|
Cuốn nhật ký
(tiếp theo)
Nhưng chỉ sau ít giờ khi Anne bắt đầu ghi nhật ký thì lệnh của bọn lính Quốc Xã SS được giao cho Margot, 16 tuổi. Chị phải trình diện ngày hôm sau để bị chuyển tới trại lao động cải tạo bên trong nước Đức. Không còn trì hoãn được nữa. Sáng sớm ngày hôm sau, toàn thể gia đình Frank biến mất. Margot đi trước, chị lột bỏ ngôi sao vàng trên áo và đạp chiếc xe đạp ăn cắp, đi trong trời mưa cùng với Miep Gies tới nơi ẩn núp. Anne và cha mẹ đi bộ theo sau. Họ đã ra đi để được sống gần nhau nhưng phải xa lìa mọi thứ trên thế gian. Nhật ký đã ghi: “Mỗi người chúng tôi có một túi đeo và một túi xách đầy ắp những đồ vật cần thiết”.
Do xếp đặt trước, vài người khác cũng tới nơi ẩn núp này. Có 3 người Do Thái khác đang gặp nguy khốn là ông Hermann Van Pels, vợ ông ta và con trai Peter, 15 tuổi. Ông Hermann là đồng nghiệp của ông Otto. Vào lúc này, có tin đồn rằng gia đình Frank đã bỏ trốn qua Thụy Sĩ.
Nhật ký ghi thêm: “Ngày 11 tháng 7. Có vẻ như ngày nghỉ trong một căn nhà trọ lạ lùng. Căn nhà thì ẩm thấp và nghiêng lệch, nhưng trong cả nước Hòa Lan, không có nơi ẩn núp nào tiện lợi hơn nơi này. Phòng ngủ của chúng tôi cho tới nay thì trơ trụi, nhưng nhờ có cha mang về các tờ báo điện ảnh, tôi có thể dán kín các bức tường bằng các hình đẹp mắt”. Margot và Anne ngủ trong căn phòng dài và hẹp này, bên cạnh là căn phòng của cha mẹ. Gia đình Van Pels chiếm hai phòng kia. Cửa vào căn phòng được ngụy trang bằng một tủ sách xoay và trên mỗi cửa sổ đều có màn tối che phủ. Bên trong căn phòng, mọi người phải thật thận trọng khi nấu ăn, xả rác hay dùng chiếc cầu tiêu duy nhất. Vào ban ngày mọi người phải đi dớ mà di chuyển, phải thì thầm nói với nhau do e sợ bị các công nhân làm trong nhà kho bên dưới nghe thấy, bởi vì các công nhân không biết rằng trên đầu họ đang có các kẻ ẩn núp.
Các ngày buồn tẻ của mùa hè năm 1942 trôi dần qua. Vào tháng 11, cô Miep tới nơi ẩn núp, báo cho mọi người biết tin rằng nha sĩ Fritz Pfeffer đang tuyệt đối cần gấp một nơi trốn tránh vì vậy chị Margot phải dọn vào ngủ trong phòng với cha mẹ và Anne chia phòng với người mới đến. Như thường lệ, bốn nhân viên trung thành thay nhau tiếp tế cho các người ẩn núp sau khi các công nhân làm việc trong tòa nhà đã ra về, họ mang tới đồ ăn và các nhu yếu phẩm rất khó kiếm như xà bông, kem đánh răng, thuốc cảm aspirin. Họ cũng tìm được vài cuốn sách và các tạp chí. Anne đã ghi lại như sau: “họ không hề than phiền về gánh nặng mà họ phải chịu đựng”.
Anne Frank cũng hỏi tin của các bạn bè cùng gia đình của các người bạn này nhưng không bao giờ có các tin vui cả. Qua chiếc máy truyền thanh lén lút, các người ẩn núp nghe thấy đài phát thanh BBC loan báo về các vụ trục xuất tập thể. Khi tới nơi trú ẩn, ông Pfeffer cũng cho các người trong nhà này biết rằng bọn Đức Quốc Xã đã đi từng nhà săn lùng các người Do Thái.
Nhật ký của Anne Frank ghi như sau: “Vào lúc trời tối, tôi thường trông rõ nhiều hàng dài các con người vô tội bị dẫn đi. Họ đi vào cõi chết. Tôi cảm thấy mắc tội khi còn ngủ trên chiếc giường ấm áp và hết sức hãi hùng khi nghĩ đến các bạn thân hiện nay là nạn nhân của các con quỷ dữ tợn nhất trên mặt đất. Tất cả là nạn nhân, bởi vì họ là các người Do Thái”. Sau này, Anne còn viết rằng: “Nhưng tôi sẽ không nói thêm về đề tài này. Các ý nghĩ này đủ cho tôi các cơn ác mộng”.
Các cơn ác mộng thật sự tới với những người ẩn núp khi có kẻ trộm lẻn vào nhà kho bên dưới và cảnh sát Đức lục lọi tòa nhà trong khi mà tám nạn nhân trốn tránh trong căn phòng bí mật. Nhật ký ghi: “Có chân người bước lên cầu thang, rồi tiếng kẹt kẹt tại tủ sách. Tôi nói “bây giờ tới số rồi”, nhưng sau đó bước chân lui dần, cho tới lúc này chúng tôi thoát hiểm”.
Khi Anne Frank đã ghi hết các trang giấy, cô Miep lại mang tới những tờ giấy trắng rời của các cuốn sổ ngân hàng rồi Anne tiếp tục viết. Cuốn nhật ký là người bạn thân nhất của Anne, cô viết theo trí tưởng tượng: “Tôi cảm thấy mình như một con chim sơn ca có cánh bị chặt bỏ và tự đập mình vào thành của chiếc lồng đen tối”. Hai tháng sau lần viết ra câu này, Anne tự hỏi: “Có ai biết rằng tôi chỉ là một thiếu nữ rất cần tới các trò chơi đơn giản không?”. Lúc đầu, Anne Frank đã cự tuyệt cậu Peter van Pels, 15 tuổi, coi như là “một cậu trai vụng về, kết bạn chẳng có lợi gì” nhưng vào mùa xuân năm 1944 khi Anne sắp được 15, hai người trẻ tuổi này đã yêu thương nhau. Họ thường gặp nhau tại tầng sát mái, nơi có cửa sổ nhìn lên bầu trời xanh, nhìn thấy ngọn cây hạt dẻ xanh tươi và các con hải âu bay lượn theo chiều gió.
"Ngày 16 tháng 4. Tôi nhớ lại buổi gặp gỡ hôm qua. Đây có phải là một ngày quan trọng không khi người con gái nhận nụ hôn đầu tiên?... Cha muốn tôi chấm dứt việc tôi lên trên tầng cao nhất đó nhưng tôi thích gần Peter. Tôi tin anh ấy”.
Anne Frank đọc thật kỹ các cuốn sách do cô Miep mang tới: “Ôi, có quá nhiều để tìm kiếm và để học hỏi” và cô bé này ước mong viết ra một cuốn sách có tên là “Căn phòng bí mật”, tức là cuốn nhật ký của cô. “Tôi muốn trở thành một nhà văn. Tôi biết rằng tôi có thể viết văn. Tôi muốn tiếp tục sống sau khi qua đời! Và đây là lý do tại sao tôi biết ơn Thượng Đế vì đã cho tôi năng khiếu này, nhờ đó tôi có thể diễn tả những gì bên trong tâm hồn của tôi”.
Vào 8 giờ sáng ngày 6 tháng 6 năm 1944, đài BBC loan tin quân đội Đồng Minh đổ bộ lên bờ biển Normandy. Hy vọng đã lóe lên trong căn phòng bí mật. Có thể đây là năm chiến thắng và giải phóng? Nếu như vậy, Anne mơ mộng trở lại trường học trong khóa học tới? Vài ngày sau, Anne kỷ niệm ngày sinh thứ 15.
Thế nhưng khúc cuối bi đát đã tới vào buổi sáng ngày thứ Sáu, tức là ngày 4 tháng 8, sau khi các người ẩn núp đã trải qua 761 ngày dài lâu và đau khổ. Vào khoảng 10 giờ 30 sáng, một chiếc xe quân đội Đức ngừng lại trước tòa nhà số 263 đường Prinsengracht và các cảnh sát mặc thường phục với một cảnh sát mặc sắc phục dẫn đường chạy vào tòa nhà. Chúng chĩa súng vào Victor Kugler, bắt anh phải dẫn tới tủ sách giả và chúng ra lệnh cho anh mở lối vào. Một lúc sau, tám người Do Thái lẩn trốn đã bị bắt. Một xe tải bít bùng đã chở họ cùng với Kugler và Johannes Kleimann đi mất.
Tới xế chiều, hai người thư ký là cô Miep Gies và cô Bep Voskujl đã chờ đợi rồi mới dám vào căn phòng bí mật. Bọn Quốc Xã đã lục lọi khắp nơi. Trong cảnh hỗn độn này, Cô Miep thu lượm các tờ giấy rải rác trên sàn nhà. Cô đã kiếm được một thứ quý giá hơn cả tiền bạc và nữ trang, đó là tập nhật ký của Anne Frank.
Một tháng sau, 8 người Do Thái lẩn trốn kể trên bị dồn vào toa xe lửa cuối cùng chở các tù nhân từ Hòa Lan tới trại tử thần Auschwitz. Các người đàn ông và đàn bà bị chia cách, họ không bao giờ gặp lại nhau. Anne và Margot bị đưa tới trại Bergen-Belsen thuộc về miền trung của nước Đức, tại nơi này, giống như 28,000 tù nhân khác, hai cô gái mắc bệnh thương hàn. Anne chăm sóc chị tới ngày chót và qua đời sau chị vào tháng 3 năm 1945, vài tuần lễ trước khi quân đội Anh tiến vào trại tử thần ngày 15/4/1945.
Ai là người đã phản bội các người Do Thái đau khổ kể trên tại thành phố Amsterdam? Có lẽ là một công nhân mới của nhà kho đã tò mò vì các tầng lầu ở trên, vì thèm muốn số tiền thưởng do bọn Quốc Xã tặng nếu bắt được người Do Thái. Mặc dù người chỉ điểm này bị điều tra hai lần nhưng anh ta đã không bị truy tố. Kleiman và Kugler bị tống giam tại Hòa Lan nhưng về sau trở về làm việc tại tòa nhà số 263 đường Prinsengracht. Ông Otto sau này sống với cô Miep Gies và người chồng của cô này tên là Jan tại thành phố Amsterdam rồi qua đời vào năm 1980 ở tuổi 91.
3/ Một bằng chứng trước tội ác diệt chủng.
Do cuốn Nhật Ký của Anne Frank, tòa nhà số 263 đường Prinsengracht trở nên một di tích của các lời kêu than vì nạn khủng bố và số du khách viếng thăm căn phòng kỷ niệm lên tới 6,000 người vào năm 1960 khiến cho tòa nhà không bị phá bỏ và một ngân quỹ được thành lập để phục hồi tòa nhà trong đó có cả phòng triển lãm. Vào ngày 3 tháng 5 năm 1960, tòa nhà này đã chính thức mở cửa; trong năm 1994 đã đón tiếp 600,000 du khách từ khắp nơi trên thế giới.
Tủ sách giả che ngõ vào của nơi Anne trốn, tại Amsterdam
Ngày nay các khách thăm viếng “căn phòng bí mật” khi đi qua cái tủ sách ngụy trang xoay vào căn phòng của Anne, sẽ nhìn thấy tấm bản đồ Normandy trên đó ông Otto đã vạch bước từng tiến của quân đội Đồng Minh. Bên cạnh tấm bản đồ là các nét bút chì mà ông Otto đã ghi lại chiều cao của ba đứa trẻ chẳng bao giờ có được cơ hội trở nên người trưởng thành! Trong căn phòng của Anne, dán trên tường là các hình điện ảnh và các tấm ảnh nhạt màu đã từng làm cho Anne Frank vui tươi và nuôi ảo mộng, nhưng cô bé Anne không còn nữa, nhiều du khách đã rơi nước mắt.
Cô bé Anne Frank là nạn nhân danh tiếng nhất của Lò Hỏa Thiêu Holocaust. Lời văn của Anne vừa mạnh mẽ, vừa thật thà, đã tạo nên sức hấp dẫn của một cuốn tiểu thuyết vì vậy có người đã viết trong cuốn sổ dành cho các du khách tại tòa nhà số 263 đường Prinsengracht như sau: “nếu chỉ có hai cuốn sách dành cho cuối cuộc đời của tôi, hai cuốn này sẽ là cuốn Thánh Kinh và cuốn Nhật Ký của Anne Frank”.
Anne Frank trở nên bất tử do sự nghiệp văn chương của cô. Cô bé này là một nhà văn xuất sắc mặc dù tuổi còn nhỏ. Hàng triệu độc giả đã phải xúc động vì cách mô tả ngây thơ, chân thật của cô. Anne tự hỏi về nhiều vấn đề như sinh lý, tôn giáo, cha mẹ... , cô mô tả sự nhàm chán và buồn tẻ, cô thắc mắc về các đề tài như lòng rộng lượng và tính công
bằng trong xã hội loài người.Nên Anne Frank đã cầu mong: “khi nhìn lên trời cao, tôi nghĩ rằng mọi sự việc sẽ trở nên tốt lành, rằng sự tàn bạo sẽ chấm dứt, rằng nền hòa bình và sự yên tĩnh sẽ trở lại...”. Đây không phải là tiếng kêu của một người Do Thái bị nhốt trên tầng chót của một tòa nhà mà là tiếng than của một tâm hồn trong thế kỷ 20, là lời cầu mong của kẻ lạc lõng, bất lực và đau khổ giữa các thảm cảnh đàn áp rất tàn bạo trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai. Bọn Đức Quốc Xã đã giết chết một cô bé ngây thơ, vô tội, nhưng cuốn Nhật Ký của cô Anne Frank đã là một bằng chứng về loại tội ác diệt chủng.
Cho tới ngày nay, Anne Frank vẫn là một ngọn nến cháy sáng trong đêm tối vì loài người, do cô bé đã ghi nhận: “Tôi còn tin tưởng rằng dù thế nào đi nữa, mọi người đều có bản tâm thật tốt”.
Nguồn: http://vietsciences.free.fr/ |
|