|
Chương 6
Rừng vắng riêng mình ta vò võ
6.3
Huyền điểu càng bay càng xa, nhưng tà áo đỏ kia vẫn đứng yên tại chỗ, đỏ đến nhức nhối cả mắt.
Mong rằng Xi Vưu sẽ hiểu cho nỗi khổ tâm của nàng mà đừng oán đừng giận, nhưng nếu hắn không hiểu thì sao? Có lẽ bọn họ chẳng nên dây dưa với nhau nữa, dù sao thì tên thật của nàng cũng là Hiên Viên Bạt.
Chẳng biết bao lâu sau, A Hành mới sực nhớ đến người đang đứng cạnh, cũng là vị hôn phu của nàng, Cao Tân Thiếu Hạo.
Nàng chẳng dám ngẩng lên, chỉ liếc thấy tà áo trắng của y bay phần phật trong gió, khiến nàng rối bời cả ruột gan.
Từ khi hiểu chuyện, nàng đã bao lần băn khoăn không biết Thiếu Hạo dáng vẻ ra sao, mỗi lần thấy thế Tứ ca lại cười cười an ủi nàng, nói tất cả đàn ông trong thiên hạ đều phải tự thẹn vì không bằng Thiếu Hạo. Nghe vậy nàng cứ cho là Tứ ca thổi phồng, mãi đến giờ mới biết, Tứ ca chẳng phóng đại chút nào.
A Hành im lặng, Thiếu Hạo cũng làm thinh.
Bầu không khí yên lặng kéo dài khiến A Hành lúng túng, nàng định cảm ơn y một tiếng, bèn lấy can đảm ngẩng đầu lên, nào ngờ đập vào mắt nàng là một gương mặt nhợt nhạt, còn chưa kịp cất lời, thân mình Thiếu Hạo đã rớt khỏi lưng Huyền điểu mà rơi xuống, Huyền điểu ré lên một tiếng thảm thiết, lập tức nhao theo cứu chủ, A Hành cũng vận linh lực, vô số sợi tơ từ áo nàng bay ra, níu lấy Thiếu Hạo.
Huyền điểu chở hai người đỗ xuống một khe núi không biết tên, A Hành phẩy tay gọt phẳng một phiến đá thành chiếc giường rồi đặt Thiếu Hạo lên đó.
Thiếu Hạo mạch tượng rối loạn, rõ ràng vừa bị thương. A Hành chỉ biết từ từ truyền linh lực của mình cho y để ổn định lại mạch tượng.
Mãi đến chập tối, mạch đập của y bình ổn lại, nàng mới dám thở phào nhẹ nhõm, lau mồ hôi trán.
Hèn chi nàng vừa nói đi là Thiếu Hạo đi ngay, té ra y sợ Vương Mẫu nhận ra mình bị thương. Nhưng trên đời này còn ai đủ bản lĩnh đả thương Thiếu Hạo đây? A Hành lo lắng nghĩ, hay tay ôm lấy chân, tì cằm lên đầu gối, chăm chú nhìn y.
Thiếu Hạo dung mạo thanh nhã, duy chỉ có đôi mày nghiêm nghị như ngọn núi sừng sững vạn thước bên trời Bắc, cô đơn ngạo nghễ, lạnh lẽo thâm trầm.
A Hành chợt nảy dạ tò mò, cặp mắt y phải thế nào mới trấn áp được dải núi nguy nga sừng sững đó nhỉ?
Đúng lúc nàng đang muốn nhìn, Thiếu Hạo bỗng mở bừng mắt, chỉ thấy hai mắt y tựa đôi dòng sông trong veo lặng sóng, sâu thăm thẳm như dải nước xanh ngàn dặm phương Nam, có thần thái tiêu dao của hải âu sải cánh giữa biển mây, vẻ lãng đãng khi ngắm ráng chiều mà nghe trống dồn tiêu vắng, cái êm ái của lông vũ mướt xanh hay của vạt áo mỹ nhân đỏ thắm, giữa muôn trùng sóng nước mênh mang ấy, cả dãy núi chót vót vạn thước kia cũng uyển chuyển mà đắm mình hòa lẫn vào nhau.
Bị Thiếu Hạo bắt quả tang đang ngắm y, A Hành đỏ bừng mặt, vội ngoảnh đầu quay đi.
Thiếu Hạo chẳng màng tới thương thế bản thân, còn quan tâm hỏi: “Làm nàng giật mình ư?”
Tây Lăng Hành khẽ đáp: “Đâu có.”
“Ta gọi nàng là A Hành như mấy vị ca ca nàng được chứ?” “Vâng.” A Hành ngập ngừng giây lát rồi hỏi, “Ai đả thương chàng thế?”
Thiếu Hạo trở mình ngồi dậy, “Là Thanh Dương.”
A Hành kinh ngạc nhìn y, “Gì cơ? Là Đại ca thiếp ư?”
Thiếu Hạo gượng cười, “Đại ca nàng đánh cuộc với ta, ai thua phải tới Ngọc sơn đón nàng.”
A Hành dở khóc dở cười, té ra màn anh hùng cứu mỹ nhân đó đâu có phải vì người đẹp, hơn nữa chẳng để cho nàng ăn dưa bở, y đã phải vội vã thanh minh ngay.
“Nàng bị giam cầm bao nhiêu năm như thế, có oán trách Đại ca không đoái hoài gì tới mình chăng?”
A Hành làm thinh không đáp, quả thật sáu mươi năm nay, nàng đã vô số lần thầm oán Đại ca.
“Biết nàng bị Vương Mẫu giam lỏng, mẫu hậu nàng giận tím mặt, viết thư nói với phụ vương nàng rằng nếu ngài không phái thuộc hạ đi đón nàng, bà sẽ đích thân lên Ngọc sơn đòi người, Thanh Dương phải giải thích rõ ngọn ngành, còn hứa sau sáu mươi năm nhất định sẽ đưa nàng về, mới xoa dịu được cơn giận của bà.”
A Hành xưa nay cứ ngỡ mẹ mình nghiêm khắc bảo thủ, nào ngờ bà lại nuông chiều nàng đến thế, bất giác cay cay khóe mắt.
Thiếu Hạo cười, “Thanh Dương để nàng ở lại Ngọc sơn sáu mươi năm đâu phải vì sợ Vương Mẫu mà chính vì thương thế của nàng đấy chứ. Lần trước nàng bị thương rất nặng, thủy linh của Quy khư chỉ giữ được mạng chứ không trị dứt được vết thương, ta đã phải cùng Thanh Dương đi khắp nơi lùng tìm linh đan diệu dược, nào ngờ cơ duyên xảo hợp, Vương Mẫu lại giam cầm nàng, Thanh Dương bèn quyết định tát nước theo mưa luôn. Ngọc sơn là thánh địa từ thời thượng cổ, linh khí rất hợp với nữ giới, trên núi lại có đào tiên ngàn tuổi, ngọc tùy vạn năm, vừa khéo điều dưỡng được thân thể của nàng.”
Hóa ra là vậy! Hẳn Xi Vưu cũng vì thế mà sáu mươi năm sau mới tới đón nàng xuống núi. Nghĩ tới đây, nàng sững sờ chẳng thốt nên lời, lòng ngổn ngang trăm mối.
Thiếu Hạo cười nói: “Nếu không vì thế, Tứ ca nàng đâu có chịu khoanh tay ngồi nhìn. Tuy Xương Ý tính nết ôn hòa nhưng rất mực cưng chiều em gái, dù Thanh Dương không ra tay, y cũng tự xoay xở nghĩ cách, chẳng hiểu sẽ gây ra những chuyện gì nữa.”
A Hành nhoẻn miệng cười tươi rói, “Tứ ca hiền lắm, chẳng bao giờ gây chuyện đâu.”
Thiếu Hạo lắc đầu cười, “Nàng chưa thấy Xương Ý nổi giận đấy thôi.”
“Chàng thấy rồi ư? Sao Tứ ca lại nổi giận?” Tây Lăng Hành kinh ngạc hỏi.
Thiếu Hạo đáp quấy quá: “Ta cũng chưa thấy, chỉ nghe nói thôi.”
A Hành hỏi: “Bây giờ Đại ca thiếp đâu?”
Thiếu Hạo cười đắc ý: “Hắn đánh ta bị thương thế này, ta đời nào để yên cho hắn? Hắn bị thương còn nặng hơn ta, chẳng cưỡi nổi tọa kỵ nữa, lại sợ bị phụ vương nàng phát hiện nên lấy cớ đi thăm mẫu hậu, chuồn về núi Hiên Viên dưỡng thương rồi.”
A Hành hỏi: “Chàng bị thương thế này, sao ban sáng còn dám nói cứng với Vương Mẫu thế?”
Ánh mắt Thiếu Hạo lóe lên ranh mãnh, “Việc binh chẳng nề gian trá, mà nói vậy cũng đâu phải là gạt Vương Mẫu! Nếu Vương Mẫu ra tay thật thì ta đánh bài chuồn, dù sao bà ta cũng chẳng thể xuống núi, không bắt được ta đâu!” A Hành ngớ người ra rồi phá lên cười. Thiếu Hạo vang danh thiên hạ hóa ra lại láu cá thế này ư!
Những ngượng ngùng giữa đôi bên cũng theo tiếng cười mà tan đi cả. Đương lúc đêm hè tháng Sáu, muôn ngàn ánh sao nhấp nháy trên nền trời đen thăm thẳm như đứa nhỏ mê mải chơi trốn tìm, loài hoa dại không tên nở đầy sơn cốc, bông xanh bông vàng chen nhau, thỉnh thoảng trong rừng vang lên tiếng cú rúc thê lương khiến màn đêm đượm phần rùng rợn, gió đưa hương cỏ cây ngan ngát khắp nơi làm người ta nhẹ nhõm vô cùng.
Thiếu Hạo đứng dậy định giục A Hành lên đường, nào ngờ nàng đã ngước lên khẽ năn nỉ: “Nán ngồi thêm lát nữa hãy đi được không? Sáu mươi năm nay thiếp mới lại được trông thấy quang cảnh này đó.”
Thiếu Hạo không đáp, chỉ lặng thinh ngồi xuống, rút bầu rượu ra vừa ngắm sao vừa uống.
A Hành chun chun mũi ngửi, nhắm nghiền mắt nói: “Đây là Điền tửu đất Điền.”
Bình sinh Thiếu Hạo có ba tuyệt kỹ – rèn sắt, ủ rượu, gảy đàn, thấy A Hành ngửi hương đoán rượu, y liền nhận ra ngay đồng đạo, “Không sai, hơn hai trăm năm trước ta mất bao công sức mới moi được bí quyết này từ một người dân Điền đấy.”
A Hành phụ họa: “Chín mươi năm trước thiếp qua đất Điền, lập tức mê tít rượu ở đó, nán lại cả năm trời vẫn chưa đã thèm, hùng tửu thì nồng đượm, thư tửu thì thanh khiết, uống riêng đã ngon, uống chung càng ngon hơn.”
Thiếu Hạo ngẩn người, ngạc nhiên hỏi: “Hùng tửu? Thư tửu? Sao ta chưa từng nghe rượu cũng chia ra thư hùng[3] nhỉ?”
[3] Hùng, thư: chỉ giống đực và giống cái.
A Hành cười đáp: “Thiếp tới đất Điền mới hay rượu cũng phân thư hùng đấy. Một cô gái rất giỏi nghề ủ rượu kể với thiếp rằng tổ tiên cô ấy vốn chỉ là một tiều phu đốn củi trong núi, tính mê rượu nhưng nhà nghèo chẳng có tiền mua nên cứ đau đáu nghĩ cách cất rượu từ cây cỏ hoa trái trên núi. Có chí thì nên, một hôm ông ta nằm mơ thấy cách cất rượu, cất được loại rượu ngon, chẳng những đậm đà thơm ngát mà còn bổ thân dưỡng thể. Ông ta dâng rượu lên Điền vương, được Điền vương hết lòng sủng ái. Nào ngờ long ân dồi dào lại khiến cho người ngoài ghen ghét, chúng dùng đủ cách đoạt lấy bí quyết cất rượu nhưng ông ta vẫn giữ kín như bưng. Về sau ông ta gặp một cô bán rượu, cũng rất giỏi nấu rượu, đôi bên kết thành vợ chồng ân ân ái ái, mấy năm sau sinh được một trai một gái. Ông ta tiết lộ cho vợ cách nấu rượu, bà vợ dựa theo đó nấu ra một loại rượu khác, hai loại rượu cùng một xuất xứ nhưng một cương một nhu, một nồng đượm một thanh khiết, vợ chồng họ nhờ rượu mà quen nhau, nhờ rượu mà thành hôn, lại cũng nhờ rượu mà khăng khít bền lâu. Đương lúc họ hạnh phúc vẹn tròn thì có kẻ dâng lên đại vương thứ rượu hệt như của họ nên dần dần họ bị thất sủng, còn bị người ta hãm hại, cả nhà rơi vào hiểm cảnh.
Ông chồng nghi ngờ bà vợ phản bội mình, bà ta không sao biện bạch, đành tự vẫn ngay trước vò rượu đang ủ, lấy cái chết tỏ lòng mình, máu biếc bắn đầy lên vò khiến đất vàng bịt miệng vò bị nhuộm đỏ thắm. Hạn dâng rượu lên đại vương đã cận kề, ông ta chẳng kịp ủ vò rượu mới, đành đem vò rượu đó dâng lên, nào ngờ đại vương uống xong vô cùng thích thú, nhờ đó mà bảo toàn được tính mệnh cả nhà, nhưng chẳng ai biết được vợ ông ta có tiết lộ bí quyết hay không nữa. Trải qua chuyện này, ông ta nguội lòng nản chí, bèn ẩn cư nơi hoang dã, cả đời không tục huyền, nhưng cũng không cho phép mai táng vợ trong phần mộ của gia tộc. Lúc thiếp gặp cô gái ủ rượu kia tại một quán rượu nơi thôn dã, câu chuyện đó đã trôi qua cả trăm năm, theo lời cô ấy, trước lúc lâm chung, bà cô ta vẫn khăng khăng với con gái rằng: ‘Không phải mẹ làm đâu.’ Vì bà cô ta, mẹ cô ta đã phải tủi hổ suốt đời trong dòng tộc, bị nhà chồng ruồng rẫy, nhưng vẫn ra sức giữ bí quyết mà mẹ mình truyền lại, bởi bà ta hiểu bí quyết cất rượu chính là kết tinh tâm huyết cả đời của người ủ rượu.”
Thiếu Hạo chăm chú lắng nghe, ánh mắt thoáng vẻ bi ai. A Hành kể tiếp: “Thiếp nghe cô ta thuật lại chuyện đó bèn nảy dạ tò mò, dùng linh lực tra xét khắp nơi, cuối cùng tìm được hậu nhân một nhà khác cũng có bí quyết kia.”
“Nàng tra được chân tướng rồi sao?” “Quả không phải người đàn bà thông tuệ khéo tay kia tiết lộ, mà là đứa con nhỏ lanh lợi của nhà đó. Lúc vợ chồng họ ủ rượu, cho rằng đứa con nhỏ dại chưa hiểu chuyện nên chẳng hề giấu giếm, nào ngờ thằng nhỏ rất giỏi bắt chước, lại theo nòi cha mẹ, lúc những trẻ khác còn vầy đất nghịch cát, nó đã biết lấy vò lấy lọ đựng cây cỏ học theo cha mẹ cất rượu. Tuy nó chỉ nghịch chơi nhưng lọt vào mắt một tay cất rượu nhà nghề, hắn chỉ cần đào sâu nghiên cứu là tìm ra bí quyết đó ngay. Sau khi bà ta tự vẫn, tuy tay cất rượu kia được vinh hoa phú quý cả đời nhưng lúc nào cũng thấp thỏm không yên, trước lúc lâm chung bèn thuật lại chuyện này cho con cháu.”
Thiếu Hạo thở dài hỏi: “Về sau thì sao?”
“Cô gái kia cảm kích thiếp giải giúp mối oan bèn tặng lại bí quyết đó cho thiếp,có điều thiếp chỉ biết uống chứ nào biết cất rượu, có cũng vô ích, để thiếp chép cho chàng.”
“Ta không hỏi cái đó, ta hỏi thi hài của người phụ nữ kia cơ? Chẳng phải nàng nói bà ta bị chôn ngoài đồng hoang đấy sao?”
A Hành liếc nhìn Thiếu Hạo, chợt thấy ấm lòng, y mê rượu nhường ấy mà vẫn lo tới người phụ nữ kia, không hề chăm chăm nghĩ tới bí quyết ủ rượu, bèn đáp: “Bọn họ đã tới bái tế trước phần mộ tổ tiên, kể rõ đầu đuôi câu chuyện rồi dời hài cốt bà ta vào phần mộ tổ tiên, kể rõ đầu đuôi câu chuyện rồi dời hài cốt bà ta vào phần mộ dòng họ, tuy nhiên không hợp táng cùng chồng mà chôn bên cạnh con trai con gái mình.”
Thiếu Hạo gật đầu rồi lại dốc bầu tu một hớp, “Chắc đây là hùng tửu?”
“Vâng. Dòng họ đó lấy làm hổ thẹn vì người phụ nữ kia nên không cất thư tửu, bởi vậy chẳng ai hay trên đời từng có một người phụ nữ ủ được thứ rượu ngon tuyệt trần, may mà con gái bà ta vẫn lén giữ lại được bí quyết này. Có điều nếu hiện giờ chàng qua đất Điền, có thể được nếm thư tửu rồi.”
Thiếu Hạo nghiêng bầu rót rượu xuống đất rồi nói với hư không: “Cùng nghề cất rượu, xin được kính cô nương một chén từ xa, cảm tạ cô đã để lại thư tửu đất Điền cho gã tửu khách như ta.” Y lại trao bầu rượu cho A Hành, “Cũng cảm tạ nàng đã để gã tửu khách là ta có cơ hội được nếm rượu của cô ấy.”
A Hành chẳng nề tiểu tiết, mỉm cười nhận lấy, hào sảng ngửa cổ tu một hớp, rồi trả lại cho Thiếu Hạo, “Rượu ngon, có điều ít quá.”
“Nhìn bầu rượu bé thế thôi, bên trong không ít đâu, bảo đảm đủ cho nàng say.”
A Hành liền giật bầu rượu lại, “Vậy thiếp chẳng khách sáo nữa đâu.” Nói rồi nàng tu liền ba ngụm, lim dim mắt rồi từ từ thở ra một hơi, mặt đỏ bừng ngây ngất.
Thiếu Hạo nhìn A Hành, ánh mắt thấp thoáng nét cười, “Tiếc rằng ta đi vội quá, quên đem đàn theo mất rồi.”
A Hành cười nói: “Mượn nhạc bồi rượu dĩ nhiên là thú vị, nhưng thiếp còn biết một cách khác, hay hơn cả đàn sáo nhã nhạc và người đẹp ca múa cơ.”
“Cách gì thế?”
“Kể chuyện. Chàng đã bao giờ vừa nghe chuyện vừa uống rượu chưa? Bôn ba mệt mỏi suốt dặm trường, được ôm bầu rượu ngon ngồi bên đống lửa giữa đồng hoang hay trên thuyền nhỏ cạnh bến sông, vừa uống vừa nghe mấy kẻ qua đường khề khà kể chuyện, bất kể là truyền kỳ ma quái hay là yên hận nhân gian, qua miệng họ đều thành ra vừa hấp dẫn vừa ấm cúng.”
Thiếu Hạo bật cười, chừng như cảm động vì câu nói của A Hành, ánh mắt y chợt trở nên chứa chan hoài niệm, “Hơn hai ngàn năm trước, có lần ta lạc tới tận vùng cực Bắc, ngàn dặm tuyết bay, vạn tầng băng phủ, giá lạnh thấu xương, tối đến trên trời không một đốm sao, dưới đất cũng chẳng thấy ánh đèn, bốn bề tối đen như mực, ta một mình dẫn bước, đột nhiên lòng dâng lên một cảm giác lạ lùng, không phải sợ hãi, mà là… Dường như cả đất trời chỉ còn lại mình ta, tựa hồ gió tuyết sẽ gầm rít mãi chẳng ngừng, con đường này đi hoài đi mãi cũng không tới đích. Đương lúc ta lầm lũi lê bước, chợt trông thấy xa xa thấp thoáng ánh đèn, ta dõi mắt nhìn theo, liền trông thấy…”
Thiếu Hạo nhìn A Hành, nuốt lại cái tên đã thốt ra tới miệng, kể tiếp, “Thấy một người thợ săn cáo tuyết đang trú trong căn lều băng được dựng vội vàng, vừa sưởi ấm vừa uống rượu. Được anh ta mời, ta liền bước vào ngồi xuống bên đống lửa, cùng anh ta uống thứ rượu dở tệ, nghe anh ta kể chuyện đi săn. Về sau mỗi khi ai đó hỏi ta thấy thứ rượu nào ngon nhất, chẳng hiểu sao ta đều nhớ tới bữa rượu đêm ấy.”
A Hành cười nói: “Chuyện của chàng hay đấy, đáng để chúng ta cạn ba chung lớn.” Nàng uống liền ba hớp rồi lại đưa bầu rượu cho Thiếu Hạo.
Tới lượt A Hành kể chuyện: “Năm đó, ta xuống núi chơi…”
Dưới trời sao lấp lánh, Thiếu Hạo và A Hành sánh vai ngồi trên phiến đá, người này một ngụm, người kia một hớp, cùng thưởng thức hùng tửu đất Điền nồng đượm, kể cho nhau nghe hết chuyện này sang chuyện khác, Thiếu Hạo từng trải lịch lãm, A Hành tinh tế thông minh, đôi bên khi cười nói, lúc lại làm thinh ngắm sao trời, chớp mắt đã qua một đêm.
Khi ánh bình minh rọi vào mắt hai người, A Hành nhoẻn miệng cười với tia nắng đầu ngày mỏng tựa cánh ve, thật khó tin rằng nàng lại cùng Thiếu Hạo chuyện gẫu thâu đêm, nhưng thực tình nàng thấy vui vẻ sáng khoái vô cùng. Bao năm nay, A Hành đã đặt bao kỳ vọng cùng âu lo vào hai chữ Thiếu Hạo, hơn nữa còn giấu kín không cho người khác biết, mỗi khi có ai nhắc tới nàng đều ra vẻ không màng, vậy mà sao bao nhiêu năm, hết thảy âu lo kỳ vọng ấy cuối cùng hóa thành một nỗi êm đềm từ sâu thẳm đáy lòng.
Khác với nàng, giữa ánh nắng đầu ngày rực rỡ, cặp mắt Thiếu Hạo bỗng trầm xuống như vừa tỉnh mộng, nét cười trong mắt tắt lịm, nhưng khóe miệng lại tươi cười.
Y mỉm cười đứng dậy, “Chúng ta lên đường thôi.”
A Hành chăm chú nhìn y, cảm thấy con người này khác hẳn nam tử cùng mình uống rượu chuyện trò đêm trước. Thiếu Hạo đêm qua hệt như kẻ hiệp khách ngang tàng, ngẫu nhiên gặp gỡ bên bờ dương liễu, có thể cùng chuốc chén, nói cười, thù tạc, nhưng sáng nay dưới ánh mặt trời, y lại giống bậc vương giả cô đơn sải bước trên con đường trước điện, đầy ẩn nhẫn, lạnh lùng và thâm trầm.
Nàng đành lặng lẽ theo sau y, đang định đặt chân lên lưng Huyền điểu, bỗng Thiếu Hạo ngước nhìn lên vách núi, cao giọng nói: “Các hạ quanh quẩn ở đó cả nửa đêm không đi, dám hỏi có chuyện gì đây?”
Là Xi Vưu ư? Tim nàng nhảy thót lên tới cổ họng, vội rảo bước chen lên trước, nào ngờ kẻ từ trong núi đi ra lại là Vân Tang.
A Hành kinh ngạc hỏi: “Sao tỷ lại ở đây?”
Vân Tang cười đáp: “Ta có mấy câu muốn hỏi Thiếu Hạo điện hạ, ai ngờ mải nghe hai người trò chuyện, chẳng nỡ nào quấy nhiễu.”
Thấy Thiếu Hạo nghi hoặc nhìn mình, A Hành vội giới thiệu: “Vị này là Đại vương cơ Vân Tang của Thần Nông.”
Thiếu Hạo tươi cười hành lễ, “Chẳng hay vương cơ muốn hỏi chuyện gì?”
Vân Tang đáp lễ nhưng do dự mãi chẳng thốt nên lời, dáng vẻ vô cùng bối rối. Thấy vậy, Thiếu Hạo động viên, “Vương cơ yên tâm, chuyện này nàng nói ta nghe, rời khỏi đây ta sẽ quên đi ngay.”
Vân Tang vội đáp, “Phụ vương rất hiếm khi khen ngợi ai, nhưng lại hết lời ca tụng điện hạ cùng Thanh Dương. Không phải tôi không tin điện hạ, chỉ là chuyện này nói ra quả có chút thất lễ.”
“Xin vương cơ cứ nói.”
“Trên Ngọc sơn, tôi có nghe nói điện hạ đã giam cầm Nặc Nại, chẳng rõ vì nguyên cớ gì? Nếu liên quan tới quốc sự Cao Tân thì xem như tôi chưa hỏi, nhưng nếu là việc riêng thì xin điện hạ cho tôi hay, biết đâu bên trong có chút hiểu lầm mà tôi giải quyết được chăng?”
Thiếu Hạo liền đáp: “Thật không dám giấu, quả là việc riêng.”
“A…” A Hành kinh ngạc bưng miệng nhìn Vân Tang rồi lại nhìn sang Thiếu Hạo. Lẽ nào y đã biết “vương cơ Hiên Viên” cùng Nặc Nại…
Thiếu Hạo nói tiếp: “Ta và Nặc Nại quen nhau từ nhỏ. Dù Cao Tân lễ giáo nghiêm ngặt nhưng y dung mạo tuấn tú, khó ngăn được các cô nương trẻ trung nhiệt tình đem lòng ngưỡng mộ, có điều y vẫn giữ đúng phép tắc, chưa từng vượt qua quy củ. Chẳng hiểu sao mấy năm gần đây lại thay đổi tâm tính, phong lưu đa tình, gây ra không ít điều tiếng. Tình cảm nam nữ là việc riêng tư, đáng ra chẳng nên hỏi tới, nhưng nghĩ tình thân thiết nên thường cũng bóng gió nhắc nhở, khuyên nhủ đôi câu, tiếc rằng càng nói y càng phóng túng hơn. Nặc Nại xuất thân từ Hy Hòa bộ, một trong Cao Tân tứ bộ[4], rất nhiều nhà quyền quý muốn gả con gái cho y, ấy vậy mà trong một lần say rượu, y lại hồ đồ đáp ứng việc chung thân.”
[4] Theo sách vở ghi lại thì bộ tộc của Thiếu Hạo chia ra làm bốn bộ: bộ Thanh Dương, bộ Hy Hòa, bộ Bạch Hổ, bộ Thường Hy, trong sách này đổi bộ Thanh Dương thành bộ Thanh Long, nguyên do thì sau này sẽ rõ .
“Gì cơ? Y đã đính ước rồi ư?” Sắc mặt Vân Tang thoắt chốc tái nhợt.
“Đâu chỉ là đính ước, mà còn sắp tới ngày cưới nữa kia. Nghe nói vương cơ học rộng hiểu nhiều, hẳn cũng biết quy củ hôn phối của Cao Tân rất nghiêm ngặt, tuy Nặc Nại say rượu hứa bừa nhưng hôn nhân đại sự chẳng phải chuyện chơi, y không thể nuốt lời được. Bởi thế hằng ngày y cứ vùi đầu trong rượu, say tràn cung mây, mặc cho người ta sắp xếp, thậm chí còn lè nhè cười khuyên ta nên sớm thành thân, dặn ta nhớ chăm lo cho thê tử thật tốt, có điều ta thấy thực lòng y không muốn cưới đối phương, đành phải gán đại cho y một tội danh, đem nhốt vào thiên lao, ít ra cũng hoãn được hôn sự của y lại.”
Ánh mắt Vân Tang lộ rõ vẻ hoảng hốt, vội gượng gạo hỏi: “Cô gái đó là ai vậy?”
“Chuyện liên quan tới danh dự của cô ấy, càng ít người hay càng tốt nên không tiện nói rõ, mong vương cơ bỏ quá cho.”
A Hành tức tối hỏi: “Sao lại thế được? Nặc Nại hồ đồ, lẽ nào gia đình kia cũng hồ đồ nốt, coi lời nói lúc say của y là thật ư? Vân Tang tỷ tỷ, chúng ta đi Cao Tân nói rõ với bọn họ!”
Thiếu Hạo liếc A Hành, làm thinh không nói. Vân Tang gượng cười, nhưng nhìn còn thảm hơn cả khóc, “Đâu có hồ đồ, gia đình họ quá khôn ngoan ấy chứ! Nặc Nại là tướng quân của Hy Hòa bộ mà họ cũng dám ‘bức hôn’, e rằng cô gái kia lai lịch chẳng phải tầm thường, không ở Thường Hy bộ thì ở Bạch Hổ bộ.” Nàng lại quay sang bảo Thiếu Hạo: “Điện hạ trì hoãn hôn sự, hẳn không chỉ vì nhận thấy y không muốn thành thân.”
Thiếu Hạo mỉm cười, cũng không phủ nhận, “Xưa nay nghe đồn Đại vương cơ Thần Nông huệ chất lan tâm, thông minh cao khiết, quả nhiên danh bất hư truyền.”
“Điện hạ có nắm chắc không?”
“Lễ giáo quy củ của Cao Tân tích lũy từ cả vạn năm nay, quả thực ta chẳng lấy gì làm chắc cả, đành được đến đâu hay đến đó mà thôi.”
“Hai người nói gì thế?” A Hành nghe cả hai nói chuyện cứ như vịt nghe sấm.
Vân Tang từ biệt Thiếu Hạo, gọi tọa kỵ Bạch Thước[5] của mình tới, đoạn mỉm cười kéo tay A Hành, quay sang nói với Thiếu Hạo: “Tôi có chút chuyện riêng muốn nói với vương cơ.”
[5] Bạch Thước, thời cổ còn gọi là bạch vũ thước (chim khách lông trắng), là loài chim lành, dáng vẻ đẹp đẽ, tính tình cao khiết, lông trắng muốt như tuyết.
Thiếu Hạo khoát tay tỏ ý cứ tự nhiên rồi chủ động lánh đi.
Còn lại hai người, Vân Tang dặn A Hành: “Muội đừng lo cho tỷ, chừng nào về Triêu Vân phong, nhớ thay tỷ hỏi thăm vương hậu nương nương.”
“Tỷ tỷ…” A Hành lo lắng nhìn nàng.
Từ nhỏ Vân Tang đã quen làm vẻ thản nhiên để che giấu nỗi buồn thương nên dù đau khổ thắt lòng, nàng vẫn bình tĩnh cười nói: “Ta không sao thật mà.” Nói rồi, nàng lại nhìn bóng Thiếu Hạo đằng xa, nói nhỏ: “Đừng cho Thiếu Hạo biết chuyện của ta và Nặc Nại nhé.”
“Sao thế tỷ? Muội sợ Thiếu Hạo…”
“Không đâu, Thiếu Hạo rất tốt, tốt vô cùng, có điều ta e rằng y quá tốt với muội thì phải! Muội nên để ý mọi chuyện một chút, câu gì có thể không nói thì đừng nói ra. Phải nhớ rằng sống trong vương tộc, rất nhiều chuyện thoạt nhìn có vẻ đơn giản, thật ra chẳng đơn giản chút nào đâu.”
A Hành nghe hiểu láng máng, thoáng ngẩn người ra rồi khẽ hỏi: “Tỷ tỷ, Xi Vưu đã về Thần Nông chưa?”
“Ta không biết. Lúc ấy ta canh cánh chuyện kia trong lòng nên cũng chẳng lưu ý, muội hỏi ta mới nhớ, tính nết Xi Vưu xưa nay nói dễ nghe thì là lãnh đạm, nói khó nghe thì là tàn nhẫn, chẳng màng tới chuyện gì, vậy mà hôm qua đột nhiên lại hỏi ta đủ chuyện về muội và Thiếu Hạo, nào là đính ước khi nào, tình cảm ra sao…” Vân Tang chăm chú nhìn A Hành, “Giờ đến lượt muội hỏi thăm hắn, không lẽ muội và hắn… có chuyện gì à? Ta còn không biết hai người quen nhau từ bao giờ nữa đó.”
A Hành thở dài, “Nói ra thì dài lắm, trước đâu giấu giếm là vì sợ tỷ phạt hắn đấy thôi. Sau này từ từ muội sẽ kể với tỷ.”
“Ta phạt hắn ư?” Vân Tang hừ một tiếng, cười khổ: “Tính hắn như thế, trời không ràng đất không buộc nổi, ai mà dám chọc vào? Hắn đừng làm phiền tới ta là ta đã tạ trời tạ đất rồi.” Dứt lời, Vân Tang bước lên lưng Bạch Tước, “Ta đi đây, ngày sau sẽ khảo tiếp chuyện của muội cùng tên ma đầu kia, nhưng ta nói muội nghe, gã Xi Vưu ấy không trêu vào được đâu, tốt nhất muội nên tránh xa hắn ra.” Nàng cười với A Hành rồi tha thướt bay lên.
“A Hành, chúng ta cũng lên đường thôi.” Thiếu Hạo tươi cười chìa tay mời nàng ngồi lên lưng Huyền điểu, nhưng nụ cười ôn hòa mà khách sáo ấy lại khiến nàng thấy xa cách vô cùng, tựa vầng trăng trên trời vậy, dù sáng tới đâu cũng chẳng có nổi chút hơi ấm. A Hành bắt đầu cảm thấy mọi chuyện tối qua như một giấc mơ, Thiếu Hạo cùng nàng uống chung bầu rượu, nói cười tán gẫu thâu đêm dưới trời sao lấp lánh hình như cũng chỉ là tưởng tượng của nàng thôi.
Dọc đường, cả hai đều yên lặng, mãi tới rạng sáng, khi về đến Hiên Viên sơn, Thiếu Hạo mới quay sang nói với nàng: “Ta chẳng có việc gì cầu kiến nên không tiện lên núi, chỉ đưa được nàng tới đây thôi.”
A Hành khẽ đáp: “Đa tạ chàng.”
Thiếu Hạo cười: “Cảm ơn nàng đã tặng ta bí quyết ủ rượu, lần sau có dịp, ta sẽ mời nàng uống thư tửu ta tự cất.” Nói rồi y ngẩng đầu nhìn lên núi: “Người hầu tới đón nàng rồi kìa, gặp lại sau nhé.” Vừa nói, y vừa cưỡi Huyền điểu bay vút đi.
Xe mây đã đỗ xuống bên cạnh, đám thị nữ quỳ xuống mời vương cơ lên xe.
A Hành cứ ngơ ngẩn như không nghe thấy, ngẩng đầu đăm đắm trông theo tà áo trắng càng lúc càng bay xa giữa ánh tà dương đỏ rực, dần dần chỉ còn lại một đốm trắng, rồi đốm trắng đó cũng tan vào ráng chiều rực rỡ, nhưng phong thái tựa nước Nam non Bắc của y vẫn như còn rành rành trước mắt nàng.
Hết chương 6. |
|