Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Người Đưa Tin | Daniel Silva (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
81#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 21:07:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 34
(tiếp theo)

“Mày muốn uống thêm trà không?”

Cô gật đầu.

“Trả lời tao đi, Sarah. Mày có muốn uống thêm trà không?”

“Có, tôi muốn uống thêm trà”.

Muhammad dựa người ra thành ghế và đập tay vào cửa phòng. Cánh cửa mở ra ngay lập tức, Sarah nhìn thấy hai tên đang đứng gác bên ngoài. “Thêm trà”, Muhammad nói với chúng bằng tiếng Anh, sau đó giở sang trang mới trong quyển sổ ghi chép rồi ngước lên nhìn Sarah với khuôn mặt hăm hở và cởi mở. Sarah đưa tay lên chiếc đồng hồ tưởng tượng và cộng thêm mười phút để sống nữa.

Mặc dù Sarah không biết việc này, nhưng nơi thẩm vấn cô là khu Uri có nhiều người theo đạo Thiên Chúa La Mã, ở vùng quên mà người Thụy Sĩ thường hay trìu mến gọi là Khu Trung tâm Thụy Sĩ. Ngôi nhà nằm ở hẻm núi hẹp bị cắt bởi một nhánh của sông Reuss. Chỉ có một con đường vào hẻm núi và một ngôi làng đơn độc nằm xiêu vẹo bên trên. Uzi Navot xem xét nhanh ngôi nhà, sau đó quay lại lái xe xuống hẻm núi. Theo kinh nghiệm của anh, người Thụy Sĩ là một trong những dân tộc thận trọng nhất trên thế giới.

Những kẻ người Arập Xêút đã cố cắt đuôi anh ở Zurich, nhưng Navot đã được chuẩn bị. Anh luôn tin rằng khi theo đuôi một người chuyên nghiệp đang nghĩ mình sẽ bị theo dõi, tốt nhất nên để hắn ta nghĩ rằng thật sự hắn ta đang bị theo dõi - và quan trọng hơn, rằng những biện pháp phòng ngừa của hắn có tác dụng. Navot đã hi sinh ba người theo dõi của mình ở bắc Zurich để khiến hắn tin như vậy. Chính Navot là người đã dõi theo chiếc Mercedes với biển số ngoại giao quẹo vào khu phố Công Nghiệp, và hai mươi phút sau chính Navot đã theo đuôi bọn chúng rời khỏi Zurich.

Nhóm của anh tập hợp lại ở dọc biển Zurichsee và cùng anh theo dõi chiếc xe đi hướng nam với Uri. Thời tiết xấu đã giúp họ có thêm lớp bảo vệ, cũng như bây giờ thời tiết đang giúp Navot khi anh ra khỏi xe nhìn lặng lẽ qua hàng cây dày đặc xuống ngôi nhà ván, với khẩu súng trong bàn tay đang giơ lên. Ba mươi phút sau, sau khi quan sát xong khu đất và các biện pháp an ninh, anh ngồi vào sau tay lái, chạy xe xuống hẻm núi về phía thung lũng sông Reuss. Tới nơi, anh đỗ xe tại bãi đất dọc bờ sông chờ Gabriel từ Zurich sang.

“Ai là sỹ quan chỉ huy mày?”

“Tôi không biết tên anh ta”.

“Tao sẽ hỏi mày thêm lần nữa. Tên sỹ quan chỉ huy của mày là gì?”

“Tôi đã nói với ông, tôi không biết anh ta. Ít nhất là tên thật của anh ta”.

“Mày biết hắn dưới cái tên nào?”

Đừng tiết lộ Gabriel, cô nghĩ. Cô thốt ra cái tên đầu tiên xuất hiện trong đầu.

“Anh ta tự xưng là Ben”.

“Ben à?”

“Vâng, Ben”.

“Mày chắc chứ? Ben?”

“Đó không phải là tên thật của anh ta. Đó chỉ là tên anh ta tự gọi mình”.

“Sao mày biết đó không phải là tên thật của hắn?”

Cô thầm cảm ơn sự chính xác trong câu hỏi của Muhammad, vì việc này sẽ giúp cô cộng thêm vài phút vào chiếc đồng hồ tưởng tượng.

“Vì anh ta bảo với tôi đó không phải là tên thật của anh ta”.

“Mày tin hắn à?”

“Tôi nghĩ mình chẳng có lí do gì không tin anh ta”.

“Mày gặp người đàn ông này khi nào?”

“Lúc đó là tháng 12”.

“Ở đâu?”

“Ở Washington”.

“Thời gian nào trong ngày?”

“Vào buổi tối”.

“Anh ta đến nhà mày. Nơi mày làm việc?”.

“Lúc đó là sau giờ làm. Tôi đang trên đường về nhà”.

“Kể tao nghe mọi việc diễn ra như thế nào, Sarah. Kể tao nghe mọi thứ”.

Và cô làm đúng theo lời hắn, kể từng mẩu một, từng chút một.

“Căn nhà chúng đưa mày tới là ở đâu?”

“Ở Georgetown”.

“Đường nào ở Georgetown?”

“Trời tối lắm. Tôi không nhớ”.

“Đường nào ở Georgetown, Sarah?”

“Đường N, tôi nghĩ thế”.

“Mày nghĩ, hay mày biết?”

“Đó là đường N”.

“Địa chỉ?”

“Không có địa chỉ”.

“Dãy nhà nào?”

“Tôi không nhớ nổi”.

“Nó nằm ở Đông hay Tây đại lộ Winconsin, Sarah?”

“Ông biết Georgetown à?”

“Đông hay Tây?”

“Tây. Chắc chắn là phía Tây”.

“Dãy nhà nào, Sarah?”

“Tôi nghĩ là giữa dãy ba mươi ba và ba mươi tư”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

82#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 21:09:40 | Chỉ xem của tác giả
Chương 34
(tiếp theo)

“Mày nghĩ?”

“Giữa dãy ba mươi ba và ba mươi tư”.

“Phía đường nào?”

“Ý ông là gì?”

“Phía đường nào, Sarah? Bắc hay Nam?”

“Nam. Chắc chắn là phía Nam”.

Vào lúc 2 giờ 45 phút sáng, Navot nhìn thấy chiếc Audi đang chạy với tốc độ nhanh tới mức nguy hiểm, trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt thế này. Khi chiếc xe lao ngang qua làm bắn tuyết và bùn sang hai bên, anh thoáng nhìn thấy khuôn mặt căng thẳng của bốn người đang ngồi trong xe. Anh lấy điện thoại bấm số. “Anh vừa phóng ngang qua mặt tôi”, anh nói bình tĩnh, sau đó nhìn vào gương thấy chiếc Audi cua gấp lại gần như muốn lật. Từ từ thôi, Gabriel, anh nghĩ. Từ từ thôi.

“Người đầu tiên phỏng vấn mày là ai? Người của CIA hay tên Do Thái?”

“Người Mỹ”.

“Họ hỏi mày những điều gì?”

“Chúng tôi nói chung chung về cuộc chiến chống khủng bố”.

“Ví dụ?”

“Ông ta hỏi tôi theo tôi nghĩ cần phải xử lí như thế nào đối với những tên khủng bố. Bọn chúng nên được đưa tới Mỹ để xét xử hay giết tại hiện trường bởi những người mặc đồ đen?”

“Những người mặc đồ đen?”

“Đó là cách ông ta gọi họ”.

“Có nghĩa là Lực lượng Đặc nhiệm? Những tên thuộc đội chuyên ám sát của CIA? Hay SEAL của Hải quân?”

“Tôi nghĩ vậy”.

“Thế mày trả lời hắn như thế nào?”

“Ông thực sự muốn biết à?”

“Nếu không thì tao đã không hỏi”.

Thế là cô kể cho hắn nghe, từng chút một.

Họ đứng thành vòng tròn dọc bờ sông trong khi Navot nhanh chóng thuật lại cho Gabriel tất cả những thông tin anh nắm được.

“Có lính canh nào nữa ở sân không, hay chỉ hai tên ở cổng trước?”

“Tôi không biết”.

“Có bao nhiêu tên bên trong ngôi nhà?”

“Tôi không biết”.

“Cậu có thấy bọn chúng đưa cô ấy vào đâu không?”

“Không”.

“Có xe cộ nào khác chạy trên đường không?”

“Đường này rất ít xe cộ”.

“Thông tin như vậy không đủ, Uzi”.

“Tôi đã làm hết khả năng của mình rồi”.

“Tôi biết”.

“Tôi nghĩ anh có hai phương án, Gabriel ạ. Phương án một: thực hiện một phi vụ khác. Việc này sẽ mất thời gian. Không phải là không có rủi ro. Nếu thấy chúng ta tới, đầu tiên bọn chúng sẽ giết chết Sarah”.

“Phương án hai?”

“Xông thẳng vào. Tôi chọn phương án hai. Chỉ Chúa mới biết Sarah đang phải chịu đựng những gì ở trong đó”.

Gabriel nhìn xuống tuyết suy nghĩ một lúc. “Chúng ta sẽ đột nhập vào ngay bây giờ”, anh quyết định. “Cậu, Mikhail, Yaakov, và tôi”.

“Giải cứu con tin không phải nghề của tôi, Gabriel. Tôi chỉ là người đưa tin”.

“Đây cũng không phải là nghề của Eli, nhưng tôi cần ít nhất bốn người. Moshe và Eli sẽ ngồi đợi trong xe hơi. Khi tôi ra dấu, họ sẽ đến đón chúng ta”.

“Khi nào thì gã người Do Thái đến?”

“Tôi không thể nhớ thời gian đích xác”.

“Khoảng nào?”

“Tôi không nhớ được. Vào khoảng nửa tiếng sau khi tôi đến, như vậy tôi đoán khoảng bảy giờ”.

“Thế hắn xưng mình là Ben à?”

“Không phải ngay lúc đó”.

“Ban đầu hắn dùng tên khác à?”

“Không. Ban đầu anh ta không xưng tên”.

“Tả hắn cho tao nghe thử”.

“Anh ta người khá nhỏ nhắn”.

“Hắn ta mập hay gầy?”

“Gầy”.

“Rất gầy?”

“Anh ta không quá gầy”.

“Có tóc chứ?”

“Vâng”.

“Màu tóc?”

“Màu đen”.

“Ngắn hay dài?”

“Ngắn”.

“Tóc hắn có khúc nào bị muối tiêu không?”

“Không”.

Muhammad bình tĩnh đặt cây bút lên quyển sổ. “Mày đang nói dối tao, Sarah. Nếu mày nói dối tao lần nữa, cuộc chuyện trò của chúng ta sẽ chấm dứt. Bọn tao sẽ dùng cách khác để moi thông tin của mày. Hiểu chưa?”

Cô gật đầu.

“Trả lời tao đi, Sarah”.

“Vâng, tôi hiểu”.

“Tốt”.

“Bây giờ hãy tả chính xác cho tao nghe cái gã Do Thái tự gọi mình là Ben”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

83#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:05:15 | Chỉ xem của tác giả
Chương 35
Bang Uri, Thụy Sĩ

“Hãy quay trở lại mái tóc của hắn. Mày nói hắn tóc ngắn phải không, Sarah? Giống tóc của tao?”

“Dài hơn một chút”.

“Màu đen?”

“Vâng”.

“Nhưng có một vài chỗ muối tiêu, đúng không? Chính xác là hai bên thái dương”.

“Vâng, hai bên thái dương của anh ta tóc muối tiêu”.

“Bây giờ đến đôi mắt. Đôi mắt hắn màu xanh, đúng không? Xanh đến mức bất thường”.

“Mắt anh ta rất xanh”.

“Gã này có tài năng đặc biệt, đúng không?”

“Anh ta có nhiều tài năng”.

“Hắn ta có khả năng phục chế tranh?”

“Vâng”.

“Mày chắc chắn là chưa từng bao giờ nghe tên hắn ta chứ?”

“Tôi nói với ông rồi. Anh ta xưng mình là Ben”.

“Tao biết rồi, nhưng hắn có bao giờ nói về mình với cái tên khác không?”

“Không, không bao giờ”.

“Mày chắc chứ, Sarah?”

“Chắc chắn. Anh ta gọi mình là Ben”.

“Đó không phải là tên thật của bắn, Sarah. Tên của hắn là Gabriel Allon. Hắn ta là kẻ chuyên giết người Palestine. Bây giờ hãy kể tao nghe chuyện gì đã xảy ra sau khi hắn đến căn nhà tại Georgetown”.

Có tấm bảng hiệu tại lối vào con đường dẫn đến ngôi nhà ván. Tấm bảng ghi dòng chữ “CÁ NHÂN”. Cổng an ninh nằm thụt vào 300 métå giữa những hàng cây. Gabriel và Navot di chuyển ở một phía con đường, Mikhail và Yaakov phía bên kia. Tuyết rơi dày đặc dọc rìa con đường dẫn lên hẻm núi, nhưng trong rừng cây thì ít tuyết hơn. Nhìn qua cặp kính hồng ngoại, tuyết ánh lên màu xanh phản quang ma quái trong khi thân những cây thông và linh sam có màu đen nổi bật. Gabriel bò lên phía trước, cẩn thận tránh những cành cây bị rớt xuống có thể tạo thành tiếng rắc dưới sức nặng bước chân anh. Sự im lặng đầy chết chóc bao phủ khu rừng. Gabiel nghe được tiếng tim mình đập thình thịch trong lồng ngực và âm thanh tiếng bước chân của Navot ngay đằng sau. Anh nắm khẩu Beretta bằng cả hai tay - hai bàn tay không đeo găng.

Di chuyển trong rừng được mười lăm phút thì anh nhìn thấy ngôi nhà đầu tiên. Có ánh đèn từ cửa sổ tầng trệt, còn trên lầu hai chỉ có một cánh cửa sổ phản chiếu ánh sáng. Những tên lính gác đang trú lạnh trong một chiếc xe jeep. Động cơ xe đang chạy, nhưng đèn pha xe đã tắt. Cửa đang mở.

“Cậu bắn có tốt không, Mikhail?”

“Được”.

“Tên nào cậu hạ được nhanh nhất từ góc đang đứng?”

“Tên tài xế”.

“Khoảng cách gần 50 bộ, Mikhail. Cậu có thể hạ hắn gọn gàng không?”

“Tôi có thể giết được hắn”.

“Bắn vào đầu, Mikhail. Chúng ta cần hạ bọn chúng thật êm thấm”.

“Tôi làm được”.

“Cậu ngắm đi rồi đợi hiệu lệnh của tôi. Chúng ta sẽ bắn cùng một lúc. Chúa cũng chẳng giúp được chúng ta nếu bắn trượt”.

“Thế là Allon yêu cầu mày giúp hắn?”

“Vâng”.

“Và mày đồng ý?”

“Đúng vậy”.

“Ngay lập tức?”

“Đúng vậy”.

“Không do dự”.

“Không”.

“Tại sao không?”

“Bởi vì bọn mày độc ác. Vì tao ghét bọn mày”.

“Mày cẩn thận cái miệng đấy”.

“Mày muốn nghe sự thật mà”.

“Sau đó chuyện gì xảy ra?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

84#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:06:29 | Chỉ xem của tác giả
Chương 35
(tiếp theo)

“Tao bỏ việc tại bảo tàng Phillips và chuyển đến Luân Đôn”.

Gabriel ngắm kỹ tên đang ngồi ghế sau.

“Cậu sẵn sàng chưa, Mikhail?”

“Sẵn sàng”.

“Bắn hai phát, theo hiệu lệnh của tôi. Năm, bốn, ba, hai…

Gabriel kéo cò súng hai lần. Bốn lỗ thủng xuất hiện gần như ngay lập tức trên cửa kính chiếc xe jeep. Anh lao nước rút dọc con đường xuyên qua lớp tuyết dày đến đầu gối, Navot theo bén gót, rồi tiến về chiếc xe một cách cẩn thận, tay giơ khẩu Beretta. Mikhail bắn được hai phát chết người vào đầu tên tài xế, nhưng gã mà Gabriel bắn chỉ bị trúng vào má và ngực trên nên vẫn chưa chết hẳn.

Gabriel bắn hắn thêm hai phát xuyên qua lớp cửa kính sau xe, sau đó đứng bất động trong giây lát, mắt quét khắp địa hình tìm xem có dấu hiệu nào cho thấy sự hiện diện của họ đã bị lộ không? Chính Navot là người nhìn thấy tên lính gác đang bước ra khỏi rừng cây ở cánh trái ngôi nhà, còn Mikhail là người hạ gục hắn bằng một phát đạn duy nhất vào đầu, khiến máu và óc phụt ra tung tóe trên lớp tuyết trắng trinh nguyên. Gabriel quay người băng qua khu đất trống tiến về phía ngôi nhà, theo sau là ba đồng đội của mình.

“Hãy kể tao nghe về gã Julian Isherwood này”.

“Julian là một người rất ngọt ngào”.

“Hắn ta người người Do Thái à?”

“Tôi chưa bao giờ hỏi nên không biết”.

“Julian Isherwood là điệp viên lâu năm của Cục Tình báo Israel phải không?”

“Tôi không biết”.

“Vậy thì sau khi rời khỏi bảo tàng Phillips, mày đến làm trợ lý giám đốc ngay lập tức cho Julian Isherwwod à?”

“Đúng vậy”.

“Nhưng mày là dân không chuyên. Mày được huấn luyện vào thời gian nào?”

“Vào ban đêm”.

“Ở đâu?”

“Tại ngôi nhà nông thôn phía Nam Luân Đôn”.

“Ngôi nhà nông thôn này nằm ở đâu?”

“Tôi nghĩ là ở Surrey. Tôi chưa bao giờ nhớ được tên ngôi làng”.

“Đó có phải là căn nhà an toàn cố định của bọn Israel không?”

“Một căn nhà thuê. Rất tạm bợ”.

“Có những người khác ngoài Allon chứ?”

“Vâng”.

“Chúng sử dụng những người khác để giúp huấn luyện mày à?”

“Vâng”.

“Cho tao biết tên bọn chúng”.

“Một số người từ Tel Aviv sang, nhưng họ không cho biết tên”.

“Còn những thành viên khác trong đội Luân Đôn của Allon thì sao?”

“Ông muốn biết gì về bọn họ”.

“Cho tao biết tên của bọn chúng”.

“Làm ơn đừng bắt tôi làm điều này”.

“Cho tao biết tên bọn chúng, Sarah”.

“Làm ơn, đừng ép tôi”.

Hắn đánh cô mạnh đến nỗi đẩy cô té ngửa khỏi ghế. Cô khuỵu ở đó một lát, còng tay bấm sâu vào cổ tay, trong khi hắn gào lên đòi cô tiết lộ tên.

“Nói cho tao biết tên của bọn chúng, Sarah. Tất cả các tên”.

“Có một người tên là Yaakov”.

“Còn ai khác nữa?”

“Yossi”.

“Cho tao một cái tên khác, Sarah”.

“Eli”.

“Tên khác”.

“Dina”.

“Tên khác”.

“Rimona”.

“Đây cũng là những đứa theo mày đến Saint-Bart phải không?”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

85#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:07:54 | Chỉ xem của tác giả
Chương 35
(tiếp theo)

“Đúng vậy”.

“Ai là gã lần đầu tiếp cận mày trên bãi biển tại Saline?”

“Yaakov”.

“Ai là người phụ nữ để lại tin nhắn trong phòng tắm cho mày tại nhà hàng ở Saline?”

“Rimona”.

“Ai là cô gái bị tật chân đến nhà hàng Le Tetou ngay trước khi mày vào nhà vệ sinh?”

“Dina”.

“Bọn chúng đều là người Do Thái phải không”.

“Điều này khiến mày ngạc nhiên à?”

“Còn mày thì sao, Sarah? Mày có phải là người Do Thái không?”

“Không, tao không phải là người Do Thái”.

“Thế thì tại sao mày giúp bọn chúng?”

“Vì tao ghét bọn mày”.

“Ừ, và mày hãy nhìn xem mày phải lãnh hậu quả gì”.

Họ gặp thêm một tên lính gác nữa trước khi vào được ngôi nhà. Hắn đang đi phía bên phải họ, đến khúc cua, hắn ngu ngốc bước ra chỗ trống với vũ khí giắt bên hông. Gabriel và Mikhail nổ súng cùng lúc. Những phát súng im lặng do gắn nòng giảm thanh, nhưng tên lính gác thét lên đau đớn khi loạt đạn trúng ngực hắn. Hai gương mặt, giống hình nộm trong khu tập bắn thử, đột ngột xuất hiện trong những ô cửa sổ được chiếu sáng - một tên ở tầng trệt ngay trước mặt Gabriel, tên thứ hai ở trên lầu chỗ đỉnh mái nhà. Gabriel hạ gục tên ở cửa sổ lầu một trong khi Mikhail chăm sóc tên ở cửa sổ lầu hai.

Bây giờ họ không còn yếu tố bất ngờ nữa. Gabriel và Mikhail vừa lên nòng súng vừa lao qua khoảng sân dài ba mươi bộ về phía cửa trước. Yaakov có nhiều kinh nghiệm thâm nhập chỗ trú ẩn của bọn khủng bố tại Bờ Tây và dải Gaza nên chạy trước dẫn đường. Anh ta không thèm đếm xỉa đến chốt cài cửa. Thay vì vậy, anh ta xả một loạt đạn vào giữa cửa tiêu diệt bất cứ tên nào đang ở phía bên kia cửa, sau đó bắn văng khóa và rầm cửa bằng gỗ. Navot, người to lớn nhất trong bốn người, quăng thân hình của mình đập vào cánh cửa, khiến cánh cửa đổ sập như quân cờ đôminô.

Ba người kia ngay lập tức đặt chân lên sảnh vào nhà. Gabriel canh chừng không gian bên trái, Yaakov chính giữa, còn Mikhail bên phải. Gabriel, vẫn đang đeo kính hồng ngoại, nhìn thấy gã anh bắn hạ qua lớp cửa sổ đang nằm giữa vũng máu trên sàn nhà. Yaakov và Mikhail nổ súng ngay lập tức, và Gabriel nghe tiếng thét của hai tên khác vừa bị bắn hạ. Họ tiến sâu hơn vào ngôi nhà, tìm thấy bậc thang dẫn xuống tầng hầm, và đi xuống. Chúng ta sẽ bắt đầu từ chỗ đó, Gabriel đã nói. Những kẻ tra tấn luôn thích làm công việc của mình dưới đất.

Cô đang kể lại cho hắn ngày diễn ra vụ bán tranh thì nghe có tiếng náo loạn trên lầu. Muhammad khiến Sarah im miệng bằng cách tát mạnh vào mặt cô, sau đó đứng dậy, tay cầm súng, di chuyển nhanh chóng về phía cửa. Vài giây sau cô nghe tiếng thét, tiếng la hét và tiếng chân nặng nề trên bậc cầu thang. Muhammad quay người lại, dí súng vào mặt cô. Sarah, tay vẫn đang bị còng cứng vào bàn, cúi đầu xuống theo phản xạ giữa hai tay khi hắn nổ hai phát súng. Trong căn phòng nhỏ tiếng súng nghe như tiếng đại bác. Loạt đạn xé toang lớp không khí ngay trên đầu Sarah và ghim vào bức tường phía sau lưng.

Muhammad thét lên trong cơn thịnh nộ khi thấy Sarah thoát khỏi loạt đạn của mình, và bước lên một bước nữa, tiếp tục nhả đạn. Đột nhiên cánh cửa đổ sầm xuống như bị văng ra do bom nổ. Cánh cửa đập vào lưng Muhammad khiến hắn đổ nhào xuống sàn. Khẩu súng vẫn nằm trong tay Muhammad. Hắn gượng dậy, quỳ trên một đầu gối đưa súng ngắm bắn cô một lần nữa trước khi hai người đàn ông kịp lao qua cánh cửa, khuôn mặt trùm kín. Bọn họ bắn hạ Muhammad. Họ nã súng vào người Muhammad cho đến khi không còn viên đạn nào nữa.

Họ tháo còng tay và cùm cho Sarah, dìu cô qua thi thể của những người đã chết. Khi ra ngoài trời, cô lao vào vòng tay của Gabriel như một đứa trẻ. Anh đưa cô qua khu đất trống phủ đầy tuyết, qua con đường nhỏ dẫn tới đường cái, nơi Lavon và Moshe đang chờ trong hai chiếc xe hơi. Vẻ tĩnh lặng của khu rừng bị xáo trộn bởi tiếng khóc rưng rức của cô.

“Tôi phải nói cho bọn chúng nghe nhiều chuyện”.

“Tôi biết”.

“Bọn chúng đánh tôi. Bọn chúng bảo sẽ giết tôi”.

“Tôi biết, Sarah. Tôi đã nhìn thấy căn phòng”.

“Bọn chúng biết về anh, Gabriel. Tôi đã cố…”

“Không sao đâu, Sarah. Đó là lỗi của chúng tôi. Chúng tôi đã làm cô phải như thế này”.

“Tôi xin lỗi, Gabriel. Tôi thật lòng xin lỗi”.

“Không, Sarah. Đừng như vậy”.

“Tôi lại nhìn thấy hắn”.

“Ai?”

“Bin Shafiq”.

“Hắn ở đâu?”

“Ở Zurich. Hắn vẫn chưa xong việc, Gabriel”.

“Hắn nói gì?”

“Hắn sẽ tấn công Vatican một lần nữa”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

86#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:09:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 36
Zug, Thụy Sĩ

Hai thành viên trong đội theo dõi của Navot kịp băng qua biên giới Ý về hướng nam trước khi tuyết bít lối ra khỏi núi. Hai người khác đi về hướng đông và tiến vào nội địa Áo. Navot đi cùng với Moshe sang Paris để thiết lập hệ thống an ninh bảo vệ Hannah Weinberg. Gabriel đưa Sarah rời khỏi Zug bằng đường bay cá nhân. Họ ngồi sát bên nhau như đôi tình nhân. Gabriel vừa lái xe vừa vòng tay quanh vai cô, còn Sarah úp khuôn mặt đẫm nước mắt vào cổ anh. Lúc 4 giờ 30 phút, máy bay lao vào những đám mây rồi biến mất. Carter và Gabriel không đi trên chuyến bay này.

“Được rồi Gabriel, tôi đang lắng nghe đây”.

“Sarah đã gặp bin Shafiq ở Zurich. Hắn nói sẽ tấn công Vatican một lần nữa”.

Carter khẽ chửi thề.

“Hôm nay Tổng thống của các ông sẽ đến Rome, đúng không?”.

“Đúng vậy”.

“Theo lịch trình thì mấy giờ ông có mặt tại Vatican?”

“Đầu giờ trưa”.

“Giờ nào cũng có chuyến bay từ Zurich đến Rome. Nếu khẩn trương chúng ta có thể bắt kịp chuyến bay lúc bảy giờ”.

“Anh lái xe đi”, Carter nói.

Gabriel nổ máy xe và hướng về phía Zurich. Carter gọi điện cho Tổng hành dinh CIA yêu cầu được nói chuyện với người đứng đầu Cục Tình báo Hoa Kỳ.

***

Carter nói chuyện điện thoại suốt trong ba mươi phút đầu của chuyến đi. Khi những ánh đèn thành phố Zurich thấp thoáng hiện ra giữa lớp sương mù phía bắc hồ, anh ta ngưng điện thoại và nhìn Gabriel.

“Sarah sẽ tiếp đất tại căn cứ bay Ramstein trong vòng một tiếng nữa. Cô ấy sẽ được đưa đến bệnh viện quân sự Mỹ để khám toàn diện”.

“Bác sỹ của anh nói gì?”

“Tình trạng của cô ấy giống như anh. Mặt bị trầy và dập. Bị chấn động nhẹ. Mắt trái bị thương tổn. Bụng bị thương nặng. Hai xương sườn bị nứt. Hai ngón chân cái bị gãy. Tôi không hiểu sao chúng lại dã man như vậy”.

“Bọn chúng kéo lê cô ấy xuống các bậc thang”.

“À, còn chứng giảm nhiệt. Tôi đoán có thể do bị nhốt trong thùng xe. Dù sao đi nữa, mọi chuyện có thể còn tệ hơn. Cô ấy còn sống sót là may mắn lắm rồi”.

“Hãy đảm bảo luôn có người bên cạnh Sarah”, Gabriel nói. “Nhỡ đâu cô ấy vô tình phun ra những bí mật của chúng ta với các bác sỹ tại Ramstein”.

“Không phải lo, Gabriel. Cô ấy đang được chăm sóc bởi những đôi tay thành thạo”.

“Cô ấy bảo mình đã khai ra những bí mật”.

“Dĩ nhiên cô ấy phải khai ra. Bố khỉ, đến tôi cũng còn phải khai nữa là”.

“Ông nên nhìn căn phòng đó”.

“Nói thật, tôi mừng là mình không nhìn thấy. Tôi không thành thạo loại công việc đó. Thỉnh thoảng tôi lại thấy tiếc nuối những ngày tươi đẹp thời Chiến Tranh Lạnh, khi tôi không phải dính dấp đến những thứ tra tấn, máu me”. Carter nhìn Gabriel. “Tôi đoán những thứ này luôn đi đôi với công việc của anh, đúng không?”

Gabriel phớt lờ câu hỏi. “Sarah kể với chúng mọi thứ để có thêm thời gian. Vấn đề ở đây là trước khi chúng tôi đến, Muhammad đã kịp báo cáo bất cứ điều gì trong lời khai của Sarah cho cấp trên của hắn trước chưa?”

“Anh có quyển sổ tay của hắn đấy không?”

Gabriel vỗ nhẹ vào túi trên chiếc áo khoác bằng da.

“Chúng tôi sẽ hỏi Sarah sau khi cô ấy phục hồi”.

“Có thể cô ấy không nhớ hết những gì đã kể với chúng. Cô ấy bị đánh thuốc mê”.

Họ nín lặng một lúc lâu. Mặc dù vẫn còn sớm, trên đường đã có xe của những người phải đi làm xa. Những nhà tài chính Thụy Sĩ chăm chỉ, Gabriel thầm nghĩ. Anh tự hỏi không biết bao nhiêu người trong số này làm việc cho những công ty có liên quan đến Tập đoàn AAB tại Riyadh, Geneva, và những nơi khác.

“Ông có nghĩ họ sẽ cho tôi lên máy bay không, Adrian?”

“Gustav đảm bảo với tôi chúng ta sẽ không gặp rắc rối khi lên máy bay”.

“Có lẽ anh thì không sao. Nhưng tôi có một quá khứ không mấy sáng sủa tại Zurich”.

“Ông có quá khứ đầy màu sắc ở khắp nơi. Đừng lo, Gabriel. Họ sẽ để cho anh lên máy bay”.

“Anh chắc chắn là cậu bạn Gustav của anh giữ mọi thứ yên ắng chứ?”

“Giữ cho cái gì yên ắng?”

Carter mỉm cười mệt mỏi. “Trong khi chúng ta đang nói chuyện này thì một đội dọn dẹp đã lên đường đến Uri. Gustav sẽ đảm bảo bí mật về nơi đó cho tới khi đội đến. Rồi sau đó…”. Ông ta nhún vai. “Sẽ như chưa từng có chuyện gì xảy ra”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

87#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:11:12 | Chỉ xem của tác giả
Chương 36
(tiếp theo)

“Các ông xử lý ra sao với các xác chết?”

“Chúng tôi không chỉ có những nơi giam cầm bí mật ở Đông Âu. Bọn chúng sẽ được chôn cất tử tế, mặc dù không xứng đáng được như vậy. Có lẽ một ngày nào đó, khi cuộc chiến vô tận này chấm dứt, chúng tôi có thể báo với người thân bọn chúng đi nhận xương cốt”. Carter vuốt thẳng ria mép. “Các anh cũng có một cái đúng không?”

“Cái gì?”

“Nghĩa trang bí mật? Ở đâu đó trong thung lũng Gioócđan?”

Gabriel nhìn hồi lâu vào kính chiếu hậu, nhưng không nói lời nào.

“Bao nhiêu thi thể, Gabriel? Anh nhớ không?”

“Dĩ nhiên tôi nhớ”.

“Vậy thì bao nhiêu? Đội dọn dẹp cần phải biết nên tìm ở đâu”.

Gabriel nói cho Carter hay. Hai thi thể trong chiếc Jeep. Hai tại bãi đất trống trước ngôi nhà. Một tại cửa sổ tầng một. Một tại cửa sổ tầng hai. Hai tại sảnh trung tâm. Hai tại cuối cầu thang. Và Muhammad.

“Mười một tên”, Carter nói. “Chúng tôi sẽ ghi nhớ tên từng đứa, sẽ tìm ra chúng là ai và tìm hiểu xem chúng đang âm mưu làm chuyện gì. Có thể nói tối nay các anh đã xóa sổ được một nhà tù lớn cùng một tên cấp cao trong tổ chức của bin Shafiq”.

“Chúng tôi vẫn chưa tìm được kẻ chúng tôi muốn”.

“Có điều gì đó mách bảo tôi rằng rồi anh sẽ tóm được hắn”.

“Ít nhất hai tên trong số chúng là người châu Âu. Uzi nghe bọn chúng nói chuyện bằng tiếng Đức giọng Thụy Sĩ”.

“Tôi e rằng bọn chúng vẫn phải bị chôn chung với những tên chiến sỹ Hồi giáo. Tôi nghĩ bọn chúng cũng muốn điều đó”. Carter liếc nhìn đồng hồ. “Anh không lái xe nhanh hơn được à?”

“Tôi đang chạy ở tốc độ tám mươi cây số, Adrian. Ông kể với Cục Tình báo đến mức nào?”

“Tôi báo với họ là chúng ta đang có bằng chứng rất rõ ràng rằng những lực lượng Hồi giáo toàn cầu đang có âm mưu tấn công Tổng thống tại Vatican trưa nay. Tôi nhấn mạnh đến chữ ‘bằng chứng rõ ràng’. Cục Tình báo đã nhận được thông điệp. Tôi hi vọng được gặp Tổng thống một lúc vào cuối sáng nay. Ông ấy đang ở nhà của ngài đại sứ”.

“Ông ấy có thể hủy buổi gặp gỡ đó”.

“Chuyện đó sẽ không xảy ra”, Carter đáp. “Vatican đã trở thành biểu tượng dễ thấy nhất trên thế giới về tính nguy hiểm của khủng bố Hồi giáo. Tổng thống sẽ không bỏ qua cơ hội củng cố thông điệp của mình tại đó”.

“Lucchesi sẽ cằn nhằn bên tai ông ấy”.

“Tổng thống đã chuẩn bị tinh thần rồi”, Carter nói. “Về phần an ninh, Cục Tình báo đang sắp xếp với phía Ý để thay đổi kế hoạch di chuyển của Tổng thống. Trùng hợp là họ đã nghĩ về chuyện này trước khi nhận được cuộc gọi của tôi. Rome là một mớ hỗn độn. Người ta đoán là hôm nay sẽ có khoảng hai triệu người ra đường”.

“Thế thì làm sao Tổng thống đến Vatican được?”

“Đoàn ô tô hộ tống các nguyên thủ quốc gia thường tiến để tới Toà thánh qua cổng Thánh Anne, sau đó đi qua Via Belvedere vào sân San Damaso. Ở đó chỉ huy đội lính cận vệ Thụy Sĩ sẽ gặp và hộ tống ông vào cung điện Thánh Tông đồ. Các nhân viên an ninh của Tổng thống sẽ phải ở ngoài sân, đó là nghi thức tại Vatican. Nguyên thủ quốc gia đi lên một mình, chỉ được bảo vệ bởi lính cận vệ. Nhưng tôi sẽ tiết lộ với cậu một bí mật. Cục Tình báo luôn cài một vài người tại bữa tiệc chính thức - những chàng trai Thiên Chúa giáo dễ thương muốn gặp mặt Đức Thánh Cha”.

“Vậy ông dự định sẽ thay đổi như thế nào?”

“Tổng thống sẽ bay đến Vatican và đáp xuống sân bay của Giáo hoàng”.

“Sân bay đó ở góc xa phía Tây, ngay đối diện tường. Nếu có ai đó chờ sẵn với một khẩu phóng tên lửa nữa…”

“Cục Tình báo nói sẽ bảo vệ khu vực ấy”.

“Bên ông dự định cài bao nhiêu chàng trai dễ thương theo đạo Thiên Chúa trong đoàn đại biểu chính thức của Tổng thống?”

“Nhiều hơn thường lệ”. Carter nhìn đồng hồ lần nữa. “Có lẽ chúng ta nên vào sân bay trong vài phút tới. Langley đặt chúng ta ngồi hai chỗ khác nhau”.

“Ông xấu hổ vì tôi à, Adrian?”

“Thực ra là chưa bao giờ tự hào đến như thế khi được hợp tác cùng với anh. Anh và những chàng trai của anh đã cho thấy lòng can đảm tuyệt vời khi thâm nhập ngôi nhà đó”.

“Chúng tôi không được lựa chọn, Adrian. Chúng tôi không bao giờ được quyền lựa chọn”.

Carter nhắm mắt một lúc. “Anh biết đấy, có thể bin Shafiq chỉ nói khoác, hay bịp bợm vì một lí do nào đó”.

“Tại sao hắn lại phải nói dối, Adrian? Hắn dự định sẽ giết chết cô ấy mà, nên điều hắn nói chắc chắn là sự thật”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

88#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:30:46 | Chỉ xem của tác giả
Chương 37
Thành phố Vatican

Thật may là Đức Ông, bạn của ông yêu cầu chúng tôi cho các ông đi nhờ xe”, Cảnh sát trưởng đội cảnh sát Carabinieri nói. “Chẳng thế thì không bao giờ các ông đi được từ Fiumicino đến Vatican”.

Gabriel nhìn ra ngoài cửa sổ máy bay trực thăng. Rome nằm bên dưới anh. Những người biểu tình đã chiếm biệt thự Borghese làm sân khấu và biến khu vực này thành một biển người. Những người diễu hành đầu tiên đang đổ ra Via Veneto từ cuối công viên.

“Các ông có thể ngăn họ tiến về Vatican được không?”

“Chúng tôi sẽ cố”. Viên Cảnh sát trưởng chỉ tay ra ngoài cửa sổ. “Các ông có thấy những chướng ngại vật kia không? Kế hoạch của chúng tôi là gom họ lên đồi vào công viên Janiculum. Nhưng chúng tôi ước đoán có khoảng hai triệu người biểu tình. Nếu mọi việc nằm ngoài tầm kiểm soát…”. Ông ta nhún vai theo đúng kiểu người Ý. “Tôi mừng rằng mình không phải lo về các vụ bạo động. Khu vực biểu tình dưới kia có thể biến thành chiến trường”.

Chiếc máy bay trực thăng đảo chiều lượn nghiêng về phía thành quốc. Mái vòm của Toà thánh, bị che một phần dưới tấm vải dầu lớn của các nhóm thi công, phản chiếu ánh nắng chói chang. Lời thỉnh cầu hòa bình của Giáo hoàng bay phấp phới bên ngoài trong cơn gió nhẹ buổi sáng. Chiếc trực thăng chúi xuống trên Viale Vaticano, nó bay trên không phận Ý một lúc lâu, sau đó vượt qua bức tường đáp xuống sân bay của Giáo hoàng. Donati, trong trang phục áo khoác đen và khăn choàng màu đỏ tươi, đang đứng chờ ở đó. Đứng bên cạnh ông là một người lính cận vệ Thụy Sĩ mặc thường phục. Vị tăng lữ cao cấp nghiêm mặt bắt tay Gabriel thật nhanh và giữ nét mặt nặng nề khi dẫn anh băng qua vườn Vatican về phía cung điện Thánh Tông đồ.

“Lần này nghiêm trọng đến mức nào, Gabriel?”

“Rất nghiêm trọng”.

“Anh có thể cho tôi biết tại sao?”

“Người đưa tin”, Gabriel đáp. “Người đưa tin”.

Họå lên lầu ba, vào phòng của Donati rồi, Gabriel mới kể cho ông thêm chi tiết. Donati hiểu ông chỉ được thông báo một phần của câu chuyện. Ông quá quan tâm đến sự an toàn của thầy mình nên không phản đối.

“Tôi muốn anh ở bên cạnh ông ấy cho đến khi Tổng thống rời khỏi Vatican”.

Lần này Gabriel không phản đối.

“Anh trông giống như vừa chui qua máy vắt”, Donati nhận xét. “Lần cuối anh ngủ là khi nào?”

“Thật sự tôi không nhớ nổi”.

“Tôi e rằng anh không còn thời gian để chợp mắt”, Donati nói, “nhưng chúng ta phải sửa sang vẻ bề ngoài của anh cho chỉnh tề hơn. Tôi đoán anh không mang theo bộ trang phục nào đúng không?”

“Ước gì tôi có thể diễn tả được câu hỏi của Cha nghe có vẻ buồn cười đến thế nào”.

“Anh sẽ cần một bộ quần áo đàng hoàng. Nhóm lính cận vệ Thụy Sĩ bảo vệ cho Đức Giáo hoàng mặc đồ vest. Tôi chắc rằng người chỉ huy có thể kiếm cho anh một bộ ưng ý”.

“Có thứ tôi cần hơn là một bộ đồ màu xanh, Luigi”.

“Đó là thứ gì?”

Gabriel nói với ông.

“Đội lính cận vệ Thụy Sĩ cũng có thể lấy cho anh thứ đó”.

Donati nhấc điện thoại lên quay số.

Mười phút sau đó, một người lính đã chờ Gabriel trong Sân- San Damaso vẫn là người lính cận vệ Thụy Sĩ đã ở bên Donati tại bãi đáp máy bay trực thăng. Anh ta cao bằng Gabriel, có bờ vai ngang bè ra dưới lớp áo vest và chiếc cổ cuộn cơ bắp như của một vận động viên chơi bóng bầu dục. Mái tóc vàng hoe cắt ngắn đến gáy quanh đầu hình viên đạn, phô ra sợi dây đeo tai của anh ta.

“Chúng ta đã gặp nhau bao giờ chưa?”. Gabriel hỏi người lính cận vệ bằng tiếng Đức khi họ đi qua Via Belvedere”.

“Chưa, thưa ông”.

“Trông cậu quen quen”.

“Tôi là một trong những lính cận vệ giúp ông đưa Đức Thánh Cha vào cung điện Thánh Tông đồ sau vụ tấn công”.

“Tôi cũng nhớ như vậy”, Gabriel trả lời. “Cậu tên gì?”

“Hạ sỹ Erich Muller, thưa ông”.

“Cậu là người bang nào nhỉ?”

“Nidwalden, thưa ông. Đó là demi – canton ở kế bên”

“Tôi biết bang ấy rồi”, Gabriel đáp.

“Ông biết Thụy Sĩ à?”

“Rất rõ”.

Ngay trước khi đến cổng Thánh Anne, họ quẹo phải tiến vào khu lính cận vệ Thụy Sĩ. Tại phòng tiếp tân, một sỹ quan trực ban đang ngồi nghiêm nghị sau chiếc bàn hình vành trăng. Trước mặt anh ta là một dãy màn hình giám sát. Trên bức tường đằng sau treo một cây thập tự giá và hàng cờ đại diện cho từng bang, trong hai mươi sáu bang của Thụy Sĩ. Khi Gabriel và Muller đi ngang qua, viên sỹ quan trực ghi chú trong quyển sổ ra vào. “Khu Thụy Sĩ đang kiểm soát rất nghiêm ngặt”, Miller nói. “Còn ba nơi có thể ra vào nữa, nhưng đây là chỗ chính”.

Họ rời phòng tiếp tân rồi quẹo phải. Hành lang dài tối tăm trải dài trước mắt họ, nằm dọc hai bên là khu tập chia thành nhiều ô nhỏ cho những người tập kích. Cuối hành lang là mái vòm, đằng sau mái vòm đến sân trong lát đá. Ở đó, một trung sỹ đang huấn luyện sáu tân binh đi đều cùng súng trường bằng gỗ. Họ bước vào toà nhà bên kia sân và bước xuống một dãy các bậc thang bằng đá để vào khu tập bắn súng trong nhà. Nơi này yên ắng vì không có ai tập.

“Đây là nơi chúng tôi thực hiện việc huấn luyện vũ khí. Các bức tường được cách âm, nhưng thỉnh thoảng những người hàng xóm vẫn phàn nàn về tiếng ồn”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

89#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:31:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 37
(tiếp theo)

“Hàng xóm?”

“Đức Thánh Cha có vẻ không để ý, nhưng Hồng y Ngoại trưởng không thích tiếng súng. Chúng tôi chuyển sang tập bắn vào chủ nhật hay các ngày lễ trong đạo”. Muller đi về phía tủ kim loại, mở khóa. “Súng chuẩn của chúng tôi là khẩu SIG-Sauer 9mm có ổ đạn mười lăm viên”. Anh ta nhìn Gabriel qua vai mình khi mở cửa tủ. “Đây là vũ khí do Thụy Sĩ làm. Rất chính xác… và rất mạnh. Ông có muốn bắn thử không?”

Gabriel gật đầu. Muller lấy khẩu súng, một ổ đạn, cùng một hộp đạn đầy rồi mang đến khu tập bắn. Anh ta bắt đầu nạp đạn, nhưng Gabriel ngăn lại. “Tôi sẽ làm việc này. Cậu ra xem bia bắn giùm tôi”. Người cận vệ Thụy Sĩ gắn bia vào đường dây và kéo đến một nửa đường bắn. “Xa hơn”, Gabriel nói. “Đến chỗ xa nhất”. Muller làm theo lời anh. Đến lúc bia tập bắn được kéo đến phía bên kia đường bắn, Gabriel đã nạp xong mười lăm viên đạn vào ổ, và lắp ổ đạn vào khẩu súng lục. “Ông làm nhanh quá”, Muller nhận xét. “Tay ông chắc phải khéo lắm”.

“Tôi đã luyện tập nhiều”.

Muller đưa dụng cụ bảo vệ tai và mắt cho Gabriel.

“Không cần, cám ơn”.

“Đây là qui tắc trong trường bắn, thưa ông”.

Gabriel quay người không báo trước và nổ súng. Anh tiếp tục bắn cho đến khi súng hết đạn. Muller kéo bia tập bắn lại trong khi Gabriel tháo ổ đạn trống rỗng ra và nhặt ống lót lên.

“Lạy Chúa tôi”.

Tất cả mười lăm phát đạn đều ghim ngay chính giữa bia bắn.

“Ông có muốn bắn nữa không?”. Muller hỏi.

“Đủ rồi”.

“Ông có muốn lấy bao đeo súng ở vai không?”

“Tôi để súng ở túi quần”.

“Để tôi lấy cho ông thêm một ổ đạn”.

“Cho tôi hai ổ. Thêm một hộp đạn nữa”.

Gabriel lấy quần áo từ phòng chỉ huy, rồi vội vã quay lại cung điện Thánh Tông đồ. Anh lên lầu ba và theo Donati đến phòng khách nhỏ có buồng riêng. “Tôi lén lấy lưỡi dao lam đó của Đức Thánh Cha”, Donati nói. “Khăn tắm ở trong tủ dưới bồn rửa tay”.

Gần chín mươi phút nữa Tổng thống mới đến. Gabriel thong thả cạo râu đứng dưới vòi sen vài phút. Bộ quần áo được đội cận vệ Thụy Sĩ chuẩn bị vội vã hoá ra lại rất vừa vặn với anh. Vào lúc 11 giờ, chúng đúng như mong muốn anh bước dọc hành lang trang trí bích hoạ để đến phòng riêng của Đức Giáo hoàng.

Gabriel yêu cầu Donati thêm một việc trước khi đến khu doanh trại đội cận vệ Thụy Sĩ: bản báo cáo cuối cùng của Lực lượng an ninh Vatican và Ý về vụ tấn công tháng Mười được thực hiện. Anh vừa nhâm nhi cà phê và bánh vừa đọc bản báo cáo trong phòng ăn riêng của Đức Giáo hoàng, sau đó anh đảo một lượt các kênh trên truyền hình tìm xem có tin tức gì về mười một xác chết trong ngôi nhà ván ở Thụy Sĩ. Không có kênh tin quốc tế nào đề cập về việc này. Anh đoán rằng đội của Carter đã hoàn thành nhiệm vụ.

Donati đến tìm Gabriel vào lúc 11 giờ 45 phút. Họ cùng nhau đi tới cung điện Belvedere và tìm thấy một văn phòng trống có thể bao quát khu vườn. Một lúc sau, những thân cây bắt đầu vặn vẹo, sau đó hai chiếc máy bay trực thăng cánh quạt đôi xuất hiện, hạ xuống bãi đáp máy bay ở góc xa của thành quốc. Gabriel thấy bớt căng thẳng khi chiếc trực thăng đầu tiên hạ cánh xuống an toàn dưới đầu các ngọn cây. Năm phút sau họ thoáng thấy Tổng thống Mỹ tự tin sải bước về phía cung điện, đi theo ông là vài tá nhân viên an ninh vũ trang đầy đủ, bộ dạng lo lắng.

“Các nhân viên sẽ phải đợi trong vườn”, Donati nói. “Người Mỹ không thích việc này, nhưng đây là nghi thức tiếp đón. Anh có biết là họ đã cố ý cài vài nhân viên Cục Tình báo vào đoàn đại biểu chính thức không?”

“Không phải vậy chứ”.

Donati nhìn Gabriel. “Anh muốn nói với tôi điều gì à?”

“Vâng”, Gabriel nói. “Chúng ta nên quay trở lại cung điện các Thánh tông đồ. Tôi muốn có mặt ở đó trước khi Tổng thống đến”.

Donati quay lại dẫn đường.

Năm phút trước khi Tổng thống tới, họ đã có mặt trong Sala Clementina. Đây là một phòng tiếp khách cao vút với các bức bích hoạ phủ đầy quanh tường. Nó nằm ngay trên phòng riêng của Giáo hoàng. Đức Thánh Cha vẫn chưa đến. Một đội cận vệ nghi thức đứng bên ngoài lối đi rộng, và thêm vài đội nữa mặc thường phục đứng bên trong. Cuối góc phòng dài hình chữ nhật đặt hai chiếc ghế chạm trổ; ở góc bên kia là nhóm phóng viên, nhiếp ảnh gia, và những người quay phim. Tâm trạng chung của họ là không được hài lòng lắm. Các công cụ tìm kiếm và kiểm tra an ninh của cận vệ Thụy Sĩ và Cục Tình báo trở nên gắt gao hơn bao giờ hết, và ba đội quay phim châu Âu không được cho vào phòng vì có những sơ hở nhỏ trong giấy giới thiệu. Báo giới được phép ghi lại những hình ảnh đầu tiên của cuộc gặp lịch sử và phát sóng hình ảnh này trên toàn thế giới, sau đó họ sẽ được đưa ra ngoài.

Donati vào lại trong hành lang chờ Đức Thánh Cha. Gabriel nhìn quanh một lúc, sau đó đi đến phía trước phòng đứng cách chiếc ghế dành cho Đức Thánh Cha vài bước. Trong hai phút kế tiếp mắt anh nhìn lướt qua đám nhà báo, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào không tụ nhiên, hay một khuôn mặt trông có vẻ không hợp chỗ. Sau đó anh làm điều tương tự với các Giám mục trong Hội đồng Hồng y đang đứng bên trái.

Ngay trước lúc giữa trưa, Đức Thánh Cha bước vào phòng trong bộ bạch y, theo sau Donati, Hồng y Ngoại trưởng, và bốn cận vệ Thụy Sĩ mặc thường phục. Erich Muler, người cận vệ đã đưa cho Gabriel vũ khí, cũng nằm trong số những người này. Mắt anh ta dừng một chút trên Gabriel, rồi gật đầu chào nhẹ. Giáo hoàng bước ngang phòng và dừng lại trước ghế ngồi của mình. Donati, cao và nổi bật trong chiếc áo choàng màu đen và khăn choàng cổ màu đỏ, đứng bên cạnh Giáo hoàng. Ông nhìn lướt qua Gabriel, sau đó hướng ánh nhìn về phía cửa khi Tổng thống Mỹ bước vào.

Gabriel nhanh chóng điểm qua đoàn đại biểu chính thức của Tổng thống. Bốn nhân viên Cục Tình báo có mặt trong đoàn này, thậm chí có thể hơn. Sau đó ánh nhìn của anh đảo khắp phòng giống như ánh đèn pha: những phóng viên, các Giám mục trong Hội đồng Hồng y, những cận vệ Thụy Sĩ, Tổng thống, và Đức Thánh Cha. Bây giờ họ đang bắt tay, mỉm cười nồng ấm với nhau trong ánh đèn lóa mắt của máy chụp ảnh.

Sự việc diễn ra nhanh chóng đến nỗi Gabriel không ngờ tới. Sau này nghĩ lại, anh thấy thật ra nếu không nhờ Donati, có lẽ không bao giờ anh có thể nhận biết được tình hình. Mắt Donati bất ngờ mở lớn, sau đó ông bước về phía Tổng thống. Gabriel quay người lại và thấy khẩu súng bên mình. Vũ khí là khẩu SIG-Sauer 9li- bàn tay đang cầm súng chính là của hạ sỹ Erich Muller.

Gabriel rút khẩu súng của chính mình và bắt đầu nhả đạn, nhưng Muller vẫn kịp bắn hai phát. Anh không nghe tiếng la hét hay chú ý đến ánh đèn chớp của máy chụp ảnh. Anh chỉ bắn mãi cho đến khi tên cận vệ Thụy Sĩ nằm chết cứng trên sàn đá cẩm thạch. Các nhân viên Cục Tình báo được ngụy trang trong đoàn đại biểu của Mỹ nắm lấy Tổng thống và đưa ông ra cửa. Pietro Lucchesi, Giám mục thành Rome, Giáo chủ tối cao, người kế nhiệm thánh Peter, khuỵa đầu gối xuống cầu nguyện bên cạnh cơ thể bất động của vị cha xứ cao lớn trong bộ áo choàng màu đen.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

90#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:33:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 38
Rome

Trạm xá Gemelli còn khá nhiều phòng trên tầng 11 mà ít người biết đến. Chúng là phòng của các cha xứ. Phòng có giường bệnh. Phòng thứ hai có trường kỷ và ghế. Căn phòng thứ ba có nhà nguyện riêng. Hành lang bên ngoài lối vào có bàn dành cho lính gác. Lúc nào cũng có người đứng gác ở đó, ngay cả khi các phòng không có bệnh nhân.

Tối nay, chiếc giường bệnh của nhân vật đứng đầu một tỷ người theo đạo Thiên Chúa La Mã trên khắp thế giới, được dành cho viên thư ký riêng đáng tin cậy của ông. Hàng ngàn người với đức tin mãnh liệt đứng chật ních con đường bên dưới cửa sổ phòng bệnh. Vào lúc 9 giờ, họ im lặng lắng nghe bản tin đầu tiên từ văn phòng báo chí của Vatican. Bản tin cho biết Đức ông Luigi Donati đã trải qua bảy giờ phẫu thuật để chữa trị vết thương gây ra bởi hai viên đạn 9 li. Bản tin mô tả Đức ông đang ở trong tình trạng “cực kỳ nghiêm trọng”, và nói rõ rằng chưa thể xác định được Đức ông có qua khỏi hay không. Bản tin kết thúc bằng thông báo Đức Thánh Cha đang ở bên cạnh ông và dự định sẽ còn ở đó một thời gian nữa. Bản tin không đề cập đến sự có mặt của Gabriel.

Họ ngồi cùng nhau trên chiếc ghế trường kỷ trong phòng khách. Ở phía bên kia cánh cửa mở nối hai phòng, Donati đang nằm bất động và xanh xao. Một đội y tá và bác sỹ vây quanh ông, nét mặt nặng nề. Mắt Đức Thánh Cha nhắm nghiền còn tay thì lần tràng hạt. Một vệt máu lớn loang lổ trên tấm áo trắng của ông. Ông không chịu cởi áo ra. Gabriel nhìn Đức Thánh Cha và nghĩ đến Shamron cùng chiếc áo da sờn rách. Anh hi vọng ông không tự trách mình vì những việc xảy ra hôm nay.

Gabriel nhìn màn hình. Đoạn video về cuộc tấn công, một trong những giây phút kịch tích nhất từng được truyền hình trực tiếp, đang chiếu trên màn ảnh. Đoạn video này được phát đi phát lại. Gabriel đã xem đoạn băng này ít nhất một tá lần, và bây giờ đang xem lại. Anh nhìn thấy Muller nhô người khỏi đám cận vệ Thụy Sĩ, khẩu súng vươn ra trên tay. Anh thấy chính mình rút súng khỏi túi trong áo khoác, và Donati lấy thân mình che chắn cho Tổng thống Hợp chủáng quốc Hoa Kỳ khi Muller nhả đạn. Một phần giây, anh nghĩ. Nếu anh nhìn thấy Muller một phần mười giây trước đó, có lẽ anh đã có thể nhả đạn trước. Donati sẽ không phải nằm đây cận kề cái chết trên tầng 11 của trạm xá Gemelli. Gabriel nhìn Giáo hoàng. Mắt ông không còn nhắm mà nhìn chăm chú lên màn hình tivi.

“Làm sao mà Donati biết để bước ra che cho Tổng thống Mỹ chứ không phải cho ta?”

“Con nghĩ rằng Đức ông biết Muller đã có thể giết Đức Thánh Cha rất gần nếu hắn muốn. Muller sẽ giết Tổng thống trước, và Đức ông hiểu điều đó”.

“Donati hiểu được điều đó chỉ trong nháy mắt”.

“Đức ông Donati là một trong những người thông minh nhất con từng gặp, thưa Đức Thánh Cha”. Gabriel nhìn Donati. “Đức ông đã cứu sống Tổng thống, nhưng có lẽ chính Cha cũng không nhận thức được điều đó khi lấy thân mình che chắn cho Tổng thống”.

“Luigi chỉ ngăn được những viên đạn”, Giáo hoàng nói, “nhưng cậu mới là người cứu ông ấy. Nếu không nhờ cậu, chúng ta sẽ không bao giờ biết cảnh giác về những chuyện như vậy. Làm sao cậu biết bọn chúng sẽ tấn công Vatican một lần nữa?”

“Chúng ta sẽ phải nói về chuyện này vào một ngày khác. Một ngày rất xa trong tương lai”.

“Cậu đang thực hiện một nhiệm vụ, đúng không?”

Gabriel im lặng.

“Erich Muller, một người trong đội lính gác của ta…”. Giọng Giáo hoàng nhỏ dần. “Ta vẫn không tin điều này. Làm sao họ làm được điều đó, Gabriel? Làm cách nào họ trà trộn một tên sát nhân vào đội cận vệ Thụy Sĩ được?”

“Chi tiết khá phức tạp, thưa Đức Thánh Cha, nhưng có vẻ như Muller được tuyển mộ một khoảng thời gian sau khi hắn rời quân đội Thụy Sĩ. Hắn không có công ăn việc làm, nên dành một năm rưỡi du lịch châu Âu và Địa Trung Hải. Hắn trú chân ở Hamburg vài tháng, và thêm vài tháng nữa ở Amsterdam. Hắn là thành viên tích cực tham gia các cuộc biểu tình chống Mỹ, chống Israel. Có lẽ hắn đã cải đạo sang Hồi giáo. Chúng tôi nghĩ rằng hắn được tuyển mộ vào mạng lưới khủng bố do một tên tự xưng là Giáo sư Ali Massoudi tổ chức”.

“Massoudi? Thật vậy sao? Lạy Chúa, Giáo sư Massoudi có nộp một vài bài viết cho ủy ban đặc biệt của ta về việc cải thiện mối quan hệ giữa Hồi giáo và phương Tây. Ta nghĩ có lẽ hắn đã đến thăm Vatican”.

“Cải thiện mối quan hệ giữa Hồi giáo và nhà thờ không phải là một phần trong chương trình hành động thực sự của hắn, thưa Đức Thánh Cha”.

“Rõ ràng là vậy”, Giáo hoàng thừa nhận. “Ta đoán giờ đây chúng ta đã biết ai mở Cánh Cửa Tử Thần cho những tên đánh bom cảm tử hồi tháng Mười. Chính là Muller đúng không?”

Gabriel gật đầu nhìn màn hình khi đoạn phim về vụ tấn công được phát lại.

“Ta tự hỏi không biết bao nhiêu người xem đoạn băng ngày hôm nay”, Giáo hoàng nói.

“Hàng tỷ người, thưa Đức Thánh Cha”.

“Có điều gì đó mách bảo ta rằng những ngày làm điệp viên bí mật của cậu không còn nữa. Chào mừng quay trở về thế giới thật, Gabriel”.

“Thế giới này làm con cảm thấy thoải mái”.

“Dự định của cậu là gì?”

“Con phải trở lại Israel”.

“Sau đó thì sao?”

“Tương lai của con khá bất định”.

Giáo hoàng nhận xét. “Francesco Tiepolo bảo với ta cậu và Chiara đã quay trở lại với nhau”.

“Vâng, thưa Đức Thánh Cha. Hiện tại cô ấy đang ở Israel”.

“Kế hoạch của cậu là gì?”

“Con phải cưới cô ấy trước khi cô ấy lại bỏ con ra đi”.

“Thật là thông thái. Sau đó thì sao?”

“Con mới tính được đến đó thôi, thưa Đức Thánh Cha”.

“Cậu cho phép ta cho cậu thêm một lời khuyên nhé?”

“Dĩ nhiên”.

“Vào lúc này, cậu là người nổi tiếng nhất nước Ý. Một vị anh hùng quốc gia. Có cái gì đó mách bảo với ta đất nước này sẽ rộng tay chào đón cậu. Lần này cậu không phải mang tên Mario Delvecchio nữa”.

“Đến đó rồi hãy tính”.

“Nếu là cậu, ta sẽ xây một cây cầu nối trở lại Venice”.

Giáo hoàng nhìn sững xuyên qua cánh cửa một lúc. “Ta không biết phải làm gì nếu Chúa mang ông ấy khỏi tay ta. Ta không thể quản lý nhà thờ Thiên Chúa giáo mà không có Luigi Donati”.

“Con còn nhớ ngày Đức ông đến Jerusalem tìm con”, Gabriel hồi tưởng. “Khi cùng dạo bước trong Thành Cổ, con đã ngu ngốc bảo rằng Cha ấy là người không có đức tin nếu so với một người có niềm tin thành kính. Nhưng bây giờ con hiểu rằng phải là người có niềm tin mãnh liệt thì mới dám bước ra trước đầu đạn”.

“Luigi Donati là người có niềm tin phi thường. Ông ấy chỉ chưa nhận ra điều này. Bây giờ ta cũng cần có niềm tin. Ta phải tin rằng Chúa sẽ thấy nên để ông ấy bên ta lâu thêm một thời gian nữa - rằng phải cần chấm dứt sự điên loạn này”.

Câu hỏi kế tiếp Giáo hoàng hỏi là câu hỏi ông đã đặt ra với Gabriel sau vụ tấn công tháng Mười.

“Mọi chuyện chấm dứt chưa?”

Lần này Gabriel chăm chú nhìn màn hình mà không nói gì.

Không, thưa Đức Thánh Cha, anh nghĩ. Chưa hẳn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách