|
Chương 11
(tiếp theo)
Giai đoạn đầu đó mất vài ba năm. Qua giai đoạn sau, dân làng bắt đầu tự trồng trọt quản lý được rồi. Huấn luyện viên lựa thanh niên trong làng, đào tạo họ để sau này họ thay thế mình, lúc này có thể không ở thường trực trong làng nữa. Làng đã tiến dần tới sự tự trị.
Qua giai đoạn thứ ba, làng chỉ thỉnh thoáng mới nhờ chính quyền làm cố vấn về kỹ thuật để theo dõi những cải cách tiến bộ mới mẻ nhất mà cải thiện phương pháp canh tác. Có làng muốn nâng cao trình độ văn hoá của dân, lập tủ sách, mua những sách kỹ thuật của phương Tây về nghiên cứu. Người ta nhận thấy rằng trình độ văn hoá của dân càng cao thì hiệu năng của họ càng tăng.
Điều lạ lùng nhất là Israel làm sao kiếm được nhiều huấn luyện viên như vậy. Xét nước ta, rất ít thanh niên lựa nghề canh nông, đại đa số vào các trường luật, trường văn khoa, y khoa, dược khoa. Mà những thanh niên theo ngành nông lâm tốt nghiệp rồi cũng chỉ thích làm ở phòng giấy tại tỉnh, chứ chẳng ai chịu về đồng ruộng sống với nông dân, làm lụng như nông dân.
Ngay Âu, Mỹ cũng thiếu huấn luyện viên canh nông. Một phần tại thiếu trường canh nông, nhưng một phần cũng tại các kỹ sư, cán bộ canh nông của họ không chịu sống ở đồng ruộng. Chính tại Nga cũng có cái tệ hại đó. Người ta khinh nghề tay lấm chân bùn và kẻ ở trường canh nông ra, làm ít năm rồi bỏ nghề, lái xe điện hoặc làm hãng buôn để được ở châu thành, đến nỗi chính quyền Nga các năm 1952-53 đã cương quyết đưa từ 150.000 đến 200.000 chuyên viên canh nông mọi cấp về làm các nông trường tập thể “kolkhoz”, “sovkhoz”.
Vậy thì nhờ đâu mà Israel nhiều huấn luyện viên canh nông tới mức đó? Chỉ nhờ tinh thần của họ, chứ không có gì khác. Chính quyền hết lòng khuyến khích họ, chỉ dẫn họ từng chút từ bước đầu cho đến bước cuối. Còn dân chúng thì hiểu rằng phát triển canh nông là yêu nước, là cứu quốc, làng mạc cỏ mọc đầy trên sa mạc và ở khắp biên giới thì mới giữ được nước. Nếu cứ ham tiền bám cảnh sung sướng mà dồn về các thị trấn, về Tel-Aviv, Haifa, bỏ hoang đồng ruộng, đồi núi thì nhất định sẽ mất nước. Hiểu vậy nên có nhiều ông già cũng xin vô học các trường canh nông, làm gương cho con cháu. Khi họ vô học, ruộng nương của họ mà thiếu người trông nom thì láng giềng họ trông nom giùm cho. Học xong rồi, họ trở về làng làm cho họ và truyền bá kỹ thuật, kiến thức cho bà con. Huấn luyện viên của họ không có tinh thần công chức, mà có tinh thần tiên khu, tinh thần cứu quốc.
Trong những hồi đầu, làn sóng hồi hương ồ ạt chính quyền Israel chưa tổ chức kịp và thiếu kinh nghiệm, gom những người Do Thái từ nhiều xứ khác nhau, phong tục, lối sống trái ngược nhau như dân Roumanie với dân Maroc, đưa về một miền để tạo một làng mới. Có lẽ nhà cầm quyền nghĩ rằng có sống chung với nhau người ta mới mau hiểu nhau mà quốc gia mới dễ thống nhất. Nhưng chẳng bao lâu họ thấy rằng chính sách đó không có kết quả: những dân đó khó sống chung với nhau lắm và rốt cuộc hoặc người Roumanie đi nơi khác, hoặc người Maroc đi nơi khác tìm người cùng xứ.
Nhà cầm quyền Israel phải tổ chức lại: lập những xóm làng nho nhỏ thôi mà dân cư gồm toàn những người cùng xứ, có khi cũng một giới nữa.
Còn một vấn đề nữa khó giải quyết: muốn tăng năng suất thì nên lập những làng nhỏ, mỗi người dân có một khoảnh đất riêng cày cấy lấy hay là nên lập những nông trường thật lớn tổ chức như một đại xí nghiệp mướn nhiều nhà chuyên môn? Cách sau có lợi về phương diện kinh tế, vì có thể khai thác một cách hợp quy tắc khoa học, dùng máy lớn, giảm chi phí, nhưng lại bất lợi về phương diện xã hội, quốc gia: những công nhân làm mướn đó không có tinh thần trách nhiệm, hợp tác, không quyến luyến với đất họ cầy, không gây được một cộng đồng. Từ năm 1963, hình như chính quyền Israel thiên về cách thứ nhất và mặc dầu các công trường lớn năng suất cao thật, người ta cũng tính cắt nó thành những khu nhỏ chia cho dân để họ tạo thành những cộng đồng tự trị. (Ta nên nhớ ở Israel 80% đất thuộc về quốc gia).
***
Cộng trình khai khẩn
Khi Palestine còn là thuộc địa của Thổ, rồi đất bảo hộ của Anh thì đất đai cằn cỗi đến nỗi chính người Ả Rập lại đó cũng thấy nản, chỉ cày cấy vừa đủ ăn, và bán nhiều miếng lớn cho Do Thái.
Đất Palestine cần cỗi thật. Về phương diện canh nông nó gồm bốn miền.(1) Ở chương I, phần I, chúng tôi chia làm ba miền là đứng về phương diện địa lý; miền Bắc ở chương đó gồm miền rừng núi (số 2) và thung lũng (số 3) ở đây.
1. Cánh đồng ven biển.
Sát bờ biển là những động cát, không trồng được gì; phía sau những động cát đó là đất tốt, mầu mỡ, trồng lúa, trái cây, rau được, thường thiếu nước. Miền này từ hồi nào tới giờ vẫn là miền phong phú nhất của Palestine nhưng rất hẹp; sau chiến tranh Độc lập, chính quyền càng gắng sức khai thác: những vườn cam, quít, chanh, bưởi ở Tel Aviv, Haifa là một nguồn lợi lớn của Israel.
2. Miền rừng núi có trồng nho, ô-liu, một vài thứ lúa, nhưng phải bứng đá đi và chống nạn nước mưa xối xuống làm cho đất lở và mất màu mỡ.
Chính quyền Israel đã tận lực khai phá: nghiên cứu từng khoảng xem lớp dưới có tốt không, có đáng công khai phá không, rồi dùng máy, dùng thuốc nổ bứng đá trên mặt đi, tới một lớp sâu đủ cho cây cối mọc được, sau cùng, dùng máy ủi san phẳng thành như một khoảng sân, xây tường thấp ở chung quanh để giữ nước mưa, lại, không cho xối xuống chân núi, tường không xây bằng xi-măng, chỉ chất đá lên thôi. Có lai lớp tường song song nhau, giữa hai lớp đó chất đá vụn đã bứng; các luống cầy đều theo những đường bình hành, không có dốc để giữ phân. Công việc thực tốn kém, khó nhọc và đưa diện tích khai thác tăng lên được 350.000 dounam (350 km2).
3. Liền thung lũng, đặc biệt là thung lũng Jourdain, miền này xưa gồm toàn đầm lầy, đất đen, tốt có nhiều phân lá cây mục do nước nữa xối từ trên cao xuống. Nhưng người Ả Rập bỏ hoang, vì khí hậu rất xấu, nóng quá, ẩm thấp quá, ở ít lâu là bị bệnh sốt rét. Chính quyền Israel phải tháo nước, lấp hồ rồi mới trồng trọt được. Công việc đó hoàn thành năm 1958 và làm cho diện tích khai thác tăng lên được 60.000 dounam (Mỗi dounam là 1000 thước vuông.- 350.ooo dounam bằng 350 cây số vuông). Hồ Houlla và đầm lầy Poleg nay đã thành cánh đồng trồng được đủ các giống lúa và cây ăn trái.
4. Nhưng cả ba miền trên chỉ chiếm non nửa diện tích của Israel, già nửa còn lại là sa mạc Neguev gần hoàn toàn bỏ hoang.
Hồi trước chỉ ở phía Tây, giáp Gaza, tức gần biển và ở phía Bắc, dưới chân những đồi Beercheva là nơi trồng trọt được, còn những miền núi, miền thung lũng Arava đều bỏ hoang. Hầu hết là những đồi cát di động hoài vì gió thổi. Khí hậu rất khô khan, càng về phía Nam càng ít mưa. Tại Beercheva, mỗi năm chỉ mưa 20 phân nước, xuống thấp chút nữa chỉ còn được 10 phân, rồi 5 phân. Tại Eilath ở cực Nam, mỗi năm chỉ mưa được 3,1 phân nước, không bằng một cơn mưa lớn lâu nửa giờ ở nước mình. Mà mỗi năm chỉ mưa có bốn tháng; từ tháng tư tới tháng mười nắng như nung. Nước mưa đổ xuống, 60% bốc lên thành hơi, 5% chảy xuống các sông ngòi, 35% thấm vào đất, xuống tận các mạch ở dưới sâu rồi chảy ra biển Địa Trung Hải, Hồng Hải, thế là mất đi bốn phần năm, đất chỉ giữ lại từ 10 tới 20% nước mưa. Nghĩa là tuỳ chỗ, đất sa mạc Neguev chỉ giữ được 4 phân, 2 phân, 1 phân hay 6 ly nước mưa một năm. Như vậy thì trồng trọt sao được? Chẳng trách người Anh thời còn bảo hộ Palestine đã lắc đầu, không muốn khai thác miền đó. Họ chỉ kiếm lợi, mà Neguev quả thực không có lợi gì cho họ.
Nhưng người Do Thái nghĩ trước hết tới sự tồn vong của dân tộc. Họ đọc Thánh kinh, đọc cổ sử, thấy rằng Neguev đã có thời thịnh vượng, canh nông và kỹ nghệ phát đạt, nuôi nổi từ 80.000 tới 100.000 người. Thời đó Beercheva là một ốc đảo, Abraham đã lập bản dinh ở đấy. Bộ lạc Simeon cĩng sống ở phía Nam Beercheva. Thời vua David, dân cư Bắc Neguev khá đông. Vua Salomon đã khai thác mỏ đồng ở Timna, có một đội thương thuyền trên Hồng Hải, chở sản vật từ Eilath qua phương Đông. Vùa Osias xây đắp nhiều đường, cất tháp canh trong sa mạc: ở đó các dân tộc chung qnanh lui tới buôn bán. Từ thế kỷ thứ hai tới thế kỷ thứ hai sau Tây lịch, Neghev là một trung tâm quan trọng, thịnh vượng, cho nên người La Mã mới xây một dãy đồn luỹ cho lính tới đóng và cày cấy. |
|