Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tâm Lý - Xuất Bản] Giết Con Chim Nhại | Harper Lee (HOÀN)

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 4-2-2013 18:14:27 | Chỉ xem của tác giả
Chương 5
(tiếp theo)

“Bố Atticus không bao giờ làm bất cứ điều gì với Jem và cháu trong nhà mà ông không làm ngoài sân” tôi nói, cảm thấy nhiệm vụ là phải bênh vực bố mình.
“Cô bé ngoan, cô đang gỡ rối một sợi chỉ, thậm chí không hề nghĩ tới ba cháu nữa, nhưng bây giờ cô nói điều này: Atticus Finch ở trong nhà cũng giống như ông ấy ở nơi công cộng. Cháu có muốn mang ít bánh nướng về nhà không?”
Tôi thích quá đi chứ.
Sáng hôm sau khi thức dậy tôi thấy Dill và Jem đang ở sân sau say sưa nói chuyện. Khi tôi nhập bọn với chúng thì như thường lệ, chúng bảo tôi đi chỗ khác chơi.
“Không. Sân này đâu phải của riêng anh, Jem Finch. Em có quyền chơi ở đây cũng như anh vậy”.
Dill và Jem bàn bạc riêng một lát với nhau rồi quay sang tôi, “Nếu ở đây mày phải làm theo lời tụi tao” Dill cảnh báo.
“Ái chà,” tôi nói, “ai mà bất ngờ cao cấp và quyền hành dữ vậy ta?”
“Nếu mày không chịu làm theo lời tụi tao, tụi tao sẽ không cho mày biết bất cứ điều gì hết” Dill tiếp tục.
“Mày cứ làm như đêm rồi mày cao vọt lên cả tấc vậy! Được rồi, cái gì thế hả?”
Jem nói một cách bình thản, “Tụi tao sẽ gửi một lá thư cho Boo Radley”.
“Bằng cách nào?” Tôi cố dằn nỗi khiếp hãi tự động dâng lên trong tôi. Cô Maudie nói gì thì cũng không sao... cô đã già và yên lành ở hàng hiên nhà cô. Còn tụi tôi lại khác.
Jem chỉ đặt lá thư lên đầu cần câu và nhét nó qua chớp cửa sổ. Nếu có ai xuất hiện Dill sẽ rung chuông.
Dill giơ tay phải lên. Nó cầm cái chuông bạc báo hiệu giờ ăn của mẹ tôi.
“Tao sẽ đi vòng qua hông nhà” Jem nói. “Hôm qua tụi tao đứng bên kia đường nhìn sang thấy có một ô cửa bị long ra. Tao nghĩ ít ra tao có thể nhét nó vào bệ cửa sổ”.
“Jem...”
“Bây giờ mày đã dính vào chuyện này, mày không thể rút lui, mày sẽ phải tham gia, cô Priss!”
“Được rồi, được rồi, nhưng em không muốn canh chừng. Jem, có ai đó...”
“Mày sẽ phải canh chừng phía sau còn Dill canh chừng phía trước ngôi nhà và trên đường, nếu có ai đến nó sẽ rung chuông. Rõ chưa?”
“Vậy được rồi. Anh viết gì cho hắn vậy?”
Dill nói, “Tụi tao mời hắn hết sức lịch sự là thỉnh thoảng hãy ra ngoài và cho tụi mình biết hắn làm gì trong đó.. tụi tao nói tụi mình sẽ không làm hắn đau và sẽ mua cho hắn một cây kem”.
“Mấy người điên hết rồi, hắn sẽ giết tụi mình!”
Dill nói, “Đây là ý của tao. Tao nghĩ nếu bước ra và ngồi một lát với tụi mình có thể hắn sẽ cảm thấy dễ chịu hơn”.
“Sao mày biết hắn không cảm thấy dễ chịu?”
“Vậy mày cảm thấy thế nào nếu mày bị nhốt một trăm năm mà chẳng có gì để ăn ngoài mèo? Tao cá là râu hắn dài đến tận đây...”
“Giống râu ba mày hả?”
“Ba tao không có râu, ông ấy...” Dill nín bặt, như thể cố nhớ lại.
“Xì, xạo” tôi nói. “Mày nói trước khi xuống xe là ba mày có râu đen...”
“Nếu đúng như vậy thì hồi mùa hè ba tao cạo rồi! Ờ phải, tao còn một lá thư để chứng minh điều đó... ông cũng gửi cho tao hai đô nữa!”
“Tiếp đi... tao chắc là ổng còn gửi cho mày một bộ đồng phục cảnh sát kỵ binh nữa kìa! Và không bao giờ đến, đúng không? Mày cứ kể hoài những chuyện đó, đồ con...”
Dill Harris có thể bịa những chuyện lớn lao nhất mà tôi từng nghe. Chẳng hạn như, nó đã lên máy bay chở thư mười bảy lần, nó đã đến Nova Scotia, nó đã thấy một con voi và ông nội nó là thiếu tướng Joe Wheeler và để lại cho nó thanh gươm của ông.
“Tụi bây im hết coi” Jem nói. Anh mò dưới lớp ván sàn nhà và lấy ra một cây sào tre vàng. “Cái này có đủ dài để đứng trên vỉa hè thò vô không?”
“Bất cứ ai có đủ can đảm bước vô ngôi nhà đều không cần dùng một cây cần câu” tôi nói. “Sao anh không đến gõ ngay cửa trước?”
“Chuyện-này-khác,” Jem nói, “tao phải nói với mày câu này bao nhiêu lần?”
Dill rút một miếng giấy ra khỏi túi và đưa cho Jem. Ba đứa chúng tôi thận trọng đi về phía ngôi nhà cổ. Dill dừng lại ngay cột đèn ở góc phía trước ngôi nhà, còn Jem với tôi dè dặt đi theo vỉa hè song song với hông nhà. Tôi vượt qua Jem và đứng ở nơi có thể thấy chỗ rẽ.
“Vắng tanh” tôi nói. “Không thấy ai hết”.
Jem nhìn lên lề đường chỗ Dill, nó gật đầu.
Jem gắn lá thư vào đầu cần câu, thò nó ngang qua sân và đẩy về phía cửa sổ anh đã chọn. Cần câu thiếu vài phân nữa mới tới nơi, và Jem chồm tới trước hết sức mình. Tôi theo dõi anh làm những động tác thọc này hồi lâu, tôi bỏ vị trí đến chỗ anh.
“Không hất nó ra khỏi cần câu được,” anh lầm bầm, “còn nếu hất ra được thì không để nó vào đúng chỗ được. Quay ra đường đi, Scout”.
Tôi trở lại và nhìn quanh cung đường vắng ngắt. Thỉnh thoảng tôi nhìn về phía Jem, đang kiên nhẫn tìm cách đặt lá thứ lên bệ cửa sổ. Nó cứ rớt xuống đất và Jem cứ lo vít nó lên, cho đến khi tôi nghĩ nếu Boo Radley nhận được thì hắn cũng không thể đọc lá thư đó. Tôi đang nhìn dọc theo đường thì chuông rung lên.
Hãy chấp nhận, tôi lảo đảo quay sang, nghĩ rằng mình sẽ đối mặt với Boo Radley và những chiếc răng nanh dễ sợ của hắn; thay vào đó tôi thấy Dill đứng trước mặt bố Atticus và đang lắc chuông cật lực.
Jem trông có vẻ quá khốn khổ đến độ tôi không nỡ lòng nói với anh rằng tôi đã bảo anh trước rồi mà. Anh lê bước, kéo theo chiếc cần câu dài trên lề đường.
Bố Atticus nói, “Thôi lắc cái chuông đó đi”.
Dill nắm lấy con lắc của chuông, trong khoảng im lặng tiếp theo, tôi ước gì nó lại lắc chuông tiếp. Bố Atticus hất mũ về phía sau và đứng chống nạnh. “Jem,” ông nói, “tụi con đang làm gì vậy?”
“Không có gì, thưa bố”.
“Bố không muốn nghe câu trả lời đó nữa. Nói bố nghe”.
“Con chỉ... tụi con chỉ cố đưa một thứ cho ông Radley”.
“Tụi con cố đưa cho ông ta cái gì?”
“Chỉ một lá thư”.
“Đưa bố coi”.
Jem chìa ra một mẩu giấy bẩn thỉu. Bố Atticus cầm lấy và cố đọc. “Sao tụi con lại muốn ông Radley ra ngoài?”
Dill nói, “Tụi cháu nghĩ ông ấy sẽ thích tụi cháu..” và im bặt khi bố Atticus nhìn nó.
“Con trai,” ông nói với Jem, “bố nói với con một điều và chỉ nói một lần thôi: chấm dứt ngay trò quấy rầy ông ấy. Điều đó áp dụng với cả hai đứa”.
Những gì ông Radley làm là việc riêng của ông ta. Nếu ông ta muốn ra ngoài, ông ta sẽ ra. Nếu ông ta muốn ở trong nhà của ông ta thì ông ta có quyền ở lại trong đó để thoát khỏi sự chú ý của bọn trẻ tò mò, vốn đó là một thuật ngữ nhẹ nhàng dành cho những kẻ như chúng tôi. Chúng tôi sẽ nghĩ thế nào nếu bố Atticus xông vào mà không gõ cửa, khi chúng tôi ở trong phòng mình vào ban đêm? Chúng tôi, thực tế, đang làm chính điều như thế với ông Radley. Điều ông Radley làm có thể có vẻ kỳ quặc với chúng tôi, nhưng nó không kỳ quặc với ông ta. Hơn nữa, có phải chúng tôi chưa bao giờ có ý nghĩ rằng cung cách lịch thiệp để giao tiếp với người khác là qua cửa trước thay vì qua cửa sổ không? Cuối cùng, chúng tôi phải tránh xa ngôi nhà đó cho đến khi được mời vào, chúng tôi không được chơi một trò ngu ngốc nào mà ông đã thấy chúng tôi chơi hoặc chọc ghẹo bất cứ ai trên con phố này hoặc trong thị trấn này...
“Bọn con không chọc ghẹo ông ta, bọn con không cười nhạo ông ta,” Jem nói, “bọn con chỉ...”
“Vậy đó là chuyện con đang làm, phải không?”
“Chọc ghẹo ông ta hả?”
“Không,” bố Atticus nói, “phơi bày lịch sử đời ông ta cho cả khu phố này biết hết”.
Jem có vẻ hơi sưng lên. “Con không nói tụi con đang làm chuyện đó, con không nói vậy!”
Bố Atticus cười khan. “Con vừa nói với bố xong” ông nói. “Tụi con ngưng ngay trò nhảm nhí này lại, cả ba đứa”.
Jem há hốc nhìn ông.
“Con muốn trở thành một luật sư, đúng không?” Miệng bố tôi mím lại một cách đầy nghi ngờ, như thể ông đang cố giữ cho nó mím chặt.
Jem quyết định rằng có đôi co về chi tiết thì cũng chẳng ích gì, và im lặng. Khi bố Atticus vào trong nhà để tìm hồ sơ mà ông quên mang theo đến sở sáng nay, thì Jem mới nhận ra rằng anh đã bị hạ gục bằng cái mánh lới cổ xưa nhất từng được ghi nhận của giới luật sư. Anh đứng chờ ở một khoảng cách hợp lý tính từ bậc thềm, dõi theo bố Atticus rời khỏi nhà đi về phía thị trấn. Khi bố Atticus đi xa khỏi tầm nghe thấy, Jem mới gào lên sau lưng ông, “Con đã nghĩ muốn trở thành luật sư, nhưng bây giờ con không chắc nữa rồi!”
Chú thích:
[1] Trận Marne thứ nhì, hoặc trận Reims: trận đánh mang tính bước ngoặt trong Thế chiến thứ nhất, diễn ra từ thứ tháng Bảy đến tháng Tám năm 1918, trong đó Đức đại bại trước Đồng minh. Trận này cũng mở đầu một loạt chiến thắng khác của Đồng minh và dẫn đến kết thúc chiến tranh.
[2] Tín đồ Baptist (Tẩy lễ) sùng đạo đến mức cho rằng mọi thứ đều tội lỗi, nhất là những gì đem lại niềm vui.
[3] Nguyên văn: Closed communion: giáo xứ có chủ trương chỉ làm nghi thức thánh thể (rước lễ) cho những người trong giáo xứ, chứ không cho những tín hữu vãng lai.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 5-2-2013 08:00:55 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6

“Được” bố tôi nói khi Jem hỏi liệu chúng tôi có thể qua ngồi cạnh hồ cá của cô Rachel với Dill không, vì đây là đêm cuối cùng của nó ở Maycomb. “Tạm biệt cậu ta giùm bố luôn, chúng ta sẽ gặp lại cậu ta vào mùa hè sang năm”.
Chúng tôi nhảy qua bức tường thấp ngăn giữa sân của cô Rachel và đường lái xe của chúng tôi. Jem huýt sáo giọng chim đa đa và Dill trả lời trong bóng tối.
“Không một ngọn gió” Jem nói. “Nhìn đằng kia kìa”.
Anh chỉ về hướng Đông. Mặt trăng khổng lồ nhô lên phía sau rặng câu hồ đào của cô Maudie. “Nó khiến trời có vẻ nóng hơn” anh nói.
“Tối nay có hình thánh giá trên đó hả?” Dill hỏi, không nhìn lên. Nó đang làm một điếu thuốc từ tờ báo và một sợi dây.
“Không, chỉ có chị Hằng. Đừng đốt nó, Dill, mày sẽ làm hôi rình cả góc phố này đó”.
Có một phụ nữ trong mặt trăng ở Maycomb. Cô ta ngồi chải tóc trước chiếc gương trang điểm.
“Tụi tao sẽ nhớ mày đó, nhóc” tôi nói. “Chắc mình nên chờ xem ông Avery hả?”
Ông Avery ở thuê bên kia đường đối diện nhà bà Henry Lafayette Dubose. Ngoài việc làm thay đổi trong đĩa tiền quyên góp mỗi Chủ nhật, ông Avery còn ngồi ngoài hiên mỗi tối cho đến chín giờ và hắt hơi. Một tối nọ chúng tôi được ông cho hưởng đặc ân chứng kiến một màn trình diễn có vẻ như là lần cuối cùng của ông, vì chúng tôi đã chờ xem biết bao lâu mà ông không hề làm như vậy lần nữa. Một đêm nọ khi tôi và Jem rời hàng hiên nhà cô Rachel thì Dill ngăn tụi tôi lại, “Này, nhìn đằng kia xem”. Nó chỉ sang bên kia đường. Thoạt tiên chúng tôi chẳng thấy gì ngoài giàn nho phủ hiên trước, nhưng nhìn kỹ thì thấy một tia nước cong vòng từ trên đám lá, chúng tôi ước chừng nó cách mặt đất khoảng ba mét, đổ xuống và văng tung tóe trong vòng tròn vàng kệch của ngọn đèn đường. Jem nói ông Avery tính toán sai. Dill nói ông ta phải uống khoảng hơn bốn lít một ngày, và cuộc thi đua kế tiếp sau đó để xác định khoảng cách tương đối và tài năng của mỗi đứa lại làm tôi cảm thấy bị ra rìa, vì tôi không có khiếu trong lĩnh vực này.
Dill vươn vai, ngáp, và nói hết sức thản nhiên. “Tao biết chuyện gì tôi, tụi mình đi dạo một lát đi”.
Tôi nghe giọng nó đáng ngờ. Không ai ở Maycomb này đi dạo khơi khơi cả. “Đi đâu vậy, Dill?”
Dill hất đầu về hướng Nam.
Jem nói, “OK”. Khi tôi phản đối, anh nói ngọt ngào, “Mày không cần phải đi theo, Angel May”.
“Mày không phải đi. Nên nhớ...”
Jem không phải là người nghĩ mãi tới những thất bại đã qua: có vẻ thông điệp duy nhất anh nhận được từ bố Atticus là sự hiểu thấu nghệ thuật kiểm tra chéo. “Scout, tụi tao không tính làm gì cả, chỉ đi đến chỗ đèn đường rồi quay lại thôi”.
Chúng tôi lặng lẽ đi dọc vỉa hè, lắng nghe tiếng ghế xích đu ở hàng hiên kẽo kẹt dưới sức nặng của người hàng xóm, lắng nghe tiếng thì thào nho nhỏ của người lớn trong khu phố chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng cô Stephanie Crawford cười lớn.
“Sao?” Dill nói.
“Được” Jem đáp. “Sao mày không về nhà đi, Scout?”
Đơn giản là Dill và Jem sẽ nhìn trộm qua ô cửa sổ bị long thanh chớp để xem chúng có thể thấy Boo Radley không, và nếu tôi không muốn đi với chúng, tôi có thể về thẳng nhà và giữ im cái miệng bép xép, vậy thôi.
“Nhưng làm cái quái gì mà mấy ông đợi tối nay vậy?”
Bởi vì không ai thấy chúng vào ban đêm, bởi vì bố Atticus sẽ đắm mình vào cuốn sách đến nỗi không nghe thấy nước Chúa trị đến, bởi vì nếu Boo Radley có giết chúng thì chúng chỉ lỡ mất năm học thay vì mất kỳ nghỉ hè, và bởi vì đứng trong bóng tối thì dễ thấy bên trong một ngôi nhà hơn giữa ban ngày, tôi hiểu không?
“Jem, làm ơn...
“Scout, tao nói với mày lần cuối, im mồm hoặc cút về nhà.. tao nói có Chúa chứng giám là mày ngày càng giống một đứa con gái”.
Nghe câu đó, tôi không có chọn lựa nào khác ngoài việc theo họ. Chúng tôi nghĩ tốt nhất là chui dưới hàng rào dây kẽm cao ở phía sau khu đất nhà Radley, chúng tôi ít có nguy cơ bị nhìn thấy hơn. Hàng rào bao bọc một mảnh vườn lớn và một nhà vệ sinh nhỏ bằng gỗ.
Jem kéo sợi dây hàng rào kẽm thấp nhất lên và Dill chui qua. Tôi theo sau, nâng hào rào cho Jem. Khoảng trống quá nhỏ đối với Jem. “Đừng gây tiếng động” anh thì thào. “Có làm gì đi nữa thù đừng bước vào luống cải, chúng đánh thức được cả người chết [1]”.
Ghi nhớ điều đó, nên tôi có lẽ phải mất một phút mới đi được một bước. Tôi di chuyển nhanh hơn khi thấy Jem tuốt đằng trước vẫy tay ra hiệu dưới ánh trăng. Chúng tôi tới cái cổng ngăn cách khu vườn với sân sau. Jem chạm vào nó. Cánh cổng kêu ken két.
“Nhổ nước bọt vào đó” Dill thì thầm.
“Anh đưa cả lũ vô chỗ bí, Jem” tôi lầm bầm. “Mình không dễ gì rời khỏi chỗ này đâu”.
“Suỵt, nhổ nước bọt vào đó đi, Scout”.
Chúng tôi phun đến khô miệng, và Jem mở cổng từ từ, nhấc nó qua một bên và để dựa vào hàng rào. Chúng tôi đã ở trong sân sau.
Phía sau nhà Radley không dễ coi bằng phía trước: một hàng hiên đổ nát chạy suốt chiều dài ngôi nhà; có hai cửa cái và hai cửa sổ xen kẽ với cửa cái. Thay vì có một trụ lớn, thì chỉ có một cây cột vuông chống một đầu mái nhà. Một cái lò Franklin cũ [2] nằm ở góc hàng hiên; bên trên nó là một tấm gương kèm giá treo mũ phản chiếu ánh trăng và sáng lên một vẻ kỳ bí.
“Aaa” Jem thì thào, nhấc chân cao lên.
“Gì vậy?”
“Lũ gà con” anh thở ra.
Việc chúng tôi buộc phải né tránh những thứ không thấy được từ mọi phía được khẳng định khi Dill dẫn đầu chúng tôi thì thào đánh vần chữ C-h-ú-a. Chúng tôi bò đến hông nhà, vòng tới ô cửa chớp bị long. Bệ cửa cao hơn Jem đến mấy tấc.
“Làm kiệu cho mày lên nghe” Jem thì thào với Dill. “Đợi đã”. Jem nắm lấy cổ tay trái của anh ấy và cổ tay phải của tôi, còn tôi nắm lấy cổ tay trái của tôi và cổ tay phải của Jem, chúng tôi ngồi thấp xuống và Dill ngồi lên cái kiệu của tụi tôi. Bọn tôi nâng nó lên và nó bám vào được bệ cửa sổ.
“Lẹ lên,” Jem thì thào, “tụi tao không chịu được lâu đâu”.
Dill đám vai tôi và tụi tôi hạ nó xuống đất.
“Mày thấy cái gì?”
“Chẳng thấy gì. Mấy tấm màn. Dù sao cũng có ánh đè le lói đâu đó”.
“Rút khỏi chỗ này đi” Jem thơ ra. “Mình vòng lại ra phía sau. Suỵt”. Anh cảnh báo tôi, khi tôi định phản đối.
“Thử dòm ra cửa sổ phía sau đi”.
“Dill, không” tôi nói.
Dill dừng lại và để Jem đi trước. Khi Jem đặt chân lên bậc cấp cuối cùng, nó kêu cót két. Jem đứng im, rồi thử trọng lượng của anh từng chút một. Bậc cấp im lặng, Jem bỏ hai bậc, đặt chân lên hàng hiên rồi thót cả người lên, và lảo đảo một hồi lâu. Anh lấy lại thăng bằng và quỳ xuống. Anh bò tới cửa sổ, ngỏng đầu lên, nhìn vào.
Rồi tôi thấy một cái bóng. Nó là bóng một người đàn ông đội mũ. Mới đầu tôi tưởng đó là cái cây, nhưng không có gió thổi, và thân cây không bao giờ đi. Hàng hiên sau nhà ngập tràn ánh trăng, và cái bóng, cứng còng, băng qua hàng hiên tiến về phía Jem.
Dill thấy cái bóng sau tôi. Nó đưa hai tay che mặt.
Khi cái bóng lướt ngang qua Jem, Jem cũng trông thấy. Anh vòng tay ôm đầu và đứng im.
Cái bóng dừng lại cách Jem vài tấc. Cánh tay nó từ hông giơ lên, rồi buông xuống, và đứng im. Rồi nó xoay người lại, đi qua chỗ Jem, đi dọc theo hàng hiên và biến mất bên hông nhà, trở lại như nó đã đến.
Jem phóng khỏi hàng hiên và chạy về phía tụi tôi. Anh giật mở cánh cổng, lôi Dill và tôi qua, và xua chúng tôi xuống hai luống cải. Chạy được nửa đường, tôi vấp té; khi tôi vấp, tiếng gầm của khẩu súng săn ầm vang cả khu phố.
Dill và Jem kè bên tôi, Jem thở hổn hển không ra hơi, “Hàng rào mé sân trường!... Lẹ lên, Scout!”
Jem kéo sợi dây kẽm lên, tôi và Dill chui qua và khi đã chạy được nửa đường đến chỗ cây sồi lẻ loi giữa sân trường chúng tôi mới nhận ra Jem không theo chúng tôi. Bọn tôi chạy trở lại và thấy anh đang lăn lộn ở hàng rào, đã tuột cái quần dài ra để thoát thân. Anh chạy tới cây sồi trong chiếc quần soóc.
An toàn sau thân cây, chúng tôi chết lặng nhưng đầu óc Jem đang hoạt động, “Mình phải về nhà, mọi người sẽ nhận ra mình vắng mặt”.
Chúng tôi chạy băng qua sân trường, bò dưới hàng rào vào Bãi Hoẵng sau nhà chúng tôi, leo qua hàng rào sau nhà và tới được bậc tam cấp cửa sau thì Jem mới cho tụi tôi dừng lại nghỉ.
Khi thở được bình thường, ba chúng tôi cố ra vẻ tà tà đi ra sân trước. Bọn tôi nhìn ra đường và thấy một nhóm người hàng xóm tụ tập ngay trước cổng nhà Radley.
“Mình tới đó đi” Jem nói. “Họ sẽ thấy kỳ lạ nếu tụi mình không xuất hiện”.
Ông Nathan Radley đang đứng bên trong cổng nhà ông, tay ôm khẩu súng săn đã gãy. Bố Atticus đứng ngay cạnh cô Maudie và Stephanie Crawford. Cô Rachel và ông Avery đứng kế bên. Không ai trong số họ thấy bọn tôi đến.
Chúng tôi chen vào cạnh cô Maudie, lúc đó đang nhìn quanh. “Mấy đứa ở đâu vậy, bộ không nghe thấy vụ lộn xộn này hả?”
“Có chuyện gì vậy?” Jem hỏi.
“Ông Radlay bắn một tên da đen trong vườn rau nhà ông”.
“Ồ. Có bắn trúng không?”
“Không” cô Stephanie nói. “Bắn chỉ thiên. Dù sao cũng làm hắn sợ xanh mặt. Nói nếu ai thấy một tên đen nhưng da lại trắng quanh đây, thì chính là người đó. Nói ông ta có cái nòng súng khác cho tiếng động kế tiếp ông ta nghe được trong vườn rau, và lần kế ông ta sẽ không nhắm cao nữa đâu, dù có là con chó, tay da đen, hay... Jem Finch!”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 5-2-2013 08:02:44 | Chỉ xem của tác giả
Chương 6
(tiếp theo)

“Sao cô?” Jem hỏi.
Bố Atticus hỏi, “Quần dài của con đâu, con trai?”
“Quần dài hả, bố?”
“Quần dài”.
Vô phương cứu vãn. Anh chỉ mặc quần soóc trước mặt Chúa và mọi người. Tôi thở dài.
“A... ông Finch?”
Trong ánh sáng chói của ngọn đèn đường, tôi có thể thấy Dill đang có một âm mưu: mắt nó mở to, khuôn mặt bầu bĩnh của nó tròn hơn.
“Gì đó Dill?” Bố Atticus hỏi.
“A... cháu thắng được quần của nó” nó nói mơ hồ.
“Thắng được quần của nó? Cách nào”
Dill sờ gáy, rồi đưa tay ngang trán. “Tụi cháu chơi đánh phé cởi đồ đằng kia cạnh hồ cá” nó nói.
Jem và tôi nhẹ nhõm. Những người hàng xóm có vẻ hài lòng: tất cả họ cứng đờ người lại. Nhưng đánh phé cởi đồ là gì?
Chúng tôi không có cơ hội để khám phá: cô Rachel rú lên như cái còi báo cháy của trị trấn, “C-h-ú-a ơ-i, Dill Harris! Đánh bài ngay hồ cá của cô? Cô sẽ đánh phé cởi đồ cháu đây, ông nhóc ạ!”
Bố Atticus cứu Dill khỏi tội phân thây tức thì. “Khoan đã, cô Rachel” ông nói. “Trước đây tôi chưa từng nghe nói bọn trẻ chơi trò này. Cả bọn chơi bài lá hả?”
Jem bắt gọn quả bóng Dill đập qua với đôi mắt nhắm nghiền [3], “Không, thưa bố, chỉ bằng mấy que diêm”.
Tôi phục ông anh mình. Những que diêm thì nguy hiểm, nhưng những lá bài là tai họa.
“Jem, Scout,” bố Atticus nói, “bố không muốn nghe vụ bài bạc dưới bất cứ hình thức nào nữa, nghe chưa. Đi với Dill và lấy quần lại, Jem. Con tự giải quyết”.
“Đừng lo, Dill,” Jem nói, khi chúng tôi đi trên vỉa hè, “cô ấy sẽ không phạt mày đâu. Bố tao sẽ thuyết phục cô về chuyện này. Đó là nhanh trí đó, ông tướng. Im nào... tụi bây có nghe không?”
Chúng tôi dừng lại, và nghe giọng bố Atticus, “... không nghiêm trọng... tất cả chúng đều trải qua, cô Rachel...”
Dill nhẹ nhõm, nhưng Jem với tôi thì không. Đó là vấn đề Jem bày ra cái quần nào đó vào buổi sáng.
“Để tao đưa mày quần của tao” Dill nói, khi chúng tôi tới bậc thềm nhà cô Rachel. Jem nói anh mặc nó không vừa, nhưng dù sao cũng cám ơn. Chúng tôi tạm biệt nhau, và Dill đi vào nhà. Rõ ràng nó nhớ ra nó đã đính hôn với tôi, vì vậy nó quay trở ra và hôn tôi thật nhanh trước mặt Jem. “Nhớ viết thư, nghe không?” Nó gào lên sau lưng chúng tôi.
Nếu cái quần của Jem có nằm an toàn trên người Jem, thì chúng tôi hẳn cũng không ngủ được nhiều. Mỗi âm thanh đêm tôi nghe từ chiếc giường của tôi ở hiên sau nhà đều được phóng đại gấp ba lần; mỗi tiếng chân bước trên sỏi là Boo Radley đang tìm cách trả thù, mỗi người da đen đi ngang qua cười nói ầm ĩ trong đêm là Boo Radley đang lang thang truy tìm chúng tôi; những côn trùng đâm bổ vào cửa lưới là những ngón tay điên rồ của Boo Radley đang ngắt sợi kẽm thành từng mẩu; những cây xoan hiểm ác, chờn vờn, sống động. Tôi chập chờn giữa ngủ và thức cho đến khi nghe Jem lầm bầm.
“Ngủ chưa, Ba Mắt nhỏ?”
“Anh khùng hả?”
“Suỵt. Đèn của bố Atticus tắt rồi”.
Trong ánh trăng tàn tôi thấy Jem búng chân xuống đất.
“Tao đi lấy lại nó” anh nói.
Tôi ngồi bật dậy. “Không được. Em không để anh đi đâu”.
Anh mặc áo vào. “Tao phải lấy nó về”.
“Nếu anh đi em sẽ kêu bố Atticus dậy”.
“Mày làm vậy là tao giết mày”.
Tôi kéo anh xuống cạnh tôi trên giường. Tôi cố thuyết phục anh. “Ông Nathan sẽ tìm thấy nó sáng mai, Jem. Ông ta biết anh làm mất nó. Khi ông ta đưa nó cho bố Atticus thì tình hình sẽ khá tệ hại, nhưng chỉ vậy thôi. Thôi đi ngủ đi”.
“Tao cũng biết vậy” Jem nói. “Thế nên tao mới phải đi lấy nó về”.
Tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu. Một mình anh quay lại chỗ đó... tôi nhớ cô Stephannie nói: ông Nathan có một nòng súng khác cho tiếng động kế tiếp ông ta nghe được, dù đó là con chó, tay da đen... Jem biết điều đó rõ hơn tôi.
Tôi tuyệt vọng, “Nghe nè, nó không đáng, Jem à. Một cú đánh thì đau nhưng không kéo dài. Anh sẽ bị bắn nát đầu, Jem. Làm ơn...”
Anh thở ra một cách kiên nhẫn. “Tao... nó giống như vậy nè, Scout” anh lầm bầm. “Từ khi tao có trí khôn tới giờ bố Atticus chưa từng đánh đòn tao. Tao muốn giữ điều đó”.
Đây là một ý tưởng. Có vẻ như bố Atticus dọa nạt chúng tôi mỗi ngày. “Ý anh muốn nói rằng bố Atticus chưa từng bắt quả tang anh bất cứ chuyện gì”.
“Có lẽ thế, nhưng... tao chỉ muốn giữ nó như vậy hoài, Scout. Lẽ ra tối nay mình không nên làm chuyện đó, Scout”.
Đến lúc đó, tôi cho rằng tôi và Jem bắt đầu rạn nứt. Đôi khi tôi không hiểu anh ấy, nhưng những thời kỳ hoang mang của tôi khá ngắn ngủi. Điều này quá tầm của tôi. “Làm ơn,” tôi van nài, “anh không thể nghĩ về nó chỉ trong một phút sao... một mình anh ở đó...”
“Im mồm!”
“Nó không giống chuyện bố không bao giờ nói với anh nữa hoặc một điều gì đó... em sẽ kêu bố dậy, Jem, em thề là em...”
Jem nắm lấy cổ áo ngủ của tôi vặn chặt. “Vậy em sẽ đi với anh...” Tôi nghẹt thở.
“Không mày không được đi. Mày sẽ chỉ làm ồn”.
Thật toi công. Tôi mở chốt cửa sau và giữ nó trong khi anh bò xuống các bậc thềm. Lúc đó hẳn đã hai giờ. Trăng sắp lặn và những hàng rào mắt cáo mờ dần. Chiếc áo sơ mi trắng của Jem nhấp nhô giống như một con ma nhỏ nhảy trốn buổi sáng đang đến. Một cơn gió nhẹ thổi qua làm lạnh mồ hôi đang chảy hai bên mặt tôi.
Anh đi ngõ sau, qua bãi Hoẵng, băng qua sân trường và vòng tới hàng rào, tôi nghĩ vậy... ít ra đó là lộ trình anh đang nhắm theo. Đường đi đó sẽ mất nhiều giờ hơn, vì vậy chưa đến lúc phải lo. Tôi chờ cho đến lúc phải lo và chờ nghe tiếng súng của ông Radley. Rồi tôi nghĩ mình nghe hàng rào sau kêu cót két. Đó chỉ là mơ tưởng.
Rồi tôi nghe bố Atticus ho. Tôi nín thở. Đôi khi nửa đêm đến phòng tắm chúng tôi thường thấy ông đang đọc sách. Bố nói ông thường thức giấc lúc nửa đêm, kiểm tra tụi tôi, rồi đọc sách lại để ngủ. Tôi chờ đèn của bố bật lên, căng mắt nhìn ánh sáng tràn ngập căn phòng. Đèn vẫn tắt, và tôi thở phào.
Những con giun đã về nghỉ, nhưng những quả xoan chín vẫn gõ trên mái nhà khi gió thoảng qua, và bóng tối thảm não với tiếng chó sủa xa xa.
Anh ấy kia rồi, đang trở lại với tôi. Tấm áo trắng của anh thấp thoáng bên hàng rào sau nhà và rõ dần hơn. Anh bước lên những thềm sau nhà, đóng chốt cửa sau lưng lại và ngồi xuống giường của mình. Không nói lời nào, anh giơ cái quần lên. Anh nằm xuống, và trong một lát tôi nghe giường anh rung lên. Rồi anh nằm im, tôi không nghe anh ngọ nguậy nữa.
Chú thích:
[1] Đây là loại cải bẹ xanh (collard), lá rộng và dài mọc lòa xòa ra hai bên, nên rất khó đi giữa hai liếp cải mà không gây loạt xoạt.
[2] Lò sưởi bằng sắt do Benjamin Franklin sáng chế.
[3] Ý nói hai đứa tung hứng rất khớp.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 5-2-2013 10:55:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7

Jem ủ rũ và im lặng suốt một tuần. Như bố Atticus đã có lần khuyên tôi làm, tôi thử đặt mình vào vị trí Jem và ứng xử như anh ấy xem sao: nếu tôi đi một mình đến nhà Radley lúc hai giờ sáng, đám tang của tôi hẳn đã được tổ chức vào chiều hôm sau. Vì vậy tôi để Jem một mình và cố không quấy rầy anh.
Năm học bắt đầu. Lớp hai cũng tồi tệ như lớp một, thậm chí tệ hơn-họ vẫn chìa tấm thẻ vào mặt bạn và không cho bạn đọc hay viết. Sự tiến bộ của cô Caroline ở lớp kế bên có thể được ước tính bằng tần số tiếng cười; tuy nhiên, cái nhóm như thường lệ không qua được lớp một vẫn ở nguyên đó, và chúng có công lớn trong việc giữ trật tự. Điều lý thú duy nhất của lớp hai là năm nay tôi phải ở lại muộn bằng Jem, và anh em tôi thường cùng về nhà lúc ba giờ.
Một buổi chiều khi chúng tôi băng qua sân trường về phía nhà, bất ngờ Jem nói, “Có một điều tao chưa nói với mày”.
Vì đây là câu chuyện trọn vẹn đầu tiên của anh sau nhiều ngày, nên tôi khuyến khích anh, “Về chuyện gì?”
“Về đêm đó”.
“Anh không hề nói với em bất cứ chuyện gì về đêm đó” tôi nói.
Jem xua những lời của tôi như quạt mấy con ruồi nhuế. Anh im lặng một lát, rồi nói, “Khi trở lại để lấy cái quần... nó rối nùi từ khi tao tuột nó ra, tao không gỡ nó ra được. Khi tao quay lại...” Jem hít một hơi sâu. “Khi tao quay lại, nó được xếp vắt ngang qua hàng rào... giống như nó đang chờ tao vậy”.
“Ngang...”
“Và còn chuyện nữa...” Giọng Jem chùng xuống. “Về nhà tao cho mày xem. Nó đã được khâu lại. Không giống một phụ nữ khâu, mà giống kiểu tao ráng làm. Nhăn nhúm hết trơn. Hầu như giống...”
“... ai đó biết anh sẽ quay lại kiếm nó”.
Jem rùng mình. “Giống như ai đó đọc được ý nghĩ của tao... giống như ai đó có thể biết tao sắp làm gì. Không ai có thể biết tao sắp làm gì trừ khi họ biết tao, đúng không, Scout?”
Câu hỏi của Jem là một lời khẩn cầu, tôi trấn an anh, “Không ai có thể biết anh sắp làm gì trừ khi họ sống trong nhà này với anh, còn em thậm chí còn không biết nữa kia”.
Chúng tôi đi ngang cái cây của mình. Trong lỗ hốc của nó có một cuộn dây xám.
“Đừng lấy nó, Jem” tôi nói. “Đây là chỗ giấu của ai đó”.
“Tao không nghĩ thế, Scout”.
“Phải mà. Ai đó như Walter Cunningham đến đây vào mỗi giờ nghỉ và giấu các thứ của nó... và tụi mình đi ngang rồi lấy của nó. Nghe nè, cứ để nó ở đó vài ngày. Nếu nó còn đó, mình sẽ lấy, đồng ý không?”
“Đồng ý, có thể mày đúng” Jem nói. “Chắc nó là chỗ của thằng nhóc nào đó... giấu những thứ của nó khỏi bọn lớn hơn. Mày biết là chỉ khi đi học mình mới thấy mấy thứ đó”.
“Phải,” tôi nói, “nhưng tụi mình đâu có đi ngang đây trong lúc nghỉ hè”.
Chúng tôi về nhà. Sáng hôm sau cuộn dây vẫn còn ở nơi chúng tôi để nó lại. Khi nó vẫn ở đó vào ngày thứ ba, Jem bèn bỏ nó vào túi. Từ đó trở đi chúng tôi xem mọi thứ tìm thấy trong lỗ hốc đó là tài sản của chúng tôi.
Lớp hai thật chán, nhưng Jem cam đoan rằng tôi càng lớn trường học càng tốt hơn, rằng mới đầu anh cũng vậy, và mãi đến lớp sáu người ta mới học được điều đáng giá. Lớp sáu có vẻ khiến anh vui từ đầu: anh học qua Thời kỳ Ai Cập mà tôi thấy khó hiểu... anh cố đi thẳng đơ người, giơ một tay tới trước và một tay ra sau, để bàn chân này sau bàn chân kia. Anh tuyên bố người Ai Cập đi theo kiểu đó; tôi nói nếu họ đi như vậy, tôi không biết làm thế nào họ hoàn thành công việc được, nhưng Jem nói họ đạt thành quả hơn người Mỹ nhiều, họ đã chế ra giấy vệ sinh và thuật ướp xác vĩnh viễn, và hỏi ngày nay chúng ta sẽ ở đâu nếu họ không nghĩ ra những thứ ấy? Bố Atticus bảo tôi bỏ bớt những tính từ và tôi sẽ có các sự kiện [1].
Ở Nam Alabama các mùa không được xác định rõ ràng; mùa hè lan sang mùa thu, và mùa thu đôi khi không có mùa đông nối theo sau, mà chuyển sang một mùa xuân ngắn ngủi rồi tan lại vào mùa hè. Mùa thu năm đó là một mùa thu dài, hầu như không lạnh đến mức cần tới một chiếc áo khoác mỏng. Jem và tôi đang đi theo quỹ đạo của chúng tôi vào một chiều tháng Mười dịu mát thì cái hốc cây khiến chúng tôi dừng lại. Lần này có cái gì trăng trắng trong đó.
Jem dành cho tôi đặc ân: tôi lôi ra hai hình nhân nhỏ được tạc bằng miếng xà bông. Một cái tạc hình đứa con trai, hình kia mặc chiếc đầm thô.
Trước khi tôi nhớ ra rằng không có thứ bùa ếm nào như vậy, tôi đã hét lên và ném chúng xuống.
Jem lượm chúng lên. “Có chuyện gì với mày vậy?” Anh gào lên. Anh chùi sạch bụi đỏ bám trên chúng. “Mấy cái này hên lắm” anh nói. “Tao chưa từng thấy thứ đẹp như vậy”.
Anh thả chúng xuống tay tôi. Chúng gần như là hình ảnh thu nhỏ hoàn hảo về hai đứa trẻ. Đứa con trai mặc quần soóc, và một lọn tóc bù xù xõa xuống chân mày nó. Tôi nhìn lên Jem. Một lọn tóc nâu thẳng rũ xuống từ đường ngôi. Trước đây tôi chưa từng nhận ra điểm này.
Jem nhìn từ búp bê gái sang tôi. Búp bê có tóc che kín nửa trán. Tôi cũng vậy.
“Nhưng hình này là tụi mình” anh nói.
“Theo anh ai làm chúng?”
“Ai ở quanh đây biết đẽo gọt mà tụi mình biết?” Anh ấy hỏi.
“Ông Avery”.
“Ông Avery chỉ làm giống vậy. Ý tao nói chạm khắc”.
Ông Avery làm trung bình một thanh củi một tuần; ông gọt đến lúc nó nhỏ lại còn bằng cây tăm rồi nhai nó.
“Đó là người yêu của cô Stephanie Crawford” tôi nói.
“Ông ta khắc được, nhưng ông sống ở vùng nông thôn. Ông ta chú ý đến tụi mình hồi nào vậy?”
“Có lẽ ông ngồi ở hàng hiên và nhìn tụi mình thay vì cô Stephanie. Nếu em là ông ta, em sẽ làm vậy”.
Jem nhìn tôi rất lâu đến độ tôi hỏi có chuyện gì vậy, nhưng chỉ nhận được câu trả lời Không Có Gì, Scout à. Khi về tới nhà, Jem cất hai con búp bê vào rương của anh.
Chưa đầy hai tuần sau, chúng tôi nhận được nguyên một gói kẹo cao su, mà chúng tôi cứ thế tận hưởng, lời đồn rằng mọi thứ ở khu nhà Radley đều là thuốc độc đã trôi khỏi ký ức của Jem.
Tuần kế tiếp lỗ bọng đó chứa một huy chương xỉn màu. Jem đưa nó cho bố Atticus xem, ông nói đó là huy chương đánh vần, rằng trước khi tụi tôi ra đời các trường ở hạt Maycomb có những cuộc thi đánh vần và thưởng huy chương cho người thắng cuộc. Bố Atticus nói chắc có ai làm mất nó, và hỏi tụi tôi đã hỏi lòng vòng xung quanh chưa? Jem đá chân tôi khi tôi định khai ra nơi chúng tôi nhặt được nó. Jem hỏi liệu bố Atticus có nhớ ai đã nhận được một cái không, bố Atticus nói không.
Món quà lớn nhất của chúng tôi xuất hiện bốn ngày sau đó. Nó là chiếc đồng hồ bỏ túi không còn chạy nữa, gắn vào một sợi dây chuyền có con dao nhôm.
“Anh có nghĩ đó là vàng trắng không, Jem?”
“Không biết. Để tao đưa cho bố xem”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 5-2-2013 10:58:30 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7
(tiếp theo)

Bố Atticus nói chắc nó đáng giá mười đô, gồm con dao, dây chuyền các thứ, nếu nó còn mới. “Con có đổi chác với ai trong trường không?” Ông hỏi.
“Ồ, không, thưa bố!” Jem lôi ra cái đồng hồ của ông nội mà bố Atticus cho anh ấy đeo mỗi tuần một lần nếu anh giữ nó cẩn thận. Vào những ngày đeo đồng hồ đó, Jem đi đứng rất cẩn thận. “Bố, nếu bố đồng ý, con giữ được cái này xài thay cái kia. Không chừng con sửa nó được”.
Khi cái mới thay thế dần cái đồng hồ của ông nội, và việc đeo nó trở thành một nhiệm vụ phiền toái trong ngày, Jem không còn cảm thấy sự cần thiết của việc xác minh giờ giấc năm phút một lần nữa.
Anh đã làm việc sửa chữa ngon lành, chỉ có một lò xo và hai mẩu nhỏ xíu được bỏ ra, nhưng đồng hồ vẫn không chạy. “Ô-h,” anh thở dài, “nó không bao giờ chạy, Scout...?”
“Hả?”
“Mày có cho là mình nên viết một lá thư cho người để lại những thứ này cho mình không?”
“Đúng vậy, Jem, mình cám ơn họ... có gì sai đâu?”
Jem nắm hai lỗ tai, lắc đầu qua lại. “Tao không hiểu, tao vẫn không hiểu được... tao không biết tại sao, Scout...” Anh nhìn về phía phòng khách. “Tao nghĩ tốt hơn là nói với bố Atticus... không, tao cho là không”.
“Em sẽ nói với bố dùm anh”.
“Không, đừng làm vậy, Scout. Scout nè?”
“Gì?”
Suốt buổi tối anh đã định nói với tôi điều gì đó; khuôn mặt anh sáng bừng và anh chồm tới bên tôi, rồi anh đổi ý. Giờ anh lại đổi ý nữa. “Ô, không có gì”.
“Nè, mình viết thư đi”. Tôi chìa tờ giấy và cây bút chì vào ngay mũi anh.
“Được rồi. Kính thưa ông...”
“Sao anh biết đó là đàn ông? Em cá đó là cô Maudie... em tin chắc điều đó từ lâu”.
“Á... à, cô Maudie đâu có nhai kẹo cao su...” Jem cười toe. “Mày biết đó, nhiều khi cô có thể nói chuyện khá thật. Có lần tao mời cô một thanh kẹo cao su cô nói không, cám ơn, rằng... kẹo cao su dính vào vòm miệng làm cô không nói chuyện được” Jem nói một cách thận trọng. “Điều đó bộ không hay sao?”
“Phải,có khi cô ấy có thể nói những điều hay ho. Nhưng dù sao cô cũng không có đồng hồ đeo tay với sợi dây chuyền”.
“Thưa ngài,” Jem nói “chúng tôi trân trọng cái... không, chúng tôi trân trọng mọi thứ mà ngài đặt vào cây cho chúng tôi. Kính thư, Jeremy Atticus Finch”.
“Ông ta đâu biết anh là ai nếu anh ký tên như vậy?”
Jem tẩy tên anh và viết, “Jem Finch” . Tôi ký tên, “Jean Louise Finch (Scout)” bên dưới. Jem để lá thư vào bì thư.
Sáng hôm sau trên đường đến trường anh chạy trước tôi và dừng lại chỗ cái cây. Jem đang quay mặt về phía tôi khi anh nhìn lên, và tôi thấy anh trở nên trắng bệch.
“Scout!”
Tôi chạy tới chỗ anh.
Có ai đó đã trám lỗ bọc đó bằng xi măng.
“Đừng khóc, Scout, lúc này... đừng khóc lúc này, mày không lo rằng...” Anh thì thầm với tôi suốt đường đến trường.
Khi chúng tôi về nhà ăn trưa Jem nuốt vội nuốt vàng, chạy ra hàng hiên và đứng ở bậc thềm. Tôi theo anh. “Chưa có ai đi ngang đó” anh nói.
Ngày hôm sau Jem lặp lại việc trông chừng của anh và được đền bù.
“Ô, chào ông Nathan” anh nói.
“Chào buổi sáng Jem, Scout” ông Nathan nói khi đi ngang qua.
“Ông Radley” Jem nói.
Ông Radley quay sang.
“Ông Radlay, ờ... ông trét xi măng vào cái lỗ ở cây đằng kia kìa ạ?”
“Phải” ông đáp “Ta trét nó đó”.
“Sao ông làm vậy?”
“Cây sắp chết. Cháu dùng xi măng trét vào khi chúng bệnh. Cháu phải biết điều đó, Jem”.
Jem không nói gì về chuyện đó cho đến chiều tối. Khi chúng tôi đi ngang cái cây của chúng tôi anh vỗ một cách trầm tư vào lớp xi măng của nó, và vẫn chìm sâu trong suy nghĩ. Có vẻ như anh đang buồn phiền vì vậy tôi giữ khoảng cách.
Như thường lệ, chúng tôi đón bố Atticus đi làm về tối đó. Khi tới bậc thềm, Jem nói. “Bố Atticus, làm ơn nhìn ra đằng kia chỗ cái cây đó”.
“Cây nào, con trai?”
“Cái cây ngay góc khu đất nhà Radley trên đường tới trường đó”.
“Sao?”
“Cây đó sắp chết hả?”
“Ồ, không, con trai, bố không nghĩ thế. Nhin lá nó kìa, chúng sum suê và xanh um, đâu có chỗ nào úa đâu...”
“Thậm chí nó không bệnh nữa hả bố?”
“Cái cây đó khỏe mạnh như con vậy, Jem. Có chuyện gì?”
“Ông Nathan nói cây đó sắp chết”.
“Cũng có thể. Bố chắc ông biết nhiều về cây của ông hơn chúng ta”.
Bố Atticus để chúng tôi ở lại hàng hiên. Jem tựa vào cây cột, cọ vai vào đó.
“Anh ngứa hả, Jem?” Tôi hỏi một cách hết sức lịch sự. Anh không trả lời. “Vào nhà đi Jem”. tôi nói.
“Lát nữa đi”.
Anh đứng đó cho đến khi đêm xuống, và tôi chờ anh. Khi chúng tôi đi vào nhà, tôi thấy anh nãy giờ đã khóc, mặt anh bẩn ở những chỗ có thể có nước mắt, nhưng tôi nghĩ thật kỳ lạ là tôi không hề nghe tiếng anh khóc.
Chú thích:
[1] Jem bắt chước dáng điệu của người Ai Cập qua tranh vẽ của họ (trên tường, đồ gốm...) còn Atticus bảo Scoutt bỏ tính từ trong câu nói của Jem đi nghĩa là: người Ai Cập chế ra giấy (chứ không phải giấy vệ sinh) và thuật ướp xác (đương nhiên là vĩnh viễn).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 5-2-2013 11:01:45 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8

[color=BlackVì các lý do mà những nhà tiên tri kinh nghiệm nhất ở hạt Maycomb cũng không thể hiểu được, năm ấy mùa thu đã chuyển sang mùa đông. Chúng tôi có hai tuần lạnh nhất kể từ năm 1885, bố Atticus kể ông Avery nói trên Đá Rosetta [1] có viết rằng khi trẻ con không vâng lời cha mẹ chúng, hút thuốc lá và đánh lộn, các mùa sẽ thay đổi: Jem và tôi bị nặng bởi cái tội góp phần vào những sai lệch bất thường của thiên nhiên, do đó gây bất hạnh cho hàng xóm của chúng tôi và bực bội cho bản thân chúng tôi.
Bà Radley già chết vào mùa đông năm đó, nhưng cái chết của bà chẳng gây được mấy xôn xao... hàng xóm hiếm khi thấy bà, trừ lúc bà ra tưới cây chuối hoa của bà. Jem và tôi cho rằng cuối cùng Bob đã giết bà, nhưng khi bố Atticus từ nhà Radley trở về, ông nói bà chết vì những nguyên nhân tự nhiên, trước sự thất vọng của chúng tôi.
“Hỏi bố đi” Jem thì thầm.
“Anh hỏi đi, anh lớn nhất mà”.
“Đó là lý do mày phải hỏi bố”.
“Bố Atticus,” tôi hỏi, “bố có gặp ông Arthur không ạ?”
Bố Atticus nghiêm nghị nhìn tôi qua tờ báo, “Bố không thấy”.
Jem cản không cho chúng tôi hỏi thêm nữa. Anh nói bố Atticus vẫn còn dễ sốc về chúng tôi và nhà Radley, và có dò hỏi gì thêm cũng không ổn. Jem có ý rằng bố Atticus nghĩ những hành động của chúng tôi vào đêm mùa hè ấy không đơn thuần chỉ dừng lại ở chỗ chơi phé cởi đồ. Jem không có cơ sở vững chắc cho những ý tưởng của anh, anh nói đó chỉ là một linh cảm bất chợt.
Sáng hôm sau tôi thức dậy, nhìn ra cửa sổ và gần như chết điếng vì sợ hãi. Tiếng rú của tôi khiến bố Atticus đang cạo râu trong phòng tắm phải chạy ra.
“Tận thế rồi, bố Atticus! Làm ơn làm cái gì đi...!” Tôi lôi ông đến cửa sổ và chỉ.
“Ôi, không phải đâu” ông nói. “Tuyết rơi đấy mà”.
Jem hỏi bố Atticus liệu nó rơi hoài sao. Jem cũng chưa từng thấy tuyết nhưng mà anh biết nó là gì. Bố Atticus nói ông không biết gì hơn Jem về tuyết. “Nhưng bố nghĩ nếu trời ẩm ướt thế này, nó sẽ chuyển thành mưa”.
Điện thoại reo và bố Atticus rời bàn ăn đến nghe. “Đó là Eula May” bố nói khi quay lại. “Bố trích nguyên văn nhé... ‘Vì hạt Maycomb không có tuyết rơi từ năm 1885, nên hôm nay sẽ nghỉ học’.”
Eula May là người trực tổng đài điện thoại hàng đầu của Maycomb. Cô được giao việc phổ biến những thông báo công, thư mời đám cưới, phát còi báo cháy, và cho những chỉ dẫn sơ cứu khi bác sỹ Reynolds đi vắng.
Cuối cùng thì bố Atticus yêu cầu chúng tôi trật tự lại và bắt chúng tôi nhìn vào đĩa thức ăn của mình thay vì ra ngoài cửa sổ, Jem hỏi, “Đắp người tuyết như thế nào, hả bồ?”
“Bố chưa từng biết” bố Atticus nói, “Bố không muốn tụi con thất vọng, nhưng bố e rằng không có đủ tuyết để làm một quả cầu tuyết nữa kìa”.
Calpurnia bước vào nhà và nói bà nghĩ trời sẽ như vậy hoài. Khi chúng tôi chạy ra sân sau, nó đã phủ một lớp tuyết mềm mỏng.
“Tụi mình không nên đi lòng vòng trên tuyết” Jem nói. “Coi kìa, mỗi bước chân của mày lại làm phí phạm hết cả”.
Tôi nhìn lại những dấu chân sũng nước của mình. Jem nói rằng nếu chờ cho đến khi tuyết rơi nhiều hơn chúng tôi có thể vun nó lại để làm thành người tuyết. Tôi lè lưỡi ra liếm một bông tuyết. Nó bỏng rát.
“Jem, nó nóng!”
“Nó không nóng, nó quá lạnh đến độ đốt cháy. Đừng ăn nó nữa, Scout. Mày đang lãng phí nó. Để nó rơi xuống”.
“Nhưng em muốn giẫm lên nó”.
“Tao biết, mình có thể đi trên tuyết ở sân nhà cô Maudie”.
Jem phóng qua sân trước, tôi bước theo dấu chân anh. Khi chúng tôi đến vỉa hè trước nhà cô Maudie, ông Avery đến bên chúng tôi. Ông có khuôn mặt đỏ lựng và cái bụng to dưới thắt lưng.
“Thấy tụi bay làm gì chưa?” Ông nói. “Tuyết không rơi ở hạt Maycomb từ sau vụ Appomattox [2]. Chính mấy đứa trẻ hư như tụi bay làm các mùa thay đổi ráo”.
Tôi tự hỏi liệu ông Avery có biết vào mùa hè rồi chúng tôi đã chăm chú háo hức chờ đợi như thế nào để thấy ông lặp lại màn trình diễn của mình và ngẫm nghĩ rằng nếu đây là phần thưởng của chúng tôi, thì cần phải nói điều gì đó để đền tội. Tôi không ngạc nhiên chuyện ông Avery tập hợp những thống kê khí tượng của ông ở đâu: chúng xuất phát thẳng từ Đá Rosetta.
“Jem Finch, cháu đó Jem Finch!”
“Cô Maudie gọi anh kìa, Jem”.
“Mấy đứa cứ ở ngay giữa sân đi. Ngay gần hàng hiên có cây thạch thung dung bị vùi dưới tuyết. Đừng giẫm lên nó!”
“Dạ” Jem gọi to. “Nó đẹp lắm hả cô Maudie?”
“Đẹp khỉ mốc! Nếu tối nay đóng băng nó sẽ làm chết mấy cây đỗ quyên của cô!”
Chiếc mũ cũ kỹ của cô Maudie láp lánh những tinh thể tuyết. Cô đang cúi xuống đám cây bụi nhỏ, chụp chúng trong những bao vải. Jem hỏi cô làm vậy để làm gì.
“Giữ cho chúng ấm” cô nói.
“Làm sao hoa giữ ấm được? Nó đâu có máu lưu thông”.
“Cô không trả lời được câu hỏi này, Jem Finch. Tất cả những gì cô biết là nếu tối nay trời đóng băng thì những cây này sẽ đóng băng, vì vậy cô che chúng lại. Rõ chưa?”
“Dạ, cô Maudie này?”
“Gì nữa, quý ông?”
“Scout và cháu có thể vay ít tuyết của cô không?”
“Lạy Chúa, cứ lấy hết đi! Cô có một cái giỏ cũ dưới gầm sàn, hốt hết nó vô đi”. Cô Maudie nheo mắt. “Jem Finch, cháu sẽ làm gì với tuyết của cô?”
“Rồi cô sẽ thấy” Jem nói, và tụi tôi cật lực chuyển tuyết từ sân nhà cô Maudie sang sân nhà tôi, một hoạt động ướt nhẹp.
“Mình sẽ làm gì, Jem?” Tôi hỏi.
“Rồi mày sẽ thấy” anh nói. “Bây giờ cầm cái giỏ và hốt hết tuyết mà mày gom được từ sân sau ra sân trước. Đi ngược theo dấu chân cũ nghe” anh cẩn thận dặn thêm.
“Mình sẽ có một em bé tuyết hả, Jem?”
“Không, một người tuyết thực thụ. Phải làm cật lực đó, nào đi”.
Jem chạy ra sân sau, lấy cây cuốc làm vườn và bắt đầu đào thật nhanh đằng sau đống gỗ, để những con giun anh bắt được sang một bên. Anh vào nhà, trở ra với một cái giỏ mây đựng quần áo chờ giặt, đổ đầy đất vào và bưng nó ra sân trước.
Khi chúng tôi có được năm giỏ đất và hai giỏ tuyết, Jem nói vậy là sẵn sàng để bắt tay vào làm.
“Anh không nghĩ đây là một mớ lộn xộn hả?” Tôi hỏi.
“Bây giờ trông lộn xộn, nhưng lát nữa thì không đâu” anh nói.
Jem ôm một đống đất, đắp vào một ụ rồi thêm tiếp một ôm đất nữa, và một ôm nữa cho đến khi anh tạo xong một bức tượng bán thân.
“Jem, em chưa từng nghe có người tuyết da đen bao giờ” tôi nói.
“Nó sẽ không đen lâu đâu” anh càu nhàu.
Jem đi kiếm vài cành hồ đào ở sân sau, bện chúng lại, rồi uốn chúng thành những khung xương để phủ đất lên.
“Nó trông giống Stephanie Crawford với hai tay chống nạnh” tôi nói. “Mập ở giữa và hai cánh tay khẳng khiu”.
“Tao sẽ làm cho chúng to hơn”. Jem té nước lên pho tượng bùn rồi đắp thêm đất. Anh nhìn nó ngẫm nghĩ một hồi, rồi anh đắp một cái bụng to bên dưới thắt lưng của người tuyết. Jem nhìn tôi, mắt anh nhấp nháy, “Ông Avery hơi có hình dạng một người tuyết, đúng không?”
Jem vốc lên một mớ tuyết và bắt đầu trét lên nó. Anh chỉ cho phép tôi phủ sau lưng, dành những phần phơi ra trước cho anh. Dần dần ông Avery hóa thành trắng.
Dùng những mẩu gỗ làm mắt, mũi, miệng và nút áo, Jem thành công trong việc tạo một ông Avery trông dữ dằn. Một thanh củi nữa làm hoàn tất bức tranh. Jem bước lui và ngắm công trình sáng tạo của anh.
“Nó cũng dễ thương, hé Jem” tôi nói. “Coi gần giống như nó đang nói chuyện với anh”.
“Thì vậy đó, phải không?” Anh bẽn lẽn nói.
Chúng tôi không đợi được tới lúc bố Atticus về dùng bữa trưa, mà gọi điện và nói chúng tôi có một ngạc nhiên cho ông. Ông có vẻ ngạc nhiên thiệt khi thấy hầu hết tuyết ở sân sau được chuyển ra sân trước, nhưng ông nói chúng tôi đã làm một công việc tuyệt vời. “Bố không biết tụi con đã làm nó như thế nào,” ông nói với Jem, “nhưng từ giờ trở đi bố sẽ không còn lo con sẽ trở nên như thế nào nữa, con trai, con sẽ luôn luôn có ý tưởng”.
Tai Jem đỏ lựng trước lời khen của bố Atticus, nhưng anh nhìn một cách ái ngại khi thấy bố Atticus bước lui lại. Bố Atticus nhìn người tuyết một hồi. Ông nhe răng cười, rồi cười to. “Con trai, bố không thể nói trước con sẽ trở thành gì... một kỹ sư, một luật sư, hoặc một họa sĩ vẽ chân dung. Nhưng con đã phạm tội gần như phỉ báng tại đây trong sân trước. Chúng ta phải cải trang thằng cha này”.
Bố Atticus đề nghị rằng Jem gọt bớt phía trước của tạo vật của anh một chút, thay cây chổi cho cây củi, và gắn một cái tạp dề lên nó.
Jem giải thích rằng nếu anh làm vậy, người tuyết sẽ trở nên bẩn thỉu và không còn là người tuyết nữa.
“Bố không quan tâm những gì con làm, miễn là con làm một điều gì đó” bố Atticus nói. “Con không thể cứ chăm chăm làm những bức hí họa về các hàng xóm”.
“Không phải là mô tả tính cách” Jem nói. “Nó chỉ trông giống ông ấy thôi”.
“Ông Avery có thể không nghĩ thế”.
“Con biết làm gì rồi!” Jem nói. Anh phóng ra đường, biến vào sân sau của cô Maudie và trở về đầy hoan hỉ. Anh chụp cái mũ của cô lên đầu người tuyết và nhét cái kéo tỉa hàng rào của cô vào chỗ khuỳnh ra ở cánh tay của nó. Bố Atticus nói như vậy có vẻ được.
Cô Maudie mở cửa trước và bước ra hàng hiên. Cô nhìn sang chúng tôi. Bất ngờ cô cười nhăn răng. “Jem Finch” cô gọi. “Quỷ sứ, mang mũ trả cho cô, ông tướng!”
Jem nhìn bố Atticus, đang đứng lắc đầu. “Cô ấy chỉ làm nhặng xị lên thôi” ông nói. “Cô ấy thực sự bị ấn tượng với... công trình của con”.
Bố Atticus bước qua lề đường nhà cô Maudie, ở đó hai người sôi nổi chuyện trò, đoạn duy nhất tôi nghe được là “... dựng một nhân vật thiệt là lường tịnh [3]” trong sân đó! “Atticus anh không dạy dỗ bọn nhỏ gì hết trơn!”
Đến chiều tuyết ngừng rơi, nhiệt độ xuống thấp, và khi đêm xuống những dự đoán tàn khốc của ông Avery đã thành sự thực: Calpurnia giữ cho mọi lò sưởi trong nhà cháy rực, nhưng chúng tôi vẫn lạnh. Khi bố Atticus về nhà tối đó ông bảo chúng tôi phải ở suốt trong nhà thôi, và hỏi Calpurnia bà có muốn ở lại với chúng tôi đêm nay không. Calpurnia nhìn lên trần nhà cao và những cửa sổ dài rồi nói bà nghĩ bà sẽ ấm hơn nếu được ở nhà của bà. Bố Atticus lái xe đưa bà về.
Trước khi tôi đi ngủ bố Atticus cho thêm than vào lò sưởi trong phòng tôi. Ông nói nhiệt kế chỉ mười sáu, đó là đêm lạnh nhất mà ông từng biết, và rằng người tuyết của chúng tôi bên ngoài đã đông cứng.
Nhiều phút sau, như thể có ai lay tôi thức dậy. Áo choàng của bố Atticus đắp ngang người tôi. “Trời sáng rồi à?”
“Bé con, dậy đi”.
Bố Atticus đang cầm áo choàng tắm và áo khoác của tôi. “Mặc áo choàng vào trước” ông nói.
Jem đang đứng cạnh bố Atticus, loạng choạng và rối bù. Anh đang giữ chặt áo khoác sát cổ, tay kia nhét kín trong túi. Anh có vẻ béo lên một cách kỳ cục.
“Nhanh lên, cục cưng” bố Atticus nói. “Giày vớ của con đây”.
Đờ đẫn, tôi mang chúng vào. “Trời sáng rồi hả?”
“Không, mới hơn một giờ thôi. Nhanh lên”.
Cuối cùng tôi nhận ra có điều gì đó không ổn. “Chuyện gì vậy?”
Đến lúc đó ông không cần nói gì nữa. Giống như bọn chim biết phải bay đi đâu khi trời mưa, tôi cũng biết khu phố tôi đang có biến cố. Nhưng âm thanh giống tiếng lụa phất loạch xoạch và tiếng chân chạy gấp khiến tôi chìm vào nỗi sợ hãi vô vọng.
“Ở nhà ai vậy?”
“Nhà cô Maudie, cục cưng” bố Atticus nhẹ nhàng nói.
Tại cửa trước, chúng tôi thấy lửa phun ra từ những cửa sổ phòng ăn của cô Maudie. Như thể để khẳng định những gì chúng tôi thấy, còi cứu hỏa của thị trấn rú hết cỡ và cứ ở mức độ đó, cứ rú lên.
“Nó cháy rồi, phải không?” Jem rên rỉ.
“Bố e là thế” bố Atticus nói. “Giờ thì nghe đây, hai đứa. Đi xuống kia đứng trước nhà Radley. Tránh đường, tụi con hiểu không? Nhìn xem gió thổi hướng nào?”
“Ồ” Jem nói. “Bộ mình không phải dọn đồ đạc ra sao?”
“Chưa đâu, con trai. Làm như bố bảo. Giờ chạy đi. Chăm sóc Scout, nghe không? Đừng rời mắt khỏi nó”.
Với một cái đẩy bố Atticus lùa chúng tôi về phía cổng trước nhà Radley. Chúng tôi đứng nhìn con đường đầy người và xe trong khi lửa lặng lẽ nuốt chửng ngôi nhà cô Maudie. “Sao họ không nhanh lên, sao họ không nhanh lên...” Jem lầm bầm.
Chúng tôi thấy lý do. Chiếc xe cứu hỏa cũ, chết máy vì trời lạnh, đang được một đám đàn ông đẩy từ thị trấn về. Khi những người đàn ông gắn vòi nước vào họng cột nước cứu hỏa, vòi nước bung ra và nước phun lên, rơi lách tách trên vỉa hè.
“Ô, Chúa ơi, Jem...”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 5-2-2013 11:03:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8
(tiếp theo)

Jem vòng tay ôm tôi. “Suỵt, Scout” anh nói. “Chưa đến lúc lo. Tao sẽ cho mày biết khi nào phải lo”.
Những người đàn ông Maycomb, mặc quần áo trong hoặc ngoài, dài hoặc ngắn đủ cấp độ, khuân đồ đạc trong nhà cô Maudie sang một khu sân ở bên kia đường. Tôi thấy bố Atticus khiêng chiếc ghế xích đu bằng gỗ sồi nặng của cô Maudie, và nghĩ ông thật nhạy cảm khi cứu món đồ mà cô Maudie yêu quý nhất.
Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiếng la. Rồi khuôn mặt ông Avery xuất hiện trên cửa sổ tầng trên. Ông đẩy tấm nệm ra ngoài cửa sổ và ném đồ đạc xuống cho đến khi mọi người la to, “Xuống đi, Dick! Cầu thang đang cháy! Ra đây, ông Avery!”
Ông Avery bắt đầu trèo ra cửa sổ.
“Scout, ông ấy bị kẹt...” Jem thở hổn hển. “Ôi Chúa...”
Ông Avery bị kẹt cứng. Tôi vùi đầu vào cánh tay Jem và không dám nhìn nữa cho đến khi Jem la to, “Ông ấy ra được rồi, Scout! Ông ấy ổn rồi!”
Tôi nhìn lên thấy ông Avery băng qua hàng hiên trên gác. Ông thả chân qua lan can và tuột xuống theo một cây cột. Ông té, hét lên và rơi xuống bụi cây của cô Maudie.
Bất ngờ tôi nhận thấy những người đàn ông lùi xa khỏi nhà cô Maudie và di chuyển dọc con đường về phía chúng tôi. Họ không mang vác đồ đạc nữa. Lửa đã đến tầng hai và lan lên mái: các khung cửa sổ đen kịt nổi bật với một khối màu cam sống động ở giữa.
“Jem, trông nó như quả bí ngô...”
“Scout, nhìn kìa!”
Khói cuộn phía trên nhà tôi và nhà cô Rachel như sương mù trên bờ sông, và người ta đang kéo vòi nước về phía chúng. Đằng sau chúng tôi, xe cứu hỏa từ Abbottsville hú còi rẽ khúc quanh và dừng lại trước nhà chúng tôi.
“Cuốn sách đó...” Tôi nói.
“Cái gì?” Jem hỏi.
“Cuốn Tom Swift đó, nó không phải của em, mà của Dill...”
“Đừng lo, Scout, chưa đến lúc phải lo” Jem nói. Anh chỉ. “Nhìn đằng kia kìa”.
Trong một nhóm hàng xóm, bố Atticus đang đứng hai tay thọc vào túi áo khoác. Có vẻ như ông đang theo dõi một trận bóng đá. Cô Maudie bên cạnh ông.
“Thấy chưa, bố đâu có lo” Jem nói.
“Sao bố không leo lên nóc nhà?”
“Bố già rồi, bố sẽ té hãy cổ”.
“Anh nghĩ tụi mình có nên kêu bố mang đồ đạc của mình ra không?”
“Đừng quấy rầy, bố biết khi nào đến lúc mà” Jem nói.
Xe cứu hỏa Abbottsville bắt đầu bơm nước lên nhà chúng tôi; một người đàn ông trên mái chỉ những chỗ cần phun nước nhất. Tôi nhìn pho tượng Thiệt Là Lường Tịnh của chúng tôi ngả đen và dần dần sụm xuống; cái mũ của cô Maudie nằm yên trên đống tàn tích. Tôi thấy cái kéo tỉa hàng rào của cô. Trong cái nóng giữa ngôi nhà của chúng tôi, nhà của cô Maudie và nhà của cô Rachel, những người đàn ông đã cởi áo khoác và áo choàng tắm từ lâu. Họ chỉ mặc áo ngủ và áo sơ mi ngủ bỏ trong quần mà làm việc, nhưng tôi ý thức rằng tôi dần dần tê cóng ở nơi tôi đứng. Jem cố giữ cho tôi ấm, nhưng đôi tay anh không đủ. Tôi gỡ tay anh ra và ôm lấy vai mình. Nhảy nhót một chút, tôi có lại cảm giác ở dưới chân.
Một xe cứu hỏa khác xuất hiện và dừng trước nhà cô Stephanie Crawford. Không có họng nước cho một vòi nữa, và những người đàn ông cố xối ướt nhà cô bằng những bình chữa cháy cầm tay.
Mái tôn nhà cô Maudie che bớt lửa. Kêu rầm một tiếng, ngôi nhà sụp đổ; lửa tràn khắp nơi, tiếp theo là một cơn mưa mền từ những người trên các mái nhà kế cận, dập tắt các tia lửa và những khúc gỗ đang cháy.
Trời đã rạng trước khi những người đàn ông bỏ đi, ban đầu từng người một, rồi từng nhóm. Họ đẩy xe cứu hỏa Maycomb trở lại thị trấn, xe Abbottsville đã rút lui, chiếc thứ ba vẫn còn ở đó. Hôm sau chúng tôi nhận ra nó đến từ Clark’s Ferry, cách đây sáu mươi dặm.
Jem với tôi băng qua đường. Cô Maudie đang nhìn chằm chằm cái hố đen bốc khói trong sân nhà cô, và bố Atticus lắc đầu để cho chúng tôi hiểu rằng cô không muốn nói chuyện. Ông dẫn chúng tôi về nhà, ôm vai chúng tôi băng qua con đường đầy tuyết. Ông nói lúc này cô Maudie sẽ ở tạm nhà cô Stephanie.
“Có ai muốn uống sôcôla nóng không?” Ông hỏi. Tôi rùng mình khi bố Atticus nhóm lửa lò trong bếp.
Khi uống ca cao tôi thấy bố Atticus nhìn tôi, lúc đầu với vẻ tò mò, rồi sau với vẻ nghiêm khắc. “Bố nhớ bố đã biểu con với Jem đứng ở chỗ bố chỉ” ông nói.
“Thì tụi con làm vậy mà. Tụi con đứng ở...”
“Vậy cái mềm đó của ai?”
“Mền nào?”
“Phải, thưa quý cô, cái mền. Nó không phải của nhà mình”.
Tôi nhìn xuống và thấy mình đang quấn một cái mền len nâu quanh vai, theo kiểu phụ nữ da đỏ.
“Bố Atticus, con không biết... con...”
Tôi quay sang Jem tìm câu trả lời, nhưng Jem thậm chí còn bối rối hơn tôi. Anh nói anh không biết làm sao nó ở đó, tụi con đã làm đúng những gì bố Atticus bảo, tụi con đứng ngay cổng nhà Radley cách xa mọi người, tụi con không xê dịch một tấc... Jem ngừng lại.
“Ông Nathan có mặt chỗ lửa cháy,” anh nói lúng búng, “con thấy ông ấy, con thấy ông ấy, ông ấy đang giật mạnh tấm nệm đó... Bố Atticus, con thề...”
“Không sao, con trai”. Bố Atticus cười từ tốn. “Có vẻ như mọi người dân Maycomb đều ra ngoài tối nay, theo cách này hay cách khác. Jem, có một số giấy gói đồ trong phòng đựng chén bát, bố nghĩ vậy. Đi lấy ra đây rồi mình sẽ...”
“Bố Atticus, không!”
Jem có vẻ mất bình tĩnh. Anh bắt đầu tuôn ra những bí mật của chúng tôi ở mọi nơi, hoàn toàn không quan tâm đến sự an toàn của tôi nếu không muốn nói đến sự an toàn của chính anh, không chừa một thứ gì cả, lỗ hốc, cái quần và mọi thứ.
“... Ông Nathan trét xi măng vào cây đó, bố Atticus, và ông ta làm vậy để ngăn không cho tụi con tìm thấy các thứ... Ông ta điên, con cho là vậy, như người ta đồn, nhưng bố, con thề trước Chúa là ông ta chưa hề làm hại tụi con, ông ta không hề làm đau tụi con nữa kìa, ông ta có thể cắt cổ con từ tai này sang tai kia nhưng thay vào đó ông ta đã vá quần cho con... Ông ta chưa hề làm gì tụi con hết, bố Atticus...”
Bố Atticus nói, “Ồ, con trai” quá dịu dàng đến độ tôi thấy hết sức phấn khởi. Rõ ràng là bố không chú ý lời nào Jem nói, vì bố chỉ nói là, “Con đúng. Chúng ta nên giữ kín chuyện này với cái mền cho mình. Một ngày nào đó có lẽ Scout có thể cảm ơn ông ta vì đã đắp cho nó”.
“Cám ơn ai?” Tôi hỏi.
“Boo Radley. Tụi con lo nhìn đám cháy mà không nhận ra khi ông ra choàng cái mền lên vai con”.
Bao tử tôi tan thành nước và tôi suýt mửa nó ra khi Jem giơ cái mền ra và bò về phía tôi. “Ông ta lẻn ra khỏi nhà... vòng qua... lặng lẽ, và đi như vậy nè!”
Bố nói khô khan, “Đừng lấy chuyện này làm vinh quang, Jeremy”.
Jem nhíu mày, “Con sẽ không gây bất cứ chuyện gì cho ông ta” nhưng tôi nhìn thấy tia lửa mạo hiểm mới mẻ trong mắt anh. “Thử nghĩ coi Scout,” anh nói, “chỉ cần mày quay lại, mày đã thấy ông ta”.
Calpurnia đánh thức chúng tôi lúc chưa. Bố Atticus đã nói chúng tôi không cần đến trường hôm đó, chúng tôi sẽ chẳng học được gì sau khi thiếu ngủ. Calpurnia nói chúng tôi phải lo dọn dẹp lau chùi sân trước.
Cái mũ của cô Maudie nằm trong lớp băng mỏng, giống như con ruồi trong hổ phách, và chúng tôi phải đào xuống đất để tìm lại cây kéo tỉa hàng rào của cô. Chúng tôi tìm thấy cô ở sân sau, đang nhìn chằm chằm vào những cây đỗ quyên cháy sém lạnh giá của cô.
“Tụi cháu mang trả mấy thứ của cô, cô Maudie” Jem nói. “Tụi cháu hết sức lấy làm tiếc”.
Cô Maudie nhìn quanh, và bóng nụ cười quen thuộc phớt qua trên mặt cô. “Cô luôn muốn có một ngôi nhà nhỏ hơn, Jem Finch à. Để có thêm sân. Nghĩ coi, bây giờ cô sẽ có thêm đất cho mấy cây đỗ quyên của cô!”
“Cô không đau lòng sao, cô Maudie?” Tôi hỏi, đầy ngạc nhiên. Bố Atticus nói gia tài của cô chỉ có ngôi nhà.
“Đau lòng hả, bé con? Ôi, cô ghét cái chuồng bò cũ đó. Cô đã nghĩ đến việc đốt rụi nó cả trăm lần, chỉ sợ họ đưa cô vào viện tâm thần”.
“Nhưng...”
“Nhưng đừng lo cho cô, Jean Louise Finch. Có nhiều cách để làm chuyện này chuyện nó mà cháu không biết. Sao cô, cô sẽ xây cho cô một ngôi nhà nhỏ và kiếm vài người thuê phòng và... ôi, cô sẽ có cái sân đẹp nhất Alabama. Nhà Bellingrath [4] sẽ trông hết sức tầm thường khi cô bắt đầu khu vườn của cô!”
Jem và tôi nhìn nhau. “Làm sao nó bắt lửa vậy, cô Maudie?” Anh hỏi.
“Cô không biết, Jem. Chắc là cái ống thông gió trong nhà bếp, tối qua cô đốt lửa trong đó có mấy cây trồng trong chậu. Nghe nói tối qua cháu có một người bạn bất ngờ, Jean Louise”.
“Sao cô biết?”
“Atticus nói với cô trên đường xuống thị trấn sáng nay. Nói thật với cháu, cô thích ở cạnh cháu. Nhưng cô cũng đủ hiểu biết để không xen vào chuyện của cháu”.
Cô Maudie làm tôi bối rối. Với hầu hết tài sản đã bị mất và cái sân yêu quý chỉ còn là một đống hỗn độn, cô vẫn quan tâm một cách chân thành và mạnh mẽ đến những vấn đề của Jem và tôi.
Cô hẳn đã thấy vẻ lúng túng của chúng tôi. Cô nói, “Điều duy nhất tối hôm qua cô quan tâm là sự nguy hiểm và xáo động mà vụ cháy gây ra. Toàn bộ khu này có thể bị cháy rụi. Ông Avery chắc phải nằm trên giường cả tuần. Ông ấy bị té nặng. Ông ấy già rồi đâu còn làm những việc như vậy được và cô đã nói như thế với ông ấy. Chừng nào cô rảnh tay và khi cô Stephanie Crawford không dòm ngó, cô sẽ làm cho ông ấy một cái bánh nướng Lane cực ngon. Cô Stephanie đó cứ rình mò công thức làm bánh này của cô suốt ba mươi năm nay, và nếu cô ấy nghĩ cô sẽ cho cô ta công thức đó chỉ bởi vì cô ở với cô ấy thì cô ấy lầm to”.
Tôi cho rằng nếu cô Maudie ngã bệnh và cho cô Stephanie công thức đó, thì cô ấy cũng không làm theo. Đã có lần cô Maudie cho tôi xem công thức đó: ngoài các nguyên liệu khác, công thức này còn ghi một tách đường lớn.
Đó là một ngày yên tĩnh. Không khí quá lạnh và trong trẻo đến độ chúng tôi nghe tiếng đồng hồ tòa án kêu lách cách, rổn rang và căng thẳng trước khi báo giờ. Mũi cô Maudie có một màu mà trước đây tôi chưa từng thấy và tôi hỏi về nó.
“Cô đã ngồi ngoài này từ sáu giờ” cô nói. “Đến bây giờ chắc nó bị đóng băng rồi”. Cô giơ hai bàn tay lên. Một mạng lưới những đường bé xíu đan ngang dọc trên lòng bàn tay, ngả màu vì đất và máu khô.
“Cô làm hư tay hết rồi” Jem nói. “Sao cô không thuê một người da màu?” Giọng của Jem không hề mang vẻ hy sinh tự nguyện khi anh nói thêm, “Hoặc Scout với cháu, tụi cháu có thể giúp cô”.
Cô Maudie nói, “Cám ơn các cháu, nhưng các cháu có công việc riêng bên nhà mà”. Cô chỉ qua sân của bọn tôi.
“Ý cô muốn nói cái tượng Lường Tịch hả?” Tôi hỏi. “Ui chao, tụi cháu có thể cào đắp nó lên trong nháy mắt”.
Cô Maudiee nhìn tôi, môi cô động đậy một cách lặng lẽ. Bất chợt cô đặt hai tay lên đầu rồi hét lên thích thú. Khi chúng tôi rời chỗ cô, cô vẫn cười rinh rích.
Jem nói anh không biết cô có vấn đề gì - cô Maudie vẫn là như vậy mà.
Chú thích:
[1] Đá Rosetta được phát hiện năm 1799 ở Ai Cập, Đá Rosetta là một khối phún xuất thạch lớn có khắc văn bia về một đạo luật được ban hành năm 196 trước Công nguyên. Được viết bằng ba thứ tiếng, tảng đá này đem lại cho giới khảo cổ nhiều manh mối về ý nghĩa của các văn bản bằng chữ tượng hình người Ai Cập.
[2] Appomattox là một ngôi làng xưa ở miền trung Virginia. Ngày 9/4/1865, tướng Robert E.Lee của miền Nam đầu hàng tướng Ullysses S. Grant của miền Bắc tại Pháp đình Appomattox, chấm dứt cuộc Nội chiến Mỹ.
[3] Lường tịnh (tạm dịch chữ morphodite trong nguyên bản): Scout nghe nhầm lời cô Maudie, hẳn cô đã dùng chữ hermaphrodite (động thực vật lưỡng tính) để chỉ thằng người tuyết khi cô thấy nó có nét đàn ông lẫn đàn bà. Morphodite là một từ vô nghĩa do Harper Lee bịa ra nhưng sau này được nhiều tác giả Mỹ sử dụng lại.
[4] Bellingrath: gồm một dinh thự và nhiều khu vườn ở Mobile, Alabama, rộng 275.186m2, mở cửa cho thăm quan từ 1932 và được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia năm 1982.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
Đăng lúc 5-2-2013 12:45:46 | Chỉ xem của tác giả
Thêm bộ này nữa.
Nhìn cái tựa mới nhớ ra nó nằm trong list những cuốn muốn mua trong năm 2012. Nhưng chả hiểu sao lại quên béng đi mất .

Hờ hờ, có trên kites thì đọc trên kites vậy. Nhưng bạn ơi, bạn không cách đoạn và font chữ nhỏ khó đọc quá

Bình luận

cám ơn bạn đã góp ý  Đăng lúc 5-2-2013 03:01 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 5-2-2013 15:07:54 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Mày có thể rút lại câu đó, nhóc!”

Lệnh này, tôi đưa ra cho Cecil Jacobs, là một khởi đầu cho một thời kỳ khó chịu cho Jem và tôi. Nắm tay tôi siết chặt lại và tôi sẵn sàng bung nó ra. Bố Atticus đã đe với tôi rằng ông sẽ dần tôi nhừ xương nếu nghe tôi đánh lộn lần nữa; tôi đã quá lớn và quá to cho những trò trẻ con như thế, và tôi càng sớm học được cách kiềm chế, thì mọi người càng hài lòng hơn. Tôi đã nhanh chóng quên điều đó.

Cecil Jacobs đã làm tôi quên. Hôm qua nó rêu rao trong sân trường rằng bố của Scout Finch biện hộ cho bọn mọi đen. Tôi phủ nhận điều đó, nhưng kệ lại với Jem.

“Nó nói vậy là có ý gì?” Tôi hỏi.

“Chẳng có gì” Jem nói. “Hỏi bố Atticus, bố sẽ nói cho nghe”.

“Bố biện hộ cho bọn mọi đen hả bố Atticus?” Tối đó tôi hỏi ông.

“Đương nhiên. Đừng gọi là mọi đen, Scout. Gọi thế dung tục lắm”.

“Ở trường ai cũng gọi vậy hết”.

“Từ giờ trở đi mọi người cứ làm vậy trừ một người...”

“Được rồi, nếu bố không muốn con lớn lên với kiểu ăn nói đó thì sao bố cho con đi học?”

Bố tôi nhìn tôi dịu dàng, mắt ông ánh lên vẻ thú vị. Bất chấp thỏa hiệp của chúng tôi, chiến dịch trốn đi học của tôi vẫn tiếp tục dưới hình thức này hoặc hình thức khác kể từ ngày khó chịu trong ngày đầu tiên đến trường của tôi: đầu tháng Chín rồi tôi còn bị cảm giác nản chí, đờ đẫn và những cơn sôi ruột nhẹ. Tôi đã phải trả hai mươi lăm xu cho đặc ân được cọ xát đầu tôi với đầu đứa con trai người đầu bếp của cô Rachel, đứa bị chứng lác đồng tiền khủng khiếp. Nó không hết.

Nhưng tôi còn ưu tư về một cục xương khác. “Bộ luật sư lúc nào cũng biện hộ cho bọn... ờ, Da đen hả, bố Atticus?”

“Dĩ nhiên vậy rồi, Scout”.

“Vậy sao Cecil nói bố bảo vệ bọn mọi đen? Nó làm như bố đang điều hành một lò rượu lậu vậy”.

Bố Atticus thở dài. “Đơn giản là bố đang biện hộ cho một người Da đen - tên anh ta là Tom Robinson. Anh ta sống ở một khu định cư nhỏ đằng sau bãi rác thị trấn. Anh ta là thành viên trong giáo phái của Calpurnia, và Calpurnia biết rõ gia đình anh ta. bà nói họ là người đàng hoàng. Scout, con chưa đủ lớn để hiểu một số điều, nhưng có nhiều lời đồn trong thị trấn với ý rằng bố không nên làm gì nhiều trong việc biện hộ cho anh này. Đó là một vụ kỳ lạ... cho đến mùa hè nó mới được đưa ra xử. John Taylor khá tử tế khi cho chúng ta được hoãn lại...”

“Nếu người ta nói bố không nên biện hộ cho anh ta, vậy sao bố lại làm?”

“Vì một số lý do” bố Atticus nói. “Lý do chính là, nếu bố không làm được bố không thể ngẩng cao đầu trong thị trấn này được, bố không thể đại diện hạt này trong cơ quan lập pháp, thậm chí bố không thể bảo con hay Jem đừng làm điều gì đó nữa”.

“Ý bố nếu không biện hộ cho người đó, Jem và con sẽ không nể phục bố nữa hả?”

“Đại loại là như vậy”.

“Tại sao?”

“Tại vì bố không thể yêu cầu con nể phục bố nữa. Scout, đơn giản bởi vì bản chất của mỗi công việc, mỗi luật sư trong đời mình ít nhất có một vụ tác động đến cá nhân ông ta. Vụ này là của bố, bố cho là vậy. Con có thể nghe một số lời đồn xấu về vụ này ở trường, nhưng nếu được thì hãy làm cho bố một điều: con hãy ngẩng cao đầu và hạ nắm đấm xuống. Cho dù ai nói bất cứ điều gì với con, đừng để chúng khiến con nổi giận. Cố đấu tranh bằng cái đầu của con cho một sự thay đổi... Đây là một việc tốt, cho dù nó cản trở việc học”.

“Bố Atticus, mình sẽ thắng chứ?”

“Không, cục cưng”.

“Vậy tại sao...”

“Đơn giản bởi vì cho dù chúng ta đã bị đánh bại một trăm năm trước khi chúng ta bắt đầu thì đó cũng đâu phải là lý do khiến chúng ta không cố thắng” bố Atticus nói.

“Bố nói giống như anh họ Ike Finch” tôi nói. Ike Finch là một cựu binh miền Nam thời Nội chiến duy nhất còn sống của hạt Maycomb. Ông có bộ râu kiểu tướng Hood mà ông rất tự hào. Ít nhất mỗi năm một lần bố Atticus, Jem và tôi đến thăm ông, và tôi thường phải hôn ông. Đó là một điều khủng khiếp. Jem và tôi lắng nghe một cách kính trọng khi bố Atticus và bác Ike nhắc lại cuộc chiến tranh. “Cho anh biết, Atticus,” bác Ike vẫn nói, “Hiệp ước Dung hòa Missouri [1] chính là thứ đá đánh bại chúng ta, nhưng nếu phải sống lại thời đó một lần nữa tôi sẽ đi lại đúng từng bước y như tôi đã làm trước đây và hơn nữa lần này tôi sẽ hạ gục bọn chúng... Vào năm 1864, khi tướng Stonewall Jackson tỉnh lại với câu-xin lỗi các anh, những chàng trai trẻ tuổi. Lúc ấy thì Ol’ Blue Light [2] đã lên thiên đàng rồi, cầu Chúa nguôi giận...”

“Lại đây, Scout” bố Atticus nói. Tôi bò lên đùi và rúc đầu dưới cằm ông. Ông ôm và ru tôi dịu dàng. “Lần này khác” ông nói. “Lần này chúng ta không chiến đấu với bọn Yankee [3], mà đang chiến đấu với bạn bè của mình. Nhưng hãy nhớ điều này, dù cho mọi việc có cay đắng thế nào đi nữa, họ vẫn là bạn bè của chúng ta và đây vẫn là nhà của chúng ta”.

Với ý nghĩ này trong đầu, hôm sau tôi đối mặt với Cecil trong sân trường. “Mày rút lại lời nói đó không, nhóc?”

“Mày kiếm chuyện với tao trước!” Nó gào lên. “Nhà tao nói ba mày là một kẻ đáng hổ thẹn và thằng mọi đen đó phải bị treo cổ ở tháp nước!”

Tôi nhắm kỹ vào nó, rồi nhớ lại những gì bố Atticus nói, tôi buông nắm đấm xuống và bỏ đi. Câu “Scout là một đứa-hèn-nhát!” vang lên trong tai tôi. Đó là lần đầu tôi từ bỏ một cuộc đánh lộn.

Dù thế nào thì nếu đánh nhau với Cecil tôi sẽ phụ lòng bố Atticus. Bố Atticus hiếm khi Jem và tôi làm điều gì đó cho ông. Tôi có thể chấp nhận bị gọi là kẻ hèn nhát vì ông. Tôi có thể cực kỳ ngon lành vì đã nhớ lại lời bố, và cẫn tiếp tục ngon lành như thế trong ba tuần. Rồi Giáng sinh đến và tai họa giáng xuống.

Jem và tôi nghĩ tới Giáng sinh với những cảm xúc lẫn lộn. Khía cạnh hay ho là cây Giáng sinh và sự có mặt của chú Jack Finch. Ngày áp lễ Giáng sinh nào chúng tôi cũng đi đón chú Jack tại nhà ga Maycomb, và chú sẽ ở lại với chúng tôi một tuần.
Một cú tung đồng tiền là cho thấy ngay bản chất bất biến của bác Alexandra và Francis.

Tôi cho rằng mình nên kể cả bác Jimmy, chồng của bác Alexandra, nhưng vì bác không hề nói với tôi một tiếng nào trong đời tôi ngoại trừ một lần bác bảo, “Xuống khỏi hàng rào” nên tôi thấy chẳng có lý do gì để chú ý đến bác ấy cả. Mà cả bác Alexandra cũng vậy nữa. Hồi xưa, trong cơn bột phát tình thân, bác ấy và Jimmy đã cho ra đời một đứa con trai tên Henry, tay này đã bỏ nhà đi ngay khi có đủ khả năng, lập gia đình, và cho ra đời Francis. Henry và vợ gửi Francis ở nhà ông bà nội nó mỗi Giáng sinh, rồi theo đuổi những lạc thú riêng của họ.

Dù có thở dài bao nhiêu cũng không thuyết phục được bố Atticus cho chúng tôi đón Giáng sinh ở nhà. Chúng tôi luôn về Finch’s Landing vào Giáng sinh từ hồi tôi bắt đầu nhớ được tới giờ. Chuyện bác Alexandra là một đầu bếp tuyệt vời cũng là một đền bù cho việc bị buộc phải trải qua kỳ lễ thánh với Francis Hancock. Nó lớn hơn tôi một tuổi, và nói chung là tôi tránh nó: nó thích thú mọi thứ tôi phản đối, và không ưa những trò tiêu khiển chân chất của tôi.

Bác Alexandra là chị của bố Atticus, nhưng khi Jem nói với tôi về những trẻ sơ sinh bị đánh tráo và anh chị em ruột, tôi kết luận rằng bác đã bị đánh tráo khi ra đời, rằng ông bà nội tôi chắc đã nhận được một Crawford thay vì một Finch. Nếu tôi đã từng ấp ủ các khái niệm bí ẩn về những ngọn núi vốn có vẻ ám ảnh các luật sư và quan tòa, thì bác Alexandra sẽ giống với ngọn Everest: suốt thời thơ ấu của tôi, bác lạnh lẽo và ở nguyên đó.

Khi chú Jack nhảy xuống khỏi xe lửa vào ngày áp lễ Giáng sinh, chúng tôi phải chờ người khuân vác trao cho chú hai cái túi dài. Jem và tôi luôn nghĩ thật tức cười khi chú Jack hôn phớt lên má bố Atticus; cả đời tụi tôi chỉ được thấy hai người đàn ông hôn nhau là họ. Chú Jack bắt tay Jem và tung tôi lên cao, nhưng không đủ cao: chú Jack thấp hơn bố Atticus một cái đầu; chú nhóc của gia đình, chú là em của bác Alexandra. Chú và bác trông giống nhau, nhưng chú Jack tận dụng được khuôn mặt của mình: chúng tôi chẳng bao giờ phải cảnh giác với cái mũi và chiếc cằm nhọn của chú.

Chú là một trong số vài con người khoa học mà không hề làm tôi khiếp sợ, có lẽ vì chú chưa bao giờ cư xử như một bác sĩ. Bất cứ khi nào chú làm một việc chăm sóc nho nhỏ gì đó thay cho Jem đối với tôi, như lấy một cái dằm ra khỏi chân, chú sẽ nói chính xác việc chú sắp làm, cho chúng tôi ước tính về mức độ gây đau của nó, và giải thích công dụng của bất cứ cái kẹp nào chú dùng. Một Giáng sinh nọ, tôi trốn vào góc ôm cái dằm xoắn trong bàn chân, không cho ai đến gần. Khi chú Jack bắt gặp tôi, chú khiến tôi phá lên cười về chuyện một tay thuyết giáo rất ghét đi nhà thờ đến độ mỗi ngày ông đều mặc áo khoác ngủ đứng ở cổng, hút bát điếu và nói những bài thuyết giáo năm phút cho bất cứ khách qua đường nào cần sự thư thái tinh thần. Tôi ngắt ngang để hỏi chú chừng nào chú sẽ rút cái dằm ra, nhưng chú đã giơ lên cái dằm dính máu trong cái nhíp và nói chú đã rút nó ra trong lúc tôi đang cười ngặt nghẽo, đó là thứ được gọi là tính tương đối.

“Có cái gì trong mấy cái túi đó vậy?” Tôi hỏi chú, chỉ mấy cái gói dài mà người khuân vác đưa cho chú.

“Không phải việc của cháu” chú nói.

Jem nói, “Rose Aylmer khỏe không ạ?”

Rose Aylmer là con mèo của chú Jack. Nó là con mèo cái vàng tuyệt đẹp mà chú Jack xếp vào loại một trong vài giống cái mà chú có thể chịu đựng suốt đời. Chú thò tay vào túi áo khoác lôi ra mấy bức ảnh chụp. Chúng tôi ngắm nghía chúng.
“Nó mập lên há” tôi nói.

“Chú nghĩ thế. Nó ăn hết mọi ngón tay và lỗ tai bỏ lại ở bệnh viện”.

“Ối, chuyện gì thổ tả thế” tôi nói.

“Cháu nói gì?”

Bố Atticus nói, “Đừng chú ý đến nó, Jack. Con bé đang thử chú đấy. Calpurnia nói con bé biết rủa rất lưu loát cả tuần nay”.
Chú Jack nhướn mày và chẳng nói gì. Tôi đang thực hiện một lý thuyết mơ hồ, ngoài sức hấp dẫn tự nhiên của những từ như thế, rằng nếu bố Atticus phát hiện ra tôi đã lượm lặt những từ như vậy ở trường học ông sẽ không bắt tôi đi học nữa.
Nhưng trong bữa ăn tối đó khi tôi yêu cầu chú đưa giùm tôi miếng giăm bông chết tiệt, chú Jack chỉ vào tôi. “Ăn xong ra gặp riêng chú nhé, cô bé” chú nói.

Ăn tối xong, chú Jack ra phòng khách và ngồi xuống. Chú vỗ đùi cho tôi đến ngồi trên đùi chú. Tôi thích ngửi chú: chú giống như chai rượu và đôi khi có mùi ngọt ngào thú vị. Chú vén mớ tóc ở trán tôi và nhìn tôi. “Cháu giống Atticus hơn mẹ cháu nhiều” chú nói. “Cháu cũng lớn so với cái quần cháu mặc một chút”.

“Cháu nghĩ là nó rất vừa”.

“Hiện giờ cháu thích những từ như chết tiệt và quỷ sứ, phải không?”

Tôi nói tôi cho là vậy.

“Chú thì không,” chú nói, “không thích trừ khi có sự khiêu khích dữ dội khiến chú muốn xài tới chúng. Chú sẽ ở đây một tuần, và chú không muốn nghe bất cứ từ nào giống vậy trong khi chú ở đây. Scout, cháu sẽ gặp rắc rối nếu cháu tiếp tục nói những điều như thế. Cháu muốn lớn lên trở thành một quý cô, đúng không?”

Tôi nói không hẳn lắm.

“Dĩ nhiên là cháu muốn. Thôi bây giờ mình lại chỗ cây thông đi”.

Chúng tôi trang trí cây thông cho đến khi đi ngủ, và đêm đó tôi mơ về hai gói dài cho Jem và tôi. Sáng hôm sau Jem và tôi lao vào chúng: chúng là của bố Atticus, bố đã viết thư bảo chú Jack mua chúng cho tụi tôi, và chúng là thứ bọn tôi đã hỏi xin.
“Đừng chĩa súng trong nhà” bố Atticus nói, khi Jem nhắm vào một bức tranh trên tường.

“Anh phải dạy tụi nó cách bắn” chú Jack nói.

“Đó là việc của chú” bố Atticus nói. “Tôi chỉ chấp thuận điều không thể tránh khỏi”.

Bố Atticus phải dùng giọng nói ở pháp đình mới kéo được chúng tôi khỏi cây thông. Ông không cho chúng tôi mang cây súng hơi của chúng tôi đến Landing (Tôi đã nghĩ đến việc bắn Francis) và nói nếu chúng tôi phạm một hành động sai lầm ông sẽ tịch thu chúng vĩnh viễn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 5-2-2013 15:15:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9
(tiếp theo)

Finch’s Landing gồm ba trăm sáu mươi sáu bậc cấp từ một mỏm đá cao đi xuống và kết thúc ở một đê chắn sóng. Xuôi theo dòng sông, bên kia mỏm đá, là vết tích của một bãi bốc dỡ bông vải, nơi những người Da đen nhà Finch chất các kiện hàng và nông sản, dỡ những khối nước đá, bột mì và đường, nông cụ, và quần áo cho phụ nữ. Một con đường hai vết lún chạy từ bờ sông và biến mất giữa những hàng cây tối. Cuối đường là ngôi nhà trắng hai tầng với hàng hiên bao quanh ở cả trên lầu và tầng trệt. Lúc về già, cụ tổ Simon Finch của chúng tôi đã xây nó để làm vui lòng người vợ hay cằn nhằn của ông; nhưng với các hàng hiên, mọi nét tương đồng với những ngôi nhà bình thường ở thời đại của nó kết thúc. Những sắp xếp bên trong của ngôi nhà Finch biểu thị sự thật thà của Simon và sự tự tin tuyệt đối của ông khi xét đoán con cháu mình.

Trên lầu có sáu phòng ngủ, bốn cho tám trẻ gái, một cho Welcome Finch, con trai duy nhất, và một cho họ hàng đến chơi. Khá đơn giản; nhưng phòng của đám con gái chỉ có một cầu thang đi lên, phòng của Welcome và phòng của khách đi bằng cầu thang khác. Cầu thang lên phòng con gái nằm trong phòng ngủ của ba má chúng ngay tầng trệt, vì vậy Simon luôn luôn biết giờ giấc đi về ban đêm của lũ con gái ông.

Có một nhà bếp tách khỏi phần còn lại của ngôi nhà, nối nhau bằng một lối đi hẹp bằng gỗ; trong sân sau có một cái chuông gỉ trên một cây sào, được dùng để tập trung nhân công nông trại hoặc phát tín hiệu báo nguy; trên mái có một sân thượng với lan can bao quanh, nhưng không có quả phụ nào đi dạo trên đó cả [4] từ chỗ đó, Simon theo dõi các đốc công, quan sát thuyền bè trên sông, và nhìn vào sinh hoạt của những chủ đất xung quanh.

Cùng với ngôi nhà là truyền thuyết bình thường về các Yankee: một phụ nữ nhà Finch, vừa mới đính hôn, đã mặc hết quần áo cưới của mình để cứu chúng khỏi những kẻ cướp bóc trong vùng; bà bị kẹt ngay cửa dẫn đến cầu thang lên phòng con gái nhưng được xối nước vào và cuối cùng cũng đấy lọt được qua. Khi chúng tôi đến Landing, bác Alexandra hôn chú Jack, Francis hôn chú Jack, bác Jimmy lặng lẽ bắt tay chú Jack, Jem và tôi trao quà của chúng tôi cho Francis, nó cũng cho tụi tôi một món quà. Jem cảm nhận được tuổi của anh và bị hút về phía người lớn nên anh để tôi chơi với đứa cháu họ của chúng tôi. Francis lên tám và chải dầu vuốt mái tóc nó ra sau.

“Giáng sinh mày được cho cái gì?” Tôi hỏi một cách lịch sự.

“Đúng thứ tao yêu cầu” nó nói. Francis đã đòi một cái quần lửng, một cái cặp da màu đỏ, năm áo sơ mi và một cái nơ bướm thả.

“Vậy là quá bảnh rồi” tôi nói xạo. “Jem với tao được hai khẩu súng hơi, và Jem có một bộ thí nghiệm hóa học...”

“Chắc là thứ đồ chơi chứ gì”.

“Không, một bộ thiệt. Anh ấy sẽ làm cho tao một thứ mực vô hình, và tao sẽ dùng nó viết thư cho Dill”.

Francis hỏi công dụng của thứ đó.

“Mày không hình dung được vẻ mặt của nó khi nó nhận lá thư của tao mà không có gì trong đó sao? Cái đó làm nó điên lên được”.

Việc nói chuyện với Francis cho tôi cảm giác đang chìm từ từ xuống đáy đại dương. Nó là đứa bé đáng chán nhất tôi từng gặp. Vì nó sống ở Mobile, nó không thể thông tin về tôi cho ban giám hiệu trường, nhưng tìm cách nói mọi thứ nó biết cho bác Alexandra, rồi bà lại kể hết cho bố Atticus nghe, ông hoặc quên nó hoặc trách mắng tôi, tùy theo cái gì đánh vào trí tưởng tượng của ông. Nhưng lần duy nhất tôi từng nghe bố Atticus nói chuyện gay gắt với người khác là khi có lần tôi nghe ông nói, “Chị à, em làm điều tốt nhất trong khả năng mình cho chúng!” Chuyện lần đó có liên quan đến việc tôi cứ mặc bộ áo liền quần suốt.
Bác Alexandra chú ý quá đáng đến vấn đề quần áo của tôi. Tôi hầu như không thể hy vọng trở thành một quý cô nếu cứ mặc quần chẽn; tôi nói mình không thể làm gì trong bộ áo váy, bác nói rằng tôi không có nhiệm vụ làm những việc đòi hỏi mặc quần tây. Quan điểm của bác Alexandra về cung cách của tôi liên quan tới việc chơi với những bếp lò nhỏ, bồ đồ pha trà và đeo vòng cổ hiệu Add-A-Pearl mà bác cho tôi khi tôi mới ra đời, hơn nữa tôi phải là một tia nắng ấm trong cuộc đời cô độc của bố tôi. Tôi đưa ra ý kiến rằng người ta có thể là tia nắng chiếc quần tây cũng được mà, nhưng bác nói rằng người ta phải cư xử giống như một tia nắng, rằng tôi được sinh ra tốt đẹp nhưng mỗi năm một tệ hại hơn. Bác làm tổn thương tình cảm của tôi và gây phiền hà cho tôi, nhưng khi tôi hỏi bố Atticus về chuyện này, ông nói đã có đủ những tia nắng trong gia đình này và tôi cứ lo việc của tôi, ông không ưu tư lắm về cung cách của tôi.

Ở bữa ăn Giáng sinh, tôi ngồi tại chiếc bàn nhỏ trong phòng ăn; Jem và Francis ngồi với người lớn tại bàn ăn lớn. Bác Alexandra tiếp tục cô lập tôi rất lâu sau khi Jem và Francis tiến dần đến bàn ăn lớn. Tôi thường tự hỏi bác nghĩ tôi sẽ làm gì, đứng lên và ném một cái gì đó chăng? Đôi khi tôi nghĩ đến việc nói với bác nếu bác cho phép tôi ngồi tại bàn lớn với những người kia chỉ một lần thôi, tôi sẽ chứng minh cho bác thấy tôi có thể lịch sự đến thế nào; rốt cuộc, tôi ăn ở nhà mỗi ngày và không xảy ra thiệt hại gì đáng kể. Khi tôi xin bố Atticus sử dụng ảnh hưởng của ông, ông nói ông chả có ảnh hưởng gì cả... chúng ta là khách, chúng ta ngồi vào nơi bác bảo chúng ta ngồi. Ông cũng nói bác Alexandra không hiểu con gái nhiều, bác không có con gái.
Nhưng tài nấu nướng của bác bù đắp cho mọi thứ: ba món thịt, rau mùa hè từ những chiếc kệ trong tủ đựng thức ăn; dưa hồ đào, hai loại bánh và món tráng miệng trái cây trộn dừa tạo thành một bữa Giáng sinh khiêm tốn. Sau đó, người lớn sang phòng khách và ngồi rải rác trong trạng thái lừ đừ. Jem nằm trên sàn nhà và tôi đi ra sân sau. “Mặc áo khoác vào” bố Atticus nói một cách lơ mơ, vì vậy tôi không nghe ông.

Francis ngồi cạnh tôi trên bậc thềm sau nhà. “Bữa ăn thiệt hết ý” tôi nói.

“Bà nội là đầu bếp tuyện vời” Francis nói. “Bà sẽ dạy tao cách nấu ăn”.

“Con trai không nấu bếp”. Tôi cười hinh híc trước ý nghĩ Jem mặc cái tạp dề.

“Bà nội nói tất cả đàn ông phải học nấu ăn, rằng đàn ông phải chăm sóc vợ và phục vụ họ khi họ cảm thấy không thoải mái” thằng cháu họ tôi nói.

“Tao không muốn Dill phục vụ tao” tôi nói. “Tao thích phục vụ nó hơn”.

“Dill?”

“Phải. Chưa nói gì về chuyện đó, nhưng tụi tao sẽ cưới nhau ngay khi tụi tao lớn lên. Mùa hè rồi nó hỏi cưới tao”.

Francis chế nhạo.

“Có vấn đề gì với nó hả?” Tôi hỏi. “Đâu có chuyện gì với nó đâu”.

“Ý mày nói cái thằng ẻo lả mà bà nội nói mỗi mùa hè đều về ở với cô Rachel đó hả?”

“Đó đúng là người tao muốn nói”.

“Tao rành nó quá mà” Francis nói.

“Cái gì về nó?”

“Bà nội nói nó không có nhà...”

“Có mà, nó sống ở Meridian”.

“... nó chỉ được chuyển từ nhà người bà con này đến nhà người bà con khác, còn cô Rachel lo giữ nó vào mỗi mùa hè”.

“Francis, không phải vậy!”

Francis cười vào mặt tôi. “Có khi mày quá ngốc, Jean Louise. Tao đoán mày chẳng biết gì hơn”.

“Ý mày là sao?”

“Nếu ông Atticus để mày chạy chơi loanh quanh với mấy con chó lạc, thì đó là việc của riêng ông, giống như bà nội nói, vì vậy đó không phải là lỗi của mày. Ngoài ra tao nghĩ nếu ông Atticus là một kẻ yêu bọn mọi đen thì đó cũng không phải là lỗi của mày, nhưng tao ở đây để nói với mày chuyện đó chắc chắn làm xấu mặt những người còn lại của dòng họ này...”

“Francis, mày muốn nói cái quái quỷ gì vậy?”

“Tao nói vậy đó. Bà nội nói chuyện ba mày để tụi mày sống bừa bãi tùy ý đã đủ tệ rồi, nhưng giờ ông lại té ra thành kẻ yêu bọn mọi đen thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể đi lại trên đường phố Maycomb được nữa. Ông ấy đang hủy hoại dòng họ này, ông đang làm vậy đó”.

Francis đứng dậy và chạy xuống lối đi hẹp dẫn tới nhà bếp cũ. Ở khoảng cách an toàn nó la to, “Ba mày chẳng là gì ngoài một kẻ yêu bọn mọi đen!”

“Không phải thế!” tôi gầm lên. “Tao không biết mày đang nói về cái gì, nhưng tốt nhất mày nên nhưng trò này ngay lập tức!”
Tôi phóng khỏi bậc thềm và chạy xuống lối đi. Tôi tóm cổ Francis dễ dàng và bảo nó rút lại lời nói ngay.

Francis vùng thoát và chạy nhanh vào nhà bếp cũ. “Đồ yêu bọn mọi đen!” Nó gào lên.

Khi rình con mồi của mình, tốt nhất là cứ thong thả. Chẳng nói gì, nhưng chắc chắn nó sẽ tò mò và hiện ra. Francis xuất hiện ngay cửa bếp. “Mày vẫn còn nổi sùng hả, Jean Louise?” Nó ngập ngừng hỏi.

“Chẳng có gì để nói” tôi đáp.

Francis bước lên lối đi.

“Mày rút lại lời nói đó không, Fra-a-ancis?” Nhưng tôi đã động thủ quá nhanh. Francis lui trở vào nhà bếp, vì vậy tôi rút về bậc thềm. Tôi có thể chờ một cách kiên nhẫn. Tôi đã ngồi đó có lẽ cỡ năm phút thì nghe bác Alexandra gọi:

“Francis đâu rồi?”

“Nó ở trong bếp”.

“Nó biết nó không được chơi trong đó mà”.

Francis bước ra khỏi cửa và gào lên, “Bà nội, cô ấy nhốt con trong này, không cho ra!”

“Chuyện gì vậy, Jean Louise?”

Tôi nhìn lên bác Alexandra. “Cháu không nhốt nó trong đó, bác, cháu không giữ nó”.

“Có, nó có,” Francis la to, “nó không cho con ra!”

“Tụi bay làm nhặng xị lên đó hả?”

“Jean Louise nổi sùng với con, bà nội” Francis kêu lên.

“Francis, ra khỏi đó! Jean Louise, nếu bác còn nghe cháu nói một từ nào như thế nữa bác sẽ mách ba cháu. Hồi nãy bác nghe cháu nói từ quái quỷ phải không?”

“Không ạ”.

“Bác nghĩ là có. Tốt hơn là đừng để bác nghe từ đó lần nữa”.

Bác Alexandra là người rình nghe ở hiên sau. Khi bác đi khuất Francis ló đầu ra nhăn nhở cười. “Đừng có lừa tao” nó nói.
Nó phóng ra sân và giữ khoảng cách, đã những bụi cỏ, thỉnh thoảng quay sang cười tôi. Jem xuất hiện trên hiên nhà, nhìn chúng tôi, rồi bỏ đi. Francis trèo lên cây mimosa, tuột xuống, đút hai tay vào túi quần và đi vòng quanh sân. “Ha!” nó nói. Tôi hỏi nó nghĩ nó là ai, chú Jack chắc? Francis nói nó nghĩ là tôi đã bị rầy rồi, tôi chỉ nên ngồi đó và để nó yên.

“Tao không thèm quấy mày” tôi nói.

Francis nhìn kỹ tôi, kết luận rằng tôi đã bị khuất phục, và ngân nga khe khẽ, “Đồ yêu bọn mọi đen...”

Lần này, tôi đấm vào răng cửa của nó đến toác da đốt ngón tay tới tận xương. Tay trái tôi tê dại, tôi chuyển sang đánh bằng tay phải, nhưng không được lâu. Chú Jack giữ chặt hai cánh tay tôi sát hông và nói. “Đứng im!”

Bác Alexandra chăm sóc Francis, lấy khăn tay chùi nước mắt cho nó, xoa đầu nó, vỗ má nó. Bố Atticus, Jem, và chú Jimmy ra tới hiên sau thì Francis bắt đầu gào.

“Đứa nào gây sự trước?” Chú Jack hỏi.

Francis và tôi chỉ nhau. “Bà nội,” nó hét, “nó gọi con là con điếm rồi nhảy xổ vào con!”

“Đúng không, Scout?” Chú Jack hỏi.

“Cháu cho là như vậy”.

Khi chú Jack nhìn tôi, nét mặt chú giống hệt mặt bác Alexandra. “Cháu có biết là chú đã nói rằng cháu sẽ gặp rắc rối nếu dùng những từ như thế không? Chú có nói với cháu rồi, đúng không?”

“Vâng, nhưng...”

“Giờ cháu gặp rắc rối rồi đó. Đứng đó”.

Tôi đang cân nhắc hoặc đứng đó hoặc chạy đi và nấn ná không quyết định quá lâu: tôi quay người để chạy trốn nhưng chú Jack nhanh hơn. Tôi thấy mình đột nhiên dí mặt xuống nhìn một con kiến bé xíu vật lộn với vụn bánh mì trên cỏ.

“Cháu không bao giờ nói chuyện lại với chú chừng nào cháu còn sống! Cháu ghét chú và coi thường chú và hy vọng mai chú chết!” Một tuyên bố có vẻ như khích lệ chú Jack, nhiều hơn bất cứ gì khác. Tôi chạy đến chỗ bố Atticus tìm sự vỗ về, nhưng ông nói rằng tôi đáng bị như vậy và đây là lúc chúng tôi nên về nhà. Tôi chui vào băng sau xe mà không chào tạm biệt bất cứ ai, và tới nhà tôi chạy vào phòng mình, đóng sầm cửa lại. Jem cố nói điều gì tốt đẹp, nhưng tôi không để anh nói.

Tôi xem xét thiệt hại, chỉ có bảy hay tám dấu đỏ, và tôi đang ngẫm nghĩ về tính tương đối thì nghe ai đó gõ cửa. Tôi hỏi ai; chú Jack trả lời.

“Đi đi!”

Chú Jack nói nếu tôi nói giống vậy chú sẽ đánh bại tôi lần nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách