Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 13380|Trả lời: 274
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Thiên Long Bát Bộ | Kim Dung

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
                       
                  


                                                      Tên tác phẩm: Thiên Long Bát Bộ (bản mới)
                                                      Tên tác giả: Kim Dung
                                                       Dịch giả: Nguyễn Duy Chính
                                                      Thể loại: Tiểu thuyết
                                                      Tình trạng sáng tác: Đã hoàn thành
                                                      Nguồn tác phẩm: vnthuquan.net

Rate

Số người tham gia 1Sức gió +5 Thu lại Lý do
Lộng_Nguyệt + 5 Ủng hộ 1 cái!

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2011 09:05:07 | Chỉ xem của tác giả
                                                       Thiên Long bát bộ (bản mới)

                                                               LỜI NÓI ĐẦU


Sau khi hỏi ý kiến độc giả, một số đông đã đề nghị chúng tôi dịch bộ truyện Thiên Long Bát Bộ. Bộ truyện này cùng với Lộc Đỉnh Ký là hai bộ truyện dài nhất của Kim Dung. Bản chúng tôi dịch là bản đã được sửa chữa, tái bản lần thứ hai do Viễn Ảnh công ti tại Đài Bắc ấn hành tháng 8 năm 1981 bao gồm 5 quyển, 50 chương, 2124 trang.
Người ta vẫn bảo rằng Thiên Long Bát Bộ là truyện nhiều tình tiết nhất, đông nhân vật, mỗi vai có một đặc tính riêng không người nào giống người nào và có đến năm sáu người có thể coi như vai chính. Tuy thế, trong khi còn đăng tải trên mặt báo, Thiên Long Bát Bộ cũng đã gây ra nhiều mâu thuẫn, đặt ra nhiều câu hỏi cho độc giả và nhiều đoạn không có câu trả lời. Do đó, bộ truyện này đã được Kim Dung sửa đổi nhiều chi tiết, mặc dầu nội dung không khác nhưng đã tạo nên những nét chấm phá mới khiến cho nó được xếp vào một trong những kỳ thư của nhà văn Hương Cảng.
Theo Trần Thế Tương, một học giả quá cố Trung Hoa mà Kim Dung rất kính trọng, Thiên Long Bát Bộ là một bộ truyện phải đọc đi đọc lại từ đầu chí cuối nhiều lần mới thấy hết được cái hay của nó. Những lời phê bình của học giả này đã được Kim Dung coi như là nói lên được tâm sự của ông và chính vì thế, Thiên Long Bát Bộ có thể nói là một bộ truyện mà Kim Dung rất tâm đắc. Trần tiên sinh là người duy nhất được Kim Dung đề tặng trong bản mới lần in thứ hai này, một biệt lệ cho bất cứ tiểu thuyết nào của Trung Hoa.
Cũng như Ỷ Thiên Đồ Long Ký, Kim Dung đã dụng công để đặt đề tựa cho mỗi chương thành một câu trong một bài thơ. Bộ Thiên Long Bát Bộ bao gồm năm bài thơ, mỗi bài mười câu nhưng Ỷ Thiên Đồ Long Ký theo lối ca trù (Bá Lương Đài thể) còn Thiên Long Bát Bộ thì là năm bài, mỗi quyển một bài theo lối từ. Kim Dung tiên sinh tự nhận rằng mình rất kém về văn chương thi ca, việc làm của ông là một nỗ lực hết sức gắng gượng – và chúng tôi cũng vậy, rất e ngại khi phải dịch những phần thi từ đó ra tiếng Việt nên thường lần lữa không hoàn tất. Nếu có dịch thì chỉ để cho khỏi bị thiếu sót nhưng chắc chắn có rất nhiều lủng củng, xin độc giả cũng lượng tình cho.
Rút kinh nghiệm của thời gian qua, chúng tôi mong độc giả góp ý để tiếp tục sửa chữa thường xuyên và thêm bớt những gì cần phải bổ túc. Rất đông thân hữu đã hiệu đính giùm một số sai lầm trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký, nhân dịp này chúng tôi cũng xin cảm tạ chung các vị đó. Một số bạn bè giúp dịch một vài đoạn thơ văn, có người đề nghị sửa lại một vài chữ khó hiểu, và nhất là bạn DPLT đã chịu khó tìm tòi, tra cứu sách vở chữ Hoa để giúp người dịch những phần thi từ còn bỏ dở.
Như đã thưa từ trước – đây chỉ là một việc làm cá nhân trong những thì giờ eo hẹp của đời sống hết sức bận rộn – sau tất cả những nỗ lực phải dành cho công việc và gia đình, việc dịch sách là một cái thú tiêu khiển nên sẽ rất ... thư thả theo chương trình hai tuần một chương như năm qua. Nếu đúng theo lịch trình đó, bộ truyện này sẽ có thể hoàn tất vào cuối năm 2003 hay đầu năm 2004. Một số biên khảo cũng sẽ được tiến hành vì có thể nói, Thiên Long Bát Bộ là một chuyến du hành khắp nước Trung Hoa trong thời Tống, một giai đoạn mà nhiều nước sống bên cạnh nhau, vẫn bang giao nhưng cũng đầy xung đột. Cứ theo những nhà chuyên khảo về Kim Dung đây là bộ truyện mà Kim Dung dụng công hơn cả, chẳng khác gì một bức tranh trải dài hàng dặm với tất cả những chi tiết ly kỳ khiến cho người đọc phải say mê không sao dứt ra được.
Thời Bắc Tống là một giai đoạn hết sức thành tựu về mặt văn chương, nghệ thuật của Trung Hoa mặc dầu có nhiều suy sụp về chính trị và quân sự. Nước Tàu lúc đó được chia cắt thành nhiều quốc gia luôn luôn biến động lúc thì liên kết đồng minh, lúc lại nhòm ngó, thôn tính lẫn nhau. Phía Bắc là nước Liêu của người Khiết Đan đóng đô ở Lâm Hoàng (Thượng Kinh). Phía Tây Bắc là Tây Hạ đóng đô ở Linh Châu. Nhà Tống ở phía Đông Nam, kinh đô là Khai Phong. Chính Tây là Thổ Phồn tức miền Ba Thục bây giờ. Tây Nam là Đại Lý và chính Nam là nước ta.
Qui mô đó khiến chúng ta được làm một cuộc du ngoạn theo cả thời gian và không gian để đi ngang qua Đại Lý, Tống, Liêu, Tây Hạ, Thổ Phồn với tất cả những đặc trưng về văn hóa của thời đại và sắc thái địa phương. Nhiều nhân vật chính liên tiếp mà tuyệt nhiên không có một nhân vật nào hoàn toàn nổi bật và chi phối toàn cục khiến chúng ta có cảm tưởng đây là nhiều truyện được nối lại với nhau. Cách dựng truyện đó đã tạo nên một nét đặc thù và đưa Kim Dung lên một tầm vóc riêng mà không phải ai cũng có được.
Mặc dù trên tổng quát bộ truyện không khác khi còn đăng trên mặt báo bao nhiêu nhưng nếu đi vào chi tiết thì quí độc giả sẽ thấy Kim Dung đã thay đổi rất nhiều. Những chi tiết rườm rà và không liên tục đều bị cắt bỏ, trong đó có khoảng 40,000 chữ do Nghê Khuông viết thay Kim Dung khi ông đi xa cũng bị loại đi và nhiều đoạn mới được thêm vào. Những tên nhân vật cũng nhiều thay đổi và chắc chắn nhiều người sẽ đặt câu hỏi về việc đó. Tuy nhiên, một cách thường tình thì bản cuối cùng bao giờ cũng là bản mà tác giả vừa ý nhất.
Bộ này được viết lần đầu năm 1963, đăng liên tục trên Minh Báo ở Hongkong và Nam Dương thương báo ở Singapore, tổng cộng bốn năm mới hoàn thành. Bản tu đính – tức bản đã được Kim Dung sửa lại hoàn tất tháng 10 năm 1978 và ấn bản lần đầu vào năm 1979. Cũng như mọi bộ truyện khác, mỗi chương có một tấm hình nhưng trong Thiên Long Bát Bộ lại vẽ theo lối thủy mặc thành thử người dịch không thể dùng dạng bitmap (bmp) để scan cho nhỏ mà phải dùng dạng jpg nên thường phải từ 500K trở lên. Việc đưa vào mỗi chương sẽ biến file theo dạng Microsoft Word rất lớn khiến việc gửi đi trở nên khó khăn, nhất là những bằng hữu ở VN phải download rất bất tiện và tốn kém. Do đó chúng tôi sẽ chỉ gửi tấm hình đó theo yêu cầu và sẽ thiết lập một danh sách riêng cho những người nào muốn sưu tầm cho đủ bộ. Hoặc giả chúng tôi cũng có thể gửi theo dạng pdf (phải dùng Acrobat Reader dể mở) nhưng dĩ nhiên format sẽ cố định và người đọc muốn in ra sẽ không thể sử dụng khổ giấy khác khổ 8.5 x 11 là khổ mà người dịch dùng để setup tại Hoa Kỳ.
Mỗi câu chuyện xoay quanh một chủ đề, Ỷ Thiên Đồ Long Ký là câu chuyện của kiếm Ỷ Thiên và đao Đồ Long còn Thiên Long Bát Bộ thì nói lên cái phức tạp và đa dạng của con người. Trước đây khi dịch ra tiếng Việt người ta đã chia ra thành nhiều bộ nhỏ hơn (có lẽ vì mục tiêu thương mại) như Lục Mạch Thần Kiếm, Thiên Long Bát Bộ, Nhất Dương Chỉ ... nhưng nguyên tác của Kim Dung chỉ có một Thiên Long Bát Bộ mà thôi. Kim Dung đã giải thích cái tên này như sau:
Thiên Long Bát Bộ là chữ lấy từ kinh Phật. Trong kinh của Phật Giáo đại thừa có kể lại khi đức Phật thuyết pháp cho các bồ tát, tì khưu thường có tám loại động vật đến nghe. Kinh Pháp Hoa, trong phẩm Đề Bà Đạt Đa có chép:
Thiên long bát bộ, nhân dữ phi nhân, giai dao kiến bỉ Long Nữ thành Phật. (Trong tám loại chúng sinh trên trời, người cũng như không phải người đều thấy được Long Nữ thành Phật)
Phi nhân là nói về những giống trông thì hình dáng như người nhưng lại không phải người. Tám hạng đó đều là “phi nhân” là những hạng thần vật mà Thiên và Long đứng đầu nên được gọi là Thiên Long Bát Bộ. Tám loại đó gồm có: Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Gia ø.
- Thiên là thiên thần (Deva), trong Phật giáo không phải là cao hơn hết nhưng chỉ được hưởng phúc báu lâu dài, to lớn hơn người mà thôi. Thiên thần vẫn còn trong cõi sinh tử, có sống có chết. Trước khi chết thiên thần sẽ có năm triệu chứng: quần áo mủn nát, hoa trên đầu héo hon, thân thể ô uế, nách chảy mồ hôi, đứng ngồi không yên là thời kỳ đau buồn nhất của các thiên thần. Có mười hai thiên thần quan trọng nhất tượng trưng cho tám hướng và bốn tinh thể của vũ trụ mặt trời, mặt trăng, bầu trời và mặt đất. Đế Thích là lãnh tụ của mọi thiên thần.
- Long là long thần (Naga), nhưng rồng trong kinh Phật không có chân, trông giống như một con mãng xà lớn. Quan niệm về rồng và về Long Vương của Trung Hoa chính là vay mượn từ trong kinh Phật mà ra. Người Ấn Độ ngày xưa rất sùng bái Long Vương, cho rằng rồng là chúa tể các loài trong nước nên người Trung Hoa thường dùng chữ long để chỉ những gì cao quí và đức hạnh. Trong kinh có chép là một con rắn tên là Mucilinda da cuộn thành một cái tàn che cho đức Phật nhập định trong một cơn giông bão và nhiều con rắn thần khác thường giả dạng người đến để nghe Thế Tôn thuyết pháp.
- Dạ Xoa là một loại quỉ thần (nguyên nghĩa dạ xoa là thần ăn được quỉ), rất mẫn tiệp, nhẹ nhàng, chia làm ba giống ở trên đất, trên chốn không hư và trên trời. Ngày nay nói đến dạ xoa chỉ hàm một nghĩa ác quỉ (chắc tại ảnh hưởng của truyện Tây Du Ký) nhưng trong kinh Phật thì có nhiều dạ xoa rất tốt. Dạ Xoa Bát Đại Tướng có nhiệm vụ bảo hộ chúng sinh.
- Càn Thát Bà (Apsaras) là một giống không ăn thịt, không uống rượu chỉ sống bằng mùi hương là một trong những nhạc thần phục thị Đế Thích, thân thể có mùi thơm. Theo nghĩa Phạn văn, Càn Thát Bà có nghĩa là biến ảo khôn lường vì mùi hương và âm nhạc đều mênh mang không sao cân đo được.
- A Tu La (Ashura) là một loại thần đặc biệt, đàn ông thì thật xấu xa còn đàn bà thì thật xinh đẹp. A Tu La Vương thường đánh nhau với Đế Thích vì một bên có đồ ăn, một bên có mỹ nữ nên thường muốn chiếm đoạt của nhau. A Tu La tính tình đố kỵ thích tranh giành là một trong những ẩn dụ của nhà Phật để nói về tính xấu xa của con người.
- Ca Lâu La (Garuda) là một giống chim lớn, đầu có một cái bướu to gọi là Như Ý Châu. Loài chim này tiếng kêu bi thảm, trong thần thoại Trung Hoa gọi là Đại Bàng Kim Sí Điểu (chim đại bàng cánh vàng) mà danh tướng Nhạc Phi là hóa thân đầu thai. Giống chim này thích ăn rồng, mỗi ngày phải bắt được một long vương hay 500 con rồng con để ăn thịt. Vì nó ăn thịt rồng (độc xà) nhiều quá nên khi chết chất độc xông lên cháy tiêu thành tro, chỉ còn một trái tim xanh biếc. Hình của chim này thầy nhiều ở các đền thờ tại Cam Bốt.
- Khẩn Na La giống người mà không phải là người, đầu có sừng, giỏi múa hát cũng là nhạc thần của Đế Thích.
- Ma Hầu La Gia là một vị thần rắn cực lớn, thân hình là người nhưng đầu là đầu rắn.
Những con vật huyền thoại này có lẽ là do ảnh hưởng của những vị thần của Ấn Độ giáo (Hindu) và thường xen lẫn trong những truyện thần thoại của nhiều dân tộc ở Nam và Tây Á không hoàn toàn là của Phật Giáo. Trong những tranh vẽ, điêu tượng của Đông Á chúng ta ít thấy những hình tướng của thiên long bát bộ ngoại trừ một số bích họa từ đời Đường trở về trước ở Tân Cương. Người Việt chúng ta có thể nói hoàn toàn xa lạ với những hình ảnh này, ngay cả trong giới tu sĩ cũng ít người nghiên cứu đến.

                                                        
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2011 09:07:05 | Chỉ xem của tác giả
Thiên Long Bát Bộ lấy địa bàn là nước Đại Lý đời Bắc Tống (vào khoảng đời Tiền Lê và đời Lý bên mình). Nước Đại Lý nằm ở phía Tây Trung Hoa, Tây Bắc nước ta địa bàn tỉnh Vân Nam bây giờ, nổi tiếng với nhiều loại kỳ hoa dị thảo, đặc biệt là trà gồm cả trà uống (tea) và cây hoa trà (camelia). Theo sử sách, khoảng năm 937 Đoàn Tư Bình sau khi chiếm được nước Nam Chiếu lập nên nước Đại Lý. Đại Lý là một quốc gia theo Phật giáo Mật tông (Acarya), từ vua tới dân đều sùng đạo, vua thường tại vị một thời gian rồi xuất gia làm sư. Truyền thống đó ảnh hưởng đến nước ta và đời Lý đời Trần nhiều người cũng nhường ngôi rồi đi tu, làm Thái Thượng Hoàng.
Nước Đại Lý kéo dài 316 năm, 22 đời vua trong đó có mười người bỏ ngôi đi tu, hai người được đề cập trong Thiên Long Bát Bộ là Bảo Định Đoàn Chính Minh và Trung Tông Đoàn Chính Thuần. Một người khác cũng được Kim Dung nói đến là Cảnh Tông Đoàn Chính Hưng (Kim Dung lại viết là Đoàn Trí Hưng) hay Đoàn Hoàng Gia Nam Đế trong Anh Hùng Xạ Điêu. Ông này cũng là con cháu họ Đoàn trong Thiên Long Bát Bộ.
Người Đại Lý thuộc giống người Thái, trải rộng từ Vân Nam qua bắc Thái Lan, Lào và thượng du Bắc Việt. Người Thái gồm nhiều sắc dân như Thái Trắng, Thái Đen, Thái Đỏ, người Thổ, người Nùng. Sau khi Đại Lý bị người Mông Cổ thôn tính, người Thái còn trốn lánh trong rừng sâu và di chuyển xuống phía Nam và Tây Nam và là thủy tổ của người Thái Lan ngày nay.
Thiên Long Bát Bộ được đặt trong bối cảnh Bắc Tống, đời vua Triết Tông Nguyên Tá, niên hiệu Thiệu Thánh khoảng cuối thế kỷ thứ 11. Kim Dung dùng cái tên Thiên Long Bát Bộ là để chỉ những biến hóa phức tạp của câu chuyện, ly kỳ chẳng khác gì những chuyện cổ tích của Ấn Độ mà Phật Giáo mượn làm ẩn dụ. Mật tông được truyền vào Trung Hoa do ba nhà sư Thiên Trúc là Thiện Vô Úy (Subhnakarasimha), Kim Cương Trí (Vajrabodhi) và Bất Không Kim Cương (Amoghavajra) vào khoảng đầu thế kỷ thứ 8 chú trọng đến niệm kinh, bắt ấn, sử dụng Mạn đà la và quán đỉnh. Giáo pháp được thầy truyền qua trò bằng lời nên không được phổ biến rộng rãi.
Phật giáo Mật Tông pha trộn đủ màu sắc, nặng phần nghi thức, đôi khi mê tín mặc dầu những khu vực chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa chuyên chở khá nhiều tính nghệ thuật, điển hình là những điêu tượng và tranh vẽ mà người ta phát hiện ở Vân Nam, Tân Cương, nhất là tại Đôn Hoàng. Chính vì màu sắc nhiều thần bí của thời sơ khai, các tôn giáo bản địa nhất là Nho giáo đã có những xung khắc đáng kể với Phật giáo. Đời Đường, Hàn Dũ (768 - 824) đã dâng sớ xin ngăn cấm đạo Phật dẫn tới việc phá hủy 5000 chùa lớn và 40,000 am nhỏ. Mấy trăm ngàn tăng sĩ và nữ ni bị bắt buộc phải hoàn tục. Điều đó cũng không phải là không hay vì chính từ đó Thiền tông Trung Hoa có cơ hội nảy nở, xây dựng những cơ sở triết học thanh thoát hơn và tạo ra hẳn một trường phái mới, tổng hợp được nhiều ưu điểm, nhấn mạnh vào việc “kiến tính thành Phật” và xa rời việc thờ cúng thần tượng và nghi lễ.
Tuy nhiên, Kim Dung lại khai thác được những hình thái thần bí của tôn giáo làm chất liệu khiến câu chuyện trở nên hấp dẫn hơn. Quan Âm bồ tát đã được thế tục hóa qua một vương phi tự hiến thân cho một người ăn mày để sinh ra một đứa con hoang giải quyết hầu như toàn bộ những khúc mắc triền miên từ đầu đến cuối. Lẽ dĩ nhiên, chi tiết tưởng tượng kia khiến cho câu chuyện thêm li lỳ, tuyệt nhiên không phải là một cách giải thích những căn bản giáo lý.
Ngoài Phật giáo Mật Tông đã đóng một vai trò khá quan trọng làm nền tảng cho nhiều tình tiết của câu chuyện, hai đề tài khác chúng ta cũng cần biết thêm, mỗi đề tài đều bao quát đáng trở thành một nghiên cứu riêng. Trong phần giới thiệu này chúng tôi chỉ đề cập đến một cách khái quát.
Thứ nhất là ngoài môn Nhất Dương Chỉ, họ Đoàn Đại Lý còn một tuyệt kỹ khác là Lục Mạch Thần Kiếm, một loại kiếm khí dùng sáu kinh mạch của hai bàn tay để sử dụng.
- Thủ thái âm phế kinh bắt đầu ở trung tiêu, đi vòng xuống ruột già rồi chạy lên ngực, yết hầu đi ra cánh tay và chấm dứt ở đầu ngón tay cái.
- Thủ dương minh đại trường kinh bắt đầu từ đầu ngón tay trỏ chạy lên vai rồi chia thành hai nhánh, một nhánh xuống ruột già, một nhánh lên đầu chấm dứt ở cạnh mũi.
- Thủ thiếu âm tâm kinh bắt đầu từ tim chia ra ba nhánh, một nhánh qua hoành cách mạc xuống ruột non, một nhánh theo thực quản lên mắt, và một nhánh đi qua phổi, sang tay tới ngón tay út.
- Thủ thái dương tiểu trường kinh bắt đầu từ ngoài ngón tay út chạy theo tay lên vai gặp đốc mạch ở huyệt đại truy chi thành hai nhánh, một nhánh đi xuống ruột non, một nhánh chạy lên mặt đi vào tai.
- Thủ quyết âm bao tâm kinh bắt đầu từ ngực nối liền tam tiêu rồi chạy ra cánh tay tới ngón tay giữa.
- Thủ thiếu dương tam tiêu kinh khởi đầu từ ngón tay đeo nhẫn chạy theo tay lên vai chia thành hai nhánh một nhánh nối liền tam tiêu, một nhánh chạy lên cổ vòng qua tai rồi ngừng lại tại mắt.
Thủ thái âm PHẾ kinh, thủ quyết âm TÂM BAO kinh và thủ thiếu âm TÂM kinh là ba đường kinh ÂM nằm ở bên trong cánh tay, gọi là THỦ TAM ÂM thuộc lý (bên trong) dẫn chân khí từ ngực chạy vào tay.
Thủ dương minh ĐẠI TRƯỜNG kinh, thủ thiếu dương TAM TIÊU kinh, và thủ thái dương TIỂU TRƯỜNG kinh nằm ở mặt ngoài cánh tay gọi là THỦ TAM DƯƠNG, thuộc biểu (bên ngoài) từ tay chạy lên đầu.
Thứ hai một đặc sản của nước Đại Lý là hoa trà cũng được nhắc tới khá nhiều. Khi đề cập tới vùng Vân Nam, người Trung Hoa vẫn thường tự hào là ở đây có tám loại danh chủng nổi tiếng trên thế giới gồm có sơn trà (camelia), đỗ quyên (azalea), mộc lan (magnolia obovata), báo xuân, bách hợp (lily), phương lan (cymbidium), long đảm (gentian), lục nhung hao.
Sơn trà của Đại Lý đã biến câu chuyện trở nên thơ mộng và thú vị khi chúng ta nghe Đoàn Dự luận về hoa trà với Vương phu nhân sau đây:
Vương phu nhân vẻ mặt đắc ý, nói:
- Đoàn công tử, nước Đại Lý của cậu hoa trà rất nhiều, nhưng nếu so sánh với của ta chắc không thể bì kịp.
Đoàn Dự gật đầu:
- Những hoa trà loại này dân Đại Lý chúng tôi chẳng ai trồng cả.
Vương phu nhân cười khanh khách:
- Thật ư?
Đoàn Dự nói:
- Những người dân quê mùa tầm thường ở Đại Lý cũng biết các loại hoa này phẩm chất kém cỏi, trồng chẳng cao sang gì.
Vương phu nhân mặt biến sắc, giận dữ nói:
- Ngươi nói sao? Ngươi bảo hoa trà ta trồng là loại tục phẩm ư? Nói như thế chẳng hóa, chẳng hóa .... khinh người quá lắm.
Đoàn Dự nói:
- Phu nhân tin hay không tin cũng tùy ở người.
Chàng vừa nói vừa chỉ một cây hoa trà ngũ sắc trước lầu:
- Giá thử như cây này, bà tưởng nó quí lắm ư. Hứ, đẹp thật, cái lan can này thật là đẹp, thật là đẹp.
Chàng tấm tắc khen cái lan can đẹp mà hoa thì chẳng nhắc đến một câu khác nào người xem chữ viết, không nhắc đến chữ mà chỉ khen lấy khen để mực đen và giấy tốt.
Cây hoa trà đó vừa trắng vừa đỏ, vừa tía vừa vàng, sắc hoa thật là rực rỡ, từ trước tới nay Vương phu nhân vẫn coi là trân phẩm. Nay thấy Đoàn Dự có vẻ xem thường nên lông mày bà nhướng lên, mắt lộ sát ý. Đoàn Dự nói:
- Xin hỏi phu nhân, giống hoa này ở Giang Nam gọi tên là gì?
Vương phu nhân hậm hực đáp:
- Chúng tôi chẳng gọi tên gì đặc biệt, chỉ gọi là hoa trà Ngũ Sắc.
Đoàn Dự mỉm cười:
- Đại Lý chúng tôi có đặt cho nó một cái tên, gọi là Lạc Đệ Tú Tài (thư sinh thi hỏng).
Vương phu nhân hừ một tiếng:
- Cái tên sao khó nghe làm vậy, chắc ngươi tiện mồm đặt ra chứ gì. Cây hoa đẹp đẽ như thế, sao lại giống gã thư sinh thi hỏng?
- Phu nhân thử nhìn lại xem, cây hoa này cả thảy tất cả mấy màu.
Vương phu nhân nói:
- Ta đã đếm qua, cũng phải có đến 15, 16 màu khác nhau.
Đoàn Dự nói:
- Cả thảy đúng ra là 17 màu. Đại Lý có một loại hoa quí giá nổi tiếng tên gọi Thập Bát Học Sĩ. Đó là thiên hạ cực phẩm, trên cây có đủ 18 đóa hoa, mỗi đóa một màu khác nhau, hồng thì toàn hồng, tía thì toàn tía, không một mảy lẫn lộn. Nhưng cả 18 đóa hoa mỗi đóa hình trạng khác nhau, mỗi đóa một vẻ, nở thì cùng nở, tàn thì cùng tàn, phu nhân đã thấy bao giờ chưa?
Vương phu nhân nghe qua thẫn thờ, lắc đầu:
- Trên đời này lại có loại hoa như thế sao? Đến nghe nói tới ta cũng chưa nghe bao giờ.
Đoàn Dự nói:
- So với Thập Bát Học Sĩ kém một mức là Thập Tam Thái Bảo là 13 đóa hoa khác nhau trên cùng một cây. Rồi đến Bát Tiên Quá Hải là 8 đóa khác nhau một cây. Thất Tiên Nữ là 7 đóa. Phong Trần Tam Hiệp là ba đóa. Nhị Kiều là một trắng một đỏ hai đóa. Nói đến hoa trà là phải thuần sắc, nếu như trong đỏ có lẫn trắng, trong trắng lẫn tía thì là hạ phẩm rồi.
Vương phu nhân bỗng nhiên đờ đẫn, nhìn về xa xăm, nói một mình:
- Sao y không nói cho ta biết nhỉ?
Đoàn Dự nói tiếp:
- Trong Bát Tiên Quá Hải có cả hoa màu tía sậm và màu hồng nhạt, đó là Lý Thiết Quài và Hà Tiên Cô, nếu thiếu hai màu đó, dù là tám màu khác nhau cũng không được gọi là Bát Tiên Quá Hải mà gọi là Bát Bảo Trang, tuy cũng là danh chủng nhưng so với Bát Tiên Quá Hải còn thua một bậc.
Vương phu nhân nói:
- Nguyên lai như thế.
Đoàn Dự lại tiếp:
- Trở lại Phong Trần Tam Hiệp cũng có chính phẩm và phó phẩm. Nếu là chính phẩm, trong ba đóa thì đóa màu tía phải to nhất, đó là Cầu Nhiêm Khách, đóa màu trắng nhỏ hơn, đó là Lý Tịnh, đóa màu hồng nhỏ nhất nhưng cũng kiều diễm nhất đó là Hồng Phất Nữ. Nếu như hoa màu hồng lại to hơn hoa màu tía, hoa màu trắng thì là phó phẩm, hai đằng một trời một vực.
Người ta đã bảo quen thuộc như đồ trong nhà mình. Trong nhà Đoàn Dự có tất cả những loại này nên chàng nói ra vanh vách đâu ra đấy. Vương phu nhân nghe thật thích thú thở dài:
- Đến phó phẩm ta cũng chưa được nhìn qua nói gì chính phẩm !
Đoàn Dự chỉ vào cây hoa trà ngũ sắc nói:
- Còn loại hoa trà này, nếu luận về sắc so với Thập Bát Học Sĩ còn kém một, lại không thuần, nở thì khi sớm khi muộn, hoa thì đóa nhỏ đóa to. Chẳng khác gì Đông Thi giả nhăn mặt, học đòi làm Thập Bát Học Sĩ thì không xong. Vì thế chúng tôi đặt cho cái tên Lạc Đệ Tú Tài.
Quả thật khi đọc xong đoạn này, chúng tôi cũng tò mò đi tìm tài liệu để xem những gì Kim Dung viết ra là có thực hay chỉ do óc tưởng tượng phong phú của ông nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả như ý. Theo những sách vở chúng tôi có trong tay, đặc biệt là cuốn Vân Nam Phong Vật Chí (Dư Gia Hoa, Vân Nam Nhân Dân xb 1984) trong đó có những chương nghiên cứu khá công phu về hoa trà nhưng không thấy nói đến những chủng loại mà Kim Dung đã đề cập.
Trên thế giới có chừng hơn tám mươi loại hoa trà (không kể những giống được lai tạo) thì Vân Nam đã có khoảng ba mươi lăm loại. Trong những loại hoa trà danh tiếng ở Vân Nam người ta thấy có đồng tử diện, tuyết sư, tùng tử lân, tử bào, kim đái, ngân đái, mẫu đơn trà, hận thiên cao, điệp sí, liễu diệp ngân hồng, tảo đào hồng, kim biên mẫu đơn, thông thảo phiến ... mỗi loại có một đặc điểm.
Hiện nay tại nhiều danh thắng, cổ tích tại hai tỉnh Vân – Quí còn nhiều cây trà cổ thụ, mỗi năm ra hàng vạn đóa hoa, chẳng hạn như tại chùa Ngọc Phong bên bờ sông Lệ chân núi Ngọc Long còn một cây trà kép dính liền hai loại với nhau nên màu sắc rất phong phú. Cây trà này trồng từ đời Minh Thành Hóa (thế kỷ thứ 15) tính ra đã hơn 500 năm được mệnh danh là “đệ nhất hoàn cầu”. Tần Nhân Xương, một thực vật gia Trung Hoa đã nói:
- Vua các loài trà trên thế giới là ở Trung Hoa, vua các loài trà của Trung Hoa là ở Vân Nam, vua các loài trà của Vân Nam là hoa trà ở Lệ Giang.
Quách Mạt Nhược, một thi sĩ nổi tiếng của Trung Hoa đầu thế kỷ 20 khi đến Vân Nam đã cảm tác một bài thơ như sau:
Những tưởng trà kia ưa quí tộc,
Ai ngờ dân dã cũng đầy sân.
Mẫu đơn ai nấy đều ca tụng,
Ta nghĩ hoa trà trội mẫu đơn.
(Diễm thuyết trà hoa thị tỉnh hoa,
Kim lai thủy kiến mãn thành hà.
Nhân nhân đô đạo mẫu đơn hảo,
Ngã đạo mẫu đơn bất cập trà)
Khi làm một số nghiên cứu nho nhỏ về đất Vân Nam – Quí Châu, người dịch đôi khi cũng thấy bồi hồi khi đọc tới những chi tiết địa phương rất gần gũi với người Việt chúng ta, nhất là về một số sắc tộc thiểu số mà nhiều học giả cho rằng cùng giống với người mình. Chắc chắn nếu có những khảo sát qui mô, chúng ta có thể tìm được khá nhiều di tích văn hóa còn lưu lại ở miền nam Trung Hoa để có cái nhìn chính xác hơn về lịch sử, truyền thống và nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. Một người bạn tôi sau những chuyến du lịch ở Quảng Châu, đi vào những vùng xa xôi hẻo lánh để nghiên cứu về âm nhạc, đối chiếu với những điệu dân ca của mình đã phải ngạc nhiên về sự tương đồng khó hiểu giữa sinh hoạt của người Tàu ở Nam Trung Hoa và người miền Bắc nước ta. Biết đâu trong khi dịch Thiên Long Bát Bộ chúng ta sẽ cùng nhau tìm ra được một điểm nào mới mẻ chăng?
Cũng như Ỷ Thiên Đồ Long Ký, chúng tôi mong mỏi được sự tiếp tay của quí bằng hữu trong mọi lãnh vực để cùng nhau chia xẻ niềm vui khi đọc Thiên Long Bát Bộ.
                                                         Tháng 5/01
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2011 09:16:44 | Chỉ xem của tác giả
                                                                                              Hồi 1

                                                             THANH SAM LỖI LẠC HIỂM PHONG HÀNH

                                                                                     Sểnh nhà cất bước đi ra,
                                                               Áo xanh Tư Mã xông pha hiểm nghèo.


Ánh sáng xanh lấp loáng, mũi kiếm thép nhắm ngay vào vai trái của hán tử trung niên đâm tới. Người thanh niên sử kiếm không đợi cho kiếm chiêu hoàn tất, cổ tay rung một cái kiếm mũi kiếm ngóc lên đâm xéo vào bên phải cổ đối phương. Người trung niên giơ kiếm gạt ra, nghe keng một tiếng, hai thanh kiếm chạm nhau tiếng ngân u u chưa dứt đã trao đổi được ba chiêu. Hán tử trung niên giơ kiếm nhắm giữa đỉnh đầu thanh niên chém xuống, thanh niên né qua bên phải, kiếm quyết bên tay trái lướt theo, thanh kiếm liền chúc xuống đâm vào đùi kẻ địch.
Hai người kiếm pháp nhanh nhẹn, ra hết sức đấu với nhau.
Trong luyện võ sảnh, phía bên đông có hai người ngồi. Ngồi trên là một đạo cô trung niên tuổi trạc trên dưới bốn mươi, mặt hầm hầm, môi mím chặt. Ngồi bên dưới là một ông già tuổi trên dưới năm mươi, giơ tay vuốt chòm râu dài, mặt mày thật đắc ý. Hai người ngồi cách nhau chừng hơn một trượng, đằng sau đứng phải đến trên hai chục đệ tử nam nữ. Phía tây là một hàng ghế ngồi chừng hơn chục tân khách, cả hai phía ai nấy chăm chú theo dõi cuộc giác đấu.
Chỉ một thoáng chàng thanh niên và hán tử trung niên đã trao đổi đến hơn bảy chục chiêu, càng lúc càng gay go nhưng chưa có vẻ gì phân thắng bại. Đột nhiên người trung niên dùng sức đâm mạnh ra một kiếm, thân hình hơi lảo đảo, dường như muốn ngã. Một chàng trai trẻ tuổi mặc áo dài xanh trong số khách ngồi phía tây nhịn không nổi cười hộc lên một tiếng. Y lập tức biết mình thất thố, vội vàng giơ tay bịt miệng.
Ngay lúc đó, nghe vù một tiếng thanh niên đã giơ tay trái nhắm ngay lưng hán tử nọ đánh ra. Người đàn ông liền tiến lên một bước tránh được, trường kiếm trong tay vòng lại, quát lên một tiếng:
- Trúng!
Đâm ngay vào đùi thanh niên, một chân y liền khuỵu xuống, trường kiếm chống xuống đất đứng lên toan đấu tiếp nhưng người trung niên đã tra kiếm vào vỏ, cười nói:
- Cám ơn Chử sư đệ đã nhường nhịn, vết thương không nặng chứ?
Thanh niên kia mặt tái đi, bậm môi nói:
- Đa tạ Cung sư huynh đã nương tay.
Ông già râu dài mặt mày dương dương, mỉm cười:
- Đông Tông đã thắng được ba trận rồi, xem chừng Kiếm Hồ Cung lại nhường Đông Tông ở thêm năm năm nữa. Tân sư muội, mình liệu có còn phải đấu thêm nữa chăng?
Người đạo cô ngồi bên dưới cố nén lửa giận, nói:
- Tả sư huynh quả thực huấn luyện được học trò giỏi thật. Thế nhưng không biết Tả sư huynh nghiên cứu Vô Lượng Ngọc Bích năm năm qua đã được gì chưa?
Người râu dài trừng mắt nhìn bà ta, nghiêm mặt nói:
- Sư muội không lẽ quên qui củ của bản phái rồi sao?
Người đạo cô hừ một tiếng, không nói thêm tiếng nào nữa. Người đàn ông họ Tả, tên Tử Mục, là chưởng môn Đông Tông của Vô Lượng Kiếm. Đạo cô kia họ Tân, đạo hiệu là Song Thanh, là chưởng môn Tây Tông của Vô Lượng Kiếm.
Vô Lượng Kiếm phái chia ra làm Đông, Tây, Bắc tam tông nhưng Bắc Tông mấy chục năm nay suy đồi, còn Đông Tây hai chi phái nhân tài đông đúc. Vô Lượng Kiếm kiến lập từ thời kỳ Ngũ Đại đời Hậu Đường, sáng phái ở núi Vô Lượng nước Nam Chiếu, người chưởng môn cư ngụ tại Kiếm Hồ Cung. Từ thời Nhân Tông nhà Tống, phái Vô Lượng chia ra làm ba tông, cứ năm năm một lần, môn hạ đệ tử của ba nhánh này lại gặp nhau ở Kiếm Hồ Cung tỉ võ đấu kiếm, bên nào thắng thì được ở Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng năm năm, đến năm thứ sáu thì lại tỉ thí.
Đấu năm trận, bên nào thắng ba coi như thắng. Trong năm năm đó, phe thua dĩ nhiên hết sức tập luyện cốt sao kỳ tới sẽ rửa được cái nhục bại trận, nhưng bên thắng cũng không dám lơ là chút nào. Bắc Tông bốn mươi năm trước thắng trận được vào ở nơi Kiếm Hồ Cung, năm năm sau thua phải ra đi, người chưởng môn bực tức dẫn môn nhân đệ tử dọn qua Sơn Tây, từ đó không còn trở lại tỉ kiếm, cũng không liên lạc gì với hai phe Đông Tông, Tây Tông nữa. Trong hai mươi lăm năm qua, hai phe Đông Tây thắng qua thua lại, Đông Tông thắng bốn lần, còn Tây Tông cũng được hai lần. Gã trung niên hán tử họ Cung kia đấu với thanh niên họ Chử, là trận đấu thứ tư, họ Cung thắng rồi, Đông Tông bốn lần đấu ba lần thắng, lần thứ năm không cần đấu tiếp nữa.
Bên phía tây những người ngồi trên ghế bành gấm là các nhân sĩ phái khác, một số là do chưởng môn hai tông mời đến làm chứng, còn lại là những người đến xem. Những người đó, ngoại trừ một hậu bối vô danh là người thanh niên mặc áo xanh ngồi hàng cuối đã cười khi gã họ Cung bị lỡ trớn, đều là người nổi tiếng trong võ lâm tỉnh Vân Nam.
Thanh niên đó đi theo lão võ sư Mã Ngũ Đức ở Phổ Nhĩ đất Điền Nam đến đây. Mã Ngũ Đức là một nhà buôn trà nổi tiếng , đã giàu có lại hiếu khách, có cái phong vị Mạnh Thường, trên giang hồ nếu ai thất thế chạy đến nhờ vả ông ta đều hết sức tiếp đãi, thành thử quen biết nhiều mặc dầu võ công chỉ tầm thường mà thôi. Tả Tử Mục khi nghe Mã Ngũ Đức đưa tới giới thiệu thanh niên này họ Đoàn. Họ Đoàn là quốc tính của nước Đại Lý trong nước có đến hàng nghìn hàng vạn người nên khi nghe đến Tả Tử Mục không coi vào đâu, nghĩ bụng y hẳn là đệ tử của Mã Ngũ Đức, ngay lão họ Mã bản thân võ công cũng chỉ bình bình, dạy dỗ học trò chắc cũng chẳng đi đến đâu, thành thử ngay cả mấy tiếng khách sáo “Ngưỡng mộ đã lâu” y cũng chẳng thèm nói, chỉ chắp tay, mời vào ngồi mà thôi. Ngờ đâu gã trẻ tuổi này không biết trời cao đất dày là gì, gặp khi đệ tử đắc ý của Tả Tử Mục ra hư chiêu dụ địch lại dám mở miệng cười lên nhạo báng.
Thành thử Tả Tử Mục cười nói:
- Tân sư muội năm nay đưa ra bốn đệ tử, công phu kiếm thuật quả thật cao cường, trận thứ tư này bên chúng tôi thắng cũng chỉ nhờ may. Chử sư điệt tuổi trẻ như thế, vậy mà đã luyện được đến mức đó, tiền đồ thật không biết tới đâu, e rằng năm năm nữa hai bên đông tây chắc sẽ đổi chỗ mất, ha ha, ha ha!
Nói xong y cười ha hả không thôi, đột nhiên đảo mắt nhìn sang thanh niên họ Đoàn nói:
- Đứa học trò kém cỏi của mỗ khi thắng được nhờ sử hư chiêu Trật Phác Bộ, vị Đoàn thế huynh này xem chừng dường như không được vừa ý. Vậy xin Đoàn thế huynh bước ra chỉ điểm cho tiểu đồ một vài miếng có được chăng? Mã ngũ ca uy chấn Điền Nam, dưới tướng giỏi binh ắt không thường, tài nghệ Đoàn thế huynh hẳn là ghê gớm lắm.
Mã Ngũ Đức mặt hơi đỏ lên vội nói:
- Vị Đoàn huynh đệ này không phải đệ tử của ta đâu. Lão ca ca tài nghệ chỉ có vài miếng mèo quào, làm sư phụ được ai? Tả hiền đệ chớ có đem ngu huynh ra làm trò cười. Vị Đoàn huynh đệ đây đến tệ xá ở Phổ Nhĩ, nghe thấy ta sắp đi lên núi Vô Lượng nên cùng đi theo, nói là núi Vô Lượng sơn thủy thanh u nên muốn đến thưởng ngoạn phong cảnh.
Tả Tử Mục nghĩ thầm: “Nếu như y là đệ tử của ngươi thì ta còn nể mặt không nỡ cạn tàu ráo máng, còn như nếu chỉ là một người khách tầm thường thì chẳng phải e dè gì nữa. Kẻ nào dám đến Kiếm Hồ Cung nhạo báng võ công của Đông Tông Vô Lượng Kiếm, nếu không dạy cho y một phen đến đầu đến đũa đuổi xuống núi thì họ Tả này còn mặt mũi nhìn ai?”. Y bèn cười khẩy một tiếng nói:
- Thỉnh giáo đại hiệu của Đoàn huynh là gì, là môn hạ của vị cao nhân nào thế?
Thanh niên họ Đoàn mỉm cười nói:
- Tại hạ tên chỉ có một chữ Dự, trước nay chưa học qua võ nghệ bao giờ. Ta thấy người ta trượt chân, không cần biết ngã giả hay ngã thật đều nhịn không nổi nên cười đấy thôi.
Tả Tử Mục nghe giọng y nói không có vẻ gì cung kính, trong bụng không khỏi bực bội nói:
- Thế thì có gì mà phải cười?
Đoàn Dự phe phẩy cái quạt cầm trong tay, nói tỉnh bơ như không:
- Con người hoặc đứng hoặc ngồi, có gì là đáng cười đâu, có nằm trên giường thì cũng không ai cười cả nhưng nằm dưới đất, ha ha, thế thì đáng cười lắm chứ? Trừ khi là trẻ con lên ba thì mới không kể mà thôi.
Tả Tử Mục nghe y nói càng lúc càng cuồng ngạo, giận muốn sôi lên, quay sang nói với Mã Ngũ Đức:
- Mã ngũ ca, vị Đoàn huynh này có thân với ngũ ca chăng?
Mã Ngũ Đức mới quen Đoàn Dự, hoàn toàn chẳng biết y là người thế nào. Ông ta tính tình vốn hòa nhã, thấy Đoàn Dự đòi đi theo đến núi Vô Lượng không tiện thoái thác nên cho y cùng đi, lúc này nghe giọng Tả Tử Mục có chiều giận dữ, ra tay ắt sẽ ác độc lắm, một thanh niên còn trẻ thế này nỡ nào để cho y bị ăn đòn đau? Ông ta liền đáp:
- Đoàn huynh đệ với ta tuy không thâm giao nhưng cũng đã cùng đến đây. Ta xem Đoàn huynh dáng dấp nho nhã, chắc không biết võ công gì đâu, chỉ vô ý mà buột miệng cười đấy thôi. Thôi bỏ qua đi, lão ca ca bụng đói lắm rồi, Tả hiền đệ mau làm cho một mâm rượu để bọn ta uống mừng hiền đệ ba chén. Hôm nay ngày lành tháng tốt, Tả hiền đệ chấp nhất hạng hậu bối trẻ người non dạ làm gì?
Tả Tử Mục đáp:
- Nếu Đoàn huynh không phải là hảo bằng hữu của Mã ngũ ca, nếu như huynh đệ có đắc tội thì cũng không làm bẽ mặt Mã ngũ ca. Quang Kiệt, hồi nãy người ta cười ngươi, vậy ngươi hạ trường thỉnh giáo xem nào.
Gã trung niên Cung Quang Kiệt chỉ đợi sư phụ nói thế, lập tức rút phăng trường kiếm, bước ra đứng ngay bên ngoài , đảo ngược chuôi kiếm lại, chắp tay hướng về Đoàn Dự nói:
- Xin mời Đoàn bằng hữu!
Đoàn Dự nói:
- Hay lắm, ngươi luyện đi cho ta coi nào.
Y vẫn ngồi trên ghế không đứng lên. Cung Quang Kiệt mặt đỏ bừng, giận dữ nói:
- Ngươi ... ngươi nói sao?
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi cầm thanh kiếm trong tay múa bên đông, chém bên tây, chắc là muốn luyện kiếm, vậy thì cứ làm đi. Ta xưa nay không thích xem ai động đao sử kiếm, nhưng đã đến đây thì cũng đành chịu ngồi xem vậy.
Cung Quang Kiệt quát lên:
- Sư phụ ta bảo ngươi ra đây cùng ta tỉ thí.
Đoàn Dự phe phẩy cái quạt, lắc đầu nói:
- Sư phụ ngươi là thầy của ngươi chứ sư phụ ngươi có phải là thầy của ta đâu. Sư phụ ngươi sai ngươi thì được, chứ sư phụ ngươi làm sao sai được ta? Sư phụ ngươi bảo ngươi đấu kiếm với người ta thì ngươi cứ việc đấu kiếm với người ta. Sư phụ ngươi bảo ta tỉ kiếm với ngươi, thứ nhất ta không biết đấu kiếm, thứ hai ta sợ thua, thứ ba ta sợ đau, thứ bốn ta sợ chết, thành thử ta không đấu. Ta nói không đấu là không đấu.
Y nói một thôi một hồi sư phụ ngươi, sư phụ ta tưởng như líu lưỡi, trong võ sảnh mọi người nghe được, nhịn không nổi phải bật cười. Đám môn hạ Tây Tông Vô Lượng Kiếm của Song Thanh chiếm đến gần nửa, có mấy nữ đệ tử cười khúc khích. Luyện võ sảnh đang trang nghiêm lập tức biến thành một nơi hoạt náo.
Cung Quang Kiệt hung hăng tiến tới, giơ kiếm chỉ ngay vào ngực Đoàn Dự, quát lớn:
- Ngươi có thực không biết võ, hay chỉ giả ngây giả dại?
Đoàn Dự thấy mũi kiếm chỉ cách ngực mình chừng vài tấc nếu như đâm nhẹ một cái thì sẽ trúng ngay tim mình nhưng không tỏ vẻ gì kinh hoảng, nói:
- Ta dĩ nhiên là không biết võ, giả ngây giả dại làm cái gì?
Cung Quang Kiệt nói:
- Ngươi đến Kiếm Hồ Cung núi Vô Lượng phá rối, chắc không muốn sống hay sao? Ngươi là môn hạ của ai? Ai sai ngươi đến? Nếu không nói thực đừng trách kiếm của đại gia vô tình.
Đoàn Dự đáp:
- Ngươi bảo ngươi là đại gia, sao lại hung ác thế? Ta bình sinh không thích xem đánh nhau. Quí phái có tên là Vô Lượng Kiếm, lại ở trong núi Vô Lượng. Trong kinh Phật có dạy rằng: “Có bốn điều vô lượng: một là vô lượng từ, hai là vô lượng bi, ba là vô lượng hỉ, bốn là vô lượng xả. Tứ vô lượng đó quí vị chắc ai cũng hiểu rõ rồi; lấy trong lòng vui là từ, dứt được điều khổ là bi, vui thích khi thấy chúng sinh hết khổ trở thành sung sướng là hỉ, mong chúng sinh bỏ được oán niệm mà thành bình đẳng là xả. Vô lượng thọ Phật chính là Phật A Di Đà. A Di Đà Phật, A Di Đà Phật ...
Y thao thao giảng Phật pháp, niệm kinh, Cung Quang Kiệt thu kiếm về đột nhiên vung tay trái ra, nghe bốp một tiếng, tát cho chàng ta một cái thật đau. Đoàn Dự nghiêng đầu qua toan né tránh thì tay của đối phương đã đánh trúng rồi, khuôn mặt trắng trẻo đã sưng tếu lên, năm ngón tay hiện rõ mồn một.
Mọi người ai nấy hết sức ngạc nhiên, thấy Đoàn Dự không coi địch thủ vào đâu, mồm miệng tuôn ra toàn điều nghe như đùa cợt, ai cũng tưởng chàng ắt mình mang tuyệt nghệ. Ngờ đâu Cung Quang Kiệt tiện tay đánh một chưởng, chàng không tránh được, xem ra quả thực không biết chút võ công nào. Cao thủ võ học cố ý làm như ngớ ngẩn để đùa cợt đối phương cũng là chuyện thường nhưng người không biết võ mà lại lớn mật cuồng ngạo như thế thì chưa hề có. Cung Quang Kiệt mới đánh một chưởng đã trúng cũng không khỏi ngẩn người ra, tiện tay liền chộp ngực Đoàn Dự, nhấc bổng lên, quát lớn:
- Ta cứ tưởng ngươi là một nhân vật ghê gớm thế nào, có biết đâu chỉ là đồ bị thịt.
Nói xong cầm chàng ném xuống đất một cái thật mạnh, Đoàn Dự ngã bịch một cái, đầu đụng ngay vào chân bàn. Mã Ngũ Đức thấy thế thương hại vội chạy tới đỡ lên nói:
- Hóa ra lão đệ không biết võ công thật, vậy thì tới đây làm gì?
Đoàn Dự xoa đầu nói:
- Tôi vốn dĩ chỉ định du sơn ngoạn thủy có biết đâu họ lại tỉ kiếm đánh nhau? Cái trò người nọ giết người kia thì có gì đáng để coi đâu? Thà đi xem người ta đem khỉ ra làm trò còn hay hơn nhiều. Mã ngũ gia, chào ông nhé, thôi tôi đi đây.
Một thanh niên đứng bên cạnh Tả Tử Mục liền nhảy ra, chặn ngay trước mặt Đoàn Dự nói:
- Nếu ngươi không biết võ công, nếu cứ cúp đuôi mà chạy thì chẳng nói làm gì, sao lại dám bảo bọn ta đấu võ tỉ kiếm không bằng khỉ làm trò là sao? Nói thế chẳng khinh người lắm hay sao? Ta cho ngươi chọn một trong hai con đường, hoặc là cùng ta tỉ thí một phen, để xem kiếm pháp không bằng trò khỉ của bọn ta thế nào; hoặc là khấu đầu lạy sư phụ ta tám lạy, tự miệng mình nói ra “Rắm rít” ba lần.
Đoàn Dự cười đáp:
- Ngươi đánh rắm chẳng thối lắm ư?
Gã kia giận quá, giơ quyền đấm luôn vào mặt Đoàn Dự, nghe vù một tiếng, xem ra chàng thể nào cũng vỡ mặt sưng mày. Ngờ đâu quyền vừa đến giữa đường, đột nhiên từ trên không phóng xuống một vật, quấn lấy cổ tay thanh niên. Vật đó lạnh như băng, trơn tuồn tuột, vừa quấn được cổ tay liền ngo ngoe cử động. Thanh niên giật mình kinh hãi, vội vàng rụt tay về, thấy quấn ở tay mình là một con rắn hổ mang màu xanh có chấm đỏ dài chừng một thước, trông thật ghê sợ.
Y hoảng hốt rú lên, vung vẩy mạnh nhưng con rắn vẫn quấn chặt lấy cổ tay, lắc thế nào cũng không tuột ra được. Cung Quang Kiệt đột nhiên kêu lớn:
- Rắn! Rắn!
Mặt y tái mét, giơ tay luồn vào cổ áo mình, mò sau lưng, nhưng nào thấy gì, chỉ đành nhảy tưng tưng, chân tay múa loạn xà ngầu cố cởi áo ra.
Hai biến cố đó thật là quái đản, mọi người còn đang kinh ngạc, bỗng nghe trên đầu có tiếng cười khúc khích. Mọi người ngẩng đầu nhìn lên thấy một thiếu nữ ngồi trên xà nhà, hai tay cầm toàn những rắn là rắn.
Cô gái đó độ chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mặc áo xanh, mặt tươi như hoa, trong tay cầm chừng một chục con rắn nhỏ dài chừng một thước. Những con rắn đó, con thì xanh, con thì hoa, đầu hình tam giác, toàn là rắn độc. Thế nhưng thiếu nữ đó cầm trong tay chẳng khác gì đồ chơi không có vẻ gì sợ hãi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2011 09:23:43 | Chỉ xem của tác giả
Mọi người vừa ngửng lên nhìn cô ta thì nghe Cung Quang Kiệt và gã sư đệ kêu oai oái, vội quay đầu nhìn sang hai người. Thế nhưng Đoàn Dự vẫn nhìn cô ta thấy thiếu nữ đó ngồi đong đưa hai chân, xem chừng ngồi trên xà nhà có vẻ thú vị lắm liền hỏi:
- Cô nương, phải cô cứu tôi đó chăng?
Cô gái đáp:
- Tên ác nhân kia đánh ngươi, sao ngươi không trả đòn?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Tôi không biết đánh trả ...
Bỗng nghe "A" một tiếng, mọi người cùng reo lên, Đoàn Dự nhìn xuống thấy Tả Tử Mục tay cầm trường kiếm, mũi kiếm có lấm tấm máu, một con rắn đã đứt đôi hiển nhiên đã bị y chém chết. Trong khi đó Cung Quang Kiệt đã cởi trần đang nhảy lung tung, một con rắn xanh nhỏ đang chạy trên lưng y, y vòng tay lại định chộp, nhưng mấy lần đều vói không tới.
Tả Tử Mục quát lên:
- Quang Kiệt, đứng yên chớ động đậy.
Cung Quang Kiệt sững người thấy một ánh trắng loáng lên, con rắn xanh đứt làm đôi. Tả Tử Mục vung kiếm nhanh như gió, không ai kịp nhìn y xuất thủ như thế nào giết con rắn mà lưng Cung Quang Kiệt không hề tổn thương mảy may. Mọi người liền lớn tiếng hoan hô.
Thiếu nữ ngồi trên xà nhà kêu lên:
- Ối ối! Lão già râu dài kia, sao lão lại giết chết hai con rắn của ta, ta không thèm nể nang lão nữa đâu.
Tả Tử Mục giận dữ đáp:
- Ngươi là con cái nhà ai, đến đây làm gì?
Tuy thế y trong lòng hơi hoảng, không biết thiếu nữ đến ngồi trên xà nhà từ bao giờ, dẫu rằng ai nấy chăm chú coi hai bên Đông Tông, Tây Tông tỉ kiếm nhưng lẽ nào trên đầu có người mà mọi người lại không hề hay biết. Nếu việc này truyền ra ngoài giang hồ, Vô Lượng Kiếm quả thật bẽ mặt. Thiếu nữ vẫn ngồi đong đưa chân, chân mang một đôi giày màu xanh nhạt, chung quanh thêu mấy đóa hoa nhỏ màu vàng, rõ ràng là cách ăn mặc của một cô gái nhỏ. Tả Tử Mục nói tiếp:
- Nhảy xuống mau!
Đoàn Dự vội kêu lên:
- Cao như thế nhảy xuống thì chết mất. Mau mau bảo ai mang thang đến mới được.
Chàng nói thế lập tức có mấy người cười ồ lên. Mấy cô đệ tử của Tây Tông nghĩ thầm: “Trông anh chàng này mặt mũi cũng sáng sủa, ngờ đâu chỉ là một chàng ngốc. Cô bé này lên ngồi trên xà nhà mà thần không hay, quỉ chẳng biết, khinh công dĩ nhiên chẳng vừa, việc gì phải cần đến thang mới xuống được”.
Cô gái nói tiếp:
- Ông đền hai con rắn cho tôi trước, tôi sẽ xuống nói chuyện với ông sau.
Tả Tử Mục nói:
- Hai con rắn nhỏ thì có đáng gì, bắt ở đâu chẳng được.
Lão ta thấy cô gái nghịch chơi mấy con rắn xem như không, cô ta tuổi còn nhỏ không có gì đáng ngại, có điều sư trưởng cha mẹ cô ta ở đằng sau e rằng là những nhân vật có tiếng tăm, thành thử lời ăn tiếng nói cũng dịu ngọt mấy phần. Cô gái cười nói:
- Sao ông nói dễ nghe thế, ông thử đi bắt hai con cho tôi xem nào.
Tả Tử Mục nói:
- Mau nhảy xuống đi!
Cô gái đáp:
- Tôi không xuống.
Tả Tử Mục nói:
- Ngươi không xuống ta sẽ lên lôi ngươi xuống.
Thiếu nữ cười khanh khách:
- Ông có giỏi thử lên bắt tôi xuống xem nào!
Tả Tử Mục là tông sư một môn phái, ở trước mặt biết bao nhiêu hảo thủ võ lâm, môn hạ đệ tử, lẽ nào lại cùng một cô gái nhỏ đôi co nên quay sang nói với Song Thanh:
- Tân sư muội, nhờ sư muội cho một nữ đệ tử lên bắt nó xuống dùm.
Song Thanh đáp:
- Trong môn hạ của Tây Tông chẳng có ai khinh công giỏi như thế cả.
Tả Tử Mục sầm mặt xuống, đang định đáp lời bỗng nghe thiếu nữ nói:
- Ông không chịu đền rắn cho tôi, để tôi cho ông biết tay.
Cô ta mở chiếc túi da bên hông lôi ra một vật gì lông lá ném về phía Cung Quang Kiệt. Cung Quang Kiệt nghĩ rằng đó là một thứ ám khí ghê gớm nên không đám đưa tay bắt, vội vàng tránh sang một bên, không ngờ cái vật lông lá đó lại rất nhanh nhẹn, ở trên không chỉ uốn một cái đã phóng ngay lên lưng Cung Quang Kiệt. Mọi người bấy giờ mới nhìn rõ, thì ra đó là một con chồn nhỏ màu xám nhạt. Con chồn đó nhanh nhẹn dị thường, luồn qua luồn lại trên lưng, trên ngực, trên cổ, trên mặt Cung Quang Kiệt. Cung Quang Kiệt giơ hai tay chộp, thế nhưng tuy y ra tay đã nhanh, con chồn kia còn nhanh gấp mười, thành thử chộp luôn mấy lần đều hụt cả. Người chung quanh thấy y giơ chân múa tay, chộp hết lên lưng lại lên ngực, vỗ trên mặt lại đập lên cổ nhưng con chồn kia vẫn chạy thoăn thoắt không ngừng.
Đoàn Dự cười nói:
- Hay thật! Hay thật! Con chồn này giỏi quá!
Con chồn đó dài chưa đầy một thước, mắt đỏ chót, bốn chân dường như móng sắc lắm nên chỉ giây lát, thân hình trần trùng trục của Cung Quang Kiệt đã đầy những vết xước. Bỗng nghe thiếu nữ chúm miệng huýt mấy tiếng còi, một bóng trắng thấp thoáng, con chồn kia liền chồm lên mặt Cung Quang Kiệt, cái đuôi rậm rì quật ngay vào mắt y. Cung Quang Kiệt vội đưa hai tay ra chộp nhưng con chồn đã luồn ra sau cổ, mấy ngón tay Cung Quang Kiệt liền chộp ngay vào mắt mình.
Tả Tử Mục tiến lên hai bước, trường kiếm đâm ra nhưng lúc đó con chồn đã vọt lên mặt Cung Quang Kiệt, Tả Tử Mục liền vung kiếm đâm theo. Con chồn rụt người lại, chui ra sau cổ Cung Quang Kiệt, kiếm của Tả Tử Mục vừa chạm vào mí mắt Cung Quang Kiệt liền ngừng lại ngay. Tuy nhát kiếm đó đâm không trúng con chồn nhưng người đứng ngoài ai nấy đều thán phục, mũi kiếm nếu chỉ đâm thêm nửa tấc, bên mắt đó của Cung Quang Kiệt sẽ bị hủy ngay. Song Thanh nghĩ thầm: “Kiếm thuật Tả sư huynh ghê gớm thật, ta không thể nào bì kịp. Chỉ riêng chiêu Kim Châm Độ Kiếp đó ta chẳng tài nào cao siêu đến mức đó được”.
Soẹt soẹt soẹt soẹt bốn tiếng, Tả Tử Mục đã đâm ra bốn nhát liền, kiếm chiêu tuy nhanh lạ thường nhưng con chồn kia vẫn nhanh hơn một bước. Cô gái kêu lên:
- Này lão râu dài kia, kiếm pháp ông giỏi nhỉ.
Cô ta lại huýt thêm hai tiếng nữa, con chồn đó liền nhảy xuống đất, thoắt một cái đã biến đi đâu mất. Tả Tử Mục còn đang ngơ ngẩn đã thấy Cung Quang Kiệt hai tay chộp loạn xạ lên đùi mình, thì ra con chồn đã luồn theo ống quần y chạy lên. Đoàn Dự cười sằng sặc, vỗ tay nói:
- Hôm nay quả được mở mắt, thật vui hết sức.
Cung Quang Kiệt hốt hoảng cởi luôn quần dài, lộ hai cái đùi mọc đầy lông đen. Thiếu nữ nói:
- Ngươi là tên ác ôn chỉ giỏi ăn hiếp người khác, để cho ngươi lột trần như nhộng xem có biết xấu hổ không nào.
Nàng lại toét toét huýt mấy tiếng còi, con chồn lập tức nghe lời, không bám vào đùi y nữa mà chui ngay vào quần lót. Trong luyện võ sảnh có rất đông phụ nữ, Cung Quang Kiệt không thể nào cởi luôn cả quần lót được, hai chân nhảy tưng tưng, hai tay đập liên tiếp lên bụng lên mông, hét lên một tiếng lếch thếch chạy vội ra ngoài.
Y vừa chạy đến cửa sảnh bỗng đâu có một người từ ngoài chạy vào, nghe bình một tiếng, hai người đụng nhau một cái đích đáng. Một người chạy ra, một người chạy vào hai bên đều gấp, Cung Quang Kiệt bị bắn ngược về sau, còn người ở ngoài chạy vào kia cũng ngã lăn cù. Tả Tử Mục thất thanh kêu lên:
- Dung sư đệ!
Cung Quang Kiệt không lý gì đến con chồn đang chạy từ đùi bên trái sang đùi bên phải, rồi từ đùi bên phải chạy lên mông, lật đật chạy tới đỡ người kia dậy, con chồn lập tức nhảy tới cào vào ngay chỗ hiểm. Y kêu “A” lên một tiếng, hai tay chộp vào con chồn, người kia lại ngã lăn ra.
Cô gái ngồi trên xà nhà cười khúc khích nói:
- Cho ngươi đáng kiếp.
Nàng huýt một tiếng dài, con chồn liền từ trong quần Cung Quang Kiệt chạy ra, theo tường thoăn thoắt trèo lên, chỉ thấy một bóng trắng thấp thoáng đã chui ngay vào lòng cô gái. Cô gái khen:
- Chồn ngoan lắm.
Nàng lấy hai ngón tay nhón đuôi một con rắn nhỏ, giơ lên nhứ nhứ trước mặt con chồn. Con vật liền giơ chân trước vồ lấy, há miệng ăn ngay, thì ra những con rắn nhỏ trong tay nàng là đồ ăn của con vật.
Đoàn Dự từ trước tới nay chưa thấy bao giờ nên xem chừng thú vị lắm, thấy con chồn đã ăn xong con rắn nhỏ liền chui ngay vào trong cái túi da ở bên hông nàng. Cung Quang Kiệt lại đỡ người kia lên kinh hoảng kêu lên:
- Dung sư thúc, sư thúc ... sao thế này!
Tả Tử Mục vội tiến lên thấy sư đệ Dung Tử Củ hai mắt trợn trừng đầy vẻ phẫn nộ nhưng đã tắt thở tự bao giờ. Tả Tử Mục kinh hãi vội vàng nắn bóp nhưng không làm sao cứu nổi. Tả Tử Mục biết võ công Dung Tử Củ tuy kém mình một chút nhưng so với Cung Quang Kiệt thì cao hơn nhiều, mới đụng một cái y đã không tránh được lại lăn ra chết thì ắt là trước khi bước vào cửa đã bị trọng thương nên vội vàng cởi áo ra xem thấy trên ngực có viết tám chữ:
Thần Nông Bang tru diệt Vô Lượng Kiếm
Mọi người không hẹn mà cùng kinh hoảng kêu lên. Tám chữ đó ăn sâu hẳn xuống, không phải viết bằng mực bình thường, cũng chẳng phải dùng vật nhọn khắc vào, mà viết bằng dược vật kịch độc, ăn loét vào trong da thịt. Tả Tử Mục hơi suy nghĩ không khỏi giận dữ, thanh kiếm trong tay rung một cái lên tiếng u u, quát lớn:
- Để xem Thần Nông Bang tru diệt Vô Lượng Kiếm hay là Vô Lượng Kiếm tru diệt Thần Nông Bang. Thù này không trả, ta còn là người sao được!
Y coi xét các nơi trên người Dung Tử Củ thấy không có vết thương nào khác bèn quát lên:
- Quang Hào, Quang Kiệt ra ngoài xem sao.
Can Quang Hào, Cung Quang Kiệt hai đại đệ tử liền cầm trường kiếm, lên tiếng đáp lời đi ra. Biến cố đó khiến cho đại sảnh nhốn nháo, vây quanh xác của Dung Tử Củ bàn tán, không còn ai để ý tới Đoàn Dự và cô gái đang ngồi trên xà nhà. Mã Ngũ Đức trầm ngâm nói:
- Thần Nông Bang càng ngày càng loạn không còn ra gì nữa. Tả hiền đệ, chẳng hay bọn họ và quí phái vì sao mà kết mối oán thù?
Tả Tử Mục thương xót sư đệ chết thảm, nghẹn ngào nói:
- Ấy cũng là việc hái thuốc mà ra. Mùa thu năm ngoái, bốn tên hương chủ trong Thần Nông Bang đến Kiếm Hồ Cung xin gặp, muốn ra sau núi của chúng tôi hái mấy vị thuốc. Hái thuốc vốn dĩ chẳng có gì quan trọng, Thần Nông Bang vốn làm nghề hái thuốc, chế thuốc mưu sinh, Vô Lượng Kiếm tuy không có giao tình gì với họ nhưng cũng không thù không oán. Nhưng Mã ngũ ca cũng đã biết rồi, chúng tôi không thể để người ngoài vào sau núi được, không nói Thần Nông Bang chỉ đối với chúng tôi lai vãng sơ sài, mà dẫu các hảo bằng hữu như các vị trước nay cũng không được du ngoạn phía hậu sơn bao giờ. Đó là qui củ tổ truyền, bọn tiểu bối chúng tôi không thể vi phạm kỳ thực cũng chẳng có gì gọi là ghê gớm ...
Cô gái ngồi trên xà nhà đem mấy chục con rắn trong tay bỏ vào một cái giỏ nhỏ đan bằng tre rồi móc trong túi ra một nắm hạt dưa ngồi nhai, hai chân đong đưa, bỗng cầm một hạt dưa ném lên đầu Đoàn Dự, trúng ngay trán chàng, cười hỏi:
- Này, có muốn ăn hạt dưa không? Lên đây!
Đoàn Dự đáp:
- Không có thang, tôi đâu có lên được.
Cô gái nói:
- Cũng dễ thôi!
Cô ta cởi ngang lưng ra một sợi dây đai màu xanh lục thòng xuống nói:
- Anh cầm sợi dây này tôi kéo lên.
Đoàn Dự đáp:
- Tôi nặng lắm cô kéo không nổi đâu.
Thiếu nữ cười:
- Cứ thử xem, ngã cũng không chết đâu mà sợ.
Đoàn Dự thấy cái thắt lưng thòng ngay trước mặt liền giơ tay cầm lấy. Thiếu nữ nói:
- Nắm cho chặt nhé!
Nàng nhè nhẹ kéo lên, thân hình Đoàn Dự đã rời khỏi mặt đất. Thiếu nữ hai tay liên tiếp rút, chỉ mấy lần đã kéo chàng lên trên xà nhà. Đoàn Dự nói:
- Con chồn nhỏ của cô thật dễ thương, lại biết nghe lời.
Cô gái lấy con chồn trong túi da ra, hai tay bồng lên. Đoàn Dự thấy con vật lông mượt, đôi mắt đỏ au long lanh nhìn mình, trông thật dễ thương bèn hỏi:
- Tôi vuốt ve nó một chút có được không?
Thiếu nữ đáp:
- Anh vuốt nó đi.
Đoàn Dự giơ tay vỗ nhè nhẹ lên lưng con chồn, thấy đám lông của nó thật là mềm mại ấm áp. Bất thình lình con chồn kêu chít một tiếng rồi chui tọt vào cái túi da ở bên hông cô gái. Đoàn Dự không đề phòng vội thụt lùi về sau, ngồi không vững suýt nữa thì ngã nhào xuống đất. Thiếu nữ vội giơ tay chộp lấy cổ áo, kéo chàng lại gần bên mình, cười nói:
- Quả thật anh không biết chút võ công nào, kể cũng lạ thật.
Đoàn Dự hỏi lại:
- Lạ cái gì?
Thiếu nữ đáp:
- Anh không biết võ công, lại một thân một mình, thảo nào chẳng bị bọn ác nhân kia hiếp đáp. Anh tới đây làm gì?
Đoàn Dự đang định kể cho cô ta nghe, bỗng nghe tiếng chân rầm rập, Can Quang Hào, Cung Quang Kiệt hai người chạy vào đại sảnh. Lúc này Cung Quang Kiệt đã mặc quần dài lại rồi nhưng thân trên vẫn cởi trần. Hai người thần sắc có vẻ kinh hoàng chạy đến trước mặt Tả Tử Mục. Can Quang Hào nói:
- Sư phụ, Thần Nông Bang tụ tập tại ngọn núi phía trước, chặn hết các ngả đường, nói không ai được hạ sơn cả. Chúng đệ tử thấy bên địch đông quá, chưa được lệnh của sư phụ nên không dám tùy tiện ra tay.
Tả Tử Mục hỏi:
- Hừ, họ độ chừng bao nhiêu người?
Can Quang Hào đáp:
- Phải đến bảy tám chục người.
Tả Tử Mục hắc hắc cười nhạt mấy tiếng nói:
- Bảy tám chục người mà đòi tru diệt Vô Lượng Kiếm sao? Chỉ sợ không dễ như thế.
Cung Quang Kiệt nói:
- Bọn chúng dùng tên bắn qua một bao thư, trên phong bì viết thật là vô lễ.
Nói xong y đem lá thư trình lên, Tả Tử Mục thấy trên phong bì viết: “Truyền cho Tả Tử Mục” năm chữ lớn, không thèm cầm nói:
- Ngươi mở ra xem viết gì.
Cung Quang Kiệt đáp:
- Vâng.
Y liền xé phong bì lôi lá thư ra. Thiếu nữ nói nhỏ:
- Trên phong bì và lá thư đều có chất độc.
Đoàn Dự hỏi:
- Ghê gớm đến thế sao?
Chỉ nghe Cung Quang Kiệt đọc:
- Thần Nông Bang truyền cho Tả ... nghe đây – y không dám nói thẳng tên sư phụ nên khi đọc đến chữ Tả rồi, hai chữ Tử Mục bèn bỏ qua không nhắc tới – Hạn kỳ cho các ngươi trong vòng một giờ phải tự chặt tay phải, bẻ gẫy binh khí, ra khỏi Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng, nếu không thì con gà con chó của Vô Lượng Kiếm cũng không tha.
Chưởng môn Tây Tông của Vô Lượng Kiếm Song Thanh cười nhạt nói:
- Thần Nông Bang là bọn nào mà lớn lối quá vậy?
Đột nhiên nghe “bình” một tiếng, Cung Quang Kiệt ngã ngửa ra. Can Quang Hào đứng bên cạnh kêu lên:
- Sư đệ!
Y đưa tay định đỡ dậy, Tả Tử Mục liền tiến lên hai bước, giơ tay giữ vào ngực y, hơi vận kình lực, đẩy y ra ngoài ba bước, quát lên:
- Coi chừng có độc, không được đụng vào y.
Chỉ thấy Cung Quang Kiệt mặt mày dúm dó giật giật không ngừng, bàn tay cầm lá thư chỉ chốc lát đã đen kịt, hai chân duỗi một cái đã chết rồi. Trước sau chỉ chừng thời gian một bữa ăn, Đông Tông Vô Lượng Kiếm chết mất hai hảo thủ, mọi người ai nấy không khỏi thất sắc. Đoàn Dự hạ giọng nói:
- Cô cũng ở trong Thần Nông Bang chăng?
Thiếu nữ giận dỗi đáp:
- Hứ, làm gì có, anh nói lăng nhăng gì thế?
Đoàn Dự hỏi:
- Thế sao cô biết được phong thư có độc?
Cô gái cười:
- Cách hạ độc đó thật là thô thiển, nhìn qua là biết ngay. Cái trò ngớ ngẩn đó chỉ giết được bọn vô tri mà thôi.
Mấy câu nói của cô ta trong sảnh mọi người đều nghe thấy, cùng ngửng đầu lên, thấy cô gái vẫn cắn hạt dưa, đôi chân đi giày hoa đong đưa không ngừng. Tả Tử Mục đưa mắt nhìn tờ giấy trong tay Cung Quang Kiệt không thấy có gì khác lạ, nghiêng đầu nhìn lại một lần nữa, quả nhiên thấy phong bì và lá thư có lấp loáng ánh lân quang, giật mình ngửng đầu nói với cô gái:
- Cô nương tôn tính đại danh là gì?
Thiếu nữ đáp:
- Tôn tính đại danh của ta không nói cho ông biết được, cái đó gọi là thiên cơ bất khả tiết lậu.
Nghe thấy cô ta nói như thế, Tả Tử Mục lửa giận bừng bừng nhưng cố nén không để phát tác nói:
- Thế thì lệnh tôn là ai? Tôn sư là vị nào thế?
Thiếu nữ cười đáp:
- Ha ha, tôi không mắc lỡm của ông đâu. Nếu tôi nói cho ông biết lệnh tôn của tôi là ai thì ông biết tôn tính của tôi còn gì. Nếu ông biết được tôn tính của tôi, thì thể nào cũng biết đại danh của tôi. Còn tôn sư của tôi là mẹ tôi, mà tên mẹ tôi thì không thể nào nói cho ông biết được.
Tả Tử Mục nghe giọng cô ta vừa uyển chuyển vừa ríu rít, đúng là người bản địa xứ Vân Nam, nghĩ thầm: “Trong võ lâm đất Vân Nam này có đôi vợ chồng nào khinh công cao siêu là cha mẹ cô ta nhỉ?” Cô gái đó chưa từng ra tay thành thử y không thể nào bằng võ công gia số mà đoán được, liền nói:
- Xin mời cô nương xuống đây để cùng chúng tôi thương nghị phương sách đối phó. Thần Nông Bang nói bất cứ ai cũng không xuống núi được, cả cô cũng sẽ bị giết nữa.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2011 09:26:26 | Chỉ xem của tác giả
Thiếu nữ cười:
- Bọn họ không giết tôi đâu, Thần Nông Bang chỉ giết người Vô Lượng Kiếm thôi. Tôi đi đường nghe thấy tin tức đó nên tới đây xem trò giết người cho vui. Lão già râu dài kia, kiếm pháp của các ông không đến nỗi dở, có điều không biết sử dụng độc dược nên không đánh lại Thần Nông Bang đâu.
Mấy câu đó chính nói trúng vào nhược điểm của Vô Lượng Kiếm, nếu chỉ bằng tài nghệ chân thực thì hai phái Đông Tông, Tây Tông của Vô Lượng Kiếm thêm tám hảo thủ của môn phái khác được mời đến làm chứng, không thể nào không địch lại Thần Nông Bang, thế nhưng nói đến dùng độc, giải độc thì không ai biết gì cả.
Tả Tử Mục nghe miệng lưỡi cô gái một giọng “hạnh tai lạc họa” tưởng như Vô Lượng Kiếm càng chết nhiều thì nàng ta càng khoái chí nên cười gằn một tiếng, hỏi lại:
- Cô nương trên đường nghe được tin tức gì?
Y trước nay quen giọng bề trên nên câu hỏi dường như khiến người nghe không thể không trả lời. Thiếu nữ bỗng hỏi:
- Ông có cắn hạt dưa không?
Tả Tử Mục mặt hơi tím lại, nếu như không vì đại địch ở bên ngoài thì đã nổi cáu đành phải nén giận nói:
- Không ăn.
Đoàn Dự chen vào:
- Hạt dưa của cô có mùi gì? Quế Hoa? Mai Côi? Hay là Tùng Tử?
Thiếu nữ nói:
- Ối chà, hạt dưa cũng có nhiều loại đến thế ư? Tôi cũng không biết nữa. Loại hạt dưa này mẹ tôi sao bằng mật rắn, ăn vào mắt sáng, anh thử cho biết.
Nói rồi nàng ta bốc một nắm nhét vào tay Đoàn Dự, nói tiếp:
- Ăn chưa quen thì hơi đắng nhưng thực ra ngon lắm.
Đoàn Dự không nỡ làm phật ý nàng, cầm một hạt dưa đưa lên miệng thấy quả có hơi cay nhưng nhấm thử thấy ngòn ngọt đầu lưỡi ra nước miếng nên ăn thử. Chàng cắn hạt dưa để vỏ lên trên xà nhà, còn cô gái chẳng e dè gì thuận mồm cứ nhả xuống, vỏ hạt bay tứ tung lên đầu mọi người, khiến ai nấy nhăn mặt tránh ra.
Tả Tử Mục hỏi tiếp:
- Cô nương trên đường nghe thấy tin tức gì, xin nói cho nghe, tại hạ ... tại hạ cảm kích vô cùng.
Y vì muốn thám thính tin tức nên giọng điệu cực kỳ khách khí. Thiếu nữ đáp:
- Tôi nghe người trong Thần Nông Bang nói cái gì Vô Lượng Ngọc Bích, thế cái đó có gì thích thú hay không?
Tả Tử Mục hơi sững người hỏi lại:
- Vô Lượng Ngọc Bích? Không lẽ trong núi Vô Lượng có bảo ngọc, bảo bích gì chăng? Ta chưa từng nghe đến. Song Thanh sư muội có nghe ai nói tới bao giờ chưa?
Song Thanh chưa kịp trả lời, cô gái đã cướp lời:
- Dĩ nhiên bà ta cũng chưa nghe. Các người đừng giả vờ kẻ tung người hứng, không muốn nói thì cạy răng cũng không nói. Hứ, quí báu nhỉ?
Tả Tử Mục sượng sùng nói:
- À, ta nghĩ ra rồi, Thần Nông Bang nói đến chắc là hòn đá bóng loáng ở cạnh Bạch Long Phong trên núi Vô Lượng. Phiến đá đó nhẵn như gương, soi rõ cả sợi lông sợi tóc, có người bảo đó là một khối ngọc, kỳ thực thì chỉ là một khối đá lớn nhẵn nhụi sáng loáng chứ có gì đâu.
Thiếu nữ nói:
- Sao ông không nói sớm có phải hay hơn không? Thế ông gây thù chuốc oán với Thần Nông Bang như thế nào? Cớ gì họ lại muốn giết sạch Vô Lượng Kiếm gà chó không còn?
Tả Tử Mục thấy mình trở nên lép vế, muốn con bé này nói rõ tin tức ra thì đành phải tiết lộ trước, tình hình trước mắt gấp gáp, lại có có bao nhiêu là người ngoài không thể nào tóm cổ cô gái để tra vấn bèn nói:
- Mời cô nương xuống đây đã để tôi trình rõ đầu đuôi.
Cô gái vẫn đong đưa bàn chân nói:
- Trình rõ đầu đuôi, chẳng cần phải như thế. Có điều lời của ông giả hay thật, ta chỉ tin được ba bốn phần, ông cứ nói nghe thử xem nào.
Đôi lông mày Tả Tử Mục nhướng lên, lộ vẻ giận dữ nhưng lập tức đổi sắc mặt nói:
- Năm ngoái bang Thần Nông muốn đến hậu sơn của chúng tôi hái thuốc, ta không bằng lòng. Bọn họ liền lén vào hái trộm, sư đệ ta Dung Tử Củ cùng mấy đệ tử trông thấy nên ra lời trách cứ. Bọn họ đáp lại: “Chỗ này nào có phải điện Kim Loan hay Ngự Hoa viên mà người ngoài không đến được? Không lẽ Vô Lượng Kiếm các ngươi mua đứt núi Vô Lượng rồi hay sao?”. Hai bên nói qua nói lại liền ra tay đánh nhau. Dung sư đệ ra tay không nể nang chút nào, giết của bên họ hai người, hai bên thành ra rắc rối. Về sau ở bên bờ sông Lan Thương , hai bên lại đánh nhau lần nữa, chết thêm mấy người.
Thiếu nữ nói:
- Ồ, thì ra là thế. Bọn họ muốn hái thứ thuốc gì vậy?
Tả Tử Mục đáp:
- Chuyện đó ta cũng không rõ.
Cô gái mặt mày nhơn nhơn có vẻ đắc ý nói:
- Hóa ra ông cũng không biết. Ông đã kể cho ta nghe chuyện kết oán gây thù thế nào thì ta cũng kể cho ông vài điều. Hôm đó tôi vào trong núi bắt rắn cho con thiểm điện điêu ăn ...
Đoàn Dự xen vào:
- Con chồn của cô tên là thiểm điện điêu đấy ư?
Cô gái đáp:
- Đúng thế, nó chạy chẳng nhanh như ánh chớp là gì?
Đoàn Dự khen ngợi:
- Đúng vậy, thiểm điện điêu, cái tên đó nghe hay quá!
Tả Tử Mục trừng mắt nhìn chàng, bực bội vì bị ngắt quãng nhưng thiếu nữ sắp nói đến đoạn gay cấn nếu như mình lên tiếng trách mắng Đoàn Dự chỉ sợ nàng ta nổi cáu không nói thêm nữa nên chỉ đành hầm hầm lặng thinh không nói lời nào.
Cô gái quay sang nói với Đoàn Dự:
- Thiểm điện điêu thích ăn rắn độc, còn ngoài ra không ăn gì khác. Ta nuôi nó từ khi còn nhỏ, nay đã bốn tuổi rồi, chỉ nghe lời một mình ta mà thôi, ngay cả cha ta mẹ ta nói nó cũng không nghe. Ta bảo nó dọa người là dọa người, cắn người là cắn người. Con chồn này ngoan lắm.
Nói xong cô gái thò tay vào túi vuốt ve con chồn. Đoàn Dự nói:
- Vị Tả tiên sinh này đang nóng ruột, cô nói cho ông ta nghe đi.
Cô gái mỉm cười cúi xuống nói với Tả Tử Mục:
- Lúc đó tôi đang ở trong đám cỏ bắt rắn nghe tiếng có mấy người đi tới. Một người nói: “Lần này nếu không giết sạch Vô Lượng Kiếm, chiếm lấy núi Vô Lượng, Kiếm Hồ Cung thì Thần Nông Bang chúng ta chỉ còn có nước cắt cổ mà chết”. Ta nghe nói bọn chúng giết sạch gà chó không tha, lấy làm thích thú nên nín hơi không lên tiếng. Lại nghe bọn chúng nói chuyện tiếp nghe nói gì phụng mệnh cung Linh Thứu trên núi Phiêu Miểu phải chiếm lấy Kiếm Hồ Cung để tra xét cho rõ Vô Lượng Ngọc Bích ra thế nào.
Cô ta nói đến đây, Tả Tử Mục và Song Thanh hai người liền đưa mắt nhìn nhau. Thiếu nữ hỏi:
- Thế núi Phiêu Miểu, cung Linh Thứu là cái gì? Sao Thần Nông Bang lại nghe hiệu lệnh của họ?
Tả Tử Mục đáp:
- Phiêu Miểu Phong cung Linh Thứu đây là lần đầu mới nghe cô nương nói đến. Ta thực quả không biết Thần Nông Bang nghe hiệu lệnh của người khác đến làm khó dễ với chúng tôi.
Nghĩ đến việc bang Thần Nông mà phải nghe lệnh của bên ngoài thì Phiêu Miểu Phong hẳn phải lợi hại ghê gớm, thế nhưng núi non ở Vân Nam có đến hàng ngàn hàng vạn mà chưa từng nghe nói đến núi Phiêu Miểu bao giờ khiến cho y càng lo lắng không khỏi nhíu mày.
Cô gái cắn thêm hai hạt dưa rồi nói tiếp:
- Lúc đó lại nghe một người khác nói: “Cái mầm bệnh của bang chủ nếu như thông thiên thảo trong núi Vô Lượng có thể giải được, anh em chúng tôi dù có phải chịu nghìn đao vạn kiếm cũng phải nhất định hái cho bằng được thứ cỏ này”.
Người kia thở dài: “Sinh Tử Phù cấy trên người ta ngoại trừ Thiên Sơn Đồng Mỗ lão nhân gia thì không ai có thể giải được. Thông thiên thảo tuy dược tính linh dị thật nhưng cũng chỉ giúp cho bớt được phần nào cái đau đớn khổ sở sống đở chết dở một khi Sinh Tử Phù phát tác ...”
Bọn họ vừa nói vừa đi mỗi lúc một xa. Ta nói thế có rõ ràng không?
Tả Tử Mục không trả lời, cúi đầu suy nghĩ. Song Thanh nói:
- Tả sư huynh, thông thiên thảo cũng chẳng có gì là quí báu, nếu như bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền muốn dùng để trị bệnh, giảm đau thì mình cứ cho họ có được không?
Tả Tử Mục giận dữ đáp:
- Cho họ thông thiên thảo thì có gì là khó? Thế nhưng họ còn muốn chiếm cung Kiếm Hồ và núi Vô Lượng kia mà, sư muội không nghe thấy hay sao?
Song Thanh hừ một tiếng, không nói nữa. Thiếu nữ vòng tay qua đỡ ngang lưng Đoàn Dự nói:
- Thôi đi xuống.
Nàng nhún mình một cái nhảy ngay từ xà nhà xuống. Đoàn Dự hoảng hốt “A” lên một tiếng thì thân hình đã ở trên không. Thiếu nữ đỡ chàng nhẹ nhàng rơi trên mặt đất, tay trái vẫn còn cần lấy tay phải chàng nói:
- Thôi mình đi ra ngoài coi xem bọn Thần Nông Bang như thế nào?
Tả Tử Mục tiến lên một bước nói:
- Hãy khoan, ta còn mấy câu muốn hỏi. Cô nương nói là lão Tư Không Huyền bị trúng phải Sinh Tử Phù nếu khi phát tác thì sống không được, chết không xong là như thế nào? Thiên Sơn Đồng Mỗ là ai thế?
Cô gái đáp:
- Thứ nhất, hai câu hỏi của ông ta đều không biết. Thứ hai, ông hỏi mà mặt hầm hầm hung hăng, nếu có biết ta cũng không nói cho mà nghe đâu.
Lúc này Vô Lượng Kiếm đang bị đại địch thúc ép ở bên ngoài, Tả Tử Mục không muốn gây thêm kẻ thù làm gì nhưng nghe cô ta nói bên trong dường như có rất nhiều điểm quan trọng có liên hệ đến sự tồn vong vinh nhục của Vô Lượng Kiếm không thể nào không hỏi cho rõ đầu đuôi ngọn ngành, thành thử lạng người một cái đã chắn ngay trước mặt thiếu nữ và Đoàn Dự nói:
- Cô nương, bọn ác đồ của Thần Nông Bang đang ở bên ngoài, nếu cô tự tiện đi ra, nếu có chuyện gì sơ sẩy, phái Vô Lượng Kiếm chúng tôi sẽ bị liên lụy.
Cô gái mỉm cười:
- Tôi không phải là khách do ông mời đến, hơn nữa, ông cũng chưa biết tôn tính đại danh của tôi. Nếu giả như Thần Nông Bang có giết tôi chăng nữa, cha mẹ tôi không thể nào trách ông không bảo vệ chu toàn được.
Nói xong nàng cầm tay Đoàn Dự tiến ra ngoài cửa. Tay phải Tả Tử Mục hơi rung một cái, rút phắt trường kiếm bên hông ra nói:
- Cô nương, xin dừng bước.
Cô gái hỏi lại:
- Ông muốn động võ chăng?
Tả Tử Mục nói:
- Ta chỉ muốn cô đem câu chuyện đó nói cho rõ ràng thôi.
Thiếu nữ lắc đầu nói:
- Nếu như tôi không nói, ông giết tôi chăng?
Tả Tử Mục đáp:
- Ta cũng không còn cách nào khác.
Thanh trường kiếm y liền đâm ra chặn ngay lối đi. Thiếu nữ quay sang nói với Đoàn Dự:
- Lão già râu dài này muốn giết tôi, anh tính thế nào?
Đoàn Dự phe phẩy cái quạt cầm trong tay nói:
- Cô nương muốn làm sao thì làm.
Cô gái nói:
- Nếu ông ta đâm một kiếm giết tôi thì làm sao bây giờ?
Đoàn Dự đáp:
- Chúng ta có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu, hạt dưa cắn chung, đao kiếm cùng lãnh.
Cô gái đáp:
- Mấy câu của anh nghe được lắm, quả thực anh đáng để kết giao không uổng quen biết nhau, thôi đi.
Nàng nói rồi tiến bước ra cửa coi như không nhìn thấy thanh kiếm lấp lánh xanh lè trong tay Tả Tử Mục. Tả Tử Mục rung tay một cái mũi kiếm chỉ ngay vào vai trái thiếu nữ, tuy ông ta không có ý định đả thương mà chỉ cốt để nàng ta không đi ra khỏi luyện võ sảnh. Thiếu nữ liền vỗ vào cái túi da bên hông một cái, miệng huýt hai tiếng còi, chỉ thấy một bóng trắng lấp loáng, thiểm điện điêu liền nhảy vọt ra chồm lên cánh tay Tả Tử Mục. Tả Tử Mục vội giơ tay ra chộp nhưng con chồn quả thực nhanh như chớp, nghe cách một tiếng đã cắn ngay vào cổ tay phải y, rồi lập tức chui tọt trở vào cái túi da bên hông cô gái.
Tả Tử Mục kêu oái lên một tiếng, trường kiếm rơi ngay xuống đất, chỉ trong giây lát đã thấy cổ tay phải tê chồn, kêu lên:
- Độc, độc! Ngươi ... con chồn quỉ của ngươi có chất độc!
Nói rồi tay trái nắm chặt cổ tay phải sợ độc tính chạy ngược lên. Các đệ tử Đông Tông Vô Lượng Kiếm vội vàng nhao nhao chạy lên, ba người chạy lại đỡ sư phụ, còn lại tay cầm trường kiếm vây quanh thiếu nữ và Đoàn Dự, quát lên:
- Mau, mau đưa thuốc giải đây, nếu không chúng ta sẽ cùng đâm chết ngay con tiểu a đầu.
Cô gái cười nói:
- Ta làm gì có giải dược. Các ngươi chỉ cần đi hái một nắm thông thiên thảo, sắc một bát thật đặc cho ông ta uống là sẽ xong ngay. Có điều trong ba giờ không được cử động, nếu không chất độc chạy lên tim thì ôi thôi. Các ngươi chặn ta làm gì? Muốn con chồn cắn cho mỗi người một miếng hay sao?
Nàng nói xong thò tay vào trong túi bế con chồn lên tay, tay kia cầm tay Đoàn Dự đi ra ngoài. Các đệ tử thấy sư phụ như thế, biết rằng tài sức như mình không thể nào tránh được con chồn nhanh như điện này nên đành giương mắt nhìn hai người ra khỏi luyện võ sảnh.
Những người khách đến Kiếm Hồ Cung thấy con thiểm điện điêu lanh lẹ dị thường nên ai nấy đều e ngại, chẳng dám đứng ra ngăn trở.
Thiếu nữ và Đoàn Dự sóng vai đi ra khỏi cửa, các đệ tử phái Vô Lượng Kiếm người thì ở trong sảnh, kẻ thì canh gác bên ngoài để phòng bang Thần Nông đến tấn công nên hai người ra khỏi Kiếm Hồ Cung mà không gặp ai khác. Cô gái nói nhỏ:
- Con thiểm điện điêu trước nay ăn không biết bao nhiêu là rắn độc nên răng nó độc địa lắm, lão già râu dài bị nó cắn một miếng, nếu như lúc ấy chặt ngay cánh tay đi thì không sao chứ nếu không để thêm một hai giờ thì chỉ sống được tám ngày nữa thôi.
Đoàn Dự hỏi:
- Thế sao cô bảo là chỉ cần hái một nắm cỏ thông thiên sắc một bát thật đặc uống vào là khỏi ngay?
Thiếu nữ cười:
- Đó là tôi nói dối chúng đó. Nếu không đời nào bọn họ để cho mình đi ra.
Đoàn Dự hoảng hốt:
- Cô đợi tôi một chút để tôi vào nói cho họ hay.
Thiếu nữ giơ tay giữ chàng lại, giận dỗi nói:
- Đồ ngốc, nếu anh nói ra thì mạng chúng mình có còn được hay chăng? Con chồn của tôi tuy lợi hại thật nhưng bọn họ cùng xông lên thì làm sao chống cự nổi? Anh đã nói hạt dưa cắn chung, đao kiếm cùng lãnh, tôi đâu có thể nào bỏ anh chạy một mình.
Đoàn Dự gãi đầu nói:
- Thế thì cô cho họ giải dược đi.
Cô gái đáp:
- Ồ, sao anh lại giở tính đàn bà, người ta đánh anh anh lại còn tốt bụng với họ là sao?
Đoàn Dự xoa má nói:
- Người ta đánh tôi cũng đã hết đau rồi, nhớ làm gì? Ôi, tiếc thay người đánh tôi đã chết rồi. Mạnh Tử nói: Lòng thương xót chính là đầu của đức nhân. Nhà Phật cũng dạy rằng: Dù xây chín đợt phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho một người. Tả Tử Mục Tả tiên sinh tuy hung hăng thật nhưng nói chuyện với cô cũng nể nang lắm, ông ta đã có râu dài thượt mà với một cô gái nhỏ như thế cũng vẫn xưng là “tại hạ”.
Thiếu nữ cười khúc khích nói:
- Lúc đó tôi đang ngồi trên xà nhà, y ở dưới đất, thì đúng là “tại hạ” rồi còn gì? Anh cứ nói tốt cho y để tôi đưa cho giải dược. Thế nhưng quả thật tôi không có. Thuốc giải chỉ cha tôi có thôi, hơn nữa, phái Vô Lượng Kiếm trong nháy mắt đã bị Thần Nông Bang giết sạch gà chó không còn, tôi có đến xin cha tôi thuốc giải đem tới thì gã Tả Tử Mục kia đầu cũng không còn trên cổ nữa rồi, cái xác chết thì giải độc hay không giải độc cũng có liên quan gì đến nhau đâu?
Đoàn Dự lắc đầu, đành không nói chuyện thuốc giải nữa, nhân vầng trăng sáng vừa lên chiếu trên khuôn mặt trắng trẻo ẩn hồng của nàng, thấy cô gái dung nhan xinh đẹp, bèn nói:
- Tôn tính đại danh của cô không chịu nói cho lão râu dài biết nhưng có thể nói cho tôi biết được chăng?
Thiếu nữ cười đáp:
- Có gì đâu mà tôn tính đại danh? Tôi họ Chung, cha mẹ tôi gọi tôi là Linh Nhi. Tôn tính thì có, đại danh thì không, chỉ có cái tiểu danh thôi. Chúng mình qua bên sườn núi ngồi chơi, anh kể cho tôi nghe anh đến núi Vô Lượng để làm gì?
Hai người bèn sóng vai đi đến sườn núi ở góc tây bắc. Đoàn Dự vừa đi vừa nói:
- Tôi từ nhà ra đi, ngao du tứ xứ đến Phổ Nhĩ thì trong túi không còn một đồng, nghe nói vị Mã Ngũ Đức Mã ngũ gia cực kỳ hiếu khách nên đến nhà ông ta ăn cơm chực. Vừa đúng lúc ông ta đang định lên núi Vô Lượng, tôi cũng nghe núi Vô Lượng phong cảnh thanh u nên đi theo ông ta du sơn ngoạn thủy.
Chung Linh gật đầu hỏi lại:
- Sao anh lại bỏ nhà ra đi là thế nào?
Đoàn Dự đáp:
- Cha tôi muốn dạy tôi học võ công, tôi không chịu học. Cha tôi ép quá, tôi chỉ có nước bỏ nhà ra đi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2011 09:34:15 | Chỉ xem của tác giả
Chung Linh giương đôi mắt to đen láy nhìn chăm chăm để xem chàng nói thật hay giả, trong bụng lấy làm kỳ lạ hỏi thêm:
- Vì cớ gì anh lại không thích học võ công, sợ khổ chăng?
Đoàn Dự đáp:
- Khổ sở tôi không sợ. Có điều tôi nghĩ đi nghĩ lại mãi không ra nên không nghe lời cha tôi. Cha tôi bực tức cùng mẹ tôi cãi lẫy một hồi ...
Chung Linh mỉm cười nói:
- Mẹ anh bênh anh, cãi lại cha anh có phải không nào?
Đoàn Dự đáp:
- Đúng thế.
Chung Linh thở dài nói:
- Mẹ tôi cũng thế.
Nàng nhìn ra phía xa xăm, ngơ ngẩn xuất thần lại hỏi tiếp:
- Anh nghĩ đi nghĩ lại nghĩ mãi không ra chuyện gì thế?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi từ nhỏ đã thụ Phật giới, cha tôi mời một thầy đồ dạy tôi tứ thư ngũ kinh , thi từ ca phú, lại mời một cao tăng dạy tôi kinh Phật. Hơn mười năm qua, tôi toàn học về tấm lòng nhân của Nho gia, giới sát giới sân, lòng từ bi của Phật gia vậy mà cha tôi lại bắt tôi học võ, học cách đánh người giết người, thành thử tôi thấy không phải chút nào. Cha tôi liên tiếp khuyên bảo ba ngày, tôi nhất định không chịu. Cha tôi dẫn kinh Phật toàn trật lất, giải thích lại cũng sai.
Chung Linh nói:
- Thế rồi cha anh nổi giận đánh anh một trận phải không nào?
Đoàn Dự lắc đầu:
- Cha tôi không đánh tôi, ông ấy chỉ giơ tay điểm hai huyệt đạo. Chỉ trong giây lát, toàn thân tôi tưởng chừng như có hàng vạn con kiến cắn, lại tưởng như có thật nhiều muỗi bu vào hút máu. Cha tôi nói: “Cái mùi vị đó có thích không? Ta là cha ngươi thành thử sẽ giải huyệt cho ngươi, thế nhưng nếu như vào tay kẻ địch thì ngươi sẽ sống không xong, chết chẳng được. Ngươi thử tự sát xem nào?”. Tôi bị ông ấy điểm huyệt rồi, đến một ngón tay cũng không cử động được thì còn tự sát làm sao được. Hơn nữa, tôi đang sống yên lành cớ gì lại tự sát? Thế rồi mẹ tôi gây gỗ với cha tôi, cha tôi phải giải huyệt cho tôi hôm sau tôi liền len lén trốn đi.
Chung Linh ngơ ngẩn ngồi nghe, đột nhiên lớn tiếng nói:
- Thì ra cha anh biết điểm huyệt, lại là công phu điểm huyệt số một của thiên hạ, có phải là chỉ giơ tay ấn vào người anh, anh không cử động được, ngứa ngáy chịu không nổi, có phải không nào?
Đoàn Dự đáp:
- Đúng thế, nhưng có gì là kỳ lạ đâu?
Chung Linh mặt đầy vẻ kinh ngạc nói:
- Anh bảo không có gì kỳ lạ à? Không có gì kỳ lạ là sao? Trong võ lâm, nếu như có ai được học công phu điểm huyệt của gia gia anh, dẫu bảo y rập đầu một vạn lần, có phải van xin mười năm, hai mươi năm người ta cũng chịu. Còn anh thì lại nhất định không học, quả thực không còn kỳ lạ thì là gì?
Đoàn Dự đáp:
- Công phu điểm huyệt đó tôi chẳng thấy có gì là ghê gớm cả.
Chung Linh thở dài, nói:
- Câu chuyện đó anh không nên nói ra, cũng tuyệt đối chớ có cho ai biết.
Đoàn Dự lạ lùng:
- Vì sao?
Chung Linh đáp:
- Anh đã không biết võ công, những chuyện tồi bại trên giang hồ lại không am tường. Công phu điểm huyệt của họ Đoàn thiên hạ vô song, gọi là Nhất Dương Chỉ. Người học võ nghe thấy ba chữ Nhất Dương Chỉ ai nấy nước dãi chảy dài ba thước, thèm muốn đến mười ngày đêm không ngủ được. Nếu như có ai biết cha anh biết được công phu đó, không chừng nổi lòng xấu xa, bắt anh trói lại, đòi cha anh đem huyệt phổ của Nhất Dương Chỉ ra trao đổi thì làm thế nào?
Đoàn Dự gãi đầu:
- Có chuyện đó sao? Cha tôi nổi giận không chừng sẽ đánh cho người đó một trận.
Chung Linh nói:
- Thế sao. Nếu ra mặt gây sự với họ Đoàn nhà anh người ngoài dĩ nhiên không dám nhưng vì bí quyết của Nhất Dương Chỉ không chừng họ sẽ ra tay. Huống chi nếu như anh rơi vào tay người ngoài thì sự việc không phải dễ dàng giải quyết. Thành thử từ rày đừng nên nói cho người ta biết anh họ Đoàn.
Đoàn Dự đáp:
- Ở nước Đại Lý này họ Đoàn có đến hàng nghìn hàng vạn, đâu phải ai cũng biết phép điểm huyệt đó đâu. Nếu tôi không lấy họ đoàn thì cô bảo tôi lấy họ gì bây giờ?
Chung Linh mỉm cười nói:
- Vậy anh cứ tạm thời lấy họ của tôi cũng được.
Đoàn Dự cười nói:
- Thế thì hay lắm, cô phải gọi tôi là đại ca. Cô bao nhiêu tuổi?
Chung Linh đáp:
- Mười sáu. Còn anh?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi hơn cô ba tuổi.
Chung Linh vặt một lá cỏ, rứt ra từng khúc, đột nhiên lắc đầu nói:
- Nếu quả thực anh không muốn học công phu Nhất Dương Chỉ tôi không thể nào tin nổi. Anh đánh lừa tôi, phải không nào?
Đoàn Dự cười khì nói:
- Sao cô coi Nhất Dương Chỉ thần diệu đến thế, có ăn thay cơm được không? Tôi xem con thiểm điện điêu của cô còn hơn nhiều, có điều nó cắn là chết người nên tôi không thích lắm.
Chung Linh thở dài:
- Nếu như con thiểm điện điêu cắn không chết người thì để làm gì?
Đoàn Dự nói:
- Cô là một cô gái còn nhỏ, sao cứ nghĩ tới chuyện đánh nhau, giết người là cớ làm sao?
Chung Linh nói:
- Có thực anh không biết, hay anh chỉ giả vờ?
Đoàn Dự lạ lùng hỏi lại:
- Cái gì?
Chung Linh chỉ tay ra phương đông nói:
- Anh xem kìa!
Đoàn Dự nhìn theo hướng tay cô ta chỉ, thấy lưng chừng núi phía đông thấy từng cuộn, từng cuộn khói xanh bốc lên, phải đến hơn chục chỗ không hiểu việc gì. Chung Linh nói:
- Anh không muốn đánh nhau giết người, thế nhưng người ta muốn giết anh đánh anh, không lẽ anh cũng vươn cổ cho người ta chém à? Những đám khói đó là Thần Nông Bang đang nấu thuốc độc, để đối phó với Vô Lượng Kiếm. Theo tôi thì mình cứ lẳng lặng đi ra để khỏi liên lụy.
Đoàn Dự phe phẩy cái quạt làm như không có gì xảy ra nói:
- Những bọn giang hồ này đánh nhau giết nhau càng lúc càng không đâu vào đâu. Người của Vô Lượng Kiếm giết người của Thần Nông Bang, thì gã Dung Tử Củ kia cũng đã bị Thần Nông Bang giết rồi, lại giết cả Cung Quang Kiệt, nếu như một mạng đổi một mạng thì đã quá số rồi. Còn như vẫn còn chưa bằng lòng thì phải trình lên quan cho rõ ràng, để cho cha mẹ dân xét xử cho minh bạch, chứ có lý đâu động một tí là giết người phóng hỏa? Chẳng lẽ nước Đại Lý này không còn vương pháp nữa hay sao?
Chung Linh tặc lưỡi mấy tiếng, mặt lộ vẻ diễu cợt nói:
- Nghe anh nói tưởng anh là hoàng thân quốc thích, quan lớn quan bé gì đây. Dân ngu khu đen như chúng tôi đâu cần biết đến.
Nàng ngửng đầu nhìn bầu trời, chỉ về phía tây nam nói nhỏ:
- Đợi bao giờ mây đen kéo đến che mặt trăng thì mình cứ lẳng lặng theo phía đó mà ra đi, người của Thần Nông Bang chưa chắc biết được đâu.
Đoàn Dự đáp:
- Không được, tôi muốn đến gặp bang chủ của họ, giải thích cho họ biết, không để cho họ giết người bừa bãi như thế được.
Ánh mắt Chung Linh lộ vẻ thương hại nói:
- Đoàn đại ca, anh thật chẳng biết trời cao đất dày là gì. Bang Thần Nông hiểm ác độc địa, chuyên về sử dụng chất độc, mới giết hai người xong, chính mắt anh thấy rồi. Mình đừng nên sinh sự với họ, mau chạy đi là hơn.
Đoàn Dự đáp:
- Không được, việc này tôi không thể không nhúng tay vào, nếu như cô sợ thì ngồi đây chờ tôi vậy.
Chàng nói rồi liền đứng lên nhắm phía đông đi tới. Chung Linh đợi chàng đi mấy trượng bỗng nhiên nhỏm dậy đuổi theo, tay phải đưa ra chộp lên đầu vai. Đoàn Dự nghe tiếng chân người ở sau lưng, đang định quay đầu lại thì vai đã bị chộp trúng rồi. Chung Linh lại đưa chân khoèo một cái, Đoàn Dự đứng không vững, ngãn sấp mặt xuống, mũi va phải một cục đá tóe máu ra. Chàng bừng bừng giận dữ đứng lên, quát lớn:
- Sao cô ác thế? Làm tôi ngã đau đến thế này?
Chung Linh nói:
- Tôi muốn thử thêm lần nữa để xem anh giả vờ hay không biết võ thực để còn tính chuyện giúp anh.
Đoàn Dự hậm hực hỏi lại:
- Giúp cái gì?
Chàng đưa lưng bàn tay quệt ngang mặt thấy tay đầy máu, máu tươi vẫn tiếp tục chảy ròng ròng, ướt đẫm cả một khoảng trước ngực. Chàng bị thương rất nhẹ nhưng máu chảy nhiều như thế, mồm liên tiếp suýt soa. Chung Linh cũng hơi lo, vội vàng lấy khăn tay ra lau máu cho chàng. Đoàn Dự trong lòng bực bội, giơ tay đẩy ra nói:
- Không cần cô lấy lòng, tôi không thèm nhìn cô nữa.
Chàng không biết võ công, chẳng thành chiêu số gì, tiện thể đẩy ra, bàn tay ấn ngay lên ngực cô gái. Chung Linh không kịp suy nghĩ, tay liền vòng lại gạt ra, thuận tay tung một cái, Đoàn Dự lập tức ngã lăn cù, bình một tiếng, ót đập vào đá ngất đi.
Chung Linh thấy chàng nằm ngay đơ trên mặt đất, quát lên:
- Mau đứng dậy tôi muốn nói chuyện với anh.
Thế nhưng chàng trai vẫn không động đậy, nàng hơi hoảng vội tiến tới cúi mình xem xét, thấy Đoàn Dự hai mắt trợn ngược, hơi thở yếu ớt, quả thực đã bất tỉnh nhân sự nên vội đưa tay ấn vào nhân trung rồi dùng sức xoa bóp trên ngực.
Qua một hồi lâu, Đoàn Dự mới dần dần tỉnh lại, thấy lưng mình dựa vào một thân hình mềm mại, mũi ngửi thấy mùi thơm ngát nên từ từ mở mắt ra, thấy đôi mắt trong trẻo của Chung Linh đang lo lắng nhìn mình. Chung Linh thấy chàng đã tỉnh lại, thở phào một cái nói:
- May quá anh không chết.
Đoàn Dự thấy mình nằm dựa vào trong lòng nàng, đầu gối lên hông cô gái, trong lòng không khỏi đê mê, bỗng thấy vết thương sau đầu đau nhói từng chặp, nhịn không nổi rên lên một tiếng “Ôi chao”.
Chung Linh nhảy nhỏm lên vội hỏi:
- Sao thế?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi ... tôi đau quá mất thôi.
Chung Linh đáp:
- Anh không chết sao còn kêu réo om sòm là sao?
Đoàn Dự đáp:
- Nếu như tôi chết rồi thì còn kêu réo làm sao được?
Chung Linh cười khúc khích, đỡ đầu Đoàn Dự lên thấy sau ót sưng u lên một cục phải bằng quả trứng gà, tuy không chảy máu nhưng xem ra đau đớn lắm bèn hờn dỗi nói:
- Ai bảo anh ra tay khinh bạc hạ lưu, nếu như người khác thì tôi đã giết ngay tại chỗ, chỉ đẩy anh ngã là may cho anh lắm rồi.
Đoàn Dự ngồi dậy lạ lùng hỏi:
- Tôi ... tôi khinh bạc hạ lưu ư? Làm gì có chuyện đó? Thật là oan uổng hết sức.
Chuyện trai gái Chung Linh tưởng như hiểu mà thực chưa biết gì, nghe chàng ta nói, mặt hơi đỏ lên nói:
- Tôi không nói chuyện với anh nữa nhưng đúng là anh chẳng ra gì, ai bảo anh giơ tay đẩy vào chỗ đó ... chỗ đó ...
Đoàn Dự bấy giờ mới vỡ lẽ, thấy mình quả là không phải, định nói vài câu biện bạch nhưng không tiện bèn nói:
- Tôi ... tôi quả thực không cố ý.
Nói xong chàng gắng gượng đứng lên. Chung Linh cũng đứng theo nói:
- Anh không cố ý tôi mới tha cho anh. Cũng may mà anh tỉnh lại kẻo tôi bồn chồn hết sức.
Đoàn Dự nói:
- Khi ở Kiếm Hồ Cung nếu như không có cô ra tay cứu, chắc tôi sẽ còn ăn thêm vài cái tát nữa. Bây giờ cô làm tôi ngã hai lần, hai đứa mình coi như bù qua bù lại. Đúng là cái số tôi như thế, thật chạy trời không khỏi nắng.
Chung Linh nói:
- Anh nói thế, có phải anh còn giận tôi phải không?
Đoàn Dự đáp:
- Thế chẳng lẽ cô đánh tôi, tôi lại sung sướng nói là: “Cô nương đánh hay lắm, đánh thật tuyệt” hay sao? Hay cô còn muốn tôi phải cảm ơn mới phải?
Chung Linh cầm tay chàng dịu dàng nói:
- Từ nay trở đi, tôi sẽ không đánh anh nữa. Lần này anh đừng giận nhé.
Đoàn Dự đáp:
- Trừ phi cô để tôi đánh lại cô hai cái.
Chung Linh không muốn chút nào nhưng thấy chàng đang hầm hầm toan bỏ đi bèn ngẩng đầu lên nói:
- Được rồi, tôi để cho anh đánh tôi hai cái. Thế nhưng .. thế nhưng anh đừng đánh mạnh nghe chưa?
Đoàn Dự đáp:
- Nếu đánh không mạnh thì đâu phải là trả thù? Nhất định tôi phải đánh thật mạnh. Còn như cô không chịu cho tôi đánh thì thôi.
Chung Linh thở dài, nhắm mắt lại, nói nhỏ:
- Thôi được. Anh đánh rồi không được giận nữa nghe.
Qua một hồi không thấy tay Đoàn Dự đánh xuống, nàng mở mắt ra, thấy chàng đang mủm mỉm cười nhìn mình, Chung Linh ngạc nhiên hỏi:
- Sao anh không đánh?
Đoàn Dự giơ ngón tay út ra búng nhè nhẹ vào hai bên má nàng, cười nói:
- Đánh hai cái mạnh thế này, có đau lắm không?
Chung Linh mừng rỡ, cười nói:
- Tôi biết anh tử tế lắm mà!
Đoàn Dự thấy nàng đứng ngay trước mặt mình, cách nhau chưa đầy một thước, hơi thở tỏa ra thơm như lan, càng nhìn càng thấy nàng xinh đẹp không muốn rời ra, một lúc lâu sau mới nói:
- Được rồi, mối đại cừu của tôi đã báo, thôi để tôi đi kiếm lão bang chủ Tư Không Huyền.
Chung Linh vội nói:
- Chàng ngốc ơi, không được đâu. Chuyện trên giang hồ anh không biết chút nào, nếu phạm phải đại kỵ của võ lâm thì tôi không cứu nổi.
Đoàn Dự cười lắc đầu:
- Cô không phải lo cho tôi, tôi đi một lúc sẽ quay về, cô ở đây chờ nhé.
Nói xong chàng hùng dũng đi về phía những đám khói xanh đang cuồn cuộn tỏa lên. Chung Linh gọi giật lại nhưng Đoàn Dự không trả lời. Cô gái đứng ngơ ngẩn một hồi rồi nói:
- Được rồi, anh nói có hạt dưa cùng cắn, đao kiếm cùng chịu mà.
Nàng đuổi theo cùng sóng vai đi với Đoàn Dự nhưng không khuyên nhủ gì thêm nữa.
Hai người đi chỉ chừng uống cạn một tuần trà đã thấy hai gã mặc áo vàng bước ra ngăn lại, người bên trái có vẻ lớn tuổi quát lớn:
- Ai đó? Đến đây làm gì?
Đoàn Dự thấy hai người đó vai mang bọc thuốc, tay cầm đoản đao bản rộng liền đáp:
- Tại hạ Đoàn Dự, có chuyện xin cầu kiến Tư Không bang chủ của quí bang.
Lão già đáp:
- Có việc gì?
Đoàn Dự đáp:
- Để gặp quí bang chủ rồi sẽ nói rõ sau.
Lão già hỏi lại:
- Các hạ thuộc môn phái nào? Tôn sư tên họ là chi?
Đoàn Dự đáp:
- Tôi không có môn phái. Thụ nghiệp sư phụ của tôi họ Mạnh, tên trên Thuật dưới Thánh, tự Kế Nho. Sư phụ tôi chuyên nghiên cứu về Dịch Lý, Thuyết Quái, Hệ Từ cũng khá thâm hiểu.
Chàng nói đến sư phụ chính là nói về ông thầy dạy chàng đọc sách, làm văn. Thế nhưng lão già kia nghe thấy nào là “dịch lý”, “thuyết quái, hệ từ” lại tưởng là những môn công phu đặc biệt, nhất là Đoàn Dự tay cầm quạt phe phẩy, trông cũng có vẻ như thân mang tuyệt nghệ đã luyện đến mức không lộ ra ngoài nên không dám coi thường, mặc dầu chưa nghĩ ra trong võ lâm ai là Mạnh Thuật Thánh nhưng đối phương dám tự khoe là “cũng khá thâm hiểu” thì chắc không phải thuận miệng huênh hoang, bèn nói:
- Nếu quả như thế, xin Đoàn thiếu hiệp chờ một chút để tôi vào thông báo.
Chung Linh thấy y lật đật đi vào, qua khỏi một sườn núi liền hỏi:
- Anh ba hoa với y dị lý, nan lý là cái công phu gì thế? Nếu Tư Không Huyền đem ra tra hỏi e rằng không dễ gì đánh lừa được y đâu.
Đoàn Dự đáp:
- Chu Dịch tôi đọc thuộc lắm rồi, những chỗ vi ngôn đại nghĩa, nếu Tư Không Huyền đem ra tra vấn chưa chắc đã qua mặt được tôi.
Chung Linh ngơ ngác không biết sao đáp lại. Bỗng thấy lão già kia mặt hầm hầm quay lại nói:
- Ngươi nói lăng nói nhăng gì thế? Bang chủ gọi ngươi vào.
Cứ trông điệu bộ của y biết ngay là y vừa bị Tư Không Huyền trách mắng. Đoàn Dự gật gù, cùng Chung Linh đi theo gã. Ba người đi một lát qua khỏi một khoảng đất trũng, thấy trong một đống loạn thạch lớn ngồi đến hai chục người. Đoàn Dự tới gần hơn, thấy ngay chính giữa có một ông già bé nhỏ ngồi trên một tảng đá cao hơn hết những người khác, dưới cằm để một bộ râu lưa thưa như râu dê, mặt mày khinh khỉnh, hẳn là bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền. Chàng bèn chắp tay vái chào nói:
- Được Tư Không bang chủ cho mời, tại hạ Đoàn Dự xin chào.
Tư Không Huyền gật đầu nhưng không đứng lên, hỏi:
- Các hạ đến đây có chuyện gì?
Đoàn Dự đáp:
- Nghe nói quí bang cùng Vô Lượng Kiếm kết oán thù, tại hạ chính mắt trông thấy hai người trong Vô Lượng Kiếm thảm tử, trong lòng thật là bất nhẫn nên đến đây khuyên giải. Oan gia nên cởi không nên buộc, huống chi đâm chém lẫn nhau là phạm vào phép nước, nếu quan nha biết được thì càng thêm rắc rối. Mong Tư Không bang chủ kịp dừng ngựa trước vực sâu, mau quay trở về đừng tìm cách trả thù Vô Lượng Kiếm nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2011 09:36:11 | Chỉ xem của tác giả
Tư Không Huyền lạnh lùng nghe chàng phân giải chẳng nói chẳng rằng, chỉ liếc mắt một cái không biết có ý gì. Đoàn Dự lại tiếp:
- Những lời của tại hạ nói đây là lời vàng ngọc, mong bang chủ suy nghĩ lại.
Tư Không Huyền lạ lùng nhìn Đoàn Dự, đột nhiên ngửa cổ cười sằng sặc nói:
- Tiểu tử ngươi là ai sao lại đám đến đây kiếm lão phu để đùa cợt? Ai sai ngươi đến vậy?
Đoàn Dự đáp:
- Có ai bảo tôi đến đâu? Tự tôi đến nói với ông đó.
Tư Không Huyền hừ một tiếng nói:
- Lão phu hành tẩu giang hồ hơn bốn mươi năm chưa từng gặp một thằng nhãi nào lớn mật làm càn đến thế. A Thắng, bắt hai đứa trai gái này lại.
Một đại hán ở bên cạnh đáp lời bước ra, vươn tay chộp lấy cánh tay Đoàn Dự. Chung Linh kêu lên:
- Khoan đã! Tư Không bang chủ, vị Đoàn tướng công đây lấy lời hay lẽ phải khuyên ông, ông không nghe thì thôi, sao lại giở trò ngang ngược?
Nàng quay sang nói với Đoàn Dự:
- Đoàn đại ca, Thần Nông Bang không nghe lời đại ca, thôi mình đừng nhúng tay vào chuyện người khác nữa, đi thôi.
A Thắng vốn đã vươn tay bẻ quặt hai bàn tay Đoàn Dự ra sau lưng giữ thật chặt, mắt nhìn Tư Không Huyền đợi y ra lệnh. Tư Không Huyền lạnh lùng nói:
- Thần Nông Bang ghét nhất là kẻ hay xía vào chuyện người khác, hai đứa nhãi này đến đây lảm nhảm, ắt hẳn bên trong có chuyện gì khác lạ. A Hồng, trói con bé này lại cho ta.
Một đại hán khác lại đáp lời đưa tay ra bắt Chung Linh. Chung Linh lắc mình một cái lướt ra ngoài ba bước nói:
- Tư Không bang chủ, không phải là tôi sợ ông đâu. Có điều cha mẹ tôi không muốn tôi ra ngoài gây chuyên thị phi, ông mau ra lệnh thả Đoàn đại ca ra, đừng ép tôi phải ra tay càng thêm bất tiện.
Tư Không Huyền cười sằng sặc nói:
- Con ranh này khoác lác quá lắm. A Hồng, sao chưa động thủ?
A Hồng lại đáp lời “Vâng” rồi giơ tay ra chộp Chung Linh. Chung Linh rụt tay về, chưởng trái vung ra, cạnh bàn tay thành hình đao chém ngay vào cổ A Hồng. A Hồng hụp xuống tránh, tay phải của Chung Linh liền đấm móc từ dưới lên, nghe bịch một cái, trúng ngay cằm A Hồng khiến y ngã ngửa. Tư Không Huyền lạnh lùng nói:
- Con nhãi này cũng có được một đôi miếng, nhưng thế mà cũng dám đến Thần Nông Bang để chơi trèo thì chưa đủ đâu.
Y đưa mắt cho một lão già thân hình cao gầy ở bên cạnh, tay phải phất một cái. Lão già đó liền đứng dậy, tiến tới hai bước. Y cao hơn Chung Linh phải đến hai thước, từ cao đánh xuống, hai tay cùng vung ra như mười chiếc vuốt chim chộp vào đầu vai Chung Linh.
Chung Linh thấy thế đánh của y hùng mạnh, vội tránh sang một bên, năm ngón tay trái của lão già lướt qua má nàng chỉ cách chừng năm tấc. Chung Linh thấy kình phong ghê gớm, trong lòng sợ hãi kêu lên:
- Tư Không bang chủ, mau mau bảo y ngừng tay, nếu không tôi không nể nang nữa đâu đấy nhé. Mai này cha tôi mắng tôi thì ông cũng chẳng hay ho gì đâu.
Trong khi nàng nói, lão già kia đã ra tay ba lần, lần nào Chung Linh cũng tránh được. Tư Không Huyền gay gắt nói:
- Giữ nó lại.
Lão già cao tay trái đánh xéo tới, tay phải vòng thành một vòng tròn nhỏ, năm ngón tay lật lại đã chộp được cánh tay Chung Linh. Chung Linh “A” lên một tiếng hoảng hốt, đau đến tái mặt, tay trái rung một cái, miệng huýt hai tiếng, chỉ thấy một làn bạch quang thấp thoáng, lão già đã hự một tiếng buông tay cô ta ra, ngồi bệt xuống đất. Thiểm điện điêu cắn được y một cái rồi, lập tức nhảy ngay trở về tay Chung Linh.
Một hán tử trung niên ở bên cạnh Tư Không Huyền liền tung mình nhảy ra, giơ tay đỡ lão già cao lên, chỉ thấy y toàn thân run rẩy, trên lưng bàn tay có một vầng đen. Chung Linh lại huýt hai tiếng nữa, thiểm điện điêu lại vọt ra xông tới trước gã A Thắng đang giữ Đoàn Dự. A Thắng giơ tay định gạt ra, thiểm điện điêu thuận mồm cắn ngay một miếng, trúng ngay cạnh bàn tay y. A Thắng võ công không bằng ông già cao nên lại càng chịu không nổi, người co rúm lại kêu toáng lên. Chung Linh nắm tay Đoàn Dự, quay mình định chạy nói nhỏ:
- Họa đến nơi rồi, chạy cho nhanh.
Những người ở chung quanh Tư Không Huyền đều là hảo thủ trong Thần Nông Bang, ai nấy cả đời hái thuốc luyện dược, có thể nói loại độc vật gì cũng từng biết qua nhưng con chồn này nhanh như ánh chớp, lại độc địa như thế nên không ai biết là con gì. Tư Không Huyền kêu lên:
- Mau bắt con bé đó đừng để cho nó chạy thoát.
Bốn người đáp lời xông ra, chia ra hai bên vòng lại. Chung Linh luôn mồm huýt còi ra lệnh, con thiểm điện điêu nhảy từ người này sang người khác, chỉ chốc lát đã cắn cả bốn người tất cả nằm lăn lộn dưới đất, người nào cũng co quắp giãy giụa. Bang chúng của Thần Nông Bang tuy thấy con chồn đó đáng sợ thật nhưng trước mặt bang chủ nào ai dám rụt đầu rụt cổ nên lại có thêm bẩy tám người la hét xông ra. Chung Linh kêu lên:
- Muốn chết thì ra đây.
Bảy tám người đó tay cầm binh khí, kẻ thì cầm mai thuổng đào thuốc, kẻ lại cầm đoản đao bản rộng, cốt làm sao để khỏi bị con thiểm điện điêu tập kích. Thế nhưng con chồn kia nhanh chẳng khác gì ám khí, chân chỉ điểm vào sống đao một cái đã bật ngay vào cắn trúng địch nhân, chỉ chớp mắt những người đó đều ngã nhào.
Tư Không Huyền cởi trường bào, lấy trong túi ra một bình thuốc nước, đổ lên lòng bàn tay, xoa khắp từ cánh tay đổ xuống, chỉ nhún mấy cái đã vọt ra chặn ngay trước mặt Chung Linh và Đoàn Dự, trầm giọng quát:
- Đứng lại.
Con thiểm điện điêu từ bàn tay Chung Linh liền nhảy tới, vồ vào mặt Tư Không Huyền. Tư Không Huyền trong bụng cũng hơi chột dạ, giơ tay lên đỡ không biết thứ thuốc kỵ rắn bí chế của mình có trị nổi con chồn độc chưa từng thấy này hay không, nếu như vô hiệu thì không những tính mạng sẽ lâm nguy mà cả bang Thần Nông cũng bị hủy. Con chồn lao vào đớp bàn tay đột nhiên giữa lưng chừng quay ngoắt lại, chân sau điểm vào ngón tay y, mượn sức nhảy trở về. Cơ thể con thiểm điện điêu tích đầy nọc rắn nhưng thứ thuốc bí chế của Tư Không Huyền cũng cực kỳ linh nghiệm, chính là để khắc chế rắn độc, con chồn ngửi thấy mùi thuốc xông ra mạnh quá, chịu không nổi. Tư Không Huyền mừng lắm, tay trái liền đánh ra, chưởng phong thật là mạnh mẽ, Chung Linh tránh không kịp, chân không vững suýt nữa thì ngã. Dư lực của chưởng đó ập tới, nghe bộp một cái đánh trúng phải Đoàn Dự khiến chàng ngã bổ chửng.
Chung Linh kinh hãi, liên tiếp huýt còi thúc con thiểm điện điêu tấn công địch thủ. Con chồn cố xông vào mấy lần nhưng chất xà dược bôi trên tay Tư Không Huyền là khắc tinh của nó, muốn cắn vào đầu vào đùi của y thì Tư Không Huyền song chưởng múa tít đẩy lùi con vật không sao đến gần được.
Tư Không Huyền thấy con chồn nhảy nhót nhanh như chớp, trong bụng sợ hãi, liên tiếp hò hét ra lệnh, lập tức có mấy chục tên bang chúng từ bốn phương tám hướng ào ra, trong tay người nào cũng cầm một nắm cỏ thuốc, đốt lên khói bay mù mịt. Đoàn Dự từ dưới đất cố gượng đứng lên, bỗng thấy đầu váng lại ngã lăn ra trong cơn mơ mơ màng màng thấy Chung Linh cũng loạng choạng, rồi gục xuống. Hai tên bang chúng tiến lên toan bắt giữ Chung Linh, con chồn hộ vệ cho chủ liền nhảy tới cắn cho mỗi đứa một miếng. Cả bọn kinh hãi lùi ra, vây quanh bốn phía, miệng quát tháo om sòm nhưng không ai dám xông vào hạ thủ.
Tư Không Huyền kêu lên:
- Phương đông đốt hùng hoàng, phương nam đốt sạ hương, còn phương tây phương bắc mọi người dãn ra.
Các bang chúng tuân lệnh lấy hùng hoàng, sạ hương ra đốt. Bang Thần Nông dược vật gì cũng đầy đủ, loại nào cũng đều là tinh phẩm hạng nhất. Hai món sạ hương hùng hoàng kia thuần chất nên rất mãnh liệt, vừa mới đốt lên, lập tức bốc khói cay nồng, theo gió đông nam thổi về phía Chung Linh. Ngờ đâu con thiểm điện điêu không sợ khói thuốc, lại nhanh nhẹn khôn ngoan, trong nháy mắt đã cắn thêm năm tên bang chúng.
Tư Không Huyền nhíu mày lập tức nghĩ ra một kế kêu lên:
- Lấy xẻng xúc đất đổ lên chôn sống cả con bé kia lẫn con chồn.
Các bang chúng trong tay có sẵn mai xẻng dùng để đào thuốc, lập tức đào đất bên sườn núi, hất lên mình Chung Linh. Đoàn Dự nghĩ tai họa do mình gây ra, Chung Linh nay bị chôn sống không lẽ mình sống một mình, cố hết sức chồm lên, che người cô gái ôm chặt lấy nàng kêu lên:
- Thôi thì mình cùng chết cả.
Chàng thấy đất đá đổ xuống như mưa trên đầu mình. Tư Không Huyền nghe thấy chàng nói : “Thôi thì mình cùng chết cả” trong bụng chợt động, nhìn quanh thấy đến hai chục bang chúng nằm ngổn ngang, trong đó có đến bảy tám người là nhân vật trọng yếu, gồm cả hai tên sư đệ của mình, nếu như giết chết cô gái này, tuy hả giận thực nhưng độc tính của con chồn kia chẳng phải tầm thường, không có thuốc giải đặc biệt của cô ta, e rằng khó lòng mà cứu sống được liền nói:
- Để cho hai đứa nó sống, chừa cái đầu ra.
Chỉ trong giây lát đất đá đã ngập tới cổ, Chung Linh thấy sức ép đè xuống thật nặng nề, Đoàn Dự ôm chặt lấy mình người của hai đứa đã bị chìm trong đất tuy đầu còn thò ra nhưng không sao nhúc nhích được.
Tư Không Huyền khinh khỉnh hỏi:
- Con nhãi kia, mày muốn sống hay muốn chết?
Chung Linh đáp:
- Dĩ nhiên tôi muốn sống. Nếu ông giết tôi và Đoàn đại ca, bao nhiêu người của ông cũng không sống được đâu.
Tư Không Huyền nói:
- Được, vậy thì ngươi đem thuốc giải chất độc con chồn ra cho ta, ta sẽ tha chết cho ngươi.
Chung Linh lắc đầu:
- Tha mạng một mình tôi chưa đủ, phải tha mạng cả hai người mới được.
Tư Không Huyền nói:
- Được rồi, tha mạng cả hai đứa bay cũng được, thế thuốc giải đâu?
Chung Linh đáp:
- Trên người tôi không có thuốc giải. Chất độc con thiểm điện điêu này chỉ cha tôi mới trị được. Tôi đã nói trước với ông rồi, đừng có ép tôi phải ra tay, nếu không cha tôi thể nào cũng mắng tôi, ông cũng không tốt lành gì?
Tư Không Huyền sẵng giọng:
- Con nhãi này bây giờ còn nói lăng nói nhăng, lão gia mà cáu lên thì để cho mày chết đói.
Chung Linh đáp:
- Tôi từ trước đến giờ nói thật với ông, tại ông không tin. Ôi, nói gì thì nói, chuyện này thật là khó xử, e rằng không dấu nổi cha tôi đâu, không biết làm sao bây giờ?
Tư Không Huyền nói:
- Cha ngươi tên là gì?
Chung Linh đáp:
- Ông già đầu mà không thông tình lý gì cả, tên cha tôi làm sao tôi có thể nói ra cho ông biết được?
Tư Không Huyền hành tẩu giang hồ đã mấy chục năm, trong võ lâm cũng có tên tuổi, hôm nay gặp Chung Linh và Đoàn Dự hai đứa trẻ con chưa ráo máu đầu mà đành bó tay. Y nghiến răng nói:
- Đem lửa lại đây để ta đốt tóc con nhãi con này xem nó có nói không nào?
Một tên bang chúng liền đem một bó đuốc tới, Tư Không Huyền cầm lăm lăm tiến lên hai bước. Dưới ánh lửa bập bùng, Chung Linh thấy mặt y đầy vẻ hung ác, trong lòng sợ hãi kêu lên:
- Thôi, thôi, ông khỏi phải đốt tóc tôi, cháy tóc đau lắm. Nếu ông không tin, thử đốt râu ông thì biết.
Tư Không Huyền bật cười:
- Lẽ dĩ nhiên ta biết là đau lắm, việc gì phải đốt râu mới biết.
Y giơ cao bó đuốc nhứ nhứ vào mặt Chung Linh. Chung Linh sợ đến kêu lên oai oái.
Đoàn Dự ôm chặt lấy nàng la lớn:
- Lão râu dê kia, việc này cũng tại ta mà ra, ngươi đốt tóc ta cho xong.
Chung Linh nói:
- Không được, đau lắm đó.
Tư Không Huyền nói:
- Nếu như ngươi sợ đau thì mau mau lấy thuốc giải ra để cứu chữa cho các anh em ta.
Chung Linh đáp:
- Sao ông ngốc thế. Tôi đã nói với ông rồi, chỉ có cha tôi mới trị được chất độc của con thiểm điện điêu thôi, đến mẹ tôi cũng còn không biết. Con thiểm điện điêu này trên đời ít thấy, là thần vật trời sinh, chất độc trên răng nó cực kỳ quái dị, ông tưởng dễ trị lắm hay sao?
Tư Không Huyền nghe thấy những người chung quanh bị con chồn cắn phải không ngớt rên la cực kỳ khác lạ, biết rằng chất độc con chồn này thật khó chữa, những người này đều là anh hùng hảo hán, dẫu có bị chặt chân gãy tay cũng không kêu than một lời. Những người đó đã được đồng bọn cho uống thuốc trị nọc rắn nhưng nghe rên la thì biết ngay rằng thuốc của bản bang không công hiệu. Bọn họ bèn lấy thuốc trị rết cắn, trị bò cạp, trị nhện độc các loại thuốc, đưa cho những bang chúng cấp thấp uống thử, ngờ đâu bọn chúng chỉ lại càng kêu la thêm thảm thiết hơn nữa. Tư Không Huyền trừng trừng nhìn Chung Linh, quát lớn:
- Cha ngươi tên gì? Mau nói ta nghe.
Chung Linh đáp:
- Có thực ông muốn tôi nói chăng? Ông không sợ hay sao?
Tư Không Huyền giận lắm, giơ bó đuốc đang toan đốt tóc Chung Linh, bỗng sau cổ đau nhói đã bị con gì đó cắn một miếng rồi. Tư Không Huyền sợ quá, vội hít một hơi để bảo vệ tâm đầu, ném bó đuốc xuống, giơ tay ra chộp đằng sau ót, bỗng thấy lưng bàn tay cũng nhói lên. Thì ra con thiểm điện điêu bị vùi dưới đất, len lén bò ra, thừa lúc Tư Không Huyền không phòng bị liền nhảy lên cắn trộm. Tư Không Huyền liên tiếp bị cắn hai lần, sợ đến mất vía, lập tức ngồi xếp bằng, vận công trừ độc. Các bang chúng vội hất đất cát lên vùi con thiểm điện điêu, con chồn lại nhảy lên cắn thêm hai người nữa, trong bóng đêm thấy một bóng trắng thấp thoáng đã chạy vào trong đám cỏ không còn thấy đâu nữa.
Thủ hạ trong bang Thần Nông vội vàng lấy thuốc trị rắn cắn ra, trong uống ngoài thoa phục thị bang chủ, lại nhét một củ dã sơn sâm vào miệng y. Tư Không Huyền lập tức vận công trị hai chỗ bị cắn nhưng chỉ chưa đầy thời gian uống một chén trà đã chịu không nổi, nghiến răng tay trái rút trong lưng ra một thanh đoản đao, nghe soẹt một tiếng chém xuống đứt ngay bàn tay phải. Thật đúng là “rắn độc cắn phải tay, tráng sĩ đành chịu cụt”, có điều vết thương sau cổ thì không thể nào chặt đầu vứt bỏ được. Các bang chúng trong lòng khiếp hãi, vội vàng lấy kim sang thuốc men ra băng bó cho bang chủ nhưng chỗ cánh tay đứt máu chảy như suối, mấy lần thuốc đắp lên đều trôi đi cả. Có người xé áo, buộc chặt lấy khuỷu tay, lúc ấy máu mới ngừng chảy.
Chung Linh thấy cảnh tượng thảm khốc đó, sợ đến mặt trắng bệch, không dám nói thêm câu nào. Tư Không Huyền trầm giọng hỏi:
- Bị con quỉ độc điêu kia cắn phải thì còn sống được bao lâu?
Chung Linh ấp úng đáp:
- Cha tôi nói là chỉ sống được bảy ngày. Thế nhưng ... thế nhưng Tư Không bang chủ nội lực thâm hậu, võ công lại hơn người, hẳn rằng ... sống lâu thêm được vài ngày nữa.
Tư Không Huyền hừ một tiếng nói:
- Lôi tên tiểu tử này ra.
Các bang chúng tuân lệnh, lôi Đoàn Dự từ trong đám đất đá ra. Chung Linh vội vàng kêu lên:
- Thôi thôi, việc này không liên can gì đến anh ta, đừng hại y.
Nàng vùng vẫy chân tay toan thừa cơ chui ra nhưng các bang chúng lại đem đất đá chèn vào chỗ Đoàn Dự khi nãy, Chung Linh liền không sao cử động được nữa, khóc òa lên.
Đoàn Dự trong bụng hãi lắm nhưng cố gắng trấn tĩnh, mỉm cười nói:
- Chung cô nương, đại trượng phu coi cái chết có khác gì trở về, trước mặt bọn ác nhân này không nên tỏ ra yếu đuối.
Chung Linh vừa khóc vừa nói:
- Tôi không phải là đại trượng phu! Tôi không coi cái chết là trở về, tôi cứ tỏ ra yếu đuối thì đã sao.
Tư Không Huyền trầm giọng nói:
- Cho tên tiểu tử này uống đoạn trường tán. Cho nó uống phân lượng bảy ngày.
Một tên bang chúng lấy một bình thuốc đổ ra nửa bình thuốc bột màu đỏ, bắt Đoàn Dự phải nuốt vào bụng. Chung Linh kêu lên:
- Thuốc độc đó không uống được đâu.
Đoàn Dự nghe tới cái tên đoạn trường tán biết ngay đó là một loại thuốc độc cực mạnh nhưng nghĩ mình đã rơi vào tay chúng rồi còn cách nào cự tuyệt không uống cho được? Chàng hiên ngang uống ngay, chép chép miệng cười nói:
- Thuốc ngọt lừ đấy mà. Tư Không bang chủ, ông cũng uống nửa bình chăng?
Tư Không Huyền giận dữ hừ một tiếng. Chung Linh đang khóc cũng cười rộ lên nhưng lại nín ngay khóc tiếp. Tư Không Huyền nói:
- Đoạn trường tán này bảy ngày sau chất độc sẽ phát tác, ruột đứt ra từng khúc mà chết. Ngươi đi lấy thuốc giải độc con chồn, nếu bảy ngày về kịp thì ta cho thuốc giải và thả tiểu cô nương này ra.
Chung Linh nói:
- Chỉ uống thuốc giải không chưa đủ, phải có cha ta vận nội công độc đáo của ông ta thì mới giải được chất độc con chồn.
Tư Không Huyền nói:
- Thế thì bảo y mời luôn cha ngươi tới đây cứu ngươi ra.
Chung Linh đáp:
- Sao ngươi nói dễ nghe thế, cha ta đời nào chịu ra khỏi núi? Ông ấy nhất định không ra khỏi sơn cốc một bước.
Tư Không Huyền trầm ngâm không nói nữa. Đoàn Dự nói:
- Nếu đã thế, tất cả chúng ta cùng đến phủ của Chung cô nương nhờ tôn đại nhân chữa bệnh giải độc có phải nhanh hơn không?
Chung Linh nói:
- Không được đâu, không được đâu. Cha ta đã nói trước rồi, dù cho là ai chăng nữa chỉ bước vào sơn cốc nhà ta một bước là sẽ phải chết.
Tư Không Huyền nghĩ thầm: “Chuyện của Vô Lượng Kiếm chưa xong ta làm sao đi khỏi nơi đây cho được? Nếu như làm hỏng việc, Thiên Sơn Đồng Mỗ đâu có tha, e rằng chết còn thảm khốc hơn nhiều”. Y thấy vết cắn sau cổ càng lúc càng ngứa, nhịn không nổi phải rên lên mấy tiếng.
Chung Linh nói:
- Tư Không bang chủ, xin lỗi ông nhé.
Tư Không Huyền bực tức đáp:
- Xin lỗi cái con khỉ mốc.
Đoàn Dự nói:
- Tư Không bang chủ, sao ông lại nói năng với Chung cô nương thô bỉ như thế, mất hết phong độ của người quân tử.
Tư Không Huyền quát lớn:
- Quân tử cái con bà nhà ngươi.
Y nghĩ thầm: “Trên người ta đã cấy Sinh Tử Phù rồi, khi phát tác ra khổ sở biết chừng nào, chi bằng chết ngay lúc này cho xong” bèn dịu giọng nói với Chung Linh:
- Ta còn nhiều việc phải làm, ngươi không đi mời cha ngươi được, thôi thì cả bọn cùng chết vậy.
Giọng của y nghe thật thê thảm, quả là “mình lại thương mình xót xa”. Chung Linh suy nghĩ rồi nói:
- Ông thả tôi ra để tôi viết thư cho cha tôi, nói ông ấy tới đây cứu ông. Ông sai đứa nào không sợ chết đem thư đi.
Tư Không Huyền đáp:
- Ta bắt tên tiểu tử họ Đoàn này đưa thư, việc gì phải sai ai khác?
Chung Linh nói:
- Ông quả thật hay quên quá. Bất luận ai bước chân vào sơn cốc nhà tôi một bước thì thể nào cũng chết. Tôi đã nói với ông rồi, phải không nào? Tôi không muốn Đoàn đại ca phải chết, ông hiểu chưa?
Tư Không Huyền lạnh lùng nói:
- Y không thể chết, không lẽ thủ hạ của ta lại đáng chết hay sao? Không đi thì thôi, tất cả chết hết. Để xem ngươi chết trước hay là ta chết trước.
Chung Linh lại rấm rứt khóc tiếp, kêu lên:
- Lão già kia thật không biết xấu, chỉ giỏi tài ăn hiếp trẻ con. Rồi đây trên giang hồ đồn ầm lên ai ai cũng biết bang chủ Thần Nông Bang không phải là bậc anh hùng hảo hán, thanh danh của ông đổ xuống sông xuống biển.
Tư Không Huyền điềm nhiên vận công chống lại chất độc, không thèm để ý đến cô ta nữa. Đoàn Dự nói:
- Chỉ vì tôi không ra gì. Chung cô nương, lệnh tôn thấy tôi đến báo tin gọi ông ta đến cứu cô, chắc không đến nỗi giết hại tôi đâu.
Chung Linh đột nhiên đổi ra vui mừng nói:
- Nghĩ ra rồi! Để tôi chỉ cho anh một cách, anh đừng nói với cha tôi là tôi đang ở nơi đâu, nếu giết anh ông ta sẽ không biết tôi ở chỗ nào. Để anh dẫn ông ta tới đây, rồi sẽ tìm cách bỏ trốn, nếu không thì nguy lắm.
Đoàn Dự gật đầu:
- Kế đó hay lắm.
Chung Linh nói với Tư Không Huyền:
- Tư Không bang chủ, Đoàn đại ca vừa tới đây là sẽ đào tẩu ngay, giải dược của đoạn trường tán làm sao đưa cho anh ấy được?
Tư Không Huyền chỉ về một tảng đá lớn ở phía góc tây bắc xa xa nói:
- Ta sai người đem thuốc giải, chờ ở ngay đó. Đoàn quân chạy trốn tới ở sau khối nham thạch sẽ có giải dược.
Tư Không Huyền muốn Đoàn Dự đi mời người tới cứu mạng y, cách nói năng liền đổi giọng tử tế ngay. Y truyền cho bộ hạ, bang chúng moi Chung Linh ra, lấy xích sắt buộc chặt hai tay nàng trước rồi sau mới gỡ đất ra sau. Chung Linh nói:
- Ông không cởi hai tay tôi ra làm sao viết thư?
Tư Không Huyền đáp:
- Con nhãi con này điêu ngoa cổ quái, muốn viết thư chắc lại định giở trò gì đây. Ngươi lấy ra một tín vật tùy thân, nhờ Đoàn quân mang đến cho cha ngươi được rồi.
Chung Linh cười nói:
- Tôi rất ghét viết thư, ông bảo tôi khỏi viết thì còn gì bằng. Tôi có tín vật gì nhỉ? Ồ, Đoàn đại ca, anh gỡ lấy đôi giày của tôi, cha mẹ tôi nhìn thấy là biết liền.
Đoàn Dự gật đầu, cúi xuống tháo đôi giày của nàng ra, tay trái giở gót chân, thấy bàn chân nàng nhỏ nhắn vừa cầm tới đã thấy trong lòng rung động, ngửng đầu nhìn lên, hai người nhìn nhau mỉm cười. Trong ánh lửa bập bùng, Đoàn Dự thấy khuôn mặt nàng rạng rỡ tuy trên má có điểm mấy giọt lệ nhưng ánh mắt đầy vẻ vui tươi, khiến chàng như ngây như dại.
Tư Không Huyền thấy thế vội giục giã:
- Thôi đi mau, đi mau, hai cô cậu tôi nhìn anh, anh nhìn tôi biết đến bao giờ? Đoàn huynh đệ, ngươi mau đi mời người tới đây, ta sẽ thả cô bé này cho ngươi lấy làm vợ. Sau này ngày rộng tháng dài, ngươi muốn sờ chân nàng lúc nào chẳng được.
Đoàn Dự và Chung Linh hai người mặt đỏ bừng, chàng vội cởi đôi giày hoa dưới chân cô gái bỏ luôn vào túi, nhịn không nổi lại liếc Chung Linh một cái. Chung Linh khúc khích bật cười. Tư Không Huyền nói:
- Đoàn huynh đệ, đi sớm về sớm, mọi người mệnh trong sớm tối, nếu trên đường đi có chuyện gì thì không ai toàn mạng cả. Chung cô nương, từ đây đến tôn phủ đi về mất bao nhiêu ngày?
Chung Linh đáp:
- Nếu đi nhanh thì hai ngày là tới, chỉ chừng bốn ngày là về lại đây.
Tư Không Huyền nghe thế cũng yên tâm vội giục:
- Thôi đi nhanh lên.
Chung Linh nói:
- Để tôi chỉ đường cho Đoàn đại ca, các ngươi đi ra chỗ khác, không ai được nghe lén.
Tư Không Huyền vẫy tay, các bang chúng đều lánh ra xa. Chung Linh nói:
- Cả ông cũng đi khỏi nữa.
Tư Không Huyền căm tức nghĩ thầm: “Để đến khi ta khỏi rồi nếu không cho con nhãi này một mẻ thì Tư Không Huyền này không phải là người”. Y đứng lên đi ra chỗ khác. Chung Linh thở dài nói:
- Đoàn đại ca, hai đứa mình hôm nay gặp nhau không ngờ lại chia tay sớm thế.
Đoàn Dự cười:
- Đi về chỉ bốn ngày cũng không lấy gì làm lâu lắc.
Đôi mắt to của Chung Linh chăm chăm nhìn chàng một hồi rồi nói:
- Anh đến gặp mẹ em trước, nói cho bà ấy biết rõ sự tình, rồi để mẹ em nói với cha em, như thế thì dễ hơn.
Nàng nói rồi giơ ngón chân ra vạch trên đất đường đi nước bước. Thì ra Chung Linh ở tại một sơn cốc tây ngạn sông Lan Thương, lộ trình không xa nhưng địa thế cực kỳ khó tìm, qua khỏi cửa rồi còn phải biết thêm mấy ám hiệu, nếu không được chỉ minh bạch thì người ngoài khó lòng mà vào được thung lũng. Đoàn Dự có trí nhớ rất tốt, Chung Linh vạch đường quẹo qua đông, vòng qua tây, xiên xuống nam, ngược lên bắc vậy mà chàng chỉ nghe một lần là nhớ hết. Đợi khi Chung Linh chỉ dẫn xong chàng bèn nói:
- Được rồi, thôi tôi đi.
Quay mình đi khỏi. Chung Linh đợi chàng đi độ mươi bước, đột nhiên nghĩ ra một chuyện gọi giật lại:
- Này, anh quay lại đã.
Đoàn Dự hỏi:
- Gì thế?
Rồi quay trở lại. Chung Linh nói:
- Anh đừng nói mình họ Đoàn, lại chớ nên nói là cha anh biết Nhất Dương Chỉ để ... để ... cha em khỏi nghĩ ngợi.
Đoàn Dự cười:
- Được rồi.
Chàng nghĩ bụng cô gái này tuổi còn nhỏ nhưng sao bụng dạ thật sâu xa, cao hứng cất tiếng hát thẳng đường đi ra.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2011 09:45:21 | Chỉ xem của tác giả
                                                                                                            Hồi 2

                                                                                        NGỌC BÍCH NGUYỆT HOA MINH

                                                                    Nghê Thường chưa trọn dây đà đứt,
                                                       Loan phượng chia tay cuộc chửa tàn.
                                                       Thoang thoảng hương thừa vương gót hạc,
                                                        Đìu hiu gương lạnh bóng mênh mang.


Chuyện dây dưa một lúc lâu nên lúc này mặt trăng đã lên đến đỉnh đầu. Đoàn Dự chuyển qua hướng tây mà đi, tuy chàng không biết võ công nhưng đang sức trai khỏe mạnh nên đi nhanh lắm được hơn chục dặm đã vòng qua đến hậu sơn của ngọn núi chính trong dãy Vô Lượng Sơn, nghe thấy tiếng nước chảy róc rách hóa ra đằng trước có một ngọn suối. Chàng đang khát nên lần đến cạnh khe nước, dưới ánh trăng sáng thấy dòng suối trong trẻo lạ thường toan thò tay vào bỗng nghe đằng xa có tiếng ai đạp vào cành cây khô nghe cách một tiếng, kế đó là tiếng bước chân của hai người. Đoàn Dự vội vàng nằm phục bên bờ suối, không dám động đậy.
Chỉ thấy một người nói:
- Ở đây có suối nước, uống xong mình lại đi tiếp.
Giọng nghe rất quen thuộc, Đoàn Dự liền nhận ra ngay đây là đệ tử của Tả Tử Mục Can Quang Hào khiến chàng lại càng không dám cử động. Chỉ thấy hai người đi đến bên trên dòng nước, tiếp theo nghe thấy tiếng tạt nước và tiếng người uống. Một lát sau Can Quang Hào nói:
- Cát sư muội, chúng mình đã thoát hiểm cảnh rồi, em đi cũng đã mệt, mình ngồi nghỉ một lát rồi hãy đi tiếp.
Có tiếng một người đàn bà ừ một tiếng rồi tiếng loạt soạt ở bên bờ suối, hẳn là hai người đã ngồi xuống. Lại nghe người đàn bà nói:
- Sư huynh liệu Thần Nông Bang có cho người canh ở chỗ này không?
Nghe giọng hơi run run, xem chừng sợ hãi lắm. Can Quang Hào an ủi:
- Sư muội an tâm. Sơn đạo này rất là kín đáo, ngay cả trong Đông Tông chúng ta cũng chẳng mấy người đi tới, Thần Nông Bang không thể nào biết được đâu.
Người đàn bà lại hỏi:
- Thế sư huynh làm sao biết được con đường mòn này?
Can Quang Hào đáp:
- Cứ năm ngày một lần sư phụ lại dẫn đệ tử đến nghiên cứu khối Vô Lượng Ngọc Bích xem có gì bí áo, thế nhưng bao năm qua chúng ta chỉ cứ chăm chăm nhìn khối đá này, chưa nhìn ra được điều gì. Sư phụ lão nhân gia nói cái gì “người muốn làm nên đại công nghiệp thì phải có nghị lực bền bỉ”, lại thêm rằng “có chí thì nên”. Thế nhưng quả thực ta nhìn mãi chán lắm rồi, có khi giả vờ đi đại tiện rồi ra ngoài chạy lăng quăng nên mới tìm ra được tiểu lộ này.
Cô gái kia cười khúc khích nói:
- Thì ra anh không dụng công, chỉ trốn học đi chơi. Xem ra trong các đồng môn, sư huynh là người kém nghị lực hơn cả.
Can Quang Hào cười nói:
- Cát sư muội, năm năm trước tỉ kiếm trên Kiếm Hồ Cung ta bị thua sư muội rồi...
Cô gái ngắt lời:
- Thôi đừng nói “ta bị thua sư muội”. Lúc đó sư huynh giả vờ nội lực không đủ, cố ý nhường cho tiểu muội, người ngoài thì không thấy nhưng chẳng lẽ chính em cũng không biết hay sao?
Đoàn Dự nghe thấy thế nghĩ thầm: “Thì ra người đàn bà này thuộc về Tây Tông của Vô Lượng Kiếm”. Can Quang Hào đáp:
- Ta vừa thấy mặt em trong lòng đã phát trọng thệ, thể nào cũng phải được cùng nhau ăn ở suốt đời. May sao hôm nay mới gặp được cơ hội nghìn năm một thuở, Thần Nông Bang đột nhiên đến tấn công, lại thêm có hai đứa nhãi nhép đem con chồn độc đến, làm loạn cả lên khiến cho người trong Kiếm Hồ Cung nhốn nháo, hai đứa mình mới thừa cơ bỏ chạy, thế chẳng phải ‘có chí thì nên” thì là gì?
Cô gái kia cười khúc khích nhỏ nhẹ đáp:
- Em cũng thật là “có chí thì nên”.
Can Quang Hào nói:
- Cát sư muội, em đối với anh tốt như thế, một đời anh sẽ mãi mãi chiều theo em.
Nghe giọng nói thấy y vui sướng không để đâu cho hết. Cô gái kia thở dài một tiếng nói:
- Chúng mình lần này phản thầy rủ nhau đi trốn, thật không còn chỗ đứng trong võ lâm nữa. Mình phải đi càng xa càng tốt, kiếm chỗ nào thật là kín đáo mà ở, đừng để sư phụ và đồng môn biết được mới xong. Càng nghĩ đến sao em càng thêm sợ.
Can Quang Hào đáp:
- Em chớ lo làm gì. Ta xem phen này Thần Nông Bang đã chuẩn bị rồi mới đến, hai phái Đông Tây ngoài anh và em ra e rằng chẳng một ai thoát khỏi độc thủ của chúng được.
Người đàn bà lại thở dài nói:
- Cũng mong là thế.
Đoàn Dự nghe xong tức khí xông lên nghĩ thầm: “Hai đứa chúng bay muốn thành vợ chồng, thấy sư môn có nạn thừa cơ bỏ trốn thì cũng đành, nhưng sao lại mong sư trưởng đồng môn của mình đều bị độc thủ? Tâm địa chúng bay tàn độc thật.” Chàng nghĩ đến hai người tính tình thâm hiểm như thế, nếu như chúng phát giác ra mình, thể nào cũng giết đi diệt khẩu, thành thử đến thở mạnh cũng không dám.
Cô gái lại nói:
- Cái phiến Vô Lượng Ngọc Bích kia có cái gì lạ lùng khác thường, bên anh ở đây đã mười năm, không lẽ vẫn chưa tìm ra chút manh mối nào hay sao?
Can Quang Hào đáp:
- Mình đã là một nhà, lẽ nào anh lại còn dối em hay sao? Sư phụ nói, nhiều năm trước, lúc đó thái sư phụ của ngu huynh làm chưởng môn Đông Tông, những đêm trăng thấy trên bức tường ngọc có hình người múa kiếm, khi thì đàn ông, khi thì đàn bà, có khi đàn ông đàn bà đấu kiếm với nhau, đâm chém kịch liệt. Kiếm pháp trên khối ngọc bích dó tinh diệu lắm, chính thái sư phụ anh bình sinh chưa thấy bao giờ, dù có nằm mơ cũng không tưởng tượng nổi, hẳn là do tiên trên trời biểu diễn. Thái sư phụ anh chỉ mong học được vài chiêu tiên kiếm, thế nhưng kiếm ảnh trên vách núi quá ư là kỳ lạ, quá ư là lanh lẹ, lại mờ ảo khi có khi không, không cách nào coi cho rõ được, có muốn học nửa chiêu cũng không xong. Hình ảnh của tiên kiếm lại đâu phải lúc nào cũng có, có khi thì thật khuya mới có, có khi một hai tháng mới thấy một lần. Thái sư phụ mê say kiếm ảnh trên ngọc bích sao lãng cả việc luyện tập kiếm pháp bản môn, cũng lơ là cả việc đốc thúc đệ tử luyện tập nên về sau mới bị Tây Tông của em đánh bại. Cát sư muội, thái sư phụ em cùng đệ tử vào ở trong Kiếm Hồ Cung rồi có thấy cái gì không?
Cô gái nói:
- Cứ như sư phụ em nói, kiếm ảnh trên tường đó thái sư phụ em cũng thấy nhưng về sau chỉ thấy một người đàn bà múa kiếm, còn vị kiếm tiên đàn ông kia không còn đâu nữa. Chắc là vì thái sư phụ em là đàn bà nên chỉ có một nữ kiếm tiên hiện ra chỉ dạy thôi. Thế nhưng chỉ được hai năm thì vị nữ kiếm tiên kia cũng biến mất. Thái sư phụ có nói rằng, thân pháp kiếm pháp của những vị tiên hiện ra trên ngọc bích tuy thật là kỳ diệu, nhưng mơ hồ mông lung, lại quá nhanh không thể quan sát kỹ càng.
Bức tường ngọc đó lại cách khoảng kiếm hồ và một vực sâu thành thử không cách gì liều mạng đến gần mà coi được. Thái sư phụ tuy được thiên duyên nhưng lại không đủ phúc trạch nên không học được nửa chiêu, bán thức để có thể dương oai nơi võ lâm, trong lòng uất ức thế nào chẳng nói thì cũng biết.
Sau khi tiên ảnh biến mất rồi, thái sư phụ em ngày đêm ở trên đỉnh núi bàng hoàng, chăm chăm nhìn vào bức tường ngọc kia mà xuất thần, càng ngày càng thêm tiều tụy, chỉ nửa năm sau bệnh mà chết. Khi lâm chung lão nhân gia còn đang ở trên đỉnh núi, tuy hơi thở chỉ còn thoi thóp nhưng vẫn không cho đệ tử đem về Kiếm Hồ Cung. Sư phụ em nói rằng khi thái sư phụ tắt thở, hai mắt vẫn còn trừng trừng nhìn vào ngọc bích.
Cô ta ngừng lại một chút nói tiếp:
- Can sư ca, anh nghĩ trên đời này có tiên thật chăng? Hai là hai vị thái sư phụ của anh và của em nói thế để đánh lừa người khác?
Can Quang Hào đáp:
- Nếu bảo hai vị thái sư phụ tạo ra câu chuyện đó để đánh lừa đệ tử thì chắc không phải, có được gì đâu. Hơn nữa, ta nghe Thẩm sư bá nói rằng khi người còn nhỏ quả đã chính mắt trông thấy hình ảnh của kiếm tiên. Thế nhưng trên đời này có tiên thật hay không, ta không biết nữa.
Người đàn bà nói:
- Hay là có hai vị cao nhân múa kiếm ở trước hồ rồi bóng họ in lên bức tường ngọc đó chăng?
Can Quang Hào đáp:
- Hồi đó thái sư phụ đã nghĩ đến chuyện đó rồi. Thế nhưng trước bức tường ngọc là Kiếm Hồ, phía tây hồ lại là vực sâu, hai vị cao nhân kia dù có thể lăng ba đạp thủy múa kiếm ngay trên mặt hồ thì thái sư phụ cũng phải nhìn thấy rồi. Còn như nếu ở bên cạnh hồ mà múa kiếm thì cách xa như thế, cái bóng không sao có thể chiếu lên trên ngọc bích được.
Cô gái nói:
- Thái sư phụ em lìa đời rồi, các đệ tử đêm đêm thắp hương lễ bái trước bức tường ngọc, cầu xin khấn nguyện chỉ mong cái bóng của kiếm tiên hiện ra một lần nhưng không bao giờ thấy nữa. Sư phụ em chỉ mong được quay lại xem ra thế nào nhưng mười năm qua hai lần tỉ kiếm đều thua Đông Tông bên anh cả.
Can Quang Hào nói:
- Từ nay trở đi, hai đứa mình không còn phân biệt Đông Tông, Tây Tông gì nữa. Hai tông bây giờ đã hợp làm một ...
Chỉ nghe cô gái cười rúc rích, ứ hự mấy tiếng, nói sẽ:
- Đừng ... đừng làm thế.
Hiển nhiên Can Quang Hào có hành động sàm sỡ nên cô nàng mới ngúng nguẩy. Can Quang Hào nói:
- Em đi theo anh, nếu như sau này anh phụ bạc thì nguyện sẽ biến thành thằng chó má ngay ở cạnh hồ này.
Thiếu nữ cười khanh khách, nũng nịu nói:
- Nếu anh là tên chó má thì có khác gì anh rủa em là đứa hư thân mất nết chẳng ra gì?
Đoàn Dự nghe đến đây, nhịn không nổi bật cười lên một tiếng. Tiếng cười vừa thoát ra chàng biết ngay là không xong vội vàng nhỏm lên, bỏ chạy thục mạng. Chỉ nghe phía sau Can Quang Hào quát lớn:
- Ai đó?
Rồi thấy tiếng người rầm rập đuổi theo. Đoàn Dự kêu khổ thầm càng hết sức đào tẩu. Chỉ trong giây lát, phía bên tây đã có ánh sáng lấp loáng, một người đàn bà tay cầm trường kiếm chạy về phía sườn núi hẳn là định chặn đường của chàng. Đoàn Dự kêu lên:
- Ối chao!
Chàng liền quay sang hướng đông, trong bụng lẩm bẩm: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm bồ tát, cứu cho đệ tử Đoàn Dự thoát được tai kiếp này”. Tai chàng vẫn nghe thấy tiếng Can Quang Hào tiếp tục đuổi theo, chỉ được một lát Đoàn Dự đã thở hồng hộc thì nghe Can Quang Hào quát lớn:
- Cát sư muội! Mau chặn sơn khẩu.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ta chết cũng không có gì quan trọng, ngặt là làm lụy cả Chung cô nương cũng không sống nổi, lại hại thêm bao nhiêu mạng người trong Thần Nông Bang, tội nghiệt thật nhiều. A Di Đà Phật! Quan Thế Âm bồ tát!”.
Chàng lại nghĩ tiếp: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, bọn chúng có thành chó má cũng đâu có sao, thành đứa chẳng ra gì cũng mặc kệ nó, có liên can gì đến ngươi? Việc gì mà phải cười người ta làm gì? Tiếng cười đó chẳng phải là giết đến mấy chục mạng hay sao? Người ta có là tuyệt sắc mỹ nhân thì một nụ cười mới nghiêng thành, còn ngươi Đoàn Dự là cái quái gì mà cũng cười làm chi? Nghiêng được cái gì đây không biết nữa?”.
Trong bụng tự oán tự trách như thế nhưng chân không chậm lại chút nào, chẳng cần chọn đường đi nước bước cứ chạy bừa vào phía rừng sâu rậm rạp.
Chạy thêm một lúc nữa, hai chân đã mỏi nhừ, hơi thở phì phò bỗng thấy tiếng nước chảy ào ào, gầm rú chẳng khác gì sóng biển đang xô tới, ngửng đầu nhìn lên thấy phía tây bắc như một dòng sông bạc treo ngược, chính là một ngọn thác lớn từ trên cao đổ xuống. Ở phía sau Can Quang Hào kêu lên:
- Đằng trước là cấm địa của bản phái, người ngoài không được tiến vào. Nếu ngươi còn đi sâu thêm vài trượng, phạm vào cấm kỵ thì chết không có đất mà chôn.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nếu ta không vào cấm địa của phái Vô Lượng, chẳng lẽ ngươi tha chết cho ta hay sao? Thì cùng lắm cũng đến chết là cùng, có hay không có đất chôn thì khác gì bao nhiêu”. Chàng chân càng thêm gắng sức cố chạy nhanh hơn. Can Quang Hào quát lớn:
- Mau ngừng lại, ngươi muốn chết hay sao? Trước mặt là ...
Đoàn Dự cười nói:
- Ta không muốn chết, thế mới chạy ...
Nòi chưa dứt câu, đột nhiên chân bước hụt một cái đạp vào chỗ không. Chàng không biết võ công đang chạy nhanh làm sao lùi lại cho kịp thân hình liền rơi thẳng xuống, chỉ mới kêu lên “Ối trời!” thì đã cách chỗ mỏm núi đến mấy chục trượng rồi. Chàng đang ở trên không, hai tay quơ loạn lên, chỉ mong nắm được vật gì, múa may như thế đã rơi thêm mấy trăm trượng nữa, độ nhiên nghe bùng một tiếng, mông đụng vào một cây cổ tùng thò từ vách núi ra, thân hình liền bắn trở lên. Lách cách lách cách mấy tiếng, cành tùng to lớn đã gãy lìa nhưng sức rơi xuống đã giảm bớt.
Đoàn Dự vừa rơi xuống tiếp hai tay liền chồm ra, ôm chặt lấy một cành tùng khác, đánh đu bông bênh giữa lưng trời, không ngừng lay động. Chàng cúi đầu nhìn xuống, trong thâm cốc mây mù che phủ, không thấy đâu là đáy. Chàng đong đưa thân hình một cái đã chạm vào sườn núi, vội vàng thò tay ra ôm chặt lấy một cành cây nhỏ, hai châm mò được một chỗ tựa, mới hơi bình tĩnh lại một chút, lần theo vách đá về phía cây tùng miệng nói:
- Ông thông già ơi, may nhờ hôm nay ông đại hiển thần thông, cứu được mạng cho Đoàn Dự này. Tổ tiên ông được Tần Thủy Hoàng trú mưa ngày xưa nên phong cho làm Ngũ Đại Phu. Che mưa so với cứu mạng người thì có đáng gì? Ta sẽ phong cho ông làm Lục Đại Phu, không, phải là Thất Đại Phu, Bát Đại Phu mới xứng.
Chàng xem kỹ thấy vách đá có một đường nứt lớn, nếu cố gắng có thể leo xuống được. Chàng thở một hồi nghĩ thầm: “Can Quang Hào và Cát sư muội của y chắc nghĩ mình đã nát như tương rồi, đâu có ngờ mình được “Bát Đại Phu” cứu. Giờ này chắc bọn chúng đã bỏ xuống dưới núi, hai người đang chàng chàng thiếp thiếp, Đông Tông Tây Tông hợp thành một rồi. Dưới đáy sơn cốc này chắc nguy hiểm lắm, nhưng dẫu rằng mình có đi đời nhà ma thì ở đây cũng thế thôi. Biết đâu may được Quan Thế Âm bồ tát phù hộ nên có khi không chết”.
Chàng men theo khe đá, từ từ tuột xuống. Cái khe đó có rất nhiều đá và cây cỏ nên không bị trượt. Có điều hang núi tưởng như vô cùng vô tận, một hồi sau quần áo bị gai xé rách, bên này một miếng bên kia một mảnh, chân tay cũng bị mấy nơi bầm dập. Không biết mất bao nhiêu thời giờ, chàng vẫn chưa xuống được tới đáy hang. May sao càng xuống sâu, vách núi càng thoai thoải không còn thẳng đứng như trước nên chàng bèn nằm phục tại sườn núi vừa trườn vừa lăn từ từ trượt xuống nên nhanh hơn nhiều.
Tiếng thác nước ỳ ầm ỳ ầm mỗi lúc một lớn khiến chàng không khỏi kinh hãi, nghĩ thầm: “Nếu dưới này sóng nước chảy xiết thì thật là nguy hiểm biết bao”. Chỉ thấy những giọt nước bắn tung tóe đầy mặt, đầy đầu khiến chàng hơi nhức nhối.
Thế nhưng Đoàn Dự đâu có thì giờ suy nghĩ, chỉ giây lát đã đến đáy vực rồi. Chàng đứng lên đột nhiên hét lên một tiếng, thấy phía bên trái trên sườn núi là một cái thác lớn chẳng khác gì một con rồng ngọc treo lơ lửng, cuồn cuộn tuôn xuống, chảy vào một chiếc hồ lớn nước trong trẻo lạ thường. Ngọn thác đó năm này tháng khác, chảy mãi không ngừng nhưng mặt hồ vẫn không đầy tràn hẳn là có chỗ nước thoát đi. Chỗ thác nước chảy xuống nước vỗ bập bềnh nhưng chỉ ra ngoài chừng mươi trượng thì mặt hồ lặng êm như gương. Dưới ánh trăng chiếu xuống, đáy hồ cũng có một vầng nguyệt sáng vằng vặc.
Đoàn Dự nhìn thấy kỳ cảnh của tạo hóa không khỏi ngơ ngẩn xuất thần, nửa mừng nửa lo liếc chung quanh thấy bờ hồ mọc đầy những bụi hoa trà, lung linh trong ánh đêm. Hoa trà đất Vân Nam đứng đầu thiên hạ, Đoàn Dự vốn đã yêu thích, có ngờ đâu thân lạc vào nơi nguy hiểm lại thấy nó nên đến gần xem kỹ, lẩm bẩm:
- Nơi đây hoa trà tuy nhiều, nhưng cũng thường thường, chỉ có vài bụi Vũ Y Nghê Thường, so với ở nhà ta thì khá hơn. Còn mấy bụi Bộ Bộ Sinh Liên, phẩm chủng lại không thuần.
Chàng thưởng ngoạn hoa trà một hồi rồi đi đến bên bờ hồ, vốc lên uống vài ngụm. Nước trong vắt, vào đến miệng ngon ngọt lạ thường, mát rượi chạy tuột thẳng vào trong bụng. Chàng định thần đi men theo bờ hồ tìm lối ra khỏi vực sâu.
Cái hồ đó hình bầu dục quá nửa nằm ẩn trong những bụi hoa, tàn cây, chàng đi từ tây sang đông, lại từ đông sang tây đi giáp một vòng, phải đến ba dặm, phía đông nam và tây bắc là hai bên vách đá dựng đứng, không có lối nào ra, chỉ có chỗ chàng rơi xuống là tương đối thoai thoải còn nơi khác không cách nào có thể leo lên được.
Chàng ngửng đầu nhìn lên thấy mây mù che phủ miệng hang, đi xuống đã thấy biết bao gian nan, nghĩ đến việc trèo lên lại càng ngán ngẩm, nghĩ thầm: “Dù có là người võ công tuyệt đính cũng chưa chắc đã lên được. Có hay không có võ công thì cũng thế thôi”.
Khi đó trời đã hửng sáng nhưng trong thâm cốc vẫn lặng như tờ, không thấy vết tích con người ngay vết chân thú cũng không thấy có, chỉ có tiếng chim kêu ríu rít, đối đáp lẫn nhau. Chàng thấy tình cảnh như thế trong bụng buồn rầu, nghĩ thầm mình có chết đói nơi đây cũng không sao nhưng làm lụy tới cả Chung cô nương thì thật không phải chút nào, còn cha mẹ mình sẽ ngày đêm khắc khoải nhớ thương.
Chàng ngồi phịch xuống bên bờ hồ rầu rĩ, trong bụng chưa biết tính sao. Trong khi thất vọng lòng nảy ra một huyễn tưởng: "Giá như mình biến thành con cá, theo thác nước mà bơi ngược lên thì mới may ra thoát khỏi được vách đá dựng đứng này". Chàng đưa mắt nhìn theo dòng nước từ dưới đi lên, thấy bên phía phải của dòng thác có một vách đá nhẵn bóng, sáng loáng như ngọc, nghĩ thầm muôn ngàn năm trước chắc dòng thác lớn hơn bây giờ nhiều, qua không biết bao nhiêu thời gian mới mài cho nửa bên vách đá thành nhẵn nhụi đến thế, về sau lượng nước giảm ít mới lộ ra phiến đá lưu ly khiến cho vách núi trong như hình một mặt gương.
Ngay lúc đó chàng nhớ lại những lời mà Can Quang Hào và Cát sư muội của y nói chuyện, nghĩ thầm: “Xem ra đây chính là cái mà họ nói là Vô Lượng Ngọc Bích rồi. Họ kể lại năm xưa các chưởng môn Đông Tông, Tây Tông của Vô Lượng Kiếm thường nhìn thấy trong những đêm trăng thấy trên vách núi này bóng các vị tiên hiện ra. Ngọc bích này dựng đứng bên cạnh cái hồ, nếu có chiếu lên thì phải ở trên mặt hồ còn không thì phải ở bờ hồ phía đông mà múa kiếm thì bóng mới chiếu lên trên đó được. Thế nhưng phía đông cũng lại là vách đá thẳng tắp phản chiếu ánh sáng, nếu không có ánh trăng thì không thể có bóng người. A, đúng rồi, chắc tại mặt hồ có chim bay qua lượn lại, bóng nó chiếu lên trên sơn bích, nhìn xa thấp thoáng thì thấy thân pháp linh động, vừa nhanh nhẹn, vừa kỳ lạ. Bọn họ trong đầu đã có chủ ý nên tưởng là tiên đang múa kiếm, mờ mờ tỏ tỏ không nhìn thấy rõ vì sao nên phải đi vào ma đạo”.
Chàng nghĩ ra rồi không khỏi bật cười. Từ lúc ăn uống ở trong Kiếm Hồ Cung tới giờ cũng đã bảy tám giờ nên bụng đói meo, thấy bên bờ hồ có một lùm cây đầy trái xanh xanh đỏ đỏ nên đến hái một chùm, cho vào miệng nhai thử thấy trái chua lè nhưng đang đói nên cũng không coi vào đâu, ăn luôn một hơi đến hơn chục chùm mới lưng lửng dạ, thấy toàn thân xương cốt mỏi nhừ nên lăn ra cỏ nằm thiu thiu ngủ.
Chàng ngủ một giấc thật say, đến khi tỉnh dậy mặt trời đã ngả về phương tây, mặt hồ hiện ra một hình cầu vồng, đẹp không thể tả được. Đoàn Dự biết rằng hơi nơi thác nước xông lên gặp ánh mặt trời chiếu vào nên hiện ra hình cầu vồng, nghĩ thầm mình sắp chết đến nơi nhưng được thưởng thức mỹ cảnh, phúc lộc quả không phải nhỏ, lại được chết dưới bóng hoa nơi bờ hồ thật phong lưu biết bao, ánh hồ sáng loáng diễm lệ, chỉ hiềm hoa trà không phải là giai chủng nên có phần mỹ trung bất túc.
Chàng ngủ được một giấc rồi tinh thần phấn chấn, nghĩ thầm: “Không chừng sơn cốc có lối ra, ẩn sau cây cối nham thạch, đêm qua trời tối mình lật đật vội vã nên không thấy chăng”. Chàng lại cất tiếng hát véo von, cao hứng đi vòng quanh hồ tìm lần nữa. Lần này chàng chăm chú tìm kiếm ở những nơi kín đáo, thế nhưng phía sau những tùm cây hoa cỏ chỉ toàn là nham thạch cứng chắc, tảng nào cũng liền với bức vách núi cao vút tận mây, chẳng nói gì đường đi ra mà ngay cả hang thỏ lỗ rắn cũng chẳng có.
Tiếng hát của chàng càng lúc càng nhỏ dần, trong lòng càng lúc càng uể oải, đến lúc quay lại chỗ nằm ngủ hồi nãy thì chân đã mỏi nhừ, ngồi phịch xuống nghĩ thầm: “Chung cô nương vì cứu ta mà đâm ra chết oan”.
Nghĩ đến Chung Linh, chàng thò tay vào túi lấy đôi giày hoa ra ngắm nghía, hình dung đôi chân bé nhỏ, khuôn mặt xinh xắn của nàng, nhịn không nổi đưa đôi giày lên miệng hôn mấy cái rồi lại bỏ vào bọc nghĩ thầm: “Phen này ta chắc không thoát chết được rồi, Chung cô nương cũng bỏ mạng. Giá như nàng cũng ở nơi đây, hai đứa chết chung nơi bờ hồ này thì quả thật đẹp biết bao. Chỉ tiếc nàng giờ đây lại ở bên cạnh lão râu dê Tư Không Huyền thật là chán ngắt. Giờ đây ta đang nghĩ đến nàng chắc hẳn nàng cũng đang nghĩ đến ta”.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
 Tác giả| Đăng lúc 9-12-2011 09:51:08 | Chỉ xem của tác giả
Chàng không có việc gì làm đành đi hái mấy quả chua kia ăn tạm, bỗng nghĩ ra: “Chỗ nào mình cũng tìm hết rồi, chỉ còn chỗ này chưa mò đến, không chừng cột nhà không nhìn nhìn trôn kim sờ sờ trước mắt mà không thấy”. Chàng liền vạch bụi cây ra lập tức lắc đầu. Đằng sau cái cây chỉ là một vách núi trơ trơ, bám đầy dây leo, làm gì có lối nào ra? Thế nhưng phiến thạch bích đó phẳng lạ thường, chẳng khác gì một tấm gương đồng nhưng so với vách đá bên phía tây hồ nước thì nhỏ hơn nhiều, trong lòng chợt động: “Hay đây mới thực là Vô Lượng Ngọc Bích?”. Chàng bèn gỡ hết các dây leo bám trên phiến đá, nhưng chỉ thấy đó là một bản đá phẳng lì tuyệt nhiên không có gì khác lạ. Chàng nghĩ bụng: “Ta chết nơi thâm cốc này vĩnh viễn không ai hay biết, chi bằng khắc vài chữ trên phiến đá này, à, khắc tám chữ Đại Lý Đoàn Dự chết tại nơi đây xem ra cũng thú”.
Chàng bèn dọn sạch các dây leo bám trên mặt đá, cởi trường bào ra, xuống dưới hồ nhúng nước, đem lên rửa thật sạch cho hết rong rêu khiến phiến đá đó trở nên trắng bóng như ngọc. Chàng nhặt một hòn đá nhọn lên vẽ chữ lên trên thạch bích, thế nhưng vách đá cứng rắn lạ thường, một hồi lâu mới xong một chữ Đoàn vừa nông vừa méo xẹo, chẳng ra trò trống gì, nghĩ thầm: “Người sau nhìn thấy sẽ cho rằng Đoàn Dự chữ không biết viết, viết tám chữ này có khác nào để tiếng xấu đến muôn đời”. Chàng thấy cổ tay mỏi nhừ, đau nhức nên liệng hòn đá đi không viết nữa.
Đến khi trời tối, chàng lại ăn thêm ít trái cây dại rồi nằm xuống ngủ. Trong giấc mơ chàng thấy một đôi giày bay qua lượn lại trước mắt, vải xanh thêu hoa vàng, chính là đôi giày của Chung Linh, vội vươn tay ra cầm lấy nhưng đôi giày chẳng khác gì bướm dại, chập chờn lên xuống, không sao bắt được. Một lúc sau, đôi giày hoa mỗi lúc một cao, Đoàn Dự kêu lên:
- Giày kia đừng bay nữa.
Chàng bàng hoàng tỉnh dậy thì mới hay là một giấc mộng, giơ tay dụi mắt, đưa tay ra sờ, đôi giày hoa vẫn còn trong túi bèn đứng lên ngửng đầu thấy mặt trăng tròn văng vặc, chiếu xuống chẳng khác gì tráng lên một lớp bằng bạc lên mặt hồ, đưa mắt nhìn khắp nơi đột nhiên giật mình thấy ở bức vách bên kia quả nhiên có một bóng người.
Chàng kinh hãi không để đâu cho hết, nhưng cũng xiết đỗi vui mừng, kêu lên:
- Các vị tiên ơi! Cứu tôi với! Các vị tiên ơi! Cứu tôi với!
Hình người kia hơi rung động nhưng không trả lời. Đoàn Dự định thần, chăm chú xem lại cho kỹ nhưng bóng người kia không rõ ràng, chỉ thấy áo dài, khăn nho sinh quả là một người đàn ông.
Chàng vội vàng tiến lên mấy bước đã đến bên cạnh hồ kêu to:
- Vị tiên ơi! Cứu tôi với!
Bóng người trên vách ngọc lắc lư mấy cái, lớn thêm lên nhiều. Đoàn Dự vội đứng lại, cái bóng đó cũng không di chuyển nữa. Chàng ngạc nhiên lập tức hiểu ra: “Thì ra đó là bóng của chính mình!” Chàng nghiêng qua bên trái, cái bóng đó cũng nghiêng qua bên trái, chàng bước qua bên phải cái bóng trên vách núi cũng qua bên phải, không còn hoài nghi gì nữa nhưng vẫn còn điều chưa hiểu được: “Vầng trăng từ tây nam chiếu qua làm sao lại chiếu được bóng ta lên bức tường trước mặt nhỉ?”.
Chàng quay đầu lại thấy chữ Đoàn chàng khắc lúc ban ngày cũng có một cái bóng in lên trên thạch bích, nhưng chữ đó bé và đâm nét hơn nhiều. Chàng nghĩ ra ngay: “ Thì ra bóng trăng chiếu bóng của ta lên trên phiến đá trước, sau đó mới rọi lên trên vách núi chẳng khác gì mình đứng giữa hai tấm gương, tấm gương lớn phản ảnh hình của ta trên tấm gương nhỏ”.
Chàng suy nghĩ thêm một chút, hiểu ra ngay cái si mê “ngọc bích tiên ảnh” của Vô Lượng Kiếm mấy chục năm qua chẳng có gì thần kỳ: “Năm xưa quả có ai đó đứng nơi đây múa kiếm, bóng chiếu lên trên bức vách đá. Đầu tiên có một nam một nữ, sau đó người đàn ông bỏ đi đâu hay chết rồi không biết, chỉ còn lại người đàn bà ở lại u cốc này tịch mịch cô đơn, hai năm sau cũng từ trần”.
Chàng nghĩ đến giai nhân lẻ bạn, sống vò võ nơi hang sâu, uất hận mà chết không khỏi ngậm ngùi. Thế nhưng sau khi hiểu được lý lẽ đó rồi, nỗi vui mừng biến mất không còn tăm hơi đâu nữa. Nỗi buồn kéo đến khiến chàng giơ tay múa chân, tay đấm chân đá, nghĩ thầm: “Giá như Tả Tử Mục, Song Thanh hai người đang ở trên mỏm núi kia bỗng thấy ngọc bích có hình bóng tiên hiện hiện ra, chắc tưởng là đang biểu diễn võ công thần kỳ, thể nào chẳng hết sức cố gắng học, vùi đầu nghiên cứu để truyền cho hậu thế, ha ha, ha ha!”. Chàng càng nghĩ càng khoái chí, nhịn không nổi cười lên sằng sặc.
Cười chán chê rồi, chàng bỗng nghĩ ra một việc: “Hai vị tiền bối kia ngày xưa thường thường cùng nhau múa kiếm, nếu như không ở ngay dưới đáy vực này thì cũng phải có đường đi ra đi vào. Dù cho hai người võ công cao đến đâu nhưng leo lên leo xuống để múa kiếm thì thật là phiền nhiễu hết sức, một hai lần thì được chứ ngày nào cũng làm thì xem ra không ổn”.
Chàng bỗng thấy một tia hi vọng trước mắt, nghĩ thầm: “Ngày mai mình sẽ cố gắng tìm đường ra. Gã Can Quang Hào đã chẳng nói: Có chí thì nên đấy ư? Ha ha! Ha ha! Y lập chí quyết lấy cho bằng được Cát sư muội làm vợ, còn ta lập chí nhất định phải thoát khỏi nơi đây”.
Chàng ngồi ôm gối, thản nhiên nhìn ánh trăng trên mặt hồ, bốn bề thanh tĩnh nghĩ thầm: “Có chí thì nên” câu đó tuy không phải là sai nhưng Khổng phu tử có nói: Người biết không bằng người hiền, người hiền không bằng người vui. Câu này xem ra hợp với bụng ta hơn.
Cha mẹ ta vẫn bảo ta là “si nhi”, từ thuở bé đã thích cái gì là mê mẩn như điên như cuồng. Năm ta bảy tuổi, ta mê một cây hoa trà Thập Bát Học Sĩ, từ sáng đến tối, đến nửa đêm còn len lén trở dậy nhìn ngơ ngẩn, bỏ ăn bỏ uống, quên cả học hành đến khi hoa tàn khóc mấy ngày chưa thôi. Lúc ta học đánh cờ cũng không ăn không ngủ, suốt ngày suốt đêm chỉ nghĩ đến bàn cờ, chẳng còn thiết gì khác.
Một hôm kia gia gia bảo ta luyện võ, thế nhưng lúc đó ta đang nghiên cứu Dịch Kinh, ngay cả khi ăn cơm giơ đũa ra gắp đồ ăn cũng nghĩ phương vị chiếc đũa bên này là Đại Hữu hay là Đồng Nhân . Ta không chịu học võ, không hiểu vì không muốn bỏ Kinh Dịch qua một bên hay thực sự không thích cái môn đánh nhau giết người này? Cha ta bảo ta “cưỡng từ đoạt lý” chắc hẳn quả ta có cãi chầy cãi cối thật không chừng. Mẹ ta hiểu bụng dạ tính nết ta lắm mới khuyên gia gia: “Thằng con “si” này một mai thích học võ rồi, ông có bảo nó bớt luyện đi một chút, nó cũng chẳng nghe đâu. Bây giờ nó không chịu học, cứng đầu không chịu có ép cũng không xong”. Ôi! Bảo ta lập chí làm điều gì quả là khó, nếu như một ngày nào đó ta mê luyện võ thì gia gia, má má, bá phụ hẳn sung sướng biết bao nhiêu. Ta luyện võ cho giỏi rồi, không đánh ai cũng chẳng giết ai, luyện võ đâu phải chỉ là để giết người. Bá phụ võ công cao cường biết bao nhưng tính tình nhân từ, e rằng xưa nay chưa từng giết qua một người nào. Có điều nếu như ông ấy muốn giết ai đâu có cần phải tự mình ra tay”.
Chàng ngồi bên bờ hồ, đầu óc suy nghĩ miên man không biết thời giờ trôi qua, bỗng chợt thấy vách đá bên cạnh dường như có ánh sáng đủ màu di động, vội chăm chú nhìn thấy bên dưới chữ Đoàn chàng khắc có bóng một thanh kiếm, hình ảnh rõ ràng lạ thường, có cả cán, cả vòn che tay, thân kiếm, mũi kiếm mọi thứ đều đâu ra đấy. Mũi kiếm nghiêng nghiêng chỉ xuống còn thanh kiếm có màu cầu vồng tỏa ra, lấp loáng chuyển động không ngừng. Chàng lấy làm lạ tự hỏi: “Sao bóng thanh kiếm lại hiện màu cầu vồng?”. Chàng ngửng đầu lên nhìn nhưng không thấy vầng trăng đâu thì ra bóng nguyệt đã chìm về phương tây, ẩn ở đằng sau vách núi rồi. Thế nhưng vách núi đó có một lỗ hổng, ánh trăng chiếu theo đó mà rọi xuống, trong cái hang đó có ánh sáng lấp lánh mới vỡ lẽ ra: “Đúng rồi! Thì ra trên vách núi kia có treo một thanh kiếm, trên thanh kiếm này có nạm các loại bảo thạch đủ màu, ánh trăng chiếu vào in hình thanh kiếm và các loại châu báu thành đủ màu sắc thành ra mới rực rỡ đến thế”.
Chàng nghĩ tiếp: “Như thế ắt phải đục được lưỡi kiếm ra rồi nạm bảo thạch cho ánh trăng chiếu qua được thành hình đủ màu. Còn như không đục được lưỡi kiếm thì ánh trăng đâu có thể chiếu xuyên qua bảo thạch. Người chế tạo ra chiếc kiếm quái lạ này thật là tốn nhiều công sức”.
Chàng thấy cái hang đó cách mặt đất đến mấy chục trượng không cách nào có thể trèo tới mà xem cho kỹ được, từ dưới trông lên, chỉ thấp thoáng thấy ánh sáng của mấy viên đá quí chiếu lên thạch bích vừa huyền ảo, vừa đẹp đẽ, nhìn mà mê mẩn tâm thần.
Chàng chỉ mới xem được một lát chừng thời gian uống một chén trà, ánh trăng đã di động, cái bóng đó mờ dần rồi biến mất, vách đá chỉ còn một màu trắng bệch. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thanh bảo kiếm này chắc là của hai vị cao nhân kia để trên đó. Sơn cốc thâm hiểm thế này, người của phái Vô Lượng Kiếm chẳng một ai dám mạo hiểm trèo xuống xem xét, cứ đứng trên đỉnh núi thì đâu có thấy được tiểu thạch bích, cũng không nhìn thấy cái hang trên bức vách bên kia có treo một thanh kiếm, thành ra phái Vô Lượng Kiếm có đứng trên đầu núi ngơ ngẩn một trăm năm nữa thì cũng không sao thấy được cái bí mật này. Thế nhưng lấy được thanh bảo kiếm kia thì có ích lợi gì?”. Chàng nghĩ ngợi một hồi rồi ngủ thiếp đi.
Trong giấc ngủ đột nhiên chàng choàng tỉnh dậy, nghĩ thầm: “Để có thể treo được thanh kiếm trên bức tường đá kia quả là một việc thực khó khăn, dẫu võ công có cao cường cũng không dễ gì làm được. Xếp đặt mất nhiều công lao như thế, phải có thâm ý gì. Hẳn là trong cái hang này còn cất dấu võ học bí cập chi đó”. Chàng nghĩ đến võ công thấy không còn gì hứng thú: “Võ công bí cập kia người của Vô Lượng Kiếm coi là quí giá chứ còn như ta, dù có để ngay trước mặt ta cũng chẳng thèm liếc mắt đến làm gì”.
Hôm sau chàng lại đi men theo chung quanh hồ, tính ra từ hôm rơi vào cái vực này đã đến ngày thứ ba, nghĩ thầm chỉ còn bốn ngày nữa, chất kịch độc của đoạn trường tán trong ruột phát tác, lúc đó có tìm được lối ra cũng thành vô dụng.
Đêm hôm đó chàng ngủ đến nửa đêm liền tỉnh dậy, đợi cho bóng trăng chìm về phương tây. Đến khoảng canh tư, ánh trăng chiếu vào cái hang núi, lại chiếu lên trên thạch bích hình thanh kiếm đủ màu. Chỉ thấy thanh kiếm trên bức vách xéo vào hướng bắc, mũi kiếm chỉ đúng vào một khối đá lớn, Đoàn Dự trong lòng chợt động: “Không lẽ khối nham thạch này có gì khác thường?”
Chàng đi đến bên tảng đá đẩy thử, tay chạm vào rêu xanh trơn tuồn tuột nhưng khối đá dường như hơi lắc lư. Chàng ra sức đẩy hai tay, lại thấy tảng đá rung rinh. Khối đá đó cao đến ngực, không hai nghìn cũng phải một nghìn cân, đúng ra không thể nào nhúc nhích được. Chàng đưa tay mò dưới đáy khối đá, thì ra tảng đá này không sát đất mà để ở trên một tảng đá nhỏ hơn, không biết trời sinh như thế hay là do người sắp đặt. Tim chàng đập thình thình nghĩ thầm: “Khối đá này quả có điều gì khác lạ!”.
Chàng dùng hai tay đẩy phía bên phải tảng đá, hòn đá lại lắc lư nhưng rồi lại trở về, nghe như có tiếng dây leo bị nghiến đứt biết là có các loại cây cỏ quấn chặt hai tảng đá với nhau. Lúc bấy giờ ánh trăng đã lặn, chàng chỉ thấy mờ mờ, nghĩ bụng: “Tối thế này nhìn không rõ, để đến sáng mai mình xem kỹ thử coi thế nào”.
Chàng nằm xuống bên cạnh tảng đá chợp mắt một lúc, đến khi sáng rõ mới trở dậy xem kỹ chung quanh rồi cúi xuống gỡ sạch các dây leo, cỏ dại quấn giữa hai tảng đá, lại vét cả đất cát ra sau đó mới giơ tay đẩy lần nữa, quả nhiên khối nham thạch từ từ chuyển động chẳng khác gì một cái cánh cửa lớn, xê dịch mới một nửa đã thấy để lộ ra một cái hang cao chừng ba thước.
Chàng mừng lắm, không kịp nghĩ xem trong động có gì nguy hiểm, liền khom lưng chui vào, đi được mươi bước thì cái hang đã tối om không còn chút ánh sáng nào. Chàng đành giơ hai tay ra, mỗi bước lại mò thử xem có gì không nhưng thấy dưới chân vững chãi chẳng khác gì đi trên một con đường đá, hẳn là hang này do tay người tu sửa nên càng mừng hơn. Thế nhưng cái hang đi xeo xéo xuống dưới, càng lúc càng thấp. Đột nhiên tay chàng sờ phải một vật gì hình tròn lạnh ngắt, vội buông ra nghe keng một tiếng, âm thanh trong trẻo, đưa tay ra mò lại lần nữa thì ra là một cái vòng cửa.
Đã có vòng cửa ắt là cửa lớn, chàng hai tay sờ thấy đến hơn một chục cái đinh đồng to bắng cái bát, trong lòng vừa sợ vừa mừng: "Nếu bên trong cửa này có người ở thì thật là kỳ quái". Chàng cầm môn hoàn gõ mạnh ba cái keng keng keng, đợi một lát thấy không có ai trả lời, chàng lại gõ thêm ba cái nữa, rồi mới đưa tay đẩy cửa.
Cái cửa đó dường như đúc bằng đồng bằng sắt, rất nặng nề nhưng bên trong không cài then, chàng vừa ra sức đẩy cánh cửa đã từ từ mở ra. Chàng lớn tiếng gọi:
- Tại hạ Đoàn Dự, không được mời mà đến tự tiện xông vào quí phủ, mong được chủ nhân thứ tội.
Chàng đợi một lúc, không thấy bên trong có âm hao gì, liền cất bước tiến vào. Mặc dù chàng mở mắt trừng trừng nhưng không nhìn thấy gì cả, chỉ thấy mùi ẩm mốc xông vào mũi dường như nơi đây đã lâu không có người ở. Chàng đi tiếp về phía trước, đột nhiên bình một tiếng, trán đã đụng phải vật gì. Cũng may chàng đi rất chậm nên cũng không đau mấy, giơ tay sờ thử thì ra nơi đây lại có một cái cửa khác. Chàng vận sức vào tay từ từ đẩy cửa mở ra, thấy bên trong là một thạch thất hình tròn, ánh sáng từ bên trái chiếu qua nhưng chỉ mờ mờ không phải ánh sáng mặt trời.
Chàng đi đến chỗ có ánh sáng, bỗng thấy có một con tôm lớn bơi ngoài cửa sổ. Chàng lấy làm lạ, đi thêm mấy bước nữa, lại thấy một con cá chép hoa vằn vện bơi qua. Chàng nhìn kỹ cái cửa sổ đó thì ra là một khối thủy tinh lớn nạm vào trong đá, to phải bằng cái mâm, ánh sáng chính là từ khối thủy tinh đó chiếu vào.
Chàng ghé mắt nhìn qua khối thủy tinh ra ngoài thấy nước xanh biếc cuồn cuộn chảy qua, các loài cá tôm thủy tộc bơi qua bơi lại, nhìn tới cùng cũng không thấy đâu là bờ là bến. Chàng hiểu ngay, thì ra nơi chàng đang đứng là dưới đáy hồ, năm xưa người kiến tạo thạch thất này hao tốn không biết bao nhiêu công sức mới đem được ánh sáng từ bên ngoài chiếu vào, khối thủy tinh này là một bảo vật thật khó kiếm.
Chàng định thần suy nghĩ bỗng dưng kêu khổ thầm: “Chết rồi, chết rồi! Ta chạy vào dưới đáy hồ, đường đi chỉ toàn giơ tay lần mò không biết qua bao nhiêu chỗ quẹo, chui xuống đây rồi làm thế nào mà trở ra?”.
Chàng quay đầu lại, chỉ thấy trong gian phòng này có để một chiếc bàn đá, đằng trước có một chiếc ghế con, trên bàn là một chiếc gương đồng , bên cạnh còn để lược, thoa các loại, xem ra là nơi ở của người khuê các. Chiếc gương đồng đã hoen rỉ xanh lè, trên bàn cũng đóng bụi dầy cả tấc, không biết đã bao lâu chưa hề có người lui tới.
Chàng thấy tình cảnh đó không khỏi sững sờ, nghĩ thầm: “Nhiều năm trước hẳn là có một người đàn bà ở chốn hẻo lánh này, không hiểu vì sao mà lại đau lòng rời xa nhân gian lui về ở ẩn. Ôi! Chắc hẳn là người đàn bà đứng múa kiếm bên vách đá kia”. Chàng nghĩ ngợi một hồi, coi kỹ lại thấy trong gian phòng hai phía đông tây treo đầy những gương đồng, đếm lại có đến hơn ba mươi tấm. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chắc hẳn người đàn bà này là một giai nhân tuyệt thế, bạn tình chết đi rồi, sống lẻ loi vò võ ở chốn phòng khuê, ngày ngày chỉ còn biết cùng hình bóng của chính mình than thở. Tình cảnh đó thật là đau lòng xót dạ”.
Chàng đi đi lại lại trong gian phòng, khi thì tắc lưỡi, lúc thì thở dài thương cảm cho người chủ cũ. Một lúc sau, đột nhiên trong lòng chợt động: “Ồ, ta chỉ nghĩ đến cái đau lòng của người xưa, quên rằng chính mình thân lâm tuyệt cảnh”. Chàng lẩm bẩm một mình: “Đoàn Dự này quả là một thằng đàn ông thối tha, nếu như chết ở đây có phải là đường đột với giai nhân không, chết ở bên ngoài bờ hồ mới đúng. Kẻo rồi hậu nhân tìm đến, thấy khô lâu của ta, lại tưởng là nắm xương tàn của người đẹp, chẳng hóa ra ... chẳng hóa ra ...”.
Chàng chưa nghĩ ra “chẳng hóa ra” cái gì, thấy bên phía đông có một tấm gương treo hơi lệch phản chiếu ánh sáng, có hình góc tường phía tây nam, trên tường đá dường như có vết nứt. Chàng liền tiến đến, cố gắng đẩy bức tường đó, quả nhiên là một cánh cửa, từ từ mở ra, để lộ một cái hang. Chàng nhìn vào trong động, thấy có những bậc thang bằng đá.
Chàng vỗ tay reo lên, hoa chân múa tay một hồi rồi theo những bậc thang đó mà đi. Đi xuống chừng mươi bậc, mờ mờ phía trước dường như có một cánh cửa. Chàng giơ tay đẩy bỗng thấy sáng lòa, thất thanh kêu lên:
- Ối chao!
Trước mắt là một mỹ nữ ăn mặc theo lối người ở trong cung vua, tay cầm trường kiếm, mũi kiếm chỉ thẳng vào ngực chàng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách