|
PHỤ LỤC I
(tiếp theo)
Cuộc đình chiến 90 ngày bắt đầu từ 5-8-1970, tới tháng 11-1970 hết hạn, được gia hạn thêm 90 ngày đến tháng 2-1971, sau cùng được thêm hạn lần thứ nhì thêm một tháng nữa.
Sadat rất muốn ký hoà ước chính thức với Israel, nghĩa là chịu thừa nhận Israel để Israel trả lại một phần bán đảo Sinai; và mở kênh Suez để thu được tiền, mà cũng để được thêm an ninh (vì hễ tàu mọi nước qua kênh thì Israel không dám gây hấn ở khu đó).
Nhưng khi Ai Cập tỏ ra ôn hoà thì Do Thái lại cứng rắn trở lại, Golda Meir bác bỏ đề nghị của Sadat, gây ác cảm với Mỹ và Liên hiệp quốc.
Sự bác bỏ đó làm cho Tổ chức giải phóng Palestine (PLO) và cả dân chúng Ai Cập nữa, nổi lên công kích Sadat dữ dội, muốn lật đổ ông. Sadat thẳng tay đàn áp phe khuynh tả thân Nga, trong đó có Phó tổng thống Sabry.
Vậy qua 1971, tình hình Ả Rập - Israel lại căng thẳng như trước. Sau khi cuộc đình chiến chấm dứt vào tháng ba. Ai Cập và Israel lại oanh tạc lẫn nhau trên khu vực kênh Suez (tháng chín); Ai Cập xin Nga viện trợ thêm khí giới thì Israel cũng xin Mỹ viện trợ thêm phi cơ F-4 Phantom.
***
Năm 1972, có ba việc đáng ghi:
- Hussein, quốc vương Jordanie, muốn bắt tay với Do Thái, đưa ra một đề nghị hoà bình: thành lập một vương quốc liên hiệp Ả Rập - Do Thái ở phía tây sông Jourdain. Đề nghị này bị Tổ chức giải phóng Palestine và các quốc gia Ả Rập khác phản đối.
- Tháng 7-1972, Sadat xin Nga viện trợ thêm khí giới mà không được, nổi giận trục xuất 15.000 cố vấn quân sự Nga, quay sang nhờ cậy Mỹ, Nga thản nhiên mà Mỹ làm lơ, rốt cuộc bốn tháng sau ông ta lại phải trở lại thân Nga (Người ta ngờ rằng đây là mưu mô của Ai Cập và Nga để Mỹ và Israel không ngờ được họ đương chuẩn bị chiến tranh 1973).
- Tháng 9-1972, Do Thái tấn công Syrie và Liban (coi ở sau).
***
Từ đầu năm 1973 tới nay, chỉ có mỗi vụ cảm tử quân Do Thái đột kích Beyrouth, thủ đô Liban (tháng 4-1973) để trả đũa Tổ chức giải phóng Palestine đã thảm sát hai nhà ngoại giao Mỹ ở Khartoum.
Vụ đó cảm tử quân Do Thái thành công mỹ mãn, và ngày 15-5 Do Thái đã long trọng ăn mừng ngày Quốc gia họ được 25 tuổi.
Tóm lại, từ 1967 đến nay, phía Ả Rập còn chia rẽ hơn trước:
- Hussein rất muốn chủ hoà, nhưng luôn luôn bị đả kích, và phải khôn khéo, can đảm lắm mới giữ được tính mạng, vì ba phần tư dân Jordanie là người lưu vong Palestine, chỉ muốn hạ ông để có một chính quyền chống Do Thái mạnh hơn.
- Liban chịu ảnh hưởng của phương Tây (Pháp) từ thời Trung cổ, nên tuy ghét Israel mà vẫn muốn thân Tây phương;
- Ả Rập thuộc dòng Ả Rập Saudi vì quyền lợi dầu lửa, tuy đứng về phe chống Israel, nhưng thường chỉ ủng hộ miệng.
- Ai Cập vẫn cầm đầu phe chống Israel, được Iraq, Algérie, Syrie (thời Atassi), Soudan, Lybie ủng hộ; nhưng từ khi Nasser mất, Ai Cập không còn uy tín lớn nữa, không làm được gì cả, chỉ đột kích Do Thái lẻ tẻ và cũng hô hào suông nữa.
Mấy lần rồi, nhà cầm quyền Ai Cập, Jordanie, muốn tỏ ra ôn hoà thì dân lưu vong Palestine chống đối, phá hoại kế hoạch hoà bình, mà chính dân chúng trong nước họ cũng phẫn nộ. Thêm một khó khăn nữa là Israel không thực tâm muốn hoà bình. Họ biết Ả Rập không làm gì được họ, mà càng chiếm đất đai Ả Rập được lâu thì càng có lợi cho họ khi điều đình thực sự.
Do đó, tình hình cứ căng rồi dãn, dãn rồi căng; lâu lâu để lấy lòng dân chúng, các nhà cầm quyền Ả Rập lại dọa không bán dầu lửa cho nước nào ủng hộ Do Thái; hoặc tuyên bố sẽ “hợp thượng đỉnh để sử dụng tiềm năng của khối Ả Rập trong cuộc tranh chấp với Do Thái”. Nhưng hội nghị mới bế mạc thì họ đã chia rẽ nhau rồi. Do Thái cứ làm thinh chế tạo khí giới, huấn luyện quân đội. Nga cũng làm thinh, còn ngoại trưởng Mỹ Rogers thì vừa rồi tuyên bố chiến tranh ở Tây Á không ích lợi gì cho Ả Rập hết.
Rốt cuộc chỉ còn Tổ chức giải phóng Palestine (PLO) do Yasir Arafat lãnh đạo, là hăng hơn cả, trước sau vẫn quyết tâm sống mái với Do Thái. Nhưng họ chỉ là một bọn lưu vong, không thành một quốc gia, phải ăn nhờ ở đậu các nước khác: đa số ở Jordanie, còn thì rải rác ở Syrie, Liban, A: Cập, Iraq… không rõ Liên hiệp quốc còn chu cấp cho họ không.
Họ vào khoảng non ba triệu người, tình cảnh không đến nỗi điêu đứng, tủi nhục như Do Thái thời trước, nhưng cũng là những con thú không có hang (Byron), lớp lưu vong đầu tiên, hai mươi lăm năm nay ngày nào cũng ngong ngóng được về tổ quốc như Do Thái đã ngong ngóng về Sion. Nếu tình trạng này kéo dài thì họ sẽ thành một thứ tân Do Thái. Vì hiện nay đã có những quốc gia Ả Rập không ưa họ, như Jordanie, Liban.
Người ta trách họ ở đâu cũng lộng hành, cuồng tín, xúi dân nổi loạn, như ở Jordanie năm 1970-1971, ở Liban năm 1973. Điều đó đúng: họ luôn luôn tìm cách lật đổ các chính phủ muốn thoả hiệp với Do Thái.
Họ không có chính quyền, chỉ có một Mặt trận gồm nhiều cảm tử quân, dùng chính sách khủng bố các nông trại Do Thái, phá hoại các phi cơ dân sự Do Thái, bắt cóc các nhân vật Do Thái để buộc Do Thái phải thả những tù binh Palestine; họ phá các toà đại sứ Do Thái ở Bruxelles, Bon, La Haye, uy hiếp một phi hành đoàn Mỹ để phản đối Mỹ bán phi cơ cho Do Thái, cướp phi cơ Đức vì Đức viện trợ Do Thái, vân vân…
Không ai có thể trách họ được: các đoàn Stern và Irgoun của Do Thái trước kia cũng chuyên ám sát các chính khách Anh và du kích quân Anh (coi đầu). Đó là cách chiến đấu của người yếu.
Một vụ điển hình làm sôi nổi thế giới là vụ bắt cóc lực sĩ Do Thái trong thế vận hội Munich 1972. Sáng ngày 5-9-1972, một toán tám tên khủng bố Palestine trong tổ chức “Tháng chín đen” leo tường vô được nơi phái đoàn Do Thái cư ngụ, bắt được chín lực sĩ Do Thái làm con tin, và đòi Do Thái phải thả hai trăm tù binh Palestine, nếu không thì các con tin bị hạ sát hết.
Thủ tướng Tây Đức gắng thương thuyết với họ. Dụ dỗ gì cũng vô ích. Do Thái lại không chịu nhượng bộ. Rốt cuộc Tây Đức tính cách gạt họ, dùng trực thăng chở quân khủng bố và con tin tới phi trường Frastenfeldbruck, rồi dùng những tay thiện xạ phục kích hạ sát được năm tên khủng bố, bắt được ba tên kia, nhưng tất cả chín con tin Do Thái đều bị quân khủng bố giết hết.
Do Thái trả đũa lại, tấn công các căn cứ Palestine ở Syrie, Liban.
Đầu năm 1974, tổ chức “Tháng chín đen” hạ sát hai nhà ngoại giao Mỹ ở Khartoum, và Do Thái khủng bố lại cũng xuất quỉ nhập thần không kém Palestine. Giữa đêm (đầu tháng tư), một đoàn 60 cảm tử quân Do Thái được tầu thuỷ đưa đến đổ bộ lên Beyrouth, thủ đô Liban, nơi có đại bản doanh Tổ chức giải phóng Palestine. Suốt hai giờ rưỡi họ đi lùng khắp Beyrouth như chỗ không người, giết được viên trùm gián điệp Palestine, viên phó tư lệnh tổ chức Al-Fatah, phá được trụ sở Tổ chức giải phóng Palestine, rồi ung dung rút lui, chỉ bị 2 người chết, 2 người bị thương. (phía Ả Rập 14 chết, bị thương nhiều hơn nữa).
Thật là mất mặt thủ tướng Liban, ông ta phải từ chức. Mặc dầu vậy, quân kháng chiến Palestine vẫn chưa nguôi, chê Liban bất lực và xung đột với quân đội Liban.
Trong sáu năm nay, chiến tranh Israel - Ả Rập đã dần dần biến thành những cuộc bắt cóc và đột kích “ngoạn mục” hơn trên màn ảnh. Người Do Thái biết tìm về tổ quốc thì người Palestine lẽ nào lại không? Liên hiệp quốc đã nghĩ tới giải pháp thành lập- đúng hơn là trả lại - một quê hương cho non ba triệu người lưu vong đó cũng như Liên hiệp quốc hồi xưa tặng một “quê hương” cho người Do Thái. Chỉ như vậy mới có hy vọng êm được.
***
Tương lai Israel
Cuối năm 1969, Thủ tướng Levi Eskhol thình lình chết, bà Golda Meir lên thay.
Trong cuốn này đã hai lần nhắc tới bà: một lần ở chương 7, bà đi thuyết phục Abdallah để xin Transjordanie trung lập năm 1948, nhưng thất bại; một lần ở chương Kết, bà đi làm sứ thần Do Thái đầu tiên ở Nga mà không may thêm một chiếc áo mới nào.
Bà Golda Meir sinh năm 1898 ở Kiev (thuộc Nga), nhũ danh là Golda Mabovitch (cha bà Moshé Mabovitch - làm thợ). Bà lấy ông Morris Meyerson ở Mỹ, lấy tên chồng, thành Golda Meyerson. Khi về Palestine, đổi tên Meyerson thành Meir, cho có vẻ Do Thái.
Gia đình Mabovitch nghèo tới nỗi có tám người con thì năm người con trai đều chết vì đói rét, chỉ còn ba người con gái: Shana, Golda và Zipporah.
Vì là Do Thái nên họ bị người Nga ức hiếp, mà mỗi khi có một pogrom, chị em bà trông thấy khinh kị binh Nga (Cosaque) kéo tới là chết khiếp. Năm 1906, cả gia đình di cư sang Mỹ, lập nghiệp ở Milwaukee (tiểu bang Wisconsin).
Golda học giỏi, 14 tuổi lại ở nhờ nhà cô chị Shana đã lập gia đình, ngày đi học, tối làm thợ ủi quần áo để đỡ gánh nặng cho chị.
Năm 1915, 17 tuổi, cô gặp David Ben-Gurion, gia nhập ngay tổ chức “Trở về Palestine” của Gurion. Sau có kết hôn với Morris Meyerson, cũng từ Nga tới. Tính tình hai vợ chồng trái ngược hẳn nhau: chồng vào hạng trí thức, có tâm hồn thi sĩ, mơ mộng; vợ có óc thực tế, tinh thần chiến đấu. Morris chỉ thích ở Milwaukee, nhưng cũng chiều lòng vợ năm 1925, cùng với vợ qua Palestine, làm việc trong một Kibboutz ở Merhavia. Từ đây, bà Golda tận lực hoạt động cho “Tổ quốc Do Thái”, nhưng vẫn không quên bổn phận làm vợ, làm mẹ, gia đình vẫn êm ấm mặc dầu cả chồng lẫn con (một trai, một gái) thiếu hẳn tinh thần cách mạng. Sau hai mươi bốn năm chiến đấu, bà đạt được mục đích và ngày 14-5-1948, bà được cái vui ký tên trên bản tuyên ngôn độc lập, bên cạnh tên Ben-Gurion rồi được cử làm đại sứ ở Moscow. Toà đại sứ của bả có lẽ không tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại: nó là một Kibboutz vì mọi nhân viên kể từ bà trở xuống đều phải thay phiên nhau rửa chén, lau nhà. |
|