Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 6157|Trả lời: 67
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Khác] Một Số Tác Phẩm Khác Của Arthur Conan Doyle | Arthur Conan Doyle

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả



Tên tác phẩm: Một số tác phẩm khác của Arthur Conan Doyle
Tên tác giả: Arthur Conan Doyle
Thể loại: Trinh thám, giả tưởng, phiêu lưu...
Tình trạng sáng tác: Hoàn thành
Nguồn tác phẩm: vnthuquan.net
Link: Cập nhật sau
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 18-9-2011 21:42:02 | Chỉ xem của tác giả
List truyện :

A. Tấn thảm kịch tàu Korosko
Tổng cộng 10 chương - Đã xong - từ 3# đến 21#


B. Vành đai khí độc

Tổng cộng 6 chương - Đã xong - từ 22# đến 33#

Không kiếm được cái bìa khác đẹp nên đành đưa bìa cuốn The Lost world vào...
C. Tập truyện giả tưởng :

                                                                         01. Những hầm mộ mới
                                                                         02. Vị giáo sư của trường Lea House
                                                                         03. Sự việc xảy ra như thế nào ?
                                                                         04. Hồn ma hiện lên từ đáy biển
                                                                         05. Sự khủng khiếp giữa trời cao
                                                                         06. Vụ án B24
                                                                         07. Tên tử tù bất tử
                                                                         08. Câu chuyện về Sannox phu nhân
                                                                         09. Lô số 249
                                                                         10. Cuộc thí nghệm li kì tại Keinplatz
                                                                         11. Chiếc nhẫn giải thoát
                                                                         12. Hang Blue John
                                                                         13. Cái tháng máy
                                                                         14. Chiếc phễu bằng da
                                                                         15. Bàn tay nâu
                                                                         16. Con mèo Brasil
                                                                         17. Chơi với lửa
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 07:43:10 | Chỉ xem của tác giả
A. Tấn thảm kịch tàu Korosko


Chương 1

Có lẽ công chúng sẽ tự hỏi tại sao các báo chí không bao giờ kể lại câu chuyện những hành khách trên tàu Korosko. Ở vào một thời đại như thời đại của chúng ta, khi mà các hãng thông tin, báo chí nhìn soi mói vào khắp vũ trụ để tìm tòi những chuyện giật gân, thật không thể tin được là sự bí ẩn đã che đậy được lâu như vậy một sự cố quốc tế có tầm quan trọng như thế. Ta đành phải nói rằng sự kín tiếng này đã có cơ sở trên những lý do hết sức giá trị, cả về mặt chính trị lẫn về mặt riêng tư. Tuy nhiên, một số người nào đó đã biết rõ các sự việc, một lập luận của những người này đã xuất hiện ngay cả trong một nhật báo tỉnh lẻ và nó đã lôi theo ngay tức thì một bài cải chính. Bây giờ đây là những sự việc được ghi chép dưới dạng một bài thuật sự. Sự chính xác của chúng được bảo đảm bởi những lời khai báo được đưa ra qua sự tuyên thệ của đại tá Cochrane Cochrane, thuộc câu lạc bộ Lục quân và Hải quân, bởi các lá thư của cô Adams, ở Boston, Mass, cũng như bởi lời khai chúng thu lượm được trong quá trình điều tra mật của chính phủ được thực hiện ở Le Caire với đại úy Archer, và những lính cưỡi lạc đà người Ai Cập. Ông James Stephens đã khước từ việc thông báo cho chúng tôi lập luận về sự vụ của ông ấy trên giấy trắng mực đen; nhưng vì các bản in thử của tập sách này đã được gửi cho ông ấy xem, vì ông ấy đã không đưa ra một sự đính chính hay xóa bỏ nào, chúng tôi có quyền giả thiết là ông ấy đã không nêu ra được một sự sai trái cụ thể nào, và những sự phản kháng của ông ấy đối với sự công bố của chúng tôi đã xuất phát phần lớn từ những sự thận trọng, áy náy riêng tư.

Tàu Korosko có một cái bụng chìm dưới nước hình mai rùa, mũi tàu phình ra, phần lái tàu tròn, tầm nước là tám mươi cen-ti-mét và trắc diện bằng một cái bàn là (bàn ủi). Ngày 13 tháng 2 năm l895, nó nhổ neo từ Shellal, ở gần thác nước thứ nhất, để đi tới Quadi-Halfa. Tôi có được bản danh sách những hành khách của chiếc tàu tuần dương này; đây là bản danh sách đó:

Ðại tá Cochrane Cochrane  ________________Luân đôn

Ông Cecil Brown ________________________Luân đôn

John H Headingly _______________________Boston, Hoa kỳ

Cô Adams_____________________________Boston, Hoa kỳ

Cô S. Adams___________________________Worcester, Mass, Hoa kỳ

Ông Fardet____________________________Paris

Ông và Bà Belmont______________________Dublin

James Stephens ________________________Manchester

Giáo sĩ John Stuart______________________ Birmingham

Bà Shlesinger,cô vú em và 1 đứa nhỏ________Florence

Ðó là những du khách khởi hành từ Shellal, với ý định là đi ba trăm ba mươi cây số ngược dòng sông Nil của nước Nubie, quãng sông ngăn cách thác nước thứ nhất và thác nước thứ hai.

Nước Nubie này, một xứ sở kỳ lạ! Chiều ngang của nó thay đổi trong khoảng vài cây số và vài mét, vì cái tên của nó chỉ được dùng cho một dải đất hẹp cầy cấy được. Với một màu xanh lục, không có bề dày và với những cây cọ mọc bao quanh, nó chạy dài ở mỗi bên của con sông rộng màu cà phê. Ở tít xa kia, trên bờ thuộc nước Libye, là chỗ khởi đầu của sa mạc hoang dã chạy dài trên suốt bề ngang của Châu Phi. Trên bờ bên kia, một phong cảnh cũng hoang vu như vậy tỏa rộng ra tới mãi Hồng Hải xa xôi. Nằm vào giữa hai miền mênh mông cằn cỗi này, nước Nubie trải dài ra dọc theo con sông như một con giun đất xanh rì. Ở nhiều chỗ nó bị đứt đoạn: tại đó sông Nil chảy vào giữa, những hòn núi đen xì và rạn nứt vì trời nắng; những đụn cát di động màu cam là vật để trang trí cho các thung lũng. Ở khắp nơi người ta phát hiện ra các dấu vết của những giống người đã mất tích và những nền văn minh đã bị chìm ngập. Những ngôi mộ kỳ dị in dấu trên các sườn đồi hoặc nổi bật lên trước chân trời; các Kim Tự Tháp, những mộ xây bằng đá, những khối đá dùng làm mộ chí, nhưng ở khắp mọi nơi, toàn là mồ mả. Nơi này, nơi nọ, khi con tàu đi vòng quanh một mũi đất có nhiều núi, người ta nhìn thấy ở trên đỉnh cao một thành phố bỏ hoang, những cái nhà, những bức tường thành, những bờ lũy; ánh nắng xuyên qua các cửa sổ hoặc các lỗ hổng vuông. Người ta biết rằng thành phố đã được xây dựng bởi người La-mã, hoặc bởi người Ai Cập; có điều là tên nó và nguồn gốc của nó đã bị mất đi không còn cứu vãn được. Người ta thấy sửng sốt; người ta tự hỏi tại sao một giống người, dù họ là giống người nào đi nữa, lại đi xây dựng trong một cảnh hoang vắng thô lỗ như thế này. Người ta phải chấp nhận một cách khó khăn, cái thuyết theo đó thì các kiến trúc này không có mục đích nào khác hơn là bảo vệ lối vào vùng đồng bằng phì nhiêu chống lại bọn đạo tặc và bọn man rợ ở miền Nam. Nhưng dù sao thì chúng vẫn còn đứng nguyên, những thành thị im lìm và dữ tợn này; và ở đỉnh các ngọn núi, ta có thể nhìn thấy những nấm mộ ở đó các cư dân của chúng đã được chôn cất, nhìn từ xa chúng giống như những cửa sổ nhỏ của một chiếc thiết giáp hạm. Ðó là miền bí ẩn, không sinh khí mà những du khách đi ngược dòng sông tới biên giới Ai Cập đã đi qua trong lúc vừa hút thuốc, vừa nói chuyện dông dài, vừa tán tỉnh nhau.

Những hành khách trên tàu Korosko đã rất ăn ý với nhau. Họ đã tất cả cùng nhau đi gần hết đoạn đường từ Le Caire tới Assouan; sông Nil có khả năng làm xúc động được tất cả mọi thứ lãnh đạm kể cả thứ bền bỉ nhất: sự lãnh đạm của dân Anh. Họ đã có một dịp may bất ngờ: nhóm họ đã không có một kẻ tính nết khó chịu, một kẻ mà ở trên một con tàu nhỏ cũng đủ làm hỏng sự vui thích của mọi người. Trên một chiếc tàu chỉ quan trọng hơn chiếc tàu phụ lớn đôi chút thì một kẻ quấy rầy, một kẻ trơ tráo, một kẻ càu nhàu làm mưa làm gió với tất cả hành khách. May mắn thay chiếc Korosko đã không chở trên tàu một người nào giống như một kẻ quấy rầy cả. Ðại tá Cochrane Cochrane, một trong các sĩ quan mà chính phủ Anh, đúng như qui luật, đã tuyên bố là không có khả năng trong ngành hiện dịch ở một độ tuổi nào đó, và đã chứng tỏ giá trị của qui luật bằng cách cống hiến phần còn lại của đời họ để đi thám hiểm nước Maroc hay đi săn bắn sư tử ở Somalie. Nước da nâu, đứng rất ngay ngắn, ông đại tá đã tự ý biểu hiện lối xã giao lễ độ, nhưng cái nhìn của ông có vẻ lạnh lùng của một nhiệm vụ điều tra; rất kỹ càng trong lối ăn mặc, chính xác trong các thói quen, ông là một người quí phái tới tận đầu móng tay. Thực hành sự chán ghét của người Anh đối với việc thổ lộ tâm tình, ông đã tự giới hạn mình trong một sự thận trọng mà thoạt nhìn có vẻ như sự lãnh đạm thờ ơ, nhưng đôi khi ông thấy khó chịu phải che dấu lòng tốt và những tình cảm của con người là những thứ có ảnh hưởng tới các hành động của ông. Ðối với những bạn đồng hành của ông, ông đã gợi lên nhiều sự tôn kính hơn là lòng cảm mến; thật sự tất cả mọi người đều có cảm tưởng rằng ông không phải là người để cho sự liên hệ trong một chuyến tàu nảy sinh ra thành tình bạn. Tuy nhiên, một khi đã được đồng ý thì tình bạn này sẽ trở thành một bộ phận của bản thân ông. Râu mép ông đã lốm đốm bạc, trông rất ra vẻ nhà binh, nhưng ông giữ được mái tóc đen một cách khác thường ở vào tuổi ông. Trong khi trò chuyện không bao giờ ông nhắc tới rất nhiều chiến dịch trong đó ông đã tỏ ra xuất sắc; ông giải thích sự kín đáo này bằng cách nói rằng chúng đã diễn ra từ hồi khởi đầu kỷ nguyên của Nữ hoàng Victoria, và ông đã hiến tế sự vinh quang về binh nghiệp của ông lên bàn thờ của thời thanh xuân bất diệt của ông.

Ông Cecil Brown (tôi lấy các danh tính theo thứ tự của bản danh sách) là một nhà ngoại giao trẻ tuổi thuộc về một tòa đại sứ ở trên lục địa; chưa hoàn toàn đoạn tuyệt hẳn với phong thái ở Oxford, ông đã phạm phải chút ít lỗi lầm vì sự tỉ mỉ thái quá, nhưng sự nói chuyện của ông thì rất thú vị và chứng tỏ một trình độ văn hóa vững chắc. Ông có một bộ mặt xinh đẹp, buồn bã, một bộ ria mép nhỏ mà ông bôi sáp một cách kỹ càng ở các đầu chót, một giọng nói trầm trầm, và một sự lơi là về tâm tính mà một lối mỉm cười duyên dáng đủ đền bù lại mỗi khi ông đi quá trớn trong tính tình kỳ lạ của ông. Ông đã cố gắng kiềm chế những nhiệt tình ấu trĩ rất tự nhiên của ông bằng một sự hoài nghi có tính cách đùa cợt; trong trạng huống này ông bất chấp sự thật hiển nhiên để nói ra những ý nghĩ làm phật lòng người vừa mới gặp. Trong chuyến du hành, ông đã mang theo những sách của Walter Pater, và suốt cả ngày ông ngồi lại trong căn lều vải với một cuốn tiểu thuyết và một cuốn tập vẽ để bên mình, trên một cái ghế đẩu. Tư cách riêng của ông đã không cho phép ông tán tỉnh làm quen với những người khác, nhưng nếu các bạn đường của ông muốn tới nói chuyện với ông, thì ông tỏ ra vừa lịch sự, vừa khả ái.

Những người Mỹ đã lập thành một nhóm riêng biệt. Vốn quê quán ở Nowvelle-angletrre và tốt nghiệp tại Harvard (một đại học danh tiếng ở Mỹ), John H Headingly bổ sung sự học vấn của mình bằng cuộc du lịch thế giới. Ông đã tượng trưng một cách toàn hảo cho người thanh niên Mỹ, sinh động, có đầu óc quan sát, nghiêm túc, thèm khát sự hiểu biết, và gần như không bị các thành kiến trói buộc, sôi động với một tình cảm đẹp đẽ về tôn giáo, không một chút đầu óc bè phái hẹp hòi, ông giữ đầu óc lạnh lùng ở giữa những cơn giông tố thình lình của tuổi thanh xuân. Ông có vẻ kém trí thức hơn nhà ngoại giao của Oxford, nhưng thật sự ra ông còn trí thức hơn nữa, vì những cảm xúc sâu sắc hơn của ông đã bù lại cho những kiến thức ít phần chính xác. Cô Adams là cô của cô Sadie Adams : một người con gái già ở Boston, nhỏ bé, đầy nghị lực, với bộ mặt khó thương, cô đã đè nén một cách khó khăn sự trìu mến lớn lao chưa bao giờ được dùng tới; đây là lần đầu tiên cô rời khỏi nước Mỹ, và trong tất cả các nhiệm vụ có một nhiệm vụ làm cô say mê, kéo Ðông - Phương lên ngang hàng với Massa Chusetts. Vừa mới đặt chân lên đất Ai Cập, cô đã thấy rằng nước này cần được khai hóa; cô lo lắng về chuyện này một cách nóng nảy. Những con lừa lưng bị tróc da, những con chó đói, những con ruồi bám quanh mắt lũ trẻ nhỏ, những đứa bé trần truồng, những kẻ hành khất quấy rầy, những người đàn bà quần áo tả tơi, tất cả đều như thách thức lương tâm cô; do đó cô đã dũng cảm lao mình vào một công cuộc cải cách. Tuy nhiên vì cô không nói được một chữ của ngôn ngữ bản xứ. và vì cô không thể làm cho người ta hiểu được cô, nên chuyến đi ngược dòng sông Nil của cô đã để Ðông - Phương ở lại gần như trong tình trạng mà cô đã phát hiện ra nó, nhưng ngược lại đã cung cấp cho các bạn đồng hành của cô nhiều đề tài để vui đùa. Cháu gái Sadie của cô, người đã cùng chia sẻ với bà Belmont danh dự là nữ hành khách được ưa chuộng nhất trên tàu Korosko, không phải là người cuối cùng thích bông đùa giải khuây về chuyện này. Rất trẻ, vừa mới rời khỏi trường Smith College, cô còn giữ được phần lớn những tính tốt và tính xấu của tuổi ấu thơ, cô có một sự thành thật và một niềm tin hơi ngây thơ, sự ngay thẳng ngây thơ, sự dũng cảm, và cả tính nói nhiều và sự bất kính của lứa tuổi cô, nhưng ngay các tính xấu này cũng làm người ta vui thích, càng vui thích hơn khi mà cô con gái cao lớn và xinh đẹp này có vẻ già hơn là tuổi tác thật sự của cô, vì những lon tóc thấp viền quanh tai cô và những đường nét no đầy của thân mình cô. Tiếng xột xoạt của váy cô, giọng nói cương quyết và thành thật, tiếng cười vui tai của cô bao giờ cũng được hoan nghênh trên tàu Korosko. Ông đại tá biểu lộ tính lịch sự hào hiệp với cô, và nhà ngoại giao của Oxford thôi không còn hoa mĩ lòe loẹt khi cô Sadie Adams ngồi bên cạnh ông.

Chúng tôi sẽ nói ngắn gọn hơn về những hành khách khác. Có vài người tỏ ta đặc sắc hơn những người khác, nhưng tất cả bọn họ đều đứng đắn và có tư cách đàng hoàng. Ông Fardet, một người Pháp hiền hòa mặc dầu có tính hay tranh luận, chủ trì những định kiến liên quan tới các mưu đồ chính trị của nước Anh, và sự bất hợp pháp của vị thế của nước này tại Ai Cập. Ông Belmont, một người Ái-nhĩ-lan khỏe mạnh với mái tóc hoa râm, là người đã thắng hầu hết các cuộc thi bắn súng ở Wimbledon và Bisky; ông mang theo bà vợ, một người đầy sức quyến rũ và đài các, rất tao nhã, và vui vẻ một cách tế nhị như tính tình mọi người dân ở Ái Nhĩ Lan. Bà Shlesinger, một goá phụ ở độ tuổi trung bình, hiền hòa và nhu mì, người chỉ chăm chú vào đứa con sáu tuổi của mình. Giáo sĩ John Stuart là một vị mục sư phi quốc giáo ở Birmingham, thuộc trưởng lão giáo phái hay tự trị giáo đoàn. Ông được tạo hóa phú cho một sự phì nộn đáng nể kèm theo một sự chậm chạp lề mề; ông cũng có một cái vốn hài hước giản dị, mà theo những tin tức tôi được biết, đã làm cho ông trở thành một nhà truyền giáo thành công và một diễn giả hữu hiệu khi ông nói trên các diễn đài cực cấp tiến, mặc dù ông bị bệnh suyễn.

Sau hết là ông James Stephens một luật sư ở Manchester (một người trong số các cộng sự viên của hãng Hickson, Ward và Stephens), người đi du lịch để làm tiêu tan hết các hậu quả của một bệnh cúm tệ hại. Stephens là người tự thân lập thân, ông đã bắt đầu từ việc lau rửa những hòn gạch vuông của công ty trước khi điều khiển công việc, trong ba mươi năm trời, ông đã tận tụy với một công việc khô khan, chuyên môn, và ông chỉ sống để làm vừa lòng những thân chủ cũ và lôì kéo những thân chủ mới. Tinh thần và linh hồn ông đều thấm nhuần chủ nghĩa hình thức và sự nghiêm ngặt của luật pháp mà ông có nhiệm vụ phải giải thích. Tuy vậy tính tình của ông cũng không thiếu sự cao cả và lòng trắc ẩn; nhưng các đức tính này đã bắt đầu tàn úa, cũng như tất cả các tính tốt của con người đã tàn úa ở chốn thị thành. Ông làm việc theo thói quen, và sống độc thân, ông không quan tâm tới một điều gì khác; tâm hồn ông đã chai lì, giống như thân mình một vị nữ tu thời Trung Cổ đôi khi ngẫu nhiên ông bị đau ốm, tạo hóa đã xô đẩy, tống xuất ông ra khỏi nơi ẩn náu của ông, và ném ông vào thế giới bao la, xa cách Manchester và cái thư viện đầy những chứng điển, tiền lệ được đóng bằng da bê. Lúc đầu ông rất nhớ tiếc cái thư viện đó. Rồi dần dà mắt ông được mở rộng, và ông cảm thấy một cách mơ hồ rằng công việc của ông quá tầm thường bên cạnh cái vũ trụ kỳ diệu, đa dạng, không thể giải thích được này, mà ông đã không biết gì tới. Ngay cả có lúc ông đã tự hỏi liệu cái lúc ngưng nghỉ này trong nghề nghiệp của ông có thể tỏ ra quan trọng hơn chính bản thân nghề nghiệp của ông không. Những lợi ích mới tràn ngập lòng ông, và vị luật gia gần năm mươi tuổi này cảm thấy trong ông bùng lên những ngọn lửa cuối cùng của một thủơ thanh xuân mà việc đọc quá nhiều sách vở đã làm tắc nghẹt. Ông rất ương bướng không chịu nhìn nhận rằng các phong cách của ông lúc nào cũng khô khan, khúc chiết và ông đã dùng một ngôn ngữ hơi mô phạm. Tuy nhiên ông đẵ đọc, đã suy ngẫm và nhận xét; ông gạch ngang dưới hàng chữ và ghi chú sách của Bredeker, cũng như thời trước ông đã gạch ngang dưới hàng và ghi chú các sách về luật của ông. Ông đã lên tàu ở Le Caire, và ông đã kết thân với cô Adams và cháu gái cô ấy. Lối nói năng thành thật và sự mạnh dạn của cô thiếu nữ Mỹ làm ông thích thú; để đáp lại, Sadie đã dành cho ông sự kết hợp của lòng tôn trọng và lòng thương do các kiến thức và các sự giới hạn của ông. Thế là họ trở thành những người bạn thân, và người ta mỉm cười khi nhìn thấy bộ mặt u ám của vị luật sư và khuôn mặt rạng rỡ của cô thiếu nữ cúi xuống trên cùng một quyển sách chỉ nam.

Con tàu Korosko nhỏ bé chạy ngược dòng sông Nil trong khi tung lên những luồng khói và bọt nước. Với năm hải lý một giờ, nó đã gây ra nhiều tiếng ồn và nhiều trắc trở hơn là một con tàu xuyên Ðại Tây Dương lúc ganh đua giành kỷ lục. Trên boong tàu, dưới tấm lều vải dày, cái tiểu gia đình của các hành khách ngồi ở đó, thường thường là sau vài giờ đồng hồ, con tàu tấp vào bờ để cho hành khách thăm viếng một loạt các đền đài mới thấy. Nhưng các cảnh hoang tàn đã trở nên mỗi lúc mỗi kém cổ kính đi, những du khách là những người đã được thỏa mãn ở Gizeh và Sakara khi ngắm nghía những đền đài cổ xưa nhất được con người xây dựng lên, đã bắt đầu chán nản với những ngôi đền mới có nhiều lắm là vào lúc khởi đầu kỷ nguyên cơ đốc giáo. Ở Ai Cập, người ta khó tìm ra những cảnh hoang tàn mà ở bất cứ nước nào khác đã là một nơi được sự sùng bái lạ thường. Do đó các du khách chỉ có những cái nhìn uể oải dành cho nghệ thuật nửa phần Hy Lạp của những hình chạm nổi ở Nubie; họ leo lên chóp đỉnh của tàu Korosko để xem cảnh mặt trời mọc trên sa mạc hoang vu của Ðông Phương; họ đồng tình cảm phục ngôi đền lớn Abon-Simbel, vì một chủng tộc cổ xưa đã đào vào một quả núi như đào một cục phô mai vậy. Sau cùng, buổi chiều của ngày thứ tư trong cuộc du hành, họ tới Quadi-Halfa, thành phố biên thùy, với vài giờ chậm trễ gây ra bởi một sự trục trặc nhỏ trong các máy móc. Quadi-Halfa cũng là một thành phố có quân trú phòng. Sáng hôm sau, họ phải đi du ngoạn trên núi Abousir lừng danh, ở đó người ta có được một cái nhìn tuyệt mĩ trên thác nước thứ hai. Lúc tám giờ rưỡi, khi các hành khách đang ngồi trên boong sau bữa ăn tối, thì Mansoor, người thông ngôn, một người Syrie lai ở Copte, đi tới để loan báo, như mỗi buổi tối, chương trình của ngày hôm sau.



(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 07:54:02 | Chỉ xem của tác giả
Chương 1 (Tiếp)

Anh ta nói :

- Thưa các quí bà và các quí ông, ngày mai xin quí vị chớ quên thức dậy vào tiếng kẻng đầu tiên để cho cuộc du ngoạn được kết thúc vào buổi trưa. Khi chúng ta tới chỗ những con lừa đang chờ đợi chúng ta thì chúng ta sẽ cưỡi chúng để đi sâu vào sa mạc tám cây số; chúng ta sẽ đi qua trước một ngôi đền của Ammonra, đã có từ triều đại thứ mười tám, rồi chúng ta sẽ tới núi Abousir mà sự lừng danh là độc nhất vô nhị. Khi quí vị tới nơi, quí vị sẽ thấy rằng quí vị đang ở chỗ ranh giới của nền văn minh, ngoài ra, đi thêm vài cây số xa hơn nữa, quí vị sẽ thấy mình ở trong xứ sở của các tu sĩ Hồi giáo; quí vị sẽ rõ điều này khi quí vị lên tới ngọn núi cao. Từ trên đó, quí vị sẽ thấy rõ thác nước thứ hai trong một khung cảnh gồm đủ mọi vẻ đẹp hoang dại của thiên nhiên. Tất cả các danh nhân trên thế giới đều đã khắc tên tuổi họ trên đá; vậy xin quí vị đừng bỏ qua nghi lễ này...

Mansoor chờ đợi một tiếng cười nhỏ bị kìm hãm lại; anh ta nghiêng mình khi nghe thấy tiếng cười.

-...Quí vị sẽ trở lại Quadi-Hafta sau đó, ở đó quí vị sẽ trải qua hai giờ với đàn quân lạc đà; quí vị sẽ dự khán sự trải lông các con vật, quí vị sẽ đi một vòng ở hiệu tạp phẩm. Tôi kính chúc quí vị một đêm vui vẻ và tốt đẹp.

Những cái răng trắng ởn của anh ta lóng lánh trước ánh đèn; rồi cái quần dài sậm màu, cái áo vét ngắn may theo kiểu ăng-lê và cái khăn bịt đầu đỏ của anh ta nối tiếp nhau mà biến dạng ở chân cầu thang. Tiếng rì rầm nói chuyện, mà sự xuất hiện của anh ta đã làm gián đoạn, lại tiếp nối rôm rả hơn.

CÔ Sadie Adams nói:

- Ông Stephens ạ, tôi trông cậy vào ông để biết được mọi thứ ở Abousir. Tôi rất thích biết rõ vật mà tôi nhìn khi tôi đang nhìn nó, chớ không phải sáu giờ sau đó trong phòng của tôi trên tàu. Chẳng hạn, tôi đã không nhớ được bao nhiêu về Abon-simbel và những bức bích họa, mặc dù hòm qua tôi đã nhìn thấy chúng.

"Tôi thì không bao giờ hy vọng biết được chuyện gì" bà cô của nàng nói. "Khi tôi trở về bình an vô sự trong Ðại lộ Commonwealth, và khi không còn anh thông ngôn nào để xô đẩy tôi, tôi sẽ có nhiều thì giờ để đọc sách, lúc đó tôi có thể say mê và mong muốn trở lại nơi này. Nhưng ông Stephens ạ, ông thật sự rất đáng yêu khi đã cố gắng cung cấp các tài liệu cho chúng tôi".

"Tôi nghĩ rằng bà và cô muốn có vài tin tức chính xác vì vậy tôi đã soạn thảo cho bà và cô một bản tóm tắt nhỏ" Stephens trả lời và đưa cho Sadie một tờ giấy.

Nàng liếc mắt nhìn vào tờ giấy dưới ánh sáng của ngọn đèn trên boong tàu và tiếng cười trẻ trung của nàng lan ra thành một tràng cười lớn.

Nàng đọc.

- Re Abousir! Này ông hiểu từ Re là cái gì hả ông Stephens? Ông đã viết "Re Ramses II" trên tờ giấy cuối cùng mà ông đã đưa cho tôi mà!

Stephens nói.

- Cô Sadie ạ, đó là một thói quen mà tôi mắc phải. Một tục lệ trong nghề nghiệp mà tôi làm khi người ta viết một giác thư.

- Một cái gì hở ông Stephens?

- Một giác thư... Một bị vong lục, nếu cô thích vậy. Chúng tôi viết Re này hay Re nọ, để chỉ ra vật gì mà chúng tôi nói tới. "Tôi cũng muốn tin rằng đó là một phương pháp tốt", Sadie nói, "Nhưng đối với tôi nó có vẻ hơi lạ, khi nó được áp dụng vào các phong cảnh hay vào các vị hoàng đế Ai Cập Re Cheops... Ông không thấy như thế là buồn cười à?"

- Không, tôi không thể nói là tôi thấy nó buồn cười.

Cô thiếu nữ nói lẩm bẩm:

- Tôi tự hỏi có phải người Anh có ít tinh thần hài hước hơn người Mỹ không, hoặc có phải đó là một dạng hài hước khác chăng?

Nàng có một lối phát biểu ý kiến trầm tĩnh, trừu tượng, nàng cho người ta một cảm tưởng là nàng suy tưởng rất cao xa.

-...Tôi tin rằng họ có ít tính hài hước hơn, nhưng khi người ta suy nghĩ kỹ thì Dickens, Thackeray, Barrie và một số các nhà văn hài hước khác mà chúng ta cảm phục đều là người Anh. Hơn nữa, ở rạp hát, tôi chưa từng bao giờ nghe một công chúng cười lớn hơn là công chúng ở Luân Ðôn. Nghe đây: chúng tôi có ở đằng sau chúng tôi một khán giả mà mỗi lúc ông ta cười đã gây ra một luồng không khí mạnh đến nỗi cô tôi phải quay lại để nhìn xem có phải một cái cửa đã bị để ngỏ không. Nhưng ông đã sử dụng một vài thành ngữ buồn cười đấy, ông Stephens ạ!

- Cô Sadie, cô còn thấy cái gì buồn cười nữa?

- Này nhé, khi ông gởi cho tôi cái vé vào thăm ngôi đền và tấm thiệp nhỏ ông đã khởi đầu lá thư: "Kèm theo đây, xin vui lòng tìm ra...". Và ở cuối lá thư, ông đã ghi giữa hai ngoặc đơn "Hai tấm vé đính liền nhau".

- Thưa cô, đó là những công thức hiện hành trong các việc giao dịch.

"Trong các việc giao dịch!", Sadie nhắc lại, giả bộ làm ra vẻ nghiêm trọng.

Một sư yên lặng đột ngột.

"Có một điều mà tôi mong muốn!" cô Adams dõng dạc nói với một dạng cứng cỏi và lanh lảnh để che dấu trái tim hiền dịu của cô. "Ðó là việc được gặp Quốc hội của nước này và được trình bày với họ một số sự việc. Một đạo luật bắt buộc việc sử dụng thuốc đau mắt nước sẽ là một trong các kiến nghị của tôi. Một kiến nghị nữa là hủy bỏ những thứ mạng che mặt mày, là thứ đã biến đổi các phụ nữ thành những kiện bông có dùi lỗ để làm hai mắt"

Sadie nói :

- Tôi không hiểu tại sao họ lại đeo mạng che mặt. Cho tới ngày mà tôi thấy được một người kéo mạng che mặt của cô ta lên. Lúc đó thì tôi đã hiểu!

Cô Adams bực bội kêu lên.

- Họ làm tôi mệt mỏi, những người phụ nữ này! Cũng như truyền giảng về nghĩa vụ, về phép lịch sự và về sự thanh khiết cho một khúc gỗ vậy! Còn nhớ không, ông Stephens mới hôm qua thôi ở Abou-simbel, tôi đi qua trước một trong các căn nhà của họ (nếu ông có thể gọi là căn nhà cái đống bùn đó); tôi thấy hai đứa bé con trên bậc cửa với một đống ruồi thường lệ chung quanh hai mắt chúng, và những lỗ thủng lớn trên những cái áo dài nhỏ bé, nghèo nàn, màu xanh của chúng! Tôi từ trên con lừa tụt xuống; tôi xắn tay áo lên; tôi lấy khăn mùi xoa lau mặt cho chúng; tôi khâu lại áo cho chúng. Trong xứ sở này, khi lên khỏi tàu giá để tôi mang theo một hộp đồ may vá chắc còn tốt hơn là mang theo một cái dù trắng, ông Stephens ạ! Thế là tôi phấn khởi với công việc và tôi đi vào trong nhà. Cái nhà mới tệ làm sao! Tôi lùa những người ở trong đó ra ngoài và tôi dọn dẹp như một cô đầy tớ. Tôi đã không còn nhìn thấy đền Abou-Simbel như là tôi đã chưa bao giờ rời khỏi Boston. Ngược lại, tôi đã trông thấy nhiều bụi bặm và cáu bẩn trong một căn nhà lớn như một cái buồng tắm ở New York, hơn là trong bất kỳ một căn hộ nào ở Mỹ. Giữa cái khoảnh khắc mà tôi xắn tay áo lên với cái khoảnh khắc mà tôi ra đi, với bộ mặt đen như đám khói này, đã không mất hơn một giờ đồng hồ; có lẽ tối đa là một tiếng rưỡi! Nhưng tôi đã để lại cái nhà này sạch sẽ cũng như một cái hộp mới. Tôi có mang theo một tờ báo New York Herald tôi trải nó lên trên cái kệ của họ. Và này, ông Stephens, tôi đi rửa tay ở bên ngoài, và khi tôi trở vào, lũ trẻ con vẫn còn những con mắt bám đầy ruồi, và chúng không thay đổi gì cả, trừ việc mỗi đứa đội trên đầu một cái mũ nhỏ của lính sen đầm làm bằng tờ báo New York Herald của tôi. Nhưng Sadie này, sắp mười giờ rồi, và cuộc du ngoạn ngày mai khởi hành sớm đó!

"Thật là tuyệt đẹp, bầu trời đỏ tía và những ngôi sao lớn bàng bạc!" Sadie lẩm bẩm nói "Hãy nhìn bãi sa mạc im lìm, và những bóng đen của các ngọn núi. Thật là đáng sợ!" Nhưng cũng khủng khiếp nữa. Khi người ta nghĩ rằng chúng ta đang thật sự ở chỗ rìa của nền văn minh, như anh thông ngôn vừa mới nói, không có gì khác hơn là sự man rợ và máu chảy tràn trề ở nơi xa kia mà chòm sao chữ thập chiếu sáng một cách quá đẹp này; người ta có cảm tưởng là đang đứng trong thế thăng bằng trên miệng một ngọn núi lửa!"

"Suỵt, Sadie! con ơi, chớ có nói nhảm nhí!" người cô kêu lên. "Con có thể gây ra mối lo sợ cho những ai nghe thấy con nói đó".

- Nhưng cô ơi, chính cô không cảm thấy điều đó à? Hãy nhìn bãi sa mạc lớn này, nó biến mất trong đêm tối mịt mù. Cô hãy nghe tiếng sì sào buồn bã của cơn gió đang thổi bên trén! Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một quang cảnh thiêng liêng hơn!

- Cô lấy làm sung sướng là sau cùng chúng ta đã tìm thấy một điều gì làm cho cháu trở nên trang nghiêm, cháu thân mến ạ! Ðôi khi cô nghĩ... nhân danh những người còn sống, điều đó là gì vậy?

Từ một nơi nào đó giữa các bóng đen của những ngọn núi, ở phía bên kia mặt nước, một tiếng kêu sắc nhọn vang lên. Tiếng kêu vút lên trên bầu trời đầy sao, và chấm dứt bằng sự tắt nghẹn đi trong một thứ rên rỉ ai oán.

"Ðó chỉ là một con chó rừng, cô Adams ạ" Stephens giải thích. "Tôi đã nghe thấy một con chó rừng kêu như vậy khi chúng tôi đi xem tượng Sphinx dưới ánh trăng sáng.

Nhưng cô gái Mỹ đã đứng lên, nét mặt cô biểu lộ một sự bối rối sâu đậm.

Cô nói.

- Nếu có một chuyến du lịch nữa, cô sẽ không xuống quá phía bên kia Assouan. Cô không biết cái gì đã xui khiến cô đưa cháu đến tận nơi này, Sadie ạ, mẹ cháu sẽ nghĩ rằng cô đã hoàn toàn điên rồ, và nếu có một sự cố rắc rối nào xảy ra thì chắc không bao giờ cô còn dám nhìn thấy mặt mẹ cháu nữa. Cô đã nhìn thấy trên con sông này tất cả những gì mà cô muốn nhìn; cô muốn quay trở về Le Caire ngay.

Sadie phản đối:

- Ô kìa. cô ơi! Nhút nhát như vậy thật chẳng giống cô một chút nào!

- Sadie này, cô không biết cô có những tính gì, nếu không phải là những dây thần kinh bị căng thẳng, và cái con thú kêu meo meo ở đằng kia là quá lắm rồi. Cô tự an ủi khi nghĩ rằng ngày mai chúng ta sẽ quay về sau khi xem ngọn núi này hoặc ngôi đền này, cô không biết hơn nữa. Cô đã chán ngấy với núi non và đền đài rồi. Ông Stephens ơi! Tôi sẽ rất sung sướng nếu tôi không nhìn thấy thêm một trái núi, một ngôi đền nào nữa trong suốt đời tôi. Lại đây, Sadie! Chúc ngủ ngon!

- Chúc ngủ ngon! Chúc ngủ ngon, Cô Adams!

Bà cô và người cháu gái trở về phòng của họ.

Ông Fardet thầm thì to nhỏ nói chuyện vãn với Headingly, chàng thanh niên vừa tốt nghiệp ở Harvard giữa hai hơi thuốc lá, ông cúi khom người xuống để giải bày tâm sự với ông ta.

"Những tu sĩ Hồi giáo à, ông Headingly?" ông nói với một thứ tiếng Anh tuyệt hảo, nhưng thường tách rời các vần như phần lớn những người Pháp. "Nhưng không có các tu sĩ Hồi giáo đâu. Những tu sĩ Hồi giáo không hiện hữu mà!".

Ông người Mũ trả lời:

- Tôi thì tôi tin rằng sa mạc đầy rẫy các tu sĩ Hồi giáo đó. Ông Fardet ném một cái nhìn xéo tới chỗ mà đóm lửa đỏ của điếu xì gà của đại tá Cochrane đang lập lòe trong bóng tối mù mịt. Ông nói lẩm bẩm.

- Ông là người Mỹ, và ông không thích người Anh. Tất cả mọi người trên lục địa đều biết rằng người Mỹ hận thù người Anh.

- "Thú thật" Headingly nói với một giọng thong thả và chín chắn.

"Tôi không chối cãi là chúng tôi đã có những xích mích nhỏ, và một số người trong các đồng bào của tôi nhất là những người gốc gác Ái Nhĩ Lan, là những người bài Anh một cách điên cuồng; tuy nhiên đại đa số người Mỹ không nghĩ một điều gì xấu về mẫu quốc. Ðôi khi những người Anh có thể làm chúng tôi tức giận, nhưng họ là người trong gia đình chúng tôi, không bao giờ chúng tôi quên điều đó."

Ông người Pháp nói:

- Cho là thế đi! Ít nhất tôi đã có thể thổ lộ tâm tình với ông vì tôi không thể nói thế với những người khác mà không làm họ phật ý. Và tôi nhắc lại rằng không làm gì có những tu sĩ Hồi giáo. Những tu sĩ Hồi giáo đã được bịa đặt ra bởi Lord Cromer năm 1885.

Headingly kêu lên.

- Ông nói năng không nghiêm chỉnh đấy!

- Ðó là một việc ai cũng biết ở Paris; nó đã được công bố bởi tờ La Patrie và những nhật báo thạo tín khác.

- Nhưng chuyện này là quan trọng đó! ông Fardet này, có phải từ việc này ông muốn nói rằng cuộc bao vây Khartoun và cái chết của Gordon, và tất cả những chuyện còn lại đều thuộc về một sự bịp bợm lớn lao không?

- Tôi không chối cãi là một vụ bạo động đã xảy ra, nhưng vụ đó chỉ là một sự cố địa phương, ông hiểu chứ? Một sự cố đã bị quên lãng từ lâu rồi. Từ đó nước Soudan đã được hưởng một nền hòa bình thật sự.

- Nhưng, thưa ông Fardet, tôi có nghe nói về những vụ cướp bóc và tôi đã đọc những báo cáo về các trận đánh nhau nữa, khi người Ả Rập toan tính xâm chiếm Ai Cập. Ngày hôm kia chúng ta đã vượt khỏi Toski; anh thông ngôn đã nói cho chúng ta biết là một trận đánh đã diễn ra ở đó. Việc này cũng là bịp bợm?

- Hừm, ông bạn của tôi ơi, ông không biết người Anh đâu! Ông nhìn thấy họ hút ống píp và nét mặt rạng rỡ, rồi ông nói: "Ðây thật là những người dũng cảm, những con người giản dị, những người không làm thương tổn cả đến một con ruồi!" Nhưng lúc nào họ cũng đắn đo suy nghĩ, họ rình rập, họ thảo ra những kế hoạch. "Ðây là nước Ai Cập yếu kém, họ nói. Chúng ta hãy tới đó!"

và họ chồm vào nước này như một con chim âu chồm lên một miếng bánh. Cả thế giới lên tiếng phản kháng. "Các ông không có quyền gì trên nước Ai Cập. Các ông cút đi!" Nhưng nước Anh đã bắt đầu thiết lập trật tự khắp nơi, giống hệt như cô Adams tốt bụng kia khi cô ấy chiếm cứ căn nhà một người Ả Rập. "Các ông cút đi!". mọi người trên thế giới nhắc lại câu nói "nhất định rồi, nước Anh đáp lại. Hãy đợi một phút thôi, để tôi có thì giờ làm cho tất cả đều sạch sẽ và gọn ghẽ". Rồi thế giới chờ đợi trong một năm hay hai năm, rồi họ lại nhắc nhở "Các ông hãy cút đi!" Và nước Anh lại trả lời: "Hãy kiên nhẫn một chút: có sự lộn xộn ở Khartoum; khi nào sự yên tĩnh được vãn hồi, tôi sẽ rất hài lòng để đi khỏi". Và thế giới kiên nhẫn chờ đợi. Nhưng khi sự lộn xộn ở Khartoum đã chấm dứt, thế giới lại đòi nước Anh phải ra đi. Nước Anh hỏi: "Làm sao tôi có thể ra đi khi còn những vụ cướp bóc và những trận chiến đang diễn ra? Nếu tôi đi khỏi thì Ai Cập sẽ làm mồi cho lũ man di!" Và thế giới lấy làm kinh ngạc: "Không có những vụ cướp bóc, không có cả những trận đánh nhau!" Lúc đó nước Anh nói: "À, không có thật à?" Và trong tuần lễ sau đó báo chí của họ đã tràn đầy những bài tường thuật về các trận đột kích và các cuộc chinh phạt của các tu sĩ Hồi giáo. Không phải tất cả chúng tôi đều mù, ông Headingly ạ! Chúng tôi hiểu rất rõ cách thức người ta xếp đặt các công việc: một vài tên Bédonins, một khoản tiền thưởng nhỏ, nhưng viên đạn không đầu chì, và hãy chú ý một vụ cướp bóc!

"Ðược, được!" ông người Mỹ nói "Tôi lấy làm hân hạnh, được biết sự thật về vụ này, vì nó thường làm cho tôi quan tâm tới, nhưng trong vụ này thì nước Anh được lợi lộc gì?"

- Thưa ông, một đất nước.

- Tôi biết. Ông muốn nói là chẳng hạn là có một quan thuế biểu ưu đãi cho các hàng hóa của nước Anh phải không?

- Thưa ông, không ạ. Quan thuế biểu giống nhau cho tất cả mọi nước.

- Vậy thì hẳn là người Anh đã ký được các hợp đồng?

- Thưa ông, đúng như vậy.

- Thí dụ con đường sắt mà người ta làm dọc theo con sông và nó chảy ngang qua nước này đã là đối tượng một hợp đồng béo bở cho một công ty Anh phải không?

Ông Fardet có đầu óc tưởng tượng, nhưng ông ấy là người thật thà.

- Thưa ông, đó là một công ty của người Pháp đã ký được hợp đồng làm con đường sắt.

Ông người Mỹ ngạc nhiên, ông nói:

- Người Anh không có vẻ là đã kiếm được nhiều lợi lộc so với những khó khăn mà họ phải gánh chịu. Nhưng cuối cùng họ cũng phải hưởng được một vài mối lợi gián tiếp, chẳng hạn chắc chắn là Ai Cập phải trả tiền phí tổn cho tất cả những binh lính mặc y phục màu đỏ đó ở Le Caire chứ gì?

- Thưa ông, Ai Cập à? Không, những binh lính đó do nước Anh trả lương.

- Ðược rồi, không phải nhiệm vụ của tôi để nói với người Anh rằng họ làm cách nào để điều hành các quyền lợi của họ, nhưng tôi có cảm tưởng là họ tự làm khổ mình rất nhiều cho những thứ chẳng đáng bao nhiêu ! Nếu họ thích duy trì trật tự và bảo vệ biên cương với giá một cuộc chiến liên miên chống lại các tu sĩ Hồi giáo, thì tôi không hiểu tại sao có người lại lấy việc này ra để công kích. Sự thịnh vượng của đất nước đã gia tăng một cách đáng kể từ khi họ đến đây: những bản thống kê về sự thu nhập đã chứng tỏ điều này. Người ta cũng bảo đảm với tôi rằng hiện nay những dân nghèo đã được thừa nhận quyền lợi, điều này chưa từn bao giờ đã đến với họ.

"Nhưng nếu vậy thì họ ở đây làm gì?" ông người Pháp tức tối la lên. "Họ hãy trở về hải đảo của họ đi! chúng ta không thể dung thứ được việc họ cứ lan tràn như vậy trên khắp thế giới".

- Dĩ nhiên là người Mỹ chúng tôi, chúng tôi sống ở nước chúng tôi trên mảnh đất của riêng chúng tôi, chúng tôi thấy khó chịu phải nhìn nhận rằng các ông, những dân tộc âu châu, lúc nào các ông cũng tràn lan, vào những nước khác là những nước hoàn toàn xa lạ với các ông. Tất nhiên chúng tôi dám mạnh miệng nói như vậy, vì dân tộc chúng tôi có nhiều đất đai hơn sự cần thiết. Khi nào chúng tôi bắt đầu thặng dư dân số, chúng tôi cũng sẽ phải tiến hành các cuộc thôn tính. Nhưng hiện giờ thì chỉ riêng ở Bắc Phi thôi đã thấy nước Ý ở Abyssinie, nước Anh ở Ai Cập, nước Pháp ở Algerie...

Ông Fardet nói lớn tiếng:

- Nước Pháp! nhưng Algerie là thuộc về nước Pháp! Thưa ông, ông cười à? Tôi rất hân hạnh chúc ông một đêm ngủ ngon!

Bực bội trong lòng tự tôn ái quốc bị xúc phạm, ông đứng dậy đi về phòng mình.



______Hết chương 1______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 07:56:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 2

Người đàn ông Mỹ ngẩn ngơ một lát ông muốn lên bộ để gửi bưu điện bài tường thuật về những cảm tưởng trong chuyến du hành mà ông thường gửi hàng ngày cho chị gái ông, nhưng những điếu xì gà của đại tá Cochrane và Cecil Brown vẫn còn đỏ lập lòe ở đầu bên kia của boong tàu, và ông thì lúc nào cũng rình rập để lấy các tin tức. Ông không biết cách làm thế nào xen vào cuộc đàm thoại của họ, nhưng ông đại tá đã đẩy lại phía ông một cái ghế đẩu và gọi ông.

- Headingly, lại đây! Ðây là nơi lý tưởng cho một sự giải độc. Tôi tin chắc rằng Fardet vừa mới nói với ông về chính trị.

"Tôi luôn luôn nhận ra lối đề cập tới vấn đề chính trị quốc tế của ông ấy, chỉ cần trông thấy ông ấy cúi vai xuống để xông vào những cuộc bàn bạc thân mật", nhà ngoại giao sang trọng nói. "Nhưng đó là một sự xuẩn ngốc quá chừng vào một buổi tối như tối hôm nay! Mặt trăng mọc trên sa mạc thế này hứa hẹn với chúng ta một bầu trời đêm kỳ diệu màu xanh và trắng bạc. Trong một bản nhạc của Mendel-Sohn đã có một tình cảm hình như bao gồm được tất cả những điều đó: một sự cảm xúc về vô biên, về sự nhắc nhở, tiếng gió hú bên các khoảng không vô tận. Âm nhạc là nghệ thuật diễn dịch các cảm hứng vi diệu mà các từ ngữ không diễn tả được".

Ông người Mỹ đã ra nhận xét:

- Ðêm hôm nay tôi thấy phong cảnh có vẻ man rợ hơn, dữ tợn hơn bao giờ hết. Nó cho tói cảm giác của một sức mạnh tàn nhẫn, giống hệt như Ðại Tây Dương vào một ngày lạnh lẽo và u ám của mùa đông. Có lẽ cảm giác này nảy sinh ở việc là chúng ta biết rằng chúng ta đang ở chỗ ranh giới cùng cực của tất cả các loại pháp luật và các nền văn minh. Thưa đại tá Cochrane, theo ý ông thì chúng ta còn cách những tu sĩ Hồi giáo bao xa?

Vị đại tá trả lời.

- Trên mạn bờ thuộc Ả Rập, chúng ta có đồn binh Ai Cập ở Sarras vào khoảng sáu mươi cây số về phía Nam của chúng ta. Bên ngoài nơi đó là những miền đất rất hoang vu nằm dài một trăm cây số trước mặt đồn canh của các tu sĩ Hồi giáo ở Akashek. Nhưng ở bờ bên kia thì không có một vật gì giữa họ và chúng ta.

- Abousir nằm ngay trên bờ bên đó phải không?

- Phải. Ðó là lý do tại sao hồi năm ngoái chuyến du hành đã bị ngăn cấm. Nhưng bây giờ thì sự yên tĩnh đã trở lại.

- Ai có thể ngăn không cho bọn tu sĩ Hồi giáo tràn vào nơi này?

"Hoàn toàn không có gì cả"!. Cecil Brown đáp lại với một giọng hững hờ.

- Không có gì cả, ngoại trừ sự sợ hãi. Chắc chắn là họ có thể đến không khó khăn gì! Nhưng sự trở về sẽ nguy hiểm hơn: những con lạc đà kiệt sức của họ sẽ là những mồi ngon cho những con ngựa khỏe mạnh của đạo quân đồn trú ở Ouadi-Halfa. Họ cũng biết rõ điều này như chúng ta vậy : đó là lý do tại sao không bao giờ họ dám liều lĩnh làm việc đó.

Brown nói lớn:

- Suy luận về một cảm giác sợ hãi của những tu sĩ Hồi giáo là một điều không hợp lý. Không bao giờ chúng ta được quên rằng họ không tuân theo các động lực giống như những dân tộc khác. Họ đông người và mong mỏi được chết, và họ nhất trí tin tưởng một cách mù quáng vào định mệnh, người ta có thể coi họ là một sự ngoan cố tột cùng của tất cả các điều dị đoan, và chính đó là bằng chứng cho thấy sự cuồng tín và dị đoan đã dẫn con người thẳng tới tình trạng man rợ!

Ông người Mỹ hỏi:

- Ông có tin rằng dân tộc này tiêu biểu cho một sự đe dọa thật sự đối với Ai Cập không? Tôi đã từng nghe thấy nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này, chẳng hạn như ông Fardet, ông ấy không nghĩ rằng mối hiểm nguy là rất cấp bách.

Ðại tá Cochrane trả lời, sau một sự yên lặng ngắn ngủi.

- Tôi không phải là người giàu có, nhưng tôi sẵn sàng đánh cuộc tất cả những gì mà tôi có là trong ba năm sau khi các sĩ quan Anh đi khỏi, những tu sĩ Hồi giáo sẽ tới bờ biển Ðịa Trung Hải. Lúc đó thì nền văn minh Ai Cập sẽ ra sao? Hàng trăm triệu bạc đã được đầu tư vào nước này sẽ ra sao? Và những đền đài mà cả thế giới đều ngưỡng mộ và sùng kính và đó là những công trình quí giá nhất của cổ thời sẽ ra sao?

Headingly cười lớn phản đối:

- Này, ông Ðại tá! Không phải là ông cũng định nói rằng họ sẽ phá hủy các Kim Tự Tháp đấy chứ?

- Không thể đoán trước được là họ sẽ làm gì! Không có một kẻ bài trừ thánh tượng nào lại điên cuồng hơn là một tên Hồi giáo cuồng tín. Trong cuộc xâm nhập cuối cùng của họ vào Ai Cập, các tu sĩ Hồi giáo đã đốt cháy thư viện ở Alexandrie: Ông biết rằng kinh Coran đã cấm đoán tất cả mọi sự hình dung cái mặt của con người. Do đó dưới mắt họ một pho tượng là một vật chống tôn giáo. Và bọn người man rợ này coi các cảm tính của Âu Châu như một điều xui xẻo. Ngược lại: họ càng lăng nhục chúng thì họ càng khoan khoái. Tượng Sphinx sẽ bị hạ xuống, pho tượng Colorse sẽ bị hạ xuống! Giống hệt như ở nước Anh, trước các quân lính của Cromwell, các vị thánh đều bị quăng xuống đất.

"Ta hãy xét kỹ một chút" Headingly nói với sự chậm chạp chín chắn của ông ấy. "Ta hãy chấp nhận rằng bọn tu sĩ Hồi giáo có đủ khả năng chinh phục Ai Cập và ta cũng chấp nhận là người Anh các ông ngăn cản họ làm việc đó. Nhưng vì lý do nào mà các ông chi ra nhiều triệu đô la đó và các ông hy sinh bao nhiêu sinh mạng người Anh như vậy? Các ông kiếm được bao nhiêu lợi lộc hơn là nước Pháp, nước Ðức hoặc bất cứ một nước nào không gánh chịu một sự rủi ro nào và không tiêu tốn một xu nào?

Cecil Brown trả lời:

- Nhiều người Anh hiền lành cũng đặt ra câu hỏi như vậy. Theo ý tôi thì từ khá lâu rồi chúng tôi đã là những viên cảnh sát của thế giới: chúng tôi đã quét sạch bọn kẻ cướp và bọn buôn nô lệ khỏi các đại dương; hiện nay chúng tôi giải phóng trái đất khỏi tay các tu sĩ Hồi giáo và tất cả những lũ giặc cướp đe dọa nền văn minh. Nếu những người Kurdes quấy rối trật tự công cộng ở Tiểu Á-tế-á, nhân dân trên thế giới muốn biết rằng tại sao Anh Quốc lại không trừng trị họ. Nếu xảy ra một cuộc binh biến ở Ai Cập hay ở Soudan, cũng vẫn là Anh Quốc có nhiệm vụ dẹp tan nó. Và tất cả công việc đó giữa những lời nói xấu cùng một giọng điệu khắp nơi, giống như một nhân viên cảnh sát đã nghe thấy khi anh ta bắt giữ một tên côn đồ trong một ngõ hẻm tối tăm. Chúng tôl chỉ nhận được những lời nói xấu và không có một lời cám ơn nào. Tại sao phải kiên trì như thế? Tốt nhất là ta nên để cho Âu Châu tự mình hoàn thành cái công việc bạc bẽo này.

"Thú thật là" đại tá Cochrane nói trong khi bắt chéo chân lên và khom mình về phía trước với vẻ cương quyết của một người đã có một ý kiến vững vàng "tôi không đồng ý với ông một chút nào, ông Brown ạ! và tôi cho rằng sự hẹp hòi trong lý luận của ông không phù hợp với những bổn phận của Anh Quốc. Tôi nghĩ rằng đằng sau các quyền lợi quốc gia, đằng sau công việc ngoại giao và tất cả mọi thứ còn lại, còn có một mãnh lực chủ đạo nữa (thực sự là một thiên mệnh) là điều từ xưa vẫn luôn luôn gạn lọc lấy phần tinh hoa nhất của mỗi dân tộc và dùng nó để làm điều tốt đẹp cho cả loài người. Khi một dân tộc thôi không tuân theo điều này tức là nó đã cằn cỗi để nằm trong cơn bệnh hoạn vài ba thế kỷ, như kiểu nước Tây Ban Nha hay nước Hy-Lạp: đó là vì những phẩm chất tốt đã rời bỏ họ, một người hay một quốc gia không phải chỉ được sinh ra trên trái đất này để làm việc gì thích thú hay việc gì mang lại lợi lộc. Thường khi người ta đòi hỏi chúng ta phải làm những việc vừa buồn chán, vừa tốn kém, nhưng nếu công việc là chính đáng thì chúng ta phải tiến lên và không lẩn tránh... "

Headingly gật đầu tán thành.

-... Mỗi nước có một sứ mạng riêng của mình ! Nước Ðức thì vượt trội trong tư tưởng trừu tượng; nước Pháp thì trong văn chương, trong nghệ thuật và sự thanh lịch. Nhưng các ông và chúng tôi (tất cả những người nói tiếng Anh đều ở trên một con tàu), chúng ta có trong giới thượng lưu của chúng ta một quan niệm cao cả hơn về tinh thần đạo đức và về nhiệm vụ chung so với bất kỳ một dân tộc nào khác mà đó là hai đức tính cần phải có để dẫn dắt một chủng tộc yếu kém hơn. Các ông không thể giúp đỡ các dân tộc yếu kém bằng tư tưởng trừu tượng hoặc bằng các nghệ thuật mua vui, nhưng chỉ có thể bằng cái tinh thần đạo đức này, nó giữ thăng bằng cho cán cân công lý và nó tự giữ được trong trắng, tránh khỏi mọi hoen ố. Ðó là cách mà chúng tôi cai trị Ấn Ðộ. Chúng tôi đã tới nơi đó bởi kết quả của một thứ luật thiên nhiên, giống hệt như không khí ùa vào để lấp kín một chỗ trống. Ở khắp mọi nơi trên thế giới, đi ngược lại với quyền lợi trực tiếp của chúng tôi và bất chấp những ý định có sẵn của chúng tói, chúng tôi đã bị đưa đẩy tới chỗ phải làm cùng một việc như vậy. Ðiều này rồi sẽ đến với cả các ông đó: áp lực của định mệnh sẽ ép buộc các ông phải điều khiển tất cả Mỹ Châu, từ Mễ Tây Cơ cho tới mũi Horn.

Headingly bật ra một tràng huýt gió.

"Những anh ái quốc cuồng tín hẹp hòi của chúng tôi sẽ rất sung sướng được nghe ông nói đấy, đại tá Cochrane ạ!", ông ta nói. "Họ bỏ phiếu cho ông ở Thượng viện và sẽ làm ông trở thành một ủy viên của ủy ban ngoại vụ đấy!"

- Thế giới thì nhỏ bé, và mỗi ngày nó một thu nhỏ hơn. Nó tạo ra một cơ thể duy nhất: sự thối mục ở một địa phương sẽ có thể lan truyền và làm ung thối tất cả toàn thể. Trên trái đất không có chỗ cho những chính phủ gian lận, không làm tròn những lời cam kết, chuyên chế, vô trách nhiệm. Sự tồn tại của họ bao giờ cũng là nguồn gốc của các vụ lộn xộn và hiểm nguy. Nhưng nhiều chủng tộc có vẻ như quá bất lực trong sự tiến bộ khiến ta không thể hy vọng một ngày nào đó họ có được một chính quyền tốt. Vậy thì ta phải làm gì? Ngày xưa Thượng đế giải quyết vấn đề bằng sự tận diệt một Attila, một Tamerlan đã tỉa bớt những cành yếu kém nhất. Ngày nay thì những qui luật ít nghiêm ngặt hơn đã được thay vào đó: những Phó Vương ở Trung Á và những Quốc gia bảo hộ ở Ấn Ðộ là bằng chứng về điều này. Vì công cuộc này phải được hoàn thành, và bởi vì chúng tôi là những người có trang bị tốt nhất để thành công trong việc này, tôi nghĩ rằng bác - khước chúng tôi sẽ là một sự hèn nhát và một tội ác.

Ông người Mỹ phản đối.

- Nhưng ai giải quyết vấn đề để biết rằng các ông có phải là những người được trang bị tốt nhất để can thiệp hay không? Bất kỳ một quốc gia ăn cướp nào cũng có thể sử dụng chiêu bài này để thôn tính toàn thể trái đất.

- Chính những biến có sẽ giải quyết vấn đề. Những biến cố tàn khốc và không thể tránh được. Thí dụ ông hãy xem vụ Ai Cập đó. Vào năm 1881, ở nước chúng tôi không ai nghĩ tới việc can thiệp ở Ai Cập. Vậy mà năm 1882 chúng tôi đã chiếm giữ nước này. Sự tiếp diễn của các biến cố không để cho chúng tôi một sự lựa chọn. Một vụ tàn sát trong các phố ở Alexandrie, việc bố trí các súng đại bác để xua đuổi hạm đội của chúng tôi đang có mặt tại đó để làm tròn các trách vụ thiêng liêng của - một thỏa ước, như ông đã biết đó, đã khơi ngòi cho cuộc oanh kích. Cuộc oanh kích đã khai mào cho một cuộc đổ quân nhằm giải cứu thành phố khỏi bị hủy diệt. Cuộc đổ bộ dẫn tới sự mở rộng các cuộc hành quân... Và chúng tôi đang ở đây để trông nom, săn sóc đất nước này. Khi những vụ lộn xộn bùng lên, chúng tói đã khẩn cầu, năn nỉ người Pháp và nhiều nước khác tới giúp chúng tôi vãn hồi trật tự : họ đều ngoảnh mặt làm lơ, nhưng họ đã sẵn sàng để công kích chúng tôi. Khi chúng tôi định ra khỏi cái tổ ong vò vẽ này thì vụ nổi loạn của các tu sĩ Hồi giáo bùng ra, và chúng tôi đã phải trụ lại một cách vững chắc hơn bao giờ hết. Chúng tôi đã không đòi hỏi nhiệm vụ này; nhưng khi chúng tôi bị bắt buộc phải hoàn thành nó, thì ít nhất chúng tôi cũng phải làm cho tốt. Chúng tôi đã thiết lập công lý, thanh lọc bộ máy cai trị, bảo vệ những dân nghèo. Nước Ai Cập, đã tiến bộ nhiều hơn trong vòng mười hai năm qua, so với suốt cuộc xâm lăng của Hồi giáo từ thế kỷ mười bảy. Ngoài số lương của hai trăm người, những người này lại tiêu tiền của họ ở ngay trong nước Anh Quốc đã không lấy đi một cách trực tiếp hay gián tiếp, một xu nào trong suốt công cuộc này. Tôi không tin rằng ông lại có thể tìm ra trong lịch sử một sự nghiệp thành công tốt đẹp và vị tha hơn thế.

Headingly hít một hơi thuốc lá trong khi suy nghĩ.

"Ở Boston có một ngôi nhà gần với nhà chúng tôi" ông nói, "đã làm hư hại tất cả vẻ đẹp trên vùng biển. Những cái ghế bành cũ nát quăng bừa bãi trên sân đất trước nhà, những bức tường sụp đổ, khu vườn là một bãi bụi hoang, nhưng tôi không nghĩ rằng những người hàng xóm có ý định xâm nhập bằng bạo lực để cư ngụ tại đó và để xếp đặt các đồ vật theo sở thích của họ".

Ông đại tá hỏi:

- Nhưng nếu ngôi nhà bốc cháy thì sao?

Headingly cười lớn và đứng lên ông nói.

- Thưa ông đại tá, trường hợp này không được tiên liệu bởi chủ thuyết Monroe! Tôi bắt đầu nhận thức được rằng nước Ai Cập hiện đại cũng hoàn toàn thú vị như nước Ai Cập cổ đại và rằng vua Ramsès đệ nhị đã không phải là người đàn ông cuối cùng sống ở nước này.

Ðến lượt họ, cả hai người Anh cùng đứng lên.

- Phải, đó là một sự mỉa mai của định mệnh đã xui khiến những cư dân một hòn đảo nhỏ trên Ðại Tây Dương cai trị mảnh đất của các vị Hoàng đế Ai Cập". Cecil Brown đưa ra lời nhận xét. "Ðến lượt chúng ta, chúng ta sẽ tự tàn lụi, và chúng ta sẽ không để lại một kỷ niệm đặc biệt nào trong số những chủng tộc khác nhau đã cai trị đất nước này, vì người Anh không có thói quen khắc các hành động của họ lên đá. Những dấu vết của một hệ thống thoát nước ở Le Caire chắc chắn sẽ là vết tích duy nhất của sự dừng chân của chúng tôi ở đây. Vậy mà rất có thể là sau đây một ngàn năm những nhà khảo cổ sẽ cho rằng công trình này đã được thực hiện bởi triều đại Hyksos. Nhưng kìa những bạn đồng hành khác của chúng ta đi dạo chơi thành phố đã trở về rồi.

Thật vậy, ở phía dưới họ, họ đã nghe thấy giọng nói Ái Nhĩ Lan êm ái của bà Belmont và tiếng nói trầm trầm của ông chồng bà. Ông Stuart vị mục sư to lớn của Birmingham đang tranh cãi về vấn đề những đồng bạc với một anh chàng dắt lừa lắm mồm; những ý kiến và lời khuyên can tuôn ra từ khắp mọi phía. Rồi sự thỏa thuận được dàn xếp xong, tiếng ồn ào giảm dần, những người về muộn leo lên cầu thang, những tiếng "Chúc ngủ ngon" được trao đổi, những cánh cửa sập mạnh và con tàu nhỏ trở lại yên lặng trong bóng tối của bờ cao của con sông. Ở bên kia cái điểm cùng cực này của nền văn minh và sự tiện nghi, trải dài một bãi sa mạc vô biên, man rợ, vĩnh cửu, màu rơm dưới ánh trăng, lốm đốm những bóng đen xì của những dãy núi.



_______Hết chương 2_______
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 07:58:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3

“Đứng lại! Lui lại" viên hoa tiêu người bản xứ quát bảo anh thợ máy người Âu Châu.
Cái phần mũi phình ra của con tàu xẹp xuống trên vũng bùn trơn tuột màu nâu, và dòng nước đã đẩy con tàu đi song song với bờ sông. Ngay sau khi cái cầu phao dài được thả xuống, sáu người lính lực lưỡng của đoàn hộ tống người Soudan đã bắt tay vào công việc. Dưới ánh sáng trong trẻo của buổi ban mai, họ có dáng bộ rất đẹp, với những bộ đồng phục màu xanh nhạt viền vàng và những chiếc mũ ca rô màu đỏ và vàng. Trên bờ sông, những con lừa được sắp đứng thành hàng, và lũ trẻ con làm ngột ngạt không khí với những tiếng reo hò của chúng. Những lời reo hò này là dành cho người nào bằng một kiểu cách bén nhọn nhất biểu dương được các phẩm chất của con lừa của mình và dèm pha các phẩm chất của con bên cạnh.
Ðại tá Cochrane và ông Belmont cùng đứng trên mũi tàu, họ đội cái mũ trắng rộng vành cùng với cái khăn che mặt của khánh du lịch. Cô Adams và người cháu gái đứng tựa vào tấm lan can tàu bên cạnh họ.
Ông đại tá nói:
- Tôi lấy làm tiếc rằng quí phu nhân đã không cùng đi với chúng ta, ông Belmont ạ.
- Tôi nghĩ rằng hôm qua bà ấy đã bị ngã nắng qua loa; bà ấy nhức đầu lắm.
Ông ấy có giọng nói của cái bóng của ông ấy : mạnh mẽ và mập mạp.
"Tôi tình nguyện ở lại để bầu bạn với bà ấy, ông Belmont ạ" cô gái già người Mỹ nói. "Nhưng tôi nghe nói là bà Shlesinger thấy cuộc du ngoạn quá dài và bà ấy có nhiều thư từ phải viết để hôm nay gửi bưu điện, như vậy là bà Belmont sẽ không cảm thấy quá đơn độc nữa".
- Cô rất khả ái, cô Adams ạ. Có lẽ chúng tói sẽ quay về vào lúc hai giờ đó.
- Chắc vậy không?
- Chắc chắn mà. Chúng tôi không mang theo bữa ăn sáng. Chúng tôi sẽ đói ngấu!
"Phải, tôi có cảm tưởng là chúng tôi sẽ chạy xô tới một cốc rượu vang Rhin và nước có hơi" ông đại tá phát biểu đồng tình. "Bụi ở sa mạc sẽ làm cho chúng tôi thấy thứ rượu vang tệ nhất cũng khoái khẩu rồi!"
"Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông!" Mansoor, anh thông ngôn đang đi tới và nói lớn (người ta có thể nói đó là một vị linh mục với cái áo dài của anh ta bay phất phới trước gió và bộ mặt cạo nhẵn nhụi của anh ta) "Chúng ta phải khởi hành sớm để tránh cái nóng buổi trưa...".
Cái nhìn trìu mến của anh lướt qua nhóm du khách ít ỏi.
- Cô Adams, xin cô hãy đeo kính màu vào, vì trong sa mạc sự phản xạ rất mạnh. À, ông Stuart, tôi đã dành cho ông một con lừa! Một con lừa hảo hạng đấy, thưa ông, con lừa mà tôi thường vẫn để dành cho vị khách nào cường tráng nhất. Quí vị không cần đem theo vé. Bây giờ, thưa các quí bà và các quí ông, xin quí vị vui lòng!
Người này nối theo người nọ, các du khách đi qua cầu tàu. Ông Stephens đi đầu, người gầy gò, khô khỏng, nghiêm nghị, đầu đội một cái mũ rơm, quyển sách hướng dẫn cắp trong cánh tay, ông giúp cho cô Sadie và bà cô của nàng leo lên bờ và tiếng cười của cô thiếu nữ vang lên tươi mát và trong trẻo khi quyển sách hướng dẫn tuột ra và rơi xuống rìa vũng bùn. Ông Belmont và đại tá Cochrane đi theo sau, những cái vành mũ của họ chạm vào nhau vì họ tranh luận với nhau về các ưu điểm của các loại súng Mauser, Lebel và Lee-Metford. Ðằng sau họ Cecil Brown bước đi một cách lơ đãng, với cái nhìn châm chọc, lặng lẽ. Vị mục sư cao lớn dùng thì giờ để leo lên đỉnh cao của bờ dốc. Vừa leo vừa càu nhàu về thân hình phì nộn của ông.
"Tôi thuộc vào loại những người mang tất cả mọi thứ ở phía trước họ", ông vừa rên rỉ vừa nhăn nhó nhìn thân thể tròn vo của ông. Những lời nói đùa của chính ông đã làm ông tươi tỉnh lại và ông cố nén một tiếng cười nhỏ.
Headingly, người cao và gầy, lưng hơi gù, và Fardet, người dân thành phố Paris, người thích lý luận, là hai người đi sau cùng.
Người đàn ông Pháp thì thầm với ông người Mỹ.
- Ông thấy đó, hôm nay chúng ta có một toán hộ tống!
- Vâng, tôi đã nhận ra việc này.
- Hừm! Tại sao lại không có một toán hộ tống giữa Paris và Versailles? Sự trang tri là một phần của căn phòng, ông Headingly ạ. Không ai bị lầm đâu, nhưng với căn phòng đó thì phải có sự trang trí này. Này, anh thông ngôn, tại sao chúng ta phải dẫn theo những anh lính kỳ cục đó?
Vai trò của người thông ngôn là làm vui lòng tất cả mọi người, do đó anh ta thận trọng nhìn quanh mình trước khi trả lời; anh muốn biết chắc rằng mấy người Anh không nghe thấy anh ta nói.
- Thưa ông, đúng là buồn cười đó! Nhưng ông muốn gì? Ðó là lệnh chính thức của giới chức Ai Cập.
Ông người Pháp kêu lên.
- Các giới chức Ai Cập à? Ý anh muốn nói các giới chức Anh hả! Lúc nào cũng là những người Anh đó!
Trong khi đó, các du khách đã chọn xong lừa, ngựa của họ, và những chiếc bóng của họ ngồi trên lưng ngựa nổi bật trên nền trời màu xanh xẫm. Belmont ngồi một cách ngay ngắn, vững vàng trên một con lừa trắng bé nhỏ, vung vẩy cái mũ với bà vợ ông ấy vừa đi ra trên boong con tàu Korosko. Cochrane giữ rất thẳng người, với một cách ngồi nghiêm ngặt của nhà binh: hai bàn tay thấp xuống, đầu ngẩng cao lên, hai gót chân chỉ xuống đất. Bên cạnh ông, nhà ngoại giao trẻ, người đã được đào tạo ở Oxford, đang quan sát phong cảnh với một cái nhìn nặng nề và cao ngạo, như thể ông ta nghi ngờ sự đáng kính của sa mạc nói riêng và của vũ trụ nói chung. Ở phía sau, các du khách khác tiến bước theo hàng dọc, dọc theo bờ dốc, khi thì vất vả ít nhiều, khi thì thoải mái đôi chút. Mỗi con lừa đều có một người dắt: những thằng nhỏ vừa ồn ào, vừa chai lì. Trên boong tàu màu chì, chiếc khăn mùi xoa của bà Belmont vẫn còn nhấp nhánh. Dòng sông nâu vẽ ra những vòng lớn tới tận tám cây số đằng xa; những đồn canh trắng, vuông ở trên những trái núi đen xì và lởm chởm chỉ rõ miền ven của Ouadi-Halfa, nơi mà các du khách đã ra đi buổi sáng.
Sadie kêu lên một cách vui thích:
- Không phải là kỳ diệu hả? Tôi có một con lừa chỉ thích phi nước đại thôi, và các vị nhìn đây, cái yên của tôi mới sang trọng làm sao! Các vị đã từng nhìn thấy cái gì tinh xảo hơn những các hột kết thành chuỗi này và những thứ nhỏ nhặt khác quấn quanh cổ nó không? Chắc ông phải làm một bản bị vong lục về con lừa đó, ông Stephens ạ! Tôi sử dụng từ ngữ pháp lý có đúng không đó?
Stephens quay lại phía khuôn mặt xinh đẹp, sinh động đang nhìn ông dưới cái nón rơm đỏm dáng và ông rất muốn nói chính nàng mới là kỳ diệu, nhưng ông rất sợ làm phật lòng nàng và làm tan vỡ sự thân mật vui vẻ của họ nên thay vì tất cả những lời khen ngợi, ông chỉ tặng nàng một nụ cười.
Ông nói:
- Cô có vẻ rất sung sướng!
- Xem kìa! Ai có thể không cảm thấy sung sướng với không khí khô ráo và lành mạnh này, bầu trời xanh này, bãi cát vàng lạo xạo này, và một con lừa tuyệt diệu để chở bạn đi? Tôi đã có đủ tất cả mọi thứ cần có để làm cho tôi sung sướng!
- Tất cả mọi thứ?
- Tóm lại, tất cả mọi thứ tôi cần có trong lúc này.
- Tôi nghĩ là cô không biết thế nào là buồn bã phải không?
- À, khi tôi cảm thấy buồn khổ, tôi buồn khổ quá đi, không thể nói sự buồn tủi nên lời! Trong bao nhiêu ngày, hết ngày này tới ngày khác, tôi đã không ngừng khóc ở Smith College; các cô con gái khác hỏi nhau tại sao tôi khóc và tại sao tôi không muốn nói với họ lý do mà tôi phải khóc. Lý do thật sự là chính tôi cũng không biết tại sao tôi khóc. Ông biết đó; đôi khi một bóng đen lớn tới lơ lửng bên trên người ông, ông không biết một chút gì về nó cả; nhưng ông chỉ còn có cách là tự xét lại mình và tự cảm thấy buồn khổ thôi.
- Nhưng cô đã không bao giờ có một lý do thật sự để buồn rầu mà?
- Không, ông Stephens ạ. Suốt cả đời tôi, tôi đã có rất nhiều thời kỳ tốt đẹp khiến cho khi tôi nhìn lại phía sau, tôi không tin là tôi đã từng có một lý do thật sự để buồn phiền.
- Ðược rồi, cô Sadie này, tôi hết lòng hy vọng rằng cô vẫn sẽ có thể nói điều này khi cô tới độ tuổi của bà cô của cô. Nhưng tôi nghe thấy tiếng bà ấy gọi chúng ta!
"Ông Stephens này, tôi muốn ông trừng trị tên dắt lừa của tôi bằng cái roi của ông nếu hắn còn đánh con vật khốn khổ của tôi!", cô Adams nói lớn, vì cô đã vớ phải một con lừa cao lớn chỉ có da bọc xương. "Nè, anh thông ngôn! nói với thằng ranh con này là tôi sẽ không dung thứ việc nó hành hạ những con vật: nó phải biết hổ thẹn chứ! Nó trưng ra với tôi những nụ cười như là một tấm hình quảng cáo của thợ làm răng vậy. Ông Stephens, ông có tin rằng nếu tôi đan một đôi bít tất len cho anh lính da đen này, thì anh ấy sẽ được phép mang không? Tên quỷ khốn khổ này chỉ có những băng vải quấn quanh chân!"
"Ðó là những cái xà cạp, cô Adams ạ" đại tá Cochrane quay lại giải thích. "Ở Ấn Ðộ chúng tôi đã nhận thấy rằng không có thứ gì tốt hơn để làm cho việc đi bộ được dễ dàng. Ðối với một người lính thì những cái xà cạp đượ ưa thích hơn những bít tất len rất nhiều".
- Vậy thì chúng ta không nói tới chuyện đó nữa! nhưng người ta nói một con ngựa bị thương. Tôi thấy chúng ta rất oai vệ với đoàn hộ tống có võ trang này. Nhưng ông Fardet khẳng định với tôi rằng chúng ta không có gì phải lo sợ cả.
"Ít nhất đó là ý kiến riêng của tôi, thưa cô!" người đàn ông Pháp vội vã đính chính. "Rất có thể là đại tá Cochrane lại có một ý kiến khác biệt"
"Ý kiến của ông Fardet trái ngược với ý kiến của những sĩ quan chịu trách nhiệm bảo đảm an ninh ngoài biên giới", vị đại tá lạnh lùng trả lời. "Nhưng tôi nghĩ là tất cả chúng ta đều đồng ý để thấy rằng sự hiện diện của những người lính này sẽ đóng góp thêm vào sự tráng lệ của khung cảnh".
Bên phía tay phải của họ, sa mạc kéo dài những luống cát mềm mại mấp mô của nó, trông giống như những cồn cát bao quanh một cái biển cổ xưa đã bị quén lãng. Khi các du khách leo lên những cồn cát này, từ trên cao họ nhìn thấy những chóp đỉnh đen xì của những núi lửa kỳ quái đứng sững trên bờ sông về phía Libye. Những người lính tiến lên bằng những bước mau lẹ, khẩu súng lăm lăm trong tay, lúc thì những bóng của họ hiện lên trên các đỉnh cao, lúc thì chúng mất dạng trong các hang hõm.
"Họ được tuyển mộ ở đâu vậy?" Sadie hỏi. "Họ có cùng một màu da như những người gác thang máy ở Mỹ".
"Tôi đã nghĩ là cô sẽ đặt với tôi một câu hỏi về họ". Ông Stephens nói, ông là người không bao giờ hài lòng hơn là khi đoán trước được một ý nguyện của cô gái Mỹ xinh đẹp. "Sáng hôm nay tôi đã thực hiện một vài sự sưu khảo trong thư viện của con tàu. Ðây này... Ré.. Tôi muốn nói: Vấn đề những người lính da đen. Theo những điều ghi chép của tôi, họ thuộc về tiểu đoàn mười người Soudan trong quân đội Ai Cập. Họ được tuyển mộ trong các bộ lạc da đen Dinkas và Shilluks sinh sống ở miền Nam của xứ sở các thầy tu Hồi giáo, gần đường xích đạo".
"Làm cách nào mà các tân binh có thể đi qua xứ sở của những thầy tu Hồi giáo?" Headingly hỏi.
"Tôi nghĩ họ đã không gặp quá nhiều khó khăn đâu". Ông Fardet nói lẩm bẩm và nháy mắt với người đàn ông Mỹ.
- Những chiến binh lão luyện là những người sống sót của hai tiểu đoàn già nua lính da đen. Một vài người đã phục vụ dưới quyền của Gordon ở Khartoum và họ đã dành được một huy chương ở đó, những người khác thì phần lớn là các đào binh của đạo quân ở Mahdi.
Cô Adams nói:
- Thú thật là khi mà chúng ta không cần tới sự phục vụ của họ thì trông họ cũng khá dễ thương trong bộ đồng phục xanh dương này. Nhưng khi gặp sự bực bội, tôi tưởng rằng ta nên cầu chúc cho họ đỡ phần trang trí đi và trắng hơn lên một chút!"
"Tôi không tin chắc ở điều đó, thưa cô", ông đại tá trả lời. "Tôi đã nhìn thấy những người này trên trận địa; người ta có thể tin ở sự dũng cảm của họ trong khói lửa"
"Nhưng này, tôi thích tin ở ông qua lời nói chứ không phải qua việc thực hiện một kinh nghiệm!" cô Adams tuyên bố với một giọng làm mọi người mỉm cười.

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 07:59:44 | Chỉ xem của tác giả
Chương 3 (tiếp)

Con đường chảy dài theo bờ sông Nil, nước sông bị xao động bởi những xoáy nước dưới sâu, chảy theo sức mạnh của những thác nước ở thượng nguồn. Có chỗ đà chảy của dòng nước bị vỡ tung vì một tảng đá đen xì óng ánh ướt sũng những bọt nước. Ở trên cao hơn, các du khách nhìn thấy rõ ràng sự lấp lánh như bạc của những cái thác nước, những bờ sông đã bắt đầu hóa thành những bờ dốc thẳng đứng. Chẳng bao lâu một núi đá hình bán nguyệt hiện ra sừng sững. Người thông ngôn đã không cần phải nói rõ đó là ngôi đền có tên trong chương trình du ngoạn của họ. Một con đường bằng phẳng dẫn tới ngôi đền. Những con lừa đi vào con đường với nước kiệu nhỏ, ở giữa những tảng đá đen trên nền màu cam, những khúc cột chỉ thẳng lên trời, cũng như một quãng tường thành còn sót lại có mang những dòng chữ, cứ theo màu da xám xịt của nó và sự vững chãi của nó thì hình như nó đã được tạo ra bởi tạo hóa chứ không phải bởi con người. Chàng thông ngôn Mansoor đã xuống ngựa và đợi cho những người đi chậm bắt kịp anh ta.

"Thưa quí ông và quí bà ngôi đền này", anh nói lớn với điệu bộ một nhân viên đấu giá đang chuẩn bị lần rao giá cuối cùng, "là một kiểu mẫu mỹ thuật rất đẹp dưới triều đại thứ mười tám. Ðây là khuôn ảnh của Hoàng đế Thotmes Ðệ Tam!" anh lấy cán roi ngựa chỉ vào những chữ tượng hình khắc sâu trong vách đá. "Ngài đã sống sáu trăm năm trước chúa cơ đốc, và tấm bia ký này là để kỷ niệm chuyến du ngoạn đắc thắng của ngài ở Mesopotamie. Trên những hình chạm nổi kia chúng ta có lịch sử của ngài, từ thuở ngài sống với mẹ cho tới khi ngài hồi cung với những tù nhân bị cột vào xe của ngài. Chỗ này quí vị trông thấy ngài được tấn phong bởi Ai Cập Hạ, và chỗ kia bởi Ai Cập Thượng, nước đã dâng một thánh lễ lên thần Ammon-Ra, để tôn vinh chiến thắng của ngài. Chỗ này những tù nhân đứng trước mặt ngài, và mỗi tên đều bị ngài cắt mất bàn tay phải. Trong góc kia, quí vị nhìn thấy một đống nhỏ, chỉ nguyên những bàn tay phải.

"Lạy chúa tôi, chắc tôi không muốn có mặt ở nơi này vào thời gian đó!" cô Adams nói.

"Này, không có gì thay đổi cả!" Cecil Brown đưa ra nhận xét. "Ðông phương bao giờ cũng là Ðông phương. Tôi không nghi ngờ chút nào rằng, cách chỗ mà hiện giờ cô đang đứng chừng một trăm năm mươi cây số hoặc có thể là ít hơn thế nữa... "

"Ông hãy im đi!" ông đại tá nói nhỏ.

Các du khách đi dọc theo bức tường thành trong khi ngẩng đầu lên và hất những cái mũ lớn của họ ra phía sau. Ðằng sau họ mặt trời đổ vào bức tường cổ xưa này một ánh sáng màu đồng và chiếu lên các tảng đá những cái bóng đen của các du khách lẫn lộn với những chiến binh da đen. Cái bóng đồ sộ của cha John Stuart ở Birmingham trong một lúc bao trùm cả ông vua ngoại đạo và vị thượng đế mà ông tôn thờ.

"Cái gì đây?" ông hỏi với giọng sắc nhọn trong khi giơ thẳng cái ba tôn màu vàng ở Assouan lên.

"Một con trâu nước" anh thông ngôn trả lời.

Và tất cả các du khách cố nén một tiếng cười nhỏ vì con vật này có một nét nào đó của ông Stuart.

"Nhưng nó không lớn hơn một con heo con!" ông phản đối. "Hãy nhìn kìa, ông vua xiên nó trên ngọn giáo một cách dễ dàng".

"Nó đã được vẽ rất nhỏ, để chứng tỏ rằng so sánh với nhà vua nó chỉ là một vật bé nhỏ" anh thông ngôn giải thích. "cũng như quí vị có thể trông thấy các tù nhân chỉ đứng tới đầu gối nhà vua; đó không phải vì ông ấy có một thân hình đồ sộ mà vì ông ấy có rất nhiều quyền lực hơn họ. Xin hãy nhìn nữa đây, ông ấy to hơn con ngựa của ông ấy vì ông ấy là vua và một con ngựa chỉ là một con ngựa. Một thí dụ nữa: những người đàn bà bé bỏng mà quí vị nhận ra ở chỗ này hay chỗ khác đều là những người vợ tầm thường của ông ấy!"

"Thật đẹp mặt!" Cô Adams la lên với sự giận dữ. "Nếu người ta khắc được linh hồn của vị vua này, thì hẳn ta phải có một cái kính hiển vi để xem cái linh hồn đó. Liệu ta có thể chấp nhận được rằng ông ấy đã cho phép các bà vợ ông ấy được trưng bày ra theo cái cách thật lố bịch này không?"

"Nếu ông ấy sống vào thời đại chúng ta" ông người Pháp nói. "thì trong lĩnh vực này ông ấy sẽ vấp phải nhiều khó khăn hơn là ông ấy đã từng gặp phải ở Mésopotamie. Nhưng thời gian sẽ đem lại những sự phục hận. Có thể là rồi đây chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh một người đàn bà cường tráng và người chồng bé nhỏ tầm thường của bà ta, phải không?"

Cecil Brown và Headingly đứng ở phía sau, vì những lời bình luân điên đảo thị phi của anh thông ngôn và những câu nói dông dài vô bổ của các du khách đã làm ngột ngạt cảm giác về sự trang nghiêm của họ. Họ lặng lẽ đứng nhìn cái đám rước kỳ quái của những chiếc mũ che nắng và những chiếc khăn trùm đầu màu xanh này diễu hành trước bức tường thành xám xì cổ lỗ. Bên trên đầu họ hai con chim sẻ quạt vừa bay chập chững vừa gọi nhau ở giữa những cây cột trụ đổ nát hoang tàn.

"Ðó có phải là một sự báng bổ không?" cuối cùng người đàn ông xuất thân từ Oxford lẩm bẩm nói.

"Này, tôi hài lòng với cảm tưởng của ông! Nó tương hợp với ý của tôi" Headingly trả lời. "Tôi không biết rõ người ta phải tiếp cận loạt sự vật này như thế nào, một khi ta chấp nhận rằng họ phải tiếp cận chúng, nhưng chắc chắn đây không phải là cách đúng. Tóm lại tôi ưa thích những cảnh hoang phế mà tôi chưa nhìn thấy hơn là những cảnh mà tôi đã thấy... ".

Nhà ngoại giao trẻ ném cho ông ta một cái nhìn đầy nhiệt tình, mỉm cười, nhưng rồi ông lấy lại ngay bộ mặt của con người đã quá chai lì.

"... Tôi có một tấm bản đồ" ông người Mỹ nói tiếp, "Ðôi khi ở rất xa mọi sinh vật, ở tận giữa bãi sa mạc, không có nước, không có đường mòn, tôi đọc thấy "phế tích" hay "di tích một đền đài". Ngôi đền của Jupiter Ammon chẳng hạn, một trong những đền đài danh tiếng nhất trên thế giới lại ở cách xa hàng trăm cây số với bất cứ một vật nào. Ðó là những phế tích hẻo lánh bị che dấu, tồn tại qua nhiều thế kỷ, làm kích động trí tưởng tượng của con người. Nhưng khi tôi xuất trình một tấm vé ở ngoài cửa và khi tôi đi vào như tôi đã đi vào trong gánh xiếc Barnum, thì tất cả vẻ thơ mộng, tất cả sự vi diện đều tan biến".

"Hoàn toàn đúng! " Cecil Brown trả lời trong khi nhìn ra sa mạc bằng một con mắt ảm đạm và khắt khe. "Nếu người ta có thể đi chơi ở đây một mình thôi, do sự tình cờ mà đi tới, và trong sự hiu quạnh hoàn toàn đứng trước những bức phù điêu kỳ quặc này thì thật là không thể cưỡng được. Có lẽ người ta sẽ muốn quỳ lạy trong sự kinh hãi và cảm mến. Nhưng khi Belmont rít cái ống vổ kếch xù của ông ấy, khi Stuart bắt người ta phải nghe cái giọng khò khè hen suyễn của ông ấy, khi cô Sadie Adams phá lên cười...".

" Và khi con chim cà cưỡng thông ngôn này đọc bài của anh ấy!" Headingly thở dài. "Tôi chỉ có một mong muốn, ngồi im lặng và suy ngẫm, tôi đã không bao giờ thỏa mãn được sự mong muốn đó. Ðã có lúc tôi gần phạm phải tội sát nhân khi tôi đang đứng trước Kim Tự Tháp lớn và tôi đã không có thể hưởng được một khoảnh khắc yên tĩnh, vì người ta đã làm tôi điên đầu lên với những lời rao hàng. Tôi đã nện cho gã bán hàng một cái đá, cái đá này suýt nữa đã giết chết hắn ta trên mũi giày! Khi tôi nghĩ rằng tôi đã thực hiện một chuyến đi từ Mỹ Châu để xem Kim Tự Tháp, và một khi đứng trước nó, tôi đã chẳng thấy gì tốt đẹp hơn là việc tặng cho anh chàng người Ả Rập một cái đá!"

Người cựu sinh viên Oxford cười một cách dịu dàng. Ông nói:

- Họ lại lên đường kìa!

Rồi họ thúc những con lừa của họ đi về phía trước để đi vào phía sau đám rước buồn cười này, bây giờ thì đám rước đi vào giữa những núi đá lớn, giữa những ngọn đồi lởm chởm đá. Một con đường nhỏ hẹp và ngoằn ngoèo len lỏi giữa những tảng đá. Phía sau các du khách chân trời bị che khuất bởi những ngọn đồi khác trông đen ngòm và kỳ quái như những đống bã quặng ở một cái giếng khai mỏ. Sự yên lặng ngự trị trong toán người. Nét mặt thường ngày vui vẻ của Sadie sa sầm lại như để suy ngẫm về sự phũ phàng của tạo hóa. Ðoàn hộ tống xích lại gần nhau, tiến bước theo hàng một. Ông đại tá và Belmont vẫn phi ngựa đi tiên phong.

"Ông Belmont, ông có biết không?" ông đại tá hạ thấp giọng nói. "Có lẽ ông sẽ cho tôi là ngu ngốc, nhưng tôi không thích cái chuyến du ngoạn nhỏ nhặt này".

Belmont phát ra một tiếng cười gằn nhỏ.

"Từ trong phòng của tàu Korosko nhìn ra thì mọi thứ đều có vẻ hoàn hảo. Bây giờ khi chúng ta ở đây chúng ta cảm thấy một cách mơ hồ một cái gì đó trong không khí", ông ta nói. "Tuy nhiên tuần lễ nào các du khách cũng tới đây, và chưa từng bao giờ xảy ra một sự cố nhỏ nhặt nào".

"Tôi tự ý chấp nhận các sự rủi ro khi tôi đi trên con đường của chiến tranh", ông đại tá trả lời. "Chiến tranh rất thành thật, người ta biết rằng với nó thì người ta phải chạm trán với cái gì. Nhưng khi ta dẫn theo các phụ nữ, và khi ta được ban tặng một toán hộ tống tồl tệ như toán này, thì đúng là chơi đùa với lửa! Tất nhiên là có chín mươi chín phần trăm vận may là mọi việc sẽ suông sẻ, nhưng nếu điều trái ngược xảy ra... Tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó! Ðiều đáng khen là họ hoàn toàn không biết rằng xứ sở này rất nguy hiểm".

"Tôi à, tôi rất thích những cái áo dài của người Anh để đi bộ đường dài, ông Stephens ạ!" Sadie cất tiếng nói đằng sau họ. "nhưng với một cái áo dài để mặc buổi chiều thì tôi tin rằng các thợ may người Pháp có nhiều kiểu cách hơn là các đồng nghiệp người Anh của họ. Những người tạo mẫu thời trang của các ông có những sở thích nghiêm ngặt, và họ ít biết khai thác những dây băng và những cái nơ".

Ông đại tá mỉm cười.

"Dù sao thì cô ấy cũng có một tâm hồn trong sáng!" ông nói với Belmont. "Tôi sẽ không nhắc lại với ai điều mà tôi vừa nói với ông, và tôi hy vọng rằng những nỗi lo sợ của tôi sẽ tự phơi bày ra là không có cơ sở vững chắc".

Belmont trả lời:

- Xin ông hiểu cho là tôi cũng tưởng tượng rằng những băng đảng thầy tu Hồi giáo đang đi trộm cướp kiếm mồi nhưng sẽ không thể có chuyện là chúng đợi đúng cái ngày mà chúng ta đi qua nơi này.

- Biết rằng một cuộc quảng cáo rầm rộ đã được tung ra về các sự di chuyển của chúng ta và rằng mọi người đều biết trước một tuần các cuộc du ngoạn được xếp đặt cho chương trình của chúng ta, thì sự trùng hợp sẽ không có gì là kỳ lạ!

"Sự rủi ro một phần trăm, ông đã nói mà!" Belmont lẩm bẩm nói, trong thâm tâm ông thấy vui thích khi biết rằng bà vợ ông được an toàn trên con tàu.

Chả mấy lúc họ ra khỏi vùng ngổn ngang sỏi đá, chỗ làm cản trở bước đi của những con lừa, bây giờ thì bãi cát vàng, mịn trải dài ra cho tới chân quả đồi hình chóp đứng sững trước mặt họ. "Ây-a! Ây-a!" những người dắt lừa vừa quát vừa lấy roi đánh vào mông các con vật, những con vật này chạy nước đại và lao mình vào trong cánh đồng. Chúng chỉ dừng lại ở dưới chân con đường nhỏ leo lên núi, theo lệnh của anh thông ngôn.

- Thưa quí bà và quí ông, bây giờ chúng ta đã tới chân ngọn núi Abousir lừng danh. Ðứng trên đỉnh núi này, quí vị sẽ phát hiện ra một toàn cảnh rất đa dạng, nhưng trước hết quí vị sẽ nhận thấy trên vách đá các bậc vĩ nhân đã khắc tên của họ vào đá, những vị này đã đi qua đây trong các cuộc hành trình của họ, có khi còn trước cả lúc Chúa Ki Tô giáng sinh.

"Ông có Moise không?" Cô Adams hỏi:

"Cô ơi, cô làm cháu kinh ngạc đó!" Sadie kêu lên.

- Tại sao, hở cháu cưng? Ngài ở nước Ai Cập, đó là một bậc vĩ nhân, rất có thể là ngài đã du ngoạn ở nơi này.

"Rất có thể là tên của Moise có ở đó, cũng như tên của Hérodote", anh thông ngôn tuyên bố một cách nghiêm trọng, "nhưng cả hai đều đã phải gánh chịu sự phũ phàng của thời gian, ngược lại ở đằng kia, trên tảng đá màu nâu, quí vị sẽ đọc thấy tên của Belzoni. Trên cao hơn là tên của Gordon. Không có một nhân vật nổi tiếng nào ở Soudom mà quí vị không thể tìm thấy tên nếu quí vị chịu khó tìm một chút. Và bây giờ, với sự cho phép của quí vị chúng ta sẽ để những con lừa ở đó để đi bộ leo lên bằng con đường này, từ trên đỉnh núi quí vị sẽ nhìn thấy con sông và sa mạc...".

Sau hai hay ba phút leo trèo các du khách đã tới chỗ bằng phẳng hình bán nguyệt nằm trên ngọn núi. Phía dưới chân họ, ở một bên, một ghềnh đá đen xì đứng thẳng, cao tới năm chục mét, cắm sâu xuống những xoáy nước sủi bọt của sông Nil. Tiếng ầm ì inh tai của con sông và tiếng rít lên của nước sông chảy ồ ạt giữa các tảng núi đá vang lên một cách quái dị trong không khí oi nóng và im lìm. Ðằng xa ở thượng nguồn hay hạ nguồn, họ trông thấy dòng sông rộng tới bốn trăm mét, mạnh mẽ, sâu thẳm và gần như đen kịt. Ở mạn bên kia, trải ra một khoảng bao la hoang vu, đó đây rải rác những tảng đá đen xì, vốn là những thứ đá vụn do sông Nil mang tới khi nó chảy tràn khỏi lòng sông. Không một nơi nào có vết tích của đời sống con người.

"Ở đằng kia", người thông ngôn chỉ về hướng Ðông "là con đường quân sự đi từ Ouadi-Halfa tới Sarras. Sarras ở về phía Nam, dưới cái núi đen này. Hai quả núi xanh mà quí vị trông thấy ở chân trời đều nằm trong sứ Dongola, cách Sarras hơn một trăm cây số. Con đường xe lửa dài sáu mươi lăm cây số, nhưng nó đã chịu thiệt hại nhiều vì bọn thầy tu Hồi giáo, bọn này rất thích chế biến các đường rầy thành những ngọn giáo. Chúng cũng rất thích những sợi dây của máy điện báo. Bây giờ nếu quí vị muốn quay trở về, tôi sẽ giải thích với quí vị những gì quí vị sẽ có thể nhìn thấy ở mạn bên kia...".

Ðó là một toàn cảnh mà ta không thể quên được sau khi đã nhìn thấy một lần. Cái dải sa mạc hoang dã và liên tu bất tận này có phải là thuộc về một hành tinh đã tiêu mòn và nguội lạnh hay thuộc về trái đất khoan dung của chúng ta? Nó kéo dài cho tới một đám sương mù nhẹ màu tím có vẻ như là chỗ tận cùng của thế giới. Ở lớp thứ nhất, cát có một màu vàng đẹp rực rỡ mà nắng làm thành chói lòa. Sáu người lính trung thành da đen dừng lại ở phía dưới, họ im lìm bất động tựa vào những khẩu súng của họ, mỗi người chiếu ra một cái bóng có vẻ cũng chắc nịch như chính con người của họ vậy. Ở bên ngoài cái cánh đồng vàng hoe này những đống cặn kim loại đen xì xếp thành từng hàng, được phân cách nhau bởi những thung lũng cát thổ hoàng. Những đống cặn kim loại này bị che lấp bởi những quả đồi cao hơn và có hình dạng kỳ quái hơn, những quả đồi này xếp thành tầng và kề sát nhau cho tới lúc tan biến vào trong màn sương mù xa xôi, tím ngắt. Trong những quả đồi này, không quả nào có được một độ cao đáng kể; quả cao nhất có thể được một trăm năm mươi hay hai trăm mét; nhưng các chóp đỉnh hình răng cưa của chúng, những vách dựng đứng bằng đá đã bị nắng nung chín đã cho chúng một vẻ tàn bạo, khủng khiếp.

"...Bãi sa mạc của nước Libye" anh thông ngôn loan báo trong lúc giơ tay lên một cách kiêu hãnh. "Một sa mạc lớn nhất thế giới. Giả dụ quí vị đi từ chỗ này về hướng Tây, và quí vị không rẽ ngang về hướng Bắc hay về hướng Nam, thì những cái nhà đầu tiên mà quí vị nhìn thấy sẽ là những căn nhà ở nước Mỹ. Thưa cô Adams, tôi nghĩ rằng sự giả thiết này làm cho cô nhớ nhà phải không?".

Nhưng cô gái già người Mỹ đã không nghe anh nói nữa. Sadie đã nắm lấy cánh tay cô và với bàn tay kia nàng chỉ cho cô một vật gì trong bãi sa mạc.

"Ồ, đây là mức tột độ của sự mỹ lệ!", cô kêu lên, mặt đỏ bừng vì bị khích động. "Ông Stephens, hãy nhìn kìa! Chỉ còn thiếu một vật nữa là quang cảnh được hoàn hảo! Hãy nhìn những người ngồi trên lưng lạc đà đang nhô ra từ các ngọn đồi!".

Lúc đó tất cả bọn họ đều trông thấy một hàng dài những kỵ binh quấn khăn đỏ đang thúc những con lạc đà ra khỏi một khe núi. Một sự im lặng chụp xuống, im lặng quá đến nỗi họ có thể nghe rõ được tiếng vo ve của những con ruồi. Ðại tá Cochrane vừa bật một que diêm, rồi ông đứng im bất động không nghĩ tới việc châm lửa vào điếu thuốc lá, và ngọn lửa làm bỏng các ngón tay ông, Belmont huýt sáo qua các khe răng. Anh thông ngôn đứng há hốc mồm ra, cặp môi béo mọng và đỏ thắm của anh ta, trở nên xám ngoẹt. Những người khác nhìn nhau, khó chịu trước màn phụ diễn bất ngờ của chương trình. Ông đại tá phá tan sự im lặng.

Ông nói:

- Ông Belmont này, nhờ ơn trên phù hộ, tôi nghĩ rằng đây là một phần trăm sự rủi ro đã xuất hiện đó!



_________Hết chương 3_________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 08:00:27 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4

"Mansoor, thế này là nghĩa làm sao?" Belmont kêu lớn với một giọng thô lỗ, "những người đó là ai, và tại sao anh đứng hai mắt trợn trừng như thể anh đã hóa thành pho tượng bằng muối vậy?"

Anh thông ngôn, trước khi trả lời, thè lưỡi liếm vào cặp môi khô khan của anh ta . Anh ta nói ấp úng: "Tôi không biết họ là ai".

"Họ là ai?" ông người Pháp quát lớn. "Anh chỉ cần nhìn cho rõ. Đó là những người có võ trang cưỡi lạc đà: những người Bédouins như là những người mà chính quyền trên biên giới thường thuê mướn".

"Xin ơn trên phù hộ, có lẽ ông ấy nói đúng, Cochrane ạ!" Belmont quay lại phía viên đại tá và nói: " Tại sao những người kia lại không phải là những bằng hữu?"

"Chúng ta không có bằng hữu trên bờ bên này của sông Nil", ông đại tá trả lời với một giọng quả quyết. "Tôi hoàn toàn biết chắc về việc đó. Chúng ta sẽ sai lầm khi tự lừa dối mình. Chúng ta phải chuẩn bị cho điều tệ hại nhất".

Bất kể những lời nói này, các du khách vẫn im lìm bất động, đứng sát vào nhau và nhìn xuống cánh đồng. Sự kinh động bất ngờ này đã làm họ điếng người, họ đang sống trong một giấc mộng không có bản ngã của họ, mơ hồ và phi thực tại. Những kỵ binh đã đi ra từ một khe núi ở cách con đường họ vừa đi qua chừng một ngàn năm trăm mét, như thế là chúng đã cắt hết đường rút lui của họ. Theo như đám bụi bốc lên và chiều dài của đám người thì người ta có thể nói là cả một đoàn quân đang xuất hiện từ những quả đồi. Thật tình thì bảy mươi người cưỡi trên lưng lạc đà cũng che phủ được một mảng đất lớn.

Sau khi chúng đã tới cánh đồng cát, chúng xếp thành hàng và sau một hồi kèn chát chúa chúng xông lên theo hàng ngang, những cái bóng sặc sỡ nhiều màu của chúng chao đảo trên những cái yên của chúng; cát bốc tung lên thành một đám mây vàng lăn theo dưới chân những con lạc đà. Vừa nhìn thấy những sự việc này, sáu anh lính da đen đã lùi lại và ẩn mình trên sườn đồi đằng sau những tảng đá, như những binh sĩ đã thành thạo trong việc tập luyện, những hộp cơ bẩrn kêu lách cách cùng một lúc khi viên hạ sĩ ra lịnh cho họ nạp đạn vào súng.

Sự hoảng hốt đầu tiên của các du khách lúc đó đã nhường chỗ cho sự thi triển lớn lao về nghị lực, vừa cuồng nhiệt, vừa bất lực. Tất cả bọn họ đều bắt đầu chạy trên khoảng đất bằng trong sự vội vã không có mục đích, trông họ giống như một đàn gà vịt bị hoảng sợ trong sân chuồng. Họ đã không có thể quyết định nhìn nhận là họ không còn một phương cách nào để thoát hiểm cả. Đã nhiều lần họ cúi xuống bên trên cái mép của ghềnh đá lớn đâm sâu xuống sông Nil, nhưng người trẻ nhất và người táo bạo nhất trong nhóm họ cũng không bao giờ có thể tụt xuống chiều cao của cái vách đá nhẵn thín này. Hai người đàn bà níu chặt lấy tay của Mansoor trong lúc anh này run lẩy bẩy, như thể các cô cho là anh ta phải chính thức chịu trách nhiệm về sự an toàn của mọi người. Stephens, người đại diện cho thân chủ trước tòa án, không rời khỏi Sadle Adams và nói thầm thì như một cái máy hát: "Đừng sợ cô Sadle ạ! Đừng sợ!" việc này cũng không ngăn cản được ngay chính ông ta đang run rẩy cả chân tay. Ông Fardet dậm chân, láy đi láy lại những chữ "r" khi lúng búng nói những câu không ai hiểu được và ném những cái nhìn bực bội vào các bạn đồng hành, ông thấy mình đã bị họ phản bội một phần nào đó. Ông mục sư to lớn đứng rất ngay ngắn dưới cái dù của ông và cặp mắt to, hoảng sợ của ông đang quan sát sự di chuyển của những gã kỵ binh. Cecil Brown đang xoắn bộ ria ngắn của ông; ông tái người đi nhưng vẫn có vẻ khinh khỉnh. Ông đại tá, Belmont và nhà khoa bảng trẻ tuổi của Harward vận giữ được sự điềm tĩnh; họ là những người có nhiều thủ đoạn.

"Tốt nhất là chúng ta cùng đứng lại với nhau", ông đại tá nói, "không còn cách nào để tránh khỏi bọn chúng, do đó tốt nhất là chúng ta đừng rời xa nhau".

"Chúng đứng lại" Belmont loan báo.

"Vì chúng quan sát chúng ta, chúng bịết chắc rằng chúng ta nằm trong quyền sinh sát của chúng; do đó chúng không vội vã. Tôi không nhìn thấy điều gì mà chúng ta sẽ có thể làm được".

"Nếu chúng ta dấu các phụ nữ đi có được không?" Headingly đề nghị. "Chắc chắn là chúng không biết chúng ta có bao nhiêu người. Khi chúng đã bắt được chúng ta rồi, các phụ nữ sẽ có thể ra khỏi nơi ẩn nấp và trở lại tàu thủy".

"Tuyệt diệu!" ông đại tá kêu lên. "Cô Adams, xin cô vui lòng lại đây. Mansoor, hãy mời các bà tới chỗ này! Không còn một giây phút nào để bỏ mất nữa".

Một phần của khoảng đất bằng không thể nhìn thấy được từ bên dưới, những người đàn ông cuống cuồng dựng lên một chỗ trú ẩn nhỏ bằng những tảng đá, những tảng đá thì không thiếu; không cần phải lâu la gì để dựng nghiêng một tảng đá lớn nhất vào một núi đá; và theo lối đó làm thành một thứ mái che, rồi lấp kín hai bên bằng hai tảng đả khác cùng một màu với núi đá; thoạt mới nhìn chỗ ẩn nấp không quá lộ liễu đâu. Hai người đàn bà chui vào chỗ ẩn nấp và ngồi xuống. Sadie ôm choàng lấy bà cô trong hai cánh tay. Khi đã dựng xong chỗ trú ẩn, những nguời đàn ông đi ra nhìn những việc đang diễn ra trong cánh đồng với một tấm lòng nhẹ nhõm hơn. Lúc tới gần rìa của khoảng đất bằng, họ nghe thấy những phát súng đầu tiên; đó là toán hộ tống của họ bắn; nhưng những phát súng rời rạc đó đã mau chóng bị nhận chìm trong một tiếng ầm ì inh tai, và không khí tràn đầy tiếng rít của những viên đạn. Tất cả các du khách đều nằm nép xuống sau các tảng đá, ngoại trừ anh chàng người Pháp thì cứ tiếp tục dậm chân và lấy tay đấm mạnh vào cái mũ rơm của mình. Belmont và Cochrane bò xuống nơi mà những người lính Soudan đang bắn một cách bình tĩnh và theo đúng phương pháp, với những khẩu súng kê trên các tảng đá.

Bọn nghười Ả - Rập dừng lại ở khoảng năm trăm mét, sự ung dung trong các cử động của chúng chứng tỏ rằng chúng đã biết rõ tình thế tuyệt vọng của các du khách. Chúng chỉ dừng lại để đếm số du khách trước khi xông lên tấn công, một phần lớn bọn chúng ngồi trên mông lạc đà mà bắn, nhưng một vài tên đã tụt xuống đất và quì xuống. Những vết trắng nhỏ, lung linh của chúng hiện rõ ràng trên những sắc vàng của hậu cảnh. Lúc thì chúng bắn lẻ tẻ, lúc thì chúng bắn hàng loạt. Quả đồi kêu gầm gừ như một bọng ong; những viên đạn văng vào núi đá với một tiếng khô khan.

“Ông đứng phơi mình ra như vậy chẳng có ích lợi gì đâu", Belmont nói.

Ông kéo ông đại tá vào phía sau một tảng đá lớn, gồ ghề, nơi đã có ba người lính Soudan ẩn núp.

"Một viên đạn là điều mà chúng ta có thể hy vọng là tốt nhất", Cochrane trả lời với một nụ cười ảm đạm. "Belmont ạ, tôi thật là ngu ngốc quá chừng khi không phản đối một cách cương quyết hơn cuộc du ngoạn kỳ cục này! Tôi hoàn toàn xứng đáng với những gì xảy ra với tôi, nhưng khi tôi nghĩ tới những người bất hạnh kia, họ không nghi ngờ tới một chút hiểm nguy nào..."

- Tôi giả thiết rằng chúng ta không thể hy vọng có sự giải cứu?

- Không có một chút nào.

- Ông có nghĩ rằng những tràng súng này có thể gợi ý cho những toán quân ở Ouadl-Halfa tới đây không?

- Ờ, nếu chúng ta không trở về, tàu thủy sẽ báo động!

- Và trong thời gian đó chúng ta sẽ ở đâu?

"Norah khốn khổ của tôi! Em bé Norah khốn khổ!" Belmont nói lẩm bẩm đằng sau bộ ria mép lốm đốm bạc của ông.

Sau một lúc yên lặng, ông hỏi:

- Ông Cochrane này, theo ý ông thì chúng sẽ làm gì với bọn ta?

- Chúng sẽ cắt cổ họng chúng ta, hoặc đưa chúng ta tới Khartoun để làm nô lệ. Tôi không biết trong hai cách đó thì cách nào dễ chịu hơn. Kìa dù sao thì một người trong bọn chúng ta cũng đã rũ sạch hết phiền muộn rồi !

Anh lính đang bắn bên cạnh họ vừa ngã ngồi phệt xuống, đầu anh ta gục xuống giữa hai đầu gối. Anh ta vừa bị một viên đạn bắn trúng giữa đầu. Anh ấy không động đậy nữa. Anh ấy không thốt ra một tiếng rên rỉ nào. Các bạn của anh cúi xuống bên trên xác của anh, rồi họ nhún vai và lại quay đầu về phía những tên Ả Rập. Belmont lượm lấy khẩu súng của người chết cũng như cái bao đạn của anh.

"Hơn ba bì đạn. Cochrane ạ!" ông nói và để ba khúc đồng nhỏ lên lòng bàn tay. "Chúng ta đã để cho họ bắn quá sớm và bắn nhiều quá. Lẽ ra chúng ta phải đợi cho bọn thầy tu xông lên tấn công đã".

"Ông đã nổi tiếng là xạ thủ thuợng thặng đó, Belmont ạ !" ông đại tá lẩm bẩm nói. "Ông không tin là ông sẽ có thể bắn hạ được tên chỉ huy của bọn chúng à?"

- Tên đó là thằng nào ?

- Tôi nghĩ nó là tên đang ngồi trên con lạc đà trắng ở bên phải. Tên đó đang nhìn về phía chúng ta, lấy hai bàn tay che lên mắt.

Belmont nạp đạn vào súng và điều chỉnh thước ngắm. Ông nói:

- Ánh sáng xấu quá khó mà ước định khoảng cách. Được, tôi sẽ thử ở khoảng năm trăm mét!...

Ông bắn, nhưng không có gì nhúc nhích cả, cả con lạc đà trắng, cả người ngồi trên lưng nó.

-... ông có trông thấy cát bay lên không ?

- Không, tôi không trông thấy gì cả.

- Tôi chắc rằng tôi đã bắn quá xa.

- Hãy thử lại một lần nữa đi.

Belmont ngắm với một sự tin chắc hoàn toàn, nhưng con lạc đà và tên chỉ huy vẫn không động đậy. Phát thứ ba chắc đã đi qua gần hơn, vì con vật nhích nhiều bước về bên phải như kiểu nó muốn di chuyển. Belmont ném khẩu súng hết đạn xuống trong khi thốt ra một tràng than chán nản.

"Đúng là tự cái ánh sáng chết tiệt này ! " ông nói lớn, mặt đỏ bừng vì bực bội. "Cứ cho rằng tôi đã bắn uổng ba bì đạn! Ở Bisley thì chắc tôi đã bắn rơi cái khăn của nó rồi, nhưng sự phản quang chết tiệt này... Điều gì đã xảy ra với anh chàng người Pháp?".

Ông Fardet dậm chân trên bãi cát với bộ điệu một người vừa bị ong vò vẽ đốt

"Đồ chết toi!", ông gào lên. "Đồ chết toi!".

Những cái răng trắng ởn của ông lóng lánh dưới bộ ria mép đen. Ông vặn xoắn một cách dữ dội bàn tay phải của ông và máu chảy dọc theo các ngón tay của ông. Một viên đạn đã làm sượt cổ tay ông. Headingly phóng mình ra khỏi nơi trú ấn mà ông đã nấp, chắc chắn là ông có ý định bắt buộc anh chàng người Pháp nằm xuống mặt đất, nhưng ông chưa đi được ba bước thì một viên đạn đã bắn vào lưng ông, ông ngã gục xuống giữa những hòn đá. Ông muốn đứng dậy, ông lảo đảo, rồi lại ngã xuống cùng một chỗ đó. Ông vùng vẫy tứ chi như một con ngựa bị gãy lưng vậy.

"Chúng bắn trúng rồi!" ông ấp úng nói.

Ông đại tá chạy tới cứu ông, nhưng Headingly không động đậy nữa, đôi má trắng bệch của ông tì lên những hòn đá đen xì. Một năm trước đây, khi ông đi dạo chơi dưới những cây du của trường Cambridge, không bao giờ ông nghĩ rằng cuộc đời trần thế của ông sẽ bị chặt đứt trong sa mạc Libye bởi viên đạn của một tên hồi giáo cuồng tín.

Tiếng súng của toán hộ tống đã ngưng, những người lính đã hết đạn. Một người lính thứ hai đã bị giết, và một người thứ ba, người làm chức năng của hạ sĩ, đã bị một viên đạn vào đùi, anh ta ngồi trên một mảnh đá và băng bó vết thuơng với vẻ nghiêm trọng, chăm chú của một bà già đang cố gắng gắn lại những mảnh của một cái đĩa bị vỡ. Ba người khác cắm lưỡi lê lên nòng súng, họ quyết tâm bán mạng sống của họ càng đắt giá càng tốt.

"Chúng nó tới!" Belmont kêu lớn, ông đang quan sát cánh đồng.

"Được, chúng cứ tới đi!" ông đại tá trả lời trong khi cho hai bàn tay vào túi quần. "Ồ, lũ súc sinh! Lũ súc sinh chết toi!l".

Chính số phận, những tên dắt lừa khốn khổ đã làm mất sự điềm tĩnh của người quân nhân già. Trong lúc những phát súng được bắn qua, bắn lại, lũ trẻ bụi đời nằm chất đống lên nhau, làm thành một nhóm người đáng thuơng giữa các tảng đá, dưới chân đồi. Khi chúng nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo xung kích, chúng nghĩ rằng chúng có nguy cơ trở thành những nạn nhân đầu tiên; thế là chúng nhảy tót lên lưng lừa, miệng thì gào thét vì sợ hãi, và chúng tìm cách chạy trốn qua cánh đồng. Nhưng tám hay mười kỵ binh đứng gác bên hông đã tiến lên trong lúc súng nổ. Chúng xông ngay vào lũ trẻ dắt lừa và chém chúng thành từng mảnh với một sự hung bạo lạnh lùng, một thằng nhỏ bụi đời chạy thoát khỏi bọn truy sát được một lúc, nhờ những bước chân dài của chúng, nhưng con lạc đà cuối cùng cũng bắt kịp con lừa của nó, con lừa này không còn trẻ trung nữa, và một tên Ả-Rập đã phóng ngọn giáo của y cắm sâu vào cái lưng đang cúi xuống. Những cái xác bé nhỏ mặc đồ trắng trông giống như một đàn cừu đang gặm cỏ trong bãi sa mạc.

Nhưng các du khách đã không có thì giờ để thuơng xót cho số phận những đứa bé dắt lừa. Chính ngay cả ông đại tá, sau sự bùng nổ của cơn giận dữ, ông cũng quên ngay bọn chúng. Bọn kỵ binh của toán tiền phong đã cho những con lạc đà phi xuống tới chân đồi; ở đó chúng nhảy xuống đất, và để mặc cho những con vật quì phục xuống một cách lặng lẽ, chúng tiến bước trên con đường nhỏ dẫn tới chỗ đất bằng. Chúng có năm mươi tên nhảy nhót từ tảng đá này sang tảng đá nọ. Không một phát súng, không chậm trễ, chúng tràn ngập ba người lính da đen, giết chết một người, và dẫm lên hai người khác, rồi chúng xuất hiện trên nền đất bằng, nơi đó một cuộc chống cự bất ngờ đã chặn chúng lại một lúc.

Đứng sát vào với nhau, các du khách đang chờ đợi bọn Ả Rập tới, mỗi người một tâm trạng khác nhau. Ông đại tá, tay đút trong túi quần, đang gắng gỏi huýt sáo miệng, mặc dù môi ông đã khô khổng. Belmont thì khoanh tay đứng tay vào một tảng đá, đầu cúi gằm, ông cau mày một vẻ bực bội, trí não con người đã được sinh ra như vậy, cho nên anh chàng người Ái Nhĩ Lan cảm thấy bối rối vì ba viên đạn đã mất và vì một tì vết vào danh tiếng xa thủ thuợng thặng hơn là vì cái số phận đang chờ đợi ông. Cecil Brown đứng thẳng người, cứng nhắc, nôn nóng kéo những cái đầu của những sợi râu mép lưa thưa. Ông Fardet vừa làu bàu vừa nhìn cái cổ tay đầy máu me của ông. Ông Stephens lắc đầu trong lúc suy nghĩ tới sự bất lực cực nhọc của ông và tiêu biểu khá đúng cho cái trật tự và luật pháp đang bị nhạo báng.


(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 08:01:01 | Chỉ xem của tác giả
Chương 4 (tiếp)

Ông Stuart, lúc nào cũng được che kín bởi cái dù của ông, thì có một bộ mặt lầm lì và một cái nhìn chăm chú. Headingly thì nằm bất động trên tảng đá : cái mũ của ông đã rơi mất; ông có vẻ rất trẻ với mái tóc vàng hoe bù xù và những đường nét rất rõ ràng. Anh chàng thông ngôn thì ngồi trên một hòn đá và vặn xoắn hai bàn tay một cách bồn chồn, nôn nóng. Đó là tình trạng của họ mà bọn Ả Rập đã bắt gặp trên lòng đường khi chúng tràn ra.

Và rồi trong lúc những tên xung kích đầu tiên xông tới để bắt những nạn nhân của chúng thì một sự cố hoàn toàn bất ngờ đã chặn chúng lại. Từ lúc nhìn thấy bọn thầy tu Hồi giáo, vị mục sư to béo của Birmingham đã cho người ta ấn tượng một người toàn thân bị cứng đơ. Ông đã không nhúc nhích, ông đã không há miệng ra nhưng bất thình lình ông nhảy chồm lên với một khí lực vừa dũng mãnh, vừa oai hùng. Phải chăng ông đã bị thúc đẩy bởi ruột thứ cuồng điên nảy sinh từ sự hoảng sợ? Dòng máu của một vị tổ tiên đã đột ngột thức dậy trong các mạch máu của ông chăng? Sự thật là ông đã phát ra một tiếng kêu man dại, cướp lấy một cây gậy và bắt đầu đánh những tên Ả Rập với một sự hung hãn còn dữ tợn hơn cả sự hung hãn của chúng. Một người trong các nhân chứng của cảnh này đã khẳng định với tôi rằng trong tất cả những hình ảnh đã làm sáng rực ký ức của ông, không có hình ảnh nào được lưu lại rõ ràng hơn cái hình ảnh của con người to lớn này, mình đẫm mồ hôi và nhảy nhót với một sự mau lẹ không thể tưởng tượng được, dùng hết tay này tới tay khác đánh vào những tên Ả Rập vừa thoái lui, vừa la hét om sòm. Rồi từ phía sau một tảng đá một ngọn giáo bay từ thấp lên cao, và vị mục sư ngã quị xuống, rồi cả đàn những tên xung kích chạy ùa ra dẫm lên trên xác ông để bắt giữ các du khách. Những con dao lấp lóe sáng, nhưng bàn tay thô cục nắm lấy cổ tay họ và cổ họ, họ bị xô đẩy và đem đi một cách thô bạo trên con đường nhỏ, mà phía dưới nó những con lạc đà đang đứng đợi.

"Quốc vương vạn tuế!" Tù trưởng vạn tuế!" anh chàng người Pháp kêu lên trong lúc vung vẩy cái bàn tay không bị trói của anh ta.

Một nhát báng súng vào lưng bắt ông ta im lặng.

Vào lúc này thì cái nhóm nhỏ các khách du ngoạn đang đứng dưới chân núi Abousir, nếu bọn người Ả Rập không vung vẩy những khẩu súng của chúng thì họ đã có thể tưởng rằng họ bị sa vào tay những tên man rợ của thế kỷ thứ bảy. Thật sự không có một chút gì khác biệt giữa những kẻ bắt cóc họ với những chiến binh của sa mạc là những người đầu tiên đã mang biểu tượng lưỡi liềm ra ngoài nước Ả Rập. Đông phương là bất biến. Những tên kẻ cướp thầy tu Hồi giáo vẫn không kém dũng cảm, kém hung bạo, kém cuồng tín hơn là tổ tiên của chúng. Chúng đứng thành vòng tròn, tựa lên những khẩu súng hay những ngọn giáo của chúng, và ngắm nghía những kẻ bị bắt với những cái khăn đỏ thắt nút quanh cổ và quanh đầu, đến nỗi mà những cái nhìn hung hãn của chúng nom như toé lên từ một cái khung đỏ sẫm, những đôi giày màu vàng bằng da sống, một cái áo dài trắng với những mảnh nâu và vuông ghép lại với nhau. Tất cả bọn chúng đều được vỏ trang bằng súng, một tên trong bọn chúng nó một cái tù và đeo dưới nách. Một nửa trong bọn chúng là người da đen: hai gã đàn ông đẹp trai, mình đầy bắp thịt, những chàng Hercules da đen chính cống. Những tên Ả Rập bagarras họp thành một nửa kia; người nhỏ bé, da nâu khô khan, nóng nẩy, với những con mắt hung ác và những cặp môi mỏng dính. Tên chỉ huy cũng là một tên Bagarra nhưng y to lớn hơn những đồng bào của y, và một chòm râu đen dài xuống tới ngực y; dưới cặp lông mày rậm rạp đen xì đôi mắt lạnh lùng và cương nghị của y sáng long lanh như thủy tinh trong khi y kiểm tra các tù nhân của y. Ông Stuart đã được khiêng xuống phía dưới; ông đã bị mất cái mũ, ông vẫn còn bộ mặt đỏ bừng vì giận dữ, và ở một chỗ cái quần của ông bị dính vào cẳng chân. Hai người lính Soudan còn sống sót, những y phục màu xanh đầy các vết máu, đang đứng yên, không nhúc nhích và rất chăm chú, bên cạnh cái nhóm người xơ xác này.

Tên chỉ huy lần lượt nhìn vào mặt họ, từng người một trong khi lấy tay vuốt ve bộ râu của y. Sau đó y thốt ra mấy tiếng với một giọng khàn khàn, oai vệ, và Mansoor bước ra, lưng khom xuống và những lòng bàn tay cầu khẩn. Bao giờ cũng có một cái gì đó hài hước trong cái váy của hắn kêu xột xoạt trước ngọn gió và trong cái kiểu áo tơi không có tay che phủ hai vai của hắn; nhưng lúc này, dưới ánh nắng buổi trưa, ở giữa vòng vây của những bộ mặt hung tợn, cái bóng của hắn đã cho thêm vào cảnh trí môt phần bổ sung kỳ cục của sự kinh hoàng. Chàng thông ngôn chào đi, chào lại như một con búp bê máy trước khi đột ngột ngã lăn ra, mặt úp xuống đất, sau một câu nói ngắn ngủi của tên chỉ huy. Anh ta vùi kín trán và hai bàn tay vào trong cát.

" Thế là nghĩa làm sao, Cochrane?" Belmont hỏi. "Tại sao hắn lại làm cho người ta chú ý như vậy nhỉ?"

Ông đại tá trả lời:

- Theo chỗ tôi hiểu thì tất cả đều chấm dứt với chúng ta.

"Nhưng thật là vô lý!" anh chàng người Pháp bị hoàn toàn khích động, kêu lớn lên. "Tại sao những người kia lại làm cho tôi phải đau khổ, dù là một chút ít thôi? Tôi chưa bao giờ làm hại họ cả. Ngược lại, lúc nào tôi cũng đã là bạn của họ. Nếu tôi có thể nói chuyện với họ, tôi sẽ làm cho họ hiểu được tôi. Ê này anh thông ngôn! Mansoor!..."

Những điệu bộ đầy nhiệt tình của ông Fardet đã lôi kéo sự chú ý của tên chỉ huy bagarra. Tên này lại phát ra một câu hỏi ngắn gọn. Mansoor quì gối dưới chân y, trả lời y.

-... Nói với ông ấy rằng tôi là người Pháp, anh thông ngôn! nói với ông ấy rằng tôi là một người bạn của Quốc Vương, nói với ông ấy rằng các đồng bào của tôi không bao giờ có xích mích với ông ấy, mà những kẻ thù của ông ấy cũng là kẻ thù của chúng tôi!

Mansoor nói:

- Ông chỉ huy hỏi ông theo tôn giáo nào. Ông ấy nói Quốc vương không cần chút nào tới tình bạn của những kẻ ngoại đạo và những kẻ vô tín ngưỡng.

- Hãy giải thích cho ông ấy rằng ở Pháp chúng tôi coi tất cả các tôn giáo đều tốt cả.

- Ông chỉ huy nói rằng chỉ có con chó báng bổ tôn giáo và đứa con trai của một con chó mới khẳng định rằng tất cả mọi tôn giáo cũng đều tốt như nhau. Ông ấy nói rằng nếu ông đích thực là bạn của Quốc Vương, thì ông sẽ tiếp nhận kinh Coran và sẽ trở thành ngay tại nơi đây một tín đồ chân chính. Trong trường hợp đó, ông ấy sẽ gởi ông về Khartoum bình an vô sự.

- Nếu không thì sao?

- Nếu không thì ông sẽ chiu chung số phận với những người khác.

- Vậy thì hãy trình lên ông chỉ huy những lời chúc tụng của tôi và nói với ông ấy rằng người Pháp không có thói tục thay đổi tôn giáo dưới sự cưỡng ép.

Viên chỉ huy nói ra một vài tiếng, rồi quay lại bàn bạc với một tên Ả Rập thấp lùn đứng bên cạnh y.

"Ông ấy nói, thưa ông Fardet" anh chàng thông ngôn nói tiếp, "nếu ông còn nói nữa thì ông ấy sẽ làm ông biến thành một miếng thịt băm để cho chó ăn. Xin ông đừng nói gì thêm làm cho ông ấy nổi giận, vì ông ấy đang quyết định số phận của chúng ta".

"Hắn là ai vậy?" ông đại tá hỏi.

- Ali Vabrahim. Chính là người năm ngoái đã mở cuộc hành quân vào làng của người Nubie và là người đã tàn sát tất cả dân làng ở đó.

“Tôi đã nghe nói tới hắn ta", ông đại tá nói. Hắn ta đã nổi danh là một trong những tên trùm thầy tu Hồi giáo gan dạ nhất và cuồng tín nhất. Cảm ơn Thượng đế là các phụ nữ đã không lọt vào tay chúng!"

Hai tên Ả Rập trao đổi vài câu với sự dè dặt khắc khổ làm người ta kinh ngạc trong một chủng tộc ở miền Nam, chúng quay lại phía anh thông ngôn vẫn còn quì gối trên bãi cát. Chúng đưa ra nhiều câu hỏi linh tinh về các tù nhân trong khi chỉ chỏ hết người này tới người nọ. Chúng lại bàn bạc với nhau một lần nữa, và sau cùng thì chúng nói với Mansoor một vài tiếng, cùng lúc kèm theo một cử chỉ khinh mạn bằng bàn tay để biểu thị rằng y có thể dịch những câu này cho các du khách.

"Thưa Quí vị, ta hãy tạ ơn trời, vì tôi tin rằng chúng ta được thoát nạn trong lúc này!" Mansoor nói thì thào trong khi chùi cái trán lem luốc cát của y. "Ali Wad lbrahim nói rằng một kẻ vô tín ngưỡng chỉ đáng lãnh một nhát kiếm của người con trai của đấng tiên tri, nhưng đấng bề trên Omdurman cho rằng có số vàng mà gia đình các quí vị trả cho các quí vị thì tốt hơn. Cho tới khi nộp khoản tiền chuộc đó, quí vị sẽ có thể làm việc như những người nô lệ của Quốc Vương trừ khi ngài quyết định bắt quí vị phải chết. Quí vị sẽ leo lên lưng lạc đà và quí vị sẽ cùng đi với đoàn quân.

Chờ tới khi chấm dứt việc thông dịch, tên chỉ huy ra một cái lệnh ngắn gọn, một tên da đen bước một bước về phía trước và giơ cao lên một thanh gươm mũi cong, dài. Anh chàng thông ngôn co dúm người lại như một con thỏ khi trông thấy một con chồn đen và y lại phủ phục xuống trên bãi cát.

"Việc gì xảy ra vậy, Cochrane?" Cecil Brown hỏi. Quả thực viên đại tá đã từng phục vụ ở Đông Phương và ông là người duy nhất trong bọn du khách đã có một vài hiểu biết về tiếng Ả Rập.

- Theo chỗ mà tôi hiểu được thì hắn ta nói giữ lại mạng sống của anh thông ngôn thật là vô ích, vì không có ai quan tâm tới chuyện trả tiền chuộc cho anh ta, và anh ta lại quá mập để làm một tên nô lệ tốt.

"Rõ tội nghiệp!" Brown kêu lên "Này, Cochrane, hãy nói với bọn chúng tha mạng cho anh ta. Chúng ta sẽ không để cho anh ấy bị sát hại trước mắt chúng ta chứ? Báo cho chúng biết là chúng ta sẽ gom góp tiền bạc trong chúng ta. Tôi đồng ý với bất cứ một số tiền phải chăng nào".

"Tôi cũng tham gia cho tới giới hạn các khả năng của tôi". Belmont la lớn.

"Chúng ta sẽ ký một tờ bảo chứng", ông luật sư nói. "Nếu tôi có được một tờ giấy và một cái bút chì, tôi sẽ thảo văn bản trong một lát, và tên chỉ huy này sẽ có thể tin vào hiệu lực của nó".

Nhưng tiếng Ả Rập của ông đại tá còn kém quá và chính Mansoor thì lại quá hoảng sợ không còn hiểu được cái đề nghị mà anh ta là đối tượng. Tên da đen nhìn lão chỉ huy để hỏi ý kiến, rồi cái tay dài thòng, đen đúa của y dãn ra. Nhưng anh chàng thông ngôn gào lên một câu làm nhát chém ngừng lại, tên chỉ huy và gã phụ tá bước tới gần hắn. Những tên khác làm thành một vòng tròn chung quanh con người đang phủ phục van xin lòng thương.

Ông đại tá không hiểu nguyên do của sự thay đổi đột ngột này, nhưng một bản năng đã cảnh báo Stephens làm ông tái mét đi vì hoảng sợ.

"Ôi đồ khốn kiếp! " ông la lớn mặt tái nhợt đi. "Câm miệng mi lại, đồ khốn nạn! Im miệng đi! thà rằng chết... Phải, chết một ngàn lần!"

Đã quá trễ rồi. Những du khách đã đoán ra với phương sách đê tiện nào tên hèn nhát hy vọng cứu vãn mạng sống của hắn; hắn sẽ tiết lộ những người đàn bà. Họ nhìn tên chỉ huy, mà nét mặt để lộ ra sự khinh bỉ của một con người dũng cảm, ra một dấu hiệu cao ngạo

tỏ sư ưng thuận; rồi Mansoor nói một cách vội vã trong lúc chỉ lên đỉnh núi! Theo một hiệu lệnh của tên chỉ huy, hơn mười tên chiến binh leo lên con đường nhỏ và trở lại chỗ nền phẳng; tới đó các du khách không còn nhìn thấy chúng nữa, họ nghe thấy một tiếng kêu sắc nhọn, một tiếng gào thét kéo dài của sự kinh ngạc và khủng khiếp. Một vài lát sau bọn man rợ tái hiện, chúng đi vây quanh hai người đàn bà. Sadle là người có đôi chân nhanh nhẹ nên đi xuống sườn đồi cùng với những tên đi đầu và cổ vũ người cô bằng cách quay đầu nhìn lại phía bà ấy! Người con gái già vùng vẫy chống cự giữa bọn chiến binh mặc đồ trắng, nàng có dáng điệu một con gà nhép bị lôi ra khỏi ổ.

Cặp mắt đen của tên chỉ huy, thản nhiên trước cảnh tượng của cô Adams, nhưng lại bốc lửa lên khi y nhìn thấy cô thiếu nữ. Theo lệnh của y, các tù nhân được dẫn tới chỗ những con lạc đà đang quì gối. Họ đã bị lục soát, các vật dụng trong túi họ được ném vào một cái bao mà Aail Wad Ibrahim đã tự tay mình lấy dây buộc lại.

"Này Cochrane" Belmont thì thầm nói. "chúng đã không phát hiện được khẩu súng lục nhỏ mà lúc nào tôi cũng mang trong người. Nếu tôi bắn hạ tên không ngôn khốn kiếp kia về tội đã tố cáo các phụ nữ có được không?"

Ông đại tá lắc đầu.

"Tốt nhất là ông hãy giữ nó đấy". Ông trả lời với một giọng ảm đạm "Các phụ nữ sẽ có thể rất cần tới nó trước khi kết thúc mọi chuyện này!”.



________Hết chương 4________
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 20-9-2011 08:06:17 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5

Những con lạc đà lông trắng hay màu hạt dẻ đang quì gối thành một hàng; những quai hàm của chúng luôn động đậy để nhai một cách nhịp nhàng và những cái đầu diễm lệ của chúng quay về bên phải hay bên trái với một bộ điệu õng ẹo. Đó là đặc điểm của phần lớn những con vật cao quí, là những con vật chính cống để chạy ở nước Ả Rập, chúng có những cái chân mảnh dẻ và cái cổ nhỏ là những thứ chứng thực cho chủng loại của chúng. Nhưng chúng cũng được kèm theo một vài con vật chậm chạp hơn, năng nề hơn, được nuôi nấng tồi tệ và trên da những con vật này ta còn nhìn thấy những vết sẹo đen của những trận đánh nhau từ trước. Lúc đi thì chúng chuyên chở lương thực và những túi da đựng nước uống của bọn kẻ cướp, được trút bỏ các vật nặng trên mình, các vật này được san sẻ ngay cho những con lạc đà khỏe mạnh, chúng lặng lẽ tiếp nhận những tù nhân. Chỉ có một mình ông Stuart là bị trói tay thôi : bọn người Ả Rập đã biết rằng đó là một giáo sĩ và vốn có thói quen liên kết tôn giáo với bạo lực, chúng thấy cơn nóng giận của ông là hoàn toàn bình thuờng thôi, tuy nhiên chúng đã coi ông như một kẻ nguy hiểm nhất và liều lĩnh nhất trong toán tù nhân của chúng. Ngược lại, những người khác không phải là đối tượng của một biện pháp phòng ngừa nào, hơn nữa sự chậm chạp của những con vật họ cưỡi sẽ ngăn cản mọi hy vọng đào thoát của họ. Trước những lời quát tháo của bọn Ả Rập, những con lạc đà đứng lên và đám rước dài chuyển động, quay lưng về phía con sông hiền hậu, đám rước hướng về phía đám sương mù tím lóng lánh bao quanh bãi sa mạc vừa rùng rợn vừa xinh đẹp, với màu sắc sặc sỡ như một tấm da cọp có màu đen và vàng ửng.
Đại tá Cochrane là người duy nhất trong đám du khách đã từng nếm mùi di chuyển trên lưng lạc đà. Những người bạn đường của ông thấy mình bị nhấc bổng lên khá cao bên trên mặt đất, với sự lắc lư quái dị của con vật, cộng với sự thiếu vững vàng của cái yên làm họ nôn mửa, và sợ hãi. Nhưng sự khó chịu về thể xác này không thấm thía gì so với cơn lốc trong đầu óc họ, một cái vực thẳm vừa được đào ra giữa quá khứ và hiện tại của họ. Được đào ra một cách mau lẹ quá, bất ngờ quá! Trước đây chưa đầy một giờ họ còn ở trên đỉnh núi Abousir cười nói huyên thuyên hay càu nhàu với sự nóng bức hay lũ ruồi. Headingly đã công kích dữ dội những màu sắc thái quá của tạo hóa, làm sao mà có khi nào họ sẽ quên được sự tái nhợt của đôi má của ông ấy khi ông ấy bị đánh chết nằm bất động trên núi đá đen xì? Sadic đã thuyết giảng về những chiếc áo dài và những quần áo, lúc này thì nàng đang bám chặt lấy cái núm của cái yên bằng gỗ, gần như phát điên cuồng, với tất cả hy vọng chỉ còn là ngôi sao đỏ của sự tự sát đang mọc lên trong bộ não non trẻ của nàng. Về lòng nhân đạo, về sự hợp lý, về cách lập luận, những điểm đó không còn là vấn đề nữa: chỉ có sự hạ nhục phũ phàng của bạo lực là còn lại. Trong lúc này tàu thủy của họ đang đậu phía sau mỏm đá thứ nhì, đang đợi họ ở nơi đó, tàu thủy của họ, những căn phòng của họ, quần áo tinh khiết, những cái cốc óng ánh, quyển tiểu thuyết sau cùng hợp thời trang, những tờ báo ở Luân Đôn. Họ không cần phải có một cố gắng lớn lao về trí tưởng tượng để hình dung ra cái lều vải trắng, bà Shlesinger dưới cái mũ màu vàng của bà ấy, và bà Belmont nằm duỗl dài trên cái ghế dài! Phải, nó gần như hiện ra trong tầm mắt của họ, cái mảnh nhỏ bé đang nổi bập bềnh này của tổ quốc họ, và cứ mỗi bước chân không đều đặn, lặng lẽ là những con lạc đà lại làm cho họ cách xa con tàu một cách tuyệt vọng. Ngay cả buổi sáng hôm ấy, hình như đấng tối cao đã tỏ ra tốt bụng với họ! Và đời sống thoải mái biết bao! Có thể là hơi nhàm một chút, nhưng rất thư thái, rất an nhàn, còn bây giờ thì...
Cái khăn đỏ, những cái áo với nhiều mảnh chắp nối, những đôi giày vàng đã báo cho ông đại tá biết rằng những người này không hợp thành một bọn cướp của dân du mục, mà chúng thuộc về đạo quân chính qui của Quốc Vương. Càng đi vào sâu trong sa mạc, chúng càng tỏ ra là chúng có một kỷ luật thô bạo cần thiết cho nhiệm vụ của chúng. Cách môt ngàn năm trăm mét về phía trước và ở mỗi bên sườn, những tên xích hầu của chúng lặn vào và lại hiện ra ở giữa những cồn cát vàng. Ail Wad lbrahim dẫn đầu đoàn người, viên phụ tá của hắn chỉ huy toán hậu vệ. Đám rước kéo dài trên hai trăm mét, với nhóm nhỏ những tù nhân ở quãng giữa. Vì bọn Ả Rập không tìm cách cách li họ với nhau, ông Stephens đã có thể lướt con lạc đà của ông vào giữa những con lạc đà của hai cô gái.
"Chớ nản lòng, cô Adams ạ!" ông nói. "Rõ ràng đây là một sự lăng nhục không thể tha thứ được, nhưng không nghi ngờ gì là sẽ có những biện pháp thích ứng để dàn xếp công việc. Tôi tin chắc rằng chúng ta sẽ không phải chịu đựng một thứ gì trầm trọng hơn là một vài sự bực bội tạm thời. Nếu không có tên đạo tặc Mansoor, thì không ai phát hiện ra các cô!".
Chỉ trong thời gian một giờ đồng hồ cô gái già ở thành phố Boston đã thay đổi một cách đáng thương: cô đã trở thành một bà lão rất già. Cặp má nâu của cô hõm xuống, cặp mắt cô long lanh một cách dữ tợn và không ngừng nhìn vào Sadie với sự lo sợ, những tai hoạ thường thường gây ra các kỳ tích của sự bất tư kỷ: tất cả những con người này đang đi tới số mạng của họ, đều đã vứt bỏ tất cả sự phù phiếm, tất cả lòng vị kỷ, mỗi người chỉ nghĩ tới người khác. Sadie thì nghĩ tới bà cô của nàng, bà này lại nghĩ tới Sadie. Bọn đàn ông nghĩ tới những phụ nữ, Belmont nghĩ tới bà Belmont, nhưng ông cũng nghĩ tới việc khác nữa, vì ông đã dẫn con lạc đà của ông tới độ cao bằng con lạc đà của cô Adams.
"Tôi có một điều muốn nói với cô" , ông thầm thì nói. "Chúng ta có nguy cơ là sắp phải xa nhau, do đó ta nên thực hiện những sự xếp đặt mà không để mất thì giờ".
"Xa nhau!" cô Adams rên rỉ.
- Nói nhỏ chứ, vì cái thằng quỉ Mansoor kia có thể phản bội chúng ta một lần nữa. Tôi hy vọng rằng chúng ta sẽ không phải xa nhau, nhưng đó là một việc có thể xảy ra. Chúng ta phải chuẩn bị cho sự tệ hại nhất. Thí dụ chúng sẽ có thể quyết định trừ khử những đàn ông và giữ các cô lại.
Cô Adams rùng mình:
- Tôi phải làm gì? Cầu xin Thuợng đế, ông hãy nói cho tôi biết là tôi phải làm gì, ông Belmont! Tôi là một phụ nữ già, tôi đã sống. Nếu chỉ có một mình tôi bị liên luỵ tôi sẽ có thể chịu đựng tất cả. Nhưng còn Sadie! Tôi đã hoàn toàn phát điên lên khi tôi nghĩ tới nó, mẹ nó đang chờ nó ở nhà, và tôi thì...
Cô chắp hai bàn tay nhỏ nhắn, gầy gò vào nhau trong một sự lo âu không thể diễn tả được.
"Hãy luồn một tay vào trong áo choàng của cô", Belmont nói trong khi cho con lạc đà của ông đứng sát vào con lạc đà của cô gái già người Mỹ. "Chớ để nó rơi mất. Đó! Bây giờ hãy giấu nó bên trong áo dài của cô. Cô sê luôn luôn có một cái chìa khóa để mở cho cô bất kỳ một cái cửa nào".
Cô Adams sờ vào cái vật mà ông ta mới đưa cho cô và thoạt đầu cô nhìn ông với sự kinh hoàng. Rồi cô cắn môi và lắc cái đầu khắc khổ của cô với sự bất đồng ý. Cuối cùng thì cô nhét khẩu súng nhỏ dưới áo dài của cô, và cô tiếp tục tiến lên, tâm hồn trong một cơn bão tố. Có phải đúng là cô ấy không, cô Eliza Adams ở Boston, người đã sống một cuộc đời chật hẹp nhưng sung sướng giữa căn nhà êm ấm của cô ở Đại lộ Commonwealth và giáo đường trưởng lão phái ở Tremont không? Kia kìa, cô đang ngồi chót vót trên một con lạc đà, bàn tay úp chặt trên một cái báng súng lục, và đang cân nhắc trong đầu sự biện minh cho một vụ sát nhân. Hỡi ôi cõi đời, cõi đời phản phúc, làm thế nào để đặt lòng tin vào mi? Khi mi phô bày những bộ mặt tồi tệ của mi với chúng ta thì chúng ta có thể đối phó được, nhưng khi mà mi làm ra bộ dịu dàng nhất và trơn tru nhất là khi mà chúng ta phải e sợ mi nhiều hơn.
"Cô Sadie ạ, cùng lắm thì chỉ là vấn đề tiền chuộc thôi", Stephens nói trong khi diễn tả sự trái ngược với điều mà ông đang thật sự suy nghĩ. Ngoài ra chúng ta vẫn còn ở rất gần Ai Cập và ở xa xứ sở bọn thầy tu Hồi giáo. Cô có thể tin chắc rằng sự truy lùng sẽ được thực hiện một cách ráo riết. Điều cần thiết là cô phải cố sức đừng để mất lòng can đảm, và phải hy vọng rằng mọi sự rồi sẽ qua đi một cách tốt đẹp".
"Không, ông Stephens ạ, tôi không sợ!" Sadie trả lời trong lúc quay về phía ông một bộ mặt trắng bệch, sự kiện này đã phủ nhận những lời nói của cô. "Chúng ta đang nằm trong tay Thuợng đế, và chắc chắn là Ngài sẽ không độc ác với chúng ta. Khi các sự việc diễn tiến tốt đẹp thì người ta dễ dàng nói chắc rằng người ta tin tưởng ở Ngài, nhưng bây giờ sự thử thách có tính chất quyết định đang tới gần, nếu Ngài có ở trần cao kia, đằng sau khoảng trời xanh...
"Ngài ở trên cao kia!" một tiếng nói ở phía sau họ đáp lời. Đó là vị mục sư ở Birmingham, người vừa theo kịp nhóm họ. Hai bàn tay bị trói của ông bám chặt lấy cái yên và ông lắc qua, lắc lại cái thân hình béo xị ở mỗi bước đi của con lạc đà, máu chảy nhỏ giọt ở cẳng chân bị thương của ông, và những con ruồi bám chặt vào đó, ánh nắng thiêu đốt của sa mạc giội lên đầu ông vì trong lúc đánh lộn ông đã đánh mất cái mũ và cái dù của ông. Sự khởi dầu của cơn sốt nóng lạnh đã làm hơi ửng hồng cặp má đồ sộ xanh mét của ông, mắt ông long lanh, với các bạn đồng hành của ông thì bao giờ ông cũng có vẻ với tầm thuờng. Lúc này thì ông đã biến đổi, ông đã trở thành thanh khiết, linh diệu và hăng say. Ông đã trở thành dũng mãnh một cách quá kỳ lạ khiến cho chỉ cần nhìn vào ông mà những người khác cũng cảm thấy dũng mãnh hơn lên. Ông nói về sự sống và sự chết, về hiện tại và về những hy vọng về tương lai của họ, đám mây đen của sự khốn khổ của họ đã bắt đầu thủng rách và để một tia ánh sáng lọt qua. Cecil Brown nhún vai, vì không phải chỉ trong một giờ đồng hồ mà ông thay đối được các tín niệm của cả đời ông, nhưng số người còn lại của cái nhóm nhỏ này, kể cả Fardet, đều cảm thấy động tâm và tăng thêm nghị lực. Mọi người đều bỏ mũ ra khi ông cầu nguyện. Ông đại tá lấy khăn quàng cổ bằng lụa đỏ của mình làm ra môt cái khăn đội đầu và nài nỉ ông Stuart hãy quấn nó lên đầu. Với bộ y phục tăng lữ và cái khăn sặc sỡ này, trông ông giống như một người nghiêm nghị mà lại hóa trang để đùa với lũ trẻ con.
Rồi sự hành hạ bất khả kháng của sự khát nước tới góp thêm vào với những cơn nôn mửa do bước đi của những con lạc đà gây ra, nắng như thiêu đốt; ánh nắng phản chiếu trên bãi cát vàng; cánh đồng rộng lớn sáng long lanh đến độ mà họ có cảm tưởng là cỡi ngựa đi trên một lớp kim loại đang bị nung chảy thành chất lỏng. Môi họ khô queo như bị nóng cháy, và lưỡi họ thì như là một tiếng da khô. Khi họ nói chuyện với nhau, họ nói một cách cứng đơ kỳ quặc vì họ chỉ phát âm được các nguyên âm là không cần cố gắng thôi. Cô Adams cúi đầu xuống, cái mũ lớn đã che khuất bộ mặt của cô.
Sadie nói:
- Cô tôi sẽ ngất xỉu nếu người ta không cho cô ấy uống nước. Ông Stephens ơi, chúng ta không thể làm được một việc gì cả à?
Bọn thầy tu Hồi giáo đang ở gần đó đều là bọn bagarras, ngoại trừ một tên da đen mà bộ mặt còn mang dấu vết của một bệnh đậu mùa mới lành. Hắn có vẻ ít hung ác hơn lũ bạn người Ả Rập của hắn, do đó Stephens đã đánh liều chạm vào khuỷu tay hắn và lần lượt chỉ cho hắn cái túi da đựng nước và cô gái già. Tên da đen lắc đầu một cách không đồng ý, nhưng hắn ném một cái nhìn đầy ý nghĩa vào những tên Ả Rập như thể muốn nói rằng nếu không có chúng ở đó thì hắn sẽ xử sự một cách khác. Rồi hắn đặt ngón tay trỏ đen đúa của hẳn lên ngực hắn.
"Tippy Tilly" hắn nói.
"Là cái gì?" đại tá Cochrane hỏi.
"Tippy Tilly" , tên da đen nhắc lại, hạ thấp giọng như thể hắn không muốn để cho lũ bạn của hắn nghe thấy.
Ông đại tá lắc đầu.
"Rõ ràng là tiếng Ả Rập của tôi quá tệ. Tôi không hiểu hắn muốn nói gì", ông càu nhàu.
"Tippy Tilly. Hicks Pacha", tên da đen nhắc lại.
"Tôi nghĩ rằng hắn không muốn làm hại chúng ta, nhưng tôi không hiểu một tiếng nào trong ngôn ngữ của hắn", ông đại tá nói với Belmont. "Ông không nghĩ rằng hắn muốn nói tên hắn là Tippy Tilly và hắn đã giết chết Hicks Pacha chứ?"
Tên da đen nhe những cái răng lớn, trắng ởn ra khi hắn nghe thấy nhắc lại những từ mà hắn đã dùng.
Hắn nói:
- Aiwa, Tippy Tilly, Bimbashi Mormer... Boum!
"Đúng rồi! tôi hiểu rồi" Belmont nói lớn. Hắn cố sức nói tiếng Anh Tippy Tilly, đó là gần như tiếng pháo binh Ai Cập. Hắn đã phục vụ trong pháo binh Ai Cập dưới quyền Bimbashi Mortimer. Hắn đã bị bắt làm tù binh khi Hicks Pacha bị tiêu diệt và hắn đã trở thành thầy tu Hồi giáo để giữ lấy mạng sống của hắn. Hãy hỏi hắn xem tôi có lầm không!".
Ông đại tá nói vài tiếng và nhận được một câu trả lời nhưng hai tên Ả Rập tiến lại gần, tên da đen im tiếng và thúc lạc đà bước nhanh.
"Ông nói đúng", ông đại tá nói. "Tên da den này không muốn làm hại chúng ta một chút nào, và hắn thích chiến đấu cho Phó Vương Ai Cập hơn là cho Quốc Vương. Tôi không biết là bằng cách nào hắn sẽ có thể giúp đỡ chúng ta, nhưng tôi đã từng ở trong những tình thế tệ hại hơn trong hợp này, tuy nhiên tôi vẫn thoát nạn được. Tóm lại, không phải là chúng ta đã ở ngoài tầm tấn kích, và những người truy kích còn có thể bắt kịp chúng ta trong bốn mươi tám giờ nữa ".
Belmont làm những con toán với sự chính xác thường lệ của ông.
"Khi chúng ta ở trên núi thì vào khoảng gần trưa", ông nói. "Ở trên tàu người ta bắt đầu lo lắng khi thấy chúng ta không trở về vào lúc hai giờ"
"Đúng", ông đại tá ngắt lời. "Chúng ta phải ăn điểm tâm lúc hai giờ. Tôi nhớ rằng tôi đã nói là khi trở về tôi sẽ uống rượu... Ồ, lạy Chúa, tốt nhất là đừng nghĩ tới chuyện đó nữa!".
"Viên thiếu tá là một ông già nhu nhược", Belmont nói tiếp. "Nhưng tôi có lòng tin tuyệt đối vào sự mẫn nhuệ và tinh thần cương quyết của vợ tôi. Bà ấy sẽ đòi phải ban hành lệnh báo động. Giả thiết là họ đã lên đường lúc hai giờ rưỡi, thì họ sẽ tới Ouadi-Halfa lúc ba giờ, vì họ di theo dòng nước. Phải mất bao nhiêu thì giờ để cho đoàn quân cỡi lạc đà rục rịch di chuyển?".
- Ta hãy tính là một giờ đi.
- Thêm vào một giờ để chúng qua sông. Chúng sẽ tới núi Abousir vào lúc sáu giờ, và chúng sẽ thấy đường đi ngay tức thì. Vào lúc đó là sự truy lùng sẽ bắt đầu. Chúng ta chỉ đi trước có bốn giờ, và trong những con lạc đà này một vài con đã mệt lử. Chúng ta còn có thể được giải thoát, Cochrane ạ !
- Phải, có thể một vài người trong bọn chúng ta. Nhưng tôi không nghĩ rằng ông mục sư còn sống đuợc tới sáng mai, cả cô Adams nữa. Không phải họ được sinh ra cho cái loại phiêu lưu, mạo hiểm này. Hơn nữa, chớ quên rằng bọn người này thường có thói ám sát các tù nhân khi những người này tìm cách trốn khỏi tay chúng. Belmont này, trong trường hợp mà ông thoát hiểm, chớ không phải là tôi, tôi có một vấn đề để áp mà tôi sẽ nhờ ông thanh toán thay tôi.
Họ tiến lại gần nhau để nói rõ hơn về các chi tiết của công việc.
Tên da đen tự đặt tên mình là Tippy Tilly đã tìm cách lén đưa một mảnh vải ướt sũng nước vào tay ông Stephens và cô Adams có thể làm ướt cặp môi. Một vài giọt nước này đã ban cho cô một sức mạnh mới, một khi qua khỏi sự chấn động đầu tiên, cái bản chất hăng hái, dẻo dai của cô lại y nguyên như trước.
"Ông Stephens này, những người này không có vẻ muốn làm hại chúng ta", cô nhận xét. "Họ phải có một tôn giáo giống hệt như chúng ta; chắc chắn là họ cũng thấy là xấu những gì mà chúng ta coi là xấu...".
Stephens lắc đầu không trả lời. Ông đã chứng kiến sự tàn sát những tên dắt lừa, việc mà cô gái già người Mỹ không nhìn thấy.
"... có lẽ" cô nói tiếp, "chúng ta được cử tới chỗ họ để dẫn dắt họ theo một con đường tốt hơn. Có lẽ chúng ta được cử ra để hoàn thành một công trình tốt đẹp trong nước họ".
Nếu cô cháu gái không có mặt tại đó thì cái tính tình dũng cảm, táo bạo của cô đã tìm được sự ủy lạo trong cái khả năng thực hiện một cuộc truyền giảng phúc âm rực rỡ ở Khartoum, hay sự biến đổi Omdurman thành cái mẫu nhỏ của một thành phố ở Nouvelle-Angleterru với những đại lộ rộng lớn.
"Cô có biết cháu đang không ngừng nghĩ tới một điều gì không?" Sadie hỏi. "Cô có nhớ tới ngôi đền mà chúng ta đã xem vào lúc nào nhỉ? Phải rồi, đó là vào sáng hôm nay!"
Cả ba người đều thốt ra một tiếng kêu kinh ngạc. Phải, họ đã xem ngôi đền đó ngay buổi sáng hôm nay, vậy mà ký ức hình như xuất hiện từ một quá khứ xa xôi, mờ mịt, biến cố xảy ra trong đời họ càng đột ngột và sâu đậm, thì những ý nghĩ của họ càng đi theo một chiều huớng khác biệt. Họ ngồi trên lưng lạc đà di chuyển trong sự yên lặng, cho tới lúc Stephens nhắc nhở Sadie là nàng chưa nói hết câu nói của nàng.
- À phải! Tôi muốn nói về những hình chạm nổi ở ngôi đền. Ông có nhớ đoàn tù nhân khốn khổ bị kéo lê dưới chân vị Đại Vương không? Và hình như họ bị hạ sát giữa bọn chiến binh dẫn giải họ thì phải? Ai có thể nghĩ rằng chưa đầy ba giờ nữa chúng ta sẽ gặp cùng một số phận như vậy! và ông Headingly ...

(Còn nữa)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách