Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 3486|Trả lời: 31
Thu gọn cột thông tin

[Viễn Tưởng - Xuất Bản] Pendragon Tập 1: Con Buôn Tử Thần | DJ Machale

[Lấy địa chỉ]
Đăng lúc 16-12-2012 23:09:41 | Xem tất |Chế độ đọc
PENDRAGON
TẬP 1: CON BUÔN TỬ THẦN

Tác giả: D.J.MacHale
Dịch giả: Đặng Phi Bằng
Nhà xuất bản: NHÀ XUẤT BẢN TRẺ


Giới thiệu tóm tắt:

Hãy hình dung mọi chuyện sẽ ra sao khi bạn phát hiện ra bạn không phải là con người bình thường như bạn tưởng?

Đó chính là điều đã xảy ra với BOBBY PENDRAGON, một cậu bé 14 tuổi.

ĐỊNH MỆNH. Chính định mệnh đưa đến số phận mà chúng ta gần như không thể tính toán được. Ngay cả khi cuộc sống có nhiều điều kì diệu thì chắc chắn phải có một điều kì điều vượt trội trên tất cả. Và một thiếu niên 14 tuổi sẽ trải nghiệm chính cái điều kỳ diệu ấy trong Pendragon – Con buôn tử thần của tác giả D.J. Mac Hale như thế nào?

Sau khi trao cho người bạn gái mình “si” một nụ hôn ngọt ngào, cậu lập tức lên đường để bước vào cuộc hành trình đầy hiểm nguy và dựng tóc gáy xuyên qua không gian và thời gian, với vai trò là một vị cứu tinh. Từ thời khắc đó, Pendragon kinh hoàng khi bắt đầu nhận ra rằng sự sống trong vũ trụ hoàn toàn khác hẳn với những gì cậu từng được biết và nghĩ, với tên ác quỷ Saint Dane độc ác biến hóa muôn hình vạn trạng…

Nào, chúng ta hãy cùng chàng Lữ khách Pendragon nhảy vào ống dẫn đến Denduron, điểm khởi đầu của chuyến phiêu lưu…
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 16-12-2012 23:15:32 | Xem tất
Chương 1
NHẬT KÍ #1
DENDURON


Mark ơi, mình hy vọng bạn đang đọc những dòng này.

Ôi, thật ra mình mong được bất kỳ ai đọc những dòng này, vì điều duy nhất có thể làm mình không hóa điên lên ngay lúc này, là phải viết hết lên giấy, để rồi đây, khi mọi chuyện chấm dứt, những trang nhật ký này sẽ chứng minh giúp là mình hoàn toàn không phải là một thằng dở hơi hoang tưởng. Bạn biết không, hôm qua có hai chuyện xảy ra đã làm đời mình đổi thay mãi mãi.

Chuyện thứ nhất là: sau cùng thì mình đã được hôn Courtney Chetwynde. Phải, đúng là cô bạn Courtney Chetwynde mỗi lần suy nghĩ điều gì là lại cắn môi dưới, cô bạn có đôi mắt màu xám sâu thăm thẳm nhìn như thấu tim gan người khác và đẹp ngất ngây trong đồng phục bóng chuyền, và... luôn tỏa ra mùi hương hoa hồng thoang thoảng đó. Sau thời gian dài quen nhau... lâu ơi là lâu, sau cùng mình đã được hôn cô bé. Tuyệt vời!

Chuyện thứ hai là mình bị phóng qua một cái hang giun gọi là “ống dẫn” để băng qua vũ trụ, tiến vào một hành tinh có lối sống như thời Trung cổ tên là Denduron, và mình lọt thỏm ngay vào giữa một cuộc nội chiến rất khốc liệt.

Nhưng hãy trở lại chuyện Courtney trước nhé.

Đây không phải là một cái hôn bình thường, kiểu chạm nhẹ lên má nhau và nói “rất vui được gặp bạn” như cậu tưởng đâu. Đây là một nụ hôn đúng nghĩa: mắt nhắm lại, môi kề môi và chúng mình sát gần nhau đến... ba mươi giây. Mình cảm thấy nhịp tim cô ấy đập trên ngực mình. Hay đó chính là tim mình đang đập rộn ràng? Hay là nhịp tim của cả hai đứa? Mình chẳng biết gì ngoài cảm giác rất... rất tuyệt vời. Ước gì mình được sống lại giây phút đó một lần nữa. Nhưng ngay lúc này chuyện đó chỉ là mơ mộng hão huyền.

Mình biết, trong mối lo sợ cận kề cái chết hiện nay mà chỉ mơ màng đến cô nàng Courtney Chetwynde lộng lẫy thì quả là xuẩn ngốc. Nhưng có lẽ chính vì mình sợ mình sắp chết nên tâm trí mình không ngừng nghĩ đến cô ấy. Ngay lúc này đây, kỷ niệm của nụ hôn là điều duy nhất có thật với mình. Mình sợ... nếu mất kỷ niệm đó là mình sẽ mất tất cả, và nếu điều đó xảy ra thì... Ôi, thật tình mình cũng chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra, vì mình hoàn toàn không biết chuyện gì đang xảy ra với mình đây. Có thể là viết tất cả ra, mình sẽ bắt đầu hiểu được phần nào.

Để mình lần lượt kể lại từng sự kiện đã dẫn đến việc mình phải viết những dòng này. Cho đến hôm qua mình sống rất thoải mái. Ít ra thì cũng thoải mái như bất kỳ thằng nhóc mười bốn tuổi nào khác có thể sống. Chuyện trường lớp rất dễ chịu; mình nổi bật trong các môn thể thao; ba má mình rất dễ thương; thường thường mình cũng đâu có ghét nhỏ em gái Shannon của mình. Mình có những bạn bè tuyệt vời, đứng đầu bảng là cậu đó, Mark. Nhà mình rộng rãi, mình có hẳn một không gian riêng để chơi nhạc hoặc làm bất cứ điều gì mà không bị ai quấy rầy. Marley, con chó cưng của mình, là một chó săn hoàn hảo chưa từng thấy; và... mới đây mình đã được hôn Courtney Chetwynde. Còn mong gì hơn nữa chứ?

Nhưng vấn đề là... mình còn có một ông cậu. Cậu Press.

Bạn nhớ ông ấy không? Cậu Press chính là người luôn xuất hiện trong những bữa tiệc sinh nhật của mình với những món quà đầy ấn tượng đó. Ông không chỉ đem đến một chú ngựa tơ, mà là cả một xe đầy nhóc ngựa tơ đủ để làm một cuộc đua ngựa nho nhỏ. Chính ông đã biến ngôi nhà mình thành mê cung bằng những tia la-de đó. Trên cả tuyệt vời, đúng không? Sinh nhật mình năm ngoái, ông đã đổ lên bàn tiệc cả núi bánh pizza. Bạn nhớ ra ông cậu mình chưa? Mỗi lần cậu Press xuất hiện, như từ trên trời rơi xuống, là một lần gây sốc. Chẳng hạn như cho mình bay bổng trên một phi cơ riêng. Thật mà, vì ông là một phi công. Lần khác, ông cho mình một máy vi tính vô cùng hiện đại, thậm chí chưa hề bầy bán trong cửa hiệu nào. Bạn biết cái máy tính của mình rồi đó, cái máy mà không cần nhấn số, chỉ cần nói lên các con số là đủ ấy. Cũng là của cậu Press cho đấy. Mình có thể nói với bạn, ông là người mà ai cũng ước ao có được một ông cậu như thế.

Nhưng cậu Press luôn có vẻ gì đó hơi bí ẩn. Cậu là anh của má mình, nhưng bà ít khi nói về cậu. Dường như bà cảm thấy nói về ông là chuyện... không bình thường. Mỗi lần mình hỏi, má chỉ nhún vai nói đại loại như: “Ồ, con biết mà, cậu con là người kín đáo. Bài vở hôm nay sao rồi?” Nghĩa là... má lảng tránh câu hỏi của mình.

Mình chẳng hiểu ông sống bằng nghề ngỗng gì mà luôn có cả đống tiền. Mình đoán, chắc cậu Press phải nắm công việc gì đó rất cao trong chính phủ, chẳng hạn như nghiên cứu về không gian hay gì gì đó. Đó là việc rất bí mật. Vì vậy mình không dám hỏi nhiều. Cậu chưa lập gia đình, nhưng thỉnh thoảng lại xuất hiện tại nhà mình với một vài nhân vật rất đặc biệt. Một lần cậu đến với một bà, bà ta chẳng hề thốt một lời. Cậu giới thiệu bà ta là “bạn”, nhưng mình có cảm giác bà ta là “bồ” của cậu thì đúng hơn. Màu da bà ta đen sẫm, nên mình nghĩ bà là người Phi châu. Bà rất đẹp. Điều lạ lùng là bà ta cứ lom lom nhìn mình, tủm tỉm cười. Đôi mắt bà rất dịu dàng, nên không làm mình sợ hãi hay bối rối.

Có thể bà không nói năng gì là vì bà không biết tiếng Anh. Tuy nhiên mình vẫn cứ cảmthấy gai gai khắp người.

Thú thật mình chưa hề gặp ai trầm tĩnh như cậu Press. Cho đến hôm qua...

Tối qua là trận bán kết giải bóng rổ toàn tỉnh. Bạn biết mình quan trọng đối với đội nhà như thế nào rồi đấy! Mình là tay săn bàn xuất sắc nhất trong đội trường Trung học Cơ sở Stony Brook. Không phải mình khoác lác, mà sự thật đúng là như thế. Vậy nên trận đấu mà không có mình là không ổn. Thôi được, có lẽ mình chẳng quan trọng đến vậy đâu, nhưng bỏ thi đấu chắc chắn không phải là tính cách của mình. Ba má đã tới hội trường trước với em gái Shannon của mình rồi. Bài làm ở nhà còn cả đống nên mình phải thanh toán rồi mới đi được. Mình sẽ chỉ còn đủ thời gian để nhai một cái bánh nướng, tọng một trái chuối, cho Marley ăn, rồi tót lên xe đạp, phóng tới trường. Nhưng đó chỉ là kế hoạch.

Phải chi mình làm bài tập nhanh hơn một chút xíu thôi, hay đừng vớ vẩn chơi trò ném bóng với con Marley, hoặc tới trường hãy đi tiểu, thì chắc đã chẳng có chuyện gì xảy ra.

Nhưng... chuyện đó đã xảy ra!

Mình vừa vơ vội ba-lô, tiến ra, mở tung cửa trước và... đứng ngay trước mặt mình là... Courney Chetwynde.

Mình lặng người. Cô ấy cũng vậy. Cứ như có ai đó vừa bấm nút “bất động” lên hai sinh vật. Nhưng những ý nghĩ dồn dập trong trí não mình không bị dòng tĩnh điện nào làm ngưng trệ. Mình “si” cô bé từ những ngày mới cùng chung tiểu học. Bao giờ cô ấy cũng rất... hoàn hảo. Nhưng không phải cái kiểu quá là hoàn hảo, không ai có thể với tới được đâu. Cô ấy đẹp và thông minh, rất tuyệt vời trong các môn thể thao, cười ròn tan và hay nói chuyện khôi hài. Mình nghĩ đó mới là điều căn bản. Sự thật là cô ấy hay nói đùa. Có lẽ điều đó nghe có vẻ hơi ngố. Nhưng nếu bạn nói đùa và biết rằng làm như vậy mọi người sẽ nhìn bạn như một tên ngố, mà vẫn tiếp tục tuôn ra cả tràng chuyện khôi hài để làm mọi người ha hả cười ghẹo bạn, thì bạn có thật sự ngố không?

Tất nhiên mình không phải là kẻ độc nhất cảm thấy như vậy về Courtney. Mình chỉ là một kẻ trong cái hàng dài “trồng cây si” cô ấy thôi. Vậy mà cô ấy đang đứng trước cửa nhà mình. Ngay lập tức, từng tế bào trong bộ não mình rối rít hoạt động, cố tìm ra một câu nói vừa tự nhiên vừa hoàn hảo nhất. Lời đầu tiên thốt ra trong thời điểm cực kỳ quan trọng này sẽ khắc ghi ấn tượng của đối phương về bạn mãi mãi sau này. Nó sẽ, hoặc chứng tỏ mình đủ bản lĩnh làm chủ tình hình, sẵn sàng xử lý mọi tình huống bằng trí thông minh và sự điềm tĩnh, hoặc nó làm mình lắp bắp mấy câu ngu ngốc, đầu óc mụ mẫm từ dấu hiệu đầu tiên của áp lực.

Tất cả ý nghĩ đó thoáng qua đầu mình không đến vài giây trong thời gian cả hai đứa “bất động”. Nhưng cô ấy đến tận nhà mình, mình phải lên tiếng trước chứ. Vì vậy, mình xốc lại cái ba-lô trên vai, mỉm cười, nói:

-Ủa???

-Ủa??? Thậm chí không được một từ cho ra hồn. Đời thuở nhà ai lại nói “ủa” trong trường hợp này? Trừ khi bạn vào vai diễn viên cơ bắp Sylvester Stallone. Mình đã tưởng cô ấy tắt nụ cười trong thất vọng não nề, quay phắt ra về, không thèm nói lời nào. Trái lại, cô ấy cắn môi dưới (nghĩa là nàng đang suy nghĩ đó), rồi nói:

-Chào.

Vậy là ổn. “Chào” dù sao cũng khá hơn “ủa”. Mình khởi sự nhập cuộc chơi:

-Có chuyện gì vậy? O.K. Có lẽ mình chưa sẵn sàng nhập cuộc, dù sao đưa banh về phần sân của cô ấy cũng dễ hơn. Và lúc đó mình mới nhận ra một điều kỳ lạ: Courtney có vẻ bối rối. Không phải vì sợ hay gì khác, mà vì không được tự nhiên cho lắm. Mình bỗng tự tin hẳn lên. Thì ra Courtney Chetwynde cũng căng thẳng như mình. Rất tốt.

Cô ấy mỉm cười, ngập ngừng nói:

-Biết bạn sắp phải đến trận đấu và còn nhiều việc khác nữa, mình không muốn làm bạn bị trễ...

Trận đấu nào nhỉ? A, phải rồi, trận bán kết. Gần như mình quên tịt vụ này. Mình nói dối:

-Còn nhiều thời gian mà. Vào nhà đi.

Mình hoàn toàn tỉnh táo lại. Khi cô ấy đi qua mình để vào nhà, hương hoa hồng thoang thoảng tỏa ra. Mình đã phải ráng hết sức bình sinh để không cố hít hà mùi thơm tuyệt vời đó. Đây không phải lúc tỏ ra quá “ngáo” đến thế được. Vì cô ấy đã vào nhà mình.

Cửa đã khép lại và chỉ có hai đứa mình thôi.

Sau đó, mình chẳng biết phải làm gì. Courtney quay lại, đôi mắt xám chưng hửng nhìn mình. Cầu trời cô ấy không nhận thấy hai đầu gối mình đang mềm nhũn ra.

Giọng thăm dò, Courtney lên tiếng trước:

-Mình không biết là có nên đến đây không?

-Mình rất mừng là bạn đã đến.

Bóng vẫn bên phần sân cô ấy, nhưng mình cố làm cho Courtney yên tâm. Cô ấy bảo:

-Thật sự mình cũng chẳng hiểu lý do mình đến, có lẽ chỉ để chúc bạn may mắn trước trận đấu. Nhưng... mình nghĩ còn quan trọng hơn chuyện đó nữa.

-Thật vậy sao?

-Mình không biết chính xác phải nói thế nào đây, Bobby, nhưng từ khi chúng ta còn là những đứa trẻ con, mình đã... có cảm tình với bạn.

-Hả?

-Trời đất! Nói ra những lời này, mình cảm thấy lố bịch quá.

Cô ấy quay đi, không nhìn mình nữa. Mình đang mất nàng rồi. Phải làm sao cho Courtney bớt bối rối, mình nói:

-Courtney, mỗi khi nghĩ đến bạn, mình nghĩ đến rất nhiều điều, nhưng tuyệt đối chưa bao giờ mình nghĩ bạn là người lố bịch.

Cô ấy quay lại, nhìn mình nhoẻn cười.

-Mình không biết phải nói thế nào, nên... nghĩ sao nói vậy nghe. Bobby, bạn có điều gì đó thật đặc biệt. Mình biết bạn thông minh, chơi thể thao rất cừ, được nhiều người hâm mộ và... nhưng còn hơn vậy nữa, bạn... Mình không biết diễn tả sao đây? Bạn có một sức lôi cuốn làm mọi người yêu mến và tin cậy. Không vì bạn cố gắng chứng tỏ hay ráng lấy lòng ai. Có lẽ chính vì bạn không hề có những cử chỉ, thái độ như ta đây hơn những người khác, nên bạn thật sự là một người bạn tốt...

Courtney ngập ngừng rồi cho nổ một quả bom làm mình chới với:

-Từ năm lớp bốn bạn là người đã chinh phục mình hoàn toàn.

Có nằm mơ mình cũng không bao giờ “mơ” được chuyện này! Mình câm như hến. Hy vọng lúc đó mình không há hốc mồm, mặt thộn ra.

Cô ấy nói tiếp:

-Thật sự, mình chẳng hiểu sao lại nói với bạn chuyện đó lúc này. Nhưng mình có cảm giác kỳ lạ là, nếu không nói bây giờ thì sẽ chẳng còn dịp nào để nói nữa. Vì vậy mình muốn cho bạn biết những gì mình cảm thấy và... làm chuyện này...

Thế là chuyện đó xảy ra. Nụ hôn ấy mà. Cô ấy bước tới, hơi ngập ngừng một giây, như để xem mình có ngăn lại không, (ồ đúng vậy, cứ như chuyện đó xảy ra là một điều nguy hiểm vậy), và chúng mình hôn nhau. Không cần kể lại chi tiết, nhưng chắc bạn đủ hiểu mình là một kẻ hạnh phúc đến nhường nào. Đó là ba mươi giây kỳ lạ nhất đời mình. Hai mắt nhắm tịt, nhưng mình vẫn nhìn thấy trọn vẹn một tương lai tràn đầy hình ảnh của Courtney và những nụ hôn. Mình không biết có thể vừa hôn vừa nhoẻn cười được không, nhưng nếu là có thể thì mình đã làm vậy đó. Rồi, mình mở mắt và... mọi chuyện chấm dứt.

-Chào cháu, Bobby.

Cậu Press đang đứng lù lù trước mắt! Ông ấy hiện ra từ xó xỉnh nào vậy? Mình rời khỏi Courtney nhanh như chớp, đến nỗi hai mắt cô ấy vẫn còn đang nhắm tịt. Thật tình lúc đó trông Courtney rất tếu, như đang hôn không khí vậy, nhưng Courtney mau chóng tỉnh lại.

Mark, tin không? Lúc đó mình đã không phì cười đâu.

-Cháu chào cậu.

Mình suýt nói “ủa”, ngốc vậy đó. Chẳng hiểu sao mình phải hoảng hốt vậy. Có gì quá đáng đâu? Hai đứa mình chỉ hôn nhau. Cứ cho đó là nụ hôn của sự liên kết lớn nhất mọi thời đại, nhưng vẫn chỉ là một nụ hôn thôi mà. Vừa phát hiện chuyện gì đang xảy ra, Courtney mất hết bình tĩnh và cô ấy bối rối thật sự. Dường như Courtney muốn biến ngay khỏi nhà mình. Mình cũng vậy, chỉ muốn biến theo ngay cô ấy đến bất kỳ đâu.

Courtney tiến tới cửa lắp bắp:

-Mình... tốt hơn là mình... về thôi.

-Đừng. Đừng đi.

Mình kêu lên, không muốn phải hứng “ngột ngạt” một mình. Nhưng cậu Press lại nghĩ khác:

-Phải. Cháu nên về đi.

Ngắn gọn, thẳng thừng, đơn giản đúng như vậy đó. Cung cách nói của ông làm mình lo ngại. Chẳng hề giống cậu Press chút nào.

Thường thường, cậu Press thật sự của mình sẽ xem việc bắt gặp thằng cháu đang làm trò “vớ vẩn” là một chuyện rất khôi hài.

Thật vậy, như lần bắt gặp mình ngồi tỉ tê với nhỏ Nancy Kilgore tại cổng sau, cậu cũng chỉ ha hả cười, làm mình mắc cỡ muốn chết luôn. Thỉnh thoảng cậu lại đem chuyện đó ra chọc ghẹo, nhưng đó là những khi chỉ có riêng hai cậu cháu với nhau thôi. Lần này khác hẳn. Lần này cậu không hề cười.

Vừa bước ra phía cửa, Courtney vừa nói:

-Chúc tối nay bạn may mắn trong trận đấu. Mình sẽ cổ vũ hết mình.

Cậu Press nghiêng mình mở cửa cho cô ấy. Courtney bối rối, vội vàng gật đầu cám ơn và liếc nhìn mình với ánh mắt ẩn chứa một thoáng cười. Courtney vừa đi khỏi, cậu Press đóng cửa, quay lại nhìn mình.

-Xin lỗi, Bobby. Nhưng cậu cần cháu giúp. Cậu muốn cháu đi cùng cậu.

Nữa, lại thêm một điều không giống cậu Press chút nào. Cậu là người rất thoải mái. Theo mình đoán, cậu khoảng trên dưới năm mươi, nhưng không cư xử như những ông già khó khăn lẩm cẩm đâu. Luôn chọc ghẹo mọi người, dường như chẳng coi điều gì là quan trọng. Nhưng tối nay, cậu tỏ ra vô cùng nghiêm túc. Hình như cậu còn có vẻ hơi... e sợ. Mình bảo:

-Nhưng tối nay cháu phải có mặt trong trận bán kết. Cháu bị trễ rồi đó...

-Mấy giây trước, hình như cháu đâu có lo bị trễ? Ghi điểm chính xác. Nhưng thật sự mình bị trễ rồi và đây là một trận đấu quan trọng.

-Ba má và em Shannon tới đó rồi. Nếu cháu không tới kịp thì...

-Họ sẽ hiểu. Cậu đã không nhờ đến cháu, nếu cậu nghĩ việc này không quan trọng hơn một trận bóng rổ... hay chuyện hôn cô bé xinh đẹp vừa ra khỏi đây.

Mình định cãi lại vấn đề thứ hai, nhưng cậu tỏ ra rất căng thẳng. Đó là một điều thật khác thường. Dường như đọc được tư tưởng mình, cậu nói ngay:

-Bobby, cháu từng biết cậu từ khi cháu còn bé, có bao giờ cháu thấy cậu như thế này chưa?

Mình không cần trả lời. Rõ ràng có chuyện nghiêm trọng đã xảy ra. Cậu nói dứt khoát:

-Vậy là cháu đã hiểu chuyện này nghiêm trọng đến thế nào rồi.

Mình không biết phải làm sao. Ngay lúc này, một độibóng đang chờ mình giúp để đoạt danh hiệu vô địch cúp toàn tỉnh. Chưa kể gia đình, bạn bè và một cô bạn gái đang mong mỏi thấy mình chạy ra sân. Nhưng đứng trước mặt mình là một người cùng huyết thống đang cần mình giúp đỡ. Từ nhỏ cho đến khi mình khôn lớn, cậu Press đã làm rất nhiều điều cho mình mà không đòi hỏi một điều nhỏ nào đáp lại. Sao mình có thể từ chối cậu được?

-Nhưng cậu phải hứa giải thích mọi chuyện cho huấn luyện viên của cháu, ba má và cả Courtney Chetwynde nữa.

Cậu Press chỉ nở nụ cười quen thuộc, nói:

-Họ sẽ hiểu.

Cố tìm những lý do chính đáng khác để không phải đi cùng cậu, nhưng chẳng có lý do nào, mình đành thở dài nói:

-Vậy thì cậu cháu mình đi thôi.

Cậu Press mở cửa ngay lập tức. Mình nhún vai bước ra. Cậu chỉ ba-lô của mình, bảo:

-Cháu sẽ không cần đến cái này đâu.

Không hiểu sao mình cảm thấy đó là một điều bất thường đáng ngại, nên hỏi:

-Cậu Press, tất cả chuyện này là sao?

Nếu lúc đó cậu nói hết sự thật, chắc mình đã chạy ngay lên lầu, vào phòng, chui tọt xuống gầm giường rồi. Nhưng ông không nói, chỉ ngắn gọn bảo:

-Rồi cháu sẽ biết.

Ông là cậu mình và mình tin ông. Vậy là mình bỏ ba-lô xuống sàn, ra khỏi cửa. Cậu Press không đi theo ngay. Mình nhìn lại và thấy ông đang đứng ngó quanh nhà. Có thể điều này do mình tưởng tượng: trông ông có vẻ buồn buồn, như thể đây là lần cuối cùng ông đến nơi này. Sau vài giây, ông nói:

-Cháu yêu ngôi nhà này và gia đình lắm, phải không?

-Dạ... tất nhiên.

Mình trả lời. Thật là một câu hỏi ấm ớ. Đảo đôi mắt đầy khắc khoải quanh nhà lần nữa, rồi khi cậu Press quay lại nhìn mình, vẻ buồn trên mặt ông không còn nữa. Thay vào đó là vẻ quả quyết của một người đang bận tâm đến công việc ở một nơi khác. Ông nói:

-Đi thôi.

Bước qua mình, ông tiến xuống lối đi trước nhà dẫn ra đường. Cậu Press luôn luôn mặc một kiểu: quần jean, bốt cao cổ, sơ mi lao động màu nâu sẫm. Phủ bên ngoài là áo khoác da nâu nhạt, dài tới gối. Vạt áo khoác phất phơ khi ông bước đi. Hình ảnh này mình đã thấy nhiều lần trước đây, nhưng vì lý do nào đó, lần này trông ông như một người đang gặp phải một chuyện bế tắc. Trong một thời điểm và nơi chốn khác, có thể ông là một tay cao bồi bụi bặm đang phóng ngựa vào thành phố, hoặc là một tùy viên quân sự tay xách cặp hồ sơ quan trọng. Cậu Press quả thật là một nhân vật độc đáo.

Đậu trước nhà là một xe mô-tô. Mình chưa bao giờ thấy một chiếc mô-tô ngon lành đến thế. Nó giống như mấy cái xe đua đầy màu sắc, nhỏ bằng bao diêm mà mình đã chơi cách đây không lâu. Nhưng chiếc xe này rất lớn và rất... thật. Cậu Press luôn lịch lãm đúng thời trang mà. Lấy một nón bảo hộ trên yên xe, cậu ném cho mình. Hai cậu cháu đội nón. Cậu đề máy xe và mình rất ngạc nhiên vì tiếng máy nổ không lớn lắm. Mình cứ tưởng tiếng máy sẽ rú lên rầm rầm. Nhưng chiếc xe này nổ rất êm, chỉ như... phải rồi, như một hỏa tiễn sắp được châm ngòi. Mình nhảy lên sau cậu, cậu quay lại hỏi:

-Sẵn sàng chưa?

Mình thành thật trả lời:

-Chưa.

-Tốt. Cậu sẽ ngạc nhiên nếu cháu bảo “đã”.

Cậu Press sang số, nhấn ga, và hai cậu cháu mình bay xuống con phố yên tĩnh của vùng ngoại ô, nơi có mái nhà mình suốt mười bốn năm qua. Mình hy vọng có ngày được thấy lại ngôi nhà đó.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 16-12-2012 23:34:48 | Xem tất
Chương 2
TRÁI ĐẤT THỨ HAI


... Mình hy vọng có ngày được thấy lại ngôi nhà đó.

Rời mắt khỏi bó giấy da đang cầm, Mark Dimond ngước lên hít một hơi thật sâu. Tim nó đập rộn ràng. Nét chữ trên giấy dường như đúng là nét chữ của thằng bạn thân nhất, Bobby Pendragon, nhưng câu chuyện này không thể nào tin nổi. Nó lại nhìn xuống mấy trang giấy, nhìn những dòng chữ gấp gáp, mực đen nhòe nhoẹt trên một thứ giấy da cổ lỗ màu vàng. Nhìn rất thật, rờ mó cũng thật, nhưng quá nhiều chuyện chứa đựng trong những trang giấy này dường như gần với sự thật của một cơn mê sảng hơn.

Mark ngồi an toàn trong khoang vệ sinh thứ hai tính từ cánh cửa phòng vệ sinh của nam sinh trên lầu ba tại trường Trung học Cơ sở Stony Brook. Nó thường chui vào đây, khóa cửa, để suy nghĩ. Phòng vệ sinh này ít khi được sử dụng, vì nằm cuối tòa nhà, gần khoa nghệ thuật, tránh xa khỏi quỹ đạo đánh đấm nhau. Thỉnh thoảng nó đến đây để tắm rửa hay đi vệ sinh, nhưng thường là để né tránh. Dưới chân nó là cả đống cuống cà rốt. Vừa nhai ngấu nghiến cà rốt, Mark vừa chăm chú rà soát lại mấy trang giấy. Nó đã đọc ở đâu đó là cà rốt làm tăng thị giác. Nhưng sau mấy tháng nuốt cả đống cà rốt, nó vẫn phải đeo kính và răng thì vàng khè.

Mark biết nó đâu phải là một thằng hoàn toàn thật khùng, nhưng nó cũng không thể chơi với đám trẻ kém thân thiện. Mối quan hệ duy nhất với cái thế giới “được chấp nhận” của nó chính là Bobby. Hai đứa cùng lớn lên và trở thành đôi bạn thân gắn bó với nhau. Khi Bobby bắt đầu lớn và được hâm mộ, thì Mark vẫn còn đặt một chân trong thế giới trẻ con. Nó vẫn đọc chuyện khôi hài của tụi nhóc, vẫn giữ tượng các nhân vật hành động bằng chất dẻo trên bàn học. Nó chẳng biết nhạc pop là gì, còn quần áo của nó thì chẳng thời trang một chút nào. Nhưng tất cả những chuyện đó không là vấn đề gì với Bobby. Mark làm Bobby vui cười, Mark làm Bobby suy nghĩ. Hai đứa tranh luận hàng giờ với những chuyện linh tinh như luật Tu Chính Đầu Tiên, giá trị tương đối của diễn viên điện ảnh Pamela Anderson trước và sau khi giải phẫu thẩm mỹ. Nhiều thằng vừa là bạn vừa là đàn em của Bobby rất khoái bắt nạt Mark, nhưng chỉ những khi không có mặt Bobby. Tụi chúng nó quá biết, đụng tới Mark là đụng tới Bobby, và chẳng tên nào dại dột dám kiếm chuyện với Bobby. Nhưng giờ đây rõ ràng đã có kẻ đang kiếm chuyện với Bobby. Mark đang nắm những bằng chứng đó trong tay. Mark không muốn tin những gì viết trong những trang giấy này. Trong trường hợp bình thường, Mark sẽ cho đây là một trò đùa của Bobby. Nhưng có những chuyện xảy ra làm Mark không thể nghĩ đây là một trò đùa được. Dựa lưng vào bức tường gạch men mát lạnh, nó nhớ lại những gì đã xảy ra đêm qua.

Mark luôn ngủ để đèn. Nó sợ bóng tối. Bí mật này ngay cả Bobby cũng không hề biết. Dù đôi khi Mark nghĩ để đèn ngủ còn dễ sợ hơn là không có chút ánh sáng nào. Vì đèn ngủ tạo ra những cái bóng. Như cái áo jacket sẫm màu treo sau cánh cửa, trông cứ như ngáo ộp đứng rình. Hình ảnh ghê sợ đó đã xảy ra mấy lần rồi, nhất là những khi Mark không đeo kính. Không có kính Mark chẳng nhìn rõ được gì quá cuối giường. Tuy nhiên, thỉnh thoảng bị hoảng hốt khi chợt thức giấc, vẫn còn hơn ngủ trong bóng tối om om.

Đêm qua, chuyện đó lại xảy ra. Mark nằm trên giường, chập chờn ngủ. Mở một mắt sắp ríu lại, nó sững sờ tưởng như nhìn thấy có người đứng cuối chân giường. Trong đầu nó cố tự nhủ: chỉ là những cái bóng do đèn chiếu của một ô-tô chạy qua rọi vào đó thôi. Nhưng bụng dạ nó lại thôi thúc nó phải thức dậy. Trí não nó trong tình trạng báo động toàn phần. Nó cố tập trung đôi mắt cận thị vào kẻ xâm nhập trái phép kia để xác định đó chỉ là bóng của cái ba-lô. Không được. Nó chẳng nhìn rõ được đó là vật gì. Với tay mò mẫm lên bàn ngủ kế bên, Mark làm đổ cái ly lủng củng toàn bút và máy chơi điện tử Game Boy, nhưng cũng tìm được cặp kính và đeo vội lên mắt. Nhìn về cuối giường... Mark chết sững vì sợ.

Ánh trăng dịu dàng xuyên qua cửa sổ, rọi lên... một người đàn bà đang đứng. Bà ta cao lớn, da đen sẫm. Chiếc khăn choàng sặc sỡ trễ xuống một bên vai, để lộ ra cánh tay cơ bắp cuồn cuộn. Mark thấy bà ta đẹp như một nữ hoàng Phi châu. Nó rụt chân, ấn gót, đẩy lưng sát tường sau giường, hy vọng mong manh là có thể làm vỡ bức tường để chạy trốn.
Người đàn bà đưa một ngón tay lên môi, nhẹ “suỵt” một tiếng. Mark lặng người, đờ đẫn ra vì quá sợ. Nó nhìn vào đôi mắt người đàn bà và điều kỳ lạ xảy ra. Nó bỗng trở nên bình tĩnh. Bây giờ nghĩ lại, Mark không biết có phải lúc đó nó đã bị người đàn bà thôi miên hay niệm thần chú, vì thật kỳ lạ, bao nhiêu sợ hãi trong nó đều tan biến hết. Người đàn bà có đôi mắt dịu dàng thân thiện, như bảo Mark không có gì đáng sợ đâu.

Bà ta nhẹ nhàng nói: “Shaaa zaa shuu saaa”. Giọng bà ta như luồng gió ấm áp thổi qua cây cỏ. Vui vẻ và êm dịu, nhưng không mang một ý nghĩa gì. Sau đó người đàn bà đi tới ngồi lên giường, kế bên Mark. Mark không nhảy khỏi giường, vì chẳng hiểu sao, nó cảm thấy... rất an toàn. Thọc tay vào trong cái túi bằng lông vũ đeo trên sợi dây quanh cổ, người đàn bà lấy ra một cái nhẫn. Mark thấy cái nhẫn giống như nhẫn của học sinh trường cao đẳng, với một mặt đá màu xám đen gắn ngay chính giữa. Trên nhẫn có khắc những chữ được viết bằng thứ ngôn ngữ mà trước giờ Mark chưa từng nhìn thấy. Bà ta thì thầm:

-Bobby gửi cháu nhẫn này.

-Bobby? Bobby Pendragon? Chẳng biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng Mark hy vọng được nghe người đàn bà lạ lùng xuất hiện trong phòng ngủ của nó vào nửa đêm cho biết vài tin tức về thằng bạn thân nhất của mình.

-Bà là ai? Sao lại biết Bobby?
Bà ta nhẹ nhàng nâng bàn tay phải nó lên và lùa cái nhẫn vào ngón tay nó. Chiếc nhẫn vừa vặn như in. Mark nhìn cái nhẫn kỳ lạ, rồi lại nhìn người đàn bà. Nó hỏi:

-Sao? Cái gì thế này?

Bà ta nhẹ chạm ngón tay lên môi Mark, làm nó im lặng. Lập tức nó cảm thấy hai mắt nặng nề. Mới một giây trước còn rất tỉnh táo mà giờ đây nó cảm thấy rã rời, chìm vào giấc ngủ. Chỉ một thoáng nó đã thiếp đi.

Sáng hôm sau, Mark thức dậy vào lúc 6 giờ 15 như thường lệ khi đồng hồ báo thức reo vang. Ý nghĩ đầu tiên là ghét cay đắng tiếng chuông đồng hồ. Ý nghĩ thứ hai là nó vừa trải qua một giấc mơ thật kỳ lạ. Mark chặc lưỡi, nghĩ chắc tại nó đã giảm khẩu phần rau tươi trước khi đi ngủ. Nó với tay, định bấm nút tắt chuông... và thấy...

Kìa, trên ngón tay nó là chiếc nhẫn người đàn bà đã cho. Mark ngồi bật dậy, nhìn trừng trừng mặt đá xám và những chữ viết kỳ lạ. Chiếc nhẫn có thật! Nó cảm thấy trọng lượng của chiếc nhẫn. Vậy là không phải mơ. Chuyện gì đang xảy ra thế này?

Vội vã mặc quần áo, không nói gì với cha mẹ về chuyện xảy ra, nó ra khỏi nhà. Chỉ một người có thể cắt nghĩa cho nó hiểu chuyện này: Bobby Pendragon. Nhưng có chuyện gì đó đã xảy ra với Bobby làm Mark nôn nao. Tối qua là trận bán kết bóng rổ và... Bobby đã không có mặt. Ba má nó, em gái nó đều đến dự, nhưng vắng mặt Bobby. Sau hiệp một, Mark định đến hỏi gia đình Pendragon là Bobby đi đâu, nhưng họ đều đã rời hội trường. Thật lạ lùng.

Đội bóng của trường Stony Brook đã bị thua. Mọi người la ó, muốn biết chuyện gì đã xảy ra với ngôi sao của họ. Về tới nhà, Mark phôn cho Bobby, nhưng không ai trả lời. Nó định ngày mai tới trường sẽ hỏi Bobby cho ra chuyện. Rồi nó lên giường đi ngủ và... đã gặp người khách kỳ lạ trong đêm. Bây giờ Mark muốn biết nhiều điều về Bobby hơn là chuyện vì sao bạn nó đã vắng mặt trong trận đấu bóng rổ.

Khi Mark tới trường, đề tài sôi nổi nhất là vụ trận đấu tối qua.

-Ê, Dimond, thằng bạn siêu sao của mày đâu rồi?

-Nó chuồn rồi?

-Chuyện gì vậy?

Tất cả đều la thét nó về vụ Bobby. Như vậy chỉ chứng tỏ một điều: Bobby không có mặt tại đây. Tất nhiên Mark chẳng biết trả lời sao trước những câu hỏi dồn dập đổ xuống nó, nó chỉ biết nhún vai, tiếp tục bước đi. Nó đến tủ đựng đồ của Bobby, nhưng Bobby cũng không có mặt tại đó. Trái lại, một đám nhóc còn đông hơn đang giận dữ chờ phục kích Mark.

-Nó sợ tè ra quần rồi, phải không?

-Không dám dự cuộc thi đấu chứ gì?

Mark vội thoát ra khỏi đám này, chạy về phòng Bobby. Bobby cũng không có tại đây.

Vậy thì nó ở đâu? Chắc phải có chuyện không hay rồi.

Và rồi chuyện đó xảy ra. Lúc đầu chỉ là một chút vặn vẹo, rồi mau chóng mạnh dần.

Chính là cái nhẫn. Cái nhẫn đang vặn mình. Cảm giác như nó đang xiết lại, nới lỏng, xiết lại, rồi lại nới lỏng ra.

-Dimond! Ê, Dimond! Nó đâu rồi?

Thêm một đám nhóc nữa ào ào ùa vào thét hỏi. Nguy rồi! Mark cuống quít, tay trái nắm chặt cái nhẫn trên ban tay phải, cắm đầu chạy. Nó phóng vụt qua đám nhóc. Mấy thằng lớn hơn xô ngược nó lại, làm nó suýt ngã sóng soài. Nhưng may mắn là Mark vẫn trụ lại được. Ngay lúc đó chuông reo và tất cả đều phải trở lại phòng, nhưng Mark vẫn tiếp tục chạy, cho đến khi nó lên tới “Pháo Đài Cô Độc” của nó - phòng vệ sinh nam trên lầu ba.

Chạy tới giữa phòng, Mark xòe bàn tay phải, bàn tay cứ như không thuộc về nó. Cái nhẫn vẫn liên tục co giãn như nhịp đập của tim. Rồi, mặt đá xám bắt đầu lóe sáng. Mới một thoáng trước chỉ là một khối xám cứng rắn, giờ nó sống động như một viên kim cương lóng lánh. Những tia sáng phát ra từ chiếc nhẫn tràn ngập khắp căn phòng.

Không chịu đựng thêm nổi nữa, Mark lột vội cái nhẫn, quăng đi. Chiếc nhẫn bật vào bức tường gạch men, nẩy tung lên, rồi ngừng lại giữa phòng. Những tia sáng vẫn tiếp tục lan tỏa, lung linh nhảy nhót trên trần và mấy bức tường, làm căn phòng sống động với vô vàn ngôi sao sáng ngời tuyệt đẹp.

Mark kinh ngạc nhìn vòng nhẫn lớn dần, lớn dần cho đến khi kích cỡ gần bằng cái đĩa nhựa trong trò chơi ném đĩa, và rồi trong cái vòng to lớn đó, mặt sàn bỗng trở thành một hố đen. Chiếc nhẫn đã mở ra một miệng hố đen ngòm thăm thẳm... không biết tới đâu. Từ lòng hố sâu hoăm hoắm đó, Mark nghe văng vẳng những nốt nhạc. Đó không phải là một giai điệu, mà là một mớ hỗn độn những âm thanh êm dịu cứ lớn dần, lớn dần...

Mark giựt lùi, tránh xa cái nhẫn kỳ lạ, không biết nên chạy khỏi đây, hay ở lại nhìn những gì đang diễn ra. Nó vừa mê mẩn vừa khiếp đảm. Tiếng nhạc từ dưới hố vang lên lớn tới nỗi Mark phải bịt chặt hai tai. Dù đây là chuyện gì, Mark cũng không còn muốn tham dự nữa. Nó vùng chạy ra phía cửa. Vừa chạm tay mở cửa thì...

Tất cả hiện tượng đều biến mất. Tiếng nhạc thình lình ngưng bặt, như có người nào đó ngắt điện. Ánh sáng lóa mắt cũng chợt tắt. Chỉ một thứ không chịu ngừng: tiếng trống ngực của Mark. Dù chuyện gì đã xảy ra thì cũng đã chấm dứt rồi. Nó cố bình tĩnh lại. Buông tay khỏi cánh cửa, Mark nhìn lại phòng vệ sinh. Chiếc nhẫn nằm trên sàn đúng nơi Mark đã quăng nó xuống, với nguyên hình dáng cũ, mặt nhẫn đã trở lại là mặt đá màu xám.

Nhưng trên sàn còn có một vật khác nữa. Ngay bên cạnh cái nhẫn là một cuộn giấy. Cuộn giấy màu vàng được thắt chặt bằng một sợi dây da. Bất kỳ sự việc gì cái nhẫn gây ra, thì kết quả là để gửi cuộn giấy này tới đây, trên sàn phòng vệ sinh.

Mark thận trọng rón rén tiến đến gần cuộn giấy, cúi xuống, nhặt lên bằng bàn tay ướt đẫm mồ hôi. Đúng là một cuộn giấy. Chẳng có gì đáng sợ, chỉ kỳ quặc thôi. Mark tháo sợi dây da, từ từ mở cuộn giấy ra. Bốn tờ đầy chữ viết. Mark nhìn dòng đầu của trang thứ nhất. Những gì thoáng đọc làm Mark giật thót người như điện giật. Không thở nổi, không suy nghĩ được điều gì. Cuộn giấy kỳ lạ này là một lá thư gửi... cho nó.

Thư bắt đầu: Mark ơi, mình hy vọng bạn đang đọc những dòng này.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-12-2012 16:32:59 | Xem tất
Chương 3
NHẬT KÍ # 1 (TIẾP THEO)
DENDURON


Ngồi sau cậu Press trên chiếc mô-tô phóng vù như thế này, mình chẳng hỏi cậu được điều gì. Giữa tiếng xe máy, tiếng gió rào rào, hai cậu cháu đều đội mũ bảo hộ kín mít, không thể nào nói chuyện nổi. Vì vậy mình chỉ còn biết tưởng tượng, cố đoán xem cậu cháu mình đang đi đâu và vì sao.

Tuy nhiên có một điều rất rõ rằng: cậu Press đang phóng xe ra khỏi thị trấn. Mình sống tại vùng ngoại ô - êm đềm tĩnh mịch, O.K., có thể nói là buồn tẻ của thành phố New York (NewYork: Là thành phố lớn nhất Hoa Kỳ, bao gồm năm khu: Bronx, Brooklyn, Manhattan, Queens và Staten Iland). Mình đã được vào thành phố vài lần với ba má, hầu hết là trong những sự kiện đặc biệt, chẳng hạn như những buổi lễ huy hoàng tại Radio City, hay những buổi trình diễn tại trung tâm mua sắm Macy trong ngày lễ Tạ Ơn. Mark, nhớ không, một lần mình và bạn đã nhảy tàu điện để đi xem một bộ phim James Bond?

Ngoài những chuyện đó ra, thành phố đối với mình vẫn tràn đầy bí mật.

Tuy nhiên, không cần phải một tài xế xe New York mới nhận ra cậu Press đang phóng xe vào một vùng... rất tệ của thành phố. Nơi này chẳng giống chút nào với New York mà mình đã từng thấy, chỉ trừ những hình ảnh được xem trong truyền hình về những tội ác xấu xa vừa mới xảy ra. Ngay khi vượt qua ngã tư đường cao tốc Bronx (Bronx: Là một trong năm khu của thành phố New York, nằm trên phần đất liền phía bắc Manhattan), cậu cháu mình lọt vào giữa một nơi toàn nhà cửa cháy rụi. Không một bóng người trên đường. Hoàn toàn trống vắng hoang sơ, vậy mà mình có cảm giác thật lạ lùng, mình tưởng như những cửa sổ tối om của những ngôi nhà hoang phế, rất nhiều cặp mắt đang dõi theo cậu cháu mình đang lướt qua. Tất nhiên lúc này là ban đêm.

Mình có sợ không? Bạn cứ thử hình dung mình muốn lộn mửa và ghì chặt cậu Press đến nổi tưởng như có thể làm gãy xương sườn của cậu, thì sẽ biết mình sợ hay không. Có đấy mình rất sợ. Cậu Press lái mô-tô tiến đến một trong nhưng cái ki-ốt cổ lỗ sĩ trên những bậc thang dẫn xuống hầm tàu điện ngầm. Hai cậu cháu nẩy lên khi xe chồm lên lề đường. Rồi cậu Press tắt máy. Thình lình tất cả trở nên hoàn toàn im lặng. Vậy đó, sau nửa giờ cưỡi trên lưng mô-tô, tất cả dường như lặng ngắt. Lặng ngắt thật sự, như đang ở trong một thành phố ma.

-Tới rồi.

Cậu Press tuyên bố, rồi nhảy xuống xe. Mình làm theo và rất mừng được tháo bỏ mũ bảo hộ. Cuối cùng thì mình đã có thể nghe lại được rồi. Cậu Press móc mũ lên xe, bước xuống lối vào hầm tàu điện ngầm.

-Cậu. Khoang đã. Bỏ xe và mũ lại đây sao?

-Mình ngạc nhiên hỏi. Không thể nào tin nổi. Thậm chí cậu còn không rút cả chìa khóa ra khỏi xe. Dù không là một chuyên gia về tội phạm, nhưng mình cũng dư sức biết là để đồ đạc tại đây là tất cả sẽ “bốc hơi” trong nháy mắt.

Bước xuống bậc thang,ông vội trả lời:

-Chúng ta không cần những thứ đó nữa.

-Sao không đi mô-tô mà lại đi tàu điện, hả cậu?

-Vì nơi chúng ta đến không thể đi bằng mô-tô được.

Vừa điềm nhiên trả lời ông vừa bước xuống thêm mấy bậc

Mình không nhúc nhích. Mình chờ đợi câu trả lời rõ ràng hơn, nếu không mình sẽ không bước thêm bước nào nữa. Cảm thấy mình không đi theo, cậu Press dừng bước, quay lại nhìn mình. Vẻ hơi bực, ông hỏi:

-Sao vậy?

-Cháu vừa bỏ qua một trận đấu quan trọng nhất đời cháu, ngày mai cả đội sẽ “làm thịt” cháu vì chuyện đó. Vậy mà cậu muốn cháu phải đi theo vào hầm tàu điện ngầm ở nơi tồi tệ nhất thành phố New York ư? Cháu nghĩ cháu đáng được biết là cậu cháu mình đang đi đâu chứ.

Dù biết đã vượt qua đoạn đường khá xa, nhưng nếu không được trả lời rõ ràng, mình sẽ cuốc bộ về. Tất nhiên, nếu cậu Press bỏ mình lại đây, mình sẽ chẳng biết đi ngã nào. Nhưng dù sao ông cũng là cậu mình, chắc ông cũng không để mình lần mò về một mình đâu.

Cậu Press dịu lại. Trong một thoáng mình lại thấy khuôn mặt của người cậu mình đã biết từ khi còn bé tới giờ.

-Bobby, cháu nói đúng. Cậu đã bắt cháu phải quá tin vào cậu. Nhưng nếu chúng ta ngừng lại để cậu có thể cắt nghĩa cho cháu biết tất cả, thì e rằng chúng ta sẽ quá trễ mất.

-Quá trễ chuyện gì?

-Một số người đang bị khốn đốn. Họ trông mong vào cậu giúp đỡ, và cậu thì trông mong vào cháu giúp cậu.

Vừa hãnh diện vừa nóng ruột, mình hỏi:

-Thật sao? Họ khốn đốn như thế nào ạ?

-Chuyện đó dài dòng lắm.Tốt hơn là cháu phải thấy.

Mark, mình không biết phải làm sao. Hơn nữa, dù muốn bỏ đi, mình cũng không biết phải ra khỏi đây bằng cách nào. Và người đàn ông này, cậu mình, đang nhìn thẳng vào mắt mình mà bảo cần mình giúp đỡ. Còn lựa chọn nào khác nữa đâu. Sau cùng mình đành phải thú thật ý nghĩ độc nhất trong đầu:

-Cháu sợ.

-Cậu biết. Nhưng xin hãy tin cậu, Bobby, cho đến khi mọi việc còn trong khả năng của cậu, cậu sẽ không để bất kì chuyện gì xảy ra cho cháu đâu.

Giọng ông thành khẩn làm mình thực sự yên tâm được... khoảng một giây. Mình hỏi:

-Chuyện gì xảy ra khi “không” nằm trong khả năng của cậu?

Cậu Press mỉm cười:

-Sẽ không có gì đáng ngại trong lúc này đâu. Cháu đi cùng cậu chứ?

Người ta thường bảo ngay trước khi sắp gặp vận rủi, đời bạn thoáng hiện ra trước mắt. Điều đáng ngạc nhiên là chuyện đó không xảy ra với mình. Mình không nghĩ đến trận đấu. Thậm chỉ không nghĩ đến cả Courtney Chetwynde. Mình chỉ nghĩ về mình và cậu Press. Tại đây và ngay lúc này. Mình coi đó là một điềm lành. Mình trổ hết tài nghệ diễn xuất khi nói:

-Hây, hô. Đi thôi.

Cậu Press phá lên cười, tiếng cười lâu lắm rồi mình mới được nghe lại, rồi chạy vội xuống những bậc thang. Trong khi nhìn cậu biến vào hầm tàu tối đen, mình cố hết sức làm ra vẻ không hề ngốc nghếch trong quyết định đi cùng cậu.

Xuống tới bậc cuối cùng, mình thấy cậu Press đang đứng trước một bức tương bằng ván ép đầy hình vẽ chữ viết chặng ngang lối vào. Nhà ga đã bị đóng và bức tường gỗ cũ kỹ cho thấy nó đã đóng cửa lâu lắm rồi. Khoái quá, mình liến thoắng nói:

-A, có vấn đề rồi. Mình không đi được, phải không cậu?

Quay lại nhìn mình, như một ông thầy thông thái phán những lời khuôn vàng thước ngọc, cậu Press nói:

-Không có vấn đề nào hết. Chỉ có những thách thức thôi.

- A, nếu thách thức là đón tàu tại một nhà ga đã đóng cửa thì... cháu có thể gọi là một vấn đề.

Cậu Press không chịu thua, thận trọng với tay về phía bức tường gỗ, nắm một tấm ván giật mạnh. Dường như cậu không giật mạnh lắm đâu, nhưng ngay lập tức bốn tấm ván khổng lồ chỉ còn là một bức tường lỏng lẽo, một tấm mở ra để lộ một con đường dẫn vào nhà ga tối om.

Ông mỉm cười tinh quái:

-Ai nói về chuyện đón tàu nào?

Cậu nhẹ nhàng đặt tấm ván to đùng tại bậc thang, rồi bước vào bên trong. Mình không ngờ cậu Press khoẻ đến vậy. Mình cũng chẳng hiểu vì sao hai cậu cháu lại bước vào một nhà ga đóng cửa, trong khu vực tồi tệ nhất thành phố, vào ban đêm khuya khoắt như thế này.

Cậu Press thò đầu ra hỏi:

-Đi chứ?

Mình suýt bỏ chạy ngược lên thang, leo lên mô-tô tự phóng về. Nhưng mình đã không làm thế. Rất có thể chiếc xe đã bị đánh cắp mất rồi. Chẳng còn chọn lựa nào khác hơn là đành phải đi thao cậu.

Ga này đã được đóng cửa từ lâu lắm rồi. Nguồn sáng duy nhất là ánh đèn đường rọi qua những song sắt vỉa hè ga. Những bóng đổ chằng chịt đang chéo nhau trên tường làm nhà ga càng thêm tăm tối. Một lúc sau mắt mình mới quen được với bóng tối và mình đã có thể nhìn thấy một phần lịch sử bị lãng quên. Chắc chắn đã có thời nơi đây là một nhà ga sầm uất. Những tác phẩm khảm gạch men công phu lên tường hẳn là rất đẹp khi còn mới, nhưng bây giờ chỉ là một đống khổ rạn nứt cáu bẩn như một tấm lưới nệm khổng lồ, dơ dáy. Rác rưởi khắp nơi, băng ghế ngổn ngang lật úp; kính bao quanh bốt bán vé vỡ vụn. Tóm gọn lại một chữ là: buồn!

Khi mình đứng trên đầu những bậc thèm xi măng, nhà ga hoang tàn này bỗng có dấu hiệu của cuộc sống. Bắt đầu là một tiếng rung nhè nhẹ, rồi từ từ tiếng rầm rầm lớn dần. Có thể nhà ga đóng cửa, nhưng tàu điện vẫn chạy qua đây. Trước hết, mình thấy tia đền pha tiến vào, rọi sáng đường ray và những bức tường. Rồi là... đoàn tàu băng băng phóng tới. Chẳng có lý do nào tàu ngừng lại ga bỏ hoang này, nên nó rầm rầm phóng qua như tên bắn. Trong một thoáng, mình tưởng nhà ga sống lại những ngày huy hoàng trước kia. Nhưng cũng chỉ một thoáng, hình ảnh đó biến theo con tàu. Trở lại sự yên lặng chết chóc. Dấu hiệu duy nhất của đoàn tàu vừa mới chạy qua đây là những mảnh giấy nhàu nát xoáy cuộn theo luồng gió sau con tàu.

Mình nhìn cậu Press, xem ông có tỏ ra thương cảm số phận hẩm hiu của một lịch sử New York xưa cũ như mình không? Đôi mắt sắc của ông chăm chú đảo quanh nhà ga trống vắng, như đang tìm kiếm một điều gì. Rõ ràng ông đang rất lo lắng nhưng không muốn làm mình mất bình tĩnh. Mình chỉ biết ngẩn ngơ hỏi:

-Chuyện gì vậy, cậu?

Hấp tấp bước xuống mấy bậc thềm, đứng sát mình, cậu Press nói như không còn đủ thời gian:

-Nghe này, Bobby. Nếu có chuyện gì xảy ra, cậu muốn cháu biết phải làm gì.

-Xảy ra? Cái gì xảy ra?

-Mọi chuyện sẽ ổn cả, nếu cháu biết phải làm gì. Chúng ta không đến đây để đón tàu. Chúng ta có mặt tại đây vì nơi đây là... cổng.

-Cổng? Cổng nào?

-Cuối sân ga là những bậc thềm dẫn xuống đường ray. Đi xuôi đường ray khoảng ba mươi mét, dọc theo tường có một cái cửa. Trên cửa có hình vẽ giống như một ngôi sao. Lúc đó, với mình, sư việc có
vẻ dồn dập quá. Mình phải chạy vòng qua những cái cột, những đống vỏ lon, để theo kịp cậu Press đang bước vội về cuối sân ga. Cậu hỏi:

-Cháu nhớ những gì cậu nói chứ? -Dạ, bậc thềm, cửa, ngôi sao. Vì sao chúng ta...

-Cái cửa chính là cổng. Nếu vì lí do nào mà cậu không ở bên cháu, hãy mở cửa, vào trong và nói “Denduron”.

-Denda... cái gì ạ? -Den-du-ron. Nói lại đi!

-Denduron. Cháu nhớ rồi. Nó là gì vậy? Mật khẩu phải không cậu?

-Nó sẽ đưa chúng ta đến nơi chúng ta sắp đến.

O.K. Nhưng chẳng biết còn những bí ẩn gì nữa không? Sao không nói đại là “Úm ba la” cho dễ nhớ nhỉ? Mình bắt đầu nghĩ tất cả chuyện này chỉ là một trò đùa thú vị đây. Nhưng mình vẫn lo lắng, nên hỏi:

-Cậu dặn dò cháu làm gì? Mình cùng đi mà.

-Kế hoạch là vậy, nhưng lỡ có gì...

-Đứng lại ngay!

Trời đất không chỉ có cậu cháu mình ở dưới hầm này. Hai cậu cháu đứng khựng lại ngó quanh và thấy một... tay cớm. Bố ráp hay gì đây. Xâm nhập vùng cấm, mình đóan vậy. Vẻ rất tự tin, không, kênh
kiệu thì đúng hơn, gã cảnh sát hỏi:

-Cho tao biết tụi bây đến đây làm gì, được không?

Tay cảnh sát gọn gàng tươm tất trong bộ ka-ki nâu, một phù hiệu to đùng và khẩu súng tổ chảng - nhưng rất may là vẫn còn nằm trong bao. Kể cả nếu bị bắt, mình thật sự yên tâm khi thấy gã cảnh sát.

Vì nói thật, cậu Press bắt đầu làm mình hoảng. Mình không nghĩ cậu đã làm điều gì sai quấy, nhưng cuộc phiêu lưu này mỗi phút giây lại thêm kỳ quặc. Bây giờ, có cảnh sát xuất hiện, có thể cậu sẽ phải cắt nghĩa rõ ràng hơn. Mình nhìn cậu, chờ đợi cậu trả lời tay cớm. Nhưng mình chẳng thích những gì mình thấy một chút nào. Cậu Press nhìn tay cảnh sát từ đầu tới chân. Mình có thể cảm thấy cậu đang tính toán. Tính toán gì? Hy vọng là không. Khẩu súng bên hông gã cớm trong khiếp lắm. Im lặng kéo dài cho đến khi... lại thêm một kẻ nữa nhập cuộc:

-Các người không để cho tớ yên được sao?

Tất cả ba chúng tôi đều quay nhìn đống rác lù lù nơi góc tối om. Ít ra thì trông giống như đống rác cho đến khi cái đống đó nhúc nhích và nhận ra đó là một kẻ vô gia cư. Cải chính: hắn có nhà, chính là nơi chúng tôi đang đứng. Đó là một gã cao to, nhưng mình không thể bảo là hắn bao nhiêu tuổi. Toàn thể con người hắn là một mớ râu tóc và giẻ rách. Tất nhiên là hắn bốc mùi chẳng thơm tho gì. Hắn cố đứng dậy, lê bước về phía chúng tôi, líu lưỡi lắp bắp nói như một gã khùng:

-Yên ổn, thế... thế thôi. Tớ chỉ muốn được... được tí ti yên ổn... tí... ti thanh thản...

Cậu Press đứng thật vững trong thế thủ, đảo mắt nhanh giữa kẻ vô gia cư và tên cớm. Cậu đang suy nghĩ tính toán gấp.

Tay cảnh sát không thèm quan tâm tới gã khùng lang thang, bình tĩnh bảo cậu cháu mình:

-Tao nghĩ tốt hơn là cả hai hãy đi theo tao.

Mình nhìn cậu Press. Cậu vẫn đứng yên. Gã vô gia cư tiến lại gần hơn, lèm bèm:

-Lâu đài! Đây là... là lâu lâu đài của tớ. Tớ muốn tất cả các người...

Cậu Press hỏi:

-Sao? Mi muốn chúng ta phải làm gì? Mình không thể tin là cậu Press lại bắt chuyện với gã khùng này. Lúc đó sân ga lại bắt đầu rung lên. Một đoàn tàu nữa lại bắt đầu tiến tới.

-Tớ... tớ muốn, các người cút ráo đi. Để cho tớ yên.

Chẳng hiểu sao cậu Press lại nhoẻn cười. Điều tính toán của cậu đã có câu trả lời. Cậu quay lại tay cảnh sát hỏi:

-Ngươi không rành địa phận này, đúng không?

Hả? Cậu có ý định gì vậy? Sau lưng chúng tôi, đèn pha của tàu điện đã bắt đầu rọi vào ga. Chỉ vài giây nữa tàu sẽ qua chỗ này.

Gã lang thang vung tay nhấn từng lời quát tháo với tay cớm:

-Mày. Tao nói mày đó. Cút khỏi lâu đài của tao ngay!

Mình sợ tay cảnh sát sẽ rút súng để tự vệ. Nhưng không. Hắn cứ đứng đó, trừng trừng nhìn cậu Press. Trông hai người như hai tay đấu súng, người này đang chờ người kia chớp mắt. Rồi, tay cớm nhếch mép cười hỏi cậu Press:

-Bằng cớ gì mi nói vậy?

-Bộ đồng phục. Cảnh sát khu vực này mặc màu xanh, không phải ka-ki nâu.

Tay này không phải là cảnh sát sao? Vậy hắn là ai? Tiếng còi tàu và tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray gần dần. Cậu Press bình thản nói:

-Tuy nhiên ta cũng hãnh diện vì mi đã tự đến đây.

Cậu Press biết gã này là ai! Tên vô gia cư tiếp tục áp sát tay cớm (hay tay gì gì đó) hơn:

-Vậy đó, vậy đó, nếu mày không cút, tao sẽ... Thình lình tên cớm ném cái nhìn cho gã lang thang. Cái nhìn lạnh lẽo làm mình nín thở. Gã lang thang đứng khựng lại. Chưa bao giờ mình thấy một ánh nhìn dữ dội đến thế. Gã vô gia cư lặng người, rồi bắt đầu run cầm cập giống như lên cơn sốt.

Tiếng còi rúc lên. Tàu sắp vào ga.

Gã lang thang có vẻ muốn tháo chạy. Nhưng ánh mắt như tia la-de của tên cớm làm hắn bất động. Rồi chuyện xảy ra, mà dù có muốn, suốt đời mình cũng không thể nào quên nổi. Gã lang thang há hốc mồm, hộc lên một tiếng kêu thống thiết đầy khiếp đảm, rồi vùng chạy. Nhưng hắn không chạy đi, mà chạy ra đường ray. Con tàu ào ào phóng vào ga trong khi gã này chạy về hướng tàu dang tiến tới!

-Đừng! Ngừng lại!

Mình gào lên. Nhưng hắn vẫn cắm cổ chạy và... nhảy tới trước đoàn tàu. Mình quay vội đi nhưng vẫn không tránh khỏi nghe một tiếng “huỵch” dễ sợ và tiếng rú bị ngắt tức thì của hắn ta. Tàu vẫn tiếp tục chạy. Mình cá là không ai trên con tàu đó biết chuyện đã xảy ra. Nhưng... mình biết và muốn ói. Mình nhìn cậu Press. Ánh mắt cậu đầy đau khổ.

Nhưng chỉ một thoáng sau cậu đã lấy lại vẻ bình thường, quay nhìn tên cớm đang nhếch mép cười tự mãn. Cậu nghiến răng nói:

-Việc làm đó không xứng đáng với mi chút nào, Saint Dane.

Saint Dane. Lần đầu tiên mình nghe tên này. Mình có cảm giác đây không phải là lần cuối. Saint Dane thản nhiên nhún vai, nói:

-Chỉ muốn cho thằng nhỏ nếm chút mùi những gì sẽ dành cho nó thôi mà.

Mình không ưa kiểu cách của hắn chút nào.

Và rồi, Saint Dane bắt đầu biến dạng. Mình không thể tin vào chính cả mắt mình, nhưng đó là sự thật. Mặt mũi, áo quần, tất cả những gì thuộc về hắn đều thay đổi. Mình khiếp đảm, sững sờ khi hắn trở thành một con người hoàn toàn khác. Tóc hắn dài phủ vai, thân hình vươn tới chiều cao hơn hai mét. Da hắn trắng nhợt như thây ma. Bộ đồng phục cảnh sát bằng vải ka-ki nâu biến thành bộ áo toàn một màu đen. Nhưng khiếp đảm nhất là đôi mắt. Đôi mắt chuyển thành màu xanh lạnh ngắt như nước đá với một sự hung bạo ma quái, làm mình chợt hiểu hắn hoàn toàn có khả năng đẩy một con người đâm đầu vào đoàn tàu để tìm cái chết.

Chỉ một thứ không thay đổi: khẩu súng của hắn. Mình ngạc nhiên khám phá ra, cậu Press cũng vậy. Hắn vẫn còn khẩu súng. Với vẻ thuần phục làm mình tưởng như trước đây cậu mình đã làm chuyện này nhiều lần rồi, cậu Press thọc tay vào áo choàng, rút ra khẩu súng tự động. Saint Dane cũng rút súng ra ngay. Mình chết sững. Mark, bạn nghe câu “con nai trước ngọn đèn săn” bao giờ chưa? Là mình đó.
Mình không thể nào nhúc nhích nổi. Mình bổng ngã nhào xuống đất. Cậu Press xô mình xuống sau một băng ghế gỗ. Hai cậu cháu được bảo vệ khỏi Saint Dane, nhưng được bao lâu?

Cậu Press nhìn mình. Bằng một giọng quá trầm tĩnh đối với hoàn cảnh này, cậu nói đơn giản một câu:

-Chạy.

-Nhưng còn....

-Chạy!

Ngay sau đó cậu núp sau băng ghế gỗ rồi bắt đầu bắn. Mình ở lại đó vừa đủ để thấy Saint Dane nhào vào sau một cây trụ. Cậu Press bắn rất cừ. Gạch trên cây trụ vỡ nát, rào rào rơi xuống. Rõ ràng cậu đang cố kiềm chân Saint Dane để mình chạy. Nhưng chạy đi đâu?

-Bobby, cái cửa.

Đúng rồi! Cái cửa với hình ngôi sao và “úm ba la”. Hiểu. Mình mới bắt đầu bò đi thì cậu gọi với theo:

-Coi chừng tụi quig.

Hả? Quig là cái quỷ quái gì? Bùm! Một viên gạch tan tành ngay trên đầu mình. Lúc này Saint Dane đã bắn trả, và mình là mục tiêu của hắn. Thu hết can đảm, mình chạy. Phía sau, những tiến nổ chói tai vang rền trong nhà ga hoang phế. Mình chạy qua một trụ cột và bùm! Thêm một viên gạch vỡ tan. Mảnh vụn lộp độp lên gáy mình. Tới cuối sân ga, mình thấy những bậc thang dẫn xuống đường ray đúng như lời cậu Press đã nói. Trong một giây, mình ngừng lại, nghĩ chắc là mình khùng mới bà xuống đường ray tàu điện ngầm. Sự chọn lựa thật khó khăn, nhưng thà gặp một đoàn tàu lù lù phóng tới còn hơn đụng độ với gã Saint Dane kia. Vì vậy mình vội hít một hơi, rồi leo xuống.

Xuống tới đường ray, hình như đã cách xa hẳn cuộc đọ súng. Thỉnh thoảng vẫn còn nghe tiếng nổ, nhưng bây giờ mình quan tâm tới những gì trước mặt hơn những gì đang diễn ra phía sau lưng. Có lúc mình đã định trở lại giúp cậu Press, nhưng nhảy vào giữa hai làn đạn không phải là ý tưởng hay ho gì. Mình chỉ biết mong cho cậu xử lí được gã kia. Điều duy nhất mình có thể làm lúc này là nghe theo lời chỉ dẫn của cậu.

Chung quanh tối thui. Mình phải lần mò dọc bức tường nhớp nháp để tránh rủi ro bước lên đường ray. Mình đã được nghe về “hành lang” dòng điện thứ ba cung cấp cho tàu. Nếu lỡ bước lên đó là bị chín như heo quay ngay. Vì vậy mình ráng đi sát tường. Cậu Press đã bảo cánh cửa cuối sân ga chừng ba mươi mét. Mình cố hình dung một sân đá banh để ước lượng ba mươi mét xa chừng nào. Nhưng không thành công. Chỉ có cách cứ lần mò cho tới khi tay mình đụng cánh cửa bí mật đó. Sợ nhất là khi qua cánh cửa mà không biết, thế rồi...

G... ừ... ừ... ừ!

Tiếng gầm từ phía sau mình. Cái gì vậy? Một đoàn tàu? Năng lượng phát ra qua hành lang thứ ba? Không đúng. Vì mình nghe tiếng gừ gừ từ mọi phía.

G... ừ... ừ... ừ.

Chắc chắn không phải chuột. Chuột đâu thể gầm gừ. Tốt. Mình rất ghét chuột. Trong bóng tối lờ mờ, mình nhìn quanh và... cái mình nhìn thấy làm tim mình ngừng đập. Bên kia đường ray, nhìn thẳng vào mình,là một đôi mắt. Đôi mắt thấp trên mặt đất, phản chiếu ánh sánh, làm chúng loé lên màu vàng. Đó là một con vật. Có phải là loài quig cậu Press dặn phải coi chừng không? Hay là một con chó hoang?
Dù là gì thì nó là một con vật to lớn và... nó có cả đống bạn bè, vì có nhiều đôi mắt khác nữa xuất hiện. Chúng có cả bầy và tiếng gầm gừ cho mình biết, chúng không thân thiện chút nào. Mình phải làm bất cứ điều gì có thể làm mà không đe doạ chúng. Mình quyết định rất từ từ, rất thận trọng, lần dần tới cánh cửa và...

G...Ừ...Ừ... Ừ!


Quá muộn mất rồi! Cả bầy chó, hay quig, hay là bất cứ cái giống quỷ quái gì, phóng ra từ bóng tối, tấn công mình. Lập tức hành lang dòng điện thứ ba chẳng còn nguy hiểm gì với mình nữa. Mình chạy. Bầy đàn của chúng chắc phải đến cả chục con. Mình nghe tiếng nghiến răng, tiếng móng chân chúng cào trên đường sắt khi chúng rượt theo mình và... và mình không muốn nghĩ đến chuyện xảy ra nếu bị chúng vồ được. Mình nhớ là lúc đó trong đầu thoáng hy vọng bầy quái đó chạm phải hành lang dòng điện thứ ba và... bốc hơi hết ráo. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Hy vọng duy nhất của mình là phải tìm ra cánh cửa kia. Chung quanh tối om, mình luôn va vấp phải đá, rác, thang ngang đường tàu và đủ thứ khác, nhưng mình vẫn tiếp tục chạy. Còn cách nào khác nữa đâu? Lăn kềnh ra đó là tiêu luôn.

Rồi, như phao cứu sinh đối với người sắp chết đuối, mình thấy cái cửa. Ánh sáng duy nhất phát ra từ cái bóng đèn cũ kỹ, cáu bụi treo trên đương rầy, nhưng vẫn đủ sáng cho mình nhìn thấy một cái cửa lõm trong bức tường xi-măng và hình ngôi sao mờ mờ trên mặt gỗ. Chính nó đây rồi. Mình băng băng chạy tới và... phát hiện ra nó không có nắm cửa. Làm sao mở được?

Nhìn lại, mình thấy bầy quái thú đã gần kề. Mình chỉ còn vài giây ngắn ngủi. Mình tì toàn bộ sức lực vào cánh cửa và... cửa mở tung vào trong, làm mình ngã lộn nhào. Vội vàng bò ngược lại, mình đóng sập cửa vừa lúc... Rầm rầm rầm!... Bầy thú quăng mình vào cánh cửa gỗ. Mình dựa lưng cố giữ để cửa không bị bung ra. Nhưng bầy thú quá mạnh. Chúng điên cuồng cào móng rào rào lên mặt gỗ. Mình không thể ngăn cản được chúng lâu hơn nữa.

Thôi, mình tạm ngừng chuyện ở đây, Mark ạ. Vì những gì xảy ra khi đó còn quan trọng hơn mấy vụ con quái thú kia nhiều. Thật khó tin, nhưng vẫn là sự thật. Rõ ràng mấy con chó hoang, hay quig, hay cái giống gì gì đó, không vồ được mình. Nếu không mình đã không thể viết được những dòng này. Vậy đó. Mình nghĩ chuyện xảy ra sau đó mới là sự kiện quan trọng nhất của toàn thể cơn ác mộng. Tất cả những gì hãi hùng, kì lạ xảy ra cho đến lúc đó, vẫn không làm mình có thể ngờ được những gì đang chờ mình khi vượt qua cánh cửa này.

Trong khi cố thủ với bầy thú, mình nhìn khung cảnh nơi mới lọt vào. Đó là một địa đạo tối tăm, sâu hun hút. Không lớn lắm, chỉ cao khoảng gần hai mét. Tường bằng đá xám, lởm chởm. Đường hầm này trông không có vẻ được khoan bằng máy, mà như được đào bằng tay, với những dụng cụ thô sơ. Mình không thể biết hầm kéo dài tới đâu, vì nó chìm trong bóng tối. Rất có thể nó kéo dài vô tận.

Mình không biết xoay trở sao đây. Vì nếu mình chạy xuống đường hầm, cửa sẽ bung ra và bầy thú xông vào ngay lập tức. Mình kẹt cứng rồi. Rồi... mình chợt nhớ lời cậu Press. Có một từ. Ông bảo khi vào được sau cánh cửa, hãy nói từ đó, mình sẽ được đưa tới nơi cậu cháu mình sắp đến. Nhưng từ đó là gì? Dennison? Dendelion? Dandruff? Thật sự mình không thể tin một từ ấm ớ như vậy lại có thể đem mình ra khỏi hoàn cảnh khó khăn này. Nhưng đó là lựa chọn duy nhất.

Rồi mình nhớ ra. Denduron. Từ đó chẳng có ý nghĩa gì với mình, nhưng nếu nó đem mình ra khỏi đây, nó sẽ là từ đáng yêu nhất trên đời. Vậy là mình đứng thẳng, dựa lưng sát cửa, nhìn đường hầm tối om om mà thét toáng lên:

-DENDURON!

Lập tức tiếng cào cửa im bặt. Dương như bầy thú không bỏ đi, mà chúng chỉ thình lình không còn ở đó nữa. Mình thử nhích khỏi cánh cửa một chút... và khôngcó gì xảy ra. Ít ra là không có điều gì xảy ra với cánh cửa. Nhưng... đường hầm lại hoàn toàn khác hẳn. Nó phát ra tiếng o o. Lúc đầu nho nhỏ, rồi tầng số cao dần. Mình tự hỏi có phải bức tường đang vặn vẹo và di chuyển không? Mình nhìn xuống nền hầm như đường ống của một thùng phuy khổng lồ, mềm mại, sống động. Rồi đến những vách tường bắt đầu thay đổi. Đá xám bỗng trong suốt. Những bức tường đá rắn chắc, lởm chởm chợt như làm bằng pha lê. Ánh sáng toả khắp nơi, như chính từ trong các bức tường phát ra.

Quả là một khung cảnh đáng khinh ngạc. Kinh ngạc tới nổi mình không hiểu nổi tất cả chuyện này có ý nghĩa gì. Ngay lúc đó mình nghe tiếng nhạc. Làn điệu không rõ ràng, chỉ là hàng loạt âm thanh dịu dàng cùng rộn ràng vang lên. Mình gần như bị thôi miên.

Những nốt nhạc hoà nhau lớn dần, lớn dần như đang tiến lại gần hơn.

Điều làm mình hồi tỉnh là một cảm giác rất lạ. Đang đứng ngay cửa hầm, toàn thân mình bổng rần rần. Cảm giác đó không khiếp đảm, chỉ là lạ thôi. Mỗi lúc mình mỗi cảm thấy rần rần hơn, và rồi mình cảm thấy bị kéo giật. Lúc đầu mình không nhận ra, nhưng cảm giác đó bắt đầu rõ ràng hơn: Mình đang bị kéo vào đường hầm! Một bàn tay khổng lồ vô hình túm lấy mình, kéo đi. Mình cố ghì lại, nhưng sức kéo càng mạnh hơn. Hoảng hốt, mình quay lại nhìn xem vật gì đang túm lấy mình. Mình ngã xuống nền hầm, vội quắp móng tay sâu xuống đất, nhưng vô ích. Mình vẫn bị hút vào con đường hầm khủng khiếp, không cách nào ngăn lại được.

Đây là điểm chính của vấn đề. Chính từ đây đời mình đã đổi thay. Những gì xảy ra sau đó đã thay đổi tất cả những gì mình biết, từng tin, tất cả những gì mình nghĩ là sự thật.

Mình bị hút vào cái hang thỏ đó, Mark ạ. Và mình bị đưa tới một thế giới thần kỳ.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 17-12-2012 16:48:38 | Xem tất
Chương 4
TRÁI ĐẤT THỨ HAI


Mark phải khỏi phòng vệ sinh này ngay! Nó nhảy xuống khỏi cái bàn cầu, làm Mark ngã ngửa và giật nước tuôn ra ào ào. Gỡ sợi dây khỏi bồn cầu Mark nhét cuộn dấy da vào trong ba-lô. Nó lúng túng dến mức không sao mở dược chốt cửa. Cuối cùng nó tông sầm cửa ra sau , cửa bật mở, để thấy...

Thằng Andy Mitchel đang dứng lù lù,dựa tường , phì phèo điếu thuốc.

-Chà, mày ở trong đó hơi bị lâu đó, Dimond. Ổn cả rồi chứ?

Mark lạnh người như vừa bị bắt quả tang đang làm một chuyện xấu. Nó lắp bắp - mỗi khi bối rối là nó lại bị cà lăm:

-Tao...tao...ổn Mitchel búng điếu thuốc qua phòng tắm, rơi trúng phóc bồn tiêu? .

Bình thường thì cú búng thuốc điệu nghệ đó đã làm mark phục lăn , nhưng lúc này đầu óc nó còn bận rộn về những chuyện khác. Thằng Mitchel lại nói:

-Không sao. Mày làm gì trong toa lét là chuyện của mày. Cái gì trong ba-lô vậy?

Mark ôm ghì ba-lô sát ngực , cứ như trong đó cứa toàn giấy tờ quý giá. Nó tính toán phải nói sao để thằng Mitchel đừng hoạnh hoẹ thêm gì nữa.

-À... tờ... tờ Playboy.

Thằng Mitchel cười rất đểu:

-Thằng chó, đưa tao coi.

Nó chộp lấy ba-lô, Mark giật vội lại:

-Xin lỗi, tao đang bận.

Mitchel chưa kịp nói thêm lời nào , Mark đã phóng chạy. Nó không biết chạy đi đâu nhưng cứ chạy thục mạng.Những dòng chữ trong cuộn giấy rối bời trong đầu nó. Chuyện đó thật không ? Đây là là những chuyện người ta vẫn thấy trên phim hay mấy quyển sách giả tưởng. Toàn những truyện giải trí, làm gì có thật

Nó có thể bỏ qua tất cả, coi như là chuyện tưởng tượng, ngoại trừ người khách lạ hôm qua và cái nhẫn trên ngón tay nó đã làm cho cuộn giấy xuất hiện trong nhà vệ sinh. Cả hai việc đều hiển nhiên có thật. Chẳng có lời giải thích có lô-gic nào cho những gì đả xảy ra, vậy nên tất cả các quy luật thông thường của hiện thực phải đựơc ném ra ngoài cửa sổ mới đúng . Nó cần phải nói chuyện với Bobby. Nhưng nếu đây là chuyện thật, thì Bobby đang mắc kẹt, làm sao trả lời cho nó được.

Đã chín giờ rưỡi sáng rồi. Đáng lẽ giờ này Mark và Bobby phải có mặt. Trong giờ hình học. Tất nhiên là Mark không có mặt trong lớp, vì nó đang chạy như điên qua nhưng phòng trống hoác của trường .Dường như môn hình học lúc này chẳng còn quan trọng nữa. Nhưng nó vẫn thử tạt qua lớp, cầu cho Bobby đang ngồi tại đó.

Mark thận trọng tiến đến cửa, hít một hơi và nhìn vào trong lớp: bàn của Bobby trống trơn. Không ổn rồi. Mark cần nói với ai đó, nhưng là ai? Nó muốn được chia sẻ những chuyện đang xảy ra, nhưng điều quan trọng hơn là... nó chưa đến nỗi hoàn toàn mất trí. Ngay lúc đó nó chợt nhớ đến một người có thể lí giải được chuyện này. Courtney Chetwynde.

Các lớp thể dục của trường Stony Brook tách riêng nam nữ. Chỉ những buổi học thể hình, cần chung dụng cụ, mới sáp nhập. Thường thường, một bức tường to lớn, có thể nâng lên hạ xuống, ngăn đôi năm và nữ. Tuy nhiên vẫn có một ngoại lệ.

Đó là trường hợp của Courteney Chetwynde. Khi thành lập các đội chơi thể thao, Courtney không chơi trong đội nữ. Cô bé vừa cao vừa khoẻ, lợi thế của cô vượt trội hơn các đồng đội nữ là điều không công bằng. Vì vậy, dù trái với quy luật của trường, tỉnh và tiểu bang, Courtney vẫn được phép có mặt trong đội nam. Không ai phàn nàn gì. Các cô gái hớn hở vì không phải tranh đua với một đối thủ luôn luôn nhảy cao hơn họ. Các cậu trai. Chỉ cần sao 30 giây Courteney chứng tỏ khả năng, đã hân hoan chào đón cô bé tham gia vào đội. Thật ra, hầu hết các cậu đều e dè Courtney. Khi Courtney vào trận, cả sân sôi nổi hẳn lên.

Hấp! Courtney vọt cao hơn lưới, đập trái banh lướt qua đầu đối thủ. Anh chàng ngẩn tò tè và Courtney duyên dáng “hạ cánh an toàn’’ trước khi trái banh chạm mặt sân.

Courtney mỉm cười nói:

-Dứt điểm.

Banh được trả về. Cô sửa soạn giao banh.

-Cố lên, C.C.

-Tiến lên!

-Ghi thêm điểm đi!

Courtney có cú giao banh chết người và mọi người đều chờ đợi cô bé đóng chiếc đinh cuối cùng lên quan tài của đối phương. Nhưng ngay khi Courtney bước tới vạch giao banh, cô thoáng thấy Mark Dimond. Anh chàng nhỏ bé đứng ngoài cửa phòng tập, vẫy tay lia lịa. Ngay khi thu hút được sự chú ý của Courtney, Mark liền ra hiệu bảo cô bé tới chỗ mình. Courtney đưa một ngón tay lên như bảo: “Chờ một giây”, nhưng chỉ làm Mark rối rít ngoắt mạnh hơn.

Courtney nhăn mặt, ném banh cho một đồng đội:

-Cậu giao banh đi.

-Cái gì vậy? Cú dứt điểm mà.

-Biết. Đừng làm hỏng đó.

Vừa nói, Courtney vừa tiến ra chỗ Mark. Cậu đồng đội ngẩn ra nhìn rồi nhún vai quay vào sân. Các anh chàng đội bên kia thở phì nhẹ nhõm.

Courtney mở cửa, thấy Mark đứng chờ trong hành lang vắng hoe. Cô bực bội hỏi:

-Chuyện gì mà rối lên vậy?

Mark lúng túng, đứng không yên, hết nâng chân này, lại nhấc chân kia lên. Courtney lom lom ngó cả giây rồi hỏi:

-Bạn mắc tiểu à?

-Không... chỉ... chỉ... là chuyện của Bobby.

-Bạn ấy đâu? Sao tối qua bỏ thi đấu?

Mark càng thêm bối rối, dường như không dám hỏi câu sắp hỏi:

-Hai ... hai.... bạn gặp nhau... tối ... tối qua tại nhà... Bob... Bobby?

Courtney trừng trừng nhìn Mark, như không tin vào tai mình nữa. Rồi cô bé nổ một tràng:

-Đó là lý do cậu kéo mình ra đây hả? Bobby đã bỏ một trận thi đấu lớn nhất và... khoan... Này, Bobby kể cho cậu nghe về chuyện này tối qua hả? Tôi sẽ giết cậu ấy.

-Court... Courtney... bình tĩnh... không phải vậy... vậy đâu.

Mark cố ngăn Courtney, nhưng cô bé đã bị cuốn vào cơn giận lôi đình.

-Tôi cóc cần biết cậu ta là ai. Cậu ta không có quyền đem chuyện riêng tư đi rêu rao như vậy...

-Im đi!
Mark quát lên. Courtney im bặt. Cô bé quá kinh ngạc vì sự dũng cảm của Mark. Chẳng giống anh bạn Mark bé nhỏ chút nào. Hai đứa lom lom nhìn nhau, không biết phải làm gì.

Lúc này Courtney đã chú ý nghe, Mark suy nghĩ thận trọng trước khi chậm rãi nói, cố không lắm bắp. Nó đẩy cặp kính cận ngay ngắn trên sống mũi rồi nói:

-Mình nghĩ Bobby đang gặp chuyện không bình thường. Chuyện hai bạn tối qua là một phần trong vụ này... Mình xin lỗi nếu làm bạn khó chịu... nhưng mình cần được biết: Tối qua hai bạn có gặp nhau tại nhà Bobby không?

Courtney ráng dò ý Mark. Cậu ta vốn là một đứa nhút nhát,rụt rè; kiểu sòng sọc vào chuyện riêng của người khác như thế này hoàn toàn không phải tính cách của Mark. Rõ ràng có chuyện quan trọng khác hơn là chuyện tụi con trai tán nhảm với nhau về một đứa con gái. Cô có thể nhìn thấy điều đó trong mắt Mark. Cậu ấy có vẻ sợ. Courtney nói:

-Đúng. Bọn mình đã gặp nhau. Nhưng bây giờ bạn ấy đâu?

-Mình... mình không biết. Hy vọng là bạn ấy đang ở nhà. Bạn đi với mình để nói chuyện với Bobby chứ?

Hai đứa lại nhìn nhau. Courtney cố dò ý Mark. Mark thì cầu cho Courtney đồng ý đi cùng, để có thể san sẻ gánh nặng về những gì nó biết. Có thể cô bé sẽ giúp nó làm sáng tỏ chuyện này.

Bước qua Mark, Courtney bảo:

-Đi.

Dù có phải đến tận nhà để tìm Bobby, Courtney cũng đi. Cô cần nói cho rõ chuyện. Mark nhẹ lòng vì đã có một đồng minh. Nhưng nó vẫn chưa có ý định nói với Courtney những gì nó biết. Liệu cô ta có tin mình không? Tuy nhiên nó mừng vì lúc này đã có người để chuyện trò.

Gia đình Pendragon sống trên một con đường cụt, không xa trường bao nhiêu. Lúc này là giờ cơm trưa, vì vậy Mark và Courtney tính đến nhà Bobby tìm hiểu rõ ngọn ngành chuyện gì đã xảy ra, rồi trở về trường vẫn kịp. Đi trên lề đường, Mark phải rảo chân mới theo kịp những bước dài, hăm hở của Courtney. Nó muốn kể về người khách nửa đêm, về cái nhẫn, cuộn giấy và chuyện của Boddy. Nhưng nó sợ cô bé gạt phăng đi và cho nó là thằng tâm thần. Mark phải lựa lời cẩn thận . Nó e dè hỏi:

-Bạn biết cậu Press của Boddy không?

-Biết

-À...ừ...Tối qua bạn có gặp ông ấy không?

-Thật rủi là...có. Chính ông ta là người bắt gặp hai đứa mình...

Tim Mark như ngừng đập. Không phải vì chuyện Courtney và Boddy hôn nhau hay vì chuyện hai đứa nó bị cậu Boddy bắt gặp. Vấn đề là câu trả lời của Boddy càng xác định thêm những gì đã viết trong cuộn giấy. Mark sợ, nếu vài sự việc đúng, thì toàn bộ việc đó đếu đúng là sự thật.Ý nghĩa đó làm nó muốn phát bệnh.

Gần tới nhà Boddy, Mark mong sao Boddy ở nhà và sẽ làm sáng tỏ mọi việc. Nó tưởng tượng, tay cầm cuộn giấy, vào nhà, và thấy Boddy cười sằng sặc. Boddy bảo sao ngố vậy, chẳng bao giờ mình nghĩ các bạn tin đây là sự thật. Chỉ là một trò đùa, giống như Orson Welles thảng thốt trên đài phát thanh báo tin chiến tranh giữa các thế giới, làm mọi người hốt hoảng vì tưởng bị người sao Hoả tấn công.

Đó là điều Mark hi vọng. Đó là địa chỉ nhà Boddy. Nhưng những gì hai đứa trong thấy ngay sau đó đã làm tiêu tan hết hy vọng của nó.

Số 2 Linden Place. Đó là địa chỉ nhà Boddy. Mark đã đến đó cả ngàn lần. Từ khi còn ở nhà trẻ, hai đứa vẫn thường qua lại nhà nhau. Nhà Boddy như ngôi nhà thứ hai của nó. Má Boddy gọi Mark là đứa con thứ hai của bà. Vì vậy nó không thể tin được những gì sắp thấy. Mark và Courtney bước lên lề đường dẫn đến hàng rào bao quanh sân trước nhà Boddy, rồi dừng phắt lại. Hai đứa cùng nhìn vào số 2 Linden Place, chết sững.

Courtney chỉ bật lên được mấy tiếng:

-Ôi! Chúa ơi!

Mark không thốt được lời nào.

Nhà số 2 Linden Place đã biến mất. Hai đứa trợn tròn mắt nhìn bãi đất trống. Không chút dấu vết nào của ngôi nhà. Không một mảnh gỗ, một viên gạch, một cục đá, một bụi cỏ. Không có gì ngoài đất. Mark nhìn cây sồi to lớn, nơi nhiều năm trước ông Pendragon đã treo một xích đu cho tụi con trai chơi đùa. Cây còn đó nhưng không có xích đu. Thậm chí vết thẹo trên cành bị câu đu xiết nhiều năm, giờ nhẵn thín. Không để lại chút đấu vết nào. Hoàn toàn không còn gì.

Courtney bật nói trước:

-Lầm địa chỉ rồi.

-Không lầm đâu.

Mark thì thầm. Courtney không thể chấp nhận chuyện này, phăng phăng đi vào bãi đất trống:

-Nhưng tối qua mình đã ở đây! Lối vào nhà ngay chỗ này! Đây là cửa trước! Mình và Boddy đứng tại...

Giọng cô bé lạc đi, mắt nhìn Mark với vẻ khiếp đảm:

-Mark, chuyện gì đã xảy ra vậy?

Lúc này là thời điểm tốt nhất. Mặc dù chính nó cũng chẳng biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng bãi đất trống càng xác định hơn mối lo sợ của nó. Tất cả những gì trong những trang giấy Boddy gởi cho nó đều là sự thật. Nó có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời, nhưng lúc này nó đã có vài đều để trả lời Courtney, dù là những câu trả lời rất lạ lùng. Nó muốn san sẻ cùng Courtney. Một mình giữ hết điều này làm nó quá căng thẳng. Vì vậy, lấy từ trong ba- lô ra cuộn giấy da mầu vằng, Mark nói:

-Mình muốn bạn đọc cái này. Của Boddy gởi đó.

Courtney hết nhìn cuộn giấy lại nhìn Mark. Cô bé miễn cưỡng cầm cuộn giấy, rồi ngồi xuống. Ngay tại đó. Ngay chính giữa mảnh đất trống của số 2 Linde Place, không xa nơi cô và Boddy đã trao nụ hôn đầu. Courtney nhìn xuống mấy trang giấy và bắt đầu đọc.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 18-12-2012 16:34:15 | Xem tất
Chương 5
NHẬT KÍ # 1 (TIẾP THEO)
DENDURON


Mình tưởng đời mình chấm dứt rồi. Tất cả chỉ còn chờ sự đau đớn nữa thôi. Chuyện đó xảy ra có nhanh không. Có đau đớn lắm không? Hay nó sẽ bắt đầu từ bàn chân, dần dần lên đùi, lên thân thể và nhắm ngay vào đầu trong một thoáng bùng nổ chói lói của sự đau đớn cùng cực trước khi tất cả chỉ còn là bóng tối?

Mình cầu xin cho chuyện đó qua mau.Nhưng nó không đến nhanh. Thật ra nó hoàn toàn không xảy ra. Chẳng chút đau đớn. Mình không chết. Trái lại, mình cảm thấy rơi xuống cái hang rắn này. Như đang trượt xuống từ cầu trượt trong công viên vậy. Nhưng cầu trượt trong công viên nước thực sự mạnh hơn nhiều. Bây giờ mọi chuyện qua rồi, nghĩ lại mình lại cảm thấy thú vị. Ấy là lúc này mình mới nghĩ vậy, chứ lúc đó mình sợ vãi linh hồn.

Ngay khi nhận ra không bị hút vào hầm chứa rác khổng lồ, mở mắt nhìn quanh, mình mới cảm thấy mình đang di chuyển rất nhanh.

Như mình đã viết lúc trước, vách đường hầm lởm chởm đá. Nhưng chúng cũng trong suốt như bằng pha lê. Điều lạ lùng là, mình không bị va chạm vào vách, mà bay xuống, chân tới trước như ngồi cầu tụt trong công viên, nhưng cảm giác như đang trôi bồng bềnh vậy. Mình không thể cảm nhận được sự tồn tại của vách đường hầm. Có nhiều đoạn xoáy, rẽ, nhưng mình không bị va vào vách hay bất cứ gì như khi lao qua các đoạn rẽ trong trò trượt nước. Cứ như mình đang bay bổng trên một tấm thảm thần biết chính xác đưa mình tới đâu.

Có cả những âm thanh nữa. Những nốt nhạc bổng trầm khác nhau, giống như những cung bậc mình đã nghe khi đường hầm này chuyển động, nhưng tách bạch hơn nhiều, như được thoát ra từ một dụng cụ thử âm thoa. Đó cũng là một trong những lí do khiến mình cảm thấy là mình trôi xuống rất nhanh. Vì mình đang lướt qua nhưng nốt nhạc. Âm thanh xuất hiện rất nhanh từ phía trước, rồi lướt vụt qua mình rồi biến mất phía sau. Cảm giác thật lạ lùng.

Mình ngoái lại nhìn, không có gì, chỉ là đường hầm bằng pha lê hun hút hết tầm mắt. Nhìn xuống dưới hai chân, cũng giống vậy. Hang rắn ngoằn ngoèo. Vô tận.

Một lát sau mình đã hơi quen. Không cách nào ngừng lại được, chống lại làm gì? Và đây là điều đáng sợ nhất (cứ như những chuyện xảy ra cho đến lúc này chưa đủ sợ!): Nhìn qua bức tường pha lê, mình có thể thấy phía bên kia toàn một màu đen. Vậy là mình đoán: đang ở dưới lòng đất. Nhưng nhìn kỹ hơn, dường như màu đen bị hàng ngàn hàng ngàn ngôi sao làm tách ra.

Kỳ lạ chưa? Mình khởi hành trong một nhà ga tàu điện ngầm và đang xuống sâu hơn trong lòng đất, vậy thì làm sao có thể thấy được những vì sao? Nhưng những đốm sáng kia rõ ràng là những ngôi sao, không thể là gì khác được.

Mình không biết đã bay như thế được bao lâu. Ba phút? Ba tháng? Giác quan bình thường đã chào tạm biệt mình từ lâu rồi. Mình phó mặt cho nó cuốn mình tới đâu thì tới, bao lâu cũng được, không thành vấn đề.

Rồi mình nghe một âm thanh khác lạ. Không phải những nốt nhạc êm dịu đã hướng dẫn mình trong cuộn hành trình kì quái này.Âm thanh rắn rỏi, trắc trở. Hình như mình đã tới cuối đường. Mình nhìn xuống dưới hai chân và thấy: đoạn cuối đường hầm ngoằn ngoèo sáng lên trong bóng tối. Mình băng băng trôi về hướng đó. Chung quanh mình, tất cả vách tường bắt đầu thay đổi. Từ trong suốt như pha lê, chúng trở lại là những tảng đá lởm chởm, xám xịt.

Sự khiếp đảm lại tràn ngập trong mình. Sắp đụng vào trung tâm trái đất? Không phải bị lọt vào tâm điểm của dung nham nóng chảy chứ? Có phải chuyến bay kì diệu vừa qua chỉ là đoạn mở đầu cho một cái chết thiêu? Bất kỳ chuyện gì xảy ra, thì cũng sắp xảy ra rồi. Vì vậy mình làm một việc duy nhất mình có thể nghĩ ra để sẵn sàng chờ đón kết cuộc: nhắm tịt hai mắt lại.

Nhưng kết cuộc chẳng có gì thê thảm. Mình có cảm giác rần rần như lúc mới vào miệng hầm. Rồi mình nghe tràn ngập âm thanh. Tất cả những nốt nhạc êm dịu hoà quyện vào nhau như mình đã được nghe từ đầu cuộc hành trình. Mình cảm thấy một trọng lượng nặng nề đang đè lên lồng ngực. Điều tiếp theo mình biết là mình đang đứng dậy. Tiếng nhạc tan biến dần. Chiếc thảm thần nhẹ nhàng đưa mình tới một nơi đã được ấn định.

Cảm giác thật kỳ lạ trong khi trọng lượng trở lại, sau một chuyến đi nhẹ hẫng. Mình như một phi hành gia vũ trụ trở về từ không gian, cần làm quen lại với sức hút của trái đất. Mình mở mắt, quay lại nhìn vào đường hầm. Nó giống hệt cửa hầm mình đã bước vào tại ga. Xám xịt, tối tăm và trải dài chẳng biết tới đâu.

Mình đã tới nơi an toàn. Nhưng đây là đâu? Một nhà ga tàu điện ngầm khác? Hay đang ở Trung Quốc? Mình nhìn quanh để xem đang là đâu trong đường hầm này, và thấy mình đứng ngay trước lối vào một cái hang. Lúc này, đã tỉnh táo lại, mình nhận ra mình đang rất lạnh. Âm thanh dữ dội mình nghe cuối cuộc hành trình chính là tiếng gió gào gầm rú. Chẳng biết đang ở đâu,nhưng chắc chắc là mình không còn ở trong lòng đất nữa.

Bước mấy bước run rẩy khỏi miệng dường hầm, mình tiến vào hang. Khi bước vào không gian rộng hơn này, mình chợt thấy dấu hiệu khắc trên vách đá ngang tầm mắt: hình ngôi sao giống như trên cánh cửa trong hầm tàu điện. Kỳ lạ không!

Rồi mình thấy một luồn sáng tràn vào từ khoảng trống cuối hang. Ánh sáng chói loà tới mức làm toàn thể lòng hang trông như hắc ín. Thình lình mình cảm thấy chóng mặt vì cảm giác đã ở trong bóng tối quá lâu. Mình muốn ra ngoài, và ánh sáng đó chỉ lối cho mình, mình loạng choạng đi về phía nguồn sáng. Tới nơi, mình phát hiện đây chính là cửa hang. Ánh sáng chan hoà cũng cho mình biết lúc này đang là ban ngày. Mình đã ở trong đường hầm bao lâu rồi? Suốt đêm? Hay đây là ban ngày bên Trung Quốc? Chưa quen với ánh sáng, mình phải che hai mắt lại, lim dim bước hẳn ra ngoài. Ngay lập tức mình nhận ra bên ngoài lạnh hơn nhiều. Bên ngoài áo sơ mi cụt tay, mình chỉ có mỗi cái áo ấm của trường Stony Brook. Gió lạnh như cắt da. Trời ơi, lạnh cóng! Tiến thêm mấy bước, mình nhìn xuống bên dưới và thấy... tuyết! Mặt đất phủ toàn tuyết. Đó cũng là một trong những lý do trời sáng rực đến như vậy. Ánh nắng phản chiếu trên tuyết làm mình loá mắt. Mình biết để mắt quen với ánh sáng chói lọi này cũng không mất bao lâu, vậy thà chờ cho đến khi có thể nhìn rõ còn hơn là chui lại vào hang cho ấm. Mình muốn biết mình đang ở đâu.

Sau mấy giây, mình ngập ngừng buông tay ra khỏi mắt. Cuối cùng hai con ngươi cũng co lại đủ để nhìn được, và những gì nhìn thấy suýt làm mình ngã lộn xuống.

Mình đang đứng trên một đỉnh núi! Mà đây không phải là một quả núi nhỏ để trượt tuyết như chúng mình tới Vermont đâu (Vermont là bang lớn thứ hai ở New England (Mỹ), có 223 núi cao trên 600 mét và chủ yếu là rừng. Là nơi nổi tiếng để cắm trại, trượt tuyết, câu cá, đi săn). Núi này vòi vọi như đỉnh Everest (Everest: Đình núi cao nhất thế giới (8.850m), nầm giữa rặng Himalya ở biên giới Tây Tạng và Nepal). O.K., có thể không cao đến thế, nhưng mình cảm giác như đang đứng trên nóc nhà của thế giới vậy. Cánh đồng nhấp nhô phủ tuyết tăm tăm mút mắt luôn. Dưới đó, tuốt đằng xa, tuyết nhường chỗ cho một thung lũng xanh tươi mơn mởn. Nhưng từ chỗ mình tới đó là một dốc đứng thăm thẳm.

Trong đầu mình không ngừng vang lên câu hỏi: “Mình đang ở nơi quái quỷ nào thế này?” Câu hỏi hay đấy, nhưng đâu có ai để hỏi.Vậy là mình quay trở vào hang cho an toàn, để suy tính. Ngay trước lúc dợm chân quay lại, mình chợt thấy: cách miệng hang mấy mét, rải rác những tảng đá vàng, nhẳn, nhọn hoắt, cao chừng sáu tấc. Chúng vương khỏi mặt tuyết như những măng đá. Hoặc là thạch nhũ. Mình chẳng nhớ thế nào mới là măng đá thế nào mới là thạch nhũ. Chúng cứ chĩa lên nhọn hoắt. Chẳng biết chúng là gì, nhưng một từ cứ luẩn quẩn trong đầu mình: bia mộ. Mình cố xua đuổi ý nghĩ u ám đó, lội qua tuyết, trở lại hang.

Chính lúc đó mình nhìn thấy điều kỳ lạ nhất. Mặt trời đúng là đang lên phía trên những tảng đá tạo nên cái hang này, vậy mà mình lại phải che mắt, chống lại ánh sáng từ một hướng khác! Vậy là sao? Mình nhìn lại đằng sau và phát hiện: không chỉ có một mặt trời! Ôi! Mark, mình thề, có tới ba mặt trời! Ba mặt trời ba hướng khác nhau. Tưởng bị loá mắt, mình chớp lia lịa. Nhưng không, ba mặt trời vẫn y xì tại chỗ. Đầu óc mình mụ mẫm luôn, chẳng nghĩ ngợi được gì nữa. Chỉ một điều mình biết rõ: đây không phải là nước Trung Hoa.

Mình đứng đó, trên đỉnh núi, chỉ một mình, giày ướt sũng trong tuyết, trừng trừng nhìn ba mặt trời rực sáng. Mình không thể mắc cỡ khi thú thật điều này: mình nhớ má. Mình muốn được ngồi trước ti-vi, giành nhau bộ điều khiển từ xa với em gái Shannon của mình. Mình muốn cùng ba rửa xe. Mình muốn chơi ném vòng với bạn, Mark ạ. Thình lình tất cả những gì mình yêu quý trong đời trở nên xa xôi quá. Mình muốn về nhà, nhưng tất cả điều mình có thế làm là đứng đó mà khóc. Thật đó, mình đã khóc!

Rồi những âm thanh lại vang lên từ trong hang. Cũng là những âm thanh rộn ràng đã hút mình vào đường hầm và quăng mình tới nơi này. Có người sắp đến. Cậu Press chăng? Rất có thể. Mìn chạy vào hang, vui mừng quá thể vì sẽ không còn một mình nữa. Nhưng mình bàng hoàng nhận nghĩ: lỡ không phải là cậu Press? Lỡ đó chính là thằng cha Saint Dane thì sao? Lần cuối cùng dây dưa với gã đó, gã đã bắn vào cậu cháu mình. Mark, cho bạn biết nhé, bị làm bia bắn không giống như trong phim hay trò chơi game Nintendo đâu. Nó rất thật và khủng khiếp. Đến tận lúc này, mình vẫn còn cảm thấy nhột nhạt ở gáy, chỗ mấy mảnh gạch vụn văng trúng.

Không biết phải làm sao, mình ngừng lại giữa hang, chờ đợi. Dù là ai thì cũng phải ra khỏi đường hầm. Cậu Press hay Saint Dane? Hoặc có thể là mấy con chó khủng khiếp từng muốn xơi tái mình? Ai sắp xuất hiện đây? Thù hay bạn?

-Bobby?

Ôi! Đúng là cậu Press rồi! Ông bước ra khỏi đường hầm với tà áo choàng phất phơ hai bên đùi. Mình có thể ôm ghì lấy ông. Mà thật vậy, mình chạy tới ông như một thằng nhóc còn nhỏ xíu. Nếu đây là cảnh trong phim thì mình đang chạy nhè nhẹ với hình ảnh quay chậm. Mình vòng hai tay ôm xiết lấy ông, với cảm giác vui mừng khôn xiết và biết ơn vì mình không còn đơn độc nữa, vì con người mình yêu quý đã không bị thằng cha Saint Dane bắn chết. Cậu Press mình đã được an toàn.

Nhưng cảm giác này chỉ kéo dài được chừng... ba giây. Lúc này, khi mối sợ hãi đe doạ đến chết chóc không còn nữa, thì thực tế tràn về. Chỉ duy nhất một người chịu trách nhiệm cho việc mình có mặt tại đây. Cậu Press. Người mình đã tin tưởng. Người mình đã thương yêu. Cũng chính là người đã kéo mình ra khỏi nhà và suýt làm mình chết... hơn tám lần rồi.

Mình xô cậu thật mạnh, hết sức bình sinh, để cậu phải lăn đùng xuống đất. Đó là điều mình muốn. Mình muốn cậu thấy mình giận thế nào. Nhưng... như mình đã từng thấy: cậu Press khoẻ vô cùng. Mình xô vào cậu chẳng khác nào đánh vật một bức tường, rốt cuộc chỉ làm mình ngã ngồi trên mặt đất. Đứng bật dậy - không muốn bị coi như một thằng ngốc - mình gào lên:

-Chuyện quái gì đang xảy ra thế này?

-Bobby, cậu biết là cháu bối rối vì...

-Bối rối? Bối rối không phải là từ để khoả lấp chuyện này.

Chạy xồng xộc tới cửa đường hầm, mình gào tiếp:

-Denduron! Denduron!

Mình nói bất cứ câu gì để thoát ra khỏi đây. Nhưng chẳng có gì xảy ra. Cậu Press nói cứ như đã dự trù sẵn:

-Đây chính là Denduron. Chúng ta đang ở tại Denduron.

Mình nhìn vào đường hầm:

-OK, vậy thì - Mình lại gào - TRÁI ĐẤT! NEW YORK! TÀU ĐIỆN!

Chạy vào đường hầm, mình hy vọng tiếng nhạc thần kỳ sẽ đưa mình bay bổng về nhà. Êm ru. Mình trở ra ngoài và chạm ngay mặt cậu Press. Mình gào lên:

-Không cần biết chuyện này là thế nào, không cần biết đây là đâu, cháu chỉ cần về nhà, về nhà, về nhà ngay lập tức. Đưa... cháu.. về nhà!

Cậu Press chỉ lẳng lặng nhìn mình. Hẳn ông biết mình giận và sợ đến dường nào, nên mình nghĩ ông đang đắng đo từng lời. Rủi thay, dù cho có lựa lời, thì cũng chẳng có cách nào hay hơn để chuyển tải lời ông nói:

-Bobby, cháu không thể về nhà. Bây giờ cháu đã thuộc về nơi này rồi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 23-12-2012 12:18:31 | Xem tất
Chương 5 (Tiếp theo)

NHẬT KÍ # 1 (TIẾP THEO)

DENDURON


Vậy đó. Mình quay lưng lại ông, thẫn thờ, không biết phải làm gì, nghĩ gì nữa. Chỉ muốn khóc thôi. Mình cũng muốn thụi cho ông mấy quả, muốn cãi lý với ông, muốn thức dậy và thấy đây chỉ là cơn ác mộng khủng khiếp.

Cậu Press vẫn cứ lẳng lặng nhìn mình và chờ mình bình tĩnh lại. Nhưng tất cả những thông tin lộn xộn nhồi nhét vào cái sọ bé nhỏ tội nghiệp của mình chỉ làm mình bật ra được một câu hỏi ngẩn ngơ:

-Vì sao?

-Cậu đã nói với cháu, có những người tại Denduron cần chúng ta giúp đỡ.

Giọng ông nhỏ nhẹ như nói với một đứa con nít, càng làm mình thêm lộn ruột. Mình la lớn:

-Nhưng cháu không biết những người đó. Mặc kệ họ. Cháu chỉ quan tâm tới cháu thôi. Cháu muốn về nhà. Cậu không hiểu sao?

Cậu nghiêm giọng:

-Cậu hiểu rất rõ. Nhưng không thể được.

-Vì sao? Chuyện gì về những người này mà quá quan trọng vậy? Nơi này là đâu? Cái... Denduron này là ở đâu?

-Rất khó cắt nghĩa để cháu hiểu...

-Cậu cố thử đi.

Mình đã chán ngấy tất cả những chuyện bí mật rồi. Cậu Press ngồi lên một tản đá. Mình coi như đó là dấu hiệu cậu sẵn sàng bắt đầu giúp mình hiểu rõ mọi chuyện. Ông nói:

-Chúng ta đang ở rất xa trái đất. Nhưng nơi này không phải là một hành tinh khác như cháu nghĩ. Đây là một lãnh thổ. Giống như trái đất là một lãnh thổ.

-Lãnh thổ, hành tinh thì khác gì nhau. Chỉ là một từ để gọi.

-Không phải vậy. Nếu chúng ta có một phi thuyền và phóng khỏi đây, đi đến nơi được coi là trái đất, thì sẽ chẳng có trái đất nào ở đó để cho cháu đến. Vì nó không có ở đó. Ít ra là, mọi chuyện không giống như những gì cháu biết. Khi cháu đi xuyên qua ống dẫn...

-Ống dẫn?

-Bằng lối đó cháu đã tới đây. Xuyên qua ống dẫn. Khi tới những lãnh địa qua đường ống dẫn, cháu không chỉ đi từ nơi này tới nơi khác, mà là xuyên qua không gian và thời gian. Cậu biết là rất khó lý giải, nhưng rồi cháu sẽ hiểu.

Mình không chắc là có muốn hiểu không. Thà cứ ngốc lại đỡ hơn. Mình nhìn cậu Press và lần đầu tiên mình giật mình: đây không phải con người mình từng biết. Vẫn biết ông là một nhân vật bí mật, nhưng bây giờ ông có vẻ giống như một thành phần hoá học hơn mình tưởng nhiều. Mình hỏi:

-Cậu là ai? Thật sự, cậu không phải là một người bình thường.

Cậu Press mỉm cười, nhìn xuống. Không hiểu sao mình có cảm giác câu trả lời cũng chẳng dễ chịu gì.

-Cậu là cậu của cháu, Bobby. Nhưng đồng thời cũng là một “Lữ khách”. Giống như cháu vậy.

Lại thêm một từ mới. “Lữ khách.” Mình chẳng muốn là một “Lữ khách” tí ti nào. Mình chỉ muốn là Bobby Pendragon, cầu thủ bóng rổ trong đội hình của trường trung học Stony Brook. Nhưng... cuộc đời đó dường như đã quá xa xôi rồi.

-Nếu chúng ta không còn trên trái đất, sao cháu vẫn thấy giống như đang ở trên trái đất? Cháu vẫn thở được, ở đây cũng có tuyết, và có trọng lực bình thường...

-Tất cả các lãnh địa đều rất giống trái đất, nhưng không hoàn toàn giống hệt.

-Chẳng hạn như ba mặt trời ở đây?

-Thí dụ rất hay.

-Và những tản đá vàng kỳ cục nhô khỏi mặt tuyết?

Cậu Press bỗng căng thẳng:

-Đâu? Bên ngoài hả? Bao nhiêu?

-Cháu... không rõ. Mười. Mười hai.

Ông đứng vội dậy cởi áo choàng:

-Chúng ta phải đi thôi.

Ném áo choàng xuống đất, cậu Press hấp tấp tới cuối hang, nơi có một đống cành khô. Ông bắt đầu giở chúng ra. Mình lo lắng hỏi:

-Chuyện gì vậy?

Ông đặt ngón tay lên môi, suỵt một tiếng. Vẫn tiếp tục rút những cành khô, ông nói nhỏ như sợ bị nghe lén:

-Bọn quig.

À, quig. Không phải từ mới. Nhưng mình rất ghét từ này. Mình tí tởn nói:

-Không phải quig đâu. Quig giống như chó mà, đúng không?

Cậu thì thào:

-Tuỳ theo từng lãnh thổ. Trên Trái Đất Thứ Hai chúng giống như chó. Tại đây thì không.

Mình hỏi, mà thật tình không muốn biết câu trả lời:

-Vậy thì... quig là con gì?

-Chúng là những con thú hoang dã đặc biệt trong mỗi lãnh địa. Saint Dane sử dụng chúng để giữ không cho Lữ khách lại gần ống dẫn.

Lại là cái tên đó. Saint Dane. Nhưng làm cách nào một con người “sử dụng” một con thú hoang dã vào công việc? Mình chưa kịp hỏi, cậu Press đã dở hết đống cành khô, để ra một đóng lộn xộn lông và da thú. Ông bắt đầu cởi quần áo. Nhặt lên một mảnh da trông phát khiếp, ông bảo:

-Mặc cái này vào. Chúng ta không thể mặc quần áo của Trái Đất Thứ Hai tại lãnh địa này.

-Cậu đùa ạ?

-Đừng cãi Bobby. Những thứ này làm cháu ấm.

-Nhưng...

-Không nhưng gì hết. Lẹ lên!

Cậu Press thì thầm. Rõ ràng ông sợ lũ quig. Mình nghĩ là mình cũng sợ, nên mới vội vàng cởi quần áo. Dù khiếp đảm chờ câu trả lời, nhưng mình vẫn hỏi:

-Cởi đồ lót luôn sao, cậu?

-Tại Denduron không ai mặc đồ lót.

Câu trả lời mình chẳng muốn nghe tí nào. Dù biết sẽ rất khó chịu, nhưng mình đành phải theo lời cậu Press: mặc quần áo lót lông bên trong, quần áo da bên ngoài. Đôi ủng da rất êm và tại Denduron người ta không mang bít-tất. Khi lấy thêm quần áo khỏi đống cành khô, có một vật khác dần dần lộ ra. Mình nhấc tấm da lông lá cuối cùng lên và thấy một chiếc xe trượt tuyết giành cho hai người. Trông nó giống như xe trượt do chó kéo tại Alaska, nhưng chẳng có gì là hiện đại. Bánh trượt là những thanh gỗ, sườn xe làm bằng cành cây, ghế ngồi đan bằng cây sậy, còn bánh lái là cái gạc hươu to đùng. Nhưng còn thêm mấy thứ làm mình bối rối.

Buộc hai bên sườn là những cây giáo trông phát khiếp. Chúng được làm bằng những cây chuốt nhẵn. Mũi bằng thép, trông sắc như dao mổ. Đuôi giáo gắn lông vũ. Dù thô kệch và lạc hậu, tất cả trang thiết bị đó có vẻ là một vũ khí đáng gờm. Chúng được treo hai bên sườn xe trượt như một dạng hảo tiễn thời tiền sử, sẵn sàng để phóng. Mình hỏi, tràng trề hy vọng:

-Súng của cậu không hạ được bầy quig sao?

-Trong lãnh địa này không được dùng súng. Chúng ta chỉ có thể sử dụng những gì do nơi này làm ra. Cháu phải nhớ điều quan trọng đó. Hiểu?

-Cháu hiểu.

Ông nhét một vật vào tay mình. Đó là một vật nhỏ, được chạm khắc, tròng vào một sợi dây da. Trông giống như...

Như đọc được ý nghĩ của mình, cậu Press nói ngay:

-Đó là cái còi. Phải luôn giữ bên mình cháu.

Mình muốn hỏi để làm gì, nhưng mối bận tâm lúc này là hy vọng cậu sử dụng giáo cũng giỏi như súng. Còn cái còi nhỏ xíu này là cái quái gì chứ, nó đâu có bảo vệ được cậu cháu mình nếu gặp nguy hiểm. Nhưng mình cũng tuân lệnh, choàng nó vào cổ. Cậu Press hỏi:

-Sẵn sàng chưa?

-Chưa.

Câu trả lời quen thuộc của mình. Thật tình, mình đã sẵn sàng. Mình cảm thấy hơi giống một người sống trong hang, nhưng bộ quần áo kỳ cục này vừa vặn với mình. Chỗ nào quá rộng, mình buộc bằng dây da theo lời cậu chỉ dẫn, Mình thật sự thoải mái. Chỉ tiếc một điều là không giữ được bộ đồ lót. Nếu có bị ngứa ngáy, nổi mụn tràn làn chắc không tìm ra phấn rôm ở Denduron này.

Cậu Press bắt đầu kéo xe trượt ra vùng sáng về phía cửa hang. Mình đẩy phụ. Cậu dặn:

-Khi ra tới chỗ có tuyết, cháu phải nhảy lên, ngồi phía sau ngay. Cậu sẽ giữ lái phía trước. Nếu may mắn chúng ta sẽ đi khỏi trước khi bầy quig thức giấc.

- Nếu không may mắn thì sao?

- Chúng ta không chạy nhanh hơn chúng đâu. Hy vọng duy nhất là hạ được một con.

- Hạ? Cậu nói rõ hơn đi.

Nhưng ông không nói. Hai cậu cháu đã tới cửa hang. Cậu Press nhìn mình:

-Cậu rất tiếc, thật sự rất tiếc vì chuyện này. Cậu chỉ biết nói rằng, cháu sẽ sớm được biết vì sao.

Ông nói như vẻ đoan chắc như mình thật sự tin ông. Còn mình thì sợ phải tin ông. Vì nếu những gì cậu Press nói đều đúng, mình sẽ không còn lựa chọn nào khác mà chỉ còn cách đối diện với những rắc rối đang chờ phía trước. Và căn cứ vào những gì đã xảy ra cho đến lúc này, sẽ chẳng có gì thú vị cả. Mình chỉ bảo:

-Hy vọng cậu biết lái cái này.

-Nắm chặt vào.

Hừ, “nắm chặt”. chẳng lẽ mình vung vẫy hai tay trong không khí để giữ thăng bằng, như trên một trục lăn!

Cậu cháu mình kéo xe ra khỏi cửa hang, lên nền tuyết. Phải mất mấy giây mắt mình mới quen được với ánh sáng. Điều đầu tiên mình thấy là những tảng đá vàng mang niềm gở nhô trên tuyết trắng. Dù cậu Press có tỏ ra sợ, nhưng mình không hiểu so mấy cục đá đó có thể nguy hiểm được. Ông im lặng ra dấu cho mình leo vào xe, rồi vòng ra sau, bắt đầu đẩy. Cái xe cổ lỗ đời tiền sử đó lướt đi rất êm. Tước mặt mình là những tảng đá vàng; mình đếm được mười hai tảng, rải rác trên khoảng rộng nhiều mét. Cậu cháu mình lướt đến gần chúng êm ru. Mình nhìn cậu Press. Cậu đặt tay lên môi như muốn nhắc nhở mình phải im lặng. Tiến thêm mấy mét, hai cậu cháu lọt giữa những tảng đá vàng. Cậu Press thận trọng điều khiển xe sao cho không chạm vào bất cứ vật gì. Ngay khi chúng mình vừa tăng tốc, độ dốc càng dốc đứng hơn. Nhìn ra trước, mình bỗng không còn lo gì đến bầy quig nữa. Chúng mình sắp lao xuống dốc núi tuyết dựng đứng, lởm chởm đá tảng trên một mảnh gỗ lung lay được ràng bằng dây da. So với cảnh tượng khủng khiếp đó thì mấy con thú cao sáu tấc có nghĩa lý gì chứ?

Mình sắp tìm ra lời giải đáp đó.

Ngay khi sắp ra khỏi bãi đá vàng, thì trước mặt chúng mình mặt tuyết bắt đầu rùng mình. Chỉ còn phải vượt qua một tảng đá nữa thôi. Nhưng một là quá đủ. Thình lình, ngay trước mặt, tuyết nứt ra, tảng đá nhọn màu vàng đứng dậy. Nhưng đó không phải là tảng đá nhọn màu vàng. Đó là cái sừng nhô lên từ lưng một quái vật gớm ghiếc mình chưa từng thấy bao giờ. Con quig vươn mình khỏi tuyết cho đến khi thân thể nó hoàn toàn xuất hiện. Trông nó giống như một con gấu xám khổng lồ. Nhưng cái đầu to đùng với cả những cái nanh nhọn hoắt - cả hàm trên và hàm dưới - giống như lợn nòi. Chân nó cũng to vật vã với những móng vuốt lớn như những phím đàn piano. Những phím đàn sắc bén. Mắt nó giống mắt những con chó trong nhà ga tàu điện ngầm. Vàng khè, hung hăng và... tập trung vào hai cậu cháu mình.

Cậu Press vừa chạy vừa đẩy xe trượt vòng qua con quái, cố gắng tăng thêm tốc độ. Cậu la lên:

- Lấy cây giáo.

Mình không thể rời mắt khỏi con quái vật. Nó vươn mình trên hai chân sau chồm tới. Tiếng gầm của nó khủng khiếp đến mức có thể làm người chết bật dậy. Hoặc... ít ra cũng đánh thức được cả bầy quig. Quả vậy. Phía sau cậu cháu mình, tuyết chung quanh những tảng đá vàng sôi sùng sục. Tất cả bầy quig đang thức giấc.

-Bobby, dịch ra!

Cậu Press nhảy lên xe, làm mình choàng tỉnh. Nhào tới trước mình nắm lấy một cây giáo. Xe trượt lao vùn vụt, nảy lên trên tuyết. Mình vất vả giữ thăng bằng. Gò người sang một bên, mình cố gắng cởi dây buộc một trong hai cây giáo trên sườn xe.

-Lẹ lên!

Tiếng cậu Press từ phía sau, bình tĩnh nhưng khẩn khiết. Mình quay lại nhìn: phía sau, hàng chục con quig đang rùng mình rũ tuyết.

Đáng lẽ mình không nên nhìn. Sợi dây buộc giáo sắp gỡ được, thì ngay lúc mình nhìn lại. xe trượt đụng phải một mô đất, nẩy tưng lên. Trước khi mình biết chuyện gì đã xảy ra thì cây giáo đã lỏng ra và rơi khỏi xe. Mình vội với theo, nhưng quá muộn.

Cậu Press lại la lên:

-Lấy cây khác. Mau!

Mình nhào qua bên kia xe, một tay nắm chặt cây giáo, một tay lúng túng cởi dây. Mình không thể để mất thêm cây giáo này. Rồi mình cũng cởi được dây.

-Đón này.

Mình la lên, ngả người chuyền cây giáo cho cậu Press. Ngay sau đó, mình quỳ gối, nhìn lại. Khiếp đảm, mình nhìn lũ quig đang tấn công. Tiếng gầm gừ khắp phía, cậu cháu mình đã lọt vào tầm nhắm của những con gấu hung tợn. Mình không biết cây giáo nhỏ bé làm được gì để chống lại bầy đàn tấn công dữ dội kia. Cậu Press gào lên:

-Giữ vững bánh lái.

Mình bò lên phía trước, nắm lấy cái gạc hươu. Xe trượt lướt đi rất hoàn hảo. Ai thiết kế ra chiếc xe này, đã biết nó sẽ làm gì. Tuy nhiên, cậu Press đã nói đúng. Chúng mình không đủ nhanh để thoát khỏi tụi quig. Chúng nó sắp gần kề.

Con quig dẫn đầu cách bầy đàn nó một khoảng xa. Đó là mối nguy hiểm sát bên cậu cháu mình. Mình ngoái ra sau, nhìn những gì đã xảy ra. Cậu Press thật ngầu. Cậu đứng sững trên xe, hướng ra sau, cây giáo trong tay. Đã quen thấy cậu hiên ngang trong những trường hợp tương tự như thế này, nên chẳng có gì làm mình ngạc nhiên thêm được nữa. Như thuyền trưởng Ahab săn con cá voi khổng lồ Moby Dick, cậu Press chờ con quig đầu đàn. (Moby Dick - con cá voi trắng khổng lồ và thuyền trưởngAhab là hai nhân vật nổi tiếng trong văn chương Mỹ. Tiểu thuyết Mody-Dick (1851) của nhà văn Haman Melville được chuyển thể thành nhiều bộ phim phiêu lưu mạo hiểm rất ăn khách)

Giọng làu bàu, ông giễu cợt nó:

-Nào nào, lại gần chút nữa coi.

Con quái khát máu đã gần kề, nó chồm lên, hai hàm há hốc, sẵn sàng táp lấy cậu Press. Ông la về phía mình:

-Cái còi! Thổi ngay đi!

Còi? Cái còi thì làm được gì? Nhưng đây không phải lúc lý sự. Một tay điều khiển gạc hươu, một tay mình lần mò tìm cái còi đeo trên cổ. Con quái gần sắp chộp được cậu Press rồi. Cuối cùng mình cũng túm được cái còi. Kéo sợi dây da ra khỏi đầu, mình đưa còi lên miệng thổi.

Âm thanh rất khác lạ. Chắc chắn cái còi này được thiết kế để bắt chó ngừng sủa với cường độ cao chói lói chỉ có chó mới nghe nổi. Nhưng quig hình như không khoái nghe âm thanh lạ lùng này. Con quái bỗng há hốc mõm ghê tởm, tru lên làm tóc gáy mình dựng đứng. Đó là âm thanh đau đớn, như thể âm thanh phát ra từ cái còi đang cào xé đầu óc nó.

Đúng lúc ấy cậu Press ra tay. Cậu phóng cây giáo như một vận động viên Olympic phóng lao. Ngọn giáo lao thẳng vào cái mõm đang há toang hoác của con quái vật. Con quái hộc lên đau đớn khi mũi giáo đi suốt tới cuống họng nó. Con quig lăn xuống, chân co giật làm tung lên lớp tuyết mỏng. Máu trào ra từ cái mõm há hốc như suối chảy.

Thật kinh tởm! Nhưng chưa kinh tởm bằng những gì xảy ra sau đó. Bầy quig kia đuổi kịp con đầu đàn, nhưng thay vì rượt theo cậu cháu mình, chúng ngừng phắt lại nhào vào tên anh em của chúng. Đó là miếng mồi đầy quyến rũ, giống như bạn thấy lũ cá mập phát hiện mùi máu trong nước vậy. Đến bây giờ mình vẫn còn nghe những âm thanh khi chúng phanh thây xé thịt đồng loại. Mình không bao giờ muốn phải nghe lại những tiếng toàng toạc của thịt tươi, tiếng răng rắc của xương gãy đó nữa. Mà… con mồi đó vẫn sống. Tiếng gầm rú của nó nghe thật khiếp đảm. Cám ơn trời, tiếng kêu thảm thiết đó không kéo dài.

Mình nhìn lại lần cuối. Phải chi mình đừng làm vậy, vì ngay lúc đó một con quig ngửng nhìn lại mình. Móng vuốt và mõm nó nhễu nhão đầy máu. Bây giờ mình mới hiểu ý cậu Press khi cậu nói chỉ cần hi vọng “hạ” được một con.

Cậu mình bỗng la lên:

-Coi chừng!

Mình vội nhìn phía trước. Một tảng đá lớn như một chiếc ô-tô lù lù trước mặt. Mình bẻ mạnh gạc hươu. Xe trượt lách sang một bên, nhưng đuôi bị lật ngang, làm chiếc xe va mạnh vào tảng đá. Cậu cháu mình vẫn tiếp tục di chuyển được, dù cú di chuyển quá mạnh, quăng cậu Press lên sàn xe. Nếu không nắm chặt gạc hươu mình cũng đã bị quăng theo rồi. Nhưng khi nắm chặt gạc hươu mình đã để rơi mất cái còi. Tụi quig mà đuổi theo sẽ rất gay go. Hai cậu cháu không có còi, cũng chẳng còn cây giáo nào. Sao mình lại ngốc đến mức tháo sợi dây khỏi cổ như vậy chứ?

Xe trượt phăng phăng vì con dốc gần như dựng đứng. Mình đã có thể thấy sắp tiến đến hàng cây. Để đến được điểm đó, mình chỉ còn phải điều khiển xe lướt trên tuyết và tránh những tảng đá. Lúc này cậu cháu mình đang tiến thẳng vào một khu rừng.

-Thành công rồi!

Cậu Press la lớn. Ông tiến lên đầu xe. Niềm vui lớn nhất của mình là trao bánh lái lại cho ông. Mình cũng la lớn hỏi:

-Xe không có thắng, phải không cậu?

-Ước gì có thắng!

Câu trả lời phát ớn! Đây đâu phải là con dốc dễ thương để chơi trò trượt băng? Ồ, không. Cậu cháu mình sẽ đâm đầu vào hang loạt cây cối kia mất thôi. Muốn ngừng lại là phải cho xe ủi vào một vật cứng. Mình chẳng muốn đâm đầu vào một vật cứng chút nào. Chắc chắn sẽ bị thương. Cậu Press lại la lớn:

-Phải! Nghiêng qua phải!

Mình làm theo và cậu Press đưa hai người vòng qua một thân cây.

-Bám chặt cậu. Nhìn điểm sắp tới! Sang trái.

Cứ như đang ngồi phía sau chiếc mô-tô của cậu Press vậy, muốn cua qua bên nào là hai cậu cháu phải ngả người sang bên đó. Nhưng xe mô-tô còn có thắng và không phải lạng lách qua bãi mìn toàn cây như thế này. Khiếp thật! Trên cái xe trượt cà tàng, chúng mình phóng như trên hoả tiễn, lách qua những cây thông rắn như đá.

Xe vù vù vượt qua những thân cây san sát. Trái, phải, lại phải. Cậu Press luôn miệng bảo mình ngả người qua bên nào. Còn mình luôn phải nhìn phía trước và cố đoán ông định rẽ sang đâu. Cành cây vun vút quất vào mặt cậu cháu mình. Tiếng cây vèo vèo lướt qua sát bên tai. Càng xuống dưới rừng cây càng rậm rạp hơn. Cậu Press kêu lớn:

-Phía trước có một khoảng trống. Tới đó, cậu sẽ bẻ lái gấp sang phải. Hy vọng chúng ta không bị lật.

Hy vọng! Hy vọng sao đừng bị hất ra khỏi xe, lộn tùng phèo vào một thân cây! Tiếng cậu vẫn oang oang:

-Khi cậu bẽ lái, nhớ ngã hết cỡ về bên phải. Sắp tới rồi.

Qua những hàng cây, mình thấy một bãi màu trắng. Chắc đó là khoảng rừng trống. Nhưng cậu cháu mình vẫn di chuyển rất nhanh và cây cối còn rải rác rất nhiều. Trái, trái, phải. Thêm vài lần rẽ nữa là sẽ đến bãi đất trống. Mình la toáng lên:

-Thành công rồi!

Nhưng không. Khi rẽ trái, một rễ cây nằm dưới tuyết hất hai cậu cháu sang phải. Chiếc xe lướt đi ngoài vòng kiểm soát. Khi đó, giữa cậu cháu mình và bãi đất an toàn kia chỉ còn vài cái cây nữa thôi. Xe trượt đâm sầm vào một thân cây, quay vòng vòng. Sức va đập thật khủng khiếp, làm mình chao đảo. Nhưng mình vẫn trụ lại được trên xe. Cậu Press, kém may mắn hơn, bị bắn ra ngoài.

Mình vẫn tiếp tục lướt đi. Thanh trượt bên phải đã rời ra, nhưng chiếc xe vẫn bon bon tiến tới. mình nằm cuối xe, cách bánh lái là cái gạc hươu cả… dặm. Đã nhìn thấy bãi đất trống, mình thoáng nghĩ là sẽ tới được đó. Nhưng xe trượt đâm vào một mô đất và thình lình mình bay bổng lên. Xe một đằng, mình một nẻo. Rồi mình rơi bịch xuống. chỗ này tuyết không dày, nên thay vì đáp xuống mặt tuyết êm ái, thân hình mình nện lên mặt đất cứng ngắc. Mình gần như đứt thở, đầu đập mạnh xuống đất. Trời đất quay mòng mòng một màu trắng. Mình không nghĩ được gì nữa. Không cựa quậy nổi nữa, nhưng… như thế lại tốt.

Không biết mình nằm đó bao lâu, vì mình tỉnh rồi lại mê đi. Lúc đó, mình nhớ là có nghe những âm thanh kỳ lạ. Lúc đầu xa xa, rồi lại gần rất nhanh. Mình đã sợ là lũ quig đã xong bữa trưa, bây giờ định bắt cậu cháu mình làm món tráng miệng. Nhưng không phải. Âm thanh này giống như tiếng vó ngựa. Ít nhất cũng hơn một con.

-Bobby! Bobby! Nếu nghe được tiếng cậu, cũng đừng nhúc nhích. Ở yên tại đó. Milago sẽ tìm ra cháu. Họ sẽ giúp cháu.

Ông ấy nói gì vậy? Milago là ai? Cần phải thấy chuyện gì đang xảy ra. Mình lăn sang một bên, dù rất đau. Chắc cú ngã đã làm mấy chiếc xương sườn của mình nát như tương rồi. Không thể đứng dậy. Dù có muốn cũng không chắc đứng nổi. Đầu nhức nhối và chóng mặt vô cùng, nhưng mình cũng ráng bò qua tuyết, tiến tới nơi có tiếng nói cậu Press. Một ụ tuyết vồng lên – có thể chính cái ụ này đã phóng mình lên không – mình phải bò bằng bụng, rất đau, tới ụ tuyết đó. Tới nơi, mình thận trọng lén nhìn qua ụ tuyết.

Mình nhẹ cả người khi thấy cậu Press đang đứng bên lề khoảng rừng trống, không xa mình lắm. Cậu mình không hề hấn gì, có vẻ còn khá hơn tình trạng mình lúc đó nhiều.

Bên kìa khoảng rừng trống, đang mau chóng xiết vòng lấy cậu Press, là những con ngựa mình đã nghe tiếng vó. Trên lưng bốn con ngựa có bốn người cỡi. Mình thấy họ giống như những hiệp sĩ thời cổ. Họ mặc toàn giáp bằng da đen. Mũ và tấm che mặt cũng bằng da đen. Cả bốn con ngựa cũng phủ trên mình những tấm da đen giống vậy. Trông họ giống hệt nhau, hình như những bộ giáp này là đồng phục. Họ còn mang cả kiếm nữa, cứ như từ trong truyện Hiệp Sĩ Bàn Tròn bước ra (Theo truyền thuyết của Anh, Hiệp Sĩ Bàn Tròn là nhóm những người được tấn phong phẩm cấp hiệp sĩ cao nhất tại triều đình vua Arthur. Bàn tròn – nơi họ hội họp - thể hiện sự bình đẳng của mọi thành viên trong nhóm)

Trong khi họ xiết vòng vây quanh cậu Press, cậu vẫy tay thân thiện:

-Chào. Các bạn khoẻ chứ?

Đây đâu phải nước Mỹ? Cũng không phải trái đất. Sao cậu Press lại nghĩ những người này nói được tiếng Anh? Một hiệp sĩ cộc cằn nói lớn:

-Buto! Buto aga forden.

Mình nghĩ đúng mà. Họ không biết tiếng Anh. Nhưng cậu press vẫn trả lời bằng tiếng Anh.

-Không đâu. Tôi đi săn thỏ cho gia đình mà.

-Soba board few!

Một hiệp sĩ khác quát lên. Thật quái lạ! Họ nói một thứ ngôn ngữ lạ hoắc, còn cậu Press cứ nói tiếng Anh, vậy mà dường như hai bên hiểu nhau. Mình thì mù tịch, chẳng hiểu gì hết. Còn gì mới lạ nữa không đây?

Hiệp sĩ đã nói với cậu Press đầu tiên chỉ ngón tay vào cậu thét lớn:

-Buto! Buto aga forder ca dar!

Căng rồi! Chẳng biết “Buto” có nghĩa quái quỉ gì, nhưng mình đoán chắc không phải là câu chào thân thiện. Cậu Press đưa cao hai tay vẻ ngây thơ vô tội, nhúng vai như không hiểu họ đang nói gì. Ông nói với nụ cười:

-Không. Tôi dò thám Kagan làm gì chứ? Tôi là một thợ mỏ, chỉ lo nuôi sống gia đình thôi.

Do thám? Thợ mỏ? Kagan? Đầu mình lùng bùng luôn.

Thế rồi mọi chuyện trở nên nghiêm trọng hơn. Tay hiệp sĩ đó rút ra từ yên ngựa một cây roi như cây roi chăn bò và quất cậu Press. Phập! Cây roi cuốn lấy cánh tay cậu. Cậu bật lên một tiếng kêu đau đớn. Gã hiệp sĩ giật mạnh roi, kéo cậu quì xuống.

Mình định đứng lên, chạy tới cậu. Nhưng bên sườn đau nhói làm mình nghẹt thở. Đầu óc lại quay mòng mòng làm mình suýt ngất đi. Nhưng mình vẫn cố nhướng mắt nhìn cậu Press. Hai hiệp sĩ khác rút ra hai sợi dây thừng từ yên ngựa, tung thòng lọng lên cậu mình cứ như ông là một con bò tơ trong trò rodeo (Cuộc đua tài của những người chăn bò(cưỡi ngựa, quăng dây…)). Rồi chúng thúc ngựa, phóng qua khoảng rừng thưa, kéo lê cậu Press đi theo.

Điều cuối cùng mình thấy là: những gã hiệp sĩ áo đen ngồi trên ngựa, ha hả cười kéo cậu mình qua mặt tuyết. Khi chúng khuất dạng vào rừng, mình chẳng thấy chẳng nghe gì nữa. Đầu óc mình quay cuồng, mất kiểm soát. Mình lịm đi dần. Điều cuối cùng mình còn nhớ được là mình tưởng như chỉ mấy tiếng đồng hồ trước, mình còn đứng trong bếp ném trái banh ten-nít cho con Marley chụp. Và mình hy vọng có người nhớ dắt nó ra ngoài đi dạo vào buổi tối.

Rồi tất cả chỉ còn là màu trắng. Mình ngất đi.


CHẤM DỨT NHẬT KÍ # 1
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 23-12-2012 12:38:28 | Xem tất
Chương 6

TRÁI ĐẤT THỨ HAI


Mark Dimond bồn chồn lui tới, trong khi Courtney Chetwynde ngồi trên ba-lô của cô trong cảnh đất trống trơn tại số 2 Linden Place, đọc những trang giấy da. Mark muốn cô bạn nó đọc nhanh hơn, muốn cô ngửng lên bảo với nó là mọi chuyện ổn cả, muốn cô tìm ra một manh mối đâu đó trong những trang này chứng tỏ rằng chẳng có gì là thật hết. Nhưng điều mong mỏi nhất là, nó muốn quay lại và thấy ngôi nhà của Bobby trở lại như xưa.

Courtney cứ nhẩn nha đọc hết mấy trang giấy, rồi ngước nhìn Mark với vẻ tò mò, hỏi tỉnh bơ:

-Cậu vớ được cái này ở đâu vậy?

Mark thọc tay vào túi, lấy ra cái nhẫn mặt đá xám. Sau chuyện xảy ra trong nhà vệ sinh, nó chưa có dịp đeo thứ trang sức tai ương này lại vào ngón tay.

-Mình lấy được từ…cái nhẫn này. Nó như một vật sống vậy. Tỏa sáng, lớn dần và mở ra một miệng hố với những âm thanh, rồi thình lình…cuộn giấy lù lù ngay đó.

Courtney nhìn cái nhẫn, rồi lại nhìn cuộn giấy da. Mark có thể thấy đầu óc cô bạn đang lộn tùng phèo khi cố gắng để hiểu tất cả những gì nó vừa đẩy sang cho cô. Sau cùng, Courtney đứng dậy, ném cuộn giấy qua vai như ném mấy tờ báo cũ và cười khinh khi:

-Đủ rồi đó.

-Này!

Mark kêu lên, vội vàng chạy theo cuộn giấy. Một cơn gió nhẹ cuốn mấy tờ giấy lệt sệt trên mảnh đất trống, làm Mark phải bò toài ra nhặt trước khi chúng bay đi mất. Courtney la lối:

-Các người tưởng tôi là gì? Một con ngốc à?

Tật cà lăm của Mark trở lại:

-K…k…không…không…phải phải…vậy…

-Bảo với Boddy Pendragon, tôi không quá ngu để tin vào trò đùa ngốc này đâu.

-N…n…nhưng…

-Chuyện gì nữa? Muốn tôi phải lo quính lên, đi nói với mọi người là tối qua Boddy vắng mặt trong buổi thi đấu là vì cậu ta trôi trong ống dẫn tới một không gian khác và phải đánh nhau với bầy thú ăn thịt đồng loại, và nếu không cứu được người cậu thoát khỏi các hiệp sĩ áo đen, cậu ta sẽ có thể vắng mặt trong trận đấu tới nữa chứ gì?

-À, ừa, đúng…đúng vậy…

-À, ừa, đúng vậy. Hay quá ta! Để rồi Boddy xuất hiện, nhảy cỡn lên mà la:”Ngạc nhiên chưa!”. Lúc đó tôi chỉ có nước cuốn gói sang tiểu bang khác, vì mọi người sẽ không bao giờ quên vụ tôi ngu tới nổi tin vào trò đùa ác mó lố bịch nhất trong lịch sử các trò đùa ác mó. Đừng hòng!

Courtney xách ba-lô, hầm hầm bước đi. Mark hét:

-Courtney, đứng lại!

Courtney quay phắt lại, ném cho Mark cái nhìn khinh khỉnh. Ai mà bị Courtney Chetwynde nhìn kiểu đó thì chỉ còn nước mau đào hố mà chôn mình cho sớm. Mark phải lấy hết sức bình sinh để tiếp tục. Nó nói một cách rất chân thật và không hề lắp bắp:

-Chính mình cũng khó mà tin nổi. Nhưng không phải chuyện đùa đâu. Mình không biết tất cả những gì trong cuộn giấy kia có thật không, nhưng mình đã được thấy những điều mà mình không cắt nghĩa được. Mình thề là mình đã thấy. Và điều đó đủ làm mình tin là có chuyện gì đó rất kỳ quái đã xảy ra cho Boddy.

Courtney đứng im. Có phải cô bé bắt đầu tin? Hay chỉ đợi nó nói xong, sẽ lại bảo: cậu tưởng tôi ngu lắm à?

Mark chớp lấy cơ hội, nói tiếp:

-Mình biết có quá nhiều điều không thể nuốt được. Nhưng nếu chỉ là trò đùa tinh quái, thì ngôi nhà của Boddy đâu?

Courtney nhìn khu đất trống đằng sau nhà Mark. Mark không biết cô bạn đang nghĩ gì. Có phải đang nhớ lại tối qua đã tới đây, vào một căn nhà lúc này đã biến mất, và hôn Boddy Pendragon? Mark nói thêm:

-Courtney, mình sợ. Muốn biết chuyện gì đã xảy ra, nhưng mình nghĩ, một mình mình sẽ không thể nào tìm hiểu được chuyện gì.   

Courtney trừng trừng nhìn Mark một chập nữa, như cố gắng đọc suy nghĩ của nó, rồi bước qua Mark, lẳng lặng tới đứng giữa bãi đất trống. Cô bé từ từ quay vòng 360 độ để nhìn tất cả. Không một dấu vết nào chứng tỏ một gia đình bốn người và một con chó đã sống tại đây mười hai tiếng đồng hồ trước. Courtney thuộc loại người bao giờ cũng chiếm thế thượng phong trong mọi việc. Courtney luôn biết cách xoay chuyển tình thế khó khăn để đem đến lợi ích cho mình, dù đó là trận bóng chuyền hay cuộc tranh luận với ba mẹ. Nhưng vụ này khác hẳn. Cô không thể kiểm soát được tình thế, vì cô không biết quy luật. Courtney trầm ngâm:   

-Được. Nhưng chúng ta không thể nháo nhào cố gắng tìm hiểu tất cả mọi chuyện cùng một lúc. Có…có quá nhiều điều…

Courtney nửa như nói với Mark, nửa như bật thành lời suy nghĩ của mình:

-Mình chẳng biết tí gì về quig hay Lữ khách hoặc cống dẫn…

Mark chỉnh lại:

-Ống dẫn.

-Là cái gì cũng vậy. Với mình cứ như toàn chuyện hoang đường. Nhưng ngôi nhà này…ngôi nhà này biến mất là sự thật. Nếu chúng ta tìm hiểu được chuyện gì đã xảy ra với ngôi nhà này, có thể sẽ là khởi điểm để chúng ta tìm ra Bodddy.

Lần đầu tiên Mark toác miệng cười. Nó đã có đồng minh và đó chính là người nó biết có thể làm mọi việc sáng tỏ. Nó nói:

-Tụi mình bắt đầu từ đâu?

Vừa sải dài những bước chân ra đường. Courtney vừa nói:

-Chúng mình phải tìm ra ba má của bạn ấy. Lẽ nào họ cũng biến mất nốt!

-Tuyệt!

Thình lình Courtney quay lại, ghé sát mặt Mark. Mấy ngón tay rắn chắc nắm ngực áo nó:

-Dimond. Mình thề. Nếu bạn định giở trò lừa mình, mình sẽ đập bạn không ngốc đầu lên nổi mà buộc dây giày đâu đấy.

-Biết rồi.

Mark làu bàu, nhét cuộn giấy vào ba-lô và đi theo Courtney  ra đường lộ. Ra tới hè đường, nó nhìn lại lần cuối mảnh đất từng có ngôi nhà của thằng bạn thân nhất Nó có thể thông cảm cho sự nghi ngờ của Courtney. Chuyện trong cuộn giấy thật khó mà tin nổi, mặc dù có vài đều chứng tỏ là thật. Ít ra là những dòng về Courtney. Phần đó thì dễ rồi. Phần còn lại mới hoàn toàn khó tin. Và cũng thật bí ẩn. Không có dòng chữ nào Boddy nói về ngôi nhà nó bị biến mất. Nếu đúng như những gì Boddy đã viết, thì khi nó và câu Press ra đi bằng xe mô-tô, ngôi nhà vẫn còn đó. Đã có chuyện xảy ra sau khi Boddy đi, như vậy có nghĩa là Boddy không biết gì về chuyện ngôi nhà. Kỳ cục là điều đó làm Mark có chút hy vọng. Courtney có lý. Nếu biết chuyện gì xảy ra cho ngôi nhà, có thể sẽ tìm ra chuyện gì đã xảy ra với Boddy.

Còn một điều khác nữa là Mark day dứt và đó cũng chính là điều mà nó không cảm thấy yên tâm để chia sẻ với Courtney. Ít ra là lúc này, nó chưa yên tâm lắm. Đó là chuyện cái nhẫn và việc Boddy gửi cuộn giấy cho nó. Câu hỏi mà Mark không ngừng tự hỏi là:”Tại sao?” Nếu tất cả những gì Boddy viết là thật, rằng nó đang tham gia một cuộc phiêu lưu khó tin nhất, vậy thì tại sao nó lại tốn thời gian để viết ra tất cả những chuyện xảy ra và gửi về cho Mark? Đúng, hai đứa là bạn thân của nhau, và Boddy viết rằng hy vọng có một ngày những trang giấy ấy sẽ chứng tỏ là nó không bịa chuyện. Nhưng điều đó không đủ lý giải cho việc viết lách của Boddy. Mark cảm thấy có một nguyên do quan trọng về những gì đang xảy ra cho Boddy mà nó cần phải tìm hiểu.

Lúc này Mark vui mừng vì đang trên đường làm sáng tỏ những chuyện thằng bạn thân đang gặp phải. Điểm khởi đầu hợp lý là tìm cha mẹ Boddy, để tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra cho ngôi nhà của họ. Với ý nghĩ lạc quan đó, Mark quay lưng lại mảnh đất trống, chạy theo Courtney. Cả hai đứa đều tin thắc mắc của chúng sẽ sớm được giải tỏa, chúng sẽ tìm Boddy, và cuộc sống sẽ bình thường lại đúng thời điểm cho buổi học ngày mai.

Mở đầu cuộc đều tra là đến nhà Mark. Vì hai đứa đều thấy việc kiếm ba má Boddy bằng điện thoại sẽ dễ dàng hơn là đi xe buýt hay đạp xe lung tung khắp thị trấn. Nhà Mark cũng ở trên một đường, cách nhà Boddy chừng nửa dặm. Đúng hơn là cách nơi đã từng có căn nhà của Boddy nửa dặm. Tất nhiên, sáng nay, khi rời khỏi trường, Mark đâu ngờ cô nàng Courtney Chetwwynde nổi tiếng lại có chuyến viếng thăm phòng ngủ của nó trưa nay. Vụ này xảy ra cũng… “ly kỳ” chẳng kém gì vụ thằng bạn thân của nó bị phóng xuyên qua vũ trụ.

-Chờ ở đây.

Mark vừa nói vừa chạy vào phòng ngủ, đóng sập cánh của ngay trước mặt Courtney. Cô bé trợn mắt, nhưng vẫn đứng yên, tôn trọng sự riêng tư của bạn.

Thoáng nhìn căn phòng, Mark đã muôn xỉu rồi. Nó không biết cái gì đáng xấu hổ nhất nữa. Bít-tất, đồ lót dơ rải rác khắp nơi, poster các siêu anh hùng trong phim hoạt hình chưa gỡ xuống; hình người mẫu áo tắm hai mảnh cắt từ báo thể thao vừa mới dán lên; hay mùi hôi nồng nặc bốc lên từ tất cả đống dơ dáy đó. Nó tăng tốc, mở tung cửa sổ, gom một ôm đầy những gì vơ được, nhét ra sau cái gối trên chiếc giường bừa bãi, lộn xộn.

Cửa phòng bật mở và Courtney xông vào:

- Này, cho bạn biết, mình có hai anh trai nên không đến nổi phát gớm khi thấy…

Nhưng…vừa nhìn căn phòng, cô bé đứng chết sững. Mark đờ người, tay ôm đống bít-tất đen thủi - chắc chắn trong “quá khứ” chúng đã từng là màu trắng. Courtney khịt mũi, cố không nôn ọe:

-Mình lầm. Phòng của bạn làm mình gớm quá đi mất. Có con gì chết trong này à?

-Xin xin…lỗi. Phòng mình c…cần chút không khí…

-Phòng cậu cần phải tẩy uế thì có. Mở nốt của sổ kia ra, mình sắp chết ngất rồi.

Mark ném đống bít-tất ra ngoài cửa sổ, rồi vội vàng mở nốt cửa sổ còn lại. Courtney đi “khảo sát” căn phòng, rồi ngừng lại trước hai tấm poster trên tường. Một là hình siêu nhân anh hùng trong phim hoạt hình. Tấm kia là một cô gái đẹp lộng lẫy nằm trên bãi biển nhiệt đới.

Courtney thốt lên:

-Có vẻ như ở cậu đang diễn ra cuộc xung đột giữa tuổi dậy thì và tuổi mẫu giáo thì phải.

Mark vội vàng đứng chặn trước mấy tấm hình, nói cộc lốc:

-Tụi mình t…tập trung vào vấn đề quan trọng đi, được không?

Courtney hiểu ý. Giờ không phải lúc làm cho Mark khổ sở. Cô bé ngồi xuống bàn học của Mark, trong khi Mark hấp tấp gạt mộ hình máy bay F-117 nó đang làm để cô bạn rộng chổ “làm việc”. Đúng kiểu tác phong văn phòng. Courtney nói:

-Số điện thoại.

Trong khi Mark mở tủ lục lọi, Courtney tìm thấy một tập giấy nên mở ngăn kéo kiếm bút. Sai lầm nghiêm trọng. Cô bé thông báo:

-Này mình khám phá ra một bí mật rồi.

Giọng Mark tràn trề hy vọng:

-Cái gì vậy?

Courtney lấy từ ngăn kéo ra một khối ri rỉ nước vàng:

-Mình biết vì sao phòng bạn hôi như giày thối rồi.

Cô đưa lên miếng phô mát thối rửa. Mark vội chụp lấy, reo lên:

-Ê, mình kiếm miếng phô mát này quá trời mà không thấy.

Courtney trợn mắt, cầm cuốn sổ điện thoại Mark vừa tìm ra. Kế hoạch là gọi cho ba mẹ của Boddy tại nơi làm việc. Ông Pendragon là một nhà viết văn cho tờ báo địa phương, bà Pendragon là phó thủ thư của thư viện thị trấn. Courtney tìm được cả hai số và gọi tới cả hai nơi. Thật xui xẻo, lần gọi nào cô bé cũng nhận được một thông tin ngán ngẩm. Cả ba và má Boddy đều không có mặt tại nhiệm sở và đều không báo lý do vắng mặt. Courtney gọi tới trường Glenville, nơi Shannon, em gái của Boddy, đang học lớp ba. Câu trả lời cũng giống y như vậy: Shannon không tới trường. Từ từ đặt điện thoại xuống, Courtney nhìn Mark, nghiêm trang nói:

-Tất cả đều vắng mặt.

Mark chộp vội điện thoại, quay số. Courtney hỏi:

-Câu gọi ai vậy?

-Mình gọi số của Boddy.

Nhưng trong máy chỉ vang lên tiếng nhân viên tổng đài:”Số điện thoại bạn vừa gọi không có thật.” Mark dằn mạnh điện thoại xuống, la lên:

-Không thể thế được! Mình mới gọi Boddy hôm qua mà! Cả gia đình chẳng lẽ biến hết!

Gò mình trên cuốn niên giám điện thoại, Courtney lật tới vần “P”, tìm tên Pendragon. Lật đi lật lại tới lần thứ ba, cô bé ngẩn người tuyên bố:

-Không có. Tên họ không có trong này.

Mark giật lại sổ điện thoại, tự tìm. Courtney nói đúng. Không có tên Pendragon. Courtney hỏi:

-Hay là…họ không đăng ký số điện thoại?

-Không đâu. Năm ngoái, mình bà Boddy tìm số điện thoại nhà bạn ấy bằng chính cuốn này. Chúng mình chọc ghẹo nhau và mình đã viết ngay bên trên tên Pendragon chữ “Cục kít”. Mình biết là nhảm, nhưng mình đã viết vậy đó. Bây giờ chữ đó không có đây. Không có dấu tẩy, dấu cắt, không…có gì hết. Cứ như chưa bao giờ có trong cuốn sách này!

Bó tay! Cả một gia đình chợt biến hết. Chỉ còn một cách: báo cảnh sát. Không muốn trình bày một sự việc như vầy qua điện thoại, nên cả hai đến thẳng đồn cảnh sát thị trấn Stony Brook.

Stony Brook là một thị trấn nhỏ tại Connecticut và không phải là một trung tâm của những hoạt động tội phạm. Thỉnh thoảng mới có những vụ trôm vặt, đánh nhau, nhưng Ban chỉ huy cảnh sát Stony Brook luôn phải chứng tỏ công việc bộn bề bằng việc bắt dân thị trấn tuân thủ luật giao thông và dọn sạch sẽ nếu chó của họ ị bậy trên đường.

Khi Courtney và Mark bước vào đồn cảnh sát, hai đứa vẫn chưa biết phải nói những gì. Hai đứa quyết định sẽ nêu ra những sự kiện hiển nhiên: không thể tìm ra Boddy và gia đình nó, ngôi nhà biến mất. Còn vụ cái nhẫn, cuộn giấy da và câu chuyện của Boddy chưa nên nói ra lúc này.

Tiếp chúng là trung sĩ cảnh sát tên D’Angelo, ngồi sau một bàn làm việc lớn. Mark quá bối rối, nên Courtney nói trước. Cô bé kể vụ Boddy đã vắng mặt trong cuộc thi đấu tối qua như sao, vụ tới nhà của gia đình Pendragon và phát hiện ngôi nhà biến mất như thế nào, rồi vụ không một thành viên nào còn lại trong gia đình Boddy ở nơi đáng ra họ phải ở đó. Trung sĩ D’Angelo lắng nghe rồi ghi chép lên một tờ giấy. Courtney có cảm giác là viên cảnh sát này không tin một lời nào của  hai đứa, nhưng vẫn ghi ghi chép chép, vì đó là công việc của ông ta. Sau đó, trung sĩ D’Angelo rời bàn, tiến đến máy tính. Ông ta bấm máy, đọc màn hình, thỉnh thoảng lại quay nhìn Courtney và Mark. Sau cùng viên trung sĩ đứng dậy, trở lại bàn, nhăn mặt nhìn hai đứa, nói:

-Nghe đây, nhóc. Chú không biết hai đứa định giở trò gì, nhưng hai cháu đang làm phí thời gian của chú và tiền bạc của những người đóng thuế.

Mark và Courtney sững sờ. Courtney nói:

-Chú nói gì vậy? Chú không nghe chúng cháu sao? Một gia đình đã biến mất. Chuyện đó không đáng để cảnh sát Stony Brook quan tâm sao?

Những lời nói của cô bé không gây ấn tượng nào cho trung sĩ D’Angelo:

-Pendragon phải không? Số 2 Linden Place?

Mark trả lời:

-Đúng vậy.

-Chú vừa kiểm tra sổ đăng ký của thị trấn. Không có gia đình nào có tên đó sống tại Stony Brook. Không có số nhà nào là 2 Linden Place. Chưa từng có cái nhà nào tại đó. Như vậy lời giải thích khả dĩ duy nhất là các cháu đang đùa, hoặc các cháu đang nói về một gia đình ma và không, cảnh sát Stony Brook không có hứng thú với việc lần theo dấu vết một gia đình ma.

Nói xong, ông ta xé tờ giấy mới ghi chép và quẳng vào giỏ rác. Courtney giận tái mặt. Cô bé sẵn sàng nhảy qua bàn, túm lấy tay cảnh sát, kéo hắn tới trường, nơi mọi người đều biết Boddy Pendragon. Rất có thể cô sẽ làm như vậy, nếu không có một chuyện xảy ra.

Cái nhẫn trong túi Mark bắt đầu vặn vẹo.

Tim nó muốn nhảy lên tận cổ.

Courtney dựa sát bàn, ngước nhìn lên viên trung sĩ, giận dữ nói:

-Cháu không cần biết cái máy vi tính của chú nói gì. Cháu biết Boddy Pendragon! Boddy là…

Mark giật mạnh tay Courtney làm cô im bặt. Chiếc nhẫn rung chuyển mạnh hơn làm Mark chỉ kịp nói:

-Đi thôi.

-Không được. Mình sẽ không đi cho đến khi…

-Courtney! Đi thôi!

Mark nhìn Courtney chằm chằm dữ dội. Không rõ là chuyện gì, nhưng Courtney biết là chuyện nghiêm trọng.

Mark kéo Courtney ra phía cửa. Cô bé cố quay lại la lớn:

-Cháu sẽ trở lại. Tốt hơn, chú hãy cầu xin cho gia đình họ an toàn, nếu không chú sẽ lãnh đủ đó.

Mark kéo Courtney ra khỏi cửa. Trung sĩ D’Angelo lắc đầu, ngồi xuống, đọc báo tiếp.

Ra khỏi đồn cảnh sát, Mark kéo Courtney vào một hẻm nhỏ, tránh xa đường chính. Dù Courtney cao hơn, khỏe hơn, Mark vẫn không chịu thua. Cô bé hét toáng lên:

-Cậu có vấn đề gì vây?

Mark thọc tay vào túi áo, lấy cái nhẫn ra, đưa lên trước mặt và nói:

-Vấn đề này.

Mặt đá xám đã chuyển thành pha lê và một lần nữa, những tia sáng lại phóng ra từ phía mặt nhẫn. Courtney ngỡ ngàng nhìn Mark đặt chiếc nhẫn lên mặt đường nhựa rồi lùi lại mấy bước. Cái nhẫn xoay vòng, nảy lên và lớn dần. Courtney ngẩn người, hổn hển kêu lên:

-Ôi…Chúa…ôi!

Trong vòng tròn đang lớn dần, mặt đường bỗng hiện ra một hố đen. Từ dưới hố vọng lên những nốt nhạc mà Mark đã từng được nghe trong nhà vệ sinh nam tại trường. Ánh sáng lóng lánh rọi lên tường những ngôi nhà chung quanh, và dù ban ngày, những tia sáng chói tới mức Mark và Courtney phải lấy tay che mắt. Tiếng nhạc lớn dần, mặt đá phát ra tia sáng lóa mắt cuối cùng, rồi cả nhạc và ánh sáng đều tắt ngấm. Courtney hỏi:

-Vậy đó sao?

Mark thận trọng bước lại gần chiếc nhẫn. Nó nằm nguyên chổ đã được đặt trên mặt đường với kích cỡ bình thường và mặt đá trở lại màu xám. Nhưng cũng có một thứ khác nữa ở đó. nàm kế bên chiếc nhẫn là một cuộn giấy da được cột bằng một sợi dây da. Mark cúi xuống, rón rén nhặt cuộn giấy lên, và quay sang Courtney, nói gọn lỏn:

-Thư tới.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 23-12-2012 22:30:38 | Xem tất
Chương 7
NHẬT KÍ #2
DENDURON


Ngày mai cậu Press sẽ chết.

Mark ơi, kể từ sau thư trước mình viết cho bạn, đã có quá nhiều chuyện xảy ra. Lạ kì có, sợ hãi có, xáo trộn có và đôi khi - mình có thể bảo - hài hước có. Nhưng chuyện sau cùng là: ngày mai cậu Press sẽ chết.

Ngay lúc này, mình đang ngồi trong một hang động nhỏ sâu dưới lòng đất chắc phải tới gần trăm mét. Mình đang viết dưới ánh sáng của một cây nến, vì làm gì có điện. Chung quanh mình toàn đá. Hàng tấn, hàng tấn đá đen ngòm ngòm cứ như sắp đổ ụp lên đầu bất cứ lúc nào. Thôi không nói chuyện đó nữa, mình chỉ tưởng tượng ra đó thôi. Cái hang này làm sao có thể sụp được. Mình rất an toàn tại đây, ít ra là lúc này. Người đang gặp hiểm nghèo chính là cậu Press.

Kể với bạn chuyện này, vì mình cần bạn giúp. Mình sắp nhờ bạn làm một việc khá nguy hiểm.Trường hợp bình thường mình không bao giờ yêu cầu bạn làm một việc như thế này, nhưng đây là điều duy nhất mình nghĩ là có thể giúp mình cứu được cậu Press. Mình rất thông cảm nếu bạn không muốn làm. Nhưng trước khi bạn quyết định, mình muốn nói cho bạn tất cả những gì đã xảy ra từ sau thư trước, khi biết tất cả rồi, tùy bạn quyết định.

Mình chấm dứt thư trước ngay sau khi cậu Press bị những hiệp sĩ của Kagan kéo đi và mình bị ngất .có bao giờ bạn bị ngất hay hôn mê chưa? Không giống như ngủ thiếp đi đâu.Khi ngủ thiếp đi, bạn không biết chính xác mình ngủ thế nào.nằm xuống, chờ đợi, và…đùng một cái, trời đã sáng. Nhưng khi bị ngất, bạn sẽ cảm thấy mình đang trôi đi. Cảm giác đó chẳng thú vị chút nào. Sau đó khi hồi tỉnh, cũng chẳng gì khá hơn.Không biết đang ở đâu, chuyện gì xảy ra, rồi tình lình nhìn chung quanh và trở về thực tế.

Tất nhiên, trong trường hợp này, ngay cả khi tỉnh lại mình cũng không biết là đang ở đâu và chuyện đang  gì xảy ra. Điều đầu tiên mình nhìn thấy là một khuôn mặt. Mặt một cô gái. Trong giây lát mình tưởng đó là Courtney. Nhưng ngay khi bộ não bắt đầu hoạt động, mình nhận ra cô ta không giống Courtney.Cô ta rất đẹp. (Chu choa, nghe có vẻ tệ quá nhỉ.Không phải Courtney không “rất đẹp”, nhưng cô gái này hoàn toàn, nói thế nào nhỉ). Khoảng tuổi mình,có khi lớn hơn một chút. Da cô ta đen,mắt quá nâu nên trông cũng đen.Tóc cô ấy cũng đen và thắt bím dài tới lưng.Bộ áo quần cô ta mặc giống như bộ đồ bằng da kì cục mà cậu Press đã bắt mình tròng lên người.Nhưng với cô, mình cảm thấy rất đẹp,vì cô ta có một thân hình tuyệt vời. Hẳn cô ta phải làm một động viên gì gì đó. Thật mà, cô gái này có thân hình như một vận động viên điền kinh Olympic. Không chút mỡ, toàn cơ bắp, dể nễ lắm.Nếu mình gặp cô ấy tại quê nhà, mình sẽ đoán cô ta gốc châu Phi.Nhưng đây đâu phải quê nhà.

Mình nằm căng thẳng trong khi cô ta hoàn toàn tỉnh bơ nhìn xuống mình lom khom. Không thể biết cô ta mừng vì mình còn sống, hay sắp sửa kết thúc phần việc của lũ quig: giết mình chết đứ đừ tại chỗ. Tình hình cứ thế kéo dài mấy giây, chẳng ai nhúc nhích. Sau cùng mình nuốt nước bọt để biết chắc cổ họng đã thông, rồi khào khào nói:

-Tôi đang ở đâu?

Câu hỏi chẳng có gì mới mẻ cả nhưng kệ, mình vẫn muốn biết.

Cô gái không trả lời. Cô ta đứng dậy tới bên cái bàn có mấy cái bát gỗ, lấy một bát đưa cho mình, nhưng mình không cầm. Biết là cái gì mà dám uống. Có thể là máu hay thuốc độc lắm chứ. Cũng có thể là một chất lỏng ở đây họ cho là ngon lành, nhưng làm mình ói mửa thì sao? Cô ta gằn giọng:

-Nước đó.

Ồ! Mình đón bát nước. Đang khát mà. Cô gái lại bên cửa, đứng khoanh tay. Mình uống một ngụm nước rồi nhìn quanh. Mình đang ở trong một nơi giống như cái chòi nhỏ hẹp, có lẽ chỉ bằng phòng khách nhà mình. Một phòng độc nhất với sáu bức tường. Hình lục giác, phải không? Các bức tường xây bằng đá và bùn khô. Mấy lỗ hổng là cửa sổ, một lỗ hổng lớn là cửa ra vào. Mái trần vút lên thành một hình chóp nhọn, làm bằng cành cây đan vào nhau. Sàn bằng đất, nhưng rắn chắc như bê tông. Mình đang nằm trên một cái gì đó kiểu như ghế dài thấp làm bằng những khúc gỗ ghép lại, trên phủ một tấm dệt bằng rơm hay một giống cỏ nào đó. Khá thoải mái, nhưng mình không muốn nằm đây suốt đêm. Trong lều còn nhiều giường khác kê thành hàng. Mình nghĩ chắc nơi này là một bệnh viện. Có lý lắm chứ. Sau những gì mới trải qua, mình được đưa tới bệnh viện.

Giống như mình bước vào cỗ máy thời gian và được đưa ngược về mấy ngàn năm trước, tới một thời đại mà con người xây dựng thế giới bằng bất cứ thứ gì kiếm được và… không quan tâm lắm đến vấn đề vệ sinh cá nhân. A, phải rồi, mình đã kể cho bạn về cái mùi khủng khiếp như chuồng nuôi dê của chỗ này chưa? Nó làm mình thắc mắc không biết vữa xây những bức tường đá kia thật sự là bùn, hay một thứ ghê tởm nào khác sẽ làm mình phát oẹ nếu biết rõ?

Nhìn cô gái kỳ lạ đang đứng khoanh tay trừng trừng nhìn đáp lại, mình tự hỏi: Cô là bạn? Là kẻ thù? Hay cai ngục đứng gác cho đến khi đám hiệp sĩ áo đen trở lại kéo xềnh xệch mình đi như đã làm với cậu Press? Đầu óc mình ngổn ngang đủ thứ, nhưng một thứ nổi cộm nhất.

Mình mắc tè.

Lần cuối mình đi tiểu là trước khi Courtney xuất hiện ở nhà mình. Đó là khi nào? Một triệu năm trước? Bụng mình căng cứng thế này, chắc phải lâu lắm rồi. Không thể nằm đó mà tè dầm được, mình chớm ngồi dậy và nói:

- Này, tôi…

Ngay khi mình cử động, cô gái kia liền bay tới như định tấn công. Cô ta khom mình, rút cây sào gỗ buộc sau lưng dài gần hai mét và đầy vết trầy như đá được dung nhiều lần… Cô nắm chặt vũ khí bằng cả hai tay. Mình thấy hai đầu sào đen bóng vì đã đâm vào những thứ mình không dám tưởng tượng thêm.Nhưng đôi mắt cô ta thì dễ sợ hơn. Hai mắt như đứng tròng, tập trung vào mục tiêu. Mục tiêu đó là… mình.

Mình lạnh toát cả người. Nếu mình đứng dậy, cô ta sẽ nện cho mình một hèo, chân chưa chạm đất, đầu đã bổ nhào rồi. Mình không muốn nhúc nhích chút nào vì sợ sẽ chọc giận cô ta. Cả hai cứ giữ nguyên trạng thái đó, chờ cho đối phương hành động trước. Chắc chắn người hành động trước sẽ… không phải là mình. Và, nếu cô ta chỉ cần tiến một bước về phía mình, mình sẽ vọt khỏi giường, đầu phóng ngay ra ngoài cửa sổ.

Lúc đó có tiếng gọi từ bên ngoài:

-Buzz obsess woos saga!

Ít ra là nghe giống vậy đó. Mình không bảo đảm đánh vần chuẩn xác đâu. Có người bước vào lều. Đó là một người đàn bà trong bộ đồ đúng điệu thời trang tại đây: toàn da thú cứng nhắc! Trông bà ta y chang bản sao già hơn của cô gái suýt phang cây lên sọ mình. Tuy vóc dáng rất mạnh mẽ, nhưng bà ta toát lên một vẻ làm mình cảm thấy đây có thể là cứu tinh của mình. Có lẽ vì đôi mắt của bà. Khi bà ta nhìn mình, mình cảm thấy mọi chuyện sẽ ổn. Trông bà ta quen quen, nhưng mình không nghĩ ra đã gặp bà ta ở đâu. Bà nghiêm nghị nhìn cô gái, cô ta miễn cưỡng buông vũ khí. Ôi! Đại họa qua rồi.

Người đàn bà quay lại nói với mình:

-Tha lỗi cho con gái ta, nó luôn tỏ ra quá nghiêm trọng.

Tin mới. Đây là một cặp mẹ con.

Đáng lẽ mình không nên ngạc nhiên, vì họ giống hệt nhau. Chẳng biết ông bố trông ra sao? Chắc phải là một hậu vệ dũng mãnh. Mình vẫn không thấy an tâm khi nhúc nhích.Người đàn bà này có vẻ tử tế, nhưng sau những gì đã trải qua, mình vẫn không dám tin là mọi chuyện sẽ thuận lợi.

Bà ta lại bên giường, quỳ xuống nở một nụ cười hiền lành với mình và dịu dàng nói:

-Ta tên là Osa. Con gái ta tên Loor.

-Cháu… cháu là Bobby. Cháu… cháu không phải người ở đây.

Mình chỉ biết nói có nhiêu đó. Bà Osa mỉm cười, nói:

-Mẹ con ta cũng vậy.Và chúng ta biết chính xác cháu là ai, Pendragon. Chúng ta đang chờ cháu.

Oa! Bà ta biết mình là ai! Đầu óc mình rối tung, nhưng một thắc mắc đặt biệt chợt lóe lên: nếu họ biết mình là ai, sao cô nàng chiến binh rừng xanh kia lại định phang vỡ sọ mình? Tốt hơn là đừng hỏi. Chọc vào Loor, chắc cô ta lại sẵn sàng giơ cao cây gậy lên ngay. Mình chỉ hỏi:

-Sao bà lai biết cháu?

-Từ Press, dĩ nhiên rồi. Ông ấy kể nhiều chuyện về cháu.

Đúng rồi, mình nhớ đã gặp bà ta tại đâu rồi. Cậu Press đã đưa bà ta tới nhà mình một lần. Mình nhớ đã nghĩ bà ta đẹp làm sao và lấy làm lạ vì bà ta đã im thin thít thế nào. Bí ẩn đã sáng tỏ: bà ta là bạn cậu Press. Điều này làm mình chợt nhớ tới ông. Ôi trời, mình suýt quên: lúc này ông mới là người đang thật sự nguy khốn. Những hiệp sĩ đã quăng thòng lọng, kéo cậu Press đi chẳng có vẻ gì là đồng đội của ông hết. Xương sống lạnh buốt, mình ngồi bật dậy, la lên:

-Cậu ấy đang gặp nguy hiểm!

Một hành động tệ hại! Không vì tiếng gào, mà vì ngồi dậy quá đột ngột. Thân hình mình bầm dập thâm tím do cú va chạm xe trượt trong rừng. Mình đau đớn như vừa bị cây gậy của Loor đập cho nhừ tử. Không hiểu sao trước đó mình đã không nhận ra cơn đau khủng khiếp này. Cảm giác như xương sườn gãy ráo. Đau dữ dội đến không thở nổi. Hai chân rã rời, mình phải nằm lại xuống, nếu không mình có thể sẽ bị ngất đi. Bà Osa vội vàng ôm mình và nhẹ nhàng đặt mình nằm xuống. Giong dỗ dành, bà nói:

-Không sao đâu, sẽ hết ngay thôi mà.

Sao bà biết? Trừ khi bà ta biết mình sắp chết. Chỉ cái chết cấp kì mới làm mình hết đau ngay. Nhưng điều xảy ra sau đó mới đáng kinh ngạc. Mình nằm đó, thở nhè nhẹ, vì thở mạnh làm mình càng đau đớn hơn. Bà Osa dịu dàng đặt bàn tay lên ngực mình. Bà ta nhìn sâu vào mắt mình, thế rồi - Mark, mình thề không nói láo đâu, toàn thân mình dường như tan loãng ra. Sự căng thẳng, sợ hãi hoàn toàn biến mất. Bà nói nhỏ:

-Nghỉ ngơi đi. Hãy thở nhẹ nhàng thôi.

Mình làm theo. Tim mình không còn đập thình thình nữa và mình đã có thể thở sâu trở lại. Nhưng điều lạ lùng nhất là cơn đau nhức cũng biến luôn. Mới một giây trước, mình đau đến mức ngay cả kêu rên cũng không nổi. Bây giờ hoàn toàn chẳng đau đớn gì.

Bà Osa lấy tay ra khỏi ngực mình, rồi ngửng nhìn phản ứng của Loor. Loor quay đi.  Chuyện này không gây ấn tượng gì cho cô ta, nhưng mình thì có. Chắc đây là phép lạ. Ngồi dậy rờ nắn xương sườn, mình hỏi:

-Sao bà làm được vậy?

-Làm gì?

Bà thản nhiên hỏi, mình la lên:

-Bà đùa sao? Xương sườn cháu đau tưởng chết đi đươc, bà chạm tay vào, hấp, không còn đau đớn gì nữa.

Bà Osa đứng dậy, đáp:

-Có lẽ cháu không quá đau như cháu tưởng đâu.

-Tưởng à? Cháu biết đau là gì chứ, nhất là cái đau của chính mình.

Lúc đó Loor mới lên tiếng, giọng cô ta đầy vẻ khó chịu:

-Mất thì giờ quá. Press đang bị Kagan giam giữ đó.

Mình không ưa thái độ đó của cô ta. Nhưng cô ta có lí. Mình hỏi:

-Kagan là ai?

Bà Osa bảo:

-Còn rất nhiều điều  cháu cần phải học hỏi. Press đã bắt đầu dạy cháu, nhưng cho đến khi ông ấy trở lại, công việc đó sẽ thuộc về ta. Theo ta.

Bà bước lại lỗ hổng trên tường (tức là cái cửa), đứng bên con gái. Hai mẹ con nhìn mình, dấu hiệu bảo mình đi theo. Mình đứng dậy, sẵn sàng chờ đợi mấy cái xương sườn đau lại. Nhưng không có gì. Ngạc nhiên chưa? Mình nhìn Loor xem cô ta có định tấn công nữa không. Cũng không có gì. Tình hình mỗi lúc mỗi khả quan hơn.Mình hỏi:

-Liệu chúng ta có tìm được cậu Press không?

Bà Osa trả lời:

-Chúng ta sẽ làm việc đó. Nhưng trước hết cháu cần phải tìm hiểu về Denduron đã.

Denrudon. Đúng. Mình đang ở Denrudon. Cho đến lúc này chẳng có gì mình có thể ưa tại Denrudon, và mình không thể tưởng tượng có bất kì thứ gì khác nữa có thể làm mình ưa nổi nơi này. Nhưng đâu có quyền chọn lựa, mình đành đi theo họ. Nhưng mới được hai bước, mình nhớ ra một điều, rất quan trọng:

-À…ừ…cháu có thể đi đâu..để…nghĩa là cháu…cần…

-Trút bầu tâm sự trong kia kìa.

Loor lạnh lùng nói, tay chỉ vào góc phòng nhỏ, ngăn bằng một vách gỗ.

-Tuyệt vời. Cám ơn.

Chạy vội vào sau tấm vách, nhìn quanh, mình đã học được hai điều. Một là, những người này không có phòng vệ sinh trong nhà. Tất cả chỉ là một cái hố, được bao quanh bằng mấy cục đá. Hai là, bí mật về cái mùi khó ngửi ở đây đã được giải đáp. Mình nghĩ những người ở đâu không hề biết rằng, “đi ngoài” kiểu này là phải có một chỗ nằm “ngoài” ngôi nhà. Trời đất! Mùi hôi thối cứ như có một con voi bị tiêu chảy vừa ra khỏi đây. Nhưng đây đâu phải nhà mình, mà mình thì muốn tè ra quần rồi. Vậy là mình phải nín thở và mất năm phút mới cởi được bộ đồ da mắc dịch. Chắc chắn người ở đây chưa phát minh ra dây kéo. Lúc đó mình mới phát hiện ra lớp quần áo lót lông thú mình mặc bên trong không còn nữa. Chắc khi mình hôn mê đã có kẻ lột mất rồi. Cũng may, vì nếu phải cởi thêm lớp quần áo nữa, bảo đảm mình đã tè dầm.

Xong xuôi, mình vội chạy xuyên qua căn liều đá, đuổi theo họ. Không biết mình sẽ thấy gì bên ngoài lều đá này, nhưng dù là gì thì chắc cũng là một ngạc nhiên. Vừa bước ra ngoài, mình đứng phắt lại, nín thở. Mình vừa bước vào một thế giới khác. Một thế giới không giống tý nào với những gì mình đã thấy trước đây. Lều đá mình vừa bước ra nằm giữa một ngôi làng toàn lều đá. Những căn lều đều giống nhau, với tường đá, mái bằng cành cây và rơm. Không có chút trang trí nào để có thể phân biệt lều này với lều khác. Vài lều có khói cuộn lên từ những ống khói bằng đá, chứng tỏ trong nhà đang nấu ăn hay đốt lửa sưởi ấm. Đường cái và lối đi ngoằn ngoèo nhỏ hẹp giữa những ngôi lều thì dơ dáy và lồi lõm. Chẳng sao hết! Ở đây làm gì có ô tô hay những phương tiện giao thông cơ khí. Tất cả những ngôi lều được dựng quanh một bãi cỏ lớn giống như một quãng trường thị trấn, chính giữa bãi cỏ có một khán đài hình tròn, đường kính chừng ba mét. Chân khán đài được xây bằng đá giống như những ngôi lều, mặt sàn khán đài làm bằng những khúc gỗ kết vào nhau. Cách sắp đặt làm mình nhớ đến những thị trấn có một khu hòa nhạc và biểu diễn giữa công viên. Nhưng khán đài thị trống trơn: Hôm nay không có buổi biểu diễn nào.

Ngôi làng nhộn nhịp với những con người đang làm những công việc như bất kì ai sống trong một ngôi làng như thế này. Họ hối hả đi lại, có người xách giỏ đồ ăn, người khác lùa bầy dê… Họ đều mặc áo quần bằng những da thú như mình đang mặc, vậy nên dù mình cảm thấy lạc lõng, nhưng có lẽ trông mình không có vẻ xa lạ. Người có vẻ xa lạ chính là bà Osa và Loor. Như mình đã tả hai mẹ con bà ta: cao lớn, da đen và trông như vận động viên điền kinh. Tại làng này không có người da màu. Suốt đời mình chưa thất ai trắng nhợt như người làng Denduron. Cứ như cả đời họ không bao giờ nhìn thấy ánh nắng. Điều kì lạ là lúc đó mình thấy ba mặt trời trên đỉnh núi mà trời vẫn u ám. Nhưng mặt trời ở đây không làm da người ta rám nắng sao? Hay trời ở đây luôn âm u như ở Seattle? (Seattle: thành phố lớn nhất của bang Washington (Mỹ) nổi tiếng với tên gọi “Thành phố mưa” (Rainy City) vì ở đây hầu như trời mưa quanh năm. Thậm chí nếu không mưa thì trời lúc nào trông cũng âm u như sắp mưa).  Dù với lí do nào thì rõ ràng đúng như bà Osa đã nói, mẹ con bà không phải là người Denduron.

Ngôi làng tách ra từ một khu rừng. Nhìn hướng này, qua khỏi những căn lều, là cánh đồng mênh mông, nhiều người đang cày cấy. Nhìn hướng ngược lại, là rặng núi mà mình và cậu Press đã chạy trốn bây quig bằng xe trượt. Các hướng khác chẳng có gì ngoài rừng. Không cần phải là một nhà nhân chủng học, chỉ cần nhìn thoáng ngôi làng, mình nghĩ ngay tới những cuốn phim và sách về châu Âu thời trung cổ, chỉ thiếu mấy lâu đài đồ sộ hiên ra.

Mẹ con bà Osa để mình đứng tại đó một lúc để ghi nhớ cảnh chung quanh. Khi mình định bước tới nhập bọn với mẹ con họ, thì thình lình bị kéo quay ngược về sau:

-Ogga ta vaan burr sa!

Đó là một gã nhỏ con, tóc dài bù rối, một mắt bịt kín bằng một miếng da và một cái cười khoe hàm răng rụng gần hết. Mỗi ngón tay là một cái nhẫn khác nhau, trong như được tết bằng dây. Mười ngón mười nhẫn. Gã nhỏ con dơ dáy này hẳn là rất khoái đồ trang sức.Mình chẳng hiểu hắn muốn nói gì, cho đến khi hắn dí một vật đầy lông vào mình. Mình nhảy lùi lại, nhưng nhận ra đó chỉ là một cái áo len, giống như một chiếc áo khoác.

-Ogga ta vaan.

Hắn lại cười nói và đưa cho mình cái áo. Mình thấy hắn vô hại và muốn nhận cái áo. Có lẽ là một phong tục chào mừng của địa phương. Trời lạnh như cắt, cái áo da mình đang mặc chẳng thấm tháp gì. Vì vậy mình mỉm cười vui vẻ đưa tay ra… Nhưng chưa kịp cầm, gã nhỏ con giật tay lại, xòe tay kia ra, vẽ vẽ mấy ngón tay. Phải, hắn đang làm một dấu hiệu toàn cầu: “Tiền trao cháo múc”. Gã nhỏ con kì cục này muốn bán cái áo.

Bà Osa chen vào, đứng giữa mình và hắn:

-Figgis, để anh ta yên.

-Mab abba kan forbay.

Hắn ta hồn  nhiên nói. Ít ra là mình nghĩ hắn hồn nhiên, vì ngôn ngữ của hắn mình đâu hiểu gì. Bà Osa nhìn hắn, nói:

-Anh ta mới đến đây, đi chỗ khác bán hàng của mi đi .

Thì ra hắn là một tay buôn bán. Thất vọng ra mặt, gã nhỏ con bước đi, nhưng vẫn cố quay lại với nụ cười láu cá, răng cỏ cái mất cái còn .Gã móc từ trong áo ra quả táo đỏ bóng lưỡng, cố dụ dỗ mình. Bà Osa ra lệnh:

-Xéo.

Figgis càu nhàu mấy câu rồi chạy đi. Osa nói:

-Nếu có thể, Figgis bán cả hơi thở của nó. Người ta bảo, nó phải che mắt vì đã bán một con mắt cho người mù.

Trời. Thật là một hình ảnh kinh tởm. Mình hỏi:

-Osa, bà từ trái đất đến, đúng không?

Bà cười ha hả, nhìn Loor để cùng chia sẻ điều khôi hài mà mình không hiểu nổi. Loor không hề cười đáp lại. Lạ lùng không? Bà Osa hỏi:

-Vì sao cháu lại nghĩ vậy?

-Bà biết tiếng Anh.

-Cháu lầm rồi, Pendragon. Ta không biết một câu tiếng Anh nào. Đi thôi.

Bà ta bỏ mình đứng ngẩn ngơ, cùng Loor bước đi tiếp.

Cái gì kì vây? Mình có thể lầm, nhưng rõ ràng chúng mình đang nói tiếng Anh với nhau mà. Ngoài vài giờ học tiếng Tây Ban Nha, mình chỉ biết tiếng Anh. Bó tay. Cứ mỗi khi tưởng đã nắm bắt được một sự việc, đùng một cái, mình lại bị chới với. Đành phải làm quen với tình trạng này thôi.

Mình chạy vội cho kịp hai mẹ con đang sải bước những bước dài về phía trước và để đảm sao cho bà Osa đi giữa mình và Loor. Mình mến bà Osa, nhưng không tin tưởng cô con gái. Mắt cô ta cứ như luôn ném cho mình câu nói: “Có mi chỉ thêm chật đất”. Đôi mắt lạnh tanh khủng khiếp. Tốt nhất là tránh xa cô ta ra. Mình bảo với bà Osa:

-Cháu vẫn không hiểu. Bà nói tiếng Anh, sao lại bảo không biết tiếng Anh?

-Ta không nói tiếng Anh. Chỉ có cháu nói tiếng Anh. Ta nói ngôn ngữ Zadaa của lãnh địa quê ta.

-Cháu thấy giống tiếng Anh.

-Tất nhiên, vì cháu là một Lữ khách.

Càng nghe càng thêm rối.

-Vậy là, bà nói Lữ khách hiểu tất cả mọi ngôn ngữ?

Câu hỏi hợp lí, đúng không? Nhưng câu trả lời của bà ta chẳng hợp lí tí ti nào:

-Không. Lữ khách nghe tất cả các ngôn ngữ như chính tiếng mẹ đẻ của họ. Khi họ nói, dù họ nói bằng ngôn ngữ nào, những người khác đều có thể hiểu.

Tuyệt! Nếu đúng là vậy, mình sẽ vọt cao hạng C trong môn tiếng Tây Ban Nha. Tuy nhiên vẫn còn có một diều chưa ổn.

-Nhưng… sao cháu nghe gã bán hàng Figgis chỉ toàn… xì xà xì xồ?

Thình lình Loor nhảy phóc tới trước mặt. Mình phải “thắng gấp” lại nếu không sẽ bước thẳng vào mặt cô ta mất. Vậy thì đau lắm. Cô ta nạt nộ, giọng thách thức:

-Là vì có lẽ mi không phải là một Lữ khách.

A! Mọi chuyện được sáng tỏ. Cô ta không tin mình là… mình. Đó là lí do cô ta luôn hậm hực, kiếm chuyện với mình. Không sao, vì chính mình chẳng biết thật sự mình… phải là ai, nên đâu thể nói gì để thuyết phục cô ta rằng mình là mình, hay mình chính là cái người mà người đó là… mình, hay… Mark, cậu hiểu ý mình chứ?

Một lần nữa bà Osa lại giải cứu mình:

-Lí do cháu không hiểu Figgis nói gì là vì cháu chưa học được cách nghe. Cháu hiểu chúng ta, Vì chúng ta cũng là một Lữ khách.Nhưng Figgis thì không. Cháu phải học nghe, mà không cố lắng nghe.

Là sao? Nghe mà không lắng nghe? Hiểu chết liền! Loor sôi nổi nói với mẹ:

-Làm sao hắn ta có thể là một Lữ khách được chứ? Chỉ là một đứa trẻ mềm yếu, nhút nhát. Hắn sẽ chẳng làm nên trò trống gì, chỉ gây thêm tai họa.

Chảnh dễ sợ chưa? Nhưng chẳng may là cô ta nói rất đúng. Mình vừa mềm yếu vừa nhát như thỏ đế. Có lẽ mình chẳng là Lữ khách lữ khiếc gì ráo. Nói thật, nếu biết rõ mình không là Lữ khách mình sẽ mừng hết lớn luôn, cho dù có đứng hạng bét trong lớp Tây Ban Nha cũng được. Mình khấp khởi hi vọng tất cả vụ này chỉ là lầm lẫn, và họ sẽ tống mình về nhà.

Bà Osa nhìn mình bằng đôi mắt đen đầy hiểu biết, Nhưng lại nói với Loor:

-Không đâu, Pendragon chính là một lữ khách. Nhưng nó còn nhiều điều phải học.

Quay lại con gái, bà tiếp:

-Và… hình như con quên là… chính con cũng là một đứa trẻ?

Loor giận dỗi ra mặt. mình có cảm giác cô nàng không thích bị chỉ trích. Bà Osa nói với mình:

-Rồi cháu sẽ thấy, không phải lúc nào nó cũng giận dỗi vậy đâu.

-Ồ, không sao. Miễn là cô ấy đừng nổi sùng với cháu.

Bà Osa tủm tỉm cười tiếp tục bước đi. Mình đi sát bên nghe bà kể về Denduron:

-Những người sống trong làng này thuộc bộ lạc Milago. Cháu thấy đó, họ sống rất đạm bạc. Họ tự trồng cấy tất cả lương thực và sống êm dềm với những bộ lạc khác tại Denduron.

Milago. Cậu Press đã nói đến từ này trước khi những gã hiệp sĩ kia xuất hiện. Cậu bảo họ sẽ tìm để giúp, vì vậy mình đoán đây là những người tốt.

-Những tên trông giống như hiệp sĩ đã tấn công cậu Press có phải là Milago không?

-Không, đó là điều ta muốn nói cho cháu biết.

Theo con đường mòn trong rừng chừng một phần tư dặm, hai mẹ con bà Osa và mình ra khỏi rừng, tiến vào một mảng trống. Và một lần nữa mình lại bị sửng sờ vì cảnh hiện ra trước mắt. Mark, có nhớ là mình đã bảo ngôi làng trang cổ này chỉ duy nhất thiếu một điều là một lâu đài vươn cao khỏi nó? A, hóa ra có một lâu đài cổ, to lớn, nhưng không hề vươn cao khỏi ngôi làng.

Đây là những gì mình thấy: khi ra khỏi đường mòn, bọn mình tới một cánh đồng cỏ rộng lớn và tiếp tục băng qua hết đồng cỏ, cho tới khi gặp một dốc đứng. Dưới dốc là nước. Đúng vậy. Bọn mình đang ở trên bờ một đại dương mênh mông, xanh ngắt như Đại Tây Dương. Bên phải mình là biển, và mình nhìn xuống: bờ biển gồ ghề, lởm chởm với những dốc đá dựng đứng.Mình nhận ra bờ dốc bọn mình đang đứng thật sự là một bờ vịnh. Tít bên dưới, sóng biển thi nhau vỗ vào vách đá. Nơi mình đứng quá cao so với mặt nước, nên khi nhìn xuống sâu nữa, hai tay mình đầm đìa mồ hôi. Mình vốn không chịu nổi độ cao mà. Mình ngước lên nhìn dốc đứng cuối vịnh và thấy đất trên đỉnh phủ cỏ xanh tươi, phất phơ trong gió biển. Rồi điều mình thấy phía dưới đỉnh dốc  phủ cỏ đó làm mình nín thở.

Ngay trên bề mặt của vực là một thành lũy đồ sộ, trông như được đẻo ra từ núi đá. Mình có thể thấy nhiều lớp hành lang bằng đá và những hiệp sĩ, giống những gã đã tấn công cậu Press, đang trực gác. Chúng đi tới đi lui với cây giáo “chết người” trên vai. Mình không biết rõ chúng đề phòng gì. Chắc là đám ngư tặc.

Mình đếm được năm lớp hành lang. Như vậy thành lũy này lớn đấy chứ. Hình như đoán được thắc mắc của mình, bà Osa lên tiếng:

-Cháu chỉ mới thấy bên ngoài thành thôi. Thành này được xây sâu vào lòng dốc đá. Trong đó có cả một ngôi làng.

Những gì mình thấy cho tới lúc này là người ở đây không hề có công cụ xây dựng nặng, như vậy là thành lũy này chắc chắn đã được đẽo, đục bằng tay. Với những công cụ thô sơ, phải cần mấy thế kỷ mới có thể dựng được một lâu đài đồ sộ như thế. Bà Osa tiếp:

-Tại đây luôn có hai bộ lạc. Milago làm ruộng. Trách nhiệm của Bedoowan là quân sự và cai trị. Trước kia đã xảy ra một cuộc chiến giữa nhiều bộ lạc tại Denduron. Bedoowan bảo vệ cho Milago khỏi bị cướp bóc. Đáp lại, Milago cung cấp lương thực cho họ. Hai bộ lạc lệ thuộc vào nhau, sống hòa hợp trong mấy thế kỉ. Nhưng Bedoowan rất hùng mạnh, và sức mạnh có thể dẫn đến kiêu căng. Họ không cho phép người Milago lấy người Bedoowan, thậm chí không được cả kết bạn với nhau. Tình trạng kéo dài như vậy, dẫn đến người Bedoowan bắt đầu coi người Milago như nô lệ của họ.

-Nhưng họ vẫn bảo vệ người Milago?

-Nhiều năm rồi, không có cuộc xâm lược nào. Sự cần thiết được bảo vệ không tồn tại nữa.

-Vậy, người Milago vẫn cứ quần quật đủ việc, còn người Bedoowan … Làm gì?

-Đó là một câu hỏi rất hay. Bedoowan được cai trị bỏi một hoàng gia, với thể chế ngai vàng được truyền cho người con cả. Đã có lần, một quân vương Bedoowan muốn phá vỡ rào cản giữa hai bộ lạc, và cho phép việc hai bộ lạc sáp nhập làm một. Nhưng vị vua này qua đời và người con cả lên ngôi. Nhiều người tin rằng vua cha đã bị những kẻ không muốn mất địa vị tối thượng của Bedoowan ám sát.

-Để cháu đoán thử. Vị vua mới không muốn dẹp bỏ chế độ nô lệ và vẫn muốn tách biệt hai bộ lạc?

-Đúng vậy. Thậm chí người Milago khiếp sợ tới nỗi không dám nói tới cái tên… Kagan.

Lại là cái tên đó. Mình dần dần bắt đầu hiểu ra sự việc, nhưng chẳng thích thú điều đó chút nào. Mình nói tiếp:

-Những hiệp sĩ tấn công cậu Press đã tưởng cậu ấy là gián điệp do thám Kagan. Nhưng cậu Press giả bộ như là một thợ mỏ. Ở đây có mỏ sao?

Bà Osa buông một tiếng thở dài buồn rầu:

-Phải. Đó là phần tệ hại nhất trong chuyện này.

Sự việc trở nên tệ hại hơn, hay ghê chưa! Mình rất muốn được nghe. Nhưng ngay lúc đó có tiếng trống dồn dập vọng tới từ hướng làng Milago. Loor chạy lên, hổn hển nói:

-Chuyển giao rồi. Mau.

Bà Osa nhìn mình lo lắng:

-Hãy ở sát bên ta, đừng để chúng nhìn thấy.

Nói xong, bà ta chạy theo Loor. Mình đã kể rồi mà, hai mẹ con họ là vận động viên. Nhưng họ chạy nhanh cỡ nào mình cũng ráng rượt theo, bám sát bà Osa trên con đường mòn trở lại làng Milago. May mắn là chỉ không tới nửa dặm, nếu không chắc mình ná thở luôn.

Tới làng, mình thấy mọi người đang đổ dồn về khu trung tâm với khán đài lớn ngay chính giữa. Chắc sắp có màn biểu diễn. Từ cánh đồng đổ về, từ trong lều ùa ra, mọi người bỏ hết công việc đang làm, tụ tập quanh khán đài.

Mình háo hức định hòa vào đám đông, bà Osa bỗng nắm tay, kéo mình ra hướng khác. Ba người leo lên một mái chòi đá. Tại  đây, nhìn xuống cuộc biểu diễn rất rõ. Osa cảnh giác:

-Không được để chúng thấy. Chúng ta không dự phần trong vụ này.

Dù là chuyện gì cũng không quan trọng, bọn mình có được điểm ngắm lý tưởng rồi. Vì vậy mình yên tâm chờ đợi và tự hỏi không biết họ trình diễn gì. Chắc là âm nhạc Milago hoặc mấy màn trình diễn kiểu như của học sinh.

Nhìn xuống, mình thấy dân làng Milago tập hợp thành một vòng tròn rộng lớn quanh khán đài trung tâm. Khán đài cũng không còn trống trơn nữa, mà trên đó có một dụng cụ thô kệch, trông như cái cầu bập bênh. Một đầu có một cái ghế, đầu kia là một giỏ cần-xế lớn. Đứng trên khán đài, gần dụng cụ giống cái bập bênh đó, là một hiệp sĩ của Kagan đang gõ trống.

Mình hy vọng gã này đánh trống để kêu gọi dân làng thôi, vì nếu cả buổi trình diễn chỉ có mỗi màn này thì chán chết. Tiếng trống thùng thùng vang dội khắp ngôi làng, nhịp trống loạn xà ngầu. Đứng kế bên khán đài còn có sáu tay hiệp sĩ nữa. Chúng đứng nghiêm, mỗi tên chống trước mặt thanh giáo gớm ghiếc. Dân làng Milago giữ một khoảng cách xa với chúng. Mình cũng sẽ làm vậy thôi. Trông chúng chẳng có chút thân thiện nào.

Mình chợt nhận ra, không người dân làng nào tỏ vẻ đang đón chờ thời khắc giải trí thoải mái. Không khí không chút phấn khởi trước một sự kiện vui vẻ. Không một tiếng cười nói, chuyện trò, đùa giỡn. Ngoài tiếng trống, tất cả đều câm lặng. Trên khuôn mặt những con người này, chỉ có ánh nhìn sợ hãi.

Bà Osa bỗng vỗ vai mình, rồi chỉ về cuối bãi đất trống. Mình thấy bốn dân làng Milago đang chậm chạp tiến tới đám đông. Họ đều là đàn ông, đất cát lấm lem từ đầu tới ngón chân. Chẳng dân làng Milago nào có thân hình cân đối đẹp đẽ lắm đâu, nhưng quả thật bốn người này khá là xương xẩu. Đất đen đúng là đối chọi với màu da trắng như thạch cao của họ. Họ khệ nệ vác một cái giỏ lớn, chất đầy đá đủ kích cỡ. Có những hòn lớn như trái banh bowling, có hòn nhỏ hơn. Nhưng điều đặc biệt là chúng đều màu xanh lơ. Ý mình là sáng long lanh như ngọc vậy. Chưa bao giờ mình thấy một thứ đá lạ lùng như thế.

Bà Osa thì thầm:

-Đá này được gọi là “minh thạch”, một thứ đá sáng bóng. Khắp vùng này đều có mỏ loại đá quí đó. Dân Milago khai thác mỏ cả ngày lẫn đêm.

-Chắc nó có giá trị lắm.

-Rất có giá trị. Minh thạch là nguyên nhân trước hết vì sao Kagan muốn kiểm soát Milago. Nhờ minh thạch mà Bedoowan trở nên giàu có. Họ buôn bán với tất cả con buôn tại Denduron. Chừng nào Milago còn khai thác được những mỏ minh thạch, Kagan vẫn còn là một chúa tể hùng mạnh.

Như vậy, Kagan và bộ lạc Bedoowan không chỉ là những con bò lười biếng, chúng còn là những con bò tham tàn, ép buộc bộ lạc Milago làm thay cho chúng những công việc cực nhọc, bẩn thỉu. Hơi bị khôn. Mình vừa định hỏi thêm, nhưng tiếng trống bỗng ngưng bặt và một sự im lặng đầy vẻ đe dọa trùm phủ khắp làng.

Bốn người thợ mỏ khệ nệ vác bốn giỏ minh thạch lên khán đài, rồi thận trọng đặt xuống. Không khí chứng tỏ buổi lễ sắp bắt đầu. Buổi “Chuyển giao” như lời Loor nói.

Đúng lúc đó mình nghe tiếng vó ngựa. Có người đang phóng nhanh tới từ hướng con đường mòn xuyên rừng mà mẹ con bà Osa và mình mới từ đó đi ra biển. Điều lạ lùng là không một ai quay lại nhìn, ngoại trừ mình.

Khi con ngựa phóng từ trong rừng ra, mình thấy gã kỵ sĩ có vẻ rất tự tin, như biết trước việc phải làm. Đó là một gã cao lớn, tóc đen dài, mặc bộ giáp da giống như của mấy gã hiệp sĩ, nhưng có vẻ hiếm khi lâm trận. Giáp của mấy gã kia nhàu nát, còn giáp của tay kỵ sĩ này sạch bong, thẳng thớm. Khi hắn cho ngựa phi nước kiệu về phía đám đông dân làng, họ dạt sang hai bên, nhường lối cho hắn tiến tới khán đài. Mình nghĩ, nếu dân làng đứng yên, gã này dám phóng ngựa xới tung mọi người lên lắm. Chưa gì mình đã thấy ghét thằng cha này. Mình thì thầm hỏi:

-Có phải Kagan đó không?

Mẹ con bà Osa trao đổi cái nhìn đầy ẩn ý, như có điều gì đang xảy ra mà họ không muốn cho mình biết. Mình không thích lối nhìn nhau của hai mẹ con họ chút nào. Nhưng bà ta cũng trả lời mình:

-Đó là Mallos, quân sư của Kagan. Mallos, Kagan, Osa, Loor, Figgis…

Toàn những cái tên cụt ngủn. Chẳng lẽ ở đây chỉ có mình là kẻ duy nhất đủ họ tên đàng hoàng. Cái gã Mallos đó phóng ngựa thẳng lên khán đài và dừng lại. Mình đoán buổi trình diễn sắp bắt đầu. Hắn ngồi trên ngựa, lướt nhìn đám đông bên dưới cứ như hắn là chủ nhân của họ. Không người Milago nào nhìn lại hắn. Tất cả đều cúi đầu, tránh ánh mắt của Mallos. Chẳng phải thiên tài cũng có thể đoán là họ kiếp sợ hắn. Bỗng Mallos trở mình trên yên, ngửng nhìn lên chỗ bọn mình đang núp trên mái chòi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

 Tác giả| Đăng lúc 23-12-2012 22:39:39 | Xem tất
Chương 7 (Tiếp theo)
NHẬT KÍ #2
DENDURON


Loor gằn giọng thì thầm:

-Rạp mình xuống.

Ai nấy cố ép mình sát mái. Nhưng mình vẫn có thể nhìn thấy Mallos. Trong khi con ngựa hất rung bụi đất, hắn vẫn lặng lẽ ngồi trên yên, nhìn về phía bọn mình, cứ như biết bọn mình đang ở đó. Không thể nào. Không cách nào hắn nhìn thấy bọn mình được.

Rồi, khi nhìn lại hắn, mình giật thót người. Kinh ngạc đến nghẹn thở. Mình nghĩ đó là do đôi mắt của hắn. Dù hắn cách xa mình đến như vậy, mình vẫn nhận ra đôi mắt xanh lạnh lẽo đó. Làm sao có thể quên được?

Bà Osa và Loor đều cảm thấy sự ngạc nhiên của mình và nhìn mình dò hỏi. Mình nói nhỏ:

-Saint Dane.

Loor giật mình hỏi:

-Mi biết hắn sao?

-Biết. Hắn đã cố ý giết tôi khi còn ở trái đất, trước khi tôi theo ống dẫn tới đây.

Chính mình cũng không tin những lời vừa thốt ra. Biết bao điều đang xảy ra trong câu nói ngắn ngủi đó. Mới hai mươi bốn giờ trước thì chuyện đó nghe như chuyện hoang đường, nhưng ngay lúc này đây thì chẳng hoang đường chút nào. Bà Osa và Loor lại trao cho nhau cái nhìn lo lắng.

Rồi Loor thì thào hỏi:

-Hắn theo mi đến Trái Đất Thứ Hai ư?

Mình chỉ nhún vai gật đầu. Cô ta nhìn mình lom lom, ánh mắt hoàn toàn không còn chút miệt thị nào. Trước lúc đó cô ta luôn tỏ ra mình không bằng cỏ rác. Bây giờ cái nhìn của cô … đầy vẻ thắc mắc. Có lẽ lý do mình đối đầu với Saint Dane mà còn sống sót, chứng tỏ mình không quá… nhu nhược như cô ta tưởng. Tất nhiên mình chẳng dại gì cho cô ta biết “hành động đối đầu” của mình là… chỉ biết cắm đầu mà chạy. Ngu sao mà nói!

Nhìn xuống cái gã Saint Dane, hay Mallos, hay bất cứ danh xưng gì hắn tự xưng, mình càng sôi sục muốn… về nhà. Nhưng chuyện đó khó lòng có thể xảy ra. Lúc này mình đang kẹt trên mái chòi này, nhìn xuống thằng cha đã từng cố ý giết mình. Hắn có thấy mình không? Có thúc ngựa xông thẳng tới cái chòi này không? Bọn mình đang kẹt cứng trên mái, chỉ còn biết cố nín thở, nằm im.

Thời gian như kéo dài bất tận, nhưng sau cùng Saint Dane quay đi. Mình nhẹ thở lại. Với một cái ngoắc tay, hắn nói dứt khoát:

-Bắt đầu.

Oa! Saint Dane nói tiếng Anh! Hắn biết tiếng Anh? Hay hắn cũng là một lữ khách nên mình nghe hiểu? Thắc mắc này đành phải chờ, vì sự kiện chính đã bắt đầu. Một trong bốn người thợ mỏ bước tới trước. Đó là một người to lớn và cử chỉ của ông ta cho mình biết ông là cấp chỉ huy. Không biết chuyện gì sắp xảy ra, nhưng con người này dường như không chút vui vẻ với trọng trách đó. Mỗi hành động đều như gượng ép, như bị bắt buộc làm một việc đầy đau khổ.

Bà Osa thì thầm:

-Đó là Rellin. Đội trưởng thợ mỏ.

Lại một cái tên nữa cần phải nhớ. Rellin bước lên khán đài, rồi quay lại đám đông, chỉ tay vào một người. Đám đông rẽ ra, để một người đàn ông bước lên khán đài. Người đàn ông lòng khòng gầy gò đó tiến tới, ngồi lên cái ghế trên một đầu cầu bập bênh. Đầu kia nhẹ hẫng, nên đầu phía anh ta ngồi xà xuống sát mặt sàn khán đài. Rellin ra hiệu cho nhóm thợ mỏ, và ba người đó bắt đầu kéo lê cái giỏ chất đầy minh thạch lên khán đài, đặt gần đầu kia cầu bập bênh. Họ làm gì vậy? Cân trọng lượng anh chàng gầy gò bằng đá sao? Bà Osa cắt nghĩa:

-Mỗi ngày đều có một buổi Chuyển giao. Mallos chọn một  người Milago để quyết định trọng lượng đá phải khai thác ngày hôm sau.

Mình đã nghĩ đúng. Chính xác là họ đang sắp cân đá với người. Cái bập bênh to đùng chính là cái cân. Mấy người thợ mỏ vừa định nhấc mấy hòn đá đầu tiên lên, Mallos bỗng quát lớn.

-Không.

Mấy người thợ mỏ ngừng tay. Tất cả nín thở chờ đợi. Saint Dane quan sát đám đông, rồi chỉ tay, lạnh lùng nói:

-Thằng đó.

Tiếng rì rào bất mãn lan trong đám đông. Hai gã hiệp sĩ thô bạo xô dạt dân làng, túm lấy người đàn ông Saint Dane vừa chỉ. Ông ta to béo hơn anh chàng đầu tiên nhiều. Rellin tỏ ra không ưa qui luật mới thay đổi này. Ông kêu lên:

-Mallos ca!

Với vẻ tức giận, người đội trưởng trách móc một tràng với Mallos. Mình không viết lại đây, vì bạn biết rồi đó, mình không hiểu gì hết ngôn ngữ của ông ta. Nhưng mình cho bạn biết những gì bà Osa đã thông dịch lại: “Mallos đã chọn một đối tượng khác cho lễ Chuyển giao. Rellin bảo như vậy là không công bằng. Ông ta đang năn nỉ Mallos áp dụng sự chọn lựa của chính hắn ngày hôm qua.”

Mình hiểu vì sao. Người đàn ông Mallos mới chọn nặng hơn nhiều. Số đá khai thác đủ cân với người được chọn hôm qua không cách gì cân bằng với người hắn vừa mới chọn. Rellin kêu gọi sự công bằng. Saint Dane không chút nao núng. Hắn nhìn Rellin như nhìn loài sâu bọ. Một tên hiệp sĩ xông tới, dùng cây giáo đập ngang mặt Rellin. Rellin lảo đảo, quay vòng, mắt tóe lửa căm hờn. Gò má ông máu chảy ròng ròng. Mình có thể nói ông ta đã phải nín thở kiềm chế để không nhào vào bóp cổ gã kia. Vậy là khôn ngoan, vì mấy gã hiệp sĩ còn lại đang đứng vây quanh, tay lăm lăm vũ khí sẵn sang nện ông ta nhừ tử.

Saint Dane ra lệnh:

-Nhìn ta đây, Rellin.

Rellin ngước nhìn kẻ thù đang ngồi trên ngựa.

-Là một thần dân trung thành, đáng lẽ mi phải cố gắng phục vụ Kagan hơn cả những gì được giao phó. Có phải  mi muốn nói là giảm thiểu tối đa công việc là điều cần thiết, đúng không?

Giọng cao ngạo của Saint Dane làm mình sôi máu. Rellin trả lời với sự phẫn uất kiềm chế. Bà Osa dịch lại: “Rellin bảo khai thác mỏ đá vô cùng khó khăn và nguy hiểm. Mỗi gờ-ram đã phải trả giá đắt của mồ hôi và máu. Tuy nhiên họ sẽ cố gắng hết mình.”

Saint Dane cười khểnh:

-Để coi.

Với một cái phẩy tay của hắn, một tên hiệp sĩ nhảy lên khán đài, túm lấy anh chàng gầy gò đang ngồi trên một đầu bập bênh, kéo xuống. Hai tên hiệp sĩ khác lôi ông to béo, ấn vào thay thế. Khiếp đảm , ông ta nhìn Rellin cầu cứu, nhưng Rellin đành đứng bất động. Saint Dane lên tiếng:

-Bắt đầu đi.

Mấy người thợ mỏ nhìn Rellin, ông ta nhẹ gật đầu. Không còn lựa chọn nào khác nữa, họ bắt đầu chuyển đá từ giỏ đầu lên đầu bên kia của bập bênh. Mình hỏi bà Osa:

-Chuyện gì xảy ra nếu không đủ trọng lượng?

-Hy vọng là cháu không phải thấy cảnh đó.

Mấy người thợ mỏ hấp tấp đặt đá lên cân, những hòn lớn trước, rồi tới nhưng hòn nhỏ kích cỡ bằng những viên cẩm thạch. Tất cả dân làng đỏ dồn mắt chăm chú vào cái cân. Mình nghĩ không ai còn thở nổi. Vì chính mình cũng vậy. Rồi cầu bập bênh nhuc nhích khi những người thợ mỏ mới chuyển được phân nửa số đá. Rất từ từ, bên kia đầu cân, người đàn ông to béo bắt đầu được nâng lên. Mặt ông ta bắt căng thảng hẳn. Có lẽ rốt cuộc số đá cũng đủ để cân bằng với cơ thể nậng nề của ông. Với niềm hy vọng mới, thợ mỏ sốt sắng tiếp tục chuyển đá lên cân. Người đàn ông nặng nề được nhấc bổng lên không.

Mình thấy cả đám đông như hoàn hồn trở lại. Họ sắp thoát nạn. Ngày hôm nay họ đã khai thác được số đá nhiều hơn, đủ để đáp ứng đòi hỏi của Saint Dane. Chỉ cần them vài viên nhỏ nữa, hai bên đầu sẽ hoàn toàn cân bằng. Nếu đây là một trò chơi xổ số, chắc đám dông đã nhảy nhổm lên reo mừng. Nhưng đây không phải là một trò chơi. Dù mình cảm thấy niềm hân hoan như trút được gánh nặng của họ, nhưng không người nào để lộ ra. Mình chỉ thấy họ âm thầm trao đổi nhau một thoáng cười. Kể cả Rellin cũng có vẻ nhẹ nhõm, dù cố đè nén. Biểu hiện chiến thắng ngay trước mặt Saint Dane không phải là một điều khôn ngoan.

Saint Dane không tỏ phản ứng gì. Mình không thể nói hắn mừng vì thợ mỏ đã khai thác vượt quá sô lượng rất nhiều, hay bực tức vì người Milago đã kịp đáp ứng sự thách thức không công bằng của hắn.

Saint Dane xoay lưng nhảy xuống ngựa, lên khán đài rồi nhìn hai đầu cân bằng của cái bập bênh, nhếch mép cười. Đột nhiên đám đông căng thẳng trở lại. Saint Dane đang làm gì vậy? Hắn nhìn người đàn ông to lớn đang lắc lư trên một đầu cân. Ông ta cúi gằm mặt, tránh ánh mắt hắn. Bước lại gần giỏ đá bên một đầu cân, Saint Dane nói:

-Khá  lắm, Rellin. Tụi bay đã khai thác được số lượng khá lớn…

Bỗng ngừng bặt, hắn cúi xuống giỏ đá. Khắp đám đông, mọi người bắt đầu nắm chặt tay nhau để có thêm sức mạnh. Nhìn vào giỏ đá, Saint Dane lên tiếng:

-Rellin, mi làm ta ngạc nhiên đấy. Trong giỏ có một hòn đá không phải minh thạch ròng.

Rellin xông lên, định chạy lại cái giỏ, nhưng bị hai gã kỵ sĩ giữ lại. Rellin gào lên mấy tiếng với Saint Dane. Vô ích. Lấy ra từ trong giỏ một hòn minh thạch lớn nhất, Saint Dane đưa lên cao. Lập tức, cán cân nghiên về một bên, quăng mạnh người đàn ông nặng nề lên mặt khán đài. Saint Dane tiến lại, di hòn đá sát mặt Rellin, nghiến răng nói:

-Mi quá rõ, Kagan chỉ chấp nhận minh thạch ròng thôi.

Dù không là nhà địa chất học, mình cũng thấy hòn đá đó giống hệt mẻ đá còn lại. Saint Dane lại giở trò thay đổi luật chơi. Với vẻ buồn rầu giả bộ, hắn hỏi:

-Bây giờ mi muốn biết chuyện gì phải xảy ra rồi chứ?

Rõ ràng người đàn ông to lớn cũng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Ông ta lết chân rồi nhảy xuống khỏi khán đài, hòng thoát khỏi đó. Nhưng mấy tên hiệp sĩ đã túm chặt ông ta lại.

Mình hỏi bà Osa:

-Chuyện gì đang xảy ra vậy?

Bà không trả lời, đôi mắt buồn rầu chăm chú theo dõi cảnh tượng trước mặt. Dù sao, mình cũng đoán sắp được thấy câu trả lời, và quay lại nhìn cảnh cuối của vở kịch. Một gã hiệp sĩ vội vàng nắm sợi dây xích nặng nề nối với một đầu khán đài bằng gỗ, kéo mạnh. Nửa sàn khán đài nâng lên như cánh cửa hầm. Bên dưới trông như…không có gì. Khán đài được dựng trên một cái hố khổng lồ.

Vẫn chăm chăm nhìn cảnh tượng đó với ánh mắt buồn rầu, bà Osa nói:

-Đó là đường thông mỏ đầu tiên được đào tại làng Milago này. Hầm khai thác đó thăm thẳm khỏi tầm mắt. Ta e rằng dưới đấy, có rất nhiều bộ xương cô đơn lạnh lẽo.

Đầu óc mình rối bời, không thể tin nổi những gì đang thấy: chúng sắp ném người đàn ông này xuống đường thông mỏ!

-Sao người Milago không có một hành động nào? Họ có cả mấy trăm người, sao không ngăn chuyện này lại?

Trong khi mình lải nhải nói, thì người đàn ông đã bị ấy tên hiệp sĩ kéo gần tới cái miệng hố toang hoác. Ông ta gào lên:

-Bagga! Bagga va por da pey!

Tiếng gào thật khủng khiếp. Không một ai trong đám đông nhúc nhích. Kể cả Rellin. Dường như họ biết là vô ích. Mình nhận thấy kế bên, Loor đưa tay ra sau lưng nắm cây vũ khí bằng gỗ. Nhưng bà Osa nhẹ nhàng đưa tay ngăn con gái:

-Con biết là chưa tới thời điểm mà.

Lúc đầu Loor không buông tay khỏi vũ khí. Mình cảm thấy cô ta rất căng thẳng. Chỉ một cú thúc thôi là cô ta sẽ ở dưới đó, tả xung hữu đột. Nhưng hôm nay chưa phải lúc. Cô nhìn trừng trừng cảnh tượng bên dưới, rồi lỏng tay dần.

Mấy gã vệ sĩ kéo ngưới đàn ông đang gào thét tới trước mặt Saint Dane. Hắn lạnh lung tàn nhẫn nói:

-Nếu không tham ăn tới mập ù như vậy thì đâu đến nỗi phải chết hôm nay.

Nói xong hắn hất đầu với đám hiệp sĩ. Chúng kéo ngay người đàn ông khốn khổ vẫn đang kêu la tới cửa hầm. Ông ta năn nỉ:

-Ca… ca! Magga con dada pey! Maga con dada! Moy fol vợ và hai con! Xin tha cho tôi! Tôi còn phải lo cho vợ con!

Cảnh tượng quá khiếp đảm đến nỗi mình không nhận ra cho tới khi mình… chợt sững người. Mình đã hiểu được ông ta! Rõ ràng là tiếng Anh, nhưng không có lý nào ông ta bất ngờ thay đổi ngôn ngữ? Bà Osa bảo Lữ khách có khả năng nghe được mọi ngôn ngữ, và thình lình mình hiểu người đàn ông này nói gì! Rốt cuộc, có lẽ mình là một Lữ khách thật rồi.

Nhưng sau này mình mới nghĩ tới chuyện đó. Ngay lúc này mình đang chứng kiến giây phut thắt ruột mà mình không bao giờ tưởng tượng nổi. Hai gã hiệp sĩ kéo người đàn ông tới gần miệng hố. Thình lình một người phụ nữ nhảy ra từ đám đông, cố kéo ông ta khỏi mấy tay đao phủ. Nước mắt đàm đìa, bà ta kêu gọi lòng thương xót của chúng. Chắc đó là người vợ. Nhưng nỗ lực đầy can đảm của bà không đi tới đâu. Một tên hiệp sĩ nắm lấy bà, quăng xuống đất. Bà ta nằm trên cỏ nức nở khóc.

Khi bị đẩy tới sát miệng hầm, người đàn ông bỗng ngừng than vãn, rên rỉ. Ông ta không khóc lóc van xin nữa, không vùng vẫy, mà đứng thẳng người. Mark, tin không? Nét mặt ông ta gần như điềm tĩnh. Mấy gã hiệp sĩ không biết phải phản ứng ra sao. Chúng chưa từng gặp kẻ nào bình tĩnh trong khoảnh khắc thê thảm nhất trong cuộc đời như thế này.

Người đàn ông to lớn quay lại, đối diện Saint Dane, rồi bằng giọng mạnh mẽ, dứt khoát, ông nói:

-Điều ân hận duy nhất của tao, là không sống tới ngày được thấy Kagan cũng phải chịu những đau khổ nhục nhằn như chúng tao đã từng phải chịu.

Saint Dane chặc lưỡi, nói:

-Không đứa nào trong chúng mày sống lâu đến thế đâu, vì ngày đó sẽ chẳng bao giờ có.

Rồi hắn nhẹ hất đầu, nhẹ và nhanh đến gần như không thể nhận ra. Hai gã hiệp sĩ xô người đàn ông xấu số xuống hầm. Vợ ông ta rú lên. Nhưng người đàn ông không thốt một lời. Mới một giây ông ta còn đó, giây sau ông ta đã… biến mất! Cầu cho cái chết đến thật nhanh và ông sẽ được tới một thế giới tốt lành hơn cái làng khủng khiếp này.

Gã hiệp sĩ buông sợi xích, sàn gỗ đổ rầm xuống. Saint Dane bước tới Rellin. Rellin nhìn thẳng mắt hắn. Hắn chỉ tay vào người đàn bà đang nức nở:

-Chúng ta sẽ dùng mụ ta cho buổi Chuyển giao ngày mai. Mụ có vẻ nhẹ cân. Sẽ là một ngày nhàn nhã đấy. Hãy cám ơn tấm long ta đã ân cần lo lắng cho các ngươi đi.

Rellin nhìn Saint Dane và một thoáng giây mình đã tưởng ông ta sẽ nhổ nước bọt vào mặt hắn. Nhưng không. Trái lại Rellin nghiến răng nói:

-Cám ơn.

-Không có chi.

Saint Dane nói với một nụ cười. rồi hắn rảo bước tới con ngựa, nhảy lên yên và trước khi phóng đi, một lần nữa hắn nhìn lại phía mình và mẹ con bà Osa đang núp. Thật ra, cứ như hắn đang nhìn thẳng vào mình thì đúng hơn. Mình cảm thấy điều đó. Hắn biết mình đang ở đây. Phải chăng tất cả chuyện này là một màn trình diễn dành cho mình? Saint Dane ha hả cười, thúc ngựa phóng qua đám đông bàng hoàng, trở lại lâu đài Bedoowan.

Đám hiệp sĩ dùng giáo xua mấy người thợ mỏ tới giỏ đá. Họ phải vác số đá quí này tới Kagan. Đó là công việc dành cho kiếp nô lệ của họ. Mấy người thợ mỏ nâng giỏ đá khỏi cầu bập bênh và nặng nề tiến bước tới lâu đài. Dân làng còn lại tản mát dần. Không một tiếng nói thốt ra. Vài người tiến lại an ủi người phụ nữ khốn khổ mới mất chồng, hầu hết nhũng người khác lặng lẽ về nhà. Họ đã từng trải qua chuyện khủng khiếp này, và chắc chắn sẽ còn gặp lại.

Nhưng mình thì không. Mình phẫn nộ đến điên người. Mình vừa chứng kiến một con người bị giết một cách lạnh lùng. Cái  chết còn ghê tởm hơn gã vô gia cư bị Saint Dane thôi miên trong hầm tàu điện ngầm New York. Chuyện đó dễ sợ nhưng dường như không thật. Còn chuyện này quá, quá thật và mình không sao hiểu nổi. Tất cả đã làm mình quá xúc động. Phải, mình chẳng xấu hổ gì khi phải thú thật với bạn, Mark à, rằng mình đã khóc. Nước mắt giận dữ và sợ hãi. Khóc vì buồn thương người đàn ông mình chưa hề quen biết. Và vì gia đình của ông ta. Cóc cần quan tâm mình đang khóc trước mặt Loor hay bất kỳ ai. Mình mất bình tĩnh rồi. Mình gào lên với bà Osa:

-Sao họ không làm gì? Họ có thể đoàn kết lại trước tụi hiệp sĩ. Họ có thể đẩy lùi chúng. Tại sao họ không ngăn chuyện kia lại?

Mình xúc động bao nhiêu, bà Osa bình tĩnh bấy nhiêu:

-Nếu họ làm bất cứ điều gì, Kagan sẽ đưa quân đến trừng phạt ngay. Họ đâu còn chọn lựa nào khác nữa.

Mình nhìn Loor và ngạc nhiên cô cũng tỏ ra rất xúc động. Có lẽ không ồn ào như mình, nhưng vẻ lạnh lùng của cô không còn nữa. Thậm chí mình còn tưởng như thấy mắt cô long lanh ướt. Có lẽ dưới vỏ ngoài gai góc là một con tim nhân ái chăng?

Tuy nhiên mình vẫn không chịu nổi những lời cắt nghĩa của bà Osa. Mình kêu lên:

-Thì đã sao? Họ nên làm gì đó chứ. Nếu không làm gì, thì sẽ không bao giờ chấm dứt được chuyện này.

Bà Osa đặt tay lên vai mình, lập tức mình cảm thấy bình tĩnh lại. Nhưng những lời bà nói sau đó, thật tình mình chẳng muốn nghe chút nào:

-Pendragon, họ sắp hành động đó. Họ sắp tự nắm lấy vận mệnh, nổi lên chống lại Kagan. Đó là lý do vì sao chúng ta có mặt tại đây. Chúng ta sẽ giúp họ. Cháu sẽ giúp họ.

Những lời nói làm mình như bị sét đánh. Cậu Press đã bảo mình là một số người cần cậu cháu mình giúp đỡ, nhưng mình đâu có ngờ cậu nói đến toàn thể một ngôi làng sống dưới sự hà khắc của một đạo quân tàn bạo, lạnh lùng giết người như ngóe. Thật điên rồ. Mình rất thương những con người này, nhưng mình chẳng thể làm gì để giúp họ được. Dù Loor gai góc, khó chịu đến thế nào, mình cũng không ngán, nhưng tụi hiệp sĩ kia là lũ sát nhân. Vả lại, bọn mình chỉ có ba… nếu tính cả cậu Press cũng chỉ là bốn. Làm sao bọn mình có thể chống lại cả một đạo quân? Thật điên rồ! Ngay lúc đó, mình quyết định nếu có dịp là chuồn ngay khỏi đám người nhì nhằng mơ hồ này, quay lại cái ống dẫn kia. Nếu nó đã đưa mình tới đây, chắc phải có cách đưa mình về nhà. Mình sẽ tìm cách thoát khỏi đây và hôn chào vĩnh biệt nơi này, dù cho có cậu Press hay không.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách