|
Chương 8
(tiếp theo)
Trong sách “Dân số kỳ”(7) chương 33, tiết 50, cũng dặn phải đuổi dân bản xứ đi, như “nhổ gai trong mắt”, “rút chông trong hông”. Rồi suốt cho tới Sách các “Tiên tri” ở cuối Cựu ước, còn nhiều đoạn làm cho người Ả Rập phải suy nghĩ:
“Ngươi sẽ chiếm được những thành lớn và đẹp mà ngươi không tốn công xáy dựng; sẽ chiếm được những nhà cửa đầy những của cải mà ngươi không mất công mua sắm; sẽ chiếm được những hố mà ngươi không phải đào, những cây nho và cây ô-liu mà ngươi không phải trồng”.
(Sách Luật lệ, chương 6, tiết 10-11).
Tôi biết có, một số người cho trong kinh Cựu ước không chứa những tài liệu sử, mà những người Ki-tô giáo chỉ coi những điều chép trong kinh là những hình ảnh tượng trưng những thực thể siêu việt xảy ra trong thế giới tâm linh giữa Thiện và Ác, giữa Ánh sáng và Bóng tối, và những đoạn Vaucher trích đó nên hiểu theo một nghĩa khác - chẳng hạn, không phải là diệt các dân bản xứ - tức diệt chủng - mà diệt cái ác ở các dân đó, không phải là chiếm nhà cửa, vườn tược mà tìm được hạnh phúc tinh thần:, giải thích như vậy, nghe cũng xuôi xuôi nhưng chắc là không thuyết phục được mọi người, nhất là Ả Rập, và ngay cả đa số tín đồ Do Thái nữa. Nhưng tín đồ này tụng hoài những đoạn kích thích mạnh mê như vậy, sẽ có thái độ ra sao với người Ả Rập?
Sự xác định đi xác định lại rằng dân Do Thái là “dân tộc được lựa chọn”, rằng xứ Palestine và tất cả tài nguyên của nó thuộc quyền của dân tộc Do Thái đã gây ra những hành động quá khích, của một hạng người Do Thái năm 1948.
Sau Hiệp ước 1949, còn một số người Ả Rập sống chung với người Do Thái ở Israel. Khi đi qua những giáo đường của nhau, người Ả Rập nghe người Do Thái tụng những đoạn ở trên, người Do Thái cũng nghe người Ả Rập tụng những câu ca ngợi thánh chiến của Mohamed thì tâm lý họ, ra sao? Tôi chắc rằng có vô số người Do Thái cứ tin theo nghĩa từng chữ trong Thánh kinh và cho rằng nhiều đoạn tiên tri trong đó đã ứng nghiệm, chẳng hạn như những đoạn:
“Đức Jahvé sẽ bắt con cháu ngươi (tức Jacob, một tộc trưởng Israel sinh 12 con trai; thủy thổ của 12 bộ tộc Israel) phiêu bạt, sống chung vớt các dân tộc khác trên thế giới (…) Mà sống với các dân tộc đó chúng sẽ không được yên ổn, không có chỗ ớ đặt chân, sống giữa kẻ lạ, lòng chúng sẽ ưu tư. Đởi sống của chúng sẽ chập chờn vô định và chúng sẽ run sợ ngày rồi tới đêm”
Nhưng rồi đức Jahvé cũng sẽ tha thứ cho con cưng của ngài:
“Ta sẽ gom dân tộc ngươi lại, hỡi Jacob, sẽ gom con dân còn lại của Israel”.
(Sách Michée, chương 2 tiết 12).
“Ta sẽ đem tù dân Israel ta trở về; chúng sẽ xây dựng lại các thành bị phá và ở đó, chúng sẽ lập vườn nho và uống rượu nho, sẽ làm vưởn và ăn trái. Ta sẽ thấy chung nó trên đất của chúng nó và chúng nó sẽ không bị nhổ khỏi đất mà ta ban cho”.
(Sách Amos, chương 8, tiết 14-15).
Chính François Musard, một người Do Thái lai Pháp, tác giả cuốn “Israel, miracle du XX siècle”, còn tin vậy thì trách chi những người Do Thái ít học, như hạng Do Thái ở Yemen, ở Nga, ở Ấn Độ, ở Ả Rập mới hồi hương.
Mà một khi người ta đã tin những lời “tiên tri” đó là linh ứng thì làm sao người ta khỏi nghĩ rằng muốn không bị “nhổ khởi đất” mà Đức Jahvé đã ban cho thì hai triệu dân Do Thái phải tận diệt 50 triệu dân Ả Rập ở chung quanh. Nhưng 50 triệu dân Ả Rập ở chung quanh cũng phải thề với nhau tận diệt hai triệu dân Do Thái ở Israel để trung thành với Chúa Mohamed.
Lúc bình thường thì hạng bình dân, nước nào cũng lo làm ăn, sống yên ổn, rán theo ít nghi thức trong tôn giáo mình, chứ chẳng nghĩ gì đến những ý nghĩa thâm thuý trong các kinh thánh, nhưng khi có những sự xung đột về kinh tế, về chính trị thì luôn luôn có những người dùng đến sức mạnh của tôn giáo, của cuồng tín mà gây những cuộc tàn sát kinh khủng; mà những cuộc xung đột nào giữa hai dân tộc quốc gia ở thời này cũng có tính cách quốc tế luôn luôn có cường quốc này, cường quốc nọ xen vào, huých bên này, xúi bên kia làm hậu thuẫn hoặc đứng ngoài giật dây. Cuộc xung đột Do Thái - Ả Rập không ra ngoài định luật đó.
4. Nguyên nhân thứ tư là tinh thần quốc gia mới Ả Rập.
Sau mấy thế kỷ bị Thổ đô hộ, tinh thần quốc gia của dân tộc xuống rất thấp, họ bị thao túng, không vùng vẫy lên được, nhẫn nhục chịu cảnh đàn áp của Thổ. Trong thế chiến thứ nhất một quân nhân mạo hiểm, một chính khách kỳ tài của Anh, đại tá T.E. Lawrence, qua sống chung với người Ả Rập, được họ tín nhiệm, yêu mến, tôn trọng, gọi là “ông vua không ngôi của Ả Rập”, ông ta hô hào họ đoàn kết với nhau để đuổi Thổ đi rồi hết chiến tranh sẽ được Anh, Pháp trả độc lập cho. Nhờ vậy tinh thần quốc gia của Ả Rập bùng lên được một thời.
Hết chiến tranh, Anh Pháp nuốt lời hứa, họ bị đàn áp, tinh thần đó lại bị nén xuống. Anh lại dùng chính sách “chia rẽ để dễ trị” và sau thế chiến vừa rồi các quốc gia Ả Rập không đoàn kết với nhau được.
Sự thực họ khó đoàn kết với nhau được lắm. Họ có một điểm chung là ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ không được thống nhất, còn giữ nhiều địa phương tính. Một điểm chung nữa là tôn giáo, nhưng Hồi giáo không phải là quốc giáo trong hết thảy các quốc gia, có quốc gia như Liban một nửa theo Hồi giáo, một nửa theo Ki-tô giáo, và lại Hồi giáo có tín đồ ở khắp thế giới chứ không phải chỉ trên bán đảo Ả Rập. Chính thể của họ cũng khác nhau nữa: hiện nay còn hai nước theo chế độ quân chủ: Jordanie và Ả Rập Saudi, còn các nước khác theo chế độ cộng hoà. Về kinh tế, họ cũng cách biệt nhau xa có nước rất nghèo như Ai Cập, chỉ sống về nghề nông mà đất trồng trọt được rất ít, chỉ là một dảì hẹp hai bờ con sông Nile; có nước rất giàu nhờ mỏ dầu lửa như: Ả Rập Saudi, Kuwait.
Tình trạng chia rẽ đó có hại ra sao, đại tá Nasser đã nhận thấy rõ trong cuộc chiến đấu với Ả Rập năm 1949. Ở mặt trận về ông buồn rầu nhận ra rằng mấy chục triệu Ả Rập thua nửa triệu Do Thải chỉ tại năm quốc gia Ả Rập tuy gọi là liên hiệp với nhau mà thực thì mỗi quốc gia chỉ mưu lợi riêng cho mình. Ông đã thấy Ai Cập không chịu giúp Transjordanie để cho Transjordanie thua ở Bab-el-wad; Transjordanie cũng bỏ rơi Ai Cập khi Ai Cập bị vây ở Fallouga; rồi Iraq thấy khó khăn rút lui trước.
Sau bao nhiêu thế kỷ bị ngoại thuộc, lần này là lần đầu tiên các dân tộc Ả Rập có dịp tỏ mặt với thế giới mà đành nuốt hận một cách nhục nhã như vậy thì làm sao còn dám tự hào là dòng dõi của Chéops, của Ramsès, của Mohamed được nữa. Và từ đó Nasser bỏ tinh thần quốc gia cũ hẹp hòi, nuôi một tinh thần quốc gia mới, tức tinh thần Ả Rập. Không có các dân tộc Ai Cập, Iraq, Syrie, Transjordanie, mà chỉ có mỗi một dân tộc Ả Rập thôi. Phải đoàn kết nhau lại thành một khối Ả Rập thì mới mạnh được. Sự đại bại năm 1949 là một cái may cho khối Ả Rập. Nhờ nó mà họ mới phẫn uất chịu suy nghĩ và tìm cách phục hưng.
Ông cùng một nhóm đồng chí, hầu hết là quân nhân hoạt động cách mạng và ngày 25-7-1952 truất được Farouk, quốc vương Ai Cập; hai năm sau, ngày 14-11-1954, ông làm Tổng thống của nước Cộng hoà Ai Cập. Việc đầu tiên của ông là thương thuyết để mời Anh rút quân ra khỏi Ai Cập. Anh hứa trong 20 tháng sẽ rút hết quân. Việc thứ nhì là lo thống nhất các dân tộc Ả Rập. Trong bài tựa cuốn “Sứ mạng của Islam (The Islamic Call) của một chính khách Mohamed, ông tản tụng sứ mạng truyền bá văn minh, nhất là sứ mạng thống nhất các dân tộc Ả Rập của giáo chủ Mohamed.
Đại ý ông bảo trong nửa cuối thế kỷ thử sáu, trước khi Mohamed ra đời thì thế giới sống trong cảnh bất công, trái với đạo Ki-tô, người ta chém giết nhau để tranh của cướp đất. Mohamed xuất hiện, đem lại sự thời bình, sự an toàn cho quần chúng, dạy mọi người thương yêu nhau, hợp tác với nhau. Nasser hô hào tất cả các người Ả Rập, tất cả các người theo Hồi giáo đoàn kết nhau lại thành một mặt trận để tiếp tục sứ mạng của Mohamed đã bị gián đoạn trong nhiều thế kỳ. Và ông hứa còn sống ngày nào thì nhất quyết thực hiện cho được mục tiêu đó. Để phục hưng tinh thần dân tộc Ả Rập, ông chứng thực sức mạnh của Ả Rập.
Trước hết là sức mạnh về dân số: Dân số Ả Rập tuy chỉ có ba bốn chục triệu, nhưng số người theo Hồi giáo thì rất đông, cộng cả lại ở khắp thế giới được 400 triệu người, hơn Mỹ và Nga, chỉ kém Trung Hoa và Ấn Độ, và dĩ nhiên, theo ông, 400 triệu người đó phải đoàn kết với nhau.
Lẽ thứ nhì là địa thế bán đảo Ả Rập rất quan trọng: nó là cái bản lề của ba châu Âu, Á, Phi. Nếu Ả Rập mạnh lên thì nó có thể cầm đầu châu Phi ảnh hưởng lớn đến Âu, Á. ông hăng hái tuyên bố: “Bắc Phi là một phần của chúng ta, và chúng ta cũng là một phần của Bắc Phi”. “Mỗi dân tộc châu Phi đều là anh em và láng giềng với nhau thì người ta có bổn phận phải giúp đỡ lẫn nhau.
Lẽ thứ ba là bán đảo Ả Rập có tới 50% dầu lửa trên thế giới (12), mà dầu lửa là nhiên liệu quan trọng nhất ở thời này. Không những sức sản xuất đã mạnh mà phí tổn lại rất thấp, chỉ bằng một phần tám phí tổn ở Hoa Kỳ.
Vừa mới thu hồi được chủ quyền mà Nasser đã chủ trương như vậy, làm cho nhiều người coi cuốn “The Islamic Call” là một loại với cuốn Mein Kamp (Cuộc chiến đấu của tôi) của Hitler và bảo «Nasser với Hitler» một vần. Chẳng ngoa chút nào.
Muốn liên kết các quốc gia Ả Rập thì không có gì bằng thổi bùng lên ngọn lửa căm thù Do Thái.
Một triệu người Ả Rập tản cư ở biên giới Israel, nỗi nhục thất trận năm 1949, những đoạn gay gắt trong Coran và Cựu Ước sẽ là chất hồ kết chặt tình anh em của các quốc gia Do Thái. Các nhà lãnh đạo Iraq, Syrie, Ai Cập đều hiểu như vậy và nhà nào cũng muốn tiếp tục sự nghiệp của Mohamed nhưng chỉ có Nasser là được đa số dân chúng Ả Rập ngưỡng mộ hơn cả, vì ông là một nhà ái quốc vốn ghét bọn thực dân Tây phương, lại là nhã lãnh đạo có tài nhất, can đảm nhất trong khối Ả Rập: Ngay Ben-Gurion cũng phải nhận như vậy:
“Tôi trọng sự thông minh của Nasser, ông ta là nhà lãnh đạo độc nhất của khối Ả Rập được quần chúng và quân đội ủng hộ”.
Vậy Nasser nuôi cái mộng thống nhất Ả Rập. Có kẻ bảo Ai Cập quả nghèo, không có cách nào phú cường được, dù có khuếch trương kỹ nghệ, cải thiện nông nghiệp thì cũng chỉ đủ bù vào sự gia tăng dân số, cho nên Nasser phải thôn tính các quốc gia Ả Rập khác để chia nguồn lợi dầu lửa của họ, và muốn thôn tính thì phải lập được một công lớn gì cho toàn khối Ả Rập, công đó chì có thể là diệt Do Thái.
Nói vậy là không hiểu ông ta, ông ta có cái mộng lớn hơn nhiều: diệt Do Thái, thống nhất Ả Rập, rồi cầm đầu khối thứ ba, chống hai khối Nga, Mỹ nữa, cho nên mấy tháng sau khi cầm quyền, ông đã chống hiệp ước Bagdad (1955) đo Anh, Mỹ ký với Thổ, Iraq, Iran, Pakistan để chống Nga Sô, lấy lẽ rằng nước yếu mà liên kết với nước mạnh thì chỉ để cho họ lợi dụng, sai khiến thôi; rồi kế đó cùng với Nehru, Tito, Soekarno đi dự hội nghị Bandoeng để thành lập khối Á Phi.
Ông biết mộng đó còn xa vời, việc trước mắt là trừ cái ung nhọt Do Thái đã.
* * * |
|