|
Chương 16
(tiếp theo)
“Ổng đâu có nghèo, ổng sở hữu tất cả đất bên kia sông, với lại ông ta xuất thân từ một dòng họ thực sự lâu đời”.
“Sao ông ta lại làm thế?”
“Cái kiểu của ông ta là vậy” Jem nói. “Họ nói ông ta không bao giờ quên được đám cưới của mình. Ông ta dự trù sẽ cưới một trong các... cô con gái nhà Spencer, tớ nghĩ vậy. Họ chuẩn bị một đám cưới linh đình, nhưng không có được - sau buổi thử áo, cô dâu đã lên lầu và bắn vào đầu mình. Súng săn, cô ta đạp cò bằng ngón chân”.
“Họ có biết lý do không?”
“Không” Jem nói. “Chẳng ai biết tại sao trừ ông Dolphus. Họ nói đó là do cô ta biết được người phụ nữ da màu của ông, ông ta cho rằng ông ta có thể giữ bà ta mà vẫn cưới được vợ như thường. Từ đó trở đi ông ta cứ say xỉn. Dù sao ông ta cũng rất tốt với bọn trẻ đó...”
“Jem,” tôi hỏi, “trẻ lai là gì?”
“Nửa trắng, nửa màu. Em thấy tụi nó rồi mà, Scout. Em biết thằng nhỏ tóc đỏ kỳ cục giao hàng cho cửa hàng thực phẩm không? Nó lai trắng đấy. Tụi nó thật đáng buồn”.
“Buồn, nghĩa là sao?”
“Chúng không thuộc về bất cứ đâu. Người da màu không dung chứa chúng bởi vì chúng lai trắng; người da trắng không chấp nhận chúng bởi vì chúng lai da màu, vì vậy chúng chỉ đứng ở giữa, không thuộc về đâu cả. Nhưng ông Dolphus, hiện giờ, họ nói ông đã đưa hai đứa con ông lên miền Bắc. Ở miền Bắc họ không quan tâm đến chúng. Đằng kia là một đứa trong bọn tụi nó”.
Một chú nhóc nắm chặt tay một người phụ nữ da đen đi về phía chúng tôi. Với tôi nó giống mọi người da đen khác. Nó có màu da Sôcôla đậm với lỗ mũi to và hàm răng tuyệt đẹp. Thỉnh thoảng nó nhảy chân sáo thật phấn khởi, và người phụ nữ da đen giật mạnh tay nó để bắt nó dừng lại.
Jem chờ cho đến khi họ đi ngang chúng tôi. “Đó là một trong những đứa trẻ lai” anh nói.
“Sao cậu dám chắc?” Dill hỏi. “Tớ thấy nó cũng là da đen thôi”.
“Có khi cậu không thể phân biệt, trừ khi cậu biết họ là ai. Nhưng nó có nửa dòng máu của Raymond đó”.
“Nhưng làm sao anh dám chắc?” Tôi hỏi.
“Anh đã nói với em rồi, Scout, em phải biết chúng là ai”.
“Vậy làm sao anh biết chúng tôi không phải là người da đen?”
“Chú Jack Finch nói chúng ta thực sự không biết. Chú nói trong chừng mực chú lần ngược được gốc gác dòng họ Finch thì chúng ta không phải, nhưng theo tất cả những gì chú biết thì có thể chúng ta đến từ Ethiopia [4] trong Cựu Ước”.
“Nếu chúng ta đến từ thời Cựu Ước, thì chuyện đã quá lâu rồi không đáng kể nữa”.
“Anh cũng nghĩ vậy,” Jem nói, “nhưng ở đây nếu em từng có một giọt máu da đen, điều đó làm em hành đen hoàn toàn. Ê, nhìn kìa...”
Một dấu hiệu vô hình nào đó đã khiến những người ăn trưa trên quảng trường nhỏm dậy và bỏ bừa những tờ báo, giấy bóng kính, và giấy gói. Trẻ em chạy đến bên mẹ, những đứa trẻ được bế lên hông khi đàn ông với những chiếc mũ ố mồ hôi tập họp gia đình họ lại và lùa chúng qua các cửa tòa án. Ở góc xa của quảng trường, những người da đen và ông Dolphus Raymond đứng lên và phủi đít. Có ít phụ nữ và trẻ em trong số họ, điều đó có vẻ xua tan tâm trạng lễ hội. Họ kiên nhẫn chờ đợi tại các cửa phía sau những gia đình da trắng.
“Tụi mình vô đi” Dill nói.
“Tốt hơn là tụi mình chờ cho họ vào hết, bố Atticus có lẽ sẽ không thích nếu ông thấy tụi mình” Jem nói.
Tòa án hạt Maycomb gợi nhớ đến Arlington ở một khía cạnh: những cột bê tông đỡ mái phía Nam của nó quá bề thế so với trọng lượng nhỏ bé mà chúng chống đỡ. Những cây cột này là thứ duy nhất còn đứng vững khi tòa án ban đầu bị cháy năm 1856. Một tòa án khác được xây quanh chúng. Nói rõ hơn là, được xây bất chấp chúng. Nhưng đối với mặt phía Nam, tòa án hạt Maycomb mang dáng dấp thời đầu Victoria, bày ra một khung cảnh hài hòa khi nhìn từ phía Bắc. Tuy nhiên, nhìn từ góc cạnh khác, những cây cột kiểu Hy Lạp được phục hồi này trong trái mắt với chiếc tháp đồng hồ khổng lồ thế kỷ mười chín chứa một công cụ gỉ sét không đáng tin cậy, một hình ảnh cho thấy một dân tộc nhất quyết bảo tồn mọi mảnh vụn vật chất của quá khứ.
Đã đến được phòng xử án trên tầng hai, người ta phải đi qua nhiều phòng nhỏ kín mít khác nhau dành cho các công chức trong hạt: người thẩm định thuế, nhân viên thuế, thứ ký hạt, cố vấn pháp luật, thư ký lưu động, thẩm phán tòa án xử các vụ liên quan đến di chúc sống trong những ô nhỏ tối mờ mát lạnh bốc mùi những tập hồ sơ mục nát trộn lẫn với mùi vị xi măng ẩm thấp cũ kỹ và mùi những tiểu ngai ngái. Ban ngày cũng phải bật đèn, luôn luôn có một lớp bụi phủ lên ván sàn thô ráp. Người trong các phòng này là những sinh vật thuộc môi trường của họ: những người nhỏ thó với khuôn mặt xám xịt, có vẻ như họ không bị nắng gió chạm đến.
Chúng tôi biết bên trong rất đông, nhưng chúng tôi không ngờ được khối người đặc nghẹt ở hành lang tầng một. Tôi bị tách khỏi Jem và Dill, nhưng đi được đến bức tường cạnh cầu thang, biết rằng sau cùng Jem cũng sẽ đến tìm tôi. Tôi thấy mình lọt giữa câu lạc bộ Idlers [5], và cố sao để mình càng ít bị chú ý càng tốt. Đây là nhóm các ông già, mặc quần kaki có dây đeo qua vai, áo sơ mi trắng, họ sống cả đời chẳng làm gì và trải qua những tháng ngày tàn tạ bằng việc ngồi trên những băng ghế bằng gỗ thông dưới bóng các cây sồi ở quảng trường. Là những người chỉ thích phê bình những công việc của tòa án, bố Atticus nói họ rành luật pháp như chánh án Tối cao pháp viện, qua nhiều năm dài quan sát. Bình thường, chỉ có họ là khán giả của tòa án, và hôm nay họ có vẻ bực tức vì bị gián đoạn thói quen thoải mái của mình. Cuộc nói chuyện là về bố tôi.
“... nghĩ ông ta biết mình đang làm gì” một người nói.
“Ô - ô, không, tôi không nói thế” người khác nói. “Atticus Finch là người đọc kỹ, một người đọc rất kỹ”.
“Ông ta đọc nhiều, và ông ta chỉ làm có vậy”. Cả câu lạc bộ cười khúc khích.
“Bây giờ để tôi nói với ông một chuyện, Billy,” người thứ ba nói, “anh biết tòa án chỉ định ông ta biện hộ cho tên da đen đó”.
“Phải, nhưng Atticus quyết biện hộ cho hắn. Đó là điều tôi không ưa”.
Đây là tin tức, tin tức soi rọi một ánh sáng khác vào mọi việc: bố Atticus đã phải làm vậy, dù ông muốn hay không. Tôi nghĩ thật kỳ lạ ông đã không nói bất cứ điều gì với chúng tôi về chuyện này - chúng tôi có thể sử dụng nó nhiều lần để biện hộ cho ông và cho cả chúng tôi. Ông đã phải làm việc này, đó là lý do tại sao ông làm việc này, với ít xung đột hơn và ít lộn xộn hơn. Nhưng điều đó có giải thích thái độ của cả thị trấn này không? Tòa án chỉ định bố Atticus biện hộ cho anh ta. Bố Atticus quyết bảo vệ anh ta. Đó là lý do tại sao họ không thích. Chuyện này thật rối trí.
Những người da đen, sau khi chờ cho những người da trắng lên lầu, mới bước vào. “Khoan nào, chờ một chút” một thành viên của câu lạc bộ nói, lấy cây gậy của ông chặn lại. “Khoan cho họ lên lầu một lát”.
Cả câu lạc bộ lụm cụm kéo nhau leo lên và gặp phải Jem và Dill đang đi tìm tôi. Hai đứa chen qua đám đông và Jem gọi, “Scout, lên đây, chẳng còn chỗ ngồi đâu. Tụi mình phải đứng thôi”.
“Nhìn kìa, ồ” anh nói một cách bực bội, khi những người da đen tràn lên lầu, những ông già đi trước họ hẳn đã chiếm hết chỗ đứng. Chúng tôi thiếu may mắn và đó là do lỗi tại tôi, Jem trách tôi. Chúng tôi đứng khổ sở ở cạnh tường.
“Tụi cháu không vô được hả?”
Mục sư Sykes nhìn xuống bọn tôi, chiếc mũ đen cầm trên tay.
“Chào mục sư” Jem nói. “Không được ạ, tại Scout đấy”.
“Để xem chúng tôi có thể làm được gì nào”.
Mục sư Sykes thận trọng lách mình lên lầu. Vài phút sau ông quay lại. “Dưới nhà không còn chỗ. Bọn cháu có chịu ra chỗ ban công với ta không?”
“Hay quá” Jem nói. Mừng rõ, bọn tôi chạy trước mục sư Sykes để vào bên trong tòa. Ở đó chúng tôi leo lên một cầu thang có mái che và chờ ở cửa. Mục sư Sykes thở phì phò đằng sau chúng tôi, và dẫn chúng tôi nhẹ nhàng lách qua những người da đen ở ban công. Bốn người da đen đứng lên và nhường cho chúng tôi ngồi ở hàng ghế đầu.
Ban công dành cho người da màu chạy dọc ba bức tường của tòa án giống hành lang ở tầng hai và từ đó chúng tôi có thể thấy mọi thứ.
Bồi thẩm đoàn ngồi bên trái, dưới những cửa sổ dài. Gầy và da rám nắng, tất cả bọn họ đều có vẻ là nông dân, nhưng điều này là tự nhiên: dân thị trấn hiếm khi tham gia làm bồi thẩm đoàn, họ hoặc bị bệnh hoặc được miễn. Một hoặc hai người trong bồi thẩm đoàn trông hơi giống những người nhà Cunningham ăn mặc tươm tất. Lúc này họ ngồi thẳng và chăm chú.
Luật sư tòa lưu động và một người khác, bố Atticus và Tom Robinson ngồi tại những chiếc bàn quay lưng về phía chúng tôi. Có một cuốn sách nâu và vài tờ bìa vàng trên bàn của viên luât sư; bàn của bố Atticus trống trơn.
Ngay bên trong hàng rào chia tách cử tọa với tòa, nhân chứng ngồi trên những chiếc ghế lót nệm da bò. Lưng họ quay về phía chúng tôi.
Quan tòa Taylor ngồi trên ghế chủ tọa, trông giống một con cá mập già ngái ngủ, con cá hoa tiêu của ông ta ghi chép lẹ làng phía dưới ngay trước mặt ông ta. Quan tòa Taylor trông giống hầu hết các quan tòa tôi từng gặp: hòa nhã, tóc bạc, mặt hơi đỏ, ông ta là người điều hành tòa án với phong cách buông tuồng đáng ngại - đôi khi ông gác chân lên, ông thường cậy móng tay bằng con dao bỏ túi. Trong những buổi thẩm vấn kéo dài, đặc biệt là sau bữa ăn, ông tạo ấn tượng bằng ông đang ngủ gật, một ấn tượng tan biến mãi mãi khi có lần một luật sư cố ý đẩy một chồng sách xuống sàn nhà trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm đánh thức ông dậy. Không mở mắt, quan tòa Taylor lầm bầm, “Ông Whitley, làm chuyện đó lần nữa là nó sẽ khiến ông mất một trăm đô đó”.
Ông là người học ngành luật, và dù có vẻ nhận công việc của mình một cách hờ hững, nhưng thực tế ông ta nắm vững tất cả mọi thủ tục tồn tại trước ông. Chỉ một lần duy nhất người ta thấy quan tòa Taylor lâm vào hoàn cảnh bế tắc trong phiên tòa công khai,và những người nhà Cunningham khiến ông bó tay. Old Sarum, khu vực quen thuộc của họ, đã có hai dòng họ riêng rẽ và tách biệt sinh sống từ đầu, nhưng không may lại mang cùng tên. Người họ Cunningham cưới họ Coningham cho đến khi việc viết chính tả tên này chỉ mang tính lý thuyết - lý thuyết cho đến khi một người họ Cunningham tranh chấp quyền sở hữu đất đai với một người họ Coningham và dẫn đến thưa kiện. Trong suốt cuộc tranh luận về chữ viết này, Jeems Cunningham khai rằng mẹ ông ta đã viết là Cunningham trên các bằng khoán và các thứ, nhưng bà thực sự là một Coningham, bà là một người viết chính tả không trôi chảy, một người ít đọc, và đôi khi có thói quen nhìn xa xăm khi bà ngồi trên hành lang trước nhà vào buổi tối. Sau chín giờ lắng nghe những thói quen kỳ dị của các cư dân Old Sarum, quan tòa Taylor đã ném vụ án này khỏi tòa án. Khi được hỏi dựa vào lý do gì, quan tòa Taylor đáp, “thông đồng chia án phí” và tuyên bố ông hy vọng ở Chúa những người kiện tụng được hài lòng vì mỗi người đều được ăn nói công khai trước công chúng. Họ đã hài lòng. Đó là tất cả những gì họ muốn.
Quan tòa Taylor có một thói quen thú vị. Ông cho phép hút thuốc trong phòng xử của ông nhưng bản thân ông thì không: đôi khi nếu may mắn, người ta có đặc ân thấy ông đặt một điếu xì gà khô dài lên miệng, và nhai nó từ từ. Dần dần điếu xì gà đó biến mất, để vài giờ sau tái xuất hiện thành một mớ lầy nhầy dẹp lép, tinh chất của nó bị rút ra và trộn lẫn với dịch vị của quan tòa Taylor. Có lần tôi hỏi bố Atticus làm sao bà Taylor chịu hôn ông ta cho nổi, nhưng bố Atticus nói họ không hôn nhau nhiều.
Bục nhân chứng nằm ở bên phải của quan tòa Taylor, và khi chúng tôi an vị ông Heck Tate đã đứng trên đó.
Chú thích:
[1] Chỉ huy binh đoàn miền Tây của phe miền Nam trong Nội chiến, Bragg có binh nghiệp không lẫy lừng lắm và binh đoàn của ông cuối cùng đại bại.
[2] Câu trước của người ngồi xe là tục ngữ, câu sau của cô Maudie trích từ sách Châm ngôn (Cựu ước)
[3] William Jennings Bryan (1860-1925): luật sư, chính khách (từng ra tranh cử Tổng thống ba lần) và là nhà hùng biện nổi tiếng. Diễn văn của ông thu hút rất đông người, nhất là ở miền Nam.
[4] Trong thời Cựu Ước, Ethiopia là một Vương quốc ở Đông bắc châu Phi. Ngày nay, nó là một nước ở Đông Phi.
[5] Nghĩa là những kẻ ở không. |
|