Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 2667|Trả lời: 15
Thu gọn cột thông tin

[Khác - Xuất Bản] Một Số Tác Phẩm Của William Shakespeare | William Shakespeare

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 1-10-2011 21:47:42 | Xem tất |Chế độ đọc
Tên tác phẩm: Một số tác phẩm của William Shakespeare
Tác giả: William Shakespeare
Dịch giả: Nguyễn Bích Như, Trương Tùng
Thể loại: Khác
Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
Nguồn: http://vnthuquan.net/truyen/tacpham.aspx?tacgiaid=1392


William Shakespeare
(26/4/1564 – 23/4/1616) là nhà thơ và nhà soạn kịch người Anh. Ông viết khoảng 38 vở kịch và nhiều loại thơ khác, đặc biệt là thơ sonnet). Được xem là một thiên tài, đã phát triển nền kịch nghệ của nước Anh. Tuy nhiên, cũng có người ngoại quốc thẳng tay chỉ trích ông. Song dẫu sao thì trong nước Anh người ta vẫn hết mực hâm mộ ông. Ông được thừa nhận rộng rãi là nhà thi hào viết tiếng Anh kiệt xxuất nhất và là một nhà soạn kịch lừng danh thế giới. Ông được tôn vinh làm đại thi hào dân tộc của nước nhà và là "nhà thơ vùng Avon". Những vở kịch của ông được dịch sang mọi ngôn ngữ và được diễn nhiều hơn kịch của bất kỳ một nhà viết kịch nào khác. So với các nhà viết kịch hàng đầu của Pháp như Racine, Shakespeare tái hiện chân thật lịch sử hơn hẳn.

William Shakespeare sinh ra và lớn lên ở Stratford-upon-Avon, là con trai của John Shakepeare, một thợ làm găng tay và ủy viên hội đồng địa phương đến từ Snitterfield và Mary Arden, con gái của một chủ đất giàu có. Ngày sinh của ông thường được cho là vào ngày Thánh George - 23 tháng 4.

Mặc dù không còn những ghi chép về quãng đời đầu tiên của ông nhưng các nhà viết tiểu sử đồng ý rằng Shakespeare đã được giáo dục tại trường King's New ở Stratford cách nhà một phần tư dặm. Vào thời Nữ hoàng Elizabeth I, các trường dạy ngữ pháp có chất lượng không đồng nhất nhưng có một khung chương trình được quy định bởi luật pháp áp dụng trên toàn nước Anh, và trường cũng cung cấp chương trình giáo dục chuyên sâu về ngữ pháp Latinh và môn học về thời kỳ cổ đại. Đến năm 18 tuổi vì hoàn cảnh gia đình phải thôi học.

Vào năm 18 tuổi, Shakespeare cưới Anne Hathaway, 26 tuổi. 6 tháng sau khi kết hôn, Anne sinh được một người con gái, Susanna, được rửa tội vào ngày 26 tháng 5 năm 1583. Cặp song sinh một trai Hamnet và một gái Judith được sinh ra hai năm sau đó và được rửa tội vào ngày 2 tháng 2 năm 1585.Hamnet mất vì một nguyên nhân không rõ vào năm 11 tuổi và được chôn vào ngày 11 tháng 8 năm 1596.

Vào năm 1585, ông rời quê lên Luân Đôn đang lúc kịch trường ở chốn kinh kỳ trong thời kỳ sôi nổi.

Bước đầu ông xin làm chân giữ ngựa, soát vé ở cổng rạp hát. Sau đó làm nghề nhắc tuồng, thợ sửa bản in, dần dần lên làm diễn viên, đạo diễn và nhà viết kịch. Lợi nhuận thu từ rạp hát là nguồn sống suốt đời của ông. Khi đời sống đã khá, ông củng cố địa vị xã hội bằng cách mua một tước quý tộc nhỏ.

Lúc ở kinh thành Luân Đôn, ông được Bá tuớc Southampton giúp đỡ. Dưới mái nhà của bá tước, có một người Ý lưu vong là Giovani Florio. Ông này đã giúp Shakespeare hiểu biết thêm về văn học Phục Hưng của Ý và Pháp. Cuộc sống đang êm đềm thì xảy ra biến cố. Đó là vụ án Essex và Southampton (1601). Essex bị kết tội gây loạn chống triều đình Elizabeth I. Shakespeare cũng bị tình nghi có liên quan vì vở kịch Richard III được diễn ra một hôm trước đó. Essex bị chặt đầu, Southampton bị tù chung thân, còn Shakespeare trốn biệt.

Vào năm 1603, Elizabeth I qua đời, Quốc vương nước Scotland là James VI lên nối ngôi và trở thành Quốc vương James I của nước Anh; khi đó Bá tước Southampton được trả tự do và trọng dụng. Shakespeare xuất hiện trở lại với đoàn kịch của mình và được triều đình hậu đãi.

Vào năm 1612, Shakespeare rời kinh đô Luân Đôn sau 1/4 thế kỷ hoạt động sân khấu và trở về Stratford để sống những năm cuối đời. Ông mất ngày 23 tháng 4 năm 1616. Hiện nay, ở Stratford-upon-Avon quê hương ông, người ta thành lập Công ty kịch nghệ Shakespeare Hoàng gia.



Tổng kết:

Romeo và Juliette

Chàng lái buôn thành Venise

Giấc mộng đêm hè

Chuyện về Sir John Falstaff

MACBETH

Cô nàng đanh ác bị buộc phải biết điều

Cơn bão

CYMBELINE

Hamlet, Hoàng tử Đan Mạch

OTHELLO

Vua LEAR
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 21:57:44 | Xem tất
Romeo và Juliette


Những đường phố vắng lặng của thủ phủ Verone thanh bình vào thế kỷ XIV nằm im lìm ngái ngủ giữa những lâu đài cổ kính và dãy tường thành cao ngất vây kín những công viên rậm mát. Đời sống nơi đó tươi vui và thoải mái. Một vị lãnh chúa dòng dõi Della Scala, nhân từ, đức độ, chăm lo cho sự phồn vinh của thủ phủ. Những gia đình quý tộc tập hợp thân bằng quyến thuộc, bộ hạ tùy tùng và đám người hầu tận tụy, trung thành. Những mối bất hòa truyền kiếp mà nguyên nhân đã bị lãng quên theo thời gian, vẫn còn chia rẽ hai dòng họ Montaigu và Capulet: hai vị trưởng tộc đã trầm tỉnh và khôn ngoan, bởi tuổi đời chồng chất, nhưng con cháu họ, những gã trai trẻ sôi nổi và táo bạo, không kể bọn tôi tớ, lúc nào cũng sẵn sáng đóng vai hảo hớn và anh hùng rơm, thường khuấy động sự yên tĩnh của thành phố. Vị lãnh chúa bực tức, truyền rằng, từ nay, bất cứ cuộc ẩu đả nào cũng bị xử phạt tử hình.

Chàng trai trẻ Roméo luôn khiến cha mẹ mình lo âu. Nước mắt chàng chan hòa với sương sớm. Lời thở than của chàng khiến mây trời u ám. Chàng xa lánh bạn bè, anh Benvolio đứng đắn và gã Meroutio nông nổi, đã lang thang trong rừng trước lúc bình minh. Bởi chàng si mê nàng Rosaline kiều diễm, đẹp mà hiểm ác, và chàng chỉ còn biết héo mòn trước sự khinh bạc của nàng.

Benvolio biết tin Rosaline và nhiều bậc vương hầu, cùng phu nhân sẽ đến dự yến tiệc tại nhà quý tộc Capulet, mà tiểu thư Juliette vừa được gã Paris bảnh trai cầu hôn.

- Đến đó đi, anh nói với Roméo, để mà so sánh gương mặt của người mà cậu yêu với vài ba khuôn mặt khác, mà tớ sẽ giới thiệu với cậu, để cậu phải thừa nhận rằng, con thiên nga của cậu chỉ là một con quạ xấu xí.

- Ta sẽ đến, Roméo hăm hở, nhưng chỉ để chiêm ngưỡng dung nhan rạng rỡ của người mà ta yêu thôi.

Rồi hai gã liều lĩnh, cải trang và đeo mặt nạ, đến ngay nhà kẻ thù thâm sâu của gia đình, vì Roméo thuộc dòng dõi Montaigu, còn lâu đài mà cậu ta sẽ xuất hiện là của dòng dõi Capulet.

Trong lúc ấy, người hầu và tôi tớ hối hả, chộn rộn chuẩn bị yến tiệc. Lão Capulet chúc mừng quan khách, nói đùa và trêu ghẹo các phu nhân, truyền những lệnh mâu thuẫn nhau cho bộ hạ và nhắc lại những kỷ niệm thời trai trẻ. Nhạc nổi lên: cuộc khiêu vũ bắt đầu. Và Roméo, trong trang phục người hành hương đột nhiên khẽ hỏi người hầu phòng:

Cô gái nào lộng lẫy thướt tha trong tay hai người hào hoa kia thế? Trong đêm mờ ảo này, nàng khác nào viên trân châu lóng lánh, trang điểm đôi tay gã Ethiopi. Nàng làm mờ đi ánh sáng những ngọn đuốc. Khi cuộc khiêu vũ chấm dứt, ta sẽ cho bàn tay trần tục của ta cái vinh hạnh chạm vào tay nàng.

Những lời nói đó đã lọt vào tai đứa cháu đức ông Capulet, tên là Tebaldo. Gã đã nhận ra giọng nói của một người Montaigu, bèn hò hét lên và chạy tìm cây trường kiếm, gã muốn trừng phạt một sự xúc phạm đối với gia đình chú, trong khi ông này, trầm tĩnh hơn, nghiêm khắc buộc hắn nên nhẫn nhịn.

- Mi muốn nghịch lời ta ư? Khốn nạn, mi chọn đúng lúc thật. Mi là một kẻ phách lối. Hãy đứng yên đó, nếu không… A! Con gà chọi, mi muốn giương cựa ra đấy à! Hãy mau vứt bỏ bộ mặt hung tợn đó đi, thật là chướng mắt trong buổi hội hè vui vẻ này.
Tebaldo giận dữ, cằn nhằn bỏ đi, vừa thề rằng hắn sẽ chẳng dừng lại ở đấy đâu. Ngay lúc đó, cuộc khiêu vũ chấm dứt.

Nhờ hóa trang, Roméo có thể men đến gần cô gái mà mình chú ý và bắt đầu tán tỉnh bằng những lời lẽ cầu kỳ bay bướm:
- Nếu bàn tay tôi, chàng thở dài, chẳng chút nào xứng đáng, lại làm cho tay cô uế tạp, tôi biết cách chuộc tội bất kính đó: môi tôi sẵn sàng xóa nó bằng một cái hôn nồng nàng.

- Người hành hương đáng mến ơi! –cô Juliette tinh nghịch đáp- sao lại nói xấu bàn tay mình thế, nó cũng chỉ ước ao được sử dụng theo thói quen bình thường thôi; những bậc thánh vẫn để tay mình chạm phải người hành hương và một cái bắt tay chính là cái hôn của những người sùng đạo.

- Nhưng chẳng lẽ các vị thánh và cả những người sùng đạo đều không có môi sao? – Roméo lại tiếp.

- Vâng có chứ, nhưng môi của họ dùng để cầu nguyện.

- Nếu thế, thánh nữ yêu quí ơi, hãy thỏa mãn nguyện cầu trên môi tôi, cho niềm tin đừng trở nên vô vọng.

- Các vị thánh có nhúc nhích gì đâu, -Juliette, vốn thông thạo cái trò chơi ứng đối dí dỏm này nói- thế mà họ vẫn thỏa mãn những lời nguyện cầu, hướng về họ.

Cuộc đối thoại sẽ còn tiếp diễn bất tận nếu bà vú già không đến mời Juliette đến ngồi bên cạnh mẹ, phu nhân Capulet.

Roméo bèn hỏi thăm một bà, đẩy đà, phởn phơ và ba hoa, và kinh hoàng biết rằng mình vừa tỏ tình với một thiếu nữ dòng dõi Capulet. Để mặc cho Benvolio lôi đi, chàng đến từ giã chủ nhân, đang đứng bên thềm tiễn khách. Juliette mơ mộng và tò mò, đã quay lại, thỏ thẻ hỏi bà vú rất khéo léo:

- Vú ơi! Nói cho con biết, chàng quí tộc kia là ai thế?

- Đó là con trai và là người thừa kế lão Tiberio.

- Còn anh chàng vừa bước qua cửa?

- Đó có lẽ là chàng trai trẻ Petruchio.

- Này, còn anh chàng đi theo sau, đấy, cái người không hề khiêu vũ.

- À, vú không biết.

- Vú hỏi tên chàng đi, -rồi cô nói thêm, nhẹ như hơi thở, nếu chàng đã có vợ, con nhất quyết sẽ chẳng bao giờ lấy chồng!
- Tên chàng là Roméo, bà vú quay lại nói, dòng họ Montaigu, con trai độc nhất của kẻ đại thù nhà ta.

- Mối tình duy nhất của ta lại trao gửi cho kẻ duy nhất ta phải thù ghét! Ôi! Ta đã gặp chàng quá muộn mà chẳng hề quen! Ôi! Ta đã quen chàng quá muộn. Ôi! Mối tình kỳ lạ vừa chớm nở trong lòng ta! Ta phải yêu một kẻ thù phải căm ghét.
- Con nói gì thế? Con thầm thì gì thế? –bà vú thắc mắc.

- Những câu thơ con vừa mới học được của người vừa mới khiêu vũ với con –nàng quyết giữ kín nỗi niềm riêng của mình, vì cô biết rõ tật ba hoa của bà vú. Tiệc đã tàn, họ rời khỏi phòng chính.

Song Roméo vẫn chưa đi xa, chàng đã bỏ rơi được anh bạn Benvolio đứng đắn, men theo dãy tường bao quanh khu vườn của dinh thự Capulet. Sau khi thầm nhủ với mình: “Có thể nào ta lại bỏ đi khi ta vẫn ở lại chốn này?”. Chàng thoăn thoắt leo qua tường và nhảy vào vườn cây, trong lúc Benvolio, vừa gặp lại Mereutio láu lỉnh, cho rằng chàng lủi đâu đó vì mối tình tuyệt vọng đối với Rosaline.

Không còn vướng víu các bạn, Roméo bước thơ thẩn trong vườn, tơ tưởng đến Juliette. Bỗng nhiên, một cánh cửa sổ từ từ hé mở, Juliette hiện ra, tựa vào bao lơn. Cô cũng bồn chồn và lo lắng, rồi trong khi Roméo, ẩn mình trong bóng tối, so sánh nàng với bình minh và khung cửa với phương Đông, chế nhạo mặt trăng mờ nhạt vì hờn ghen với nhan sắc kiều diễm của Juliette, cho rằng hai vì sao sáng nhất trên bầu trời chiếu sáng đôi mắt giai nhân, ao ước được là cái bao tay đã có diễm phúc nâng niu đôi má nàng, thì cô gái khẽ thở dài:

- Than ôi! Khốn khổ thân tôi! Roméo! Sao chàng lại là Roméo? Hãy từ bỏ gia đình, hay từ bỏ tên họ đi. Hoặc là chàng hãy hứa yêu em, rồi em sẽ chẳng còn là người thuộc dòng Capulet nữa.

Roméo vừa định lộ mặt ra, đã nghe Juliette nói tiếp:

- Chỉ có tên chàng thù hận với em thôi. Còn chàng là chàng, đâu phải là Montaigu. Nghĩa lý gì một cái tên? Đóa hoa mà ta gọi là bông hồng, dù mang tên gì, cũng vẫn ngào ngạt hương thơm. Tên chàng, Roméo ơi! Có dính dáng gì đến bản chất của chàng đâu.

- Anh xin bằng vào lời nói của em, -chàng trai táo bạo bước ra nói- Cứ gọi anh là tình yêu của em, thế là anh được đổi tên rồi! Anh chẳng còn muốn mình là Roméo nữa.

Juliette vừa hổ thẹn vì vô tình để lộ tâm tư mình, vừa lo sợ cho sự liều lĩnh của Roméo, nếu có ai thuộc dòng họ Capulet bắt gặp chàng nơi đây.

Anh chàng si tình nói: “Sợ gì! Anh đã vượt qua những bức tường cao ngất này bằng đôi cánh nhẹ của tình yêu. Mắt em còn chứa nhiều nguy hiểm hơn là hàng chục lưỡi gươm của họ. Hãy nhìn anh đằm thắm hơn, tức khắc thân anh sẽ được che chở trước hận thù của chúng.

- Sẵn lòng, -cô Juliette thỏ thẻ, mặt đỏ bừng và bối rối-, em định theo đúng lễ tiết một tí và chối biến những lời anh vừa nghe! Nhưng khiểu cách mà làm gì! Anh có yêu em không, hở Roméo? Em biết chàng sẽ nói có và em vội tin ngay. Nếu yêu em xin cứ chân thành thổ lộ. Nếu chàng nghĩ em đã bị chinh phục quá dễ dàng, thì đây nhé: em sẽ chau mày, ngúng nguẩy lắc đầu, để chàng có dịp van xin nài nỉ, bằng không, em cần gì phải bày trò nũng nịu. Nếu chàng đã không tình cờ thấu rõ nỗi lòng em, hẳn em sẽ e dè kín đáo hơn, nhưng cứ tin em đi, em còn thành thực hơn chán vạn cô nàng rụt rè khép nép.

Roméo, như mọi nhà thơ si tình, xin vầng trăng vằng vặc đầu cành chứng giám, sẵn sàng ngỏ mọi lời thề thốt thủy chung, thì Juliette ra chiều ủ dột vội ngăn lại:

- Em không làm sao vui trọn ven trong buổi hội ngộ đêm nay, -cô dịu dàng nói- nó quá bất ngờ, vội vã, và vô cùng táo bạo đối với em. Xin chào anh! Mong cho niềm hạnh phúc dào dạt lòng em cũng khiến lòng anh ngây ngất.

- Anh chưa muốn đi, -Roméo tỏ ra lì lợm- trước khi được nghe lời em ước hẹn.

Dù anh chưa ngỏ, em đã thầm hẹn thủy chung! Juliette vừa dứt câu, đã nghe tiếng bà vú oang oang từ phòng trong trong vọng ra. Vú ơi! Con đây! Roméo yêu dấu! hãy đợi vài phút em sẽ quay ra.

Nàng biến mất giây lát, rồi hiện ra bên cửa sổ, gọi Roméo:

- Ngày mai, mong chàng ho em biết tin, qua một người mà em sẽ phái đến, bao giò và nơi đâu chàng định tổ chức lễ cưới đôi ta? Rồi em sẽ theo chàng tận góc bể chân trời!

- Ôi! Em yêu dấu! – Roméo kêu lên.

- Bây giờ cho đến lúc ấy, còn mấy thập kỷ dài. Trời sắp sáng rồi. Chúc anh ngủ ngon đến cả ngày mai!

- Mong giấc ngủ êm đềm sẽ đưa em vào cõi mộng. – Còn lại một mình Roméo lẩm bẩm- Anh sẽ tìm đến phong riêng của vị linh mục khả kính, để cầu xin giúp đỡ và tỏ lộ nỗi niềm hạnh phúc.

Con người nhân hậu mà chàng có thể trút cả tâm tình ấy, cư ngụ trong một ngôi nhà tu cô tịch hẻo lánh, không xa Vérone là mấy. Cuộc sống của ông lặng lẽ trôi qua giữa những buổi cầu nguyện, những lần đi hái dược thảo để bào chế ra bao thứ thuốc công hiệu, và vài cuộc viếng thăm của mấy cậu trai trẻ, mà ông là người cố vấn và chỉ đạo tinh thần. Từ tờ mờ sáng, đã thấy ông khoác áo len nâu, đầu trùm mũ, tay xách giỏ, đi tìm những nhành lá quen thuộc, đầu óc ngổn ngang bao tư tưởng cao siêu, thanh khiết.

- Buổi sáng mù sương, giao hòa với đêm tối, -ông lẩm bẩm-. Ta phải hái cho đầy giỏ, những hoa thơm cỏ lạ, hương vị ngọt ngào và quý giá kia. Quyền lực to lớn đang ngự trị trong cây, rong cỏ và trong cả những tảng đá, đồng thời với những mối nguy hiểm! Cánh hoa nhỏ bé này chứa đựng vừa chất độc, vừa vị thuốc. Con người cũng chẳng khác gì loại cây cỏ ấy.
Một giọng nói bỗng cắt ngang dòng suy tưởng thường nhât của ông:

- Kính lạy cha!

- Lạy chúa! -Cha Laurent vội đáp- Giọng ai ban mai gửi ta lời chào dịu dàng ấy nhỉ? Roméo, con đấy à, con đến thăm ta vào giờ này, khiến tae ngại có điều gì vừa khuấy động lòng con.

Con người thánh thiện này, thừa rõ mối tình cuồng si mà mới hôm qua đây, kẻ đến xưng tội còn trao gửi cho nàng Rosaline xinh đẹp và nhẫn tâm.

- Con sẽ kể hết cha nghe. -Roméo đáp, với lối nói cầu kỳ của những gã phong lưu thời thượng- Con đến dự tiệc vui ở nhà kẻ thù, nơi đó, con đã gây khổ đau cho người làm con đau khổ, cả con lẫn người ấy đều trông chờ phương thuốc thần diệu của cha. Lòng con không vương chút thù hận, vì con vẫn cầu nguyện cho cả kẻ thù của mình.

- Nói rõ hơn đi con ngoan của ta.

- Thưa cha, Con đã yêu say đắm cô con gái nhà Capulet giàu có, nàng cũng yêu con. Chúng con đã cùng nhau giao ước, mong cha vui lòng làm lễ hôn phối cho chúng con ngay hôm nay.

- Có thánh Francois chứng giám! Sao lại có sự thay đổi quái lạ thế? – Cha Laurent kêu lên thảng thốt, ngước mắt lên trời, như thể cầu khẩn vị sáng lập dòng tu của mình- Cô nàng Rosaline mà con yêu đắm đuối, lẽ nào con lại quên nhanh đến thế? Chúa ơi! Đôi má hóp vì sầu muộn của con từng đàm đìa nước mắt. Mặt trời còn chưa xóa tan đám sương mù tích tụ từ những lời than thở của con, và tiếng rên rỉ trách hờn của con vẫn còn vang vọng bên tai ta. Kìa, trên má con còn in rõ vệt nước mắt con chưa kịp lau! Thế mà con đã vội thay đổi!

- Cha vẫn trách con về mối tình si dại đối với Rosaline kia mà! –Roméo làu bàu- Mấy lời trêu chọc nhẹ nhàng của cha làm anh phật ý.

- Đó là sự si mê của con đối với cô nàng, chứ không phải tình yêu đâu, con ạ! Nhưng ta có lý do để giúp đỡ con -vị cha điềm đạm nói, khi thoáng nghĩ rằng lễ cưới bất chợt này có thể đánh dấu ngày chấm dứt mối cựu thù giữa hai dòng họ- Hỡi chàng trai nông nổi, hãy theo ta, một cách chậm rãi và thận trọng nhé! Những kẻ hấp tấp thường hay vấp ngã.

Ngay sáng hôm đó, Juliette được báo trước, đến gặp Roméo trong phòng cha Laurent. Cha ban phép cưới cho đôi tình nhân, vừa thỉnh cầu thần thánh phù hộ cuộc hôn phối. Sau đó nàng quay về nhà, còn Roméo thì đến gặp bạn bè. Bọn họ vẫn không ngớt buông lời trêu chọc, trước vẻ mặt si tình đến ngẩn ngơ của anh. Những câu bỡn cợt đang tuôn ra rôm rả; những tiếng cười đang vang lên như phá, thì thấy gã Telbado hùng hổ xốc tới, thái độ ngang tàng và khiêu khích, có đám bạn hữu và bọn bộ hạ của hắn đi theo. Mặc những lời khuyên nhủ chí tình của Benvolio, mặc sự ngăn cản của Roméo, lúc bấy giờ chẳng còn lòng dạ nào đi kiếm chuyện gây gỗ, dù với một kẻ thuộc họ Capulet –cái họ đối với anh tuy có vẻ mơ hồ, đã trở nên thân thiết - bạn anh, gã Mercutio hiếu động, nhận lời thách đấu của Telbado, rút gươm ra, liền đâm tử thương gục xuống, nụ cười châm biếm còn đọng lại trên môi. Roméo đau đớn, rụng rời, vì anh rất quí mến Mercutio, lại trông thấy tên Tebaldo quay lại ngạo nghễ, vênh vang, anh quên mất luật cấm của lãnh chúa, sự liên hệ quyến thuộc giữa kẻ sát nhân với nàng Juliette yêu dấu của mình, mà chỉ nghĩ đến việc báo thù cho bạn. Một trận so kiếm tay đôi diễn ra, thoáng chốc Tebaldo đã ngã gục. Dân chúng đổ xô đến, bắt giữ Benvolio, nhưng anh đã kịp thời, dù phải một phen gay go vất vả, mới thuyết phục được Roméo chạy trốn, rồi kể lại cho lãnh chúa nghe qua nội vụ xô xát, xen lẫn tiếng rên thảm thiết của phu nhân Capulet, khóc than cho đứa cháu Tebaldo và kêu gào đền mạng. Vị lãnh chúa nhất quyết lạnh lùng trước mọi lời van xin cầu khẩn. Ngài ra lênh trục xuất Roméo ra khỏi thủ phủ và đe dọa sẽ bêu đầu nếu tìm cách quay về Vérone.

Thế là Juliette trở thành góa bụa, ngay khi vừa cử hành hôn lễ. Tuy nhiên, nàng vẫn còn chưa hay biết tai họa thảm khốc của mình. Nàng đợi chờ bà vú đi săn tin về và mơ ước lần gặp gỡ Roméo sắp đến. Nhưng tiếng than van nức nở nào thế, những câu nói đứt đoạn khó hiểu, câu chuyện rối rắm lộn xộn, mới nghe qua Juliette cứ ngỡ Roméo vừa bị bị giết chết. Buồn lo xen lẫn mừng vui, vừa mới khuây khỏa đã tuyệt vọng! Lưu đày ư! Roméo bị lưu đày! Anh lẩn trốn trong phòng cha Laurent để chờ khi trời vừa sụp tối, bà vú sẽ tìm chàng đến để từ biệt nàng Juliette rũ rượi ủ ê, trước giờ lên đường biệt xứ.

Thất vọng vì phán quyết của vị lãnh chúa, Roméo như điên dại, định tự hủy mình. Vị linh mục đáng kính quở mắng chàng hồi lâu, phân tích cho chàng thấy việc lưu đày ở Mantoue, một thành phố kế cận Vérone, tạo dịp cho chàng có thể thường xuyên nhận được tin tức Juliette và mọi sự rồi sẽ được thu xếp ổn thỏa. Yên tâm phần nào, Roméo chờ đêm tối để đến từ biệt Juliette.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 21:59:12 | Xem tất
Một Số Tác Phẩm Của William Shakespeare - Romeo và Juliette
----------------------------------------------------------------------------

Phần mình, đức ông Capulet vừa tiếp đón gã trai trẻ Paris, kẻ say mê con gái ông, vừa đến để thăm dò tình cảm của Juliette dành cho gã.

- Mọi việc xảy ra dồn dập – nhà quý tộc Capulet nói- đối với ông, tình cảm riêng tư của một cô gái chẳng mấy quan trọng- và biến chuyển khắc nghiệt đến nỗi chúng tôi chẳng còn đâu thì giờ để hỏi han con gái mình, nhưng nó vẫn tùy quyền định đoạt của chúng tôi. Tôi chịu trách nhiệm với ngài như thế. Bà này, hôm nay là thứ mấy nhỉ? Thứ hai à! Tốt lắm. Báo cho Juliette biết rằng thứ năm tới, nó sẽ thành hôn với bá tước Paris. Đừng phô trương gì cả, tang nhà ta còn ràng ràng đấy! Như thế ngài có thể ra về, chào tạm biệt nhé! Bà này, chuẩn bị hôn lễ cho Juliette. Chúc tất cả ngon giấc. Sắp sáng đến nơi rồi.

Phía bên kia dinh thự, trên cái bao lơn mà ta đã biết, bao quát cả khu vườn tràn nập ánh trăng, đôi vợ chồng trẻ tuyệt vọng, ngậm ngùi chờ đợi ánh sáng ban mai sẽ đến cướp Roméo lìa khỏi vòng tay Juliette.

- Chàng đã muốn đi rồi sao? Đêm hãy còn dài, ngày vẫn chưa tới. Đó là tiếng hót của họa mi -chứ nào phải sơn ca- mà khiến chàng hoảng sợ. Nó vẫn hót hàng đêm trên cành lựu mà chàng thấy đó. Tin em đi, anh thân yêu của em, đó là tiếng hót họa mi.

- Không, chính đó là tiếng hót sơn ca, báo hiệu bình minh sắp tới, – Roméo thở dài não ruột- chứ nào phải họa mi. Nhìn kìa, em yêu, những luồng ánh sáng hờn ghen, phía trời Đông đang viền quanh những cụm mây tan tác. Vầng trăng đã nhạt nhòa, và đỉnh núi mù sương, rạng Đông vừa nhóm dậy. Anh phải ra đi để sống, hay ở lại đây rồi chết.

- Không, đó chẳng phải là ánh bình minh đâu, em biết rõ mà. Đó là đám vân thạch nào đó, trời gửi xuống làm đuốc soi đường cho anh đến Mantoue. Nán lại chút nữa, anh cần chi phải vội.

- Dù anh có bị bắt, dù anh phải chết, anh cũng vui lòng vì em đã muốn thế! Anh thiết tha muốn ở lại hơn là mong ước ra đi. Thôi thì tử thần ơi, cứ đến. Hãy trò chuyện với nhau đi, em yêu, bởi ngày vẫn chưa rạng.

- Trời đã sáng, trời đã sáng rồi! -Juliette chợt bàng hoàng bật khóc nức nở- Anh hãy đi đi! Trốn xa chỗ này. Chính sơn ca vừa cất cao tiếng hót lạc điệu, nhói tai. Có người cho rằng tiếng hót sơn ca rất thánh thót, êm đềm. Không phải thế đâu, vì nó khiên đôi ta ngăn cách và đuổi chàng rời khỏi nơi đây, để chào đón bình minh. Bây giờ anh hãy đi đi! Ánh sáng đã lên cao rồi!
- Tạm biệt, tạm biệt. Hôn anh lần cuối đi, rồi anh nhảy xuống!

- Này, anh phải cho em biết tin tức hàng ngày, hàng giờ, anh nhé! -Juliette dặn dò- Bởi vì trong một phút là đằng đẳng bao ngày. Ôi! Em sẽ già đi mất trước khi gặp lại Roméo của em! Hồn em đầy những dự cảm đen tối. Giờ đây, nhìn anh dưới đó, em cứ ngỡ như thấy người chết dưới đáy mồ.

- Tạm biệt! –Roméo hét lên, không còn chịu đựng nổi nữa, anh cắm đầu chạy, và Juliette cũng không thể bình yên mơn man nỗi sầu, bởi phu nhân Capulet, theo lời chồng, ngay lúc ấy đã bước vào, hơi ngạc nhiên bắt gặp con gái mình đã dậy.

Cho rằng những giọt lệ còn long lanh trong mắt Juliette, là dành cho cái chết của người anh họ Tebaldo, bà kể lể dông dài về những dự định báo thù tên sát nhân Roméo, rồi để làm vui long cô bé khốn khổ, bà loan báo cho cô biết về lễ thành hôn sắp tới của cô với chàng kỵ sĩ đẹp trai và dũng cảm Paris, tại nhà thờ thánh Pierre.

Sau cái đêm tuyệt vọng, cô Juliette đáng thương hầu như mất hết kiên nhẫn. Cô từ chối người chồng do cha cô ép buộc. Ban đầu, ông ta vẫn xem cô như đứa bé được nuông chiều, chưa hiểu rõ minh thực ra muốn gì, nhưng sau đó, trước những lời từ chối quyết lệt, lặp đi nhắc lại nhiều lần, ông ta nổi nóng và hung hăng, tàn bạo đến mức buông ra lời nguyền rủa, đe dọa và mắng nhiếc Juliette thậm tệ, đoạn ông bỏ đi, đóng sầm cửa lại, bà vợ hoảng hốt lủi thủi theo sau.

Sầu khổ và đau đớn, Juliette quyết định đi gặp cha Laurent để vấn kế, nên hăm hở tìm đến ngôi nhà hiu quạnh đã chứng kiến hôn lễ của nàng. Cha Laurent đang có khách: Paris đến thổ lộ cho ông biết, cuộc thành hôn sắp tới của mình với tiểu thư họ Capulet. Tin đó khiến vị linh mục tốt bụng hoang mang, ông vội đuổi khéo Paris về, để tập trung lo lắng cho cô gái sám hối đáng thương. Biết làm sao đây? Juliette nói sẵn sàng làm bất cứ việc gì, và sau khi cân nhắc đắn do hồi lâu, cha sắp đặt mưu kế như sau:

- Thế này nhé –cha nói- con hãy vui vẻ lên và cứ ưng thuận làm lễ cưới đi. Ngày mà là thứ tư rồi, đừng cho bà vú ngủ chung phòng với con. Cầm lấy cái lọ này, khi nào lên giường ngủ, con hãy uống thuốc đựng trong ấy, tức khắc, mạch con sẽ ngừng đập, hơi thở tắt lịm, thân thể lạnh băng, chứng tỏ rằng con không còn sống nữa. Nét đằm thắm của má và môi con sẽ trở màu tro úa, tứ chi bất động, cứng đờ như chết suốt bốn mươi hai giờ. Con sẽ nằm trong trạng thái một kẻ đã giã từ cõi đời, nhưng con sẽ thức dậy, sau một giấc ngủ êm đềm. Có điều, buổi sáng cử hành hôn lễ, họ sẽ phát hiện rằng con đã chết; thế là đúng theo phong tục trong xứ, họ sẽ đặt con vào cái quan tài không đậy nắp, trong bộ trang phúc lộng lẫy nhất và mang con đến ngôi nhà mồ của dòng họ Capulet. Cùng lúc, Roméo sẽ được thông báo về mưu lược của chúng ta, anh ấy sẽ đến đây: cha và anh ấy sẽ canh chừng, chờ con thức giấc và ngay chiều đó, anh ta sẽ cùng đưa con đi Mantoue. Con sẽ được giải thoát trọn vẹn, nếu sự yếu đuối thường tình sẽ không khiến con mất bình tĩnh trong lúc hành động.

- Trao con lọ thuốc đi. -Juliette kiên quyết nói- Đừng lo con sợ hãi, tình yêu sẽ cho con nhiều can đảm, và sẽ cứu thoát đời con. Xin từ biệt cha.

Ngày hôm sau trôi qua thật nhanh, đức ông Capulet đích thân chuẩn bị yến tiệc; cô con gái, từ nhà vị linh mục về, xin cáo lỗi. Phu nhân Capulet đảm đương việc chọn lựa y phục và trang sức cô dâu. Bà vú thì lăng xăng rối rít, Juliette bèn bào bà đi nghỉ. Còn lại một mình, cô bé hôm qua còn là đứa con được nuông chiều và đầy đủ hạnh phúc, giờ đây phải đơn độc chống chọi với nỗi khổ đau oan nghiệt.

- Vĩnh biệt! –nàng nói thầm với mẹ- Biết bao giờ mẹ con ta mới gặp lại nhau. Ta cảm thấy một thoáng ghê rợn, làm nguội lạnh mọi nguồn sống trong ta. Hay ta gọi các người thân đến đây cho vững bụng? Không! Ta phải diễn một mình tấn tuồng quái đản! Ta sẽ ra sao, nếu mai này thuốc kia không ngấm? Ta sẽ phải thành hôn ư? Không, không, lưỡi dao găm trong tầm tay ta đây, sẽ chống lại. Hay nếu đó là thuốc độc, mà cha Laurent định đưa ta vào cõi chết, để khỏi phải chịu ô nhục, vì chính cha đã tác hợp ta với Roméo? Không. Không thể nào như thế được, mọi người đều biết cha là một bậc thánh, không thể nào nghĩ xấu về cha. Nhưng việc gì sẽ xảy ra, nếu ta lại thức dậy trong mồ, trước khi Roméo kịp đến giải thoát ta? Ta sẽ chết ngạt mất, hay nếu còn sống ta sẽ điên loạn vì kinh hãi, giữa những người chết và các oan hồn thường ẩn hiện về đêm? Ta có mơ mộng quá chăng? Em đến đây, Roméo, chỉ vì chàng mà em uống liều thuốc này!

Thế rồi cô bé dũng cảm phóng lên giường, nốc cạn một hơi lọ thuốc.

Lúc đó, trong lâu đài Capulet; thiên hạ tất bật dưới bếp. Mặt trời vừa ló dạng, các phụ bếp đã chạy lăng xăng với que nướng, thủng múng, củi lửa. Người ta báo tin bá tước Paris đến, trang trọng và lịch sự với cả ban nhạc rộn ràng ban mai. Người ta hối thúc bà vú đi đánh thức Juliette dậy để trang điểm. Rồi bỗng nhiên những tiếng kêu gào thảm thiết vang lên; nằm dài trên giường, xanh xao, lạnh cứng với nguyên vẹn y phục, Juliette vẫn lặng thinh trước bao lời kêu gọi của bà vú điên cuồng, rồi của bà mẹ đau đớn quằn quại, của người cha sầu khổ khôn nguôi, tiếp đó là bá tước Paris hào hoa với ban nhạc của mình, cuối cùng là của cha Laurent. Tiếng khóc than và kể lể vang lên cho đến lúc vị ẩn sĩ thuyết phục mọi người đè nén đau thương, bình tâm lo tổ chức tang lễ cho huy hoàng, trọng thể. Bọn nhạc công đút ống sáo vào bao, nhưng để khỏi phải thiệt thòi, họ quyết định nán lại chờ nhập bọn với những người khóc thuê, theo sau đám ma, hầu dự cơm chiều với họ.
Bị lưu đày ở Mantoue, Roméo ngóng đợi tin tức của Juliette và trong khi mong chờ, chàng ôm ấp nhiều ý nghĩ phấn khởi và đệt bao mộng đẹp. Chợt tên đầy tớ Balthazar của chàng bước vào, gã từ Vérone đến thẳng đây và hoàn toàn không hay biết gì về kế hoạch của cha Laurent. Không kịp thở, gã báo cho chủ mình nghe nguồn tin bi thảm.

- Tôi trông thấy tận mắt, -gã nói- họ mang tiểu thư Juliette vào nhà mộ tổ tiên và tôi vội phóng xe đến ngay để báo tin cho công tử rõ.

- Thật thế sao? –Roméo hỏi lại với vẻ trầm lặng của sự tuyệt vọng tận cùng- ngươi chẳng có thư từ gì của cha cả sao? Không à? Thôi chẳng cần nữa. Hãy mau đi thuê ngựa cho ta. Ta sẽ ra đi ngay chiều nay. Juliette ơi! Đêm nay, anh sẽ đến ngủ bên cạnh em. Biết làm cách nào đây? Ta còn nhớ một lão dược sư, rách rưới tơi tả, nghèo đói, trên trần cửa hiệu khốn khổ của lão, treo tòn ten một con rùa, một con cá sấu nhồi rơm; trên hàng kệ bụi bặm lăn lóc vài cái hộp rỗng, những viên thuốc mốc meo, mấy hũ sành màu xanh, rải rác đây đó, chưng bày làm vi. Trước tình trạng túng bấn đó, ta nghĩ, nếu có ai cần một liều thuốc độc, vẫn bị cấm ngặt ở Mantoue, thì chính nơi đây, lão già khốn khổ kia sẽ sẵn sàng bán cho hắn. Ôi chao! Dược sư!
Với bốn mươi đuy-ca, Roméo nài mua của con người bần cùng ấy, một liều thuốc độc có khả năng đưa hai mươi người khỏe mạnh sang thế giới bên kia, rồi cấp tốc đến Vérone. Cha Laurent vừa hay tin lá thư ông gửi cho Roméo đã bị chặn lại bởi một hàng rào y tế, vẫn thường xuyên dựng ra trong thời bệnh dịch hoành hoành. Ông vội vã đến hầm mộ nơi Juliette sẽ tỉnh dậy trong ba giờ nữa. Thật đáng thương cho tấm thân căng tràn nhựa sống, phải bị giam hãm giữa những người chết. Ông đã già yếu và tật nguyền, lại phải vác cái đòn bẩy nặng nề, dù cố gắng hết mức, ông vẫn không thể đi nhanh hơn được. Bá tước Paris khóc than vị hôn thê dịu hiền của mình, đã đến trước ông, tuôn nước mắt lã chã và rắc đầy hoa lên mộ Juliette. Roméo mang cuốc theo để nạy tấm đá lát trên phần mộ, suýt bắt gặp Paris, nếu Paris không kịp ẩn mình, khi nghe có tiếng chân người. Nhưng vừa nhận ra kẻ lạ thuộc dòng họ Montaigu. Paris bước ra, đầy vẻ đe dọa. Đã cận kề cái chết, Roméo không muốn gây thêm tộ lỗi nào nữa, chàng cầu xin Paris hãy tránh xa nơi này. Nhưng kẻ si tình đau khổ của Juliette dùng lời lăng mạ để thách thức chàng. Hai người trai trẻ đấu nhau và Paris tử thương gục xuống, còn van nài được đặt thi thể cạnh Juliette, mà anh ta trót yêu tha thiết.

Đến lúc đó Roméo mới nhận ra anh, rồi nhớ lại, như trong giấc mơ, rằng mình có nghe nói, Paris lẽ ra đã cưới Juliette. Chàng nói:

- Ta sẽ, vùi chôn ngươi trong một ngôi mộ thật rõ ràng, bởi nhan sắc của Juliette sẽ biến nhà mồ này thành một phòng khánh tiết huy hoàng chói lọi. Juliette thân yêu ơi! Anh muốn ở cùng em và chẳng bao giờ nữa, anh rời khỏi cái lâu đài sầu thảm này. Mắt ta ơi! Hãy nhìn nàng lần cuối. Tay ta ơi, hãy siết nàng cho chặt. Hỡi những người hoa tiêu tuyệt vọng! Hãy đâm đầu xuống những tảng đá, nơi con tàu đã rời rã vì bão táp của ngươi sẽ vỡ nát tan tành. Ta uống cho tình yêu của ta! Lão dược sư trung thực, thuốc của ngươi thật linh nghiệm!

Rồi phủ phục dưới chân Juliette, Roméo trút hơi thở cuối cùng, trong lúc từ phía bên kia nàh mồ, vừa thở dốc vừa loạng choạng vấp ngã, cha Laurent đước tin, do chính miệng Balthazar báo lại, rằng công tử đã một mình đến nhà mồ từ hơn nửa giờ qua. Cấu xé bởi muốn vàn nỗi lo âu sợ sệt, ông lão bước lần đến lăng mộ. Ôi! Máu ai bê bết ở cửa vào, gươm kiếm của ai vứt bừa ra đất? Trời ơi! Roméo xanh xao và Paris đẫm máu! Và dưới đôi mắt hãi hùng của vị ẩn sĩ già nua, Juliette cựa mình, rồi boàng hoàng mở hé mắt ra. Nàng khẽ thầm thì:

- Ồ! Cha cứu tinh của con! Chồng của con đâu rồi! Con nhớ rõ mình sẽ phải thức dậy nơi đâu, bây giờ con đã thức. Nhưng Roméo của con đâu?

- Chao ôi! – cha Laurent nghẹn ngào, cõi lòng tràn ngập xót thương- một quyền lực quá lớn lao đã vượt quá mọi dự định của chúng ta. Có tiêng người, ta phải rời khỏi đây ngay. Than ôi! Trông kìa, chồng con đã nằm chết bên cạnh con, và Paris cũng thế. Nhanh lên, ta không dám nán lại đây lâu hơn, bọn vệ binh sắp tới. Ta sẽ đưa con vào tu viện các nữ tu, nhưng phải trốn đi ngay.

- Cha cứ đi đi, còn con, con không đi đâu cả, Juliette bình tĩnh nói.

Cũng như Roméo khi nhận được cái tin bi thảm, nàng quyết định ngay. Nàng không do dự, cũng chẳng hề run sợ. Trong khi cha Laurent rời đi, nàng nói tiếp:“Ta thấy cái gì đây? -Một cái cốc mà bàn tay người thân thương của ta đang nắm chặt. Như vậy là thuốc độc đã kết liễu cuộc đời chàng. Ôi, chàng ác quá, chàng đã uống hết cả rồi, chẳng để lại cho ta lấy một giọt để giúp ta đi theo chàng. Có thể trên môi chàng còn có đủ chất độc để giúp em chết, nếu em hôn chàng lần cuối?”

Bỗng từ một nới nào đó, vọng lại một giọng nói chói tai:

- Này, nhóc con, hãy dẫn bọn ta đi. Chú bảo là ở phía nào vậy?

Juliette vừa rút dao găm của Roméo ra khỏi vỏ, vừa nói tiếp:

- Có tiếng động ư? Ta phải gấp lên thôi: Dao ơi. Mày ở đây thật là đúng lúc. Mày hãy hoen gỉ đi trong vết thương này. Hãy đem đến cho ta cái chết.

Rồi nàng ngã xuống bất tỉnh trên thi hài của Roméo.

Thế là đôi tình nhân của thành Vérone đã chết như họ đã sống, hai đứa trẻ từng yêu nhau, bất chấp mọ điều, bị chia lìa nhưng mà lại đại đoàn viên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 22:05:05 | Xem tất
Chàng lái buôn thành Venise


Trên cầu Rialto của thành phố Venise phồn thịnh, hằng ngày tề tựu đủ mặt các chủ tàu giàu có, các thương nhân, các giám đốc ngân hàng và những nhà buôn lớn. Họ hối hả làm việc. Họ bàn cãi giá cả hàng nghìn sản phẩm quí báu mà những con tàu mang hiệu nữ hoàng Adriatique, đi tìm tòi từ những xứ sở xa xôi. Họ xì xầm về tình trạng tài chính của người này kẻ khác. Đó là chỗ hẹn hò hầu hết những ai có chút tên tuổi ở Venise.

Nơi đó, người lái buôn giàu có Antonio, vẻ mặt buồn bã thất vọng, một buổi sáng, cùng đi dạo với mấy người bạn. Như mọi hôm, câu chuyện cũng xoay quanh những nỗi bấp bênh nguy hiểm của các cơ nghiệp còn lênh đênh trên mặt biển xa xăm, và chẳng ai ngạc nhiên trước vẻ u sầu của người lái buôn, dù ông có đoan quyết là chẳng hề lo lắng tí nào về số phận những con tàu của ông.

- Tôi thì, gã trẻ tuổi Salanio nói, cứ mỗi lần thổi bát canh cho chóng nguội, tôi lại nghĩ đến cái tai họa khủng khiếp của một trận gió dữ dội có thể gây ra trên biển. Tôi không thể nhìn cát rơi mà chẳng liên tưởng đến những đụn cát, nơi bao thương thuyền của tôi sẽ phải đâm vào. Đá hoa trong nhà thờ nhắc tôi nhớ đến những tảng đá ngầm khiến tàu tôi vỡ nát tan tành. Tôi như trông thấy bao nhiêu hàng hóa trôi lều bều trên sóng, lụa là gấm vóc của tôi phủ kín mặt biển xôn xao. A! Tôi tin chắc rằng sở dĩ Antonio buồn là vì ông nghĩ đến hàng hóa của mình đấy thôi.

- Không đâu, -ông ta nói-, tôi vẫn phó mặc hết cho thời vận. Hy vọng của tôi chẳng phải đặt vào mỗi một con tàu, tài sản của tôi không tùy thuộc rủi ro bất trắc của một năm. Không, tôi đang ưu phiền vì một nỗi ray rứt không đâu, thật tôi chẳng còn hiểu nổi mình nữa. Nhưng kìa Bassanio, em họ tôi! Thôi bọn mình tạm biệt nhé, các bạn? Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong buổi cơm tối.

- Này, Bassanio, nghe nói chú định làm một chuyến du lịch thăm bà nào phải không? Hôm nay, anh em mình trao đổi chuyện ấy nhé!

- Chắc anh thừa biết tài sản của em hầu như khánh kiệt vì những sự hoang phí vô độ. Em mắc nợ như chúa chổm, và em đã chịu ơn anh qua nhiều, tiền bạc cũng như tình thương mến. Giờ đây, em lại phải cầu cứu đến anh lần nữa, mới mong trang trải nổi mọi chi phí.

- Tiền của anh cũng như của chú, bao giờ anh cũng sẵn lòng. Nào kể đi.

- Ở Belmont có cô gái mồ côi rất giàu, nàng đẹp khôn tả và đức hạnh tuyệt vời. Đôi mắt nàng như đã ngầm trao ước hẹn với em. Nàng tên là Portia, tiếng tăm nàng vang dội khắp nơi, nên gần xa nô nức, nhiều kẻ hâm mộ nàng tìm đến. Bên thái dương nàng, mái tóc hung óng ánh xõa xuống từng lọn như bộ lông cừu vàng. Như Jason (1) hăm hở trên đường đến Colchide, những kẻ cầu hôn dập dìu đến Belmont để chinh phục lòng nàng. Anh Antonio ơi! Nếu em có đủ phương tiện đến đó tranh đua với họ. Cõi lòng em mách rằng, sự thành công chắc chắn sẽ mang lại hạnh phúc cho đời em.

- Chú cũng biết hiện giờ tất cả cơ nghiệp của anh đều còn trên mặt biển và lúc này, anh không có sẵn một số tiền lớn. Nhưng anh có nhiều uy tín ở Venise. Nếu cần, anh sẽ dùng đến nó, để chú mày có vinh dự hiện diện ở Belmont, mà tán tỉnh cô nàng Portia xinh đẹp. Hãy dọ hỏi xem nơi nào cho vay tiền, anh cam đoan sẽ mượn đủ cho chú.

Vay hỏi ai để có đủ tiền mặt, sắm sửa một bộ cánh lịch sự cho một kẻ phong lưu quí phái? Ai? Nếu chẳng phải là ông chủ nhà băng giàu có, chuyên cho vay nặng lãi, lão Do Thái Shylock mà thiên hạ vẫn thấy rình rập cơ hội mỗi ngày trên cầu Rialto, xúng xính trong bộ áo rộng, vàng ệch, y phục bắt buộc của con dân Do Thái, đội cái mũ dạ hoặc lông thú, râu dài thậm thượt và tóc quăn tít mang tai. Bộ điệu xoàng xĩnh như thế, nhưng lão có bạc triệu. Nhà lão nằm trong khu xóm nhớp nhúa, cứ tối đến là xích chặt lối vào, che mắt thiên hạ vô vàn báu vật: kim cương, châu ngọc quí báu và một cô gái đẹp, cô bé Jessica đỏm dáng. Cô ả láu lỉnh, đã biết cách kết giao với chàng quí tộc cơ đốc Lorenzo, kẻ đã nhìn thấy nàng qua khung cửa sổ, mở xuống dòng kênh. Lão Shylock thù ghét và hoài nghi tất cả những tín đồ cơ đốc giáo, lại vừa khinh bỉ họ. Khi Bassanio đề cập đến chuyện vay tiền, Shylock xin được suy nghĩ lại:

- Ba nghìn đuy-ca(2), thưa ngài Bassanio. Phải thế không!

- Đúng thế. Trong thời hạn ba tháng.

- Trong ba tháng à? Tốt!

- Như tôi đã nói, Antonio sẽ đứng ra đảm bảo số tiền đó.

- Antonio đảm bảo à? Tốt!

- Ông có thể giúp tôi không? Ông có thỏa mãn tôi không? Kìa, sao ông không trả lời?

- Ba nghìn đuy-ca, trong ba tháng với sự đảm bảo của Antonio, Antoniô tốt lắm!

- Thế nào? Có bao giờ ông nghe nói khác về ông ta đâu?

- Không, không. Thế này nhé. Khi tôi nói rằng ông ta tốt, tôi nghĩ là ông ta dư sức trả nợ, tuy nhiên sản nghiệp của ông ta bấp bênh quá: ông ta có một chiếc tàu cất hàng đi Tripoli, một chiếc khác bên Ấn Độ; trên cầu Rialto, tôi được biết ông ta có một chiếc thứ ba ở Mễ-Tây-Cơ, chiếc thứ tư bên Anh và nhiều chiếc khác nữa rải rác thật xa. Nhưng mấy chiếc tàu, xét cho cùng chỉ là những mảnh ván, và thủy thủ chỉ là những con người. Có chuột đồng thì cũng có chuột nước, trộm cạn và trộm biển, tôi muốn nói lũ hải tặc ấy mà, không kể những hiểm nguy trên đại dương, bão tố, đá ngầm. Song lẽ, người ấy dư sức trả đủ. Ba nghìn đuy-ca. Tôi nghĩ sự đảm bảo của ông ta có thể chấp nhận được. Tôi sẽ tính lại. Tôi có thể trao đổi với ông Antonio không?

- Nếu ông vui lòng đến dự cơm tối với chúng tôi, Bassanio đáp, lòng mừng khấp khởi, quên mất vẻ khinh thị chàng vẫn dành cho lão trước đây.

- Sao, để ngửi mùi thịt lợn à!-Shylock hét lên giận dữ- Tôi thích mua bán với các người, bàn chuyện với các người và làm các thứ khác. Nhưng tôi không muốn ăn uống cùng các người, cầu nguyện cùng các người. Mà ai đến kia nhỉ?

- Chắc hẳn là Antonio,-Bassanio đáp.

- Hắn ta có vẻ đạo đức giả quá! – Shylock lầm bầm trong miệng. Ta ghét hắn ta chỉ vì hắn là tín đồ cơ đốc, nhưng cũng vì hắn cho vay không lấy lãi, làm hạ phân suất lãi ở Venise. Nếu ta nắm được hắn trong tay, ta sẽ mặc tình thao túng hắn cho bõ ghét. Hắn nhạo báng ta, chuyện làm ăn của ta và những món lợi ta thu được một cách chân chính. Mẹ kiếp! Ta mà tha hắn thì trời đày bộ tộc ta đi!

- Ông nghe tôi chứ, Shylock?

- Tôi đang nhẩm tính các số vốn có sẵn và thấy chắc phải mượn thêm phần nào đó của gã Do Thái trong bộ tộc tôi. Nhưng ngài hãy yên lòng,-lão hướng về Antonio nói tiếp-, Ba nghìn đuy-ca trong ba tháng! Tính thử tiền lời xem nào.

- Thế thì chúng tôi có thể trông cậy vào ông phải không Shylock? –Antonio hỏi gặng.

- Thưa ngài Antonio, biết bao lần, trên cầu Rialto, ngài đã trách móc tôi cho vay nặng lãi, lần nào tôi cũng nhún vai không buồn trả lời, vì sự nhẫn nhục là đặc tính riêng biệt của dân tộc tôi. Ngài đã cho tôi là phản giáo, chó ghẻ, ngài nhổ toẹt vào áo chủng Do Thái của tôi, tất cả chỉ vì tôi toan tính theo ý mình, những cái thuộc về tôi. Nhưng hôm nay, hình như ngài cần đến tôi và ngài phán: “Shylock, chúng tôi cần tiền”. Lời ngài sao mà ngọt ngào, thế mà chính ngài đã nhổ vào râu tôi, đạp vào người tôi, như đạp một con chó hoang lởn vởn trước cửa nhà ngài. Hẳn tôi phải trả lời ngài: “một con chó có tiền không, thưa ngài? Chó mà có thể cho ngài vay ba nghìn đuy-ca à?” Hay tôi phải cúi gập người xuống chào ngài và khép nép thưa: “Bẩm ngài nhân từ, thứ tư rồi, ngài khạc vào mặt tôi, ngày kia, ngài đấm đá tôi túi bụi, một lần khác, ngài mắng tôi là đồ chó: đáp lại những cách đối đối xử dịu dàng đó, tôi rất lấy làm sung sướng được cho ngài vay thật nhiều tiền!”

- Nếu ông cho tôi vay số bạc đó,-Antonio ngạo mạn nói-, đừng xem như cho một người bạn vay mà cứ cho là với kẻ thù. Như thế, nếu ta trễ hạn, ông sẽ có được cái thích thú đưa ta ra pháp luật.

- Ta ta ta! Ngài lại nổi nóng rồi! Tôi bao giờ cũng ao ước được làm bạn các ngài! Được các ngài ưu ái, và quên hết mọi nỗi nhục nhã trước công chúng mà ngài đã gây ra, cung phụng cho yêu cầu hiện tại của ngài, và tất cả chẳng tính một xu lời. Ngài nghĩ sao về đề nghị của tôi?

- Nó có vẻ lương thiện đấy, Antonio trả lời sửng sốt.

- Vậy thì ngài hãy cùng tôi đến phòng chưởng khế kí giấy tờ, có điều… ồ! Hoàn toàn chỉ để vui đùa thôi! Tôi sẽ ghi vào văn bản rằng, nếu ngài không hoàn đủ lại tôi món tiền đó, tại nơi nào, vào ngày nào, ngài sẽ được xóa sạch nợ, khi để tôi xẻo một khoảnh thịt chỉ bằng một livre(3) thôi. Trên phần nào của cơ thể ngài mà tôi thích!

- Sẵn lòng, Antonio nói, tôi còn cho rằng người Do Thái thật tốt bụng!

- Anh không thể ký mảnh giấy như thế để giúp đỡ em, Bassanio xúc động, phản đối. Thà cứ để mặc em thiếu thốn còn hơn.
- Bậy nào! Đừng lo gì cả. Tàu sẽ cặp bến một tháng trước khi mãn hạn giao kèo và sẽ mang đến cho anh chín lần trị giá tờ giấy này.

- Thánh Abraham ơi! –Shylock tức giận cầu khẩn- Ngài thấy bọn tín đồ Thiên Chúa giáo đấy! Tôi sẽ được gì nào, khi đòi hỏi điều kiện kia? Một livre thịt, lấy từ một người, nào có đáng giá bằng ngần ấy thịt cừu, thịt bò hay thịt dê. Điều tôi làm chính là để mua ân phúc của ngài đấy, Abraham ạ!

- Được rồi, Shylock, ta sẽ ký giấy.

- Nếu thế, cứ đến chờ tôi ở phòng chưởng khế, tôi tạt qua nhà, lấy tiền và sẽ gặp lại ngài trong giây lát.

Trong khu vườn lớn với những thảm cỏ lấm tấm hoa, với bóng cây rậm mát, thấp thoáng ngôi biệt thự Belmont xinh xắn, Portia thơ thẩn đi dạo, nét mặt buồn, theo sau là cô hầu trung thành và tinh ranh Nerissa.

- Thực ra, Nerissa à, nàng nói, con người nhỏ bé của ta đã chán ngán cõi đời bao la này rồi. Thật khổ cho ta, đã không thể lựa chọn hay từ chối một người chồng, bởi vì ước mơ của một cô gái đang sống phải chiều theo ý nguyện của người cha đã chết.
- Cha của tiểu thư là người đức hạnh, Nérissa lý luận, và người tốt, lúc sắp chết đều có những linh cảm đúng đắn, hãy yên lòng về cuộc xổ số mà phụ thân tiểu thư đã nghỉ ra với ba cái tráp vàng, bạc và chì. Trong đó có một cái đựng chân dung tiểu thư, sẽ mang đến cho tiểu thư một người chồng xứng đáng. Tiểu thư có thấy linh cảm nghiêng về ai chưa, trong số những kẻ cầu hôn vừa mới đến?

- Hoàng tử thành Naples chỉ nghĩ đến bầy ngựa của chàng, bá tước Palata lúc nào cũng nhăn nhó, vị nam tước trẻ tuổi người Anh chỉ biết bày tỏ lòng mình bằng tiếng mẹ đẻ, gã Êcốt chẳng một xu dính túi, nhà quí tộc Đức say sưa cả ngày, đúng là cái hũ chìm(4). Tóm lại, tôi chỉ mong họ sớm cút đi cho rảnh!

- Hẳn tiểu thư còn nhớ một chàng người Venise, nét mặt khôi ngô có đến đây, thuở sinh thời phụ thân tiểu thư.

- Có nhớ, Portia nói, giọng cố làm ra vẻ lãnh đạm, hình như chàng tên là Bassanio.

- Chàng ta thật xứng với một tiểu thư diễm lệ đài các, Nérissa nói bóng gió.

- Thưa tiểu thư, -một tên nô bộc chen vào-, hoang tử Maroc vừa báo tin sắp đến và thái tử Aragon chiều nay sẽ hiện diện nơi đây.

Portia với quả tim hơi se thắt, nhưng đã nhất quyết chiều theo ý nguyện sau cùng của cha, nặng nề bước ra chủ tọa cuộc gieo cầu.

Hoàng tử Maroc kiêu hùng không sao tin rằng bức chân dung tuyệt trần của nàng, phần thưởng cho kẻ nào tinh ý và tài năng, lại có thể cất giữ nơi nào khác hơn là trong cái tráp bằng vàng ròng. Nhưng hắn ta chỉ thấy hình ảnh một thi hài nhăn dúm, hung tợn. Thái tử Aragon, muốn chứng tỏ mình có đầu óc khác thường, nghĩ rằng nên chọn cái tráp bằng bạc: một bức biếm họa dị hợm như gởi gã lời chào tinh quái.

Ngay lúc đó, tên nô bộc báo tin có một kỵ sỹ trẻ tuổi, thanh lịch và hào hoa vừa đến thử thời vận. Chính là Bassanio và người hầu thân tín, Gratiano, cùng đoàn tùy tùng, tất cả hớn hở trong những bộ quần áo chải chuốt hợp thời trang: gấm thêu vàng dát bạc, nhung hoa, tay áo sa-lanh sặc sỡ, đeo vòng vàng và chuỗi ngọc trân châu, cưỡi trên con ngựa hung hăng, lộng lẫy trong bộ yên cương bằng lụa. Lần này, ray rứt vì buộc phải câm lặng trước điều bí mật, cô bồn chồn muốn lùi lại cái phút giây mà Bassanio có thể mất nàng vĩnh viễn. Nhưng kẻ si tình đòi được chọn ngay tức khắc.

- Tôi chẳng muốn –chàng nói sau một thoáng tầm tư- đụng đến vàng, thức ăn khô cứng của Midas(5) hay mó đến bạc, thường vụ lợi và ti tiện. Còn chì, cái màu xanh bình dị, làm ta xúc động. Cầu mong sự lựa chọn của ta gặp hái được hạnh phúc!
Portia vui mừng tột độ, mở lấy tráp, lấy bức chân dung của mình ra. Bassanio cũgn mê mẫn cả tâm hồn! Hai kẻ tâm phúc, Nérissa và Gratiano liền chúc mừng hạng phúc cho đôi vợ chồng tương lai. Bassanio, với sự nhạy cảm của người tình thỏa nguyện, đã ngờ ngợ rằng việc kết hợp giữa chàng và Portia nhất định không phải là lễ cưới duy nhất ở Belmont. Gratiano thú nhận đã trót nói lời thề non hẹn biển với cô nàng Nérissa ranh mãnh nhiều đến rát khô cổ họng.

- Được rồi -chủ anh ân cần nói- hôn lễ của chúng tôi sẽ rộn rịp tưng bừng hơn nhờ tiệc cưới của các người.

- Tất cả những gì thuộc về em – Portia nói giọng thật nồng nàn- giờ đây đều là của chàng. Lúc này, em là chủ nhân cái dinh thự tráng lệ này, đám người hầu hạ và chính bản thân em. Bây giờ, ngôi nhà này, những nô bộc kia và cả bản thân em đều thuộc về chàng. Em xin trao thân gửi phận cho chàng, cùng với chiếc nhẫn này. Nếu chàng trao nó cho ai, hoặc đánh mất đi, điều đó báo hiệu cho sự đổ vỡ của tình yêu chúng ta.

Bassanio cuống quít tuôn ra bao lời ước hẹn chân thành và thề rằng, thà chết chứ chẳng khi nào rời chiếc nhẫn của Portia.
Trong lúc đó, Shylock lúc nào cũng nghi nan ngờ vực, chú tâm lo toan công việc của mình.

-Jessica, con gái của cha, -lão nói-, chùm chìa khóa đây; hãy trông chừng nhà cửa nhé! Chẳng hiểu vì sao chiều nay cha ớn xuống phố thế nào ấy! Nghe này Jessica! Đóng chặt các cửa lại và đừng vì lẽ gì mà đứng phất phơ ở cửa sổ, hoặc chường mặt ra với mấy thằng cơ đốc điên rồ. Ôi! Ta chả muốn rời khỏi nhà tí nào. Nhớ khóa hai tua đấy, Jessica! Cái gì ta giữ chặt sẽ còn, câu tục ngữ đó chẳng bao giờ cổ hủ cả.

Chú thích
1) Jason : bị chú là Pelias cướp ngôi vua, Jason đen đòi chú thì chú chàn hứa sẽ trao lại với điều kiện chàng phải đến Colchide lấy cho được bộ lông cừu vàng. Trong thần thoại “Những thủy thủ của con tàu Ac-gô” của Hy-lạp cổ.
2) Đuy-ca: đồng tiền đúc bằng vàng.
3) Lirve: một đơn vị đo trọng lượng gần bằng nửa kilô.
4) Nguyên bản: éponge :bọt biển
5) Midas: vua xứ Phrygie (716-676 Trước CN) theo truyền thuyết có khả năng sờ vật gì cũng thành vàng.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 22:10:17 | Xem tất
Một Số Tác Phẩm Của William Shakespeare - Chàng lái buôn thành Venise
----------------------------------------------------------------------------

Trời vừa sụp tối, một đám vũ hội hóa trang đi ngang qua. Chẳng phải là chúng ta đang ở Venise, nơi các cuộc hòa nhạc buổi tối hay ban mai, đeo mặt nạ cải trang xuất hiện từng góc phố đó sao? Sau một ám hiệu, cửa sổ nhà Shylock dè dặt hé mở; một gã thanh niên mảnh khảnh và nhanh nhẹn hiện ra với trang phục của một tên thị đồng hào hoa, mang một lẵng hoa nặng trĩu. Bọn trẻ đeo mặt nạ (qua trò chuyện và giọng nói của họ, ta nhận ra gã Lorenzo nông nỗi và bè bạn, đang thích thú chơi khăm lão Do Thái một vố tệ hại) theo sau họ là một người cầm đuốc có vẻ hơi xúc động, đó chẳng ai khác hơn là Jessica. Họ cùng đến dự liên hoan của Bassanio. Sau đó, hai người tình trốn lên một du thuyền, cuỗm theo phần gia sản quí báu của Shylock gồm kim cương, ngọc thạch và những đồng đuy-ca rủng rỉnh.

Bọn trẻ trong thành phố Venise hớn hở xiết bao, khi được trông thấy lão Shylock râu tóc rối tung trước gió, mắt long lên sòng sọc, rảo bước khắp các nẻo đường, tru tréo nguyền rủa đứa con gái bội bạc:

- Con gái của ta ơi! Những đồng đuy-ca của ta ơi! Ôi! Con gái cảu ta ơi! Một thằng cơ đốc đã cướp mất chúng rồi! Ôi! Những đồng đuy-ca thánh thiện của ta! Công lý ở đâu? Pháp luật ở đâu? Những đồng đuy-ca của ta, con gái của ta! Một bao, hai bao tiền vàng, con gái tôi lấy tất. Rồi nữ trang, hai hạt kim cương nữa! Hai hạt kim cương hiếm quí, con gái tôi cũng đoạt mất! Công lý ở đâu? Hãy tìm cho ra con bé, nó mang trên người nhiều kim cương và đuy-ca của tôi! Máu thịt của tôi lại nổi lên chống lại tôi! Nó sẽ bị đày mãn kiếp vì tội đó.

Những thương nhân ở Venise, chẳng mấy động lòng vì cơn điên của lão Shylock: họ xầm xì với nhau về tin đồn: một chiếc tàu của Antonio vừa bị đắm ở một chỗ cạn hiểm nghèo, giữa eo biển cách biệt hai nước Pháp và Anh. Những chiếc khác ở Mexico, Tripoli, Barbarie và Ấn Độ thì bặt tin tức. Rồi họ bàn tán cãi vã về sự phá sản có cơ xảy ra. Shylock đâm khùng vì giận tủi, phun ra toàn những lời dữ tợn:

- Tên Antonio khốn kiếp! Quen miệng khoe khoang ngoài phố lại gọi ta là thằng cắt cổ thiên hạ! Hãy coi chừng tờ giấy nợ. A! Hắn cho vay không cần lãi, vì lòng nhân ái cơ đốc giáo! Liệu mà coi chừng tấm giấy nợ!

- Nhưng cho dù hắn khánh tận đi nữa –có người vặn lại- ông cũng sẽ chẳng lóc thịt hắn. Ích gì nào?

- Để làm mồi cho cá! –Shylock cười khẩy- Nếu thịt của hắn chẳng nuôi được gì hơn, thì có nuôi được mối hận của tôi. Hắn cười cợt những lần tôi thua lỗ, hắn chế nhạo các món lợi của tôi, hắn nhục mạ xứ sở tôi., hắn chen vào cuộc làm ăn của tôi. Vì lý do nào chứ? Chỉ vì tôi là một người Do Thái. Chẳng lẽ người Do Thái lại không có mắt, có tay, có đầy đủ giác quan với mọi thứ tình cảm và những nỗi say mê à? Họ chẳng ăn cùng một loại thực phẩm như người Cơ đốc hay sao? Chẳng phải người Do Thái cũng bị thương tích bởi cùng những loại vũ khí, cũng mắc phải những căn bệnh và được chữa trị bằng những vị thuốc giống như người Cơ đốc đó sao? Chẳng phải mùa hè người Do Thái cũgn nóng bức, mùa đông cũng lạnh buốt y như các tín đồ Cơ đốc đó sao? Nếu các người đâm chúng tôi không chảy máu à? Nếu các người cù chúng tôi không cười à? Nếu các người đầu độc chúng tôi không chết à? Nếu các người xúc phạm chúng tôi, chúng tôi lại không trả thù à? Nếu các người giống chúng tôi những cái đó, thì bất luận cái gì chúng tôi cũng giống các người hết. Kìa, anh bạn Tubal, có tìm thấy con gái tôi không?

- Tôi nghe nói nhiều về cô ấy, nhưng chẳng làm sao gặp được, bác Shylock ạ!

- Chưa bao giờ -Shylock kêu lên- chưa bao giờ dân tộc tôi lại đáng nguyền rủa như hôm nay! Hai nghìn đồng đuy-ca và biết bao tư trang quí giá của tôi! Tôi muốn thấy đứa con gái ngỗ nghịch gục chết dưới chân, tai còn đeo nữ trang. Sao nó chẳng bị chôn vùi dưới chân tôi với những đồng đuy-ca của tôi trong quan tài của nó. Chẳng biết tôi còn phải hao tốn bao nhiêu tiền nữa mới tìm ra được nó. Thật là họa vô đơn chí! Chẳng chút thỏa nguyện! Mà cũng chẳng báo được thù! Chẳng có tiếng thở than nào như tiếng than thở của ta, chẳng nước mắt nào như nước mắt của ta!

- Còn nhiều kẻ khác đau khổ -Tubal an ủi- lão Antonio, theo như tôi được biết ở Gênes…

- Gì thế! Một tai họa? Một tai họa thảm khốc à?

- Lão ta vừa mất chiếc tàu từ Tripoli về.

- Tạ ơn chúa! Có thật không đấy? Ối! Tin đáng mừng!

- Thiên hạ đồn rằng ở Gênes, con gái ông tiêu phí trong một đêm mười tám đồng đuy-ca.

- Ngươi cắm dao găm vào ngực ta đó! Ôi! chẳng bao giờ còn được thấy lại vàng của ta!

- Tôi vừa tới Venise –Tubal nói tiếp- với các chủ nợ của Antonio, họ quả quyết rằng hắn chỉ còn cách tuyên bố phá sản thôi.
- Thật hả dạ. Ta sẽ làm cho hắn đau đớn. Ta sẽ hành hạ hắn.

- Có kẻ đưa cho tôi xem chiếc nhẫn mà con gái ông đánh đổi với y để lấy một chú khỉ.

- Con đốn mạt! Đó là chiếc nhẫn lam ngọc của ta. Ta mua hồi thời còn trẻ. Ta chẳng bao giờ chịu mất nó, dù để đổi lấy cả một sa mạc đầy những khỉ.

- Chắc chắn lão Antonio sẽ bị khánh kiệt.

- Thông báo ngay cho một viên quan tư pháp, trước mười lăm ngày. Nếu hắn không trả được nợ, ta sẽ lóc tim của hắn. Nếu hắn trốn khỏi Venise, ta sẽ tiến hành mọi việc theo ý ta. Nào nhanh lên, Tubal, rồi trở lại gặp đi. Đi đi, bạn chí thiết của ta!
Thời gian trôi qua, kỳ hạn đã tới. Antonio không trả được nợ, nhưng Bassanio đã chiếm được Portia. Chính đang lúc tràn trề hạnh phúc, tin tức về nguy cơ của người bạn đã nổ ra. Lorenzo trình diện với Portia a cô vợ mới cưới Jessica, trao cho Bassanio một lá thư khiến anh tái mặt khi đọc qua. Portia, người vợ yêu thương và quả cảm, đã ngăn lại những lời chúc mừng của các bạn mới đến, và tỏ ra lo lắng về nỗi khốn quẫn của chồng.

- Này, Portia hiền dịu –Bassanio thành thực tỏ bày- anh có nói khi ngỏ lời yêu em, rằng anh là một vương tôn, nhưng tài sản duy nhất của anh là dòng máu lưu thông trong huyết quản. Anh là thằng bịp, vì của cải của anh chẳng đáng một đồng xu! Anh bạn hiền từ, quảng đại Antonio của anh đã tự khép mình  dưới quyền lực một kẻ thù hiểm ác nhất của anh ấy để yểm trợ cho anh.
Thư này báo tin vụ thất lạc tàu bè của anh ấy, còn tên Do Thái từ chối không nhận tiền, trị giá tờ giấy nợ, vì trễ hạn. Hai mươi thương gia, bạn của Antonio, cả vị đại thống lĩnh nữa và các bạn nhân sĩ, đã hết lời thuyết phục lão. Lão nói lão thích một lirve thịt của Antonio hơn là hai mươi lần số nợ.

Chỉ nghĩ đến điều đó, Portia đã kinh khiếp rụng rời.

- Anh ấy nợ lão Do Thái bao nhiêu? –nàng hỏi.

- Ba nghìn đuy-ca, vay cho anh.

- Sao không hơn à? Hãy trả lão sáu nghìn, gấp hai, gấp ba lần còn hơn là phải thấy người bạn thân thiết mất đi, dù chỉ một sợi tóc, Bassanio ạ! Chúng ta hãy đến nhà thờ ngay, chịu phép lễ cưới, để em chính thức là vợ anh, rồi anh hãy tức tốc trở về Venise. Em sẽ đưa anh đủ số vàng để trả gấp hai mươi lần món nợ cỏn con ấy. Nhanh lên, anh yêu, hãy lên đường.

Lễ cưới vừa xong, Bassanio lên xe và ra đi. Portia chẳng nói với ai lời nào, đã ngầm nghĩ ra giải pháp. Giao biệt thự cho Lorenzo và Jessica trông nom, nàng bảo rằng sẽ rút vào tu viện để chờ đợi chồng về.

Ta gặp lại Bassanio bên cạnh Antonio, trước phiên tòa trang nghiêm, dưới quyền chủ tọa của vị đại thống lĩnh. Người ta đưa Shylock vào và vị Đại thống lĩnh đi ngay vào vấn đề, vừa giả vờ tin chắc rằng lão Do Thái chẳng thiết nghĩ đến việc thưa kiện Antonio để đòi hỏi việc trả nợ vô nhân đạo, như đã ghi trong giấy. Shylock chẳng chút bận tâm gì đến tình cảm. Lão chỉ cần biết lão có đủ quyền không? Nếu lão vẫn thích được một lirve thịt thay vì ba nghìn đuy-ca, hay sáu nghìn đuy-ca do Bassanio đưa, hay thậm chí sáu lần số tiền sáu nghìn đó, thì luật pháp ở Venise có quyền chống lại không? Đó là câu hỏi duy nhất lão đặt ra trước tòa.

Đại thống lĩnh cho đòi nhà thông thái, cố vấn pháp luật nổi tiếng Bellario, để giải quyết vấn đề hóc búa này. Người ta nóng lòng chờ ông. Ngay lúc đó, trong khi Antonio cam chịu xin cứ để lão Do Thái thỏa mãn lòng thù hận và Shylock thì mài con dao sắc. Người ta loan báo có một sứ giả từ Padoue đến, mang theo lá thư của vị bác học. Một viên thư ký luật sư mặt non choẹt dưới chiếc mũ vải đen gấp nếp, bước vào trình thư lên đại thống lĩnh.

- Ngài Bellario -Đại thống lĩnh tuyên bố- tiến cử trwóc tòa một nhà bác học trẻ, đồng nghiệp của ngài. Ông ấy đâu?

- Gần đây thôi, đang chờ đức ngài phúc đáp –viên thư ký kính cẩn thưa, và chúng ta nhận ra viên thư ký đó chính là cô hầu Nérissa.

- Cho mời vào, nhà bác học Balthazar sẽ thay thế Bellario, hiện đang lâm bệnh. Chưa bao giờ người ta được thấy một nhà bác học uyên thâm mà lại trẻ măng như thế này. Ông ấy kia! Xin chúc mừng. Mời tôn ông an vị. Tôn ông đã có thẩm cứu vấn đề làm bận trí phiên tòa hôm nay rồi chứ?

- Tôi biết rõ vụ kiện trong từng chi tiết – Balthazar nói, giọng sao giống giọng Portia đến kỳ lạ- Ở đây, ai là lái buôn và ai là người Do Thái?

- Antonio và Shylock, cả hai đến gần đây.

- Shylock, ông đã khởi tố trước tòa một vụ kiện lạ lùng hi hữu, nhưng ông đã làm đúng thủ tục đến nỗi pháp luật ở Venise không thể nào ngăn cản ông đeo đuổi vụ kiện. Còn ông, Antonio, ông có nhìn nhận giấy nợ này không?

- Tôi thừa nhận, người lái buôn trả lời, giọng uể oải.

- Như vậy thì người Do Thái này phải có lòng khoan dung mới được.

- Nhưng ai có quyền buộc tôi phải khoan dung kia chứ?

- Không thể cưỡng ép sự khoan dung được, ông Shylock ạ. Như cơn mưa ấm trên cánh đồng, nó rơi xuống để mang lại hạnh phúc cho kẻ nhận, cũng như người cho. Đó là một trong những biểu hiện của thượng đế. Ông nghĩ xem, nếu không có khoan dung, chẳng có ai trong chúng ta mong được cứu rỗi. Hãy giảm bớt tính nghiêm khắc trong lời truy tố, nếu ông cứ cương quyết, buộc lòng pháp đình phải nghị án, chống người lái buôn.

- Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về hành động của tôi, tôi yêu cầu luật pháp.

- Antonio lâm vào tình trạng không trả nổi nợ à? – Bathazar dò hỏi.

- Sao? –Bassanio nóng nảy chen vào- Tôi xin trả cho Shylock, có cả phiên tòa chứng kiến, hai lần, mười lần số nợ. Hiển nhiên ở đây sự độc ác đang bóp chết sự vô tội. Tôi xin thỉnh cầu các ngài, hãy đặt pháp luật dưới uy quyền của ngài. Xin hãy chọn một bất công nhỏ để mang lại một sự công bằng cao cả. Xin hãy bác lời yêu sách của con quỉ độc ác kia
.
- Không một quyền lực nào ở Venise, -Bathazar trịnh trọng nói-, có thể sửa đổi một sắc lệnh đã ban hành.

- Chính một Daniel (6) đến đây phán xử chúng ta, Shylock kêu lên hồ hỡi. Ôi, vị pháp quan trẻ trung và sáng suốt, xin được kính cẩn nghiêng mình bái phục tôn ông.

- Đưa văn tự ta xem.

- Đây ạ, thưa nhà bác học vô cùng đáng kính.

- Này, Shylock, người ta trả ông gấp ba lần số nợ nhé!

- Tôi đã trót thề với trời đất. Chẳng lẽ lại để lương tâm ray rứt vì sự bội ước. Dù cho được cả Venise, tôi sẽ chẳng bao giờ làm thế. Khi giấy nợ được thanh toán đúng như điều kiện trong đó, tôn ông có thể xé bỏ. Tôn ông là một quan tòa công minh, tôn ông đã trần thuật chính xác sự việc của tôi, tôi yêu cầu tôn ông phán quyết ngay.

- Tôi khẩn thiết van nài quí tòa cứ tiến hành xét xử. Antonio đáng thương nhẫn nại lên tiếng.

- Vậy thì - Portia hạ lệnh với giọng buồn bãp- ông chuẩn bi đưa ngực ra mà nhận phát dao.

- Ồ! Vị thẩm phán cao quí! Ồ! người trai trẻ tài ba. Ôi! Bậc thánh hiền, liêm khiết! Tôn ông già giặn hơn vẻ mặt bề ngoài. Văn tự đã ghi rõ, ngực hắn! Gần sát bên tim hắn. Chữ nghĩa thật minh bạch.

- Ông có sẵn cân ở đấy chứ, để cân thịt?

- Tất cả đã sẵn sàng – Shylock vội vã nói.

- Và một chuyên viên phẫu thuật do ông đài thọ chi phí, để băng vết thương lại, vì chỉ e rằng con nợ của ông sẽ chết vì mất máu.
- Điều này không hề ghi trong văn tự. Tôi cố tìm nhưng chẳng thấy điều đó trong văn tự.

- Tôi đã sẵn sàng và có đủ can đảm – Antonio cất giọng ão não. Bassanio, đưa tay đây! Đừng đau khổ làm gì, định mệnh đã muốn anh thoát khỏi nỗi nhọc nhằn và ray rứt của tuổi già. Hãy kể với người vợ cao quí của chú về anh, nói với nàng anh thương chú biết bao. Anh bằng lòng trả cho lão Do Thái tất cả máu của tim anh.

- Anh Antonio ơi – Bassanio cuống cuồng hét lên- em đã cưới được một người vợ mà em yêu quí hơn cả cuộc đời em, nhưng em bằng lòng mất tất cả, vợ em, đời em và cả thế gian này để giải thoát anh khỏi conquỉ khát máu kia.

- Vợ nhà ngươi – Portia dịu dàng nói- chắc chẳng ơn ngươi chút nào, nếu ngàng nghe ngươi nói.

- Tôi cũng rất yêu vợ tôi –Gratiano phụ họa thêm- Nhưng tôi muốn thấy nàng trên trời để nàng có thể cầu xin đấng vạn năng nào đó làm động lòng tên  Do Thái ác độc này.

- Ngươi nói thế trong lúc vắng nàng là đúng – Nérissa cất giọng khô khan, lãnh đạm- nếu không, độc nguyện của ngươi chắc sẽ gây sóng gió trong gia đình ngươi đó.

- Chúng ta mất quá nhiều thời giờ! – lão Shylock cắt ngang- Tuyên án đi, tôi van tôn ông.

- Một lirve thịt thuộc về ông! Tòa án đã tuyên xử, luật pháp cho phép ông. Và ông phải xẻo giữa ngực.

- Ồ! Quan tòa công minh! Quan tòa thông thái! Đó là phán quyết. Nào, chuẩn bị đi.

- Khoan đã. Chưa hết đâu. Văn tự không chấp nhận cho ông giọt máu nào cả; lời lẽ thật rõ ràng. Hãy nhận cái gì thuộc về ông, một lirve thịt, nhưng nếu ông làm rơi một giọt máu Cơ đốc, luật pháp ở Venise sẽ truyền lệnh tịch thu toàn bộ tài sản của ông cho nhà nước cộng hòa.

- Ồ! Vị thẩm phán công minh! – Gratiano thở ra nhẹ nhõm, trút bỏ được mối ưu tư - Này lão Do Thái! Quan tòa thông thái đấy chứ!

- Luật pháp thế à? – Shylock kinh hoàng, hỏi lại- Nếu thế tôi xin nhận số tiền của hắn. Ba lần số nợ, rồi cứ mà tha cho tên Cơ đốc.

- Thong thả đã! – Portia nói với Bassanio, chực đưa tiền ngay cho Shylock. Chớ hấp tấp! Những điều khoản trong văn tự phải được thực hiện từng chữ.

- Ồ! Lão Do Thái! Quan tòa thông minh thật! – Gratiano nhấn mạnh.

- Chuẩn bị cắt thịt đi. Đừng cho rơi máu đấy. Nếu ngươi cắt quá hay kém một lirve, dù chỉ bằng một phần hai mươi hột thóc hay sức nặng một sợi tóc, ngươi phải chịu tử hình và tài sản bị tịch thu.

- Một Daniel thứ hai, lão Do Thái ơi, đúng là một Daniel!

- Trao cho tôi phần nợ chính để tôi đi, Shylock hầm hừ.

- Đương sự đã từ chối trước tòa – Portia dõng dạc nói. Hắn sẽ nhận được những gì hắn xứng được như vậy. Hắn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về hành động của hắn.

- Sao cơ? Tôi không được nhận cả phần nợ chính nữa à? Thế thì để quỉ ma trả cho hắn tờ giấy nợ. Tôi chẳng muốn lưu lại đây làm gì cho mất cả thì giờ.

- Khoan đã Shylock! Luật pháp Venise qui định rằng, nếu một người ngoài xâm phạm đến tính mạng một công dân, dù dưới hình thức nào, phân nửa tài sản kẻ đó phải giao cho đối thủ hắn, phân nửa kia sung vào công quỹ. Chỉ có Đại thống lĩnh mới có quyền ân xá tội chết. Ngươi đã phạm đủ các tội đã viện dẫn. Hãy quì xuống mà thỉnh cầu sự khoan dung của Đại thống lĩnh.

- Để ngươi hiểu rõ sự khác biệt giữa tâm hồn chúng ta -Đại thống lĩnh phán với lòng bao dung- ,ta không đợi ngươi cầu xin rồi mới ban cho ngươi mạng sống. Phân nửa tài sản của ngươi giao thẳng về Antonio, còn phân nửa kia, nhà nước sẽ chỉ thu tiền phạt, nếu ngươi chấp hành nghiêm chỉnh.

- Xin lấy cả mạng sống tôi đi – lão Do Thái ủ rũ nói- Đức ngài lấy đi mọi phương tiện mưu sinh, khác nào đức ngài lấy đi mạng sống của tôi.

- Xin cứ để lại cho lão phân nửa gia sản – Antonio hào hiệp nói- Tôi đủ hài lòng rồi. Phân nửa kia tôi xin được quyền lấy làm của hồi môn cho con gái lão.

- Tôi bằng lòng – Shylock cuống quít, hả hê vì lại thoát nạn dễ dàng đến thế. Nhưng cho phép tôi lui. Cứ gởi giấy tờ đến nhà, tôi ký tất. Tôi cảm thấy trong người không được khỏe.

- Xin đức ngài miễn thứ cho -bấy giờ Bathazar mới lên tiếng cáo từ Đại thống lĩnh-. Ngay tối nay, tôi phải về đến Padoue.
- Cho phép tôi được trả thù lao tôn ông bằng tất cả số ba nghìn đuy-ca tiền nợ của lão Do Thái – Bassanio vui mừng quá đỗi bèn đề nghị.

- Cứu được bạn ông là tôi mãn nguyện lắm rồi . Nhưng nếu ông khăng khăng đòi đền ơn đáp nghĩa, hãy trao tôi chiếc nhẫn ông đang đeo trên tay, để chứng tỏ chút thâm tình.

- Ơ kìa! Có đáng gì đâu, cái món vật này. Tôi sẽ tìm chiếc nhẫn đẹp nhất Venise để kính dâng tôn ông. Còn cái này, mong tôn ông vui lòng miễn thứ.

- Tôi thấy rõ ông chỉ rộng rãi trong lời hứa nhưng thôi được, thưa ông. Chúc ông được bình an.

- Portia bước đi với vẻ đường hoàng, nhưng hơi phật ý. Antonio áy náy, tha thiết van nài Bassanio: ta chẳng làm được gì để đền ơn xứng đáng cho vị cứu tinh của mình sao? Đến nỗi Bassanio ríu rít cởi nhẫn trao cho tên hầu tâm phúc Gratiano mang đến trao cho nhà thông thái Bathazar, rồi hồi hộp nghĩ đến lúc về đến Belmont.

Trong khu vườn vằng vặc ánh trăng, tiếng nhạc êm dịu từ lâu đài vẳng đến: người ta đang chờ Portia vì nàng có báo trước ngày về. Đôi vợ chồng son, Jessica và Lorenzo, ngồi trên thảm cỏ nhung, nhìn bầu trời lấp lánh muôn sao, vừa đùa nghịch nhau, vừa nhớ lại những chuyện tình đẹp nhất, rồi Lorenzo say sưa giải thích cho Jessica nghe về sự hài hòa giữa các tinh cầu và mớ lý thuyết về âm nhạc của anh. Chính lúc đó, Portia bắt gặp họ. Suốt quãng đường về, mỗi lần gặp một mô đất có dựng thập tự, nàng đều thành tâm quì xuống, cầu nguyện xin trời ban phúc cho cuộc hôn nhân của mình.

Khoảnh khắc sau đó, Bassanio về tới, giới thiệu anh bạn Antonio với vợ, được nàng đón tiếp thật ân cần, nông hậu. Buổi tiệc hội ngộ bỗng gián đoạn vì những lời qua tiếng lại dấm dẳng giữa Nérissa và Gratiano: họ to tiếng và ta nghe Nérissa kịch liệt đòi lại chiếc nhẫn cô đã trao cho Gratiano mà anh chàng thề thốt sẽ giữ mãi. Thế mà giờ đây anh chàng lại bảo rằng biếu nó cho viên thư ký của nhà bác học Balthazar, để đền đáp công lao khó nhọc.

Portia nghiêm nghị lắc đầu:

- Gratiano, cậu thực đáng trách, cậu đã xử sự nông nổi đối với kỷ vật đầu tiên của vợ mình. Ta cũng có tặng ngài Bassanio của ta một chiếc nhẫn và ta có thể nói thay chàng rằng chẳng bao giờ chàng lại chịu để mất nó vì bất cứ cái gì trên đời.
- Ấy đấy, - Gratiano kêu lên, quá đỗi mừng rỡ vì đã có dịp tự biện hộ- chính ngài đã tặng cho bác học Bathazar chiếc nhẫn; kể ra ông ấy cũng rất xứng đáng, vả chăng, ông ta chẳng chịu nhận cái gì khác cả.

Bassanio rụng rời, loay hoay tìm đủ cách bào chữa, giải thích hoàn cảnh éo le của mình, nhưng Portia, kiêu hãnh, lạnh lùng chẳng muốn nghe gì cả. Antonio quá khổ sở, vì chính mình là nguyên nhân của mối bất hòa, muốn làm trung gian hàn gắn hai người. Portia giả vờ xiêu lòng và nhờ anh trao lại cho Bassanio chiếc nhẫn khác. Lần này Bassanio rối rít thề thốt, quyết giữ gìn nó đến hơi thở cuối cùng. Khỏi phải nói, hẳn ta cũng biết rằng, Bassanio đã nhận ra chiếc nhẫn còn Portia nói rõ trò giả trá và vai trò của mình trong việc bảo vệ cho Antonio; Nérissa và Gratiano, những nô bộc trung tín, đã vui vẻ giảng hòa và đêm tàn theo tiệc cưới, trước đây đã bị đình hoãn vì câu chuyện bi thảm của người lái buôn thành Venise.

Chú thích:
6) Doge: người đứng đầu nhà nước cộng hòa Venise và cộng hòa Genes do bầu cử.
7) Nhân vật chính quyển thánh kinh cùng tên. Bị lưu đày ở Babilone, ông một mực tuân hành luật pháp. Ông được xem như tiền thân của Christ và nhà tiên tri đại tài nhờ khoa học đoán mộng
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 22:15:30 | Xem tất
Giấc mộng đêm hè


Trước khi được những người theo đạo Thiên chúa gọi đó là “đêm của Thánh Giăng”, thì đêm hạ chí –cái đêm ngắn nhất của mùa hè- thuộc về các tiên nữ, thần linh, yêu tinh kéo đến khiêu vũ và nô đùa dưới ánh trăng, trong các khu rừng. Nhưng có một năm xấu làm cho các vị tiểu thần đó không lấy gì làm vui vẻ: ông vua cai quản họ, Obéron, bất hòa với hoàng hậu Titania vì hoàng hậu đã không chịu giao cho vương phu của mình một đứa bé, đưa từ xứ Ấn Độ về, con của một người tùy tùng của hoàng hậu, mà nhà vua muốn dùng làm thị đồng. Mỗi khi vợ chồng đức vua gặp nhau là họ gây lộn với nhau và ngày càng trầm trọng đến nỗi những tiểu thần phát hoảng lên, phải trốn trong các bông lúa mì. Puck, một yêu tinh láu cá và tinh ranh -mà ở Anh người ta gọi là “Robin- con quỷ- tốt bụng”- là thằng hề của Obéron. Hắn thích hù dọa các cô gái trong làng, hút kem khỏi sữa, trêu ghẹo các bà nội trợ, biến mình thành ma trơi ban đêm làm cho những lữ khách lạc đường rồi chế nhạo sự hãi hùng của họ. Dẫu cho Puck ra sức coi chừng đường đi nước bước của đấng quân vương của mình, hắn không thể nào tránh được cuộc gặp gỡ tiền định trong rừng Athênes(1) ngay vào hôm trước lễ cưới của công tước Thésée(2) lấy nàng Hippolyte(2), nữ chúa của các nữ tướng Amazone(2). Lần này nữa, Titania lại từ chối không trao đứa trẻ cho chồng, đứa trẻ đã đem đến cho bà nguồn vui, mà bà kết đầy hoa, bà tức giận tập hợp tất cả các tiên nữ chung quanh bà lại rồi kiêu hãnh bỏ đi. Obéron, tức khí, thề sẽ trả thù. Ngài bảo:

- Puck, lại đây! Nhà ngươi phải đi hái cho ta đóa hoa nhỏ màu hồng mà các cô gái gọi là “niềm vui của trái tim” hay là hoa “păng-xê”. Ta đã chỉ cho ngươi loại hoa ấy một lần rồi. Nhụy của hoa ấy, đặt lên mí mắt người đang ngủ sẽ làm cho một người đàn bà hoặc một người đàn ông yêu say đắm cái sinh vật đầu tiên mà người ấy nhìn thấy khi tỉnh ngủ. Hãy đem đến cho ta cái hoa ấy ngay.

Puck vội vàng đáp:

- Con sẽ đi vòng quanh quả đất trong vòng bốn mươi phút, rồi hắn biến mất, trong khi Obéron lẩm bẩm:

- Khi mà ta có được nhụy của loài hoa ấy, ta sẽ rình lúc Titania ngủ say và sẽ nhỏ một giọt lên mắt nàng. Rồi nàng sẽ si mê đắm đuối bất cứ con vật đầu tiên nào mà nàng trông thấy lúc tỉnh giấc dù đó là sư tử, gấu, chó sói hay bò tót, là con khỉ cái hiếu động hay là con khỉ đực lau chau. Và ta chỉ sẽ giải phép cho nàng một khi nàng chịu nhượng lại cho ta tên thị đồng.
Đêm hôm ấy, khu rừng Athênes đầy những người đi chơi đêm. Gần đến ngày cưới của Thésée, các thần dân tốt bụng của ngài sửa soạn cho buổi lễ, nhất là cho buổi biểu diễn một vở kịch rất hay: vở “hài kịch ai oán và cái chết rất bi thảm của Pyrame và Thisbé”(3).

Theo tục lệ cũ, diễn viên đều là các bác thợ thủ công trong thành phố và họ tự phân vai lấy: bác thợ dệt Nick Bottom tự phân cho mình vai kép nhất, vì bác ta tự cho mình có sức quyến rũ và bác ta vênh váo về điều đó; bác Francoic Flute, thợ chữa ống bễ lò rèn, sẽ đóng vai nàng Thisbé hiền dịu: bác có bộ râu thật đấy, nhưng bác ta phải mang mặt nạ và phải nói sao cho êm dịu. Bác phó may gầy gò sẽ thủ vai bà mẹ của Thisbé; bác thợ đúc nồi và bác thợ xẻ sẽ thủ vai hai ông bố của cặp tình nhân; còn bác thợ mộc thì đóng vai con sư tử, nó là nguyên nhân của màn kết thúc bi thảm của vở kịch. Snug –tên bác thợ mộc- vì có trí nhớ tồi, yêu cầu chép lời của vai do bác đóng để bác học thuộc trước. Nhưng mà bác chỉ cần gầm lên thôi.
Bottom quá tự phụ về khả năng của mình, đòi đóng cả vai Thisbé. Bác ta vừa nói ẻo ọng làm duyên:

- Các bác sẽ thấy tôi biết cách làm cho tiếng nói của tôi trở nên dịu ngọt như thế nào!

Rồi bác lại đòi đóng vai sư tử:

- Tôi sẽ gầm hay đến nỗi nghe tôi gầm là một điều thích thú. Ngài công tước sẽ yêu cầu: “Nữa đi! Gầm nữa đi!”.
Bác thợ xẻ bác lại:

- Nhưng nếu bác thủ vai hay quá, bác sẽ làm cho công tước phu nhân và các bà mệnh phụ khác phát hoảng lên mất. Và chừng đó cũng đủ để treo cổ tất thảy bọn mình!

- Tôi đồng ý với bác, nhưng tôi xin hứa với bác là tôi sẽ gầm với cái giọng gừ êm dịu của con bồ câu, người ta tưởng là nghe chim họa mi hót ấy chứ!

Bác thợ xẻ cũng đồng thời là đọa diễn, nói lại một cách có lý:

- Không đâu, không đâu! Bác không thể đóng vai nào khác hơn là vai Pyrame. Đó là một con người có vẻ mặt dễ thương, có cốt cách hào hoa và rất là chững chạc. Bác cũng thấy rõ là chỉ có bác mới thủ được vai đó.

- Thôi được, tôi sẽ gánh vai đó –bác Bottom khiêm tốn đáp lại vì phục tùng những lý lẽ xác đáng đến như vậy.

Và thế là các bác thợ thủ công trung thực ấy hẹn nhau vào rừng tập dượt để khỏi bị những kẻ tò mò quấy nhiễu.

Họ tìm được một chỗ rất thích hợp với công việc của họ: mọt vạt cỏ xanh làm sân khấu và những bụi gai làm hành lang. Bác Bottom vẫn tiếp tục ba hoa. Bác tế nhị nói:

- Không đời nào các bà lại có thể lại chịu được cái cảnh Pyrame tuốt kiếm ra để tự sát. Nhưng tôi có một phương sách để dàn xếp ổn thỏa mọi sự: chúng ta sẽ viết một bài mào đầu để báo trước rằng chúng ta sẽ không hề hấn gì vì cái lưỡi kiếm của chúng ta, rằng Pyrame không có chết chóc gì sất cả. Chúng ta còn có thể nói thêm rằng Pyrame chẳng phải là Pyrame mà chính là Bottom, thợ dệt nữa.

Bác thợ đúc nồi cũng không chịu lép vế. Bác gợi ý:

- Liệu các bà có sợ sư tử không?

- Xin Chúa ban phúc cho chúng ta! Một con sư tử ở giữa các bà mệnh phụ! Snug, bác phải chường một nửa bộ mặt của bác ra qua bộ lông bờm và bác sẽ nói, đại loại như thế này: “thưa quý phu nhân đừng có run. Tôi không phải là sư tử mà đúng là một con người hệt như mọi con người khác”. Và để chứng minh điều đó, bác phải tuyên bố trắng ra rằng bác tên là Snug, làm nghề thợ mộc.

Nhà đạo diễn, người lo lắng trước tiên, nói:

- Nhưng mà vẫn còn hai điểm khó xử: Đó là đưa ánh sáng trăng vào một gian phòng vì Pyrame và Thisbé gặp nhau dưới ánh trăng.

- Tra lịch xem! Nếu vào ngày có trăng, chúng ta sẽ trổ một cửa sổ lớn trong gian phòng chúng ta sẽ diễn kịch, hoặc giả một người có thể xách một cây đèn lồng vào và tuyên bố mình tượng trưng cho “nhân vật” ánh sáng trăng.

- Một khó khăn khác là theo sử sách nói, Pyrame và thisbé chuyện trò với nhau qua vết rạn nứt của một bức tường.

Bác thợ xẻ thất vọng nói:

- Chẳng đời nào, chẳng bao giờ có thể mang một bức tường thành lên sân khấu. Bottom, cậu nghĩ thế nào?

- Bất cứ ai cũng có thể thể hiện một bức tường. Chỉ cần anh ta có trong người một ít thạch cao hoặc ít vữa để tượng trưng bức tường rồi giơ ngón tay lên như thế này này, ấy đấy, qua những kẽ hở đó, Pyrame và Thisbé sẽ có thể trò chuyện thầm thì với nhau.

Mọi việc đã giải quyết xong, họ nhập vai, đọc lời kịch, sai hơn là đúng, bỏ sót nhiều từ gây ra những điều hiểu lầm buồn cười nhất, Puck, nhân đi qua đấy, lắng tai nghe:

- Gì vậy? Đang diễn kịch à? Ta muốn làm thính giả, hoặc có thể làm cả diễn viên, nếu như gặp dịp. Đây là nhân vật Pyrame rất đỗi kỳ dị.

Con yêu tinh láu cá ấy giấu mình sau một bụi cây, theo dõi bác Bottom khốn khổ và chờ lúc bác đọc câu đáp lại, hắn lẹ làng chụp lên đôi vai bác một cái đầu lừa.

Bác Bottom, trang phục như vậy, tiến ra sân khấu, không hề hay biết gì, thầm thì nói một câu tình tứ với nàng Thisbé. Nom thấy con vật lố lăng đó, các diễn viên tản ra mọi phía, cho đó là phép mầu, còn Puck cười rũ ra, đuổi theo họ mà la mắng, hí, sủa, gầm rú lên nhặng xị; trong khi đó, bác Bottom một mình giữa cơn hoảng loạn không thể giải thích được, bỗng hát oang oang để tự trấn an.

Tiếng hát lạc giọng đó đánh thức Titania đang ngủ dưới một gốc cây, và do tác động của bùa mê, lập tức bà hoàng hậu đâm ra yêu say đắm anh chàng cục mịch mang cái đầu lừa. Bà ngây ngất vì thán phục:

- Ôi! hỡi con người trần tục dễ thương kia, ta van xin ngươi hãy hát nữa đi. Tai ta mê tiếng hát của chàng rồi, mắt ta say hình thể của chàng rồi. Ta xin tuyên bố, ta xin thề là ta yêu chàng.

Bottom hơi lúng túng vì lời tỏ tình đó, đáp lại:

- Chao ôi! Nếu tôi có đủ tỉnh táo để ra khỏi khu rừng này…

- Ta không muốn chàng bỏ đi đâu! Dầu muốn hay không, chàng vẫn cứ phải ở đây. Ta không phải là một bà tiên bình thường đâu…Mùa hè ngự trị vĩnh hằng trên vương quốc của ta. Hãy lại đây với ta. Ta sẽ cung cấp những nàng tiên để phục vụ chàng. Họ sẽ lặn xuống đáy nước để tìm cho chàng những viên ngọc quý, họ sẽ ca hát trong khi chàng ngủ trên một chiếc giường hoa; ta sẽ biết cách làm cho đầu óc chàng nhẹ như không khí. Này các nàng tiên của ta, hãy lại cả đây: nàng Hoa Đậu Hà Lan, nàng Mạng Nhện, nàng Đậu Tằm, nàng Hạt Cải! Các em phải tỏ ra ân cần và dễ thương đối với vị chúa tể yêu quý của chúng ta! Các em hãy khiêu vũ, nhảy nhót trước chàng, hãy nuôi chàng bằng trái mận, trái mơ, bằng nho đỏ và sung xanh, hãy lấy cắp mật của bọn ong và lấy sáp trên đùi chúng, luyện thành những bó đuốc mà các em sẽ đốt lên bằng con mắt sáng rực của đom đóm rồi soi sáng lúc thức, lúc ngủ của người yêu dấu của ta, các em hãy ngắt cánh của những con bướm sặc sỡ để che cho cặp mắt của chàng khỏi những tia sáng của ánh trăng. Nào, các em hãy đến chào mừng và chúc tụng chàng!

Bác Bottom cục mịch mở mồm ra chỉ để nói những điều ngu xuẩn tệ hại mà Titania say sưa thán phục –Bà như uống những lời nói của bác ta, đặt bác ta nằm trên một chiếc giường lót rêu, vuốt ve đôi má lông lá của bác ta, kết một vòng hoa hồng để trang điểm cho đôi tai dài của bác. Còn bác ta, chẳng chút ngượng ngùng, cứ để cho nàng Đậu Hà Lan gãi đầu hoặc sai nàng Mạng Nhện đi hái cho mình một đóa cúc gai.

Titania thầm thì:

- Hỡi mối tình êm dịu của em! Chàng có muốn nghe âm nhạc không?

Bottom đáp lại:

- Tôi muốn ăn một đấu đại mạch khô. Món ấy nhai khoái lắm. Tôi cũng muốn ăn một bó Đậu Hà Lan, không có món nào ngon hơn!

Và khi bác ta buồn ngủ, Titania ngắm nhìn bác, thán phục bác, tỏ ra hiền dịu và ngoan ngoãn trước một con người thô kệch, trong khi nàng đã từng can đảm đương đầu với Obéron đầy quyền lực.

Giữa lúc ấy, vào buổi tối hôm đó, một số người trần mắt thịt khác lại mò vào khu rừng đó. Một ông Egée nào đó, công dân của thành Athênes, nổi cơn giận dữ vì con gái ông ta, Hermia không chịu lấy Démétrius là người mà ông muốn gả Hermia cho. Hermia thì lại yêu chàng thanh niên Lysandre là người vào mỗi tối đến dưới cửa sổ phòng nàng, hát lên những bài hát yêu đương, tặng cho nàng vàng, xuyến cùng những đồ trang sức khác với hoa và kẹo; trong khi Démétrius ngu ngốc lại chỉ lo tán tỉnh ông bố của người tình. Hermia chống lại bố cô và cả với công tước Thesée nữa, vì cả hai người này đã dọa sẽ buộc Hermia suốt đời không được lấy chồng vì luật pháp của Athênes, -theo như Shakespeare giải thích một cách phóng túng hơn là theo đúng sự thật lịch sử- cho phép Egée có quyền đối xử với con gái mình như vậy. Lysandre quyết tâm bắt cóc Hermia hơn là để mất nàng, nên tối hôm đó, hai người hẹn gặp nhau trong khu rừng. Thế nhưng, một cô bạn trẻ của Hermia, nàng Héléna, lại muốn lấy Démétrius, và cả hai nàng đều ngạc nhiên! Hermia thì nói:

- Tôi càng căm ghét hắn thì hắn càng cố tình theo đuổi tôi.

Còn Héléna lại bảo

- Tôi càng yêu anh ấy thì anh ấy càng ghét bỏ tôi.

Dù biết được kế hoạch của Lysandre, Héléna vội vàng đi báo cho Démétrius, cốt để làm cho anh chàng đau khổ, thế cho nên cả bốn người đã riêng rẽ mò vào khu rừng, hoặc là để tìm nhau hoặc là để theo dõi nhau.

Héléna trước tiên gặp Démétrius và bất chấp những lời cự tuyệt của Démétrius, vẫn đi theo van vỉ chàng trai. Obéron nghe lọt lời họ nói và ra lệnh cho Puck nhỏ lên mi mắt của anh chàng người Athênes sắt đá kia vài giọt nước thần. Puck đi khắp nơi mới tìm ra được anh chàng thanh niên Hy Lạp ngủ say và hắn thực hiện đúng lời chủ bảo. Nhưng than ôi! Chàng thanh niên ngủ say mà Puck gặp lại là Lysandre; khi chàng tỉnh giấc thì thấy Héléna lạc đường đang lần bước theo con đường hẻm và đang khóc sướt mướt. Ngay lập tức, chàng thấy bùng dậy một tình yêu điên dại đối với Héléna mà trước đây chàng ruồng bỏ. Bất chấp những lời chê trách của Héléna (vì nàng không thể tin là Lysandre thành thật, nghĩ rằng chàng chế giễu mình một cách độc ác) chàng vẫn đeo đuổi nàng với những lời tỏ tình nồng nàn trong khi đó lại ruồng rẫy Hermia, cô đơn và bị bỏ rơi. Và thế là họ cùng hớt ha hớt hải đuổi theo nhau chạy dưới những hàng cây. Hermia bị ám ảnh bởi Démétrius, Démétrius bởi Héléna, Héléna bởi Lysandre, Lysandre bởi Hermia, tất cả đều tuyệt vọng vì không được yêu, tất cả đều khốn khổ vì được một người mà mình căm ghét trở lại yêu mình.

Chẳng mấy chốc Obéron đã nhận ra sai lầm của Puck và trách mắng sự vụng về của hắn, nhưng hắn lại tự bào chữa:

- Chỉ có số phận mới điều khiển được các biến cố! Hắn được lệnh phải đưa gấp Héléna đến, trong khi Obéron nhân lúc Démétrius vì quá mệt, ngủ say, phù phép đôi mắt của chàng ta. Và khi bùa mê đã tác động, đến lượt nàng Héléna lại đứng giữa hai kẻ tình nhân đờ đẫn, sẵn sàng công kích lần nhau để tranh được cô gái mà mới hôm qua họ còn ruồng bỏ. Hermia, thấy rõ được tình thế mới, nổi giận và lên án Héléna người bạn gái của mình, phản bội và nham hiểm. Cả hai cô đều bực tức và lớn tiếng công kích lẫn nhau, cả Lysandre và Démétrius đều say đắm Héléna, trong khi cô nàng vừa bị xúc phạm, vừa khổ tâm, nhắc lại với Hermia những kỷ niệm xa xưa. Nàng trách:

- Bạn đã quên mọi thứ rồi sao? Quên tình bè bạn của chúng ta ở nhà trường, sự ngây thơ con trẻ của chúng ta khi chúng ta cùng thêu chung một bông hoa theo cùng một mẫu, khi chúng ta cùng ngồi trên một chiếc gối, cùng hát một bài hát theo cùng một giọng như thể bàn tay chúng ta, con người chúng ta, tiếng nói chúng ta và tâm hồn chúng ta thuộc về cùng một hình hài duy nhất; chúng ta đã từng lớn lên như hai quả anh đào sinh đôi, thế mà hôm nay bạn lại hùa với hai kẻ đàn ông kia nhạo báng và nhục mạ tôi sao? Bạn đã kích động Lysandre theo tôi sát gót, mỉa mai ca tụng đôi mắt và sắc đẹp của tôi! Bạn lại xúi dục một người tình khác của bạn là Démétrius cho đến giờ phút chót vẫn còn hắt hủi tôi, quay ra gọi tôi là nữ thần, là tiên nữ, là kỳ quan thiêng liêng và hiếm có, là sắc đẹp tuyệt vời và vô giá! Vì sao vậy? Nếu như tôi không duyên dáng bằng bạn, không được may mắn trong tình trường, bị khốn khổ đến mức này, yêu mà không được yêu, thì đúng ra bạn phải thương hại tôi, chứ sao lại khinh bỉ tôi!

Nhưng về phần mình, Hermia lại cho đó là một màn hài kịch làm cho nàng thêm điên tiết và thế là tất cả tranh nhau tặng cho nhau những lời thóa mạ hoa mỹ nhất. Lysandre đánh giá người vị hôn thê cũ của mình là “đồ thối”. Héléna gọi Hermia là “con bù nhìn”. Hermia tuyên bố lại rằng nếu điều đó là để ám chỉ cái khổ người không lấy gì làm cao lắm của nàng, thì nàng cũng không đến nỗi quá hèn để cho móng tay nàng không móc được mắt người tình địch, cao như cây cột mỡ, như cái cột buồm!(4)

Héléna thì van nài:

- Xin đừng để con ranh đó nó đánh tôi. Khi nó nổi giận, nó đanh đá và khôn ranh, đó là một con chồn con khi nó còn đi học.
- Tống cổ nó ra khỏi đây ngay cái con lùn loắt choắt, cái đồ hột cườm, hột mít!(5) –Lysandre hăm dọa như vậy đối với người mà khoảnh khắc trước đó, chàng còn hết mực tôn thờ.

Còn Démétrius thì nổi đóa, vì chỉ có chàng mới có quyền yêu Héléna và đứng ra bảo vệ nàng! Cả hai anh chàng đi đến chỗ ẩu đả với nhau trước mặt các cô nàng sững sờ nhưng không thể nào hòa giải với nhau. Quả là con quỷ Puck đã hành động rất khá!

Nhưng Obéron vẫn để mắt đến: một đám sương mù dày làm tối cả đêm sao; Puck vừa trêu chọc vừa khiêu khích, lần lượt bắt chước giọng nói của hai chàng tình địch, lôi họ, người này cách rất xa người kia, đến nỗi cuối cùng mệt quá, cả hai nằm vật xuống đất và lại ngủ li bì. Obéron hào hiệp đã ra lệnh cho Puck vắt vào mắt Lysandre nước nhụy của một loại cỏ thần, nó dẹp đi mọi ảo mộng của Lysandre và làm cho chàng quên đi cuộc phiêu lưu vừa rồi.

Vua của các tiên nữ, Obéron, bèn nói:

- Lúc bọn họ tỉnh dậy, cả cái màn kịch dị thường này, đối với họ sẽ là một giấc mộng vô bổ, một ảo giác mà thôi; họ sẽ trở về Athênes, trở lại với sự giao lưu tình cảm bạn bè với nhau cho đến lúc chết. Về phần ta, ta sẽ đi gặp hoàng hậu của ta. Ta sẽ hóa giải phù phép cho đôi mắt của nàng, nàng sẽ nhận ra sự nhầm lẫn của mối tình say đắm của nàng đối với con quái vật mà nàng si mê, và bình an sẽ được lặp lại ở mọi nơi. Nào hãy nhanh lên, chúng ta có thể kết thúc công việc này trước khi trời sáng.
Puck và Obéron đi đến chỗ đám cỏ, nơi bác Bottom đang nằm lăn lóc ra đấy và Titania đang nghịch ngợm kết một tràng hoa quanh đôi má lông lá của bác, những bông hoa đẫm sương như muốn khóc vì thất sủng.

Obéron nhẹ nhàng trách cứ Titania và Titania xấu hổ, đã xin chồng tha lỗi bằng những lời lẽ dịu dàng và vâng phục. Obéron bèn đòi thằng bé Ấn Độ mà Titania lập tức trao cho.

- Bây giờ, ta sẽ sửa chửa cái sai lầm tệ hại của đôi mắt nàng –Obéron quyết định- Này, Puck, chú sẽ cất đi cái sọ lừa nó đã thay hình đổi dạng người thợ thành Athênes này, để cho hắn có thể cùng với những người thợ khác trở về thành phố và không còn nghĩ gì đến những biến cố của đêm nay, hoặc có nghĩ đến thì cũng như là một cơn ác mộng khủng khiếp thôi… Này, Titania –và Obéron lấy một lá cỏ chạm vào mặt nàng- hãy tỉnh lại đi, hỡi hoàng hậu thân thương của ta!

- Obéron yêu quí của em –nàng thở dài- em đã có những ảo ảnh ghê ghớm làm sao! Hình như em đã si mê một con lừa!
- Đây này, đây là người tình của em! Ông vua thích thú nói.

- Làm sao những việc như vậy có thể xảy ra? –người phụ nữ khốn khổ hỏi lại- Bây giờ thì em phát khiếp lên!

Puck nhanh nhẹn cất đi cái đầu lừa ra khỏi đầu bác Bottom và bảo:

- Khi nào bác tỉnh lại, bác hãy nhìn bằng đôi mắt của một thằng ngốc, tức là bằng chính đôi mắt của bác vậy.

Bây giờ rạng đông ló dạng, đêm hạ chí, đêm ngắn nhất trong năm, cái đêm thần diệu sắp qua; tất cả các bóng ma trong đêm tan ra và biến đi. Obéron trở lại hòa thuận, khuya hôm sau, họ sẽ đến khiêu vũ mừng đám cưới của công tước Thésée, và hạnh phúc sẽ tràn trề vì người ta sẽ gả Héléna cho Démétrius và Hermia cho Lysandre. Mặt trời lên cao, người ta nghe tiếng sủa của bầy chó săn của Thésée, thường dậy rất sớm. Démétrius nói:

- Tất cả những biến cố vừa qua giống như những vật nhỏ nhoi hoặc giống như những rặng núi xa mờ trong sương mù. Còn bác Bottom thì ấp úng:

- Trong giấc ngủ, tôi vừa có một ảo ảnh hiếm có và kỳ diệu nhất! Ôi chao! Tôi đã có một giấc mơ tuyệt vời! HÌnh như tôi là… hình như tôi đã…

“Người nào muốn đứng ra giải thích cái giấc mộng này, người ấy chỉ là con lừa! Mắt con người không hề nghe gì, tai con người không hề thấy gì, lưỡi con người không thể nào nói lên được thành lời cái giấc mộng của tôi là gì!(6). Ôi chao! Cái giấc mộng của tôi!”

Chính cái chùm nhiều ảo tưởng và hảo huyền đó đã làm nên giấc mộng một đêm hè.

Chú thích:
1) A-ten: thành phố, thủ đô Hy-lạp
2) Shakespeare mượn tên những nhân vật này trong thần thoại Hy-Lạp
3) Câu chuyện tình bi thảm giữa Pyrame, một thanh niên ở Babilone với nàng Thisbé.
4) Nguyên văn: như cây tháng năm
5) Nguyên văn: Hạt sồi
6) Bác Bottom lẫn lộn các chức năng của các giác quan.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 22:21:12 | Xem tất
Chuyện về Sir John Falstaff

Nếu có một thần dân nào của cái nước Anh vui vẻ này đáng bị treo cổ một trăm lần nhưng lại chẳng bao giờ bị thì đó chính là xơ John Falstaff. Xơ John Falstaff là một gã cao lớn, to béo, lông màu hung và da màu đỏ, đổ mồ hôi, thở hổn hển, nhát gan, khoác lác, say rượu và tham ăn, là kẻ mà người ta luôn bắt gặp trong tất cả các quán rượu, quán ăn, cao lâu, nhà thổ. Thay vì tu tỉnh khi trở nên có tuổi tác, chưa bao giờ ngài sống cuồng nhiệt như vào lúc ngài sắp được lục tuần và thấy trên đầu mình nhiều sợi tóc bạc. Không có gì khiến ta có thể hình dung nổi sự đam mê của ngài đối với môn ẩm, thực. Bạn bè của ngài thường nói rằng cái bụng của ngài to bằng cả một khoang tàu và chứa cả chuyến hàng của một bác lái buôn rượu Bordeaux(2).

Chế độ ăn uống đó không chỉ làm cho ngài bị bệnh thống phong làm cho ngài đau nhói khi đánh nhau mà còn làm cho ngài phì nộn khác thường, và về cái khoản này, bạn bè của ngài cũng tặng cho ngài những lời châm chọc không bao giờ dứt. Nào là từ nhiều năm nay, ngài không thể nào nhìn được hai cái đầu gối của mình dù rằng ngài cả quyết một cách tỉnh bơ rằng ngày trước, ngài gầy như que củi(3); rằng cái khối thịt nhão nhẹt của ngài làm sập hàng đống giường và ngã quỵ không biết bao nhiêu con ngựa. Ngài cũng là kẻ say mê trò chơi xúc xắc và chí ít một tuần chơi đủ cả bảy ngày. Gian xảo và nịnh hót, ăn trộm và cướp giật dọc đường, đi trấn lột mà lại hèn nhát, ngài có thể mỗi tuần lễ hứa hươu hứa vượn với một bà gái già rằng ngài sẽ cưới bà ta, để rồi đục khoét túi tiền của bà già trong khi “chờ đợi ngày cử hành hôn lễ”. Cái bụng của ngài sống nhờ cái lưỡi ngài, khoác lác một tấc đến trời -chỉ chùn lại khi bị ăn đòn- dù là để khỏa lấp sự hèn nhát của ngài và huyênh hoang rằng ngài là người lính dũng cảm nhất trong thời hiện đại, vì ngài “khiêm tốn” chỉ nhượng bộ trước Jules César(4) là vị tiền bối lừng danh của ngài.

Là vĩ nhân theo cung cách của ngài, xơ John là đầu đảng một băng cướp. Bốn, năm thằng vô lại, những tên chí cốt với ngài; giúp ngài đêm sáng trăng thì cướp giật túi tiền, trấn lột những lái buôn giàu có, đánh lính tuần tra, còn ban ngày thì đi xài tiền và nốc rượu, ngốn gà thiến, chim trĩ, bánh bao và ba-tê.

Và không như người ta tưởng, bọn chúng không phải là bọn khố rách áo ôm đâu, bởi vì tên thứ nhất trong bọn chúng, Hal, không phải ai khác mà chính là con trai của vua Henri đệ tứ và là người sẽ kế vị ngai vàng. Và chúng ta cũng phải thừa nhận rằng cuộc sống mà anh ta theo đuổi cùng với xơ John quả là một sự chuẩn bị tốt đẹp cho công cuộc trị vì. Vả chàng, không hiếm những vị minh quân đã bắt đầu cuộc đời mình không ra gì, và về sau Hal cũng đã biết chuộc lại lỗi lầm của thời thanh niên cuồng dại. Vào thời kỳ này, anh ta có phần khinh thường ông bạn to béo của mình; những lời nói dí dỏm, những câu bông đùa tục tĩu và những trò tinh quái của xơ John luôn làm cho vị hoàng tử trẻ tuổi dẹp đi niềm kiêu hãnh về dòng dõi của mình cùng những nỗi ngại ngùng khác. Hơn nữa, Hal cũng bắt xơ John đền đáp lại sự độ lượng của mình bằng cách để cho anh ta luôn châm chọc về cái bụng phệ, sự tham ăn và lười biếng của xơ.

Theo lời xơ John, Ned Poins là tên gian ác toàn năng nhất, chưa hề bao giờ hô “hãy đứng lại” trước khi giết một khách bộ hành vô tội; thế mà hắn lại là con út của một gia đình tử tế. Hắn quý mến hoàng tử Hal; đầu óc hài hước của hắn chứa đầy những trò hề và những trò đùa của hắn đối với xơ John làm cho cả bọn -nhất là hoàng tử- vui cười thỏa thích. Còn Bardolph, tên giữ ngựa của xơ John, là một kẻ vui nhộn và cái lỗ mũi phập phồng chín đỏ của hắn ta do rượu vang Malvoisie(5) đã cho thấy rằng khi chết hắn sẽ sa xuống địa ngục. Ngoài ra, trong băng còn có Pistol và Peto, hai tên ăn cắp cứng cựa với một tên người hầu trẻ tuổi tuy còn ngốc nghếch đấy, nhưng hứa hẹn sẽ trở thành một thằng ăn trộm và nhậu nhẹt có cỡ nhờ cái trường đào tạo tốt lành dường ấy.


CHUYỆN XƠ JOHN FALSTAFF ĐI TRẤN LỘT BỌN LÁI BUÔN.

Vào một buổi sáng đẹp trời, xơ John, có cả bọn cùng đi, đến phục trên con đường Kent(6) ở một nơi gọi là Gadshill, rất tốt cho một trận tập kích. Ngài đã được báo trước rằng một nhóm khách bộ hành giàu có ở Luân Đôn đã rời quán trọ Rochester từ sáng sớm. Tất nhiên hai cái xe, một cái chở đầy những giỏ gà tây, cái kia thì chất nặng giăm-bông và gừng, chạy về vùng Charing Croos cũng đáng đánh cướp rồi; nhưng viên quản lý các cánh đồng vùng Kent với ba trăm đồng mác vàng và một tay thanh tra nào đó với một đống hành lý, mang theo những tay nải đầy ắp và những túi căng phồng tiền bạc để nộp cho ngân khố nhà vua càng đáng công đánh cướp hơn.

Nhưng sự việc lại mở màn bằng một trò đùa: Poins tìm cách dắt đi và giấu biệt con ngựa của Falstaff. Do vậy, xơ John phải đi bộ, và khi cái bị thịt chỉ mới đặt lên đôi chân của ngài là ngài đã đứt hơi, và ngài vừa thở vừa la:

- Quỷ tha ma bắt ta đi, sao lại luôn luôn đánh bạn với cái thằng đểu đó. Đã hai mươi năm nay, từng ngày từng giờ, ta tự nhủ với mình rằng phải xa lánh hắn, thế mà ta lại bị nó phù phép, hoặc giả cái thằng khốn kiếp đã cho ta uống vài thứ mà túy nào đó để buộc ta thương yêu hắn! Poins! Bardolph! Này, ta thà mất mẹ hết răng còn hơn là đánh bạn với bọn chúng mày; đối với tao thì sáu thước đường gập ghềnh cũng bằng sáu mươi dặm, và những thằng chó đểu tàn nhẫn chúng bay hẳn cũng biết điều đó chứ?

Khi đoàn bộ hành xuất hiện, lúc bọn vô lại mang mặt nạ lên thì hoàng tử và Poins tuyên bố rằng họ đi phục kích ở dưới xa kia rồi biến mất. Xơ John hỏi:

- Bọn chúng có bao nhiêu đứa?

- Khoảng tám hoặc mười.

- Chết chửa, thế này không khéo chính bọn chúng lại ăn cướp bọn ta mất!

Nhưng những người khách đi đường đã xuống xe để đỡ tê chân trong khi người đánh xe cầm cương dắt ngựa lên đồi. Cả bọn cướp nhảy xổ vào họ, xơ John la hét to hơn hết, nhưng đương nhiên là làm ít hơn cả:

- Nào, đánh đi! Quật ngã bọn chúng đi! Cắt cổ bọn đểu đó đi! A! Lũ sâu bọ, lũ ngốn giăm-bông khốn kiếp này! Chúng nó căm ghét chúng ta đây, hỡi các anh em! Hãy quật chúng nó xuống, lột trần chúng ra! Này, hỡi bọn nhà giàu sụ kia, hãy tự treo cổ lên đi! Nào, những thằng keo kiệt già kia! Tao muốn tất cả tài sản của bọn bay phải nằm lại cả đây.

Khi những người khách qua đường đã bị trấn lột và bị trói đặt nằm dưới đất, Falstaff bắt đầu chia của ăn cướp được; nhưng đúng vào lúc ngài chửi rủa hoàng tử và Poins là đồ hèn nhát, đồ thỏ đế thì ngài cảm thấy như có một cơn lốc ập xuống đầu và ngài bỏ chạy, vừa hét lên vì sợ, vừa toát mồ hôi hột mà không nhận ra những kẻ tấn công ngài là ai. Thế nhưng chính đó là hoàng tử Hal và Poins. Biết tỏng giá trị của toán cướp, họ tìm cách tránh đi, rồi trở lại đánh tan bọn cướp, hết sức thích thú trước sự kinh hoàng của bọn kẻ cướp lại bị ăn cướp lại.

Trở về trước tiên tại quán rượu “Con heo rừng” ở Eastcheap, hoàng tử và Poins vừa nhậu vừa cười, giữa lúc đó, xơ John xuất hiện, nổi giận đùng đùng:

- Bọn nhát gan khốn kiếp! Bồi! Đem lại cho ta một cốc vang Tây Ban Nha! Ta thích cầm kim đi đan, đi mạn, đi khâu bít-tất còn hơn là kéo dài hơn nữa cuộc sống này! Bọn nhát gan khốn kiếp! Đem cho ta thêm một cốc vang Tây Ban Nha nữa! Chẳng lẽ trên trái đất này không còn đức hạnh nữa sao? Trong nước Anh này không có đến ba con người trung hậu mà không bị treo cổ, và trong ba người ấy có một người béo ụ và ngày càng già đi; xin Chúa hãy xót thương chúng con! Bọn nhát gan thật là khốn kiếp; ta xin khẳng định lại một lần nữa điều đó.

- Này đồ bị thịt, anh lúng túng cái gì thế? – hoàng tử Henry hỏi.

- Thế mà chú mày cũng là con vua đấy ư? – Falstaff tiếp tục- Nếu ta không đuổi được chú ra khỏi vương quốc của chú với một thanh kiếm gỗ, nếu ta không dẫn được các thần dân của chú đến yết kiến chú như dẫn một bầy ngỗng trời thì ta xin thề rằng dưới cằm của ta sẽ chẳng mọc một sợi lông nào nữa. Chẳng phải chú là một thằng hèn đấy ư? Chú hãy trả lời đi, cũng như thằng Poins kia kìa!

- Này, anh bụng bự! – Hal nói- Nếu anh mà còn gọi tôi là thằng hèn nữa, tôi sẽ cho anh một nhát dao!

- Ta ấy à, ta mà gọi chú là thằng hèn à? Ta thà thấy chú chết tiệt đi trước khi dám gọi chú là thằng hèn nhát. Nhưng ta sẵn sàng tặng chú một nghìn đồng “ghi-nê”(7) để có được cái hạnh phúc chạy nhanh như chú. Chú có đôi vai cứng cáp, do đó chú không sợ phô cái lưng của chú ra. Chú hãy nói cho ta biết về những người mà người ta nhìn chính diện đi.

Hal nói ngay:

- Anh muốn nói về việc gì vậy?

- Về việc gì ấy à? Bốn người chúng tôi ở đây sáng nay đã cướp được một nghìn đồng ghi-nê.

- Thế món tiền đó ở đâu rồi, John?

- Ở đâu đấy à? Nó đã bị một trăm thằng đểu ập xuống đầu chúng tôi cướp lại rồi!

- Thế nào, một trăm thằng kia à?

- Ta xin thề rằng nếu trong suốt hai giờ đồng hồ liền, ta không đấu kiếm với một tá những thằng ăn cướp đó thì ta sẽ là một thằng đểu. Ta thoát được là một điều thần diệu. Ta đã phải nhận tám nhát kiếm đâm xuyên qua áo chẽn, bốn nhát ở quần, cái mộc của ta bị đâm thủng lỗ chỗ, còn thanh kiếm của ta bị băm như một lưỡi cưa. Hãy xem thì hơn! Cầu cho bệnh dịch giết chết tất cả bọn hèn nhát đi!

- Thế nào? Anh đã đánh nhau với bao nhiêu người như vậy à?

Falstaff nổi sùng:

- Bao nhiêu người ấy à? Ta không hiểu chú nói “bao nhiêu người” là chú muốn nói cái gì? Nhưng ta ấy à, nếu ta không đánh nhau với năm chục mạng, thì ta chỉ là đồ củ cải. Nếu như không có năm mươi hai hoặc năm mươi ba đứa xông vào thằng John già này thì ta thề rằng ta không còn là con vật hai chân nữa!

- Xin cầu Chúa là anh đã không giết một tên nào.

- Ồ, lời cầu nguyện của chú chậm mất rồi! Ta đã cắt cổ hai thằng rồi! Ta đang xuống tấn, mũi kiếm của ta chĩa ra như thế này này! Bốn thằng khốn đó xông vào ta.

- Thế nào? Bốn à? Anh vừa mới nói có hai!

- Bốn! Hal, ta xin nói với chú là bốn.

Và Poins, vừa chết cười vừa tán thành:

- Vâng, vâng, anh ấy nói là bốn.

- Cả bốn tên đó ùa đến trước mặt ta, rồi xông vào ta. Ta chẳng hề lúng túng chút nào. Ta đã dồn cả bảy mũi kiếm của chúng vào trong cái mộc của ta thế này này…

Hoàng tử Hal ngắt lời:

- Bảy à? Sao vậy? Mới vừa có bốn thôi mà?

- Đúng là bảy, ta xin thề với lưỡi kiếm này là bảy, nếu không thì ta là thằng đểu. Vậy thì khi chín thằng đó…

- Lại thêm hai thằng nữa! –hoàng tử vui vẻ, lẩm bẩm.

- “… Bắt đầu lùi lại, ta theo sát chúng và đánh xáp lá cà, và nhanh như chớp, ta quật ngã bảy tên xuống đất. Nhưng ma quỷ xúi dục thế nào mà ba thằng khốn kiếp ăn mặc quần áo màu xanh lục lại mò đến sau lưng ta, nhảy xổ vào ta, bởi vì trời tối đến nỗi ta không thấy cả bàn tay ta, Hal ạ”.

Nhưng Hal không nhịn được nữa, cười phá lên:

- Những trò nói dối này quả là giống anh như hệt! Thế nào? Hỡi ông bị thịt, làm sao ông lại có thể phân biệt được những người bận quần áo màu xanh lục, khi ông anh không thấy được bàn tay mình? Này thôi, tôi không muốn để ông anh chồng chất lỗi lầm này lên lỗi lầm khác nữa. Cái anh thỏ đế nổi tiếng, cái núi thịt này…

- Thôi đi! – Falstaff nói - Còn chú là đồ ngựa gầy, là da cá chình, là lưỡi bò khô, là cây sào dài, là cá thu phơi khô. Ôi Chao, ta không còn đủ sức để chỉ ra những thứ giống như chú, chú là cái thước của thợ may, là cái vỏ kiếm, là cái túi cùng…

- Nào, hãy can đảm lên và lấy hơi lại đi, ông anh ơi! – Hal nói- Và tôi xin phép nói với ông anh vài lời. Poins và tôi, chúng tôi đã thấy bốn người các anh xông vào bốn người khách bộ hành và cướp được tài sản của họ. Thế là hai chúng tôi lại xông vào bốn người các anh và tước mất chiến lợi phẩm của các anh, và bây giờ thì chúng tôi đang giữ số của cải đó và sẽ đưa cho các anh xem. Còn ông anh Falstaff ạ, ông anh đã cứu cái bị thịt của ông anh cũng nhanh không kém gì những thằng kia và đã la hét cầu cứu om sòm. Làm sao ông anh lại khốn nạn đến nỗi đập nát lưỡi kiếm của mình như ông anh đã làm, để rồi về kể lại với chúng tôi là ông anh đã đánh nhau và chống đỡ các mũi kiếm của đối phương? Ông anh ăn làm sao, nói làm sao bây giờ nào?

Nhưng Falstaff chẳng có bối rối chút nào:

- Ta xin nói thật rằng ta đã nhận ta ngay các chú, những chủ nhân của ta. Nhưng làm sao ta lại đang tâm giết người sắp nối ngôi vua? Làm sao ta dám chống lại hoàng tử chính thống? Đấy, chú biết rõ là ta cũng dũng cảm như Hercule(8), nhưng bản năng là một điều không tránh được. Chính do bản năng mà ta trở thành hèn nhát đấy. Nhưng nhờ vậy mà chừng nào ta còn sống trên đời, ta sẽ càng đánh giá cao cả chú lẫn ta. Nhưng mẹ kiếp! Các chú ạ, ta rất khoái thấy rằng chính các chú có tiền! Bà chủ quán đâu! Cài cửa tiệm lại đi, đừng tiếp ai nữa! Tối nay chúng ta vui chơi một bữa chứ? Chúng ta cương ra một vở hài kịch chứ?

- Đồng ý hài kịch! Đề tài là sự nhát gan! – vị hoàng tử vui vẻ nói.

Và Falstaff thảm hại, chỉ có thể đáp lại:

- Thôi, xin đừng nói đến chuyện đó nữa, Hal, nếu chú còn tình nghĩa bạn bè với tôi.

Chú thích:
1) xơ - Sir: ngài
2) Bordeaux: một thành phố ở Pháp, rượu vang vùng này rất nổi tiếng.
3) Nguyên văn: ngài có thể chui qua cái nhẫn của vị phán quan.
4) Jules César(101-41 trước CN) vị tướng nổi tiếng của La Mã.
5) Một bán đảo nhỏ ở Hy Lạp nổi tiếng về rượu vang.
6) Kent: một quận ở nước Anh.
7) Ghi-nê: một đơn vị tiền tệ cổ ở Anh bằng 21 si-linh
8) Hercule: nhân vật thần thoại La Mã (Héraclès trong thần thoại Hy-Lạp) nổi tiếng về sức khỏe và lòng dũng cảm.


CHUYỆN XƠ JOHN FALSTAFF RA CHIẾN TRẬN

Bấy giờ phải đánh nhau với Percy, bá tước Northumberland, cầm đầu một đội quân khởi loạn. Chiến tranh bùng nổ và hoàng tử Henry (tức Hal) phải đi chỉ huy quân đội của nước Anh. Hoàng tử có nhã ý trao cho xơ John một chức vụ trong bộ binh. Xơ John thì thích kỵ binh hơn, nhất là thích cứ đi ăn trộm và ăn cướp hơn. Cực chẳng đã, ngài mới đi ăn trưa và than thở: “Ôi chao! Ta muốn sao cho cái quán rượu này biến thành chiếc trống trận mà ta có thể mang theo”. Dù sao, ngài cũng tìm được những thứ để đền bù lại. Chức vụ sĩ quan tuyển mộ lính không phải là không mang lại cho ngài lợi lộc. Chính ngài đã kể ra điều đó khi ngài uống cạn một cốc rượu vang Tây Ban Nha:

- Nếu bọn lính mà ta tuyển mộ không làm ta xấu hổ thì ta đến kiết xác mất thôi. Ta đã lạm dụng một cách triệt để lệnh mộ lính của nhà vua. Để đổi lấy một trăm năm chục thằng lính, ta thu trên ba trăm đồng lirve(1). Ta chỉ thúc ép những thằng có máu mặt, con cái những nhà giàu có, ta chỉ sục tìm những thằng búng ra sữa mà đã hứa hôn, những thằng đã công bố kết hôn thà nghe quỷ gào còn hơn nghe tiếng trống trận; những kẻ sợ tiếng súng thần công còn hơn con hoẵng hay con chim giẻ bị thương. Ta chỉ thúc ép những kẻ có bông và có bơ lại nhát gan như thỏ đế(2) và chúng phải bỏ tiền ra để mua lấy kỳ nghỉ phép. Đến nỗi hiện nay đám quân của ta gồm có những tên cầm cờ, những viên cai đội, những thiếu úy, trung úy v.v… cả một đống những tên khốn khổ ăn mặc rách bướm, hệt như ông thánh Lazare trên hình vẽ, lúc bầy chó liếm các vết thương của ngài, tóm lại là những kẻ chưa từng ở trong quân ngũ, bị thải vì không có khả năng phục vụ, những thằng lưu manh, những thằng oắt con, những tay quán rượu sa sút, những anh chủ khách sạn phá sản, phục trang còn rách rưới hơn là lá cờ rách. Có một tay hay chế giễu mà ta gặp dọc đường đã nói với ta rằng ta vừa tóm về tất cả những kẻ bị treo cổ, đã tuyển mộ tất cả thi hài ở các nghĩa trang; rằng người ta chưa hề trông thấy những con hình nhân như thế bao giờ. Hơn thế nữa, những thằng ăn mày ấy lại đi vòng kiềng, y như chúng mang xiềng dưới chân, mà thật vậy, ta đã lấy phần lớn bọn chúng từ trong các nhà tù. Trong toàn đại đội của ta, chỉ có một cái rưỡi sơ mi, và hơn nữa, nửa cái sơ mi ấy là do khâu hai cái khăn mặt lại, không có tay và khoác lên vai giống như cái áo chẽn lấy cắp của một viên sĩ quan thông tin; còn về cái áo sơ mi toàn vẹn kia thì nói cho đúng, người ta đã lấy cắp nó ở nhà người cho ta trọ lại ở Saint Albans hoặc là ở nhà lão chủ quán có cái mũi đỏ ở Daintry. Nhưng mà chẳng hề gì, bọn chúng sẽ tìm ra quần áo trên các hàng rào.

Và khi một vị phán quan nhận xét với xơ John rằng ngài đã giữ lại trong quân ngũ bốn thằng khố rách áo ôm ẻo lả mà lại cho về hai thằng cha cao lớn, khỏe mạnh (đúng là hai gã này đã lén đút cho ngài sáu chục si-linh) thì ngài thốt lên đầy tin tưởng rằng:

- Ông lại muốn dạy tôi cách chọn người à? Tôi mà lại đi quân tâm đến tay chân, bắp thịt, đến sự vạm vỡ, đến chiều rộng, chiều cao của một con người à? Xin ông hãy nói với tôi về lòng dũng cảm thì hay hơn! Ví dụ như thằng gù lưng này. Hình dạng của hắn phát khiếp lên được đi chứ! Thế nhưng đó là môt người có thể nạp đạn, tháo đạn cái súng “mútkê’ của hắn cũng nhanh như anh thợ đúc nồi quai búa ấy chứ! Và cả cái thằng vô lại xứ Lombre này nữa! Đây lại là một con người mà tôi cần, hắn không có bề rộng, không là cái bia cho quân thù nhắm bắn, nhắm hắn có khác gì nhắm cái lưỡi con dao nhíp! Xin ngài cứ cho tôi những người bỏ đi, và hãy thải đi những người ưu tú của ngài.

Khi hoàng tử trông thấy đám quân mới tuyển mộ, ngài thốt lên:

- Trong đời ta, chưa trông thấy những thằng vô lại thảm hại đến như vậy.

- Ối dào! – Falstaff nói- cũng đã là khá tốt để ăn đạn rồi. Thịt nhồi đại bác ấy mà! Bọn này để lấp các huyệt chôn chung cũng tốt như những thằng lính tốt nhất. Thưa hoàng tử, chúng đều là những con người trần tục cả thôi. Kẻ hèn này không biết chúng học được cái nghèo khổ ở đâu, nhưng về cái khoản gầy guộc đó thì xin đoan chắc rằng không phải chúng học được ở kẻ hèn này.

- Nếu như người ta không gọi một người ba lớp mỡ ở bên sườn là người gầy chứ gì? – hoàng tử Henry nói lại.

Ngài Falstaff hèn nhát của chúng ta tìm mọi cách để đến Shrewsbury sau cuộc chiến chấm dứt, nhưng bất chấp những điều đề phòng cẩn thận, ngài vẫn phải dự vào trận đánh và trong tâm trạng như thế nào!

- Ta chưa đến số phải chết! Phải trả nợ trời trước thời hạn thì đáng giận biết bao! Ta cần gì phải vội vã chường mặt trước ông chủ nợ khi ông ta chẳng hề đi tìm ta? Dẫu sao, danh dự cũng kích thích ta, thúc giục ta xông lên phía trước.Nhưng mà nếu danh dự lại đẩy ta đến chỗ chết thì sao? Bấy giờ ta sẽ trở thành cái gì nào? Liệu danh dự có trả lại cho ta một cái chân, một cánh tay? Hẳn là không! Liệu danh dự có làm cho vết thương của ta khỏi đâu? Cũng hẳn là không! Danh dự là cái quái gì? Chỉ là một từ thôi! Mà từ là cái gì? Là gió, cứ tính toán như thế, ta chẳng thèm danh dự! Và giáo lý của ta chấm hết như vậy đấy.
Vì vậy, hoàng tử vừa đánh nhau và giết được Percy, đã sửng sốt xiết bao khi trông thấy ông bạn cũ của mình nằm chết một đống trên mặt đất. Hoàng tử không khóc thương gì ông bạn bởi vì theo người nghĩ, đấy không phải là điều tồi tệ nhất trong ngày. Nhưng khi hoàng tử vừa quay lưng bỏ đi thì xơ John to béo ra khỏi cơn chết giả, sung sướng vì đã thoát chết. Đứng trước thi thể của Percy, ngài bỗng nảy ra một ý nghĩ:

- Ta sợ thằng cha này giả vờ chết còn giỏi hơn ta. Do vậy, ta muốn chắc được đảm bảo rằng hắn chết thật và làm cho hắn không còn có thể làm hại được nữa. Với lại ta sẽ thề thốt rằng chính ta sẽ giết hắn. Chẳng có ma nào trông thấy ta. “Này thằng đểu, ta cho mi thêm một nhát nữa vào đùi”.

Sau đó, Falstaff gặp hoàng tử Henry và hoàng tử tưởng là gặp ma.

- Percy đấy! Nếu đức vua, thân phụ của ngài muốn khen thưởng kẻ hèn này thì hay quá. Kẻ hèn này mong được tước công hay tước bá.

- Sao lại thế này? –Hoàng tử hỏi- Chính ta đã giết Percy và trông thấy nhà ngươi chết rồi mà?

- Lạy Chúa! –Falstaff rên rỉ- Cái thế giới này đầy dẫy những điều dối trá. Kẻ hèn này đồng ý là kẻ hèn này đã nằm dài xuống đất, không còn hơi thở nữa. Nhưng (và Falstaff chỉ vào cái xác của Percy) cả hai chúng tôi đều đứng dậy cùng một lúc và chúng tôi đã đánh nhau chí tử suốt một giờ liền, tính theo đồng hồ của Shrewsbury. Kẻ hèn này xin thề, nếu nói sai thì chết, rằng chính kẻ hèn này đã gây ra cái vết thương ở đùi hắn mà hoàng tử thấy đấy!

- Thôi được, -hoàng tử nói một cách độ lượng- nhà ngươi cứ giữ ý kiến của nhà ngươi. Nếu một điều dối trá có thể có lợi cho nhà ngươi, ta hứa là ta sẽ tô vẽ cho nó bằng mọi màu sắc mà ta có thể tìm được.
Và xơ Falstaff đã nổi tiếng là vị anh hùng của trận Shrewsbury như vậy đấy.

Chú thích:
1) Lirve: Đơn vị tiền tệ của nước Anh.
2) Nguyên văn: có trái tim trong bụng không lớn hơn cái đầu kim.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 22:23:53 | Xem tất
MACBETH


Sấm sét vang rền, những tia chớp lóe trong đêm tối. Đó là thời gian lý tưởng cho các mụ phù thủy hò hẹn nhau đợi giờ tàn cuộc chiến.

Người ta nghe thấy tiếng ầm ĩ của một trận đánh lớn: Macbeth, nam tước Glamis và Banquo, người chiến hữu, cùng chiến đấu bảo vệ mảnh đất Ecosse chống lại vua Na-Uy, được nam tước Cawdor, phản lại tổ quốc mình, trợ lực. Hạnh phúc thay cho Duncan, vua Ecosse, khi nhận được tin hai vị tướng can trường đã đè bẹp quân thù. Như “hai khẩu thần công nạp đạn, họ đánh tan tác bọn Na-Uy”; Macbeth đã sả làm đôi thủ lãnh bọn phiến loạn.

Trên vùng đất hoang um tùm thạch thảo, giữa cơn giông tố các mụ phù thủy tề tựu lại. Chúng gồm ba đứa quây tròn nhảy múa:“Ba vòng cho mày, ba vòng cho tao, thêm ba vòng nữa là chín”. Đột nhiên, chúng dừng lại. Macbeth và Banquo vừa đi trờ tới. Chúng giơ những ngón tay khẳng khiu, trơ xương lên và lần lượt nói:

- Chào Macbeth! Chào người, nam tước Glasmis!

- Chào Macbeth! Chào người, nam tước Cawdor!

- Chào Macbeth! một ngày kia, ngươi sẽ làm vua!

Macbeth run sợ. Banquo liền hỏi chúng. Anh cũng muốn biết vận mạng mình; với anh, chúng cũng nói, thoạt tiên với vẻ thần bí, sau đó thật rõ ràng:

- Nhỏ hơn Macbeth, tuy nhiên lại lớn hơn.

- Kém may mắn hơn Macbeth, nhưng lại may mắn hơn nhiều.

- Tổ phụ của nhiều vị vua, ngươi không phải là vua!

Những lời dự ước huyền bí đó thấm sâu vào tâm hồn Macbeth. Đến lượt mình, chàng định hỏi, nhưng ba nhân vật râu dài, môi xệ đã tan biến như sương khói. Họ không thể biết gì thêm nữa, và mỗi người trong bọn họ đều tự động nhắc lại lời tiên tri dành cho người kia:“Tổ phụ của nhiều vị vua”. Macbeth nhắc lại và sẽ không bao giờ quên. Banquo liền đáp:“Ngày kia, ngươi sẽ là vua!”

Hầu như điều dự đoán bắt đầu ứng nghiệm tức khắc. Đức vua khen thưởng chiến công hiển hách của Macbeth bằng cách ban tặng cho chàng tất cả di vật và chức tước của nam tước Cawdor, kẻ phản phúc đã bị xét xử và trừng phạt. Macbeth, quá xúc động, chẳng biết mình có phải là trò đùa của bọn yêu tinh quỉ quái không.

Tương lai có vẻ trải đầy hoa gấm, nhưng cõi lòng chàng rúng động, tóc chàng dựng ngược vì kinh hãi, một ý nghĩ giết người thoáng qua óc, chàng bất động và câm nín, cảm thấy cái ý tưởng khủng khiếp ấy đang lớn dần trong chàng, trong lúc Banquo cứ chế riễu cho rằng bạn mình đang bỡ ngỡ làm quen với địa vị mới “cũng vướng víu như những chiếc áo mới”.
Và sau đó, trước mặt đức vua cả tin, hân hoan bày tỏ sự biết ơn đối với chàng và yêu cầu lòng trung thành của chàng đối với người kế nghiệp. Macbeth nghĩ rằng chính kẻ này, thái tử Malcolm, mới là chướng ngại sẽ khiến chàng lao đao, hoặc là chàng phải làm bừa để vượt qua.

Ray rứt bởi những ý nghĩ đó, chàng cáo từ vua Duncan, về viết thư cho vợ, báo cho nàng hay chức vụ mới của mình, đồng thời với việc đứa vua sẽ hạ cố đến thăm và ngủ đêm tại nhà họ.

Phu nhân Macbeth được biết qua lá thư chồng, lời tiên tri của bọn phù thủy, cả chiến thắng và những danh vọng mới. Nàng đắn đo, cân nhắc, nàng hiểu rõ chồng mình và tham vọng của chàng, nhưng anh ta “tràn trề những tình cảm yếu đuối của con người”, chàng khao khát quyền uy, nhưng muốn chiếm nó một cách “chính trực”, chàng muốn thành đạt nhưng không chịu chơi trò gian lận. Và nàng nghĩ phải truyền sự can đảm của mình cho chồng và thúc đẩy chồng đến được với vận hội của chàng. Khi nàng biết rằng đức vua Duncan sẽ ngủ lại dưới mái nhà họ, nàng rùng mình trước những chết chóc, tiếng quạ kêu ai oán, báo hiệu đức vua đến, và khi Macbeth gặp vợ, cả hai quyết định nhúng tay vào tội ác, trước cả khi bàn bạc với nhau.

Nàng hỏi:

- Chừng nào ông ta đi?

Chàng đáp:

- Ngày mai, theo như ông ta yêu cầu!

Và nàng chép miệng:

- Ôi! Chẳng bao giờ mặt trời thấy được cái ngày mai ấy!

Rồi, sau một lát im lặng: “Em phải lo chuẩn bị đón khách. Còn anh, anh hãy bày tỏ thái độ cương quyết, mọi cái khác cứ để mặc em”.

Cả hai kính cẩn tiếp rước đức vua nhân từ Duncan. Ngài hoan hỉ được trú ngụ trong nhà một chư hầu trung tín, rất thích thú vì không khí tươi mát và trong lành nơi chỗ ở của họ, những con chim én làm tổ trên dãy vòm cuốn. Người ta đốt đuốc, người ta tổ chức yến tiệc linh đình và nhạc kè ô-boa nổi lên rền rĩ. Macbeth không thể nào ngồi yên trong bàn tiệc. Chàng lẻn ra ngoài để trầm tư. Chàng tự nhủ mình nên tha cho nhà vua, vì chàng là hoàng thân, là kẻ thần dân của ngài, lại là chủ trọ nữa. Đức vua anh minh đức độ và nhân ái, bao nhiêu tính tốt biện hộ cho ngài. Nhưng bà vợ xộc tới nhận thấy chàng dao động yếu đuối, đã dùng lời cay chua xỉa xói chồng:

- Thế là trong hành động anh run sợ; còn trong ham muốn, anh lại tỏ ra dũng cảm? Anh mơ ước chiếm được ngai vàng để cho đời anh vinh hiển, mà lại cứ sống hèn nhát với chính mình! Anh khoe khoang dám làm tất cả những gì một người đàn ông có thể làm, rồi giờ đây, khi thời cơ đưa đến anh lại thối lui thay vì phải hành động!

- Nhưng nếu chúng ta thất bại thì sao? –Macbeth thốt lên một cách khiếp nhược.

- Thất bại à? Nếu anh không mềm yếu, làm sao hỏng việc được? Khi Duncan thiếp ngủ, em sẽ biết cách khiến hai tên cận thần rũ liệt vì rượu thịt, để chúng ngủ vùi một giấc nặng nề. Và ai cấm chúng ta đổ tội cho bọn võ quan say sưa đó?

- Tốt nhất –Macbeth đã tỉnh táo trở lại, nói thêm- là chúng ta vấy máu lên người bọn mê ngủ và sử dụng chính những con dao của chúng!

Phu nhân Macbeth còn tiên liệu cả việc phải la hoảng và kêu than thế nào trước thi thể người khách trọ bị thảm sát.

Đêm đã tới, khách đều an giấc, tặng vật của vua và viên kim cương ngài biếu, vị phu nhân đã cất kỹ. Macbeth ngồi đợi vợ mình trong sân lâu đài, ngay cửa cầu thang dẫn đến phòng vua Duncan. Chàng ngỡ như thấy con dao găm lượn lờ trước mắt, cán dao quay về phía tay chàng, máu nhỏ ròng ròng từng giọt, nhưng giờ đây chàng không do dự nữa, và tiếng chuông ngân lên báo hiệu mọi việc đã sẵn sàng, chàng men lên phòng đức vua.

Đứng ngay nơi cửa, phu nhân Macbeth chờ chồng quay xuống. Nàng lo lắng cho sự chậm trễ của chồng. Chẳng phải là nàng đã một mình bố trí hết đó sao, chuẩn bị các dao găm, hé mở các cửa và phục rượu cho bọn cận thần say khướt? “Nếu đức vua không phảng phất giống cha ta, -nàng nói- chắc ta sẽ tự làm lấy nốt.” Cuối cùng, Macbeth trở lại, tay đẫm máu, hoảng sợ vì tiếng cú kêu và dế gáy, khiếp hãi khi nghe bọn người hầu lâm râm cầu nguyện trong cơn mê ngủ, môi miệng giá lạnh chẳng thế nào thốt lên được tiếng: A-men! Chàng nghe như ai đó hét lên: “Đừng ngủ nữa! Glasmis đã giết chết giấc ngủ, vì thế Cawdor không còn ngủ nữa. Macbeth cũng không thể nào ngủ được nữa!” Chàng còn giữ con dao găm, nhưng không dám quay lên phòng đức vua. Chính phu nhân Macbeth phải lên vấy máu vào mặt và tay bọn cận thần, rồi đặt mấy con dao găm bên cạnh họ. Như thế, cả hai vợ chồng đều đã nhúng tay vào máu, khiến Macbeth cứ nhìn mà kinh hoảng.

- Bàn tay nào thế kia? Nước của cả đại dương chắc gì đã rửa sạch vết máu trên đó?

Vợ chàng bình thản trả lời:

- Tay em cũng một màu với tay anh thôi, nhưng em sẽ xấu hổ biết bao nếu có một quả tim yếu hèn đến thế! Lại đây, một tí nước cũng đủ cho ta xóa sạch hành vi vừa qua.

Rồi họ rút về phòng riêng, để chờ mọi người thức dậy và phát hiện cái tội ác ghê tởm.

Sáng sớm, Macduff phát giác ra vụ giết người. Anh kéo chuông báo động, tất cả đổ xô đến, và Macbeth, như một chủ trọ bất bình, vì có án mạng xảy ra ngay trong nhà mình, liền ra tay tàn sát bọn nội thần cho chúng câm miệng hẳn. Malcolm và Donalbain hai hoàng tử vội bỏ trốn sang Anh, “lánh xa cái nơi có dao găm giấu trong nụ cười con người”. Chẳng bao lâu sau, Macbeth vừa cảm thấy thoải mái trong tội ác, đã vu khống cho họ âm mưu giết cha. Hắn khai thác tình huống tuyệt vời đến mức, ngay vào ngày thánh thể vua Duncan được chuyển vào ngôi tiểu giáo đường Saint Colomban, nơi lưu giữ hài cốt tiên tổ của ngài, thì hắn, Macbeth lên ngôi vua ở Scone. Lời tiên tri của bọn phù thủy thế là ứng nghiệm.

Vua Macbeth ngự trong cung điện, giữa đám triều thần. Hắn cho mời Banquo, người bạn cố tri, đến dự đại yến, và trước giờ ăn tối, hắn ân cần dò hỏi hành trình của bạn mình. Kẻ nham hiểm muốn biết chắc bọn sát nhân mà hắn cấp tốc phái đi, có giết được Banquo không, kể cả trường hợp có cậu con Fléance đi theo. Bởi Macbeth nghĩ rằng; vua chẳng là gì cả, nếu làm vua mà không an toàn. “Banquo đã nghe những lời tiên tri của bọn phù thủy -hắn tự nhủ- thì sao anh ta lại không có quyền mơ ước? Bọn chúng chào anh ta như là tổ phụ của nhiều vị vua tiếp nối, như thế bọn chúng đã đặt lên đầu ta chiếc vương miện của ông vua tuyệt tự. Thế ra, vì họn hậu duệ của Banquo, mà ta đánh mất linh hồn a!”

Đã dạn dày trong tội ác, hắn giấu giếm cả với phu nhân Macbeth, khuyên nàng nên có lời lẽ dịu dàng và đằm thắm với Banquo trong buổi tiệc. Qua câu nói mập mờ, nàng cảm thấy rõ hắn đang âm mưu một trò xảo quyệt nào đây, dù sao hắn đã không để nàng liên lụy vào tội ác mới mới này.

Buổi tối, trên bàn tiệc, Macbeth cho an vị mỗi người theo thứ bậc mình. Ra vẻ một chủ nhân lịch duyệt, hắn lân la bên các thực khách, nốc từng cốc rượu tràn với mỗi nhóm. Nhờ thế, hắn có thể đến gần tên mật sứ lấm máu Banquo, mà gã vừa cắt cổ và xô xuống hố sâu. Nhưng Macbeth nghiến răng ken két, khi biết rằng Fléance đã trốn thoát. Tuy thế hắn buộc phải ra vẻ niềm nở, ba hoa vài câu khách sáo, ngạc nhiên nhận ra chỗ Banquo bỏ trống, đùa cợt về sự phạm thượng đó, rồi bất thần, khi người ta thỉnh cầu hắn ngồi vào cái bàn vắng mất vị khách đó, hắn chợt thấy hồn ma của Banquo ngồi đấy, ngay trước mặt hắn và hắn buộc miệng thều thào:

- Ngươi không thể nói rằng chính ta đã làm thế. Đừng đong đưa trước mắt ta mái tóc nhuộm đầy máu của ngươi. Kìa những người chết đang trỗi dậy, đuổi chúng ta ra khỏi ghế ngồi!

Trước những lời điên loạn đó, mọi người đều hoang mang. Tuy nhiên, phu nhân Macbeth trấn tĩnh họ, tiết lộ rằng đức vua thường bị ám ảnh bởi những điều kỳ quặt, rồi hạ giọng, nàng xoa dịu chồng, vừa chế giễu những ảo ảnh cũng như nỗi sợ hãi của chồng, khéo đến mức hắn không còn thấy hồn ma đâu nữa.

Hắn cáo lỗi, lại ngồi xuống, rót tràn cốc rượu nho với bộ điệu kiêu căng, rồi nâng cốc uống mừng Banquo…Ngay lúc đó, hồn ma lại ngồi vào chỗ cũ, và Macbeth mê sảng, mặt mày tái xanh vì khiếp hãi:“Lui ngay! Xa hẳn đời ta! Cho đất chôn vùi ngươi đi! Xương ngươi không còn tủy, máu ngươi đã khô lạnh! Chẳng còn ý tưởng nào trong hố mắt lờ đờ của ngươi nữa!

Lần này, sự biến bùng ra dữ dội. Dù cho Macbeth đã hồi tỉnh, phu nhân vẫn để bọn thực khách nhốn nháo kéo nhau ra về, lo lắng tìm cách che giấu cơn điên loạn của chồng.

Nhưng Macbeth lại phát hiện còn nhiều người vướng bận hắn ta, rằng cần phải chém giết thêm nữa, “lặn sâu vào biển máu” phải trui rèn bằng thói quen bởi vì như hắn nói một cách vô ý thức: “chúng ta còn quá non trẻ trong tội ác”.

Bọn phù thủy chuẩn bị nồi chảo, bùa mê, ngải độc và các thứ trù yểm để đón hắn. Trong cái nồi phù phép, sôi sục cái món hỗn tạp mà làn khói bốc lên biểu hiện các sự kiện của tương lai; một thứ canh âm phủ sủi bọt trong đó: thịt lưng răn dầm, mắt kỳ nhông, đùi ếch, lông dơi, lưỡi rắn lục, chân cắc kè, cánh chim cú, vảy rồng, răng sói cái, xác ướp yêu thuật, rễ độc cần nhổ trong đêm, ngón tay trẻ sơ sinh bị bóp cổ ngay khi ra đời. Đó là những vị thuốc mà các mụ bạn của cô đơn và bóng tối trộn thành món súp sền sệt tối độc.

Macbeth sợ hồn ma hơn là các mụ phù thủy này. Hắn đến khẩn cầu chúng tiết lộ việc tương lai. Chúng cười khẩy, nhạo báng, ném thêm nhiều vật ghớm ghiếc vào nồi nước hỏa ngục và vào đống lửa, thế là những quyền lực kỳ bí từ từ phát lộ. Không cần Macbeth phải nói, tư tưởng của hắn đã được hiểu thấu. Bên trên làn khói ô uế, nhiều khuôn mặt lần lượt hiện ra.
Thoạt tiên, một cái đầu đội mũ sắt hét lên:“Macbeth! Macbeth! Macbeth! Hãy coi chừng Macduff”. Rồi một cậu bé bê bết máu kêu la:“Hãy tàn bạo và cương quyết, vì chẳng ai do đàn bà sinh ra có thể hại được Macbeth!”

Cuối cùng, lại một cậu bé đội vương miện, tay cầm cành cây xanh nói:“Hãy kiêu hãnh lên đi, Macbeth; ngươi chẳng bao giờ chiến bại, trừ khi nào khu rừng Birnam đi về phía đồi Dunsinane để chống lại ngươi”.

Macbeth đắc thắng, nhưng hắn muốn biết đám hậu duệ của Banquo có được trị vì trên vương quốc không. Mặc những lời khuyên can của bọn phù thủy, hắn nài nỉ, nguyền rủa, bức bách. Thế rồi, giữa làn khói cuồn cuộn, cái chảo lút sâu xuống đất, và hắn thấy lần lượt hiện lên tám vị vua đội mão vàng mà hồn ma Banquo vừa chỉ vừa mỉm cười. Vị vua thứ tám cầm một chiếc gương soi, trong đó ta thấy nhạt nhòa nhiều gương mặt, mang hai quả cầu và ba vương trượng.

Và khi Macbeth kịp hoàn hồn, thì cái vòng ma quái của các mụ phù thủy đã tan biến, mang ảo ảnh chìm theo làn uế khí.
Tràn đầy tin tưởng, hắn tiến hành các dự kiến sát nhân bằng sự phản trắc và mưu lược. Hắn giết hại tất cả những ai làm phiền hắn, mà trước hết là Macduff. Là chư hầu trung tín, ông này quyết bảo vệ người thừa kế hợp pháp của vương quốc. Không thể giết ông, vì ông vừa trốn sang Anh quốc, nhưng ông còn bỏ lại trong lâu đài bà vợ, các con và những người xấu số thuộc dòng họ ông. Chính thông qua họ, mà Macbeth tấn công ông. Một nhóm đạo tặc đầu trâu mặt ngựa, xông và Fife chém giết phu nhân Macduff, lũ con cháu và tất cả người nhà. Thật là một cuộc thảm sát man rợ và cái xứ sở đau thương rỉ máu, quằn quại dưới ách bạo tàn, khóc than sau mỗi nhát dao, mỗi ngày mang thêm một vết thương mới. Người ta ngại ngùng không dám hỏi chuông đang gọi hồn ai:“Macbeth như một con yêu tinh, đầy dẫy tật xấu, tham lam vô độ, hiểm độc và khát máu”.
Xa kia, bên đất Anh, Macduff đã tìm gặp Malcolm, vị vua đích thực kế nghiệp ngai vàng, và chàng trai trẻ hoài nghi vì bao tai biến dồn dập xảy ra đã đem sự ngay thẳng và đức hạnh của Macduff ra thử thách. Rồi cả hai, họ nhận được sự trợ giúp quí báu của vua Anh quốc: một đội quân mười ngàn người. Thế là họ chuẩn bị giải phóng Ecosse. Chao ôi! Cần phải cho Macduff biết tin “con diều hâu hiểm độc kia đã xông vào tổ, sát hại cùng một lúc đàn gà con xinh xắn và cả mẹ chúng nữa!” Đau thương đã biến thành uất hận, bất hạnh đó mài sắc thêm lưỡi kiếm của ông; Macbeth quả chỉ còn chờ này sụp đổ.

Ở Dunsinane, vua Macbeth bận hành quân; trong cung điện, thế nữ phải mời một y sĩ đến khám căn bệnh quái lạ của hoàng hậu. Đêm nào cũng thế, lừ đừ nhợt nhạt và thẫn thờ, bó đuốc trên tay, bà đi thất thểu khắp các phòng và dãy hành lang. Bà tìm gì thế ? Đôi mắt mở to của bà ta nhìn thấy những gì mà tâm hồn lương thiện không nhìn thấy. Bà xoa tay, kỳ cọ hàng giờ đôi bàn tay nhỏ nhắn. Bà lẩm bẩm:

- Biến đi chứ, cái vết bẩn khốn kiếp, biến đi, ta bảo! Có ai ngờ lão già ấy lại chứa bao nhiêu là máu trong người? Sao, đôi tay này chẳng bao giờ sạch được ư? Tất cả dầu thơm xứ Arabie cũng không thể làm sạch bàn tay nhỏ này sao? Nào, rửa tay đi, đưa áo ngủ đây! Đừng có mà tái xanh thế! Ta nhắc lại cho ngươi rõ, Banquo đã bị chôn kín rồi, hắn không thể ra khỏi mồ đâu. Hô! Hô! Hô!

Can bệnh quái gỡ vượt quá tài nghệ chữa trị của viên ngự y.

- Hoàng hậu – ông nói - có lẽ cần tu sĩ hơn. Chúa ơi! Cầu Chúa tha tội cho tất cả chúng ta!

Thế rồi bà chết, bởi vì ai chẳng biết liều thuốc giải độc êm dịu của lãng quên và bà thì không thể nào rứt bỏ khỏi ký ức mình những giày vò và hối hận đã bám chặt trong đó.

Macbeth chẳng còn thì giờ đâu mà khóc than cho vợ, cuộc sống hắn vốn đã đầy dẫy những chuyện khủng khiếp, và nỗi kinh hoàng hầu như quen thuộc với những tư tưởng sát nhân, không còn khiến hắn xúc động nữa. Vả lại, hắn còn bao nhiêu điều lo nghĩ khác, lực lượng quân sự Anh tiến gần, dưới sự chỉ huy của Malcolm và Macduff.

Họ đến từ hướng rừng Birnam. Macbeth tăng cường phòng ngự Dunsinane, và để ru ngủ sự hoang mang của mình, hắn luôn tự nhủ:“Cánh rừng Birnam chưa đi về phía ta, và Malcolm là do một người đàn bà sinh ra. Thế thì ta sợ gì chứ?

Cờ hiệu của hắn phấp phới một cách ngạo mạn trên thành lũy, hắn cười nhạo đoàn quân vây thành, những tiếng la ó, những nỗi sợ sệt. Nhưng một mật báo viên đến cho hắn hay rằng cánh rừng Birnam đang bắt đầu tiến lên trên bề rộng khoảng ba dặm, như một lùm cây di động.

Lần này, hắn thực sự nao núng, hắn bắt đầu ngờ vực những câu đoán mập mờ của bọn quỉ sứ. Hắn nghĩ đến việc bỏ trốn, nhưng không, hắn muốn được chết da ngựa bọc thây và chống cự một cách quả cảm trận tiến công đã khởi sự trong tiếng kèn rầm rộ inh tai. Malcolm khôn ngoan và thận trọng, đã ra lệnh cho mỗi người lính đều chặt một cành cây mang trước người, để ngụy trang và che giấu quân số để địch không đánh giá nổi lực lượng của mình.

Trận chiến nổ ra, Macbeth còn bấu víu vào niềm tin rằng chẳng ai do đàn bà sinh ra có thể đánh ngã hắn. Rồi hắn mải mê chém giết không chút sợ hãi và cứ tưởng mình vô địch. Cuối cùng, đến lúc Macduff tìm gặp hắn giữa trận tiền, Macbeth say máu hét lên:

- Ngươi phí công vô ích. Ta mang trong mình một đời sống kỳ diệu, chẳng có ai do đàn bà sinh ra có thể đụng đến ta!”
Tức thì, Macduff cười khẩy:“Mi tuyệt vọng rồi! Macduff không do một người đàn bà đang sống sinh ra, vì mẹ ta đã chết ngay khi ta ra đời!”

Phen này, thế là hết, chẳng còn đâu đại đởm của Macbeth. Những lời tiên tri đã quay lại chống hắn, và định mệnh đã đánh gục hắn. Nhưng hắn không muốn chết trước mặt chàng trai trẻ Malcolm, nên cố tự vệ để tìm đường tẩu thoát.

Ngay sau đó, xứ Ecosse được tự do và Macduff lại hiện ra, vác cây cọc cắm cái đầu khốn kiếp và cả đoàn quân reo hò chào đón vị vua trẻ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 22:30:18 | Xem tất
Cô nàng đanh ác bị buộc phải biết điều


Có một người cha khá là lúng túng: đó là ông Baptista, một nhà quý phái giàu có ở Padoue(1). Hai cô con gái của ông xinh đẹp và có nhiều của hồi môn, lẽ ra đã có thể gã bán dễ dàng, và nói đúng ra, những kẻ cầu hôn vây ve chung quanh Bianca, cô em khá đông. Nhưng ông Baptista đã quyết định – và quyết tâm của ông thì không có gì có thể lay chuyển nổi- rằng ông sẽ không gả chồng cho Bianca trước khi cô chị, cô nàng Catarina, tìm được một đấng lang quân. Thế nhưng tiếng xấu về Catarina thì đã “sâu gốc bền rễ” rồi: cô nàng cảu nhảu, thô bạo, bất trị và cũng chưa ai trị được, thường ghen tị với những thành tựu của cô em, và do đó ả càng tỏ ra đanh ác hơn nếu đem so với cô em dịu dàng, dễ thương, biết phục tùng, lại yêu thích âm nhạc, văn thơ. Ông Baptista khốn khổ cố gắng –nhưng vô hiệu- làm cho một vài anh chàng đeo đuổi Bianca, chú ý đến Catarina: đó là Gremio và Hortensio là hai anh chàng đã từng bị Catarina chửi mắng và đều từng cầu chúa giải thoát cho họ khỏi rơi vào tay một con quỷ như thế. Cái cảnh này diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, dưới con mắt thích thú của một thanh niên nước ngoài, Lucentio, là kẻ mà vẻ khiêm nhường, cùng đôi mắt đẹp khép hàng mi và giọng nói du dương của Bianca chẳng mấy chốc thổi bùng dậy trong lòng một tình yêu mãnh liệt. Chàng từng nghe ông Baptista nói là sẽ gả con gái của mình cho một nhạc sư, thế là chàng quyết định ngay: chàng sẽ biến mình thành giáo sư và nhờ đó sẽ đến được gần Bianca. Trong khi đó, Gremio và Hortensio, hai kẻ kình địch nhau đẻ chiếm tái tim và lời hứa hôn của Bianca, lại tạm thời thỏa thuận với nhau: họ cố tìm cho nàng Catarina quạu quọ kia một ông chồng, tuy rằng Gremio đã nói oang oang lên rằng về phần mình, anh ta thà mỗi buổi sáng bị lôi ra công viên đánh đòn(2) còn hơn là lấy cô ả có món hồi môn kếch xù.
Thế nhưng, trên đường đi, Hortensia lại gặp một trong những ông bạn người thành phố Vérone, chàng Petruchio sôi nổi. Petruchio đã nói về mục đích chuyến đi của anh ta như sau:

- Bố tớ, cụ Antonio, vừa mới từ trần, tớ hưởng được cái gia tài cũng khối, tớ quyết định là phải tìm một đám vợ giàu và gia tăng tài sản mình lên, và thế là tớ đi chu du thiên hạ

- Cậu là bạn tớ - Hortensio sôi nói ngay- Tớ có thể giới thiệu cho cậu một phụ nữ đanh đá nhưng mà giàu sụ; thế nhưng chắc là cậu chẳng cảm ơn tớ về việc mối mai này đâu. Do vậy, tớ sẽ chẳng là gì sất.

Petruchio cãi lại rằng cho dù cô ả có xấu như Sibylle, có đanh ác như bà Xanthippe(3) vợ Socrate; thậm chí còn tệ hơn nữa, thì chàng vẫn cứ chấp nhận bất cứ một phụ nữ nào, miễn là cô ta giàu có, bởi vì chàng chỉ cốt tìm ra tiền trong hôn thú thôi mà! Nhưng Hortensio muốn nói về cô ả nào vậy? Về cô con gái của Baptista à? Thế thì tốt. Chàng quen biết cha cô ả và chẳng mấy quan tâm đến tính tình con gái ông ta. Chàng sẽ tự lo liệu để đi đến thắng lợi! Nhân đấy, Hortensio thú nhận mối tình của mình với Bianca và yêu cầu Petruchio – (tôi giúp anh việc này, anh giúp tôi việc kia) giới thiệu anh ta vớii ông Baptista rằng anh ta là giáo sư âm nhạc để dạy các cô con gái của ông. Hortensio hy vọng, làm như vậy sẽ tán tỉnh được Bianca. Thế là cô này sẽ không thiếu gì những bài học tốt, bởi trong lúc đó Petruchio và Hortensio rút lui để tránh mặt, Grémio -một anh chàng khác cũng say mê Bianca-, thì anh này lại đang thuyết phục một anh gia sư trẻ mà Grémio muốn đưa vào trong gia đình Bianca. Anh gia sư này, với chiêu bài giảng dạy văn chương, sẽ vận động cho mối tình của Grémio bằng cách giới thiệu với Bianca những cuốn truyện tình thơm phức mùi nước hoa. Anh gia sư này chính là Lucentio, cải trang thành một nhà thông thái nghèo khó, và anh ta lại quyết định một khi đã lọt được vào nhà Bianca, cũng sẽ lo liệu lấy công chuyện của chính bản thân mình.

Ông Baptista khốn khổ, vừa mới cãi vã nhau với Catarina, đã phải tiếp Petruchio có Hortensio, cải trang thành nhạc công theo, hai người này cùng bước vào đồng thời với Grémio có Lucentio, ăn mặc tồi tàn, hộ tống.

Chẳng cần phải nói vòng vo gì, Petruchio đi ngay vào đích:

- Thưa bác(4) Baptista, có phải bác có một người con gái tên là Catarina rất đẹp và đức hạnh không?

- Vâng, đúng là tôi có một đứa con gái tên là Catarina –ông Baptista còn đang sướt mướt khóc- trả lời.

- Được đấy! Tôi là nhà quý phái ở Vérone, tôi từng nghe nói đến sắc đẹp, đến sự nhã nhặn, đức khiêm nhường và tính nết dịu dàng của tiểu thư, nên tôi mạo muội ra mắt bác để được cầu thân với nàng. Và để đền đáp lòng mến khách của bác, tôi xin biếu bác một trong những người thuộc hạ của tôi, rất giỏi về âm nhạc và toán học. Anh ta có thể giúp con gái bác học tập các môn khoa học đó, mà theo tôi được biết, tiểu thư chẳng lạ lẫm gì với những môn học đó.

- Xin đa tạ -ông Baptista tội nghiệp, chưa dám tin ở hạng phúc của mình, nói thầm- nhưng tôi sợ rằng –và tôi rất phiền lòng- con Catarina của tôi không xứng với ngài.

Thế là, anh chàng Grémio phục phịch lên tiếng:

- Đến lượt tôi, tôi cũng xin được giãi bày tâm sự. Thưa bác Baptista láng giềng, bác đã biết đến khát vọng của tôi đối với cô Bianca của bác. Để cảm ơn bác về mối cảm tình đó, tôi dẫn đến cho bác nhà bác học trẻ tuổi này, người đã từng du học lâu năm ở Pháp. Anh ta biết tiếng Hy-lạp, tiếng La-tinh và các ngôn ngữ khác, thông thạo cả âm nhạc và toán học. Xin bác hãy chấp nhận để anh ta được phục vụ.

- Xin đa tạ, anh bạn láng giềng. Xin một trong hai anh cầm lấy cái đàn luýt này, còn anh kia thì ôm những cuốn sách kia. Một tên gia nhân sẽ đưa các anh đến chỗ các cô học trò của các anh! Này, gia đồng, mày hãy nói cho hai tiểu thư biết đây là giáo sư của hai cô và ta muốn hai vị phải được tiếp đãi tử tế.

- Thưa bác Baptista – Petruchio hăng hái nói tiếp- công việc của tôi không thể trì hoãn được và tôi cũng không thể hằng ngày đến tán tỉnh được. Tôi có một tài sản lớn, nếu như tôi làm cho con gái bác yêu tôi thì tôi sẽ nhận được bao nhiêu của hồi môn khi cưới nàng?

Bất chấp thái độ sỗ sàng của chàng vị hôn phu này, ông Baptista mừng rơn. gả chồng cho Catarina! Ông sẵn sàng chấp nhận mọi nhượng bộ. Ông rụt rè dè chừng Petruchio, nhưng anh chàng này vội tuyên bố rằng anh ta cũng cứng đầu cứng cổ y như Catarina chua ngoa vậy; rằng anh ta không phải là người dễ tính và anh ta chắc sẽ thành công.

Lời phát biểu này bị gián đoạn vì Hortensio quay lại, vẻ mặt thảm hại và bầm dập – Catarina đã nện chiếc đàn luýt lên đầu anh ta và mắng anh ta bằng những tiếng thô lỗ chỉ vì anh ta muốn sửa ngón đàn của cô ả.

Petruchio lại tỏ ra hớn hở:

- Thế đấy! Quả là một cô gái phóng túng nổi tiếng. Như thế tôi lại yêu nàng gấp mười. Tôi muốn được tiếp chuyện với nàng ngay.

Ông Baptista còn chưa dám tin ở lỗ tai mình, cho người đi tìm Catarina, trong khi Petruchio phác qua kế hoạch tác chiến của mình:

- Ta sẽ tán tỉnh nàng theo cung cách của ta! Nếu nàng chửi ta, ta sẽ nói rằng tiếng của nàng réo rắt như tiếng họa mi; nếu nàng nhíu lông mày, thì ta sẽ nói rằng cái nhìn của nàng cũng trong suốt như hoa hồng buổi sáng đẫm sương; nếu nàng im hơi lặng tiếng thì ta ca ngợi tài hùng biện của nàng; nếu nàng không chịu kết hôn với ta, ta sẽ hỏi nàng ngày nào thì sẽ công bố hôn lễ và lễ cưới sẽ tổ chức vào lúc nào! À, nàng đến đây rồi!

Petruchio ra tay đi!

- Xin chào Cattie, vì anh được nghe tên cô em là như vậy!

- Ông tưởng ông nghe như vậy, nhưng ông nặng tai đấy. Tôi tên là Catarina.

- Tất nhiên là em nói dối. Người ta chỉ giản đơn gọi em là Cattie, cô Cattie tốt bụng. Cattie, nàng Cattie tuyệt vời của anh, bởi vì tất cả các cô Cattie đều thật sự là ngọt ngào như kẹo.

Không hề bị bao nhiêu lời dịu ngọt như vậy phỉnh nịnh, Catarina vẫn tiếp tục cuộc nói chuyện theo cung cách thường ngày của cô ả: sỉ nhục, mắng nhiếc, thậm chí vài cái bạt tai. Petruchio đáp lại những cái đó bằng những lời tán tụng quá mức về thái độ lịch sự, dễ thương của cô ả:

- Anh thấy em quả là rất dễ mến.

Người ta từng khẳng định với anh rằng em quạu quọ, thô lỗ và cáu kỉnh, bấy giờ anh mới thấy rõ đó là những lời láo toét. Anh thấy em thật dễ thương, vui vẻ hồn nhiên, em nói chuyện dè dặt, em ngọt ngào như hoa mùa xuân, em không biết bĩu môi cũng như không hề nhìn ngang nhìn ngửa, em không hề cắn môi như những con mụ ba hoa khi tức khí thường làm, không hề thích nói lên những điều khó chịu, em tiếp những người tình của em, khiêm tốn và dễ thương. Ôi, thiên hạ vu khống! Cattie hiền dịu như hạt dẻ và còn ngon lành hơn cả hột hạnh nhân!

- Ông tìm ở đâu ra những cái của quý ấy thế? – Catarina hơi bối rối, hỏi lại.

- Anh ứng khẩu – Petruchio đáp lại một cách rất tình tứ. Và với ông Baptista vừa trở lại, có hơi lo lắng về diễn biến của cuộc đàm luận có thể diễn ra, chàng nói ngay:

- Thưa nhạc phụ, tất cả những kẻ đã nói về em đây đều là bất công. Đây thật sự là một con chim bồ câu, thanh tịnh như buổi sớm mai, và để kết thúc, chúng con đã tâm đầu ý hợp với nhau đến mức chúng con đã quyết định cử hành hôn lễ vào ngày chủ nhật này.

- Mày sẽ bị treo cổ trước ngày chủ nhật! –Catarina phản ứng lại một cách “dễ thương”.

- Giữa chúng tôi, chúng tôi đã thỏa thuận với nhau là nàng sẽ tỏ ra hung ác trước mọi người! Nhưng không ai có thể tưởng tượng là nàng yêu tôi đến mức nào! Hôn anh đi Cattie, chúng ta sẽ cưới nhau vào chủ nhật này –Petruchio nói với đám cử tọa rất đỗi ngạc nhiên.

Điên tiết, Catarina bỏ đi như một cơn lốc trong khi ông Baptista mừng rơn, so sánh giá trị của hai người cầu hôn Bianca mà ông muốn gả chồng một tuần lễ sau đám cưới của cô chị. Bianca có phing thái khiêm tốn lại muốn lấy chồng theo ý riêng của mình. Trong khi chờ đợi, những vị giáo sư mà cha cô giới thiệu tranh nhau xun xoe chung quanh cô. Trong khi Hortensio so dây đàn để chuẩn bị cho bài dạy âm nhạc thì Lucentio tranh thủ với môn tiếng La-tinh.

- Chúng ta đã đến với bài nào rồi? Bianca hỏi với vẻ ngây thơ.

- Đến đây rồi, thưa tiểu thư. Tôi xin dịch – Lucentio ngân nga: “Hic ibat, tôi đã nói với tiểu thư rồi, Simois, tôi là Lucentio, hic est, Sigeiatellus con của cụ Vincentio thành Pise – Hic steterat, cải trang như thế này, Priami regia celsa senio, để được tiểu thư thương đến.

- Thưa tiểu thư – Hortensio vội vàng nói- cây đàn của tôi đã so dây xong rồi.

Bianca chắc đã thích thú nghe Lucentio nói, kêu lên:

- Dào! Phần trên lạc giọng rồi!

Và trong khi anh chàng Hortensio khốn khổ cố sức lên dây đàn, cô gái ranh mãnh lại tiếp tục:

- Này, xem nào nếu tôi dịch: Hic ibat Simois, tôi không quen biết công tử: hic est Sigeia tellus, tôi không tin công tử: Hic steteral Priami, hãy đề phòng anh chàng kia nghe lỏm chúng ta: regia, xin công tử chớ quá tự phụ: celsa senio, nhưng cũng xin công tử đừng có ngã lòng.

- Thưa tiểu thư, bây giờ thì đàn đã so dây, hòa âm tốt rồi – Hortensio nhắc lại và làu bàu qua kẽ răng: “Thằng thầy đồ này cả gan thật! Nó dám qua mặt mình, tán tỉnh người tình của mình”. Rồi cất cao giọng:

- Anh có thể đi dạo một vòng, tôi không có nhạc hát ba bè đâu.


Về phần Lucentio anh ta tự nhủ: “Mình phải giám sát họ mới được. Nếu mình không lầm thì anh chàng nhạc sĩ này cũng đang trồng cây si đây!”

- Thưa tiểu thư – Hortensio bắt đầu nói một cách thông thái rởm- Trước hết, tôi xin trình bày với tiểu thư những yếu tố sơ đẳng nhất của nghệ thuật âm nhạc và xin dạy tiểu thư về thang âm. Phương pháp của tôi đã ghi trên mảnh giấy này.
Bianca nói lại:

- Nhưng mà tôi đã học xong các thang âm từ lâu rồi.

- Dầu vậy, xin tiểu thư hãy đọc thang âm Hortensio. Và Bianca đọc thấy:

Đô: -Tôi là toàn bộ các thang âm.

Rê: - Để biện hộ cho mối tình của Hortensio.

Mi: - Hỡi Bianca, hãy chấp nhận anh ta làm thầy học của mình.

Fa: - Anh ấy yêu cô nương với tất cả tấm lòng.

Sol: - Hãy rủ lòng thương.

La: - Không thì tôi chết.

Bianca đã quyết định sự lựa chọn của mình xong rồi, nhưng vẫn còn giấu kín ý đồ, nói:

- Ngài gọi cái này là thang âm à? Tôi thích những phương pháp cổ hơn. Những kẻ lù đù thế mà sâu sắc!

Ngày cưới Catarina đã đến. Chẳng có tin tức gì của chàng rễ tương lai. Catarina giận dữ như điên: đi hứa hôn với một thằng cha thô lỗ, tính khí thất thường, kẻ sau khi đã tán tỉnh cô nàng một cách vội vàng, lại còn tự cho mình cái quyền cưới nàng! Cô ả vừa bỏ đi vừa khóc vì tức giận, để mặc ông bố sửng sốt ở lại một mình. Việc Petruchio đến muộn càng làm cho tình thế trầm trọng thêm, bởi vì trang phục của anh chàng quá ư tồi tàn: cái quần nịt vá đụp, đôi ủng vốn là đôi ủng cũ đựng đèn cầy, chiếc thì cài khuy, chiếc thì buộc dây, một thanh gươm đã hoen gỉ, sứt mũi và không có vỏ, con ngựa của chàng ta đeo một cái yên cổ lỗ sĩ bị mọt nhấm mà hai bàn đạp thì lại so le, cái con nghẽo này mang một chứng bịnh của sự “sáng tạo”: cái đai thì vá víu chằng chịt, cái khâu đuôi bằng nhung vốn dành cho phụ nữ ngồi thì được đánh dấu bằng hai mẫu tự vạch bằng đinh và được buộc túm ở nhiều chỗ bằng chỉ khâu. Còn tên gia nhân của Petruchio thì đội một cái mũ cũ mèm, mang một đôi bít tất, chiếc bằng sợi, chiếc bằng len, giây nịt tất thì cái màu xanh, cái màu đỏ. Ông Baptista sung sướng khi trông thấy Petruchio, còn chàng ta thì giả bộ vô tâm:

- Con cũng muốn đến nhanh đấy chứ! Cô vị hôn thê xinh đẹp của con đâu rồi? Thưa nhạc phụ, người làm sao thế? Hình như người có điều gì phật ý? Cattie đâu rồi? Trưa rồi, cần phải đến nhà thờ ngay.

- Chúng tôi buồn phiền vì thấy anh ăn mặc quá ư luộm thuộm. Anh hãy vào phòng của ta, ta sẽ cho anh mượn tạm quần áo.
- Không cần! Cô ấy lấy con chứ có phải lấy quần áo của con đâu. Thôi, xuất phát!

Hôn lễ cử hành xong, một vài quan khách sửng sốt, trao đổi cảm tưởng với nhau: Catarina chỉ còn là con bồ câu bên cạnh đức lang quân của mình, giữa lúc xưng tội, chàng ta thề thốt oang oang, chàng lấy sách kinh đập ông linh mục, lấy chân đá và đổ rượu cưới lên người giữ đồ thờ. Rồi anh ta vịt lấy cổ cô vợ, run như cầy sấy, để hôn chụt cô ta một cái, vang khắp cả nhà thờ.

Chú thích:
1) Tên Ý là Pa-đô-va, một thành phố ở phía Bắc nước Ý gần Vơ-ni-dơ,
2) Một lối hình phạt thời trung cổ.
3) Vợ Socrate (nàh hiền triết cổ đại Hy-lạp)(470-399 trước CN): nổi tiếng đanh đá.
4) Nguyên văn: signor (ngài)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 1-10-2011 22:36:47 | Xem tất
Cơn bão


Prospéro, công tước Milan, là một vị quân vương lạ lùng. Cả đời, ngài vùi đầu sống giữa đống sách vở và các ống nghiệm, đắm hồn trong những cuộc nghiên cứu huyền bí, bỏ mặc việc triều chính cho người em trai là Antonio. Hậu quả thật tai hại. Gã Antonio đầy tham vọng, lợi dụng việc rời xa binh quyền và lòng tin cậy mù quáng của ngài để chiếm đoạt, trước tiên là mọi quyền lợi của công quốc, sau đó là lòng dân Milan. Tên gian tặc nghĩ mình mới thực sự là đấng quân vương, thu tóm mọi đặc quyền của Prospéro, là người vẫn cho rằng cái thư viện thênh thang là một công quốc vừa đủ cho nhà bác học. Vua xứ Naples, kẻ thù của Prospéro, tự xem mình là thượng quốc, hạ cố liên kết với Antonio. Cả hai âm mưu phế trừ Prospéro. Vào một đêm ghê rợn, lũ côn đồ theo lệnh Antonio xông vào Milan. Chúng bắt cóc Prospéro, vị công tước hợp pháp, cùng cô con gái ba tuổi Miranda, mang xuống thuyền, dông tuốt ra khơi. Gặp xác một con tàu đắm chỏng chơ giữa biển, đến loài chuột cũng chẳng thèm bén mảng đến, để tránh đổ máu, chúng quăng họ lên đó, bỏ mặc cho số phận đẩy đưa. Hồn nhiên, Miranda nhoẻn miệng cười, chính nụ cười đó giúp Prospéro có đủ nghị lực chống lại định mệnh khắc khe. Một công dân Naples tên là Gonzalo, mủi lòng trước cảnh hoạn nạn đó, dù lãnh nhiệm vụ thi hành mưu đồ độc ác, đã mang theo ít thực phẩm, nước uống, quần áo, chăn màn và số lớn sách vở mà Prospéro quí hơn cả công quốc của mình. Lênh đênh theo triều sóng, họ đến được một hòn đảo hoang vu, tưởng chừng như chưa có bóng người. Prospéro rời tàu, thực ra là mấy mảnh ván trôi giạt, dìu Miranda, ôm mớ hàng hóa quí hiếm lên bờ. Ngài sắp xếp chỗ ở trong một hang động thênh thang, chia ra làm nhiều ngăn. Nhà bác học kiêm pháp sư Prospéro nhận ra ngay trên đảo, có lai vãng những hồn ma Thiện và Ác. Bọn thủy thủ Alger đã vứt lên đấy mụ phù thủy hiểm ác Sycorax, hòng thoát khỏi sự trù yểm của mụ. Mụ ta có đứa con trai tên là Caliban, một con quái vật tóc hung gớm ghiếc, một tên súc sinh hung dữ, chỉ biết nói bập bẹ tiếng người. Để đảm bảo quyền cai quản hòn đảo cho con, trước khi chết, mụ ta đã nhốt trong các thân cây đại thụ các hồn ma đã không chịu tuân lệnh con mụ, Prospéro giải thoát cho họ và chiếm được lòng trung thành tuyệt đối của họ. Ariel hồn ma cầm đầu, nhất mực phục tùng ngài, luôn ngoan ngoãn làm điều thiện.

Mặt khác, Prospéro cũng nổ lực cải hóa tên Caliban gớm ghiếc, mong mang lại tính người cho hắn. Ngài đã dạy cho hắn nói, cho hắn uống nước và ăn quả ngọt, dạy cho hắn tên các vị tinh tú, -cái to sáng rực ban ngày và cái nhỏ lấp lánh trong đêm. Nhưng Caliban thừa hưởng của mẹ toàn bản năng xấu, hắn ta đã chẳng có lần hành hung cô bé Miranda đó sao? Bởi thế, hắn bị đày dưới hốc đá tối tăm và giáng xuống hàng nô lệ, phải gánh củi, đốt lửa, và luôn bị Ariel canh chừng. Gã này vô hình trước mắt mọi người, trừ ngài Prospéro. Cái hồn ma tinh nghịch ấy, nhớ lại cách cư xử tàn tệ khi xưa của mụ Sycorax đối với mình, đã tỏ ra khắc khe trong nhiệm vụ, gã kiềm kẹp Caliban, xô hắn ngã huỳnh huỵch trong các vũng nước, đôi khi biến thành khỉ, từ nhành cây cao, nhăn bộ mặt kinh dị với hắn, hay hóa ra con nhím, lăn tròn dưới chân hắn và tên đần độn, vụng về cất chân lên, để khỏi bị nhím đâm.

Trong lúc đó, thời gian vùn vụt trôi qua. Miranda lớn lên, càng thêm xinh đẹp và duyên dáng. Đến năm mười lăm tuổi, nàng chưa hề biết một người nào khác ngoài cha nàng, nên bao tâm tưởng, nàng đều gởi trọn cho cha. Hơn nữa, nhờ môn khoa học huyền bí đã trở nên điêu luyện sau mười hai năm ẩn dật và nghiền ngẫm, ngài có thể đọc mọi ý nghĩ giấu kín trong đầu con gái như trên trang sách. Ngài xét thấy thời gian đã chín muồi để có thể sử dụng sở trường khoa học của mình mà làm chủ mọi biến cố.

Ông em Antonio, thay ngài làm công tước Milan tháp tùng đức vua Naples và hoàng tử Ferdinand, đang lênh đênh trên biển với đám thuộc hạ. Họ vừa mang công chúa Claribelle sang châu Phi và đang trên đường về Italia, sau khi dự hôn lễ của nàng với vua Tunis. Chính lúc đó, họ lâm vào một trận đồ bát quái của Prospéro. Theo lệnh ngài, Ariel gây ra cơn bão lạ lùng, chưa bao giờ xảy ra trên Địa Trung Hải. Gió thổi khi thì trước mũi, khi thì sau lái, ma trơi chập chờn tứ phía, đỉnh cột buồm gãy ngang rồi trụ buồm, cột buồm cái thi nhau vặn mình răng rắc và đổ ập xuống. Giữa cảnh náo loạn, khi lưu hoàng theo sóng biển tràn lên, cả đoàn người đi tàu như lên cơn điên vì sợ hãi. Viên thuyền trưởng hoài công giữ chặt tay lái, họ nhảy bừa xuống biển đang ầm ầm cuộn sóng.

Chúng ta đắm tàu mất! -họ hét lên. Giờ này, ta xin đổi ngàn dặm biển để lấy một mảnh đất khô cằn, một bờ thạch thảo hay một bụi kim-tước chi gai góc. Chết trên khô vẫn sướng hơn!

Hoàng tử Ferdinand kinh hoàng nhảy khỏi tàu, thốt lên:

- Tất cả yêu tinh quỷ quái đều tề tựu về đây, chắc địa ngục vắng không!

Và đức vua Naples, cha chàng, ngỡ chàng bị sóng cuốn mất.

Nhưng Ariel đã cẩn thận chọn nơi đắm tàu thật gần bờ. Vẫn theo lệnh Prospéro, gã phân tán nạn nhân ra từng nhóm, cho họ trôi dạt vào nhiều điểm khác nhau trên đảo, rồi về báo cáo với chủ:

- Chả thiếu mặt ai trong đoàn người trên tàu cả, dù rằng ai cũng ngỡ rằng mình là người duy nhất sống sót: họ mệt nhoài nên ngủ cả, bùa mê của ta sẽ khiến họ còn ngủ lâu: con tàu đỗ an toàn dưới bến, dù chẳng ai thấy được nó. Công tước và vua Naples đều đang tìm hoàng tử Ferdinand, nhưng chẳng mong gì gặp lại. Phần chàng vẫn bình an vô sự, khoanh tay trước ngực, khóc than cho cái chết của phụ vương mà chàng ngỡ đã chìm sâu dưới đáy biển. Chàng chẳng bị thương tích gì, quần áo tuy hơi ướt đẫm nước biển, lại thấy mát mẻ hơn bao giờ. Đoàn tàu còn lại, tiếp tục cuộc hành trình, buồn bã giương buồm về Naples, tất cả đều quả quyết, đã trông thấy tàu nhà vua chìm lỉm và đức vua đã băng hà.

Ariel nhận lệnh mới, lại hóa ra nữ thần hải dương, ra biển hát một ca khúc của mỹ nhân ngư:

Hãy chạy lên bãi cát vàng
Nẵm chặt tay nhau
Nếu các ngươi đã gặp và hôn phải làn sóng dữ
Cứ tưng bừng nhảy múa đó đây
Hãy đến đây, những tâm hồn kỳ diệu, cùng cất tiếng hát với ta.
Bài ca đánh thức hoàng tử Ferdinand, đang còn thiếp ngủ vì mệt.
Ariel hát tiếp:
Dưới năm sải nước, cha ngươi vừa gục ngã
Xương ngài sẽ biến thành san hô
Mắt ngài sẽ là hai viên ngọc
Chẳng có gì của ngài mất đi
Nhưng đại dương sẽ biến tất cả thành những vật hiếm hoi và quí báu
Các nữ thủy thần sẽ từng giờ đổ chuông gọi hồn Ngài
Kia! Hãy chăm chú lắng nghe: Đinh, đong, đinh, đong!

Choàng dậy, Ferdinand cảm thấy nỗi khổ đau cơ hồ nguôi dần. Chàng bước lần theo tiếng hát đang bay xa. Tiếng hát đưa chàng đến một lùm cây rậm rạp: dưới bóng mát, Prospéro và Miranda đang ngồi. Miranda ngước mắt lên:

- Con nhìn gì đấy? – cha nàng hỏi

- Chắc hẳn đó là một con ma, -cô gái khẽ đáp- Nó nhìn quanh quất. Nó đẹp quá, chỉ có thể là một con ma thôi.

- Không đâu, con ạ! Đó là một con người, cũng ăn, ngủ và sống như chúng ta. Đó là một chàng trai trẻ, trên chiếc tàu vừa bị đắm. Chàng lạc mất cả bạn đồng hành và đang tìm kiếm họ khắp nơi.

Miranda vẫn tưởng rằng: mọi con người đều phải có bộ mặt trịnh trọng và chòm râu dài như Prospéro. Yên lòng và thích thú, nàng tiến lại gần. Hoàng tử Ferdinand, vẫn còn mê mẫn bởi tiếng hát Ariel, chợt ngất ngây trước tấm nhan sắc kỳ diệu, ngỡ mình đã lọt vào hòn đảo thần tiên. Miranda không thể là người trần. Nên chàng rụt rè hỏi: phải chăng nàng là thần nữ chốn này?

- Tôi chỉ là một cô gái bình thường – Miranda bẽn lẽn đáp. Nàng sắp sửa kể lại chuện đời mình, bởi nàng đâu đã biết đến tính đa nghi và lòng ngờ vực. Nhưng Prospéro kịp ngăn lại, ngài thấy rõ hai trẻ ngây thơ đã yêu nhau, ngay phút đầu gặp gỡ, -như người đời vẫn nói. Để thử thách Ferdinand, ngài vờ nghi chàng dối trá và đối xử hết sức khắt khe. Phải chăng chàng đến đây là để chiếm đảo của Ngài.

- Hãy theo ta – ngài cất giọng nghiêm khắc- Ta sẽ giam ngươi lại và trói chặt tay chân, ngươi sẽ phải uống nước biển, ăn vỏ sò, rễ khô và dẻ rừng.

- Ta chẳng cần làm gì cả! – Ferdinand hiên ngang cự lại, tay đặt vào chuôi kiếm.

Nhưng Prospéro chỉ cần vung đũa thần lên, là hoàng tử đã bị trói chặt.

Miranda thấy động lòng trắc ẩn.

- Thưa phụ thân, hãy thương xót chàng. Con xin đảm bảo cho chàng đấy! Chàng là người thứ hai mà con được thấy, nhưng con tin chàng ngay thẳng và chân thực.

- Sao? -Cha nàng hầm hừ- Con thấy hắn đẹp à, vì con chỉ biết có mỗi mình hắn và Caliban. Nhưng cha nói cho con rõ, này cô bé khờ khạo của cha, sánh với bao kẻ khác, hắn cũng chỉ là một tên Caliban thôi.

- Chắc là con quá khiêm tốn trong tình yêu, – cô gái nhỏ nhẹ nói- bởi lẽ con chẳng mong ước người nào khác quyến rũ hơn.

- Ngươi không có quyền cãi lệnh ta, nào theo ta ngay! – Prospéro quát lên, và vị hoàng tử sững sờ riu ríu bước theo.

- Linh hồn ta bị ràng buộc, -hoàng tử thầm thì- Nhưng cái chết của cha ta, sự yếu đuối và mệt mỏi của ta, tai nạn đắm tàu của lũ bạn, sự đe dọa của lão chủ, tất cả đều vô nghĩa, nếu mỗi ngày từ ngục tối ta được trông thấy nàng một lần, sá gì cái tự do nơi khác?

Prospéro quan sát rồi mỉm cười, vì bão tố, đắm tàu gặp gỡ buổi đầu, tình yêu chớm nở, tất cả đều là công trình trí tuệ của ngài. Ngài truyền dạy tên tù phải chất hàng đống củi cho thật nhanh. Ferdinand hầu như bị kiệt sức bởi công việc nặng nhọc đó; Miranda, ràn rụa nước mắt, cảm thương:

- Than ôi! –nàng khóc thút thít- đừng làm nhiều thế. Cha em đang vùi đầu trong sách vở, ít ra cũng đến ba tiếng. Anh hãy nghỉ đi! Em sẽ ôm củi thay anh một lát.

Ferdinand hốt hoảng ngăn lại, sau đó, quên mọi lời căn dặn của Prospéro, cả hai âu yếm chuyện trò. Nhà thông thái vô hình, thích thú chứng kiến từ đầu chí cuối. Miranda quên bẵng nghiêm lệnh của cha, thổ lộ tên mình và trả lời mọi câu hỏi của Ferdinand. Nàng say sưa lắng nghe những lời ngợi ca sắc đẹp của nàng. Gã trai trẻ si tình bảo rằng: nàng là người đàn bà đẹp nhất trần gian.

- Em chẳng còn nhớ nổi gương mặt một người phụ nữ nào, - Miranda từ tốn nói- em cũng chưa bao giờ trông thấy người đàn ông nào khác, ngoài chàng và phụ thân em. Nhưng cứ tin em đi, em không sao hình dung nổi nét mặt nào khác, có thể khiến lòng em xao động, cũng chẳng mong người bạn nào khác ngoài chàng.

Cảm kích trước tấm lòng chân thực của Mirand, Ferdinand cũng kể chuyện đời mình, cho biết chàng là thái tử Naples. Nàng có muốn làm hoàng hậu và có hứa sẽ thành hôn với chàng không? Cô bé tội nghiệp, rưng rưng nước mắt mừng vui, chưa kịp trả lời thì Prospéro đã hiện ra và ban phúc cho đôi lứa. Ngài chỉ giả vờ nghiêm khắc thôi, Ferdinand đã hiên ngang và dũng cảm vượt qua mọi thử thách. Cầu mong chúng được hạnh phúc với nhau. Phần ngài, công trình vẫn còn dang dở.

Lúc đó, vài hành khách đắm tàu đã gặp lại nhau ở ven bờ. Họ ngạc nhiên chẳng biết vì sao quần áo thấm nước biển, đến lúc khô, vẫn giữ được vẻ tươi mát và lộng lẫy. Chưa chi họ đã cãi vã nhau ỏm tỏi, người thì bảo khí hậu nơi đây dịu mát và không khí thoảng mùi hương; kẻ lại phàn nàn có mùi bùn lầy, nhớp nhúa. Có người bảo trông thấy hoàng tử Ferdinand lội vào bờ, nhưng vua Naples không tin, cứ tức tưởi khóc con. Ông em Sébastien phiền trách ngài về đường lối chính trị nói chung và chuyến đi này nói riêng. Lão Gonzalo, với con tim hiền dịu và khối óc hão huyền, mười hai năm trước đây đã cứu mạng Prospéro, tuyên bố sẽ ban hành hiến pháp trên hòn đảo man dại và hoang vắng này:

- Trong nước cộng hòa của tôi –ông trầm tư- tôi sẽ làm ngược lại những điều nơi khác làm. Tôi hủy bỏ mậu dịch. Chẳng có tổ chức hành chánh, trường học, không nô lệ, không giàu sang, không nghèo khó, chẳng giao kèo, của cải hay di sản gì cả. Dứt bỏ mọi ưu tư, thần dân của tôi sẽ không biết công dụng của sắt thép hay thóc lúa, dầu hay rượu; các nguồn lợi thiên nhiên sẽ thuộc về mọi người, chẳng mảy may khổ nhọc. Sự bội phản, lừa đảo, gươm giáo, dao găm, súng hỏa mai, nhục hình sẽ bị hủy diệt tất. Được thiên nhiên cung ứng mọi thứ, đám dân làng của tôi sẽ sống trong một thời đại hoàng kim.

Bọn họ cười chế giễu ông ta rồi tất cả chìm vào giấc ngủ, ngẩn ngơ bởi tiếng nhạc của Ariel vô hình. Khi thức dậy, bọn họ túa ra khắp đảo, cố gắng tìm dấu vết Ferdinand. Các cụ già chẳng mấy chốc đã mệt rũ, bởi Ariel luôn tìm cách bỡn cợt họ. Họ lạc lối trong mê cung, nghe như có tiếng gầm rú của sư tử, thế là họ tuốt kiếm đâm loạn xạ vào khoảng không. Họ thấy từ đâu thoắt hiện một bàn tiệc linh đình, do những người quái dị như con rối chiêu đãi, nhưng đúng vào lúc họ sắp sửa ngồi vào bàn, thì một nữ ác thần hiện ra. Vẫn chính là Ariel, chê trách họ yếu đuối và bất lực, nhắc họ nhớ đến tội ác, mà giờ đây họ phải chịu quả báo; chẳng phải họ đã đày ải Prospéro và cô con gái nhỏ vào cơn cuồng nộ của biển cả như vừa qua chính họ phải chịu đựng hay sao?

- Dù đi tới đâu, sự hủy diệt vẫn âm ỉ bám riết các người. Chỉ còn dành cho các người chút hy vọng mong manh trong niềm sám hối và một cuộc sống nhơ bẩn.

Nữ ác thần biến mất trong khoảng không. Những kẻ có tội bàng hoàng, kinh khiếp, chạy tán loạn. Prospéro thầm nhủ:
- Linh phù đang ra oai. Tất cả bọn họ đều nằm dưới quyền lực của ta.

Đoàn người trên tàu bị đưa đẩy đến một bến bờ khác, nơi tên Caliban ghớm ghiếc đang đốn củi, vừa hậm hực chửi bới và nguyền rủa chủ nhân mình. Vì Prospéro, tuy dạy tên súc sinh nói được, nhưng hắn chỉ biết nói toàn những lời mắng nhiếc và trù ẻo.

Một thủy thủ, gã Trinculo, thấy hắn trước tiên, nhạo báng hắn, chê hắn hôi mùi cá và chắc người ta sẽ vớ bở nếu mang hắn triển lãm ở hội chợ. Stéphano, một thủy thủ khác, cho rằng hắn đội lốt rừng rú để làm họ hoảng vía chơi. Họ thuần dưỡng hắn rất nhanh, vì lúc đắm tàu họ cứu thoát được một thùng rượu vang Cérès, giờ đây, họ trút cả chai vào miệng Caliban, vừa thích thú bảo cho Caliban biết rằng theo họ, đó là thứ tuyệt nhất trần gian.

- Mấy người này đẹp đẽ quá! – Caliban làu bàu- Rượu của họ tuyệt diệu. Có phải họ từ trên trời rơi xuống không?

Rồi do cứ vòi mãi chai rượu thần, đầu óc khốn khổ của hắn ta bỗng chốc quay cuồng. Hắn quị xuống trước trước mặt các chủ nhân thứ nước uống kỳ diệu và trở thành nô lệ của họ:

- Ôi con người kỳ diệu! Tôi sẽ chỉ cho ngài dòng suối mát trong, tôi sẽ hái quả ngọt, sẽ câu cá cho ngài. Để tôi đưa ngài đến nơi có những quả táo hoang, tôi sẽ dùng móng tay nắm lên, tôi sẽ chỉ ngài tổ chim cà cưỡng và cách bẫy sóc ra sao.
Rồi Caliban say khướt, lôi hai người bạn mới, vừa đi ngất ngưỡng, vừa ngêu ngao:

Tớ chẳng thèm làm lờ bắt cá
Tớ chẳng thèm gom củi đốt lửa
Tớ chẳng thèm cọ rửa chén bát
Tớ chẳng thèm lau dĩa nữa
Ban! Ban! Caliban!
Tự do! Thịnh vượng! Tự do! Tự do!

Tên cục súc không thấy rằng, khi ngỡ đã thoát khỏi cái ách nhân hậu của Prospéro, hắn lại dâng mình cho vị chủ mới bạo ngược, đần độn và dốt nát. Hai gã thủy thủ hỏi dò Caliban:

- Nếu trên đảo chỉ có Prospéro và con gái, thì cả ba chúng ta có thể dễ dàng khống chế được ngay.

Caliban thấy như mình đã vượt khỏi quyền lực của Prospéro, kẻ chiếm đoạt gia sản của hắn, cái hòn đảo do Sycorax, mẹ hắn để lại.

- Khi nào lão ta ngủ, tôi sẽ bắt nộp các ngài –tên độc ác hí hởn nói- các ngài có thể đóng đinh vào đầu, hay đập vỡ sọ bằng gậy, mổ bụng bằng cọc nhọn, hay cắt cổ với dao bản. Không còn sách vở, lão cũng chỉ là thằng ngốc như tôi thôi, và lão sẽ chẳng còn điều khiển được âm binh nữa.

Caliban cũng quả quyết với Stéphano rằng hắn sẽ cưới nàng Miranda xinh đẹp, và sẽ làm chúa đảo. Ba gã say rượu hát vang:
Chế nhạo chúng! Canh giữ chúng!

Tư tưởng luôn tự do!

Nhưng một giọng nói từ trên không lặp lại điệp khúc đó, chính Ariel vừa khua chiếc trống con. Ba gã say, tâm hồn mê mẫn, mù quáng bước theo tiếng nhạc, băng qua bụi ngấy nhọn, khóm kim-tước chi gai góc và lùm kim-tước hoa sắc bén, họ rơi tõm xuống một cái ao bùn dơ đặc sệt, ngập tận cằm.

Hài lòng trước hạnh phúc của hai trẻ, Prospéro tặng họ một tiết mục nhạc hào hứng Cérès, Junon và iris (1) cùng đến ca hát chúc mừng họ.

Ferdinand ca ngợi đảo là một thiên đàng. Prospéro giải thích cho chàng biết cả buổi trình diễn ngoạn mục kia là do các hồn ma dựng nên, và những ảo ảnh êm đềm ấy rồi sẽ tan biến đi, không để lại dấu vết:

- Chúng ta được tạo ra cùng một thứ với chiêm bao, và cuộc sống phù du của chúng ta khác nào một giấc mơ.

Qua tin tức Ariel mang về, Prospéro thấy khó mà tìm ra một điểm tốt nào nơi Caliban, đó là một quái vật mà sự giáo dục đã tỏ ra vô hiệu. Các hồn ma biến thành chó săn. Ariel buông dây, thế là Caliban bỏ chạy, Stéphano chạy vắt giò lên cổ. Trinculo phi như ngựa, bị bầy quỉ rượt theo.

Từ nay, Prospéro là chủ đảo, không còn chối cãi vào đâu được, và giây phút chiến thắng cũng đã gần kề. Ariel giam giữ đức vua, công tước và đám tùy tùng trong khu vườn chanh huyền bí, khiến họ không thể nào thoát ra được, và tuyệt vọng, họ òa lên khóc.

- Nếu thấy họ, ngài hẳn sẽ rũ lòng thương hại, gã nói với Prospéro.

- Ngươi tin thế à?

- Nếu tôi là người, tôi sẽ tội nghiệp cho họ lắm.

- Ta cũng xót thương cho họ như vậy – nhà bác học Prospéro ôn tồn đáp- Lòng khoan dung bao giờ cũng cao cả hơn sự báo thù. Bởi họ đã khóc than và hối hận, ta đã đạt được mục đích. Hãy trả tự do cho họ, Ariel! Ta thu hồi bùa phép. Hãy để họ hoàn hồn lại.

Prospéro, còn lại một mình, chào giã biệt hòn đảo và từ bỏ mọi ma thuật:

- Thiên tinh của các giòng suối, của những ngọn đồi, của những ao hồ yên tĩnh và lùm cây xanh tươi! Bước chân thoáng nhẹ của các người không in vết trên cát, các ngươi hãy theo thần Neptune(2) khi ngài rút xuống và bỏ chạy khi ngài tràn lên, và các ngươi, bọn quỷ yêu, vẽ trên cỏ từng vòng tròn huyền diệu; dưới trăng khuya, các ngươi tiêu khiển bằng cách nửa đêm cho nấm dưới đất mọc lên, để các tiên nữ ngồi lên mà quây quần tụ hội. Các ngươi thức dậy trong giờ giới nghiêm. Các ngươi đã giúp ta làm mặt trời tối lại giữa trưa, nổi phong ba và dâng trào sóng bể, khiến sấm sét vang rền và nhổ bật rễ nào thông, nào bách hương, các ngươi hãy chứng giám cho ta! Ta nguyện từ bỏ yêu pháp. Theo tiếng nhạc lả lướt của các ngươi, ta bẻ gẫy chiếc đũa thần. Ta chôn vùi nó dưới đất đen, và ta sẽ dìm tất cả sách vở xuống tận đáy biển sâu!

Tất cả những nạn nhân đắm tàu đều tụ hội đông đủ, theo sự hướng dẫn của Ariel. Prospéro cởi chiếc áo dài phù thủy ra, mặc áo ngắn vào, đội mũ lên, đeo gươm lại “như thuở nào ở Milan”, Ariel vừa giúp ngài vừa rầm rĩ bài hát:

Ong hút mật nơi nào, ta hút nơi ấy
Ta ngủ giữa lòng cây anh thảo
Ta ẩn náu khi chim cú cất tiếng kêu ai oán
Ta cởi trên lưng dơi
Mùa hè trôi qua vui vẻ
Vui thay, vui thay, từ đây ta sống giữa đóa hoa đong đưa dưới cuống

Sững sờ, họ ngại ngùgn chưa nhận ta Prospéro. Lão Gonzalo tốt bụng, là người đầu tiên trấn tĩnh, há chẳng phải nhờ lão mà Prospéro được bảo toàn tính mạng đó sao? Công tước Antonio và đức vua Naples ăn năn hối lỗi, tha thiết thỉnh cầu được dung thứ, ngài Prospéro quảng đại bèn hoan hỉ chấp nhận ngay. Đoạn ngài mở hé vách ngăn hang động, mọi người trông thấy đôi trai gái Ferdinand và Miranda đang bình thản chơi cờ.

Hãy hình dung niềm vui của hai cha con khi gặp lại nhau. Phần Miranda, nàng bàng hoàng trước một thế giới chưa hề quen biết, có những con người cũng đẹp đẽ như kẻ vừa đến với nàng.

Đức vua Naples không quên tấm tắc khen nàng là một nhân vật siêu phàm, còn Ferdinand kiêu hãnh và vui sướng, trình diện với phụ vương người vợ tương lai, ái nữ của nhà bác học Prospéro.

- Ôi chẳng có nguồn vui nào sánh nổi – lão Gonzalo la to - Chúng ta đều gặp lại nhau cả, trong khi tất cả chúng ta ngỡ đã cùng đường, nghẽn lối.

Chỉ có hai gã thủy thủ say rượu và tên cục súc Caliban là không mấy vui. Hắn sợ bị trừng phạt, hứa sẽ triệt để phục tùng, nên được ân xá.

Ariel đánh thức toàn bộ thủy thủ đoàn, sửa sang và trang bị lại con tàu bằng phép lạ, để sẵn sàng đưa mọi người về Naples, nơi sẽ tổ chức hôn lễ thật huy hoàng. Prospéro đảm bảo chuyến đi sẽ nhanh chóng, thuận buồm xuôi gió trên mặt biển yên tĩnh. Ngài giải thoát cho Ariel, để linh hồn gã được phiêu diêu nơi miền cực lạc.

- Từ đây – Prospéro nói- gỡ bỏ hết bùa linh, ta cũng trở nên yếu đuối như tất cả mọi người.

Chú thích
1) Cérès: nông thần
Junon: nữ thần, Jupiter
Iris, đ ược xem như là sứ giả của các vị thần, có nhiệm vụ đưa các linh hồn xuống hỏa ngục, chiếc khăn choàng bảy màu của nàng trùng hợp với bảy sắc cầu vồng
2) Neptune: hải thần
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách