đức quốc khỏi tình trạng hỗn loạn, và trước hết, khỏi bị hủy diệt toàn diện vì chiến tranh Không quân.”

Keitel hứa sẽ trình bày vấn đề lại cho Hitler, sau cùng ông nói lớn, vẻ nhẫn nại: “Tôi cũng vậy, tôi biết không còn có thể làm gì được nữa cả!” Lời tuyên bố này có vẻ thú vị đặc biệt, vì lẽ sau ngày 20 tháng 7[2], khi các bạn cũ của ông đã bị kết án và bị đuổi ra khỏi quân đội, hình như Keitel đã trình bày tình hình một cách khác hẳn.

Các vị Thống chế trở về Bộ chỉ huy của mình tay không, lòng ray rứt vì những nỗi âu lo.

Trong thời gian đó, Lộ quân VII bị mất vị tư lệnh. Vào buổi sáng ngày 29 tháng 6, đại tướng Dollmann, người đã tận tụy đêm ngày không biết mệt, đã bị gục ngã vì chứng tắt huyết. Hitler đã cất chức ông, nhưng tin ấy đã không bao giờ đến được với ông. Rommel đề nghị thay ông bằng một nhân vật đặc biệt nhất của quân đội, tướng pháo binh Erich Marcks, có thể sử dụng được ngay lập tức và hiểu rõ tình hình. Nhưng Hitler đã từ chối vì lý do chính trị: thật vậy trước đây Marcks là chánh văn phòng của tướng Von Schleicher, và Fuhrer thì nghi ngờ ông này rất nhiều. Marcks đã hy sinh ngoài mặt trận ba tuần lễ sau đó.

Không có một cuộc tiếp xúc nào với Rommel, Tướng Hausser, tư lệnh quân đoàn II thiết kỵ SS, được chỉ định làm người kế vị Dollmann. Ông này, ngay lúc được chỉ định vào chức vụ mới, đã phải rời bỏ ngay Bộ chỉ huy Quân đoàn thiết kỵ của mình trong lúc mà ông đang phải điều khiển cuộc phản công chọc thùng phòng tuyến của địch trước thành phố Caen.

Hausser xuất thân từ quân đội và từ Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông đã quay rất nhanh về phía SS: Đấy là một quân nhân đầy hăng hái và đởm lược, nhưng về phương diện chính trị, quả thật là con người hai mặt như thần Janus. Sự bổ nhiệm ông ta - ông ta trẻ hơn bất cứ tướng lãnh nào khác trong quân vụ và lại càng trẻ hơn tướng tư lệnh đạo quân thiết giáp tại Miền Tây – đã được đón nhận với những cảm nghĩ ngờ tin lẫn lộn.

Hai ngày sau khi từ cuộc hội kiến với Fuhrer trở về, Von Rundstedt bị bứng khỏi chức vụ tư lệnh mặt trận Miền Tây “vì lý do sức khỏe”. Hitler đã không có can đảm lẫn sự lịch thiệp để đích thân công bố biện pháp này với viên Thống chế kỳ cựu nhất; ông phái viên đệ nhị tùy viên, Trung tá Borgmann, đến gặp ông với một bức thư và những lá cây sồi của chiếc huy chương thập tự sắt, tại Saint-Germain. Ngày 4 tháng 7, Rundstedt đến từ biệt Rommel tại La Roche-Guyon; ông không giấu Rommel nỗi vui mừng khỏi bị bắt buộc sống qua, phải thấy thảm họa trong một chức vụ tư lệnh. Ngày 5 tháng 7, tư lệnh đạo quân thiết giáp Miền Tây, tướng Geyr Von Schweppenburg bị cất chức không một lời báo trước và được tướng thiết giáp Heinz Eberbach thay thế. Đạo quân thiết giáp Miền Tây được đổi danh hiệu lại là Lộ quân V thiết kỵ.
Tướng Von Geyr bị quy trách nhiệm về sự thất bại của cuộc phản công của Quân đoàn II thiết kỵ SS. Qua điện thoại, Hitler trách cứ thái độ chủ bại ngày càng gia tăng của ông. Trong thực tế, sau cuộc tấn công không thành ấy, Von Geyr đã công bố một bản nhận định hết sức rõ ràng về tình hình, trong đó ông đề nghị di tản chiến thuật khỏi Caen và khu vực phía Tây sông Orne, sau hết ông đòi hỏi được tự do trong việc điều động các đơn vị thuộc quyền. Bản báo cáo ấy được kết thúc như sau: “Phải chọn lựa giữa sự sửa sai chiến lược phòng thủ cứng nhắc mà hậu quả là để cho đối phương hoàn toàn chủ động, với chiến trận mềm dẻo ít ra cũng gồm có tính cách chủ động này”. Theo ý kiến của Tư lệnh đạo quân thiết giáp, chiến thuật mềm dẻo này không những chỉ là sự điều quân dễ dàng mà còn là một quyết định quyết liệt nhất.

Thống chế Rommel chuyển nguyên văn báo cáo này, hoàn toàn chấp nhận nội dung và một lần nữa, đòi hỏi được tự do hành động. Khi tin cộng sự viên của mình bị cất chức đến tai ông, Thống chế can thiệp hết mình để giữ lại, nhưng đã bị Keitel từ chối thô bạo.

Người kế nhiệm tướng Von Geyr, tướng thiết giáp Eberbach, là một quân nhân tốt, nắm vững hoàn toàn loại khí cụ chiến tranh này. Cá tánh, tác phong, tư tưởng chính trị của ông, đã tạo cho người chỉ huy ấy một nhân cách đặc biệt quí báu.

Riêng đối với chức vụ Tổng tư lệnh mặt trận Miền Tây, trái với điều mong đợi của các Bộ tham mưu, và của các đơn vị, người được chỉ định không phải là thống chế Rommel, vị chỉ huy biết quá rõ về mặt trận này, mà là thống chế Von Kluge…

Mối nghi ngờ của Hitler đối với Rommel gia tăng không ngừng.

Gunther Von Kluge xuất thân từ binh chủng pháo binh; ông ta đã leo qua tất cả mọi cấp bậc thuộc Bộ tham mưu. Trong chiến dịch tấn công Miền Tây năm 1940, ông là tư lệnh Đệ IV Lộ quân và được bao phủ bởi hào quang chiến thắng trong chức vụ ấy. Chính trong Lộ quân này mà Rommel đã thực hiện đợt tiến quân thời danh của “sư đoàn ma quái” của ông cho đến tận bở biển. Trong tư cách là tư lệnh Binh đoàn Miền Trung, tại mặt trận miền Đông, Von Kluge nổi danh là bậc thầy của tài xoay trở, và đã chứng tỏ tinh thần táo bạo đặc biệt. Ông là một người khách quan, nhiệt tâm, nhậm lẹ, can đảm cá nhân, nghiêm khắc đối với cả chính mình, nhưng lại là người sẵn sàng lên mặt. Binh sĩ gọi ông là “thánh Hans”. Không vị nể bất cứ ai, ông luôn luôn đòi hỏi thuộc cấp làm việc ngày đêm. Vẻ nhìn lạnh lẽo, trong một nét mặt như được tạc bằng nét mác, che dấu các xúc cảm mà ông không dám thừa nhận. Trong các cuộc chuyện trò, ông cho thấy óc thưởng ngoạn thiên nhiên rất mạnh mẽ, và sự thích thú linh hoạt đối với các vấn đề quân sự cũng như lịch sử hiện đại. Tuy chống đối Hitler, ông cảm thấy bị liên kết không ngừng với nhà độc tài, có lẽ là do ảnh hưởng của các cảm nghĩ gây ra bởi các vinh dự đặc biệt và các tặng phẩm từ tay Hitler trao cho.

Ông đã được binh phục sau một tai nạn xe hơi vào mùa đông 1943 – 1944 khi chiếc xe của ông bị lật nhào trên con đường từ Minsk đi Smolensk. Ông đã bày tỏ cảm nghĩ lạnh lùng và đầy năng lực. Ông đã trải qua hơn 15 ngày tại Berchtesgaden. Tại đó, Hitler chuẩn bị giao sứ mạng mới cho ông và thuyết phục ông rằng những biến chuyển của tình hình miền Tây là do lỗi lầm và sự suy kém của Bộ chỉ huy cũng như quân sĩ gây ra. Ông xuất hiện ngay từ ngày 5 tháng bảy tại bản doanh của Binh đoàn B. Sau một cái chào lạnh nhạt trong phòng hội tại La Roche-Guyon, Von Kluge đã nói gần như sau đây: “Việc giải nhiệm Thống chế Von Rundstedt là dấu hiệu rõ rệt của sự bất bình của Hitler về vấn đề chỉ huy tại Miền Tây; Rommel cũng không được Fuhrer tin cậy hoàn toàn nữa. Tại Bộ Tổng tham mưu người ta có cảm tưởng rằng Rommel, như ở Phi châu, đã để cho ưu thế của vũ khí đối phương ảnh hưởng quá nhiều đến nỗi nghiêng dần về phía bi quan quá đáng. Mặt khác càng ngày Rommel càng chứng tỏ chủ nghĩa cá nhân quá độ; ông ta đã không thi hành một cách trung thực các mệnh lệnh của Hitler.” Von Kluge kết luận bằng các lời sau: “Ông Thống chế Rommel, kể từ ngày hôm nay, phải triệt để tuân lệnh: đó là điều tôi khuyên ông.” Lời trách cứ này kéo theo một cuộc tranh luận chua chát giữa hai vị Thống chế. Một lần nữa Rommel trình bày bằng cách nhấn mạnh đến tình hình chung, ông nhấn mạnh đến sự cần thiết phải rút ra từ đó các hậu quả. Ông cao giọng biện minh chống lại những lời kết tội bất công của Hitler và của Tổng tư lệnh Quân lực.

Trong cuộc tranh luận sôi nổi ấy, Von Kluge yêu cầu viên tham mưu trưởng vốn tham dự cuộc tiếp xúc từ đầu, rút lui ra ngoài.

Rommel yêu cầu Tân Tổng tư lệnh mặt trận Miền Tây, bằng lời nói và bằng văn thư, rút lại những lời phán đoán vội vã và báo cho Tổng tư lệnh Quân lực rõ tình hình. Ông còn ấn định cho Von Kluge cả một thời hạn để làm việc đó. Ông yêu cầu vị Tổng tư lệnh chỉ nên phán đoán về tình hình quân sự, về hệ thống chỉ huy và về quân sĩ sau khi cuộc họp với các tư lệnh quân khu và sau khi có kinh nghiệm cá nhân về tình hình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2013 09:11:13 | Chỉ xem của tác giả
- 9 -
(tiếp theo)

Những nứt rạn sâu xa từ cuộc tiếp xúc ấy, trong đó Von Kluge không muốn biết tình hình tổng quát. Rommel đau đớn ê chề. Ông đã tưởng tượng, không phải là không có lý, nhờ tin mật báo rằng Von Kluge, từ nhiều năm qua, có tiếp xúc với các lực lượng chống đối tại Đức, hẳn là phải thiên về hạnh phúc và sự giải phóng dân tộc hơn. Thế mà ông ta lại xuất hiện như là phát ngôn nhân của Hitler, và không hề có một sự hiểu biết nào về mặt trận tại địa phương; ông đã nói một cách mù quáng theo giọng điệu thuần túy nhất của Berchtesgaden.

Lúc đó, theo một lộ trình ấn định từ trước, Von Kluge mới đi thăm mặt trận trong hai ngày, kể từ ngày 6 tháng 7, khởi hành từ bản doanh của Binh đoàn B. Ông tiếp xúc với tất cả các cấp chỉ huy và binh sĩ nào có thể gặp được. Và ông đã thay đổi ý kiến. Ông bị bó buộc phải thừa nhận các biểu thị không chối cãi được của sự kiện thực tế, sự đồng tình toàn diện của tất cả các cấp chỉ huy, và sau một thời gian để cho các câu nói của Hitler làm cho mê hoặc, ông phải thừa nhận sức mạnh của luận lý.

Ông đã rút lại tất cả các lời chỉ trích và xin lỗi Rommel bằng cách nói rằng ông đã bị Hitler và Keitel lừa dối. Ông nói thêm rằng, mặc dầu với bao nhiêu tin tình báo, phúc trình, điện đàm và báo cáo, Fuhrer không muốn thấy tình hình một cách trung thực, rằng ông ta sống trong thế giới mơ mộng và dục vọng của mình, và rằng, khi cơn mộng đã bị tan vỡ ông ta bèn tìm kiếm con vật tế thần: đó là tóm lược tất cả tinh túy của kinh nghiệm của Von Kluge về mặt trận miền Tây.

Ngày 9 tháng 7 năm 1944, Tiến sĩ Von Hofacker, Trung tá trừ bị được Tư lệnh lực lượng tại Pháp, Tướng Von Stulpnagel phái đến La Roche-Guyon. Đấy là con trai của một tướng lãnh cùng tên, mà trong trận Đệ I Thế chiến đã nắm giữ chức vụ chỉ huy quan trọng, và dưới sự lãnh đạo của ông, Rommel đã nhận được huy chương danh dự sau cuộc xung phong chiếm Monte-Matajur tại Ý. Đi theo ông còn có một người thân tín của Stulpnagel là bác sĩ Max Horst. Hofacker là anh em họ với Đại tá của Bộ Tổng tham mưu, Bá tước Klaus von Stauffenberg, chính ông này cũng đã thông báo là sẽ thay mặt đại tướng Beck đến thăm bản doanh của binh đoàn B. Nhưng cuộc mưu sát ngày 20 tháng 7 đã không cho phép ông thực hiện được ý định.
Casar Von Hofacker là một bộ óc chính trị tuyệt diệu, một nhân vật rất nhiệt tâm, và cùng lúc có sức mạnh thuyết phục hiếm có. Trong thời bình, ông giữ một chức vụ cao cấp trong kỹ nghệ thép tại Berlin; từ nhiều năm qua, ông là cộng sự viên thân tín nhất của Karl Heinrich von Stulpnagel. Ông đến để tìm kiếm một kết luận dứt khoát về vấn đề tình hình mặt trận, cho Beck và Stauffenberg.

Mặt khác ông có mang theo một tài liệu được soạn thảo cẩn thận trình bày quan điểm của ông và của Tư lệnh lực lượng tại Pháp về sự cần thiết phải có một hành động mau lẹ và dứt khoát. Để kết luận, ông đưa ra một lời kêu gọi nhiệt liệt nhân danh tất cả lực lượng đối kháng gởi cho Thống chế Rommel, và khẩn cầu ông chấm dứt chiến tranh tại Miền Tây càng sớm càng tốt. Trong thực tế, đó là một lời kêu gọi nổi dậy. Ông được gợi ý từ quan điểm của các lực lượng chống đối tại Berlin – theo đó thì Đồng minh không bao giờ chịu thương thuyết với Hitler hoặc một trong các thuộc hạ của ông ta như Goering, Himmler và Ribbentrop, và các nhân vật này phải biến đi cùng lúc với hệ thống cai trị. Họ nhấn mạnh – cũng như Rommel, khi ông ấn định các nguyên tắc thương thuyết – đến ý tưởng chấm dứt lập tức cuộc không tập của địch, điều này sẽ mang lại hậu quả như là một sự giải thoát tinh thần và kinh tế bên trong xứ sở. Von Hofacker hỏi mặt trận phòng thủ trước quân xâm chiếm còn đứng vững một cách chính xác được bao lâu nữa: câu trả lời là tất cả còn tùy thuộc vào quyết định của giới lãnh đạo tại Berlin. Rommel còn tuyên bố rõ ràng hơn nữa: “Tối đa là từ 15 ngày đến 3 tuần lễ; sau đó còn phải tùy mũi dùi xâm nhập của địch; bởi vì chúng ta không còn có gì để ngăn cản đối phương nữa.”

Sau khi hội họp với Tổng tư lệnh mặt trận Miền Tây, Von Hofacker phải trở về Berlin để báo cho tướng Beck và các lãnh tụ chống đối khác biết tình hình, sau cùng, để kết hợp tất cả các biện pháp cách mạng. Ông sẽ trở lại gặp Rommel sau ngày 15 tháng bảy.

Khả năng kỹ thuật vượt qua phòng tuyến của đại biểu toàn quyền để thương thuyết một cuộc ngưng bắn địa phương đã được thí nghiệm thử ở sư đoàn 2 thiết giáp qua trung gian của tướng Luttwitz. Thật vậy, viên tư lệnh Đồng minh đã dùng máy vô tuyến đề nghị trao đổi nữ nhân viên thuộc các cơ sở y tế và thông tin Đức đã bị Đồng minh bắt giữ khi chiếm Cherbourg, để lấy các quân nhân Đồng minh bị thương nặng: việc trao đổi này sẽ được thực hiện tại một địa điểm do Đồng minh ấn định. Hành động nhân đạo này đã được thực hiện trong một cuộc ngưng bắn tạm 2 giờ. Tuy nhiên việc ấy đã làm cho Hitler nổi giận điên cuồng và gia tăng sự ngờ vực.

Ngày 12 tháng 7, Thống chế Von Kluge trở lại Roche-Guyon, Bản phúc trình gởi cho ông về tình hình chiến lược và chiến thuật và các vấn đề rút ra từ tình hình đó, đã tạo nên một sự đồng tình toàn diện giữa hai vị Tổng tư lệnh. Một lần nữa, Von Kluge muốn được biết dứt khoát về vấn đề thời gian chống cự của mặt trận trong tình trạng lực lượng giảm dần và thiếu thốn tất cả các lực lượng trừ bị. Rommel liền đặt câu hỏi cho tất cả các tư lệnh Quân đoàn và đa số các tướng lãnh chỉ huy. Ông đề nghị báo cho Hitler biết kết quả cuộc điều tra và đính kèm vào đó một tối hậu thư thực sự. Ông trình bày một kế hoạch trong trường hợp, ai cũng thấy sẽ xảy ra, là Hitler gạt bỏ tối hậu thư ấy. Ông báo cho Von Kluge biết sứ mạng của Trung tá Hofacker mà khi từ Berlin trở lại, ông sẽ được thông báo cho biết. Mặt khác, Bộ Tổng tham mưu phải cung cấp cho ông tin tức về tình hình mặt trận Miền Đông và tình hình tại Tổng hành dinh của Fuhrer trong vài ngày tới.

Von Kluge trước tiên giữ thái độ dè dặt, nhưng chấp thuận trên toàn bộ lập luận của Rommel. Quyết định của ông tùy thuộc kết quả của bản vấn-đề-lục gửi cho các giới chỉ huy tại mặt trận. Rommel giao cho tôi nhiệm vụ liên lạc thông báo cho tướng Stulpnagel tin tức về tình hình, về ý định của ông và về các cuộc nói chuyện với Von Kluge. Bằng mọi cách tôi phải nhấn mạnh rằng Thống chế đã sẵn sàng hành động, ngay cả trong trường hợp Von Kluge không thể quyết định hợp tác. Tôi đến Paris rất trễ trong đêm 13 tháng 7 để thực hiện sứ mạng. Von Stulpnagel vừa nhận được tin lãnh tụ xã hội chống đối bị bắt tại Berlin: điều này có thể bắt buộc chúng tôi hành động gấp. Ông ta đề nghị chờ Hofacker trở về. Ông còn nói là công cuộc chuẩn bị trong khu vực của ông đã hoàn tất.

Trong những ngày 13, 14, 15 tháng 7, Rommel đi thăm mặt trận. Ông tiếp xúc với các sĩ quan chỉ huy mọi cấp, nhất là với các tư lệnh nhóm SS, Sepp Dietrch và Hausser, mà các phúc trình về tình hình đặc biệt có tính cách bi quan. Cả hai đều chứng tỏ cực kỳ ngay thẳng. Trong trường hợp có sáng kiến gì tại Miền Tây, vậy là Rommel không còn sợ gặp phải khó khăn về phía lực lượng SS nữa. Tướng Tư lệnh Quân đoàn I SS, Tư lệnh tương lai của Lộ quân V thiết giáp, chính là vị trưởng nhóm SS Sepp Dietrich. Trong một cuộc viếng thăm bản doanh Binh đoàn B ông đã bày tỏ với Rommel cũng như với tôi nỗi bất bình của ông về bộ chỉ huy tối cao và đòi hỏi có thể áp dụng sáng kiến cá nhân trong trường hợp có sự tan vỡ của phòng tuyến. Các đơn vị SS tham chiến, can trường nắm trong tay vị tư lệnh của họ, và phải thẳng thắn thừa nhận rằng họ được tách biệt rõ ràng với các phương pháp của cảnh sát mật vụ.

Mặt khác, Tư lệnh lực lượng SS tin rằng sắp có thể tách rời dễ dàng khỏi tổ chức cảnh sát mật vụ này tại Paris và tại Pháp.

Từ mặt trận trở về, Rommel đắm mình trong các suy tư và trong những xúc động sâu xa. Các cuộc chuyện trò của ông với các chiến binh ở tuyến đầu đã xác nhận và bổ túc các phúc trình của các tư lệnh và tướng lãnh. Đâu đâu quân sĩ cũng hỏi Thống chế với sự âu lo rằng liệu một sáng kiến táo bạo được thực hiện vào phút chót bởi các vị chỉ huy quân sự có thay đổi được tình hình không. Lần nào Thống chế cũng trả lời là, theo ông, tình hình sẽ thay đổi. Ông trở về với sự chính xác đầy tính cách an ủi theo đó quân sĩ và cấp chỉ huy, tại tất cả các hệ cấp, đều đặt lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của ông.

Nhưng Rommel không còn khả năng nào để giải thích cho Hitler được nữa. Thay vì cung cấp yểm trợ như đã hứa, ông chỉ nhận được từ Hitler toàn sự hắt hủi và ác ý. Chủ nghĩa tài tử tiếp tục hoành hành ở đó, tại Haute-Bavière và Đông Phổ. Một lần nữa, Rommel gởi cho Hitler một lời báo động, nhưng lần này dưới hình thức rõ ràng và dữ dội của một tối hậu thư. Ngày 15 tháng bảy, ông gởi cho Hitler một văn thư dài 3 trang đánh máy hỏa tốc qua trung gian của Tổng tư lệnh Miền Tây. Trong bức thư đó ông diễn tả ý tưởng bằng các câu sau[3]:

“Tình hình mặt trận Normandie ngày càng trở lên khó khăn hơn, và có khuynh hướng đưa đến một nguy cơ nghiêm trọng. Vì tính cách khốc liệt của trận chiến, vì vật liệu chiến tranh đặc biệt mạnh mẽ mà địch tung vào trận chiến, nhất là về pháo binh và thiết giáp, vì sự hữu hiệu của không quân địch, chủ nhân ông tuyệt đối của chiến trường, tổn thất của ta đã lên cao đến nỗi sức mạnh chiến đấu của các sư đoàn giảm sút mau lẹ. Lực lượng tăng cường từ bên trong chỉ được đưa đến theo kiểu nhỏ giọt và họ chỉ đến được mặt trận sau một vài tuần vì gặp khó khăn chuyển vận. Trước tổn thất 97.000 người (trong đó có 2.360 sĩ quan gồm 28 tướng lãnh, 354 chỉ huy trưởng đơn vị), nghĩa là trung bình từ 2.500 đến 3.000 người mỗi ngày, chúng tôi chỉ được tăng phái có 6.000 người. Tương tự như vậy, tổn thất về mặt dụng cụ chiến tranh cũng lên cao đặc biệt và cho đến hôm nay chỉ được bù trừ theo một tỷ lệ rất thấp, ví dụ 17 chiến xa trên số tổn thất 225 chiếc.

Các sư đoàn tân lập đưa ra tiền tuyến không được huấn luyện để chiến đấu, chúng được trang bị rất yếu kém về mặt trọng pháo, vũ khí chống chiến xa và vũ khí cận chiến chống thiết giáp. Như thế, chúng không thể nào có khả năng đẩy lui các cuộc tấn công của địch có tính cách qui mô, được tung ra sau một đợt pháo kích liên tục nhiều giờ và sau các cuộc không tập mạnh mẽ. Diễn tiến của trận chiến chứng tỏ rằng, vì sức mạnh của vật liệu chiến tranh của đối phương, đơn vị can đảm nhất cũng chỉ có thể bị đánh tan nát tả tơi.

Riêng vấn đề gởi quân tăng viện, vì sự tàn phá hệ thống thiết lộ, vì tình trạng mất an ninh của đường bộ cho đến 150 cây số sau hỏa tuyến do sự can thiệp của không lực địch, cho nên tình trạng bấp bênh đến nỗi chỉ có thể đưa ra mặt trận những thành phần tối cần thiết. Trước hết, đâu đâu chúng tôi cũng phải cực kỳ dè xẻn đạn pháo binh và súng cối. Không còn có thể nào đưa đến mặt trận Normandie các lực lượng mới xứng đáng với danh từ ấy nữa. Ngược lại, quân số mới và vô số dụng cụ chiến tranh đã ào ạt dồn đến đêm ngày cho mặt trận phía bên kia đối phương, tăng viện của địch không bị không quân của ta chặn đứng, áp lực của địch gia tăng cường độ không ngừng. Trong các điều kiện đó, ta phải phòng là không bao lâu nữa – từ 15 ngày đến 3 tuần lễ - quân địch sẽ thành công trong việc chọc thủng phòng tuyến quá mỏng của ta, nhất là tại khu vực trách nhiệm của Lộ quân VII, và thâm nhập vào lãnh thổ Pháp quốc. Hậu quả sẽ không thể nào lường được.

Khắp nơi quân sĩ đã chiến đấu một cách anh hùng, nhưng cuộc chiến đấu không đều này đưa gần đến chỗ kết thúc…”

Thống chế kết thúc bằng câu sau đây do chính tay ông viết:

“Tôi bắt buộc khẩn thiết kính xin Ngài giải quyết ngay tình thế đó. Trong tư cách là Tổng Tư lệnh Binh đoàn, tôi cảm thấy có bổn phận phải trình rõ ràng lên Ngài điều đó – Rommel, feldmarschall.”

Danh từ “hậu quả chính trị” không được đề cập đến: “hậu quả” có nghĩa là tất cả; danh từ “chính trị” sẽ tác động như là một miếng giẻ tẩm màu đỏ bôi lên mặt Hitler. Nó có thể tạo ra thay vì là các suy tư phải chăng, những cơn giận dữ nổ bùng vô ích, và các chỉ thị phát sinh từ cơn tức giận điên cuồng, tất cả những điều đó đều gây thiệt hại cho quân sĩ. Von Kluge chia xẻ phần trình bày và tối hậu thư của Rommel (bản chính của phúc trình này với các lời ghi chú bên lề của Thống chế đã được tiêu hủy trong cuộc bắt giữ về sau viên tham mưu trưởng của Binh đoàn B.)

Lần cuối cùng Rommel đã gửi lời khuyến cáo 555555555555555 nhìn vào khoảng không gian mênh mông đầy tinh tú bất diệt.

Nhưng tất cả những ai cùng chia xẻ các tư tưởng như thế, trong những ngày ấy, phải nhận thấy rằng sức mạnh vạn năng của những bàn tay bí ẩn, từ đó số phận con người dựa vào, vẫn đi con đường của nó: hành động giải thoát, đã không xảy ra.

Tình hình trong vùng Caen mỗi giờ một thêm nguy kịch, các đợt xâm nhập thật sâu của địch chỉ được trám lại một cách khó nhọc với giá của vô số gương hy sinh anh hùng; cuộc thâm nhập quyết định của Đồng minh vào khu vực rộng lớn của Paris, sắp sửa xảy ra.

Ngày 17 tháng 7 Rommel đến thăm một trong các tâm điểm khốc liệt nhất của trận chiến để đích thân chỉ huy quân sĩ, và nâng cao năng lực đã kiệt quệ. Ông đã tiết lộ cho một vài tư lệnh ưu tú, bức tối hậu thư của ông gửi cho Hitler mà không giấu họ các hậu quả mai hậu, nhưng, được nhắc nhở bởi viên tham mưu trưởng, ông muốn rút lui sớm hơn thường lệ. Chính trong một cuộc chiến đấu địa phương đang lâm vào cảnh nguy cấp, mà ông muốn can thiệp vào. Ông còn đến cạnh tướng Tư lệnh Quân đoàn I thiết kỵ SS Sepp Dietrich mà ông tìm thấy tại bản doanh của ông ta; ông chỉ lên đường trở về vào lúc 16 giờ. Trên con đường từ Livarot đi Vimoutiers, lúc gần đến nông trại Montgomery, các phi cơ khu trục oanh tạc trông thấy chiếc xe đơn độc của thống chế, vì ông luôn luôn di chuyển mà không cần hộ tống. Họ không ngờ rằng mình đang săn đuổi người quân nhân ưu tú nhất tại mặt trận Miền Tây, con người chứa đựng hy vọng cứu rỗi duy nhất của Đức quốc. Trước khi ông kịp đến chỗ nấp dưới các cành của một cây bạch dương gãy đổ, những tia lửa đạn lóe ra trên xe ông, do ba phi cơ địch bay sát mặt đất phóng ra. Người tài xế trúng đạn chết ngay, Thống chế bị thương nặng đến nỗi thoạt tiên người ta tưởng ông đã chết. Thật ra, Rommel đã bị loại trừ vào giờ phút mà quân đội và dân tộc Đức đang cần đến ông nhất. Tất cả những người sau ông muốn tìm kiếm một thế giới mới tốt đẹp hơn, đều đau đớn cảm thấy thiếu mất điểm tựa duy nhất của họ. “Vố nặng giáng lên ông (Rommel) ngày 17 tháng 7 năm 1944, trên con đường Livarot, đã làm cho kế hoạch mất một người duy nhất có thể mang trên vai sức mạnh kinh khủng của chiến tranh bên ngoài và cuộc nội chiến, một người duy nhất có đủ sức mạnh nội tâm để đương đầu với tính cách sinh động hãi hùng của kẻ xâm lăng. Điều đó như là một triệu chứng tất nhiên”.

Thật thế, đó là một điềm báo trước.

Chú thích:

[1] Đọc "Cuộc săn tìm vũ khí bí mật của Hitler - Bản dịch Người Sông Kiên và Lê thị Duyên - Sông Kiên xuất bản.

[2] Đọc: “Những trận đánh lịch sử của Hitler”. Bản dịch Người Sông Kiên - Lê thị Duyên. Sông Kiên xuất bản.

[3] Đọc: “Những trận đánh lịch sử của Hitler”. Bản dịch Người Sông Kiên - Lê thị Duyên. Sông Kiên xuất bản lần thứ 3
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2013 09:15:37 | Chỉ xem của tác giả
- 10 -
THỐNG CHẾ VON KLUGE NẰM QUYỀN TƯ LỆNH TỐI CAO BINH ĐOÀN B
NGÀY 20 THÁNG 7 NĂM 1944

ROMMEL, BỊ LOẠI RA KHỎI VÒNG CHIẾN, thoạt tiên cả Binh đoàn như rắn mất đầu. Tùy viên trưởng của Hitler, tướng Schmundt đề nghị Hausser thay thế Rommel, ông này chỉ mới ba tuần lễ trước đây vừa nắm quyền Tư Lệnh Lộ Quân VII. Viên tướng lãnh đầu đàn của lực lượng SS ở Miền Tây, Sepp Dietrich sẽ thế chỗ Hausser. Như vậy là âm mưu đưa những người thân tín kỳ cựu của Hitler nắm giữ các chức vụ then chốt tại mặt trận Miền Tây, được thể hiện càng ngày càng mạnh mẽ. Thống chế Von Kluge chống lại các vụ thuyên chuyển đó và đêm 19 tháng 7, chính ông nắm quyền tư lệnh Binh đoàn vừa vẫn bảo đảm sự liên lạc cá nhân với Bộ Tư Lệnh tối cao tại Miền Tây. Ông đóng tại Bản doanh tại La Roche-Guyon, trong khi tham mưu trưởng của Tổng tư lệnh mặt trận Miền Tây, Tướng Blumentritt, vẫn tiếp tục thi hành các mệnh lệnh khác với lệnh của Binh đoàn B tại Saint Germain. Sáng ngày 20 tháng 7, Thống chế Von Kluge đến thăm bản doanh của Lộ quân V thiết kỵ, nơi mà các Tổng tư lệnh và các Tướng lãnh chỉ huy mặt trân Normandie đều được vời đến. Thống chế đã ra các chỉ thị chiến lược đặc biệt liên quan đến hai địa điểm chủ yếu là Caen và Saint-Lô. Ông không đề cập đến vấn đề chính trị nào.

Lúc 17 giờ Tướng Blumentritt và Đại tá Finckh thuộc Bộ Tổng tham mưu, gọi điện thoại cho Tham mưu trưởng Binh Đoàn B và báo cho biết: “Hitler chết rồi”. Khi thống chế trở về giữa lúc 18 và 19 giờ, tin tức về sự thất bại của cuộc mưu sát đã được loan trên đài phát thanh. Tin ấy được xác nhận bởi nhiều cú điện thoại từ Tổng hành dinh của Hitler, với một số chi tiết.

Giữa 19 và 20 giờ, Thống chế Sperrle, các Tướng Von Stulpnagel và Blumentritt xuất hiện tại bản doanh của Bộ Tư lệnh Binh đoàn B. Tướng Von Stulpnagel và Trung tá Tiến sĩ Von Hofacker toan tính, một cách cấp bách, thúc đẩy Thống chế Von Kluge can thiệp vào các biến cố quyết định này. Họ nói có thể là cuộc mưu sát đã thất bại, tuy nhiên tại Bá linh, quyền chỉ huy đã chuyển qua tay Đại tướng Beck. Chỉ có việc chấm dứt ngay lập tức chiến trận ở Miền Tây- kể cả sự đầu hàng - người ta mới có thể đảm bảo sự thành công cho cuộc nổi dậy vẫn được âm mưu từ trước.

Trước khi lên đường, Đại tướng Von Stulpnagel đã chỉ thị cho viên “Tư lệnh Ba lê”, Tướng Bá tước Boineburg bắt giữ chỉ huy trưởng SS và cảnh sát tại Pháp, Oberg, cũng như toàn thể bộ tham mưu S.D của ông ta tất cả gồm khoảng 1.200 người, được giam giữ tại một địa điểm chắc chắn. Công tác bắt giữ này được thực hiện bởi lực lượng an ninh quân đội dưới quyền Đại tá Von Kraewel mà không cần nổ một phát súng nào.

Các đơn vị được thông báo tin này và được giải thích rằng Hitler đã bị các lực lượng S.S. cho ra rìa vì ông ta sợ rằng chính lực lượng S.S sẽ dùng sức mạnh để chiếm quyền.

Thế nhưng, sau nhiều lần điện đàm riêng với các Tướng Beck, Hoppner và Fromm, với các tướng Warlimont và Stieff, Von Kluge không thể nào chấp nhận lãnh đạo một cuộc nổi dậy tại mặt trận Miền Tây. Theo ông, một giải pháp đơn độc tại mặt trận này, sau khi cuộc mưu sát thất bại, đối với Bá- linh và Tổng hành dinh của Fuhrer là điều không thể quan niệm được. Trước hết, trong hiện tại ông ta không còn tin chắc vào Bộ Tổng Tư Lệnh cũng như vào các đơn vị.

Sau nhiều lần điện thoại liên tiếp cho Tổng hành dinh của Fuhrer và cho Bá- Linh, Von Kluge ra lệnh cho các vị chỉ huy trưởng quân sự tại Ba lê phóng thích cơ quan S. D. Điều đó trong thực tế có nghĩa là khóa chặt số phận của tướng Stulpnagel. Von Kluge ra các chỉ thị tương tự bằng điện thoại cho tham mưu trưởng của ông là Đại tá Von Linstow, nơi đây Đô Đốc Kranche, Đại sứ Abetz và nhiều người khác hoảng sợ đã đến trình diện.

Tuy nhiên, vào các giờ phút bi thảm ấy, các chiến sĩ trên các mặt trận Caen và Saint- Lô đang chiến đấu trong một cuộc phòng thủ nguy ngập. Các chỉ huy trưởng đơn vị, các Tư lệnh quân khu tới tấp gọi điện thoại yêu cầu tăng viện, đòi hỏi soi sáng thêm về các biến cố xảy ra tại Tổng hành dinh của Fuhrer và tại Bá-linh mà họ được biết qua đài phát thanh. Tham mưu trưởng của Binh đoàn B phải trả lời tất cả các câu hỏi để giữ vững phòng tuyến.

Thống chế Von Kluge giữ lại Tư lệnh quân sự ở Ba lê, Trung Tá Tiến sĩ Von Hofacker và Tiến sĩ Horst để ăn tối với ông trong vòng cực kỳ kín đáo. Trong ánh sáng của đèn cầy, bữa ăn diễn ra trong im lặng hoàn toàn như trong một nhà xác. Không khí ảm đạm của giờ khắc ấy đối với những người khách còn sống sót vẫn khó mà quên được. Tướng Von Stulpnagel trở lại Ba lê; trong đêm ấy ông ta bị cách chức và được Tướng Bộ binh Blumentritt thay thế. Thống chế Keitel điện thoại triệu hồi Tướng Stulpnagel trở về Bá linh “để báo cáo”. Không báo trước cho Von Kluge biết, ông rời Ba lê sáng ngày 21 tháng 7 và khi đến gần Verdun, nơi ông đã chiến đấu trận Đệ nhất Thế chiến, ông cố tự sát bằng cách bắn một viên đạn vào đầu. Bị mù mắt, ông ta được đưa đến quân y viện tại Verdun, và bị đối xử như tù nhân của Gestapo. Sau khi được giải phẫu ông hồi tỉnh và kêu tên Rommel. Ngay khi hãy còn chưa bình phục hẳn, ông bị đưa về Bá-Linh, ra trước Tòa-án nhân dân, bị lên án tử hình bằng cách treo cổ và bản án được thi hành ngày 30 tháng 8; cũng như các Đại- Tá Finckh và Von Linstow thuộc Bộ Tổng Tư lệnh. Trung tá Von Hofacker cũng chịu cùng số phận ngày 20 tháng 12. Không hề sờn lòng một chút nào, ông ta gặp tham mưu trưởng của Binh đoàn B lần cuối ngày 19 tháng 12 trong căn hầm trụ sở Gestapo, đường Albrechtstrasse, tại Bá- Linh.

Vào tháng 4 năm 1942, lần đầu tiên thống chế Von Kluge tiếp kiến Bác sĩ Goerdeler, tại bản doanh của ông, gần Smolensk. Lúc ấy đã có cuộc trao đổi quan điểm với ông này, với Đại Tướng Beck, Đại Sứ Von Hassel và những người khác nữa. Hình như năm 1943 Von Kluge có tuyên bố sẵn sàng tham dự vào việc hủy diệt chế độ độc- tài quốc- xã tại Đức với hai điều kiện: Hitler phải chết và sự tập trung của bộ chỉ huy tối cao vào một mặt trận duy nhất (đông hay tây). Nếu điều kiện thứ hai được thỏa mãn từ ngày 4 tháng 7, thì điều kiện kia, điều kiện chủ yếu lại không được thực hiện. Ngày 4 tháng bảy khi ông nắm quyền tư lệnh mặt trân Miền Tây, qua sự đề nghị của tùy- viên trưởng của Hitler, Tướng Schmundt, ông này không ngờ vực gì cả, tướng Von Tresckow được bổ nhiệm làm tham mưu trưởng của ông. Tướng Von Tresckow đã từng phục vụ lâu ngày dưới quyền ông tại Binh đoàn Trung Ương, nên ông đã biết quá rõ về ý chí bất khuất và sự hiếu động cách mạng của ông này, cho nên ông từ chối sự bổ nhiệm ấy. Chính vì thế mà, Tresckow, một trong các đối thủ dữ dội nhất của Hitler, đầu óc trác việt và một nhân cách phi thường, không được thuyên chuyển đến Miền Tây. Tresckow tự sát ngày 21 tháng 7, trong chức vụ tham mưu trưởng Lộ quân II mặt trận Miền Đông để thoát khỏi tay bọn đao phủ. Chúc thư của ông có nhấn mạnh:

“Bây giờ sức nặng của cả thế giới đè nặng lên chúng ta và phủ lên chúng ta những lời nguyền rủa. Nhưng, hôm nay cũng như trước đây, tôi vẫn một lòng sắt thép tin tưởng rằng chúng ta đã hành động đúng. Tôi coi Hitler không những chỉ là kẻ thù không đội trời chung của Đức quốc mà còn là kẻ thù không đội trời chung của nhân loại. Trong chốc lát nữa, khi tôi đứng trước mặt Chúa, người sẽ phán xét tôi, để trình cho Ngài biết về những hành động, những sứ mạng, của tôi, tôi tin có thể trình bày với lương tâm thuần khiết, điều gì tôi đã làm trong cuộc tranh đấu chống lại Hitler. Cũng như một hôm Chúa đã hứa với Abraham là sẽ không hủy diệt Sodome, ngay cả trường hợp chỉ còn lại 10 đức công bình, tôi hy vọng rằng, vì chúng ta, Chúa sẽ không tiêu diệt Đức Quốc. Không một ai trong chúng ta có thể than van gì về cái chết của chính mình. Bất cứ ai đã nhập vào nhóm chúng ta đều cũng phải chịu đựng một mối đau khổ không thoát được. Giá trị tinh thần của một người chỉ bắt đầu khi nào người đó sẵn sàng hiến dâng đời sống cho niềm tin của mình.”

Trước khi đảm nhận chức vụ Tổng Tư Lệnh Miền Tây, Von Kluge còn tiếp Đại Tá Boselage, sau đó bị sát hại, người đã chuyển lời kêu gọi hành động của Tresckow, như họ đã cam kết với nhau từ trước. Vả lại Thống chế Von Kluge hoàn toàn bị bất ngờ vì vụ khởi động cuộc mưu sát ngày 20 tháng 7.

Von Hofacker từ Bá linh trở về chiều ngày 17 tháng 7 và biết được tin Thống chế Rommel bị thương nặng ở ga xe lửa. Ông ta không thể nào thông báo cho Von Kluge biết việc khởi động vội vã vụ mưu sát Hitler, bởi vì quyết định hành động vào ngày 20 tháng 7 chỉ được biểu quyết vào chiều ngày 19 tại Bá linh.

Sáng ngày 21 tháng 7 theo lệnh của Goebbels và Keitel, Ủy viên Quốc xã (Fuhrungsoffizier) cạnh Bộ Tư Lệnh Miền Tây có Đại diện Bộ Tuyên truyền tại Pháp tháp tùng, đến Bản doanh La Roche-Guyon. Ông ta muốn cưỡng ép Von Kluge ký một công điện thần phục Hitler mà họ đã soạn sẵn trước và ép ông lên tiếng trên các đài phát thanh Đức Quốc. Thống chế có thể tránh né được việc sau, nhưng bị bắt buộc gởi một điện văn chúc mừng dưới một hình thức khác, nhẹ nhàng hơn.

Mặc dầu vậy, Gunther Von Kluge cũng bị cuốn vào cơn bão tố giết người của ngày 20 tháng 7, định mệnh đã không dừng lại trước một người mà sự sáng suốt tỏ ra có vẻ mâu thuẫn với ý chí thực hành của ông.

Kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1944, sự nghi ngờ của Hitler và của Bộ Tổng Tư Lệnh tối cao Quân lực đối với Von Kluge không ngừng gia tăng. Điểm này chắc chắn cũng là vì các cung từ khai thác được từ các tù nhân. Dầu sao chăng nữa các biện pháp được quyết định dưới thời ông làm tư lệnh cũng bị chỉ trích dữ dội và còn bị phá hoại tại “Obersalzberg” nữa.

Bài diễn văn lăng nhục do Bác sĩ Ley đọc chống lại giai cấp quí tộc và tập thể sĩ quan được nhiều người biết qua đài phát thanh. Các Tướng lãnh Nam- Tước Von Funk, Nam- Tước Von Luttwitz và Bá tước Von Schwerin công khai phản đối và đòi hỏi rút lại bài diễn văn ấy.

Mệnh lệnh của Tân Tham-mưu- trưởng quân đội lên án sự phạm tội của Bộ Tổng Tham- Mưu trong âm mưu chuẩn bị và thi hành cuộc mưu sát ngày 20 tháng 7 năm 1944 không được tham mưu trưởng Binh đoàn B chuyển đến các cấp đơn vị nhỏ, với sự thỏa thuận của vị Tư- Lệnh. Riêng về sự dẫn nhập cho cái gọi là sự cứu rỗi Đức quốc, áp đặt lên trên Quân lực Đức, vào lúc mà mỗi một binh sĩ thấy rõ sự sụp đổ sắp đến của cả hệ thống mà sự cứu rỗi ấy tượng trưng, thì nó xuất hiện trước mắt mọi người như một vở tuồng quái gở.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2013 09:54:57 | Chỉ xem của tác giả
- 11 -
TỪ NGÀY 25 THÁNG 7 ĐẾN NGÀY 18 THÁNG 8 NĂM 1944
AVRANCHES – MORTAIN
“Vùng Túi Falaise”

Ngày 24 tháng 7 khi bộ chỉ huy tối cao Quân lực xác nhận rằng quyết định ở Miền Tây tùy thuộc vào sự ngăn chặn mũi tấn công của địch trong vùng bán đảo Cotentin, điều này đưa lại hậu quả là một sự khôi hài cay đắng cho Bộ Chỉ huy, bởi vì chính cơ cấu ấy cùng lúc cấm chỉ mọi sáng kiến trong các cuộc hành quân.

Tướng Patton, Tư lệnh hùng tráng, tính khí phong phú, của Đệ III Lộ quân Hoa Kỳ, người vừa được đẩy lên Cotentin, và trong khi Bộ Tư lệnh Đức chờ đợi cuộc đổ bộ tại một nơi khác, đã mau lẹ tiến sâu vào vùng đất không người. Rốt cuộc, chính mãi đến lúc đó, phía Bộ Tư lệnh Đức mới lấy các quyết định chiến lược quan trọng. Nhưng vì tất cả lực lượng trừ bị đều thiếu thốn, nhất là về Không quân, cho nên mọi mệnh lệnh bắt buộc bảo vệ từng tấc đất dù cho chuyện gì xẩy đến và công cuộc ngăn chặn mũi dùi tấn công của đối phương đều là những câu trống rỗng.

Điểm nguy kịch của phòng tuyến bị đánh chiếm đã chuyển đi về cánh phía tây của hai Lộ quân Mỹ. Chính tại đấy người ta phải phòng trước một sự xâm nhập về phía Nam và Đông Nam, một khi bán đảo vùng Bretagne đã bị chặn ngang. Cuộc điều quân này không những chỉ vạch đường cho một cuộc bao vây từ phía tây Lộ quân VII và Lộ quân V thiết kỵ Đức đóng tại Normandie, nó cũng còn khởi đầu cho cuộc hành quân quyết định nhắm vào khu vực Ba lê và quá hơn nữa, về phía Đức quốc: đấy là sự khởi đầu cho hồi chung cuộc. Lúc ấy chỉ có các quyết định cương quyết là có tính cách bắt buộc, đó là: bỏ mặt trận Địa Trung Hải, rút toàn thể Binh đoàn G[1] lui về phía Bắc, sau khi trích ra tất cả lực lượng trừ bị cơ động nhằm mục đích hành quân chiến thuật và sửa soạn tuyến sông Seine thành tuyến phòng thủ.

Nhưng không thể nào đưa Hitler và Bộ Tổng Tư lệnh Quân lực đến chỗ lấy một quyết định.

Khi được tin về sự chọc thủng phòng tuyến của mũi dùi Hoa Kỳ gần Saint-Lô, thống chế Von Kluge thoạt tiên sợ phải thấy cánh phía Tây của Lộ quân VII mất điểm tựa tại vịnh Saint Malot. Ngay lúc đó ông đã tiên liệu một cách hữu lý rằng Avranches sẽ là vị trí then chốt phải bảo tồn cho đến lúc mà các cuộc phản công hay các quyết định trọng yếu có thể can thiệp vào. Vả chăng ông cũng được biết rằng điều bó buộc ấy biểu tượng cho tối đa những gì có thể đòi hỏi, với tình trạng các đơn vị đã tham chiến từ 7 tuần qua trong một trận đánh thế thủ nhọc nhằn, nhất là dưới hiệu quả hủy diệt gây ra bởi Không quân đối phương. Chính Không quân, bằng sự phối hợp hữu hiệu với các lực lượng trên bộ của Hoa Kỳ, đã giúp cho mũi dùi tấn công tại Saint-Lô thành công.

Tất cả lực lượng trừ bị của Lộ quân VII đã được tập trung tại mặt trận Cotentin. Tuy nhiên, các lực lượng thiết kỵ phòng vệ mà Bộ Tổng Tư lệnh Tối cao Quân lực đã hứa hẹn, vẫn vắng bóng. Cuộc tiếp cứu của Quân đoàn XXV được yêu cầu nhiều lần (nó đã được đưa đến Bretagne với 5 Sư đoàn) đã bị Bộ Tổng tư lệnh Quân lực từ chối. Riêng về phần mặt trận giữa Caen và Saint-Lô, binh sĩ được trích bớt đi đến một mức có thể tạm thời chịu đựng được. Dây cung đã căng quá thẳng, Bộ Tổng tư lệnh Quân lực vẫn bất động: Miền Tây kể như đã mất.

Quân đoàn thiết giáp thứ XLVII với Sư đoàn 2 và Sư đoàn 116 thiết kỵ phải tập trung lại trong vùng phía Tây con sông Vire để được tung ra đánh vào cạnh sườn địch quân lúc đó đã thành công trong vụ chọc thủng tuyến phòng ngự.

Giữa lúc đó, Tư Lệnh Lộ quân VII quyết định thống nhất lực lượng để cắt ngang mũi dùi tấn công vào Saint-Lô tại cạnh sườn phía Tây hướng về phía Đông Nam, với sự dàn quân của Quân đoàn thiết giáp XLVII đang tập họp lại để phản công. Nhưng lệnh hành quân ấy của Lộ quân đã lập tức bị thống chế Von Kluge hủy bỏ ngày 29 tháng 7 bởi vì ông đã bỏ điểm trọng yếu Avranches mà không chiến đấu. Nhưng phản lệnh đã đến quá chậm, trước sự ào ạt của thiết giáp và không quân của đối phương. Ngày 30 và 31 tháng 7, các cánh quân thiết kỵ của Lộ quân Patton tràn ngập Avranches. Mũi tấn công của địch đã được vạch ra, cấp bách. Mọi người chờ đợi cao điểm của cơn khủng hoảng. Giữa khoảng Saint-Lô và Vịnh Saint-Malot tính cách liên tục của phòng tuyến đã bị phá vỡ. Những đơn vị chiến đấu đã được chỉ huy một cách can đảm vẫn còn đứng vững như các đập ngăn nước, nhưng sự tràn ngập bởi sóng biển chỉ còn là một vấn đề mỗi ngày và ngay cả mỗi giờ nữa. Von Kluge đích thân gọi điện thoại cho Đại tướng Jodl để nêu rõ giờ phút quan yếu đó và yêu cầu ông này làm ngay lập tức một báo cáo trình Hitler. Trong cuộc điện đàm ông cũng đã nhắc lại các giai đoạn hệ trọng của quân đội Pháp trong trận đánh sông Marne năm 1914. Hoài công vô ích! Thay vì lấy một quyết định đứt khoát hay ban ra các chỉ thị chiến lược thì ngày 01 tháng 8 năm 1944, Hitler lại ban hành mệnh lệnh sau đây cho Binh đoàn B:

“Trong bất cứ trường hợp nào cũng không được để cho quân địch tổ chức hành quân như vào chỗ không người. Binh đoàn B phải chuẩn bị với tất cả các đơn vị thiết kỵ sẵn có một cuộc phản công để tạo mũi dùi chọc thủng cho đến Avranches để cô lập và tiêu diệt địch quân. Tất cả các lực lượng thiết kỵ đang sẵn có phải được rút khỏi các vị trí hiện tại mà không được thay thế, và phải được đặt dưới quyền chỉ huy của Tướng thiết giáp Eberbach. Kết quả quyết định của chiến trường tại Pháp tùy thuộc vào cuộc tấn công này.”

Von Kluge lập tức phản đối mệnh lệnh này, một mệnh lệnh mà theo ông chắc chắn sẽ kéo theo sự sụp đổ của phòng tuyến Normandie từ sông Orne cho đến phía nam Saint-Lô và sẽ làm cho thảm họa đến nhanh hơn nữa. Ông năn nỉ yêu cầu quan điểm của ông phải được trình bày lên Hitler ngay lập tức. Nhưng Fuhrer cho trả lời rằng ông ta vẫn giữ quyết định ban đầu. Chỉ nghe theo bổn phận của mình, Von Kluge nhấn mạnh một lần nữa các hậu quả thật sự của mệnh lệnh ấy: Trước hết là sự sụp đổ chắc chắn của phòng tuyến Normandie trước Lộ quân II của Anh trong trường hợp bắt buộc phải rút các đơn vị thiết giáp hiện đang tạo thành bộ xương của hệ thống phòng thủ. Một lần nữa ông đề nghị các biện pháp chiến lược nghĩa là sự rút lui về sau sông Seine, bỏ miền Nam và miền Trung nước Pháp. Tư lệnh tối cao Quân lực lại bác bỏ một cách dữ dội những ý tưởng được Binh đoàn B triển khai đối với vị Tổng tham mưu trưởng. Với cùng giọng điệu của “Ông lớn của ông ta”, ông Tổng tham mưu trưởng cũng vậy cũng nói về một cuộc tiêu diệt đối phương nhờ cuộc tấn công dự liệu bằng thiết giáp và về một “chiến thắng chắc như bắp”.

Các lực lượng tấn công, được đặt dưới quyền Tướng thiết giáp Eberbach gồm có Quân đoàn XLVII thiết kỵ, với sư đoàn 2 và sư đoàn 116 thiết giáp, và Quân đoàn I thiết kỵ với sư đoàn 1 và sư đoàn 2 thiết giáp S.S. Người ta cũng dự liệu sự can thiệp của Quân đoàn II thiết kỵ S.S (với sư đoàn 9 và 10 thiết giáp S.S) nhưng diễn biến của tình hình không còn dành cho thời gian để kịp can thiệp nữa. Không lực địch, nhờ các cuộc oanh tạc không ngừng nhằm vào các cuộc điều quân của lực lượng thiết giáp, đã luôn luôn làm cho giờ phút can thiệp bị hoãn lại.

Mãi đến đêm 6 tháng 8, sau không biết bao nhiêu là khó khăn không tưởng tượng được, công cuộc chuẩn bị rốt cuộc cũng được hoàn tất trong vùng phía đông Mortain: cuộc tấn công có thể bắt đầu một lúc sau nửa đêm, trước khi không lực địch có thể lâm trận để hủy diệt. Chính Von Kluge cũng lao mình vào trung tâm của cuộc chiến đấu. Cuộc tấn công thành công cho đến bình minh. Sư đoàn 2 đã xuyên thủng phòng tuyến địch sâu vào đến 10 cây số và đã nghiền nát các lực lượng bộ bình và thiết giáp Hoa kỳ tương đối đáng kể. Chính ngay từ lúc bình minh, các phi đội chiến đấu địch đã ào đến hết đợt này đến đợt khác, và ngăn cản mọi chuyển động của đối phương: Ba trăm phi cơ săn giặc Đức đã từ khắp nơi tập trung về phía tây để yểm trợ cho cuộc tấn công này. Nhưng không hề có một chiếc nào xuất hiện được trên các địa điểm tấn công: tất cả đều bị bao vây và tiêu diệt ngay khi cất cánh để tham chiến trên không. Như thế là cuộc hành quân thiết giáp đã hoàn toàn bị thất bại chỉ vì các lực lượng không quân đồng minh được hậu thuẫn bởi sự liên lạc vô tuyến tuyệt vời từ dưới đất. Với những tổn thất nặng nề, các sư đoàn thiết giáp tả tơi phải rút về điểm xuất phát trong đêm 7 tháng 8. Hitler chỉ thị tái phản công vào ngày 8. Cuộc tái phản công này do sư đoàn I thiết giáp S.S làm lực lượng chính, nhưng đã bị thiết giáp và không quân Hoa kỳ đẩy lui tổn thất nặng nề.

Nếu được không quân yểm trợ đầy đủ, cuộc phản công này, nhắm vào mục tiêu Avranches cách xa chứng 25 cây số có thể đưa đến một giai đoạn chiến thắng và ít ra cũng tạo được một sự trì hoãn cho phép lấy các quyết định chiến lược. Nhưng với tính khí của Hitler như thế, liệu có các quyết định nào được ban hành không? Không chắc. Một điều chứng tỏ ông ta hiểu tình hình đến mức nào, là mệnh lệnh ban hành ngày 7 hoặc ngày 8, sau cuộc phản công của Eberbach, bắt dàn rộng phòng tuyến của quân đổ bộ Đồng minh “từ phía Tây sang phía Đông”.

Ngày 5 tháng 8, các lực lượng Hoa kỳ đã gần như khóa chặt vùng Bretagne. Lúc ấy Tư lệnh quân đoàn XXV Đức, Tướng pháo binh Farmbacher, tại Renner, được chỉ định làm Tư lệnh khu vực Bretagne. Ông ta cũng thế, phải bắt đầu bằng “cuộc ngăn chặn kẻ thù với tất cả các lực lượng sẵn có”, rồi vừa chiến đấu vừa rút lui về các điểm phòng thủ mạnh, sau cùng “phòng vệ tại đấy cho đến giọt máu cuối cùng”; đấy là những điều được nhớ tại Cherbourg.

Tất cả những điều đó lại có kết quả là cô lập hóa Quân đoàn XXV cùng với các sư đoàn của nó; đạo quân này không còn làm được một hành động nào nữa trong sự phát triển của các biến cố về sau, nó cũng lại không cầm chân được một lực lượng địch nào cả.

Sau vụ thất bại của cuộc phản công, một lần nữa, Von Kluge đề nghị bỏ miền Nam nước Pháp và lập tức đưa binh đoàn G về lập một phòng tuyến Seine-Loing-Loire, từ Gien và Nevers cho đến biên giới Thụy Sỹ gần Gex. Về phần khu vực hạ lưu sông Seine, các biện pháp phòng ngự đã được nghiên cứu và quy định từ giữa tháng 7. Nhưng Tổng tư lệnh Quân lực vẫn trì hoãn không chịu quyết định. Cuộc phản công do Hitler ra lệnh bắt đầu từ vùng Mortain hướng về phía Avranches đã làm cho các đơn vị thiết giáp ở miền Tây bất động ở phía Nam sông Seine và bị tiêu hao nặng. Mệnh lệnh này không những trái ngược với quy luật chiến lược mà còn trái ngược với lý trí nữa. Làm như thế là cung cấp cho đối phương một lợi thế quyết định và ngoài sự mong ước của họ.

Đó là một cuộc trình diễn tuyệt vời nghệ thuật điều động thiết giáp của Tướng Patton, Tư lệnh Lộ quân III Hoa kỳ, trong ngày 9 và 10 tháng 8 tiến sâu từ Laval theo trục Alençon-Le Mans, và đẩy mạnh về hướng Ba lê. Trái với lệnh cấm triệt để của Hitler. Sư đoàn 9 thiết giáp Đức được tung vào vùng Alençon, ít ra cũng đã làm chậm đà tiến quân mãnh liệt của quân đội Hoa kỳ hướng về phía Đông. Nhưng một lần nữa người ta lại cảm thấy sự thiếu vắng Quân đoàn XXV đang chiến đấu một cách vô ích tại Bretagne. Nhiều lực lượng mới của Hoa kỳ, với ưu thế tuyệt đối về hỏa lực và về cơ động tính vẫn tiếp tục được đổ ào ạt vào chỗ bị chọc thủng. Binh đoàn B, khám phá được ý đồ của đối phương là bao vây Lộ quân V thiết kỵ và Lộ quân VII ở phía Tây vùng hạ lưu sông Seine, đã đòi hỏi phải được rút về phía sau sông Seine và gọi Binh đoàn G đến để tái thiết lập liên lạc về phía Đông.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 3-8-2013 09:56:08 | Chỉ xem của tác giả
- 11 -
(tiếp theo)

Nhưng Hitler không tin vào sự ước tính của Von Kluge về lực lượng địch. Bộ Tổng tư lệnh quân lực chỉ muốn nói đến “các mũi thiết giáp địch” có thể bị loại ra khỏi vòng chiến bằng các “biệt đội” cảm tử đánh bất ngờ.

Và Hitler tiếp tục tìm cớ thoái thác. Ông ta bắt buộc rằng đạo quân thiết kỵ của Eberbach, vốn đã bị đánh tả tơi phải tái phát động cuộc phản công hướng về phía bờ biển: đều đưa đến kết quả là làm cho tình hình chiến lược trầm trọng thêm và làm giảm thiểu lực lượng chiến đấu của quân đội.

Để làm cho Hitler đổi ý định mở cuộc tấn công điên rồ ấy và để tranh thủ thời gian, ngày 10 tháng 8, Thống chế Von Kluge đề nghị với Bộ Tư lệnh tối cao quân lực “nếu biến chuyển sắp đến của tình hình cho phép”, mở một đợt tấn công của đạo quân thiết kỵ do Eberbach chỉ huy hướng về phía Nam, “để giải tỏa mạn sườn Địa Trung Hải”.

Nhưng kế hoạch này rồi cũng bị tình hình tổng quát vượt qua. Lúc đó Von Kluge dùng quyền Tư lệnh ra lệnh cho Lộ quân V thiết kỵ rút lui dần về phía sau sông Orne rồi sau khu vực sông Touques, trong khi Lộ quân VII che chở mạn sườn trên phòng tuyến Domfront-Alençon và hướng về phía Đông. Ngày 12 tháng 8, bất đắc dĩ Hitler phải chấp thuận và vẫn không có lấy một quyết định nào liên quan đến vấn đề binh đoàn G, vẫn còn nằm bất động với Lộ quân I và XIX, dọc theo vịnh Gascogne và bên bờ Địa Trung Hải.

Vả chăng, kể từ các biến cố ngày 20 tháng 7, Thống chế Von Kluge đã bị mất đà; chính nhiều khi ông trông thấy thảm họa không thể tránh được bằng cặp mắt hết sức bi thảm. Ông ta tự dằn vặt để đừng toan tính việc thoát hiểm nhờ mưu kế, kể từ ngày 20 tháng 7, ngày mà ông không muốn hành động. Nhưng vì các thỉnh nguyện mới cho nên ông không thể quyết định tự ý bỏ mặt trận phía Nam, gọi Binh đoàn G về, bắt đầu một chiến lược mới có thể cho phép sử dụng một cách tiết kiệm và hữu hiệu các lực lượng trừ bị như vậy. Khi các lực lượng hùng hậu của địch vượt qua tuyến Domfront-Alençon, rồi một cánh nghiêng về phía Bắc theo hướng Falaise để bao vây hai lộ quân tại Normandie, và các lực lượng khác vẫn tiếp tục tiến mạnh về phía Ba lê, ngày 12 tháng 8 Von Kluge đến vùng phía Nam Falaise để hội họp với các Tư lệnh Lộ quân. Nhưng hệ thống truyền tin tháp tùng ông đã bị lãnh ngay một quả trọng pháo nên mọi sự liên lạc đều bị cắt đứt. Đại tướng Jodl nhiều lần điện thoại nhân danh Hitler hỏi Tham mưu trưởng Binh đoàn B rằng liệu ông này có tin là có thể Thống chế Von Kluge đã thoát qua phòng tuyến của địch rồi không. Khi Thống chế trở về, một chỉ thị hỏa tốc của Hitler cũng được gửi đến: “Thống chế Von Kluge phải thoát ra khỏi “túi” Faleise và điều khiển cuộc chiến tại Normandie từ Bộ tư lệnh Lộ quân thứ V”. Mệnh lệnh này, thật điên khùng về mặt quân sự, đã cho thấy sự nghi ngờ và sự suy sụp tinh thần của vị Tổng Tư lệnh Tối cao. Niềm tin vào các cấp chỉ huy và vào các đơn vị quân đội đã bị chặt đứt bởi các mệnh lệnh mâu thuẫn bởi sự bối rối hỗn loạn mà họ tìm thấy nơi Hitler. Von Kluge không thể nào chỉ huy toàn thể mặt trận từ chính trong “túi Falaise”. Nhưng xung lực của ông có giá trị rất lớn đối với quân đội. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, ông có thể cho phép các tướng lĩnh dưới quyền sự tự do hành động để mở đường máu tiến về phía Đông, sau sông Seine.

Ngày 13 tháng 8, Bộ tham mưu của Đệ I Lộ quân được gọi từ vịnh Gascogue về phía Bắc để nắm quyền điều khiển “phòng tuyến” trải dài giữa cạnh Đông Nam của Lộ quân VII và sông Loire trong vùng Orléans. Nhưng về quân sỹ nó chỉ còn có các đơn vị ở hậu trạm và các bộ phận hành chính: hai sư đoàn của Lộ quân XV và hai lữ đoàn huấn luyện của S.S đã phải được gửi đến tăng cường.

Cùng ngày hôm đó, những tin tức đầu tiên về các hoạt động của quân Đồng minh được đưa lên tàu tại Alger cũng được loan truyền đến. Cuộc đổ bộ tại Địa Trung Hải sắp xảy ra. Thế mà chính ngay lúc đó Hitler và Tổng Tư lệnh Quân lực vẫn từ chối không cho rút Binh đoàn G với 9 sư đoàn cơ hữu về; quả thật cơ động tính yếu kém của chúng không tạo được một giá trị chiến đấu lớn lao nào. Các ông lớn ấy vẫn chưa muốn tin sẽ có cuộc đổ bộ, và sự nối kết giữa cuộc đổ bộ ấy với các cuộc hành quân Đồng Minh trong khu vực giữa sông Seine và sông Loire.

Ngày 14 tháng 8, Thống chế Von Kluge tập họp các Tư lệnh Hải quân miền Tây và Không đoàn 3, Tân Tư lênh quân đội tại Pháp, Tướng Không quân Kitzinger, viên Tư lệnh mới được bổ nhiệm của “Đại Ba lê”, Tướng Bộ binh Von Choltitz về Saint-Germain để thảo luận công việc phòng vệ thủ đô Ba lê. Hitler đã ra lệnh bảo vệ Ba lê cho đến người lính cuối cùng. Ông ta đã hạ lệnh chuẩn bị giật sập 68 chiếc tầu trên sông Seine và tất cả các công trình nghệ thuật có giá trị quân sự. Cuộc hội nghị cũng giải quyết vấn đề rút lui và di tản của quân đội: điều này đã được thực hiện suông sẻ. Trật tự ít được thấy trong việc rút lui của nhiều cơ quan của đảng Quốc Xã cũng như của số công chức. Những người này đã tạo nên một tình trạng tuyệt đối không thể kiểm soát được và thường hay không làm cho Đức quốc hãnh diện chút nào.

Riêng về phần các lực lượng vững chắc để phòng vệ khu vực thủ đô mênh mông, thì chẳng có lực lượng nào cả. Chỉ còn có các đơn vị bất ngờ, có khả năng bảo đảm công tác an ninh và tình báo, ngoài ra, đối với những người có tâm trí sáng suốt thì không thể nào giữ được Ba lê vì vấn đề tiếp liệu. Chính cũng vì các lý do lý thuyết và vật thể ấy đã làm cho người Pháo phải để cho Ba lê đầu hàng năm 1940.

Tuy nhiên áp lực tập trung của các lực lượng Mỹ đã tăng cường nhất là từ phía Nam và phía Tây của phòng tuyến Trun-Argentan-Putarges, trong khi các lực lượng của Anh vẫn đứng vững. Các lực lượng của Đức vẫn còn ở lại trong nồi “xúp de”, đang cố gắng mở rộng đường liên lạc về phía Đông. Thay vì các chỉ thị chiến lược hoặc các lực lượng tăng cường không bao giờ thấy đưa đến, ngày 15 tháng 8 chỉ thấy có một công điện hỏa tốc mang chữ ký của Hitler. Văn kiện ấy quy trách Thống chế Von Kluge về sự thất bại của cuộc phản công của Eberbach. Đấy là một mệnh lệnh trong ngày vẫn thường được thấy nơi Hitler, nhằm mục đích ghi vào “nhật ký hành quân”. Bản văn không có một giá trị quân sự nào, nhưng nó tỏ ra cần thiết để “viết lịch sử”.

Công điện ấy đã đến nơi cùng một ngày với cuộc đổ bộ của Đồng minh tại bờ biển Coted’Azur gần Saint-Tropez, Canne và Saint-Raphael. Sự suy đoán của Hitler như vậy đã tỏ ra sai lầm: phòng tuyến yếu kém tại Địa Trung Hải sụp đổ. Mãi đến ngày 17 tháng 8, Bộ Tư lệnh tối cao Quân lực mới tuyên bố sẵn sàng ra lệnh rút Binh đoàn G lui về phòng tuyến Orléans-Bourges-Montpellier. Nhưng cuộc điều quân này không thể thực hiện được bởi vì các mũi tấn công thiết kỵ thọc sâu, cứ mỗi lúc, mũi này vượt qua mũi kia trên cả hai mặt trận đổ bộ.

Người ta cũng còn ra lệnh cố thủ các “khu vực tăng cường”: khu vực sông Gironde phía Bắc và phía Nam, và khu vực La Rochelle; nỗ lực thoát ra khỏi vòng vây sắt thép càng ngày càng không ngừng thâu hẹp lại tại Falaise, của Lộ quân V thiết kỵ và Lộ quân VII, bị Hitler cấm chỉ ngày 15 tháng 8, trái với lời yêu cầu liên tiếp của binh đoàn B trong ngày 14. Chính lúc đó Thống chế Von Kluge quyết định tự mình ra lệnh.

Ngày 16 tháng 8, vào buổi chiều, không được Tổng Tư lệnh quân lực báo trước, Thông chế Model xuất hiện tại bản doanh La Roche-Guyon. Ông ta đã hành sử quyền Tư lệnh Binh đoàn Trung ương tại mặt trận miền Đông, sau khi toàn diện của mặt trận này sụp đổ vào ngày 20 tháng 6 và bị bắt buộc phải rút về Đông Phổ. Vào lúc ông ta được giao cho sứ mạng mới này, Hitler gắn lại cho ông chiếc huy chương thập tự sắt sáng loáng. Model đưa cho Von Kluge một bức thư do Hitler viết tay, trong đó ông ta tuyên bố rằng ông ta quyết định bổ nhiệm Thống chế Model làm Tư lệnh mặt trận miền Tây và Tư lệnh tối cao của Binh đoàn B. Thật vậy, ông ta có cảm tưởng rằng, tiếp theo các sự mệt nhọc quá sức trong các tuần lễ vừa qua, sức khỏe của Thống chế Von Kluge không còn thích nghi với trọng trách nữa.

Thái độ của Von Kluge trước mặt Model rất xứng đáng; trong cuộc bàn giao quyền hành, ông ta trình bày tất cả các sự câu thúc bao gồm trong chức vụ Tư lệnh. Điểm đau đớn duy nhất đối với ông là, ông ta nói, bị bắt buộc phải rời bỏ các chiến hữu, những người do lệnh của Hitler, đã đổ xương máu trong “nồi xúp de” Falaise. Ông cảm thông với sâu xa với họ cho đến hơi thở cuối cùng.

Ngày 18 tháng 8, lúc 5 giờ sáng, Von Kluge sau các cuộc từ biệt cảm động với bộ tham mưu chiến đấu thân yêu của ông, rời khỏi La Roche-Guyon, nơi đây cũng đã nằm trong tầm pháo binh và bích kích pháo của tiền phương lộ quân Hoa kỳ I. Đến giữa Verdun và Metz thống chế tự đầu độc chết. Một phiên tòa ngoạn mục, án tử hình bằng cách treo cổ chắc chắn là số phận sẽ dành cho ông. Người con trai và con rể của ông bị bắt tại gia đình và đưa đi mất.

Thống chế Von Kluge để lại một lá thư cho Hitler, đề ngày 18 tháng 8. Ông tóm tắt các nguyên nhân của sự sụp đổ không thể nào tránh được của mặt trận miền Tây. Ông ghi nhận, ngoài các sự kiện khác, rằng do ưu thế của các lực lượng đối phương, ông đã không có thể ngăn chặn địch quân chọc thủng phòng tuyến Avranches, bởi vì các lực lượng tiếp cứu đã được hứa, đã không bao giờ đến cả. Và các đề nghị chiến lược của ông đã bị gạt bỏ.

Riêng đối với cuộc phản công tại Mortain do Hitler ra lệnh, bất kể đến các sự phản kháng của ông, nó đã làm cho tình trạng binh đoàn B trầm trọng thêm vô phương cứu chữa. Von Kluge kết thúc bức thư bằng các lời lẽ sau: “nếu các vũ khí mới của ông không đạt được sự thành công nào, đặc biệt là trên không trung, thì ông phải chấm dứt chiến tranh… Dân tộc Đức đã đau khổ không thể tả xiết, đến nỗi, đã đến lúc phải chấm dứt các sự khủng khiếp này.”

Chú thích:

[1] 1. Gồm các đơn vị chiếm đóng tại phía Tây, Tây Nam và Đông Nam nước Pháp.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách