Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 7282|Trả lời: 103
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết] Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót | Haruki Murakami

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Đăng lúc 31-7-2012 20:17:58 | Chỉ xem của tác giả Trả lời thưởng |Xem thứ tự |Chế độ đọc



THÔNG TIN TÁC PHẨM

Tác phẩm: Biên niên kí chim vặn dây cót
Tác giả: Haruki Murakami
Dịch giả: Trần Tiễn Cao Đăng
Tình trạng sáng tác: hoàn thành
Nguồn: vietmessenger.com


Giới thiệu sơ lược:

Tiếng hót của con chim vặn giây cót chỉ vang lên vào những thời khắc quyết định, khi con người tỉnh thức những tiếng lòng thầm kín, hay khoảnh khắc thấu suốt cảm giác về Định mệnh; tiếng chim tiên báo những thảm hoạ khốc liệt khơi nguồn từ chính con người, cũng là tiếng thúc giục âm thầm của khát vọng đi tìm chân lý. Tiếng hót của chim vặn giây cót trở thành biểu tượng sự thức tỉnh những xúc cảm mãnh liệt và sự trưởng thành về bản ngã của con người trong đời sống hiện đại. Đó chính là ý nghĩa của hình tượng chim giây cót xuyên suốt cuốn tiểu thuyết lớn của Haruki Murakami

Câu chuyện đưa ta đến nước Nhật thời hiện đại, với những thân phận con người bé nhỏ, lạ lùng. Những cô bé 15 tuổi, như Kasahara May, ngồi sau xe môtô phóng với tốc độ kinh hoàng, vươn tay bịt mắt bạn trai phía trước. Sau tai nạn, bạn trai qua đời, chỉ còn lại mình cô với nỗi day dứt khôn nguôi: “Chính vì có cái chết, người ta mới phải băn khoăn nhiều đến thế về sự sống.” Những thiếu nữ, như Kano Kreta, tự kết liễu đời mình để giải thoát những cơn đau triền miên có thể gặp phải bất cứ lúc nào, vì bất cứ điều gì nhưng không thành. Phải trả nợ một khoản tiền lớn cho hãng bảo hiểm, không do dự, cô đi làm gái điếm. Những Dân biểu nghị viên như Wataya Noburu, leo cao trong danh vọng nhờ tài lừa dối đám đông và khả năng khơi dậy những bản năng sa đoạ ở người khác… Trong thế giới ấy, nhân vật chính của Biên niên ký chim vặn giây cót, Okada Toru, chàng trai giản dị và chân thành, phải đối mặt với biến cố lạ lùng: Kumiko, người vợ yêu dấu của anh bỗng nhiên biến mất không một lời nhắn gửi. Sự kiện phi lý này khơi nguồn cho sự thức tỉnh trong Okada, thúc đẩy anh ngắm nhìn, chứng nghiệm lại thế giới tràn đầy cái phi lý chung quanh mình, bằng con mắt bản thể. Với Murakami, thế giới đầy những điều bất thường, phi lý trở thành động lực để con người lên đường trở lại với bản thể chính mình.Cũng tại thời điểm này, Toru Okada nghe thấy tiếng hót của con chim vặn giây cót, như tiếng vọng của bản ngã chính anh. Watanabe bắt đầu cuộc hành trình nhận thức, cuộc hành trình tràn đầy những xúc cảm mãnh liệt khám phá lại cuộc sống và tình yêu đã qua, cuộc sống đang diễn ra, của chính mình và những người xung quanh. Với Okada, từ đây cũng mở ra một thế giới siêu thực với những giấc mơ đầy ám ảnh tính dục, những căn phòng tối đen ngào ngạt phấn hoa cất giấu bí mật về sự lệ thuộc và nô dịch, bóng tối thẳm sâu của bản ngã và xa rời bản ngã, Thiền, và những năng lực tâm linh siêu hình. Trong những mối quan hệ đầy cảm thông và gần gũi với những phụ nữ khác, Kasahara May, mẹ con nhà tạo mẫu Akasaka Nhục đậu khấu, hay Kano Kreta…, Okada dần dần hiểu ra bản chất của cuộc sống con người, không phải một mắt xích của thế giới vật chất cơ giới từ bên ngoài, mà chính là những năng lực tưởng tượng sáng tạo của nội giới, những ám ảnh tinh thần truyền từ người nọ sang người kia, từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Okada cũng nối lại trong mình sợi dây liên kết bí ẩn mà mạch lạc với quá khứ xa xăm, nhờ những câu chuyện của các chiến binh xưa và nhân chứng sống như Akasaka. Một thế giới khác, giấc mộng bá chủ không thành của quân đội Thiên hoàng trên cao nguyên Nội Mông, trận Normohan, Trân Châu Cảng, những cuộc tàn sát man rợ trong và sau Thế chiến 2, khi con người từng rơi vào vực thẳm bởi chính sự tàn ác và lầm lạc của chính mình. Okada đã giác ngộ, không còn cách nào khác, chỉ có cương quyết diệt trừ cái ác, bắt đầu từ trong chính những - giấc - mơ của con người, đấu tranh chống lại nó trong chính thực tại hôm nay. Đó cũng là con đường để giải thoát cho người vợ thân yêu của anh đang bị giam cầm trong vết thương tinh thần như một ác mộng khủng khiếp về con quỷ Râu xanh, do chính người anh vợ, chính khách Wataya Noburu gây nên.

Okada và Watanabe của Rừng Nauy, là loại nhân vật quen thuộc của Murakami. Chân thành và giản dị, không bị ảnh hưởng bởi bất cứ khuôn mẫu xã hội nào, sống và yêu thương với bản tính tự nhiên và hiện sinh, đồng thời lắng nghe, cảm thông, kết nối con người với nhau - các nhân vật thể hiện trọn vẹn và sâu sắc tinh thần nhân đạo của Murakami.

Bạo lực và tình dục, những yếu tố thịnh hành của thể loại tiểu thuyết đen phổ biến trên thế giới, xuất hiện trong tác phẩm của Murakami chỉ như một trong những phương diện miêu tả và khám phá đời sống. Vẻ đẹp tràn đầy tác phẩm là sự tinh tế và mãnh liệt của tinh thần và bản ngã con người, đủ để đưa Murakami đứng vào hàng các tác gia vĩ đại trên thế giới.


Nhận xét của báo chí

Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót (theo Báo Người lao động)


Biên niên ký chim vặn dây cót*
(22-09-2006 )
(NLĐO)- Một ngày, con mèo của Toru Okada, một luật sư vừa bỏ việc, đột ngột biến mất. Tiếp theo, Kumiko, vợ của Toru Okada cũng bỏ đi, chỉ để lại một lời nhắn duy nhất anh đừng tìm cô vô ích.

Không dễ dàng để mất đi những người thân yêu nhất của mình, Toru nỗ lực tìm vợ và con mèo, nhưng việc tìm kiếm đó liên tục bị gián đoạn bởi sự xuất hiện của những nhân vật kỳ lạ. Một cô gái điếm mắc bệnh tâm thần gọi đến quấy rối tình dục anh qua điện thoại, hai chị em thầy đồng, một cô bé 16 tuổi bị ám ảnh bởi cái chết của bạn trai gọi anh là “chim vặn dây cót”, một cựu chiến binh kể lại cho anh câu chuyện về nỗi kinh hoàng của binh lính Nhật trong những năm đầu chiến tranh thế giới thứ hai tại cao nguyên Mông Cổ và trên đất Trung Hoa.

Trong những ngày tìm kiếm vợ, Toru đã dành rất nhiều thời gian cho việc ngồi trầm tư mặc tưởng dưới đáy một cái giếng cạn, cố gắng đi sâu vào thế giới tinh thần của chính mình. Việc đó đẩy anh đến xung đột với Noburo, người anh rể đầy quyền lực của minh...

Những ngày tìm kiếm ấy cũng là quá trình nhập cuộc của Toru chiến đấu chống lại cái ác, tìm ra cách thế tồn tại trong hành động, để giải thoát nỗi đau và những ám ảnh tinh thần của mình. Toru Okada chỉ là một người đàn ông Nhật bình thường trong xã hội hiện đại, nhưng những gì xảy đến với anh lại là những điều chẳng hề bình thường. Chúng là hiện thân của sự bất an tiềm tàng trong cuộc sống bình thản hàng ngày, sự sống dậy của quá khứ đã bị bỏ quên, sự phi lý trong cuộc sống tuân theo quy luật thông thường, là cái kì ảo và bất khả tri trong thế giới hiện thực.

Vừa mang dáng dấp của một cuốn tiểu thuyết trinh thám vừa mang tinh thần hoài niệm lịch sử, vừa là những trang viết về cuộc sống đời thường, vừa là sự khám phá thế giới tinh thần siêu nghiệm, Biên niên ký chim vặn dây cót của nhà văn nổi tiếng Haruki Murakami (từng được biết đến tại Việt Nam qua tiểu thuyết Rừng Nauy) đã kết hợp một cách tuyệt vời những yếu tố kì ảo, phi lý với hiện thực lịch sử. Cuốn sách đã được được nhiều nhà phê bình đánh giá là tác phẩm thành công nhất của Murakami chính bởi sự biến hóa, kết hợp tài tình những yếu tố tưởng chừng đối lập đó của ông.

Sinh năm 1949, Murakami từng học về kịch tại đại học Waseda, Tokyo. Cuốn sách đầu tay của ông Lắng nghe gió hát đã giành được giải thưởng văn học Gunzou cho tài năng trẻ nhưng danh tiếng của ông thực sự được biết đến qua cuốn Rừng Nauy. Năm 1995, Biên niên ký chim vặn dây cót xuất bản, được các nhà phê bình ngợi khen như tác phẩm thành công nhất của Murakami và giành được giải thưởng văn học Yomiuri. Tác phẩm mới nhất của Murakami là tập truyện ngắn Liễu mù, đàn bà ngủ gồm 25 tác phẩm được xuất bản.
Yến Anh.


Biên Niên Ký Chim Vặn Dây Cót (theo Báo Tuổi trẻ)
(Thứ Ba, 26/09/2006)

Khởi đầu từ việc người đàn ông thất nghiệp Toru Okada tìm kiếm con mèo mất tích, sau đó tìm kiếm người vợ cũng đột nhiên biến mất của anh ta, Murakami, với trí tưởng tượng siêu việt của mình, đưa người đọc đến một thế giới cực kỳ phức tạp và lạ lùng, thực và ảo, quá khứ và hiện tại đan quấn vào nhau, nơi những con người kỳ quặc vừa sống vừa tự hỏi không biết có phải mình đang sống không, nơi mà những giá trị tưởng như hiển nhiên của cuộc sống đương đại chỉ được vọng đến như những tiếng ồn từ mặt đất xuống đáy giếng cạn, hay khúc xạ như ánh mặt trời buổi trưa chiếu qua lỗ hẹp ở miệng giếng trên sa mạc.

Kỳ quặc như vậy, phi hiện thực như vậy nhưng vẫn ôm trọn hầu như tất cả cuộc sống đương đại của xã hội Nhật Bản đang đầy hoang mang: một chính trị gia trẻ suy đồi hợp mốt, một bà đồng, một thiếu phụ bỏ chồng vì quá yêu anh ta mà không bảo vệ được, một cựu binh Thế chiến thứ hai không bao giờ thoát khỏi ám ảnh về chiến tranh, một thiếu nữ 16 hình như mắc bệnh tâm thần...

Toru Okada - biệt hiệu “chim vặn dây cót”, đã hồi tưởng tất cả những cuộc gặp gỡ với các nhân vật và số phận ấy, đã trải nghiệm tất cả sự hư vô của cuộc đời trong lòng một cái giếng cạn để rồi đứng lên, thoát ra và bắt đầu cuộc sống mới của mình, với nguyên vẹn tình yêu.

Quá dày (708 trang khổ 15x24, co chữ nhỏ), quá nặng, nhưng Biên niên ký chim vặn dây cót (Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn) thật sự là một kiệt tác của tài năng trời phú và tình yêu con người.

THU HÀ

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

104#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 20:26:17 | Chỉ xem của tác giả

Chương 39
Tạm biệt


- Tiếc là em không thể chỉ cho anh xem dân vịt. Chim vặn dây cót à, - Kasahara May có vẻ tiếc rẻ rất thành thực.

Cô và tôi đang ngồi trên bờ, nhìn mặt hồ đóng lớp băng dày. Đó là một cái hồ lớn, trên mặt băng có hàng ngàn vết cắt nhỏ vì đế giày trượt. Kasahara May đã xin nghỉ phép sáng thứ Hai hôm nay chỉ vì tôi. Tôi đã định đến thăm cô vào Chủ nhật, nhưng vì có tai nạn tàu hỏa nên tôi bị trễ mất một ngày. Kasahara May quấn mình kín mít trong áo lót lông. Chiếc mũ len màu xanh nhạt của cô thêu hoa văn hình học bằng sợi len trắng, trên chỏm có quả cầu tròn nho nhỏ. Cô đã tự đan chiếc mũ đó cho mình, cô bảo mùa đông sang năm cô sẽ đan một chiếc y như thế cho tôi. Má cô đỏ hây hây, mắt cô ngời sáng trong trẻo như bầu không khí xunh quanh, khiến tôi thấy thật sung sướng: dù sao đi nữa cô chỉ mới mười bảy tuổi, cô còn có thể thay đổi đến vô cùng.

- Từ khi hồ đóng băng kín thì dân vịt chuyển đi chỗ khác hết rồi. Nếu anh gặp thì nhất định anh cũng sẽ yêu chúng ngay. Mùa xuân này anh trở lại nhé? Em sẽ giới thiệu anh với chúng.

Tôi mỉm cười. Tôi mặc một chiếc áo khóa len không ấm lắm, quấn khăn quàng kín tận má, tay thọc vào túi áo. Trong rừng lạnh căm căm. Tuyết cứng như đá phủ đầy mặt đất. Đôi giày thể thao của tôi cứ trượt luôn. Lẽ ra tôi phải mua từ trước một đôi giày cao cổ chống trược dành riêng cho chuyến đi này.

- Vậy là em định sẽ ở lại đây lâu hơn phải không? - Tôi hỏi.

- Chắc vậy. Có thể sau một thời gian nữa em sẽ về đi học lại. Mà cũng có thể không. Em chả biết nữa. Cũng có khi em đi lấy chồng không chừng... mà cũng không chắc. - Cô mỉm cười, thở ra một làn hơi trắng. - Nhưng dù gì, em cũng ở lại đây ít lâu nữa. Em cần thêm thời gian để suy nghĩ. Nghĩ xem em muốn làm gì, em muốn đi đâu. Em cần có thì giờ để nghĩ về những chuyện đó.

Tôi gật đầu: - Có lẽ em cần phải làm vậy thật.

- Này Chim vặn dây cót, hồi bằng tuổi em, anh có hai nghĩ về những chuyện như thế không?

- Hừm. Chắc là không. Chắc anh cũng có nghĩ tới mấy chuyện đó một chút, nhưng nếu nghĩ một cách nghiêm túc như em thì không... anh nhớ là không. Chắc là hồi đó anh nghĩ nếu mình cứ bình thường mà sống thì mọi chuyện tự nó sẽ ổn thôi. Nhưng kết cục lại chẳng như vậy, phải không? Thật đáng tiếc.

Cô nhìn thẳng vào mắt tôi, khuôn mặt cô bình thản. Rồi cô đặt đôi găng tay lên lòng mình, chiếc nọ chồng lên chiếc kia.

- Vậy là rốt cuộc người ta sẽ không thả Kumiko ra à? - Cô hỏi.

- Cô ấy không chịu ra tại ngoại, - tôi nói. - Cô ấy sợ nếu ra ngoài thì sẽ bị đám đông quây lấy, không cho cô ấy yên. Chẳng thà cứ ở trong tù, được tĩnh lặng bình an. Thậm chí cô ấy cũng không muốn gặp anh nữa. Cô ấy không muốn gặp ai hết, chừng nào mọi việc chưa giải quyết xong.

- Bao giờ phiên tòa bắt đầu?

- Đâu như vào mùa xuân, Kumiko nhận tội. Cô ấy sẽ chấp nhận phán quyết của tòa, dù tòa quyết định thế nào đi nữa. Phần xét xử chắc sẽ không kéo dài đâu. Có nhiều khả năng cô ấy sẽ được hưởng án treo, cùng lắm thì cũng xử nhẹ thôi.

Kasahara May nhặt một hòn đá dưới chân ném ra giữa hồ. Hòn đá rơi đánh cạch xuống mặt băng rồi văng sang phía bên kia.

- Còn anh Chim vặn dây cót, anh lại sẽ ở nhà đợi chị Kumiko chứ?

Tôi gật đầu.

- Thế cũng tốt nhỉ... có tốt không?

Tôi thở một cụm mây trắng lớn vào bầu không khí lạnh.

- Anh không biết, chắc là chính bọn anh đẩy mọi chuyện đến chỗ này thôi.

Kết cục có khi còn tệ hơn nhiều ấy chứ, tôi tự nhủ.

Đằng xa, trong khu rừng bao quanh hồ, một con chim cất tiếng kêu. Tôi ngẩng lên nhìn khắp xung quanh, nhưng chẳng còn nghe thấy gì nữa. Chẳng thấy gì nữa. Chỉ có âm thanh khô khốc, rỗng không cửa một con chim gõ kiến đang khoan lỗ vào thân cây.

- Nếu Kumiko và anh có con, anh chắc sẽ đặt tên nó là Corsia, - tôi nói.

- Tên hay quá, - Kasahara May nói.

° ° °


Khi hai chúng tôi đi bên nhau xuyên qua khu rừng, Kasahara May tháo găng tay bên phải rồi đút tay vào túi áo khoác của tôi. Điều đó làm tôi nhớ lại Kumiko. Nàng cũng hay làm như vậy những khi chúng tôi cùng đi bên nhau vào mùa đông, để cả hai có thể dùng chung một cái túi áo trong những ngày lạnh giá. Tôi nắm bàn tay Kasahara May trong túi áo tôi. Đó là bàn tay bé nhỏ, ấm như một linh hồn ẩn dật.

- Này Chim vặn dây cót, chắc ai người ta cũng nghĩ mình là đôi tình nhân đấy.

- Có lẽ em nói đúng.

- Thế thì anh có đọc hết thư của em không đấy?

- Thử của em á? - Tôi hoàn toàn không hiểu cô đang nói đến chuyện gì. - Anh xin lỗi, anh chẳng hề nhận được thư từ nào của em hết. Anh phải hỏi mẹ em mới có địa chỉ và số phone của em. Cũng chẳng dễ đâu, anh đã phải bịa một chút đấy.

- Ôi không! Thế thì thư em đi đâu hết rồi? Em viết cho anh dễ đến năm trăm bức là ít! - Kasahara May nhìn lên trời.

° ° °


Chiều muộn ngày hôm đó, Kasahara May tiễn tôi ra ga. Hai chúng tôi đáp xe buýt vào thị trấn, ăn bánh pizza ở một nhà hàng gần ga, sau đó đợi đoàn tàu bé tí vỏn vẹn ba toa chạy bằng dầu diesel rốt cuộc cũng bò tới. Hai ba người đứng quanh chiếc lò sưởi to đốt bằng củi đỏ rực giữa phòng đợi, nhưng hai chúng tôi thì đứng ngoài sân ga giữa trời lạnh. Một vần trăng mùa đông rõ ràng, sắc cạnh đông cứng trên bầu trời. Đó là vầng trăng non, với đường cong sắc nét như một thanh gươm Trung Hoa. Dưới vầng trăng ấy, Kasahara May nhón chân hôn lên cổ tôi. Tôi cảm thấy đôi môi mỏng, lạnh của cô chạm vào chỗ trước kia có vết bầm.

- Tạm biệt, Chim vặn dây cót, - cô thì thầm. - Cám ơn anh đã đi ngần ấy đường để đến thăm em.

Hai tay thọc sâu trong túi áo khoác, tôi nhìn vào mắt cô. Tôi chẳng biết nói gì.

Khi tàu đến, cô cởi mũ ra, lùi lại một bước rồi nói với tôi:

- Nếu có chuyện gì xảy ra với anh, chỉ cần gọi em cho to vào. Chim vặn dây cót nhé? Gọi em và gọi dân vịt.

- Tạm biệt, Kasahara May, - tôi nói.

° ° °


Vòng cung trăng vẫn treo trên đầu tôi mãi sau khi tàu đã rời ga, xuất hiện rồi lại biến mất mỗi khi tàu vào một khúc quanh. Tôi dán mắt vào vầng trăng, và mỗi khi nó biến khỏi tầm nhìn, tôi ngắm ánh đèn những thị trấn nhỏ lướt qua cửa sổ. Tôi nghĩ đến Kasahara May, đội chiếc mũ len màu xanh dương, đang ngồi một mình trên xe buýt quay về nhà máy ở trên đồi. Đoạn tôi nghĩ về dân vịt đang thiu thiu ngủ ở đâu đó trong bóng cỏ. Cuối cùng tôi nghĩ về cái thế giới, nơi tôi đang quay về.

- Tạm biệt, Kasahara May, - tôi nói. Tạm biệt, Kasahara May: cầu chúc cho luôn luôn có một cái gì đó trông chừng bảo vệ em.

Tôi nhắm mắt lại cố ngủ. Nhưng mãi rất lâu sau tôi mới thực sự ngủ được. Ở một nơi xa cách bất kỳ ai hay bất cứ nơi đâu, tôi mơ màng thiếp đi một lát.



HẾT

Rate

Số người tham gia 1Sức gió +3 Thu lại Lý do
Nhutphonglin + 3 Cám ơn bạn :)

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

103#
 Tác giả| Đăng lúc 13-6-2013 20:23:58 | Chỉ xem của tác giả

Chương 38
Biên niên ký sự của
Chim vặn dây cót Số 17
(Thư của Kumiko)


Có nhiều chuyện em muốn nói với anh. Kể cho hết thì phải mất nhiều thì giờ lắm, có khi phải mấy năm trời. Đáng ra em phải bộc bạch với anh từ lâu, thú nhận với anh tất cả, nhưng tiếc thay, em không đủ can đảm làm vậy. Thế nhưng em vẫn ấp ủ một hy vọng vu vơ, rằng mọi chuyện sẽ không đến nỗi tệ hại như vậy. Kết quả là cơn ác mộng này dành cho cả anh và em. Lỗi tại em hết. Nhưng giải thích mọi chuyện thì cũng đã quá muộn rồi. Chúng ta không có nhiều thời gian để làm việc đó. Cho nên ở đây em chỉ muốn nói với anh điều quan trọng nhất thôi.

Đó là, em cần phải giết anh trai em, Wataya Noboru.

Lát nữa em sẽ đến phòng bệnh nơi anh ta đang ngủ, để rút phích cắm hệ thống duy trì sự sống cho anh ta. Em là em gái anh ta, nên người ta sẽ cho em thay y tá ở lại qua đêm cạnh anh ta. Hệ thống bị ngắt rồi mọi người cũng không nhận ra ngay đâu. Hôm qua em đã nhờ bác sĩ chỉ cho cách vận hành hệ thống. Em định sẽ đợi đến khi chắc chắn là anh ta đã chết, chừng đó em tự nộp mình cho cảnh sát. Em sẽ bảo họ, em đã làm việc em cho là đúng, nhưng không giải thích gì hơn. Chắc người ta sẽ bắt giữ em ngay tại chỗ và đưa em ra tòa vì tội giết người. Báo chí sẽ nhảy vào, mọi người sẽ nêu ý kiến về chuyện chết không đau đớn và những thứ đại loại thế. Nhưng em sẽ vẫn im lặng. Em không giải thích hay thanh minh gì cả. Trong mọi chuyện chỉ có một sự thực duy nhất mà thôi, ấy là em muốn kết liễu cuộc đời của một con người, Wataya Noboru. Họ sẽ tống giam em, nhưng chuyện ấy em không hề sợ. Những gì tồi tệ nhất em đã trải qua cả rồi.

° ° °


Nếu như không có anh, chắc em đã mất trí từ lâu. Chắc hẳn em đã tự trao mình trọn vẹn, trống rỗng, cho một kẻ khác và rơi xuống tới một nơi không còn hy vọng phục hồi. Anh trai em, Wataya Noboru, đã làm đúng như vậy với chị gái em nhiều năm trước đây, rốt cuộc chị ấy đã tự sát. Anh ta đã làm ô uế hai chị em. Nói đúng ra, anh ta không làm ô uế thân thể chúng em. Việc anh ta đã làm còn tồi tệ hơn thế.

Em đã bị tước quyền tự do làm bất cứ việc gì, tự giam mình đơn độc trong phòng tối. Chẳng ai xiềng xích em hay đặt lính gác canh giữ, nhưng em không thể nào thoát ra được. Anh trai em giam giữ em bằng những thứ xiềng xích và lính gác mạnh hơn nhiều - những xiềng xích và lính gác vốn là chính bản thân em. Em chính là xiềng xích buộc vào chân em, chính là tên lính gác tàn bạo không bao giờ ngủ. Dĩ nhiên bên trong em còn có một cái tôi khác muốn thoát ra, nhưng đồng thời lại có một cái tôi nữa hèn đớn, trụy lạc đã mất hết mọi hy vọng liệu có bao giờ thoát được, và cái tôi thứ nhất chẳng bao giờ át nổi cái tôi thứ hai vì em đã quá mức ô uế trong thể xác và tâm hồn rồi. Em đã đánh mất quyền trở lại với anh, không chỉ vì em đã bị anh trai, Wataya Noboru làm ô uế, mà còn bở từ trước đó em đã tự làm ô uế mình đến không sao cứu chữa nổi.

Trong thư em có nói với anh, em đã ngủ với người đàn ông khác, nhưng nội dung thư đó không phải là sự thật. Em phải thú nhận sự thật với anh ở đây. Em đã ngủ không chỉ với một người mà với nhiều người khác nữa. Nhiều quá không đếm xuể. Chính em cũng không biết, cái gì đã xui em làm một việc như vậy. Bây giờ nhìn lại, em nghĩ đó chắn hẳn là do ảnh hưởng của anh trai em. Hẳn là anh ta đã mở một cái ngăn kéo nào đó bên trong em, lôi ra một cái gì đó không hiểu là gì, thế là anh ta khiến em phải hiến thân cho hết người này đến người khác. Anh trai em có cái thứ sức mạnh đó, và, dẫu không muốn, em cũng phải thừa nhận điều này: nhất định là hai anh em chúng em có gắn bó khăng khít với nhau ở một chỗ tăm tối nào đó.

Dù thế nào thì thế, khi anh trai em đến chỗ em thì em đã tự làm ô uế mình không sao gột rửa được. Rốt cuộc em đã bị mắc bệnh giang mai. Nhưng dẫu có vậy đi nữa, như em đã nói trong thư, trong thời gian đó, em không bao giờ cảm thấy mình đang làm điều gì xấu với anh. Em cảm thấy việc em làm dường như hoàn toàn tự nhiên - chắc đó không phải là cái tôi thực của em nên mới cảm thấy như vậy. Tuy nhiên, liệu có đúng vậy không chứ? Liệu câu trả lời có thực sự đơn giản như vậy không? Mà nếu vậy thì đâu là cái tôi thực của em? Liệu em có cơ sở vững chắc nào để kết luận rằng cái tôi đang viết bức thư này là "cái tôi thực"? Em chưa bao giờ có thể tin chắc đến vậy vào "cái tôi" của em, cả đến giờ phút này cũng thế.

Em thường mơ thấy anh, những giấc mơ sống động, rõ mồn một. Trong những giấc mơ đó, anh luôn luôn đang tuyệt vọng tìm em. Chúng ta đang ở trong một thứ mê cung, anh gần như đã đến sát cạnh chỗ em đang đứng. "Thêm một bước nữa thôi! Em đang ở ngay đây!" Em muốn thét lên, giá như anh tìm thấy em và ôm em vào lòng thì cơn ác mộng hẳn đã chấm dứt, mọi thứ sẽ quay lại như xưa. Nhưng em không thể nào cất lên tiếng thét đó. Thế là anh lại không nhìn ra em trong bóng tối, anh đi ngang qua ngay trước mặt em rồi biến mất. Lúc nào cũng vậy. Thế nhưng, những giấc mơ ấy vẫn giúp đỡ và khích lệ em. Ít nhất là em biết, mình vẫn còn sức để mơ. Anh trai em không thể ngăn em làm chuyện đó. Em cảm thấy được rằng anh đang cố hết sức bình sinh để đến gần em. Có thể một ngày nào đó anh sẽ tìm thấy em, ôm em vào lòng, quét sạch những thứ bẩn thỉu kinh tởm đang bám chặt lấy em rồi cứu em thoát khỏi chỗ đó vĩnh viễn. Có thể anh sẽ phá được lời nguyền, gắn lại niêm phong sao cho cái tôi thực của em sẽ không bao giờ phải bỏ đi đâu nữa. Chính nhờ vậy em mới còn giữ được một ngọn lửa hy vọng con con ở cái nơi tối tăm lạnh lẽo không lối thoát này, vẫn giữ được chút nhỏ nhoi còn sót lại từ giọng nói đích thực của em.

Em nhận được mật khẩu truy nhập máy tính hồi chiều nay. Có ai đó đã gửi nó cho em bằng thư bảo đảm. Em đang gửi thư này cho anh từ máy vi tính trong văn phòng của anh trai em. Em hy vọng thư sẽ đến tay anh.

° ° °


Em không còn thời gian nữa. Taxi đang đợi em ngoài kia. Em phải đến bệnh viện ngay bây giờ, để giết anh trai em và chịu trừng phạt. Lạ thật, em không còn căm thù anh trai em nữa. Em thanh thản với ý nghĩ mình sẽ phải xóa sạch cuộc đời anh ấy ra khỏi thế giới này. Em phải làm việc đó vì chính anh ấy nữa. Và để mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của chính em.

Anh nhớ chăm nom con mèo nhỏ. Anh không thể biết em vui đến nhường nào khi hay tin nó đã trở về đâu. Anh bảo tên nó là Cá thu à? Em thích cái tên ấy. Nó luôn luôn là biểu tượng cho một cái gì tốt lành đã lớn lên giữa hai ta. Lẽ ra hồi đó chúng mình đừng để mất nó mới phải.

° ° °


Em không thể viết thêm gì nữa. Tạm biệt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

102#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:25:43 | Chỉ xem của tác giả

Chương 37

Hai loại tin khác nhau

Vật biến mất

- Quế đã đưa cậu về đây, - Nhục đậu khấu nói.

Điều đầu tiên tôi nhận thấy khi thức dậy là đau, đau dưới nhiều dạng khác nhau, méo mó. Con dao đã làm tôi bị thương, mọi khớp sụn, mọi khớp xương, cơ bắp trong thân thể tôi đều khiến tôi đau. Hẳn là nhiều bộ phận thân thể tôi đã va mạnh vào vật này vật khác trong lúc tôi bỏ chạy trong bóng tối. Thế nhưng hình dạng của mỗi cái đau khác nhau đó vẫn chưa đúng hẳn. Chúng đâu như gần với cái đau, nhưng không thể gọi đích xác là cái đau.

Kế đó tôi nhận ra mình đang nằm dài trên ghế sofa trong "phòng chỉnh lý" của Dinh, mặc bộ pyjama màu xanh lính thủy mà tôi chưa thấy bao giờ, mình đắp chăn. Rèm mở toang, ánh mặt trời buổi sáng tuôn vào qua cửa sổ. Tôi đoán bây giờ chắc khoảng 10 giờ. Không khí nơi đây thật trong lành, và thời gian thì vẫn đang trôi về phía trước. Nhưng vì sao tất cả những chuyện đó lại xảy ra được, tôi không sao lý giải rõ ràng.

- Quế đã đưa cậu về đây, - Nhục đậu khấu nói. - Mấy vết thương của cậu không nặng lắm. Vết trên vai khá sâu, nhưng không phạm đến mạch máu chính nào, cũng may. Những vết trên mặt thì chỉ là trầy xước. Quế đã dùng kim chỉ khâu các vết thương khác sao cho cậu không bị sẹo. Chuyện ấy thì nó giỏi lắm. Ít hôm nữa cậu có thể tự tháo chỉ được, không thì nhờ bác sĩ.

Tôi cố nói, nhưng không thốt được tiếng nào. Tôi chỉ làm được mỗi một việc là hít vào rồi thở ra nghe rin rít chói tai.

- Cậu khoan hãy cố nói hay cử động thì tốt hơn, - Nhục đậu khấu nói. Bà ngồi trên chiếc ghế gần đó, hai chân bắt tréo. - Quế bảo cậu đã ở dưới giếng quá lâu, thiếu chút nữa là đã chết rồi. Nhưng đừng hỏi tôi đã xảy ra chuyện gì. Tôi chẳng biết gì hết. Nửa đêm có cú điện thoại gọi tôi, tôi bèn gọi taxi rồi ù té tới đây ngay. Cụ thể chuyện gì xảy ra trước đó thì tôi không biết. Quần áo cậu ướt sũng, toàn là máu. Chúng tôi quăng đi rồi.

Nhục đậu khấu ăn mặc đơn sơ hơn mọi khi, có lẽ đúng là bà đã quáng quàng ra khỏi nhà thật. Bà mặc áo len ca-sơ-mia màu kem khoác ngoài áo sơ-mi nam giới kẻ sọc, váy len màu xanh ôliu, không nữ trang, tóc buộc đằng sau. Bà trông hơi mệt mỏi, nhưng trừ cái đó ra thì bà trông như người mẫu trong cataloug ảnh. Bà cho một điếu thuốc lên môi rồi châm lửa bằng chiếc bật lửa bằng vàng, làm phát ra tiếng tách rõ rệt, khô khốc quen thuộc, đoạn hít mấy hơi, mắt nheo nheo lại. Tôi đúng là chưa chết thật, tôi tự trấn an mình khi nghe tiếng tách của cái bật lửa. Hẳn là Quế đã kéo tôi lên khỏi giếng đúng vào phút chót.

- Quế hiểu biết mọi chuyện theo một kiểu đặc biệt, - Nhục đậu khấu nói. - Khác với tôi hay cậu, nó luôn luôn suy nghĩ rất sâu xa về khả năng xảy ra chuyện này hay chuyện khác. Nhưng ngay cả nó cũng không tưởng tượng nổi nước lại dâng đầy cái giếng đó đột ngột đến thế. Chuyện đó nằm ngoài mọi khả năng mà nó đã tiên liệu. Chính vì vậy mà suýt nữa là cậu mất mạng rồi. Đây là lần đầu tiên tôi thấy thằng bé hoảng hốt đến thế.

Bà cố mỉm cười khi nói như vậy.

- Hẳn là nó thật sự thích cậu, - bà nói.

Sau đó bà nói gì tôi không nghe được nữa. Tôi nghe đau ở sâu đằng sau mắt, mí mắt tôi nặng như chì. Tôi cứ để mắt díp lại mà đắm vào trong bóng tối như đang đi xuống bằng buồng thang máy.

° ° °


Phải mất hai ngày cơ thể tôi mới hồi phục lại. Suốt thời gian đó Nhục đậu khấu luôn ở bên tôi. Tôi không tự dậy được, không nói được, gần như không ăn được. Cố lắm tôi cũng chỉ hớp nổi vài hớp nước cam và nhấm vài miếng đào đóng hộp. Ban đêm Nhục đậu khấu về nhà, sáng ra lại đến. Thế cũng tốt, bởi vì suốt đêm - và hầu như suốt cả ngày nữa tôi ngủ như chết - tôi bị nhiễm cái lạnh ngoài trời. Rõ ràng ngủ là thứ tôi cần nhất để có thể hồi phục.

Tôi không hề gặp Quế. Hình như Quế cố tình tránh mặt tôi. Ngày nào tôi cũng nghe tiếng xe anh ta qua cổng mỗi khi đưa đón Nhục đậu khấu hoặc mang tới đồ ăn, quần áo - nghe cái tiếng ùng ục trầm trầm đặc biệt của động cơ xe Porsche, bởi cậu ta đã thôi dùng chiếc Mercedes, - nhưng cậu ta không vào bên trong. Cậu trao mọi thứ cho Nhục đậu khấu ở cửa trước rồi lại đi.

- Sắp tới chúng tôi sẽ dẹp bỏ chỗ này, - Nhục đậu khấu bảo tôi. - Tôi sẽ lại phải tự mình chăm lo cho các quý bà kia. Ờ, phải. Chắc cái số tôi nó thế. Tôi sẽ cứ phải tiếp tục chừng nào chưa kiệt sức - chừng nào chưa cạn sạch. Còn cậu, có lẽ cậu sẽ không còn gì phải liên quan đến chúng tôi nữa. Khi chuyện này đã qua và cậu đã bình phục, tốt nhất là cậu hãy quên chúng tôi đi, càng sớm càng tốt. Bởi vì... Ừ nhỉ, còn chuyện này tôi quên chưa cho cậu biết. Về anh vợ cậu ấy mà. Wataya Noboru.

Nhục đậu khấu đem một tờ báo từ phòng bên sang, giở ra giữa bàn.

- Quế vừa mới mang tờ báo về thôi. Anh vợ cậu bị đột quỵ đêm qua ở Nagasaki. Người ta đưa ông ấy vào bệnh viện, nhưng đến giờ ông ấy vẫn bất tỉnh. Người ta không biết liệu ông ấy có tỉnh lại nữa hay không.

Nagasaki ư? Tôi khó lòng hiểu bà ta đang nói gì. Tôi muốn nói, nhưng lời lẽ không bật ra được. Wataya Noboru lẽ ra phải đột quỵ ở Akasaka chứ không phải Nagasaki. Sao lại Nagasaki?

- Ông ấy diễn thuyết ở Nagasaki, - Nhục đậu khấu nói tiếp, - sau đó trong khi đang ăn tối với các nhà tổ chức thì bỗng đột quỵ. Người ta đưa ông ấy đến bệnh viện gần đó. Người ta cho rằng có lẽ đó là một loại tai biến mạch máu não, chắc là vì một khiếm khuyết bẩm sinh ở mạch máu trong não. Báo chí cho biết ông ấy sẽ phải nằm liệt giường một thời gian, rằng dù có tỉnh lại có lẽ ông ấy cũng không nói được, rằng rất có thể sự nghiệp chính trị của ông ấy đến đây là hết. Thật đáng tiếc, ông ấy còn trẻ quá. Tôi để tờ báo lại đây. Khi nào thấy khỏe hơn thì cậu tự đọc.

Phải mất một lúc tôi mới chấp nhận được cái hiện tại kia là sự thực. Những hình ảnh tin tức tivi mà tôi đã thấy trong tiền sảnh khách sạn vẫn còn in sâu, quá sống động rõ ràng trong ý thức tôi: văn phòng của Wataya Noboru ở Asakasa, cảnh sát bu chật ních, cổng trước bệnh viện, nét nghiêm trọng của người dẫn chương trình, vẻ căng thẳng trong giọng anh ta. Tuy nhiên, dần dần, từng tí một, tôi đã có thể thuyết phục được chính mình rằng những gì tôi từng thấy kia là những tin tức chỉ tồn tại trong thế giới khác. Trong thực tại, ở thế giới này, tôi đã không đánh Wataya Noboru bằng gậy bóng chày. Trong thực tại, tôi sẽ không bị cảnh sát thẩm vấn hay bị bắt vì phạm tội. Hắn đã đột quỵ trước bàn dân thiên hạ, vì tai biến mạch máu não. Chẳng có tội phạm nào hết, không thể có tội phạm nào cả. Ý nghĩ đó khiến tôi có thể thở phào nhẹ nhõm. Dù gì đi nữa, hung thủ được mô tả trên truyền hình kia có nhân dạng giống tôi như đúc, thành thử tôi không có bằng chứng ngoại phạm.

Chắc hẳn phải có mối liên quan nào đó giữa việc tôi đã đánh chết kẻ nào đó ở thế giới kia với việc Wataya Noboru đột quỵ. Rõ ràng tôi đã giết chết một cái gì đó ở bên trong hắn hay một cái gì đó có liên quan chặt chẽ với hắn. Ắt là hắn đã tiên cảm được điều đó sẽ xảy ra. Tuy nhiên, việc tôi làm đã không đoạt được sinh mạng của Wataya Noboru. Hắn vẫn cứ sống ngay bên bờ vực cái chết. Lẽ ra tôi phải đẩy luôn hắn xuống vực kia. Chuyện gì sẽ xảy ra với Kumiko đây? Liệu nàng có dứt được khỏi chỗ đó trong khi hắn vẫn sống? Liệu từ trong bóng tối vô thức kia hắn có tiếp tục ám lời nguyền lên Kumiko?

Ý nghĩ của tôi chỉ đi xa được đến ngần ấy. Ý thức tôi chuội đi từng tí một, cho đến khi tôi nhắm mắt lại ngủ thiếp. Tôi mơ một giấc mơ căng thẳng, đứt đoạn. Kano Creta đang bế một đứa bé áp vào ngực. Tôi không thấy mặt đứa bé. Tóc Kano Creta cắt ngắn, cô không trang điểm gì. Cô bảo tôi tên đứa bé là Corsica, và cha đứa bé nửa là tôi nửa kia là Trung úy Mamiya. Cô bảo cô đã không đến đảo Crete mà vẫn ở lại Nhật để sinh và nuôi đứa bé này. Cô vừa nghĩ ra được tên mới cho đứa bé, còn hiện giờ cô đang sống yên bình, trồng rau trên những núi đồi Hiroshima cùng Trung úy Mamiya. Những tin ấy không hề làm tôi ngạc nhiên. Ít nhất là trong giấc mơ tôi đã thấy trước tất cả.

- Kano Malta thế nào từ sau khi tôi gặp cô ấy lần trước? - Tôi hỏi.

Kano Creta không trả lời. Cô chỉ buồn buồn nhìn tôi rồi biến mất.

° ° °


Vào sáng ngày thứ ba tôi đã tự khỏi giường được. Đi đứng thì vẫn còn khó khăn lắm, nhưng tôi đã dần dần nói năng lại được. Nhục đậu khấu nấu cho tôi ít cháo. Tôi ăn cháo rồi thêm ít hoa quả.

- Con mèo sao rồi? - Tôi hỏi bà. Vấn đề này có lúc đã khiến tôi không yên tâm.

- Đừng lo. Quế đang chăm sóc nó. Ngày nào cậu ấy cũng đến nhà cậu để cho mèo ăn và thay nước. Giờ cậu chỉ nên lo lắng cho bản thân mình thôi.

- Bà với cậu ấy định khi nào sẽ dẹp bỏ nhà này?

- Càng sớm càng tốt. Có lẽ trong vòng tháng sau. Chắc là cậu cũng sẽ kiếm được ít tiền đấy. Chắc chúng tôi sẽ phải bán giá thấp hơn một chút so với hồi chúng tôi mua, thành thử cậu sẽ không được nhiều lắm, nhưng phần cậu vẫn là một phần trăm kha khá của số tiền cậu đã trả thế chấp. Sẽ đủ cho cậu sống một thời gian. Nên cậu không phải quá lo về chuyện tiền nong. Cậu xứng đáng được như vậy; nói gì thì nói, cậu đã làm việc tốt ở đây mà.

- Nhà này sẽ bị phá dỡ à?

- Có lẽ vậy. Họ cũng sẽ lấp luôn giếng. Cho nên bây giờ giếng có nước cũng bằng thừa thôi, thời buổi này có ai thích một cái giếng cổ to đùng như thế đâu. Người ta chỉ cần đặt ống và máy bơm điện là xong. Tiện hơn nhiều mà lại choán ít chỗ.

- Chắc chỗ này không bị xúi quẩy nữa đâu, - tôi nói. - Nó sẽ lại là chỉ một lô đất bình thường chứ không phải "nhà có dớp" nữa.

- Có thể cậu nói đúng, - Nhục đậu khấu nói. Bà ngần ngừ một chút rồi cắn môi. - Nhưng chuyện đó không còn liên quan đến tôi hay cậu nữa. Đúng không? Trong mọi trường hợp, điều quan trọng là bây giờ cậu phải nghỉ ngơi, đừng bận tâm đến những chuyện không thực sự đáng kể. Phải mất một thời gian nữa cậu mới hồi phục hoàn toàn đấy.

Nhục đậu khấu chỉ cho tôi bài báo về Wataya Noboru trong tờ báo buổi sáng mà bà mang theo. Chỉ là một bài báo nhỏ, Wataya Noboru vẫn còn mê man, đã được chuyển từ Nagasaki về một bệnh viện đại học lớn ở Tokyo, đang được chăm sóc đặc biệt nhưng tình trạng vẫn không thay đổi. Báo chẳng nói gì hơn ngần đó. Đọc tới đây, dĩ nhiên tôi nghĩ ngay tới Kumiko. Nàng đang ở đâu? Tôi phải quay về nhà. Nhưng tôi vẫn chưa đủ sức để đi bộ một quãng xa đến thế.

Sáng hôm sau tôi cố lê đến bồn rửa mặt và nhìn thấy mình trong gương lần đầu tiên trong ba ngày qua. Tôi trông thật khủng khiếp. Chẳng giống một người sống phờ phạc là mấy, một cái xác được bảo quản tốt thì đúng hơn. Như Nhục đậu khấu đã nói, vết rạch trên má đã được khâu lại bằng những mũi khâu nhà nghề, mép vết thương đều khin khít với đường chỉ trắng. Vết đâm dài ít nhất hai phân rưỡi nhưng không sâu lắm. Khi tôi thử nhăn mặt thì nó cũng căng ra, nhưng chẳng thấy đau mấy. Tôi đánh răng rồi dùng máy cạo râu chạy điện để cạo râu. Tôi chưa đủ tự tin để dùng dao cạo như bình thường. Khi đã rửa sạch bọt cạo râu, tôi khó lòng tin được điều mình nhìn thấy trong gương. Tôi đặt máy cạo râu xuống rồi nhìn kỹ. Vết bầm đã biến mất. Gã đàn ông kia đã dâm vào má phải tôi. Đúng ngay chỗ có vết bầm. Vết đâm vẫn còn đó, nhưng vết bầm không còn nữa. Nó đã biến mất khỏi má tôi không còn một dấu vết nào.

° ° °


Nửa đêm ngày thứ năm, tôi lại nghe tiếng lục lạc reo khe khẽ. Lúc ấy hơn 2 giờ sáng một chút. Tôi trở dậy khỏi sofa, khoác áo cardigan ngoài bộ pyjama rồi ra khỏi phòng chỉnh lý. Băng qua bếp, tôi tiến đến phòng làm việc nhỏ của Quế, ghé nhìn vào. Quế lại đang gọi tôi từ bên trong máy tính. Tôi ngồi xuống bàn đọc thông điệp trên màn hình.

Hiện bạn đã được quyền truy cập chương trình "Biên niên ký sự của Chim vặn dây cót". Chọn một tài liệu (1-17).

Tôi nhấp Số 17, và một tài liệu mở ra trước mắt tôi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

101#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:24:11 | Chỉ xem của tác giả

Chương 36

Chuyện về dân vịt

Bóng và nước mắt

Quan điểm của Kasahara May (6)


Chào chim vặn dây cót!

Này, anh có nhận được mấy thư trước của em không đấy?

Em đã viết cho anh hàng đống thư, mà rồi chẳng biết anh có nhận được không. Địa chỉ người nhận em chỉ ghi hú họa, còn địa chỉ người gửi thì em không ghi trên phong bì, thành thử có khi thư em đã chất đống trên ngăn "thư không người nhận" ở bưu điện, bụi bặm mốc meo, không ai thèm ngó tới. Thôi được, nếu không đến được người nhận thì là không đến được, đã sao nào? Em cày cục viết ngần ấy thư là viết cho anh, nhưng điều quan trọng là em phải ghi được ý nghĩ của mình ra giấy. Hễ cứ nghĩ mình đang viết cho anh là em lại viết dễ dàng hơn. Chim vặn dây cót ạ. Em chả biết tại sao. Ừ nhỉ, tại sao thế?

Nhưng riêng thư này thì em thực sự muốn anh đọc. Em cầu mong sao nó đến được tay anh.

° ° °

Giờ em sẽ viết về dân vịt. Vâng, đây là lần đầu tiên em nhắc đến dân vịt, chuyện thế này.

Em có lần nói với anh là nhà máy nơi em đang làm việc đây có cơ ngơi rộng ơi là rộng, có rừng, có hồ, lại còn gì gì nữa ấy. Thong dong tản bộ thì chả còn gì bằng. Hồ khá to, có dân vịt sống ở đấy, đâu như mười hai chú. Em chả biết mấy chú này tổ chức gia đình ra sao. Có lẽ chúng thỏa thuận nội bộ với nhau thế nào đó, kiểu như chú này thì chơi được với chú nọ nhưng không được chơi với chú kia, nhưng em chưa bao giờ thấy chúng đánh nhau cả.

Đã sang tháng Mười Hai, băng đã bắt đầu đóng trên mặt hồ, nhưng cũng chưa dày lắm. Ngay cả khi trời lạnh hồ vẫn không đóng băng hết, vẫn còn một khoảnh nước đủ cho dân vịt bơi loanh quanh tí chút. Em nghe nói, khi trời đủ lạnh để băng đóng dày, có vài cô trong bọn em ra đây trượt băng. Chừng đó thì dân vịt (hì, gọi thế nghe cũng lạ, nhưng em quen mất rồi, tự buột mồm ra thôi) sẽ phải đi chỗ khác. Em thì chẳng thích trượt băng, nên em chỉ mong đừng có băng biếc gì hết, nhưng dẫu có mong thì cũng đâu thể được như ý mình. Vùng này mùa đông lạnh kinh người, thành thử một khi đã sống ở đây thì dân vịt ắt phải thích nghi với lãnh thổ chứ.

Dạo này, cuối tuần nào em cũng tới đây giết thì giờ bằng cách ngắm dân vịt. Mỗi lần như vậy, em có thể ngồi hàng hai ba tiếng đồng hồ mà không biết. Ra ngoài trời lạnh là em vũ trang từ đầu tới chân y như thợ săn gấu Bắc Cực ấy: tất lót, mũ, khăn choàng, giày cao cổ, áo khoác lông. Rồi em ngồi hàng tiếng đồng hồ trên một tảng đá, chỉ mình em, hoàn toàn thư giãn, ngắm dân vịt. Thỉnh thoảng em cho chúng ăn bánh mì cũ. Dĩ nhiên ở đây chẳng có ai khác dư thì giờ làm mấy chuyện điên rồ ấy cả.

Chẳng rõ anh Chim vặn dây cót có biết không, chứ vịt là một loài rất dễ thương. Em ngắm chúng chả bao giờ chán. Em không làm sao hiểu được, vì sao ai cũng thích đi đâu đó thật xa hay bỏ tiền xem những bộ phim ngớ ngẩn thay vì dành thì giờ vui với dân vịt. Chẳng hạn như thỉnh thoảng chúng lại vỗ cánh bay lên không trung rồi đáp xuống băng nhưng lại trượt chân, thế là ngã oạch oạch. Y như xem hài kịch trên ti-vi ấy! Xung quanh chẳng có ai khác, thế mà em vẫn cười sặc sụa. Dĩ nhiên đâu phải chúng làm trò để cho em cười. Chúng đang cố hết sức mình để sống cho ra sống đấy chứ, chỉ có điều thỉnh thoảng một cái thôi. Thế mới thật là hay, em nghĩ vậy.

Dân vịt có những cái chân có màng dẹt mầu cam đến là dễ thương, như là chúng mang giày đi mưa nhỏ xíu của trẻ con ý, chỉ có điều chân ấy không sinh ra để đi trên băng, em đoán vậy vì em thấy chúng cứ trượt tới trượt lui suốt, có khi còn ngã phịch mông xuống, chổng cẳng lên trời nữa. Giày ấy ắt là không có núm chống trượt. Thành thử mùa đông thật chẳng phải là mùa vui vẻ gì cho dân vịt. Em tự hỏi, trong thâm tâm chúng nó nghĩ gì về băng hay những thứ tương tự. Em dám cá rằng chúng chẳng ghét bỏ gì mùa đông lắm đâu. Nhìn chúng nó em cảm thấy vậy. Xem ra chúng sống cũng khá vui vẻ đấy chứ, dẫu đang mùa đông, có chăng thì thỉnh thoảng chỉ tự càu nhàu: "Lại băng à? Đành vậy thôi..." Em thích dân vịt là còn thích điều ấy nữa.

Hồ nằm chính giữa rừng, từ đâu đến đây cũng xa. Chẳng ai khác (ngoài em ra, dĩ nhiên!) buồn cuốc bộ ngần ấy đường để đến đây vào mùa này, ngoại trừ những hôm thật ấm. Em đi theo lối mòn xuyên qua rừng, giày em nghiến lạo xạo trên lớp băng còn lại từ trận mưa tuyết gần đây. Em thấy xung quanh đâu cũng toàn chim. Mỗi khi em dựng cao cổ áo lên, khăn quàng quấn cổ kín tận cằm, mỗi hơi thở ra là thành bụm khói trắng trong không khí, với một khúc bánh mì tận trong túi, cứ thế men theo đường mòn xuyên qua rừng mà nghĩ về dân vịt, em lại thấy lòng thực sự ấm áp, hạnh phúc, và em chợt nghĩ ra rằng đã lâu lắm rồi mình không thấy hạnh phúc như vậy.

Thôi, chuyện dân vịt thế là đủ.

Nói thật với anh, cách đây một giờ em thức dậy giữa lúc đang nằm mơ thấy anh, Chim vặn dây cót ạ, thế là nãy giờ em ngồi viết thư này cho anh. Bây giờ là (để em xem đồng hồ) đúng 2 giờ 18 phút sáng. Cũng như mọi khi, chưa tới 10 giờ em đã đi ngủ rồi, em nói với dân vịt "Chúc cả nhà ngủ ngon!" Sau đó thì ngủ tít, thế nhưng vừa mới đây thôi, đùng một cái, em choàng dậy. Thật sự em không chắc đó có phải là mơ không. Em chẳng nhớ mình đang mơ cái gì cả. Có khi không phải em đang mơ. Nhưng dù thế nào đi nữa, em đã nghe giọng anh sát bên tai em. Anh đang gọi em, gọi mãi, gọi to lắm. Chính vì vậy mà em bừng tỉnh.

Khi em mở mắt, trong phòng không tối lắm. Ánh trăng tuôn vào qua cửa sổ. Vầng trăng to lồ lộ trông như một cái khay bằng thép không gỉ treo trên ngọn đồi. Nó to đến nỗi dường như em có thể với tay ra sờ và viết lên đó được. Còn ánh trăng tuôn vào qua cửa sổ thì giống như một vũng nước lớn, trắng phau. Em ngồi trên giường, vắt óc nghĩ xem vừa mới xảy ra chuyện gì. Tại sao anh lại gọi em giọng rõ mồn một, nghe chói lọi như vậy? Tim em đập thình thịch, mãi không yên được. Giả như em đang ở nhà mình, em sẽ mặc đồ - dù giữa đêm khuya đi nữa - rồi chạy xuống ngõ mà đến nhà anh, Chim vặn dây cót ạ. Nhưng ở vùng núi non xa anh đến hàng vạn dặm như thế này thì em chẳng chạy đi đâu được, đúng không?

Thế thì anh có biết em đã làm gì không?

Em cởi hết ra. Chà. Đừng hỏi tại sao. Chính em cũng chả biết nữa. Thành thử anh cứ im lặng mà nghe cho hết nhé. Nói chung là em cởi hết quần áo rồi ra khỏi giường. Đoạn em quỳ xuống sàn nhà trong ánh trăng màu trắng kia. Máy sưởi đã tắt, trong phòng hẳn là lạnh, nhưng em không thấy lạnh. Trong ánh trăng đang tuôn từ cửa sổ vào kia có một cái gì đó đặc biệt, nó quấn quanh thân thể em thành một lớp bảo vệ mỏng, sát vào da. Ít ra là em cảm thấy vậy. Em đứng đó, trần truồng, trong một lát, thế rồi em lần lượt chìa từng bộ phận cơ thể mình ra cho nó tắm trong ánh trăng. Em chẳng biết tại sao, dường như đó là việc tự nhiên nhất trên đời vậy. Ánh trăng đẹp tuyệt vời, đẹp vô ngần đến nỗi em không thể không làm như thế. Đầu em, vai em, tay em, ngực em, bụng em, chân em, mông em và cả vùng quanh đó nữa, anh biết rồi đấy: lần lượt từng cái một, em nhúng vào ánh trăng, như đang tắm vậy.

Nếu có ai ở ngoài mà thấy em, hẳn họ sẽ nghĩ thật quái lạ. Hẳn họ sẽ coi em như một con bé bị chứng cuồng trăng, hễ trăng tròn là lại lên cơn khùng. Nhưng dĩ nhiên chẳng ai thấy em cả. Ừ thì cũng dễ anh chàng cưỡi mô tô có thể đang ở đâu đó mà nhìn em. Nhưng chuyện đó thì không sao. Anh ấy chết rồi. Nếu anh ấy muốn nhìn, và nếu như vậy mà anh ấy thích thì em sẽ vui vẻ để cho anh ấy thấy.

Nhưng không, chẳng ai nhìn em cả. Em làm việc đó hoàn toàn chỉ một mình dưới ánh trăng. Chốc chốc em lại nhắm mắt lại mà nghĩ về dân vịt, hẳn chúng đang ngủ đâu đó gần hồ. Em nghĩ đến cái cảm giác ấm áp, hạnh phúc mà dân vịt và em đã cùng làm ra lúc ban ngày. Bởi vì, rốt cuộc, dân vịt như là một thứ bùa hộ mệnh huyền bí thật quan trọng đối với em.

Sau đó em cứ trần truồng như vậy mà quỳ một hồi lâu, quỳ một mình, trong ánh trăng. Ánh trăng làm cho da em có một màu ký bí, lại hắt bóng đen sắc nét của thân mình em xuống sàn, dài tới tận tường. Nó không giống như bóng của thân thể em mà thuộc về một người đàn bà khác trưởng thành hơn em nhiều. Đó không phải một đứa con gái còn trinh như em, nó không có những góc cạnh như em mà tròn đầy hơn, ngực và núm vú to hơn nhiều. Nhưng nó chính là cái bóng mà em đang tạo ra - chỉ có điều trải dài hơn với hình dáng khác thôi. Khi em cử động, nó cũng cử động. Mãi một hồi em cứ thử cử động hết cách này đến cách khác, vừa làm vừa quan sát thật kỹ xem có mỗi liên hệ nào giữa em với cái bóng của em, cố hiểu tại sao trông nó lại khác đến vậy. Nhưng em chẳng hiểu gì cả. Càng nhìn càng thấy lạ lùng.

Giờ thì mới đến phần thực sự khó lý giải, Chim vặn dây cót ạ. Em không biết em có nói được không, nhưng cứ thử xem.

Nói thật ngắn gọn là đột nhiên em òa khóc. Nếu trong kịch bản hay gì gì đó thì chắc người ta viết thế này: "Kasahara May đột nhiên lấy tay che mặt, nức nở to, nước mắt chảy ràn rụa". Nhưng đừng sửng sốt quá nhé. Lâu nay em vẫn giấu anh, chứ thực ra em là đứa mít ướt nhất trần đời. Chuyện gì em cũng khóc. Đó là điểm yếu bí mật của em. Thành thử đối với em, chuyện tự dưng òa khóc chẳng vì lý do nào đâu có gì lạ. Tuy nhiên thường thì em chỉ khóc một tý, sau đó em tự nhủ: khóc thể đủ rồi, dừng thôi. Em dễ khóc nhưng cũng dễ nín. Thế nhưng đêm nay em không sao nín được. Cứ như ai đó khui nút bật ra, vậy là cứ thế tuôn. Em không biết vì đâu mình khóc, nên cũng chẳng biết làm sao dừng lại cả. Nước mắt cứ thế tuôn ra, như máu tuôn từ một vết thương rộng hoác. Em không thể tin mình lại có thể khóc ra nhiều nước mắt đến vậy. Em đâm lo cứ cái đà này có khi mình sẽ kiệt nước mà biến thành xác ướp mất.

Em thực sự nhìn thấy, nghe thấy nước mắt em rơi từng giọt xuống hồ trăng màu trắng rồi bị hút luôn vào như thể những giọt nước mắt vốn dĩ luôn luôn là một phần của ánh sáng ấy. Khi rơi xuống giữa không trung, những giọt nước mắt bắt ánh trăng, sáng lóng lánh tuyệt đẹp như những tinh thể pha lê. Rồi em nhận ra rằng cái bóng của em cũng đang khóc, cũng đang tuôn nước mắt, những giọt nước mắt bóng rõ ràng, sắc nét. Anh Chim vặn dây cót đã bao giờ thấy bóng của nước mắt chưa? Chẳng có gì giống những cái bóng thường đâu. Hoàn toàn khác. Chúng đến đây từ một thế giới khác, rất xa nơi đây, chúng đến đây chỉ là cho trái tim của chúng ta thôi. Mà cũng có thể không phải. Chính khi đó em lại sực nghĩ, biết đâu nước mắt mà cái bóng của em đang tuôn mới là thực, còn nước mắt em đang tuôn thì chỉ là bóng. Em chắc là anh không hiểu đâu, Chim vặn dây cót à. Khi một đứa con gái mười bảy tuổi trần truồng tuôn nước mắt trong ánh trăng thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Thật đấy.

Ấy là chuyện đã xảy ra trong căn phòng này cách đây khoảng một tiếng. Bây giờ thì em đang ngồi ở bàn, viết thư cho anh bằng bút chì, Chim vặn dây cót ạ (dĩ nhiên em đã mặc quần áo rồi!).

Tạm biệt Chim vặn dây cót. Em không biết nói thế nào... nhưng em cùng với dân vịt trong rừng sâu cầu mong cho anh được ấm lành, hạnh phúc. Nếu có chuyện gì, anh cứ gọi em nữa đi, gọi cho to vào, đừng ngại.

Chúc anh ngủ ngon.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

100#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:21:47 | Chỉ xem của tác giả


Chương 35

Chẳng qua là một con dao thực

Điều đã được tiên báo


Dùng đèn soi đường, cố bước thật êm, tôi đi về phía cửa. Cây gậy nằm trong tay phải tôi. Tôi vẫn đang đi thì tiếng gõ cửa lại vang lên: hai tiếng, rồi hai tiếng nữa. Lần này mạnh hơn, hung hãn hơn. Tôi nép mình vào tường bên để khi cửa mở thì tôi sẽ được cánh cửa che khuất. Tôi đứng đó đợi, nín thở.

Khi tiếng gõ cửa đã lắng đi, im lặng sâu thẳm lại chìm xuống mọi vật như thể không có chuyện gì xảy ra. Nhưng tôi cảm nhận được sự hiện diện của ai đó phía bên kia cửa. Cái kẻ nào đó này cũng đang đứng đấy như tôi, cũng đang nín thở, lắng tai, cố nghe ra tiếng thở hay tiếng tim đập, hay để đọc ra những vận động của một ý nghĩ. Tôi cố kìm không cho hơi thở mình khuấy động không khí xung quanh. Mình không có mặt ở đây, tôi tự nhủ. Tôi không ở đây. Tôi chẳng ở đâu hết.

Chìa khóa xoay trong ổ khóa. Hắn thực hiện từng cử chỉ một cách cực kỳ cẩn trọng, kéo dài thời gian từng động tác sao cho những âm thanh phát ra bị chẻ thành mỗi mảnh nhỏ không còn liên hệ với nhau, mất hết ý nghĩa. Quả đấm cửa xoay, theo sau là tiếng bản lề xoay hầu như không thể nhận ra. Tim tôi bắt đầu co bóp nhanh hơn. Tôi cố át đi sự nhiễu loạn này, nhưng không được.

Ai đó đã đi vào phòng, gây ra vài nhiễu loạn trong không khí. Tôi tập trung tinh thần mài sắc ngũ quan và bắt được cái mùi thoang thoảng của kẻ lạ: một hỗn hợp kỳ quặc giữa quần áo dày, hơi thở dồn nén và thần kinh kích động hết mức dìm trong im lặng. Hắn có cầm dao trong tay không? Phải coi như là hắn có. Tôi vẫn nhớ cái ánh lóa trắng bạc của nó. Tôi nín thở, xóa bỏ sự tồn tại của mình, siết chặt cây gậy trong cả hai tay.

Vào phòng xong, kẻ đó đóng cửa rồi khóa lại. Đoạn hắn đứng đó, lưng áp vào cửa, quan sát và chờ đợi. Hai bàn tay siết chặt gậy của tôi mướt mồ hôi. Tôi đã toan chùi lòng bàn tay vào quần, nhưng mọi cử động dù nhỏ nhất cũng có thể gây hậu quả chết người. Tôi cố nhớ lại bức tượng chim trong vườn căn nhà bỏ hoang của gia đình Miyawaki. Để xóa bỏ sự hiện hữu của mình ở đây, tôi tự đồng hóa mình thành nhất thể với hình ảnh một con chim. Nơi đó, trong khu vườn mùa hè ngợp nắng, tôi là bức tượng chim, đóng băng tại chỗ, nhìn chăm chắm lên bầu trời.

Kẻ đó mang theo đèn pin. Hắn bật đèn pin, tia sáng thẳng, hẹp của nó cắt xuyên qua bóng tối. Ánh sáng không mạnh. Đó là ánh sáng của một cây đèn bút cùng loại với cây tôi đang mang. Tôi đợi tia sáng đó quét qua tôi khi hắn bước vào phòng, nhưng hắn không nghĩ đến chuyện dời khỏi chỗ. Ánh sáng bắt đầu nhận diện từng vật một ở trong phòng - những đóa hoa trong bình, chiếc khay bạc nằm trên bàn (hắt ra ánh lóe đầy nhục cảm), ghế sofa, đèn trang trí... Nó lướt qua ngay trước mũi tôi rồi dừng lại trên sàn chỉ cách đầu mũi giầy tôi vài xăng-ti-mét, liếm từng góc phòng như cái lưỡi rắn. Tôi đợi, chừng như phải đợi đến vĩnh viễn. Sợ hãi và căng thẳng khoan vào ý thức tôi đau nhói.

Đừng nghĩ ngợi. Mày không được phép nghĩ. Tôi tự nhủ. Mày không được phép dùng trí tưởng tượng. Trung úy Mamiya đã viết thế trong thư. Ở nơi này mà tưởng tượng là mất mạng như chơi.

Cuối cùng, ánh đèn pin bắt đầu chuyển động về phía trước, chậm, thật chậm. Gã đàn ông hình như đang tiến về phía phòng trong. Tôi siết chặt gậy trong tay. Chính khi đó tôi mới nhận ra mồ hôi trên tay tôi đã sạch ráo. Tay tôi bây giờ quá khô là đằng khác.

Gã đàn ông chầm chậm tiến tới một bước, dừng lại. Rồi một bước nữa. Hắn như đang kiểm tra từng bước chân của mình. Hắn đang gần tôi hơn bao giờ hết. Tôi hít một hơi rồi nén lại. Chỉ cần hai bước nữa là hắn sẽ đến đúng chỗ tôi muốn. Chỉ hai bước nữa là tôi có thể kết liễu cái cơn ác mộng biết đi này. Nhưng rồi đúng lúc đó, hoàn toàn bất ngờ, ánh sáng biến mất. Bóng tối như mực lại nuốt chửng mọi vật. Hắn đã tắt đèn pin. Tôi cố buộc đầu mình làm việc nhanh hơn trong bóng tối, nhưng nó hoàn toàn không chịu làm việc. Một luồng khí lạnh tôi chưa từng biết chạy khắp người tôi. Hắn đã nhận ra tôi đang ở đây.

Cử động đi, tôi tự nhủ. Đừng đứng đực ra thế. Tôi cố lạng người sang trái, nhưng chân tôi không nhúc nhích. Chân tôi như đã gắn chặt xuống sàn nhà, giống như chân con chim đá. Tôi cúi về phía trước, cố nghiêng phần thân trên tê dại của tôi sang trái. Đúng lúc ấy cái gì đó đập vào vai phải của tôi, rồi một cái gì cứng và lạnh như mưa đá thọc vào thấu xương tôi.

Cú sốc như làm tôi bừng tỉnh, chứng tê liệt biến mất khỏi chân tôi. Tôi nhảy bật về bên trái rồi phục trong bóng tối, mò mẫm tìm đối thủ. Máu chạy rần rật trong cơ thể tôi, mỗi bắp thịt, mỗi tế bào căng lên đòi dưỡng khí. Vai phải tôi tê dại dần, nhưng tôi không thấy đau. Mãi sau mới đau. Tôi đứng im không động đậy, hắn cũng thế. Hai chúng tôi đối diện nhau trong bóng tối, cùng nín thở. Chẳng nhìn thấy gì, chẳng nghe thấy gì.

Một lần nữa, không hề báo trước, dao xỉa tới. Nó sượt qua mặt tôi như một con ong chích, điểm nhọn vừa vặn bén vào má phải tôi, chỗ có vết bầm. Tôi cảm thấy da bị toạc ra. Không, hắn cũng không nhìn thấy tôi. Nếu thấy tôi thì hắn đã cho tôi rồi đời từ lâu rồi. Tôi vung gậy trong bóng tối, nhắm vào hướng xuất phát của con dao, nhưng gậy chỉ vụt qua không khí, chẳng đập vào cái gì sất. Tuy nhiên cú vung khá đạt, và tiếng vụt sắc gọn kia giúp tôi phần nào bớt căng thẳng. Tạm thời chúng tôi ngang sức nhau. Tôi đã dính dao hai lần, nhưng cả hai lần đều không nặng. Hai chúng tôi chẳng ai nhìn thấy nhau. Hắn có dao, nhưng tôi có gậy.

Một lần nữa, cùng mù như nhau, hai chúng tôi kìm hơi thở, cố cảm nhận ra đối thủ, chờ từng động tĩnh nhỏ nhất. Tôi cảm thấy máu rỉ xuống mặt mình, nhưng tôi chẳng mảy may sợ hãi. Chỉ là con dao thôi mà, tôi tự nhủ. Chỉ là một vết rạch thôi. Tôi đợi. Tôi đợi con dao lại xỉa về phía tôi lần nữa. Đâm đi! Tôi bảo hắn trong đầu mình. Nhúc nhích đi! Tao đang đợi mày động thủ đây. Muốn thì cứ đâm tao đi. Tao không sợ đâu.

Con dao lại tới. Nó rạch toang cổ áo len của tôi. Tôi cảm thấy được mũi dao sạt qua họng tôi nhưng không chạm tới da tôi. Tôi xoay người nhảy sang một bên, rồi, hầu như hấp tấp quá chẳng kịp thẳng người lên nữa, tôi vung gậy vào không trung. Gậy đập vào đâu đó gần xương quai xanh hắn. Không đủ mạnh để quật ngã hắn hay làm gãy xương, nhưng tôi biết mình vừa nện hắn một cú ra trò. Tôi cảm thấy hắn rụt hẳn lại vì cú đánh, nghe tiếng hắn há miệng đớp không khí. Tôi lùi gậy lại một quãng ngắn rồi lại vung lên giáng vào hắn, cũng về hướng đó nhưng cao hơn một chút, nơi tôi nghe tiếng hắn thở.

Cú đánh quá hoàn hảo. Tôi đã nện vào hắn ở đâu đó trên cổ. Có tiếng xương gãy răng rắc nghe lợm giọng. Một cú giáng thứ ba đúng phóc - ngay vào sọ, quật hắn văng sang một bên. Hắn hộc ra một âm thanh kỳ lạ rồi đổ phịch xuống sàn. Hắn nằm đó, ngáp ngáp khe khẽ, nhưng tiếng ngáp chẳng mấy chốc ngừng. Tôi nhắm mắt, rồi, chẳng suy nghĩ gì, nhắm một cú đánh cuối cùng về phía âm thanh kia. Tôi không muốn làm vậy, nhưng tôi không có cách nào khác. Tôi phải kết liễu hắn: không phải vì hận thù, thậm chí cũng chẳng phải vì sợ, ấy chẳng qua là một việc tôi phải làm. Tôi nghe tiếng cái gì đó vỡ toác trong bóng tối như một quả dưa. Rồi tôi nhận thấy mình đang run bắn lên. Toàn thân. Chẳng cách nào ngăn được. Tôi lùi lại một bước, rút đèn pin ra khỏi túi.

- Đừng! - Một giọng thét lên trong bóng tối. - Đừng nhìn nó! - Giọng Kumiko đang gọi tôi từ phòng trong, cố ngăn không cho tôi nhìn, nhưng tôi phải nhìn. Tôi phải thấy nó. Tôi phải biết nó là cái gì, cái vật nằm ở trung tâm bóng tối mà tôi đã đánh cho nhừ tử kia. Một phần của tôi hiểu Kumiko đang cấm tôi làm gì. Nàng nói đúng: tôi không nên nhìn nó. Nhưng lúc này tôi đang có đèn pin trong tay, và bàn tay đang tự nó chìa ra phía trước.

- Xin đừng, em xin anh hãy dừng lại! - Nàng thét lên. - Nếu anh còn muốn đưa em về nhà thì chớ nhìn nó!

Tôi nghiến răng, im lặng đẩy không khí nãy giờ giam trong phổi ra ngoài. Nhưng cơn run vẫn không giảm. Một mùi tởm lợm nồng nặc trong không khí - mùi óc, mùi bạo lực và chết chóc. Tôi đã làm việc này: chính tôi là kẻ đã làm cho không khí có cái mùi này. Tôi tìm thấy chiếc sofa, liền đổ vật xuống. Trong chốc lát tôi cố chống cự với cơn buồn nôn đang dậy lên trong dạ dày, nhưng rồi cơn buồn nôn thắng. Tôi nôn xuống thảm tất cả những gì có trong dạ dày, đến khi chẳng còn gì nữa thì tôi nôn ra dịch vị, rồi không khí và nước dãi. Trong khi nôn, tôi buông gậy xuống sàn. Tôi nghe tiếng nó lăn lông lốc trong bóng tối.

Khi những cơn co thắt dạ dày bắt đầu dịu xuống, tôi muốn rút khăn mùi soa lau miệng nhưng không cử động nổi tay. Tôi không đứng dậy nổi khỏi sofa. - Mình về nhà đi, - tôi nói về phía bóng tối ở buồng trong. - Xong cả rồi. Ta đi thôi.

Nàng không trả lời.

Không còn ai ở trong đó nữa. Tôi lại vùi mình vào sofa, nhắm mắt lại.

Tôi cảm thấy sức lực đang trút ra khỏi mình - từ đầu ngón tay tôi, từ vai tôi, cổ tôi, chân tôi... Cái đau từ những vết thương của tôi cũng dần dần biến mất. Thân thể tôi đang mất mọi cảm giác về khối lượng và vật chất. Nhưng điều đó không làm tôi bất an hay sợ hãi, hoàn toàn không. Tôi không chống cự mà buông mình - phó thác nhục thể mình - cho một vật to lớn, ấm mềm nào đó đang đến để bao bọc lấy tôi. Điều đó thật tự nhiên. Khi đó tôi nhận ra, mình đang băng qua bức tường sứa. Tôi chỉ có mỗi việc là buông mình cho dòng chảy. Mình sẽ không bao giờ quay lại đây nữa, tôi tự nhủ trong khi di chuyển qua tường. Mọi chuyện đã chấm dứt. Nhưng Kumiko đâu? Nàng đi đâu rồi? Lẽ ra tôi phải mang nàng ra khỏi căn phòng đó mà đưa nàng về nhà. Chính vì lẽ đó tôi mới giết tên kia. Chính vì lẽ đó tôi mới đánh cho sọ hắn vỡ toác ra như quả dưa. Chính vì lẽ đó tôi... Nhưng tôi không thể nghĩ gì được nữa. Ý thức tôi bị hút vào cái hồ sâu hoắm của hư không.

° ° °


Khi hồi tỉnh, tôi thấy mình lại đang ngồi trong bóng tối. Lưng tôi đang dựa vào tường như mọi khi. Tôi đã trở lại đáy giếng.

Nhưng đó không phải cái đáy giếng như khi trước. Có cái gì đó mới ở đây, cái gì đó lạ lẫm. Tôi cố tập trung các giác quan để hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Cái gì khác biệt đến vậy? Nhưng các giác quan tôi vẫn đang trong một tình trạng tê liệt gần như hoàn toàn. Tôi chỉ có cảm nhận một phần, đứt đoạn về môi trường xung quanh. Tôi cảm thấy như thể, vì sai lầm nào đó mà tôi đã bị đặt vào nhầm vỏ chứa. Tuy nhiên, sau một lát, tôi bắt đầu nhận ra ấy là chuyện gì.

Nước. Quanh tôi toàn nước.

Giếng không còn khô nữa. Tôi đang ngồi trong nước lên tới thắt lưng. Tôi hít vào mấy hơi để trấn tĩnh. Làm sao có chuyện này được? Giếng đang có nước, tuy không phải nước lạnh. Đúng hơn là nước âm ấm, như thể tôi đang dầm mình trong bể bơi có sưởi. Bỗng tôi sực nghĩ cần phải kiểm tra trong túi. Tôi muốn biết cây đèn pin có còn đó không. Liệu tôi có mang theo cây đèn đó từ thế giới kia về đây không? Liệu có mối liên hệ nào giữa những gì xảy ra ở đó với cái thực tại này không? Nhưng tay tôi không động đậy được. Ngay cả ngón tay tôi cũng không nhúc nhích được. Bao nhiêu sức lực đã mất hết khỏi tay chân tôi. Thậm chí đứng dậy tôi cũng không đứng nổi.

Tôi bắt đầu nhận định một cách tỉnh táo hoàn cảnh của mình. Trước hết, nước chỉ mới tới thắt lưng, nên tôi không phải lo chết đuối. Đúng là tôi không nhúc nhích được, nhưng có lẽ ấy là do tôi đã vắt kiệt sức. Chỉ cần có đủ thời gian là sức lực sẽ hồi phục lại thôi. Vết thương vì dao đâm xem chừng không sâu lắm, và toàn thân tê dại thế này lại hóa hay - ít nhất cũng nhờ vậy mà tôi không thấy đau. Máu nơi má hình như không chảy nữa.

Tôi tựa đầu vào tường tự nhủ: Không sao, đừng lo. Mọi chuyện xong rồi. Bây giờ tôi chỉ còn có mỗi một việc là cho thân thể mình được nghỉ ngơi, sau đó trở về thế giới ban đầu của mình, thế giới ở trên mặt đất kia, nơi chan hòa ánh nắng... Nhưng tại sao cái giếng này tự dưng có nước hoàn toàn đột ngột như vậy? Nó đã khô cạn, đã chết từ quá lâu rồi, thế nhưng giờ nó đã phục hồi sự sống. Liệu điều này có mối liên hệ nào với những gì tôi đã làm ở kia không? Có, hẳn là có. Cái gì đó bấy lâu vẫn làm tắc nghẽn mạch nước nay đã bị tháo tung ra.

° ° °


Chẳng mấy chốc sau tôi chạm trán với một thực tế đen tối. Thoạt tiên tôi cố khước từ không chịu thừa nhận nó là thực tế. Trí óc tôi nghĩ ra hàng loạt khả năng may thì có thể giúp tôi phủ nhận nó. Tôi cố tự thuyết phục mình ấy chỉ là một ảo giác nảy sinh do kết hợp giữa bóng tối và kiệt sức. Nhưng rốt cục, tôi phải công nhận sự thực. Dù ra sức tự lừa mình đến đâu đi nữa, thực tế vẫn sờ sờ ra đó.

Mực nước đang dâng lên.

Nước ban nãy còn ngang thắt lưng, giờ đã lên đến phía dưới cặp đầu gối đang co lại của tôi. Nước dâng từ từ thôi, nhưng nó đang dâng. Tôi lại cố động đậy thân thể. Tôi tập trung toàn bộ tinh thần, cố rặn hết chút sức lực cuối cùng còn lại, nhưng vô ích. Cùng lắm tôi chỉ xoay cổ được chút ít. Tôi nhìn lên trên đầu. Nắp giếng vẫn đậy kín bưng. Tôi cố xem đồng hồ trên cổ tay trái nhưng đành chịu.

Nước đang chảy ra từ một khe mở nào đó, mà hình như càng lúc càng nhanh. Ban đầu chỉ ri rỉ, nhưng giờ thì tuôn xối xả. Tôi nghe được tiếng nước tuôn. Chẳng mấy chốc đã lên đến ngực. Nước sẽ còn dâng đến đâu chứ?

Nhớ cẩn thận với nước, ông Honda đã bảo tôi thế. Hồi đó cũng vậy, sau này cũng vậy, tôi đã chẳng hề tin lời tiên tri của ông. Quên thì tôi không quên (một điều kỳ quặc như thế thì không thể quên được), nhưng tôi cũng chưa bao giờ coi nó là nghiêm túc cả. Ông Honda chẳng qua chỉ là một tình tiết vô hại đối với tôi và Kumiko mà thôi. Thỉnh thoảng nhân chuyện gì đó, tôi lại nhắc lời ông "Nhớ cẩn thận với nước" để đùa. Thế là chúng tôi cười ha hả. Chúng tôi còn trẻ, đâu cần tới những lời tiên với tri. Bản thân việc sống đã là một hành vi tiên tri rồi. Nhưng ông Honda nói đúng. Tôi hầu như muốn cười phá lên. Nước đang dâng, và tôi đang gặp khốn.

Tôi nghĩ tới Kasahara May. Tôi dùng trí tưởng tượng để hình dung cô đang mở nắp giếng - hoàn toàn rõ ràng, sống động như thực. Bức tranh thực và rõ mồn một đến nỗi dường như tôi có thể bước thẳng vào. Tôi không cử động được thân mình, nhưng trí tưởng tượng của tôi vẫn hoạt động. Tôi còn được làm gì khác nữa?

- Này Chim vặn dây cót, - Kasahara May nói. Giọng cô dội xuống vọng lên thành giếng. Tôi chưa hề biết rằng giếng có nước thì tạo tiếng vang tốt hơn giếng không có nước. - Anh làm gì dưới kia thế? Lại suy nghĩ à?

- Chẳng phải anh đang làm gì cả, - tôi ngẩng mặt lên nói. - Giải thích bây giờ thì lâu lắm. Anh không cử động được thân mình, nước lại đang dâng lên dưới này. Đây không còn là giếng cạn nữa. Chắc anh chết đuối mất.

- Tội nghiệp Chim vặn dây cót! - Kasahara May nói. - Anh đã vắt kiệt hết mình, cố hết sức bình sinh để cứu Kumiko. Và có lẽ anh đã cứu được chị ấy thật. Đúng không? Và trong khi làm vậy, anh cũng đã cứu nhiều người. Nhưng bản thân mình thì anh lại không cứu được. Mà cũng chẳng ai khác cứu được anh cả. Anh đã dốc cạn sức mình, đem cả tính mạng mình ra để cứu người khác. Hạt giống của anh thảy đã gieo chỗ khác hết rồi, giờ túi anh rỗng không. Sao lại bất công đến thế được chứ! Em thông cảm với anh, Chim vặn dây cót à, tự đáy lòng em. Thật đấy. Nhưng nói gì thì nói, đó là tự anh lựa chọn mà. Anh có hiểu ý em không?

- Anh hiểu, - tôi nói.

Vai phải tôi nghe đau dần dật. Vậy là chuyện đó thực đã xảy ra, tôi tự nhủ. Con dao quả thực đã đâm tôi. Nó đã xé thịt tôi như một con dao thực.

- Anh có sợ chết không, hở Chim vặn dây cót? - Kasahara May hỏi.

- Có chứ, - tôi nói. Tôi nghe giọng mình vang vọng trong giếng. Nó là giọng tôi, đồng thời cũng không phải giọng tôi. - Nghĩ đến chuyện mình phải chết dưới đáy giếng tối om này thì dĩ nhiên anh sợ.

- Thế thì tạm biệt anh, Chim vặn dây cót tội nghiệp. Tiếc là em chẳng làm gì cho anh được. Em đang ở xa, xa lắm.

- Tạm biệt, Kasahara May, - tôi nói. - Em mặc bikini trông xinh lắm.

Giọng Kasahara May hết sức bình thản khi cô nói:

- Tạm biệt, Chim vặn dây cót tội nghiệp.

Nắp giếng lại đóng chặt. Hình ảnh tan biến. Như chẳng có gì xảy ra cả. Hình ảnh ấy không gắn liền với bất cứ cái gì. Tôi thét về phía miệng giếng: "Kasahara May ơi, lúc này anh cần em thì em ở đâu?"

° ° °


Nước đã lên đến họng tôi. Giờ nó đã quấn quanh cổ tôi như cái thòng lọng. Bằng dự cảm, tôi bắt đầu thấy khó thở. Tim tôi, giờ nằm trong nước, ra sức điểm quãng thời gian còn lại của nó. Cứ thế này tôi còn khoảng năm phút nữa cho tới khi nước lấp đầy mũi miệng tôi và bắt đầu tràn ngập phổi tôi. Chẳng có cách nào tôi thắng được. Tôi đã hồi sinh cho cái giếng này thì giờ đây tôi chết giữa lúc hồi sinh của nó. Chết cách này cũng không tồi, tôi tự nhủ. Trên đời có lắm cách chết kinh khủng hơn thế nhiều.

Tôi nhắm mắt lại, cố chấp nhận cái chết đang đến gần một cách càng bình thản càng tốt. Tôi cố vượt qua sợ hãi. Ít nhất thì sau khi chết, tôi cũng để lại được vài thứ. Chẳng nhiều nhặn gì cho cam, nhưng dẫu sao vẫn là một tin lành. Tôi cố mỉm cười, nhưng chẳng đạt lắm. "Dẫu sao mình vẫn sợ chết," tôi tự nhủ. Hóa ra đó là lời cuối của tôi. Nghe chẳng ấn tượng lắm, nhưng không thay đổi được nữa, muộn quá rồi. Nước giờ đã dâng cao hơn miệng tôi. Rồi cao hơn mũi tôi. Tôi ngừng thở. Phổi tôi nằng nặc đòi hít không khí mới. Nhưng chẳng còn không khí nữa. Chỉ có nước âm ấm thôi.

Tôi đang chết. Như tất cả những ai sống ở trên đời.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

99#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:18:59 | Chỉ xem của tác giả


Chương 34

Ánh sáng đom đóm

Phá bỏ lời nguyền

Thế giới nơi đồng hồ báo thức reo vào buổi sáng


- Tôi hứa, - tôi nói, nhưng giọng tôi có vẻ giả tạo thế nào đó, như khi ta nghe thu băng giọng nói của chính mình vậy.

- Tôi muốn nghe ông nói điều này: rằng ông sẽ không rọi ánh sáng đó lên tôi.

- Tôi sẽ không rọi ánh sáng đó lên cô, tôi hứa.

- Ông có hứa thật không? Ông nói thật với tôi chứ?

- Tôi nói thật với cô mà. Tôi không nuốt lời hứa đâu.

- Thế thì tôi chỉ muốn là, nếu ông không phiền, xin hãy rót hai ly whisky có đá rồi mang vào đây. Nhớ cho nhiều đá nhé.

Cô ta nói bằng giọng ngọng ngịu chả chớt nghe như trẻ con, mặc dù giọng nói thuộc về một phụ nữ trưởng thành, nhạy cảm. Tôi đặt cây đèn pin xuống bàn theo chiều dọc, rồi đi pha whisky. Tôi cho đá vào hai ly rồi rót whisky lên. Tôi phải hình dung rõ ràng tường tận trong đầu về từng động tác mà hai bàn tay tôi đang làm. Những bóng đen lớn chập chờn trên tường theo từng cử động của tay tôi.

Tôi đi vào phòng trong, tay phải cầm hai ly whisky, tay trái cầm đèn pin rọi lên sàn để soi đường. Không khí có vẻ lạnh hơn trước. Hẳn là khi tháo chạy trong bóng tối tôi đã vã mồ hôi khắp người mà không biết, giờ mồ hôi ráo đi mới thấy lạnh. Tôi nhớ mình đã cởi áo khoác bỏ lại trên đường chạy.

Như đã hứa, tôi tắt đèn nhét vào túi quần. Rồi tôi mò mẫm đặt một ly whisky lên bàn, đoạn cầm ly còn lại đến ngồi ở chiếc ghế có tay dựa bên cạnh giường. Tối như mực, nhưng tôi vẫn nhớ cách bố trí đồ đạc trong phòng.

Tôi như nghe tiếng những tấm ga trải giường cọ vào nhau sột soạt. Cô ta đang nhổm dậy trên đệm, tựa lưng vào tấm ván đầu đệm, ly rượu cầm trong tay. Cô ta khẽ lắc ly, khuấy đá rồi nhấp một ngụm whisky. Trong bóng tối, tất cả những âm thanh đó nghe như tiếng động nền trong một vở kịch truyền thanh. Tôi ngửi mùi thơm rượu whisky trong tay, nhưng không uống.

- Lâu lắm rồi mới gặp nhau nhỉ, - tôi nói. Giọng tôi giờ nghe có vẻ đúng là giọng tôi hơn ban nãy.

- Thế kia à? - cô ta nói. - Em không hiểu nói vậy là sao, "lâu" hay "lâu lắm"?

- Theo tôi nhớ thì chính xác là một năm và năm tháng, - tôi nói.

- Ừ thì thế, - cô ta đáp, vẻ thờ ơ. - Em không nhớ chính xác.

Tôi đặt ly của mình xuống sàn rồi bắt tréo chân.

- Lần trước tôi đến đây thì cô không có mặt phải không?

- Đương nhiên là em có mặt. Ngay ở đây. Trên giường. Em luôn luôn ở đây mà.

- Nhưng tôi biết chắc là lần đó tôi vào Phòng 208. Đây là Phòng 208 đấy chứ?

Cô xoay xoay viên đá trong ly rồi vừa nói vừa cười:

- Em thì em biết chắc là anh không biết chắc. Lần trước anh vào Phòng 208 khác, cái đó thì chắc chắn.

Có cái gì đó bất an trong giọng cô ta khiến tôi bứt rứt khó chịu. Có lẽ rượu tác động đến cô ta chăng. Tôi tháo mũ len đặt lên đầu gối.

Tôi bảo cô ta:

- Điện thoại không gọi được mà, cô biết đấy.

- Vâng, em biết, - cô ta nói, giọng có vẻ cam chịu. - Người ta cắt rồi. Người ta biết em rất hay gọi điện thoại mà.

- Họ là những người đang giữ cô ở đây phải không?

- Nói thế nào nhỉ. Em chả biết nữa. - Cô ta vừa nói vừa cười khẽ. Không khí xáo động làm nụ cười cô run lên.

Quay mặt về phía cô, tôi nói:

- Tôi nghĩ mãi về cô suốt bấy lâu nay. Ngay từ lần đầu tôi đến đây. Nghĩ về việc cô là ai, cô làm gì ở đây.

- Nghe thú nhỉ, - cô nói.

- Tôi đã tưởng tượng ra đủ thứ khả năng, nhưng chưa thể chắc điều gì cả. Tôi chỉ mới ở giai đoạn tưởng tượng thôi.

- Được rồi, được rồi, - cô nói, như thể cảm kích. - Vậy là anh chưa thể chắc điều gì cả, anh vẫn đang ở giai đoạn tưởng tượng.

- Đúng vậy, - tôi nói. - Mà tôi cũng có thể nói thế này nữa: tôi nghĩ em là Kumiko. Ban đầu tôi chưa nhận ra, nhưng giờ thì tôi càng lúc càng tin chắc thế.

- Ồ, anh tin chắc thế à? - Cô im lặng một chút rồi nói, có vẻ thích thú. - Vậy em là Kumiko?

Trong một khoảnh khắc tôi mất hết cảm giác về phương hướng, như thể tất cả những gì tôi đang làm đều trái khoáy: tôi đã đến nhầm nơi, nói nhầm lời với nhầm người. Chỉ tổ mất thì giờ, một con đường vòng vô nghĩa. Nhưng tôi cố giữ thẳng người trong bóng tối. Tôi bấu chặt cả hai tay vào chiếc mũ đặt trên lòng mình như để kiểm tra tính xác thực.

- Phải, tôi nghĩ em là Kumiko. Bởi vì mọi chuyện đều từ đó mà ra cả. Em đã từ đây mà gọi điện thoại cho tôi không biết bao nhiêu lần. Em cố truyền đạt cho tôi một thông điệp bí mật nào đó. Một bí mật về Kumiko. Một bí mật mà Kumiko thật trong đời thực không đủ sức nói cho tôi biết. Thế nên em phải làm việc đó thay cô ấy, bằng những lời như một thứ ám hiệu.

Cô ta không nói gì một lát. Cô nâng ly lên nhấp một ngụm whisky nữa, rồi bảo:

- Em không biết. Nhưng nếu anh đã nghĩ vậy thì chắc là đúng. Có thể em đúng là Kumiko thật. Nhưng em không chắc lắm. Thành thử... nếu quả thật... em đúng là Kumiko thực... thì hẳn em có thể nói với anh bằng giọng của Kumiko... Đúng không? Nếu vậy thì sẽ hơi rối một chút. Không sao chứ?

- Không sao cả, - tôi nói. Lại một lần nữa, giọng tôi như mất đi phần nào bình tĩnh và một cảm thức về thực tại.

Cô hắng giọng trong bóng tối.

- Thì đây, thử xem. Em không biết liệu có được không. - Cô lại bật cười khẽ. - Có dễ đâu mà. Anh có vội không? Anh nán lại ở đây một chút được không?

- Tôi không biết nữa, - tôi nói.

- Đợi một chút thôi. Xin lỗi. E hèm... Em xong ngay đây, bây giờ thôi.

Tôi đợi.

- Vậy là, anh đến đây để tìm em. Anh muốn gặp em, phải không? - giọng nghiêm trang của Kumiko vang lên trong bóng tối.

Đã lâu, từ buổi sáng mùa hè kia, khi tôi kéo khóa áo cho Kumiko, tôi không được nghe giọng nói của nàng. Lúc ấy nàng xức một thứ nước hoa mới ở sau tai, nước hoa của kẻ nào khác tặng. Hôm ấy nàng bỏ nhà đi và không bao giờ trở về. Dù cái giọng vang lên trong bóng tối kia là giọng thực hay giọng giả, nó đưa tôi quay lại buổi sáng đó trong một khoảnh khắc. Tôi ngửi thấy được mùi nước hoa, thấy được làn da trắng của lưng Kumiko. Khoảnh khắc đó đặc sệt và nặng trĩu trong bóng tối - có lẽ đặc và nặng hơn là trong thực tại. Tôi siết chặt chiếc mũ trong hai bàn tay.

- Nói đúng ra, anh không đến đây để gặp em. Anh đến là để đưa em về, - tôi nói.

Cô khẽ thở dài trong bóng tối.

- Sao anh lại tha thiết muốn đưa em về như vậy chứ?

- Bởi vì anh yêu em, - tôi nói. - Và anh biết em cũng yêu anh, em cần anh.

- Anh có vẻ tự tin quá nhỉ, - Kumiko - hay giọng của Kumiko - nói. Không có vẻ gì là chế giễu trong giọng của nàng. Nhưng trong giọng đó cũng chẳng có gì là ấm áp.

Tôi nghe thấy tiếng những viên nước đá trong phòng bên đổi chỗ cho nhau.

- Nhưng muốn đưa được em về, anh còn phải giải một vài câu đố, - tôi nói.

- Bây giờ mới bắt đầu thì liệu có hơi muộn không? Em sợ anh không có nhiều thời gian lắm đâu.

Nàng nói đúng. Thời gian không còn nhiều mà lại có quá nhiều thứ cần phải nghĩ. Tôi lấy lưng bàn tay lau mồ hôi đọng trên lông mày. Đây có lẽ là cơ hội cuối cùng của tôi, tôi tự nhủ. Tôi cần phải nghĩ.

- Anh cần em giúp, - tôi nói.

- Giúp thế nào? - Giọng Kumiko hỏi. - Vị tất em đã giúp anh được. Nhưng em sẽ cố.

- Câu hỏi đầu tiên là tại sao em bỏ anh. Anh muốn biết lý do thật. Anh biết trong thư em nói gì - rằng em đã dan díu với người khác. Dĩ nhiên anh đã đọc thư. Đọc đi đọc lại, đọc mãi. Thật ra nó cũng giải thích được một phần nào đó. Nhưng anh không tin ấy là lý do thật. Nghe nó không thật lắm. Anh không bảo đó là nói dối, nhưng anh không khỏi cảm thấy đó chẳng qua chỉ là một thứ ẩn dụ thôi.

- Ẩn dụ?! - Nghe giọng cô ta thật sự sửng sốt. - Em không hiểu... Nếu ngủ với người đàn ông là ẩn dụ cho một cái gì đó thì em muốn biết đó là cái gì?

- Ý anh muốn nói là anh cảm thấy giải thích như thế chỉ để mà giải thích thôi. Nó chẳng dẫn tới đâu hết. Nó chỉ lướt trên bề mặt. Càng đọc thư em, anh càng cảm thấy thế. Chắc hẳn phải có một lý do nào khác cơ bản hơn - thật hơn. Mà lý do đó nhất định là có liên quan đến Wataya Noboru.

Tôi cảm thấy cặp mắt nàng nhìn chằm chằm vào tôi trong bóng tối và chợt nghĩ, biết đâu nàng có thể nhìn thấy tôi.

- Liên quan đến Wataya Noboru? Như thế nào? - Giọng Kumiko hỏi.

- Thì... tất cả những sự kiện mà anh trải qua đều hết sức phức tạp. Đủ loại nhân vật xuất hiện trên sân khấu, rồi những sự lạ xảy ra cái này tiếp cái kia, đến độ cứ hễ cố suy nghĩ lại cho có trình tự lớp lang là y như rằng anh rối tung lên. Tuy nhiên, nếu lùi lại một chút mà quan sát thì sẽ thấy sợi chỉ xuyên suốt mọi chuyện là hết sức rõ ràng. Tất cả cơ sự là do em đã rời khỏi thế giới của anh để chuyển sang thế giới của Wataya Noboru. Bước chuyển ấy mới là cái quan trọng hơn cả. Còn dù trên thực tế em có ngủ với người này hay người nọ đi nữa thì cũng chỉ là chuyện thứ yếu. Chỉ là bề nổi thôi. Anh muốn nói là nói như vậy.

Cô ta nghiêng ly rượu trong bóng tối. Căng mắt về phía nguồn phát ra tiếng động, tôi cảm giác như có thể nhìn thấy lờ mờ những chuyển động của cô, nhưng hiển nhiên đó chỉ là ảo giác.

- Không phải bao giờ người ta cũng gửi thông điệp để truyền đạt sự thực đâu, ông Okada ạ, - cô nói. Lần này không còn là giọng Kumiko nữa. Cũng không phải giọng nhí nhảnh con gái như ban đầu. Đây là một giọng khác, thuộc về một người khác. Nó có vẻ điềm tĩnh, thông minh. - ... Cũng như không phải bao giờ người ta cũng gặp nhau để bộc lộ cái tôi thực của mình. Ông Okada có hiểu ý tôi không?

- Nhưng dù thế nào đi nữa, Kumiko đang cố gắng truyền đạt một điều gì đó cho tôi. Dù đó có là sự thực hay không, cô ấy cũng tìm tôi để truyền đạt nó. Chính đó là sự thực đối với tôi.

Tôi cảm thấy bóng tối quanh mình càng lúc càng đậm đặc hơn, như thủy triều buổi đêm dâng lên đầy tràn không tiếng động. Tôi cần phải nhanh lên. Tôi không còn nhiều thời gian nữa. Nếu đèn sáng trở lại, bọn họ có thể tới đây lùng tôi. Tôi quyết định liều nói ra lời những ý nghĩ đã chầm chậm hình thành trong trí tôi.

- Những gì anh nói sau đây hoàn toàn là sản phẩm của trí tưởng tượng của anh. Anh đoán rằng, trong dòng máu nhà Wataya có một khuynh hướng di truyền nào đó. Khuynh hướng đó là gì anh không rõ, nhưng nó là một thứ khuynh hướng. Nó là một thứ mà em sợ. Chính vì vậy em luôn sợ có con. Khi có thai, em đã hoảng loạn vì em lo cái khuynh hướng đó sẽ lộ ra ở con của chính mình. Nhưng em đã không thể tiết lộ điều bí mật đó với anh. Toàn bộ câu chuyện bắt đầu từ đó.

Cô ta không nói gì nhưng lẳng lặng đặt cốc lên bàn ngủ. Tôi nói tiếp:

- Còn chị của em, anh tin chắc rằng chị ấy chết không phải vì ngộ độc thức ăn. Không, nguyên nhân bất thường hơn thế nhiều. Kẻ chịu trách nhiệm về cái chết của chị ấy là Wataya Noboru, và chuyện đó em biết. Chị của em hẳn đã nói điều gì với em về chuyện đó trước khi chị chết, đã cảnh báo một điều gì cho em. Wataya Noboru có một thứ năng lực đặc biệt nào đó, hắn biết cách tìm ra những người chịu khuất phục cái năng lực ấy rồi bòn rút một cái gì đó từ họ. Hắn ắt hẳn đã dùng cái năng lực đó theo một cách đặc biệt tàn bạo với Kano Creta. Cô ấy đã có thể hồi phục bằng cách này hay cách khác, nhưng chị của em thì không. Dù gì chị ấy cũng sống chung nhà với hắn nên chẳng biết chạy đi đâu. Chị ấy không chịu nổi nữa nên chọn cái chết. Ba mẹ em đã luôn luôn giữ kín chuyện chị ấy tự sát. Có đúng vậy không?

Không có câu trả lời. Người đàn bà như muốn xóa đi sự hiện diện của mình trong bóng tối.

Tôi nói tiếp:

- Anh không biết bằng cách nào và trong hoàn cảnh nào, nhưng cho đến một thời điểm, Wataya Noboru đã tăng cường cái năng lực tàn bạo đó của hắn một cách nhảy vọt. Thông qua truyền hình và các phương tiện khác, hắn trở nên có khả năng hướng cái năng lực đã được khuếch đại này ra ngoài xã hội. Giờ hắn đang cố gắng lôi ra ngoài một cái gì đó mà đa số thiên hạ vẫn giữ kín trong bóng tối vô thức của họ. Hắn muốn lợi dụng cái đó cho ý đồ chính trị của mình. Đó là một cái gì hết sức nguy hiểm. Cái mà hắn muốn lôi ra ngoài đó, nó bị vấy bẩn đến chết người bởi bạo lực và máu, nó có liên quan trực tiếp với những vực sâu đen tối nhất của lịch sử, bởi hiệu quả cuối cùng của nó là hủy diệt và xóa bỏ con người trên quy mô lớn.

Cô thở dài trong bóng tối.

- Ông có thể làm ơn pha cho tôi một ly whisky nữa được không? - Cô nhẹ nhàng hỏi.

Tôi đi lại chỗ bàn ngủ cầm lấy chiếc ly mà cô vừa uống cạn. Trong bóng tối tôi chỉ có thể làm được ngần ấy động tác thôi. Tôi cầm đèn pin sang phòng bên pha một cốc whisky mới có đá.

- Những điều ông vừa nói chỉ là do ông tưởng tượng ra thôi phải không? - Cô hỏi.

- Đúng. Tôi chỉ xâu chuỗi vài ý nghĩ lại với nhau thôi, - tôi nói. - Tôi chẳng có cách nào chứng minh được. Tôi không có cơ sở nào để bảo rằng những gì tôi vừa nói là đúng.

- Dẫu sao tôi vẫn muốn nghe phần còn lại, nếu như ông vẫn còn gì để nói thêm.

Tôi quay lại phòng trong đặt ly rượu lên bàn ngủ. Đoạn tôi tắt đèn pin và trở lại ngồi xuống ghế. Tôi tập trung chú ý kể tiếp câu chuyện của mình.

- Em không biết đích xác chuyện gì đã xảy ra cho chị gái em, trừ mỗi việc chị ấy đã cảnh báo cho em một điều gì trước khi chị mất. Khi đó em còn quá nhỏ lên chưa hiểu được cảnh báo có ý nghĩa gì. Nhưng em vẫn thấy được dù một cách lờ mờ. Em biết rằng Wataya Noboru đã làm chị em bị ô uế và tổn thương bằng cách nào đó. Và em cảm thấy trong huyết quản mình có một thứ bí mật đen tối, một cái gì đó mà em không thể nào tránh được. Thế nên, trong ngôi nhà ấy, em đã luôn luôn cô độc, luôn luôn căng thẳng, phải đấu tranh với nỗi bất an âm ỉ không thể xác định là gì, như một trong những con sứa mà chúng ta đã thấy ở công viên thủy sinh.

Sau khi em tốt nghiệp đại học, và sau bao nhiêu rắc rối với gia đình em, em đã lấy anh và rời khỏi nhà Wataya. Rồi hai chúng mình sống một cuộc đời êm ả, từng ngày ngày qua, em cũng dần dần quên đi cái nỗi bất an đen tối đó. Em bước vào xã hội như một con người mới, em dần dần hồi phục. Đã có một thời tưởng như mọi cái đều êm đẹp với em. Nhưng thật không may, chuyện chẳng đơn giản như vậy. Đến một lúc nào đó, em nhận ra rằng mình đang bị lôi kéo ngoài ý muốn về phía cái sức mạnh đen tối mà em cứ nghĩ mình đã bỏ lại đằng sau. Và khi nhận ra điều gì đang xảy ra với mình, em đâm bấn loạn. Em không biết phải làm gì. Chính vì vậy em đi nói chuyện với Wataya Noboru, hy vọng có thể biết được sự thật. Và em tìm Kano Malta, những mong cô ta có thể giúp mình. Chỉ có anh, là em không thể bộc bạch thôi.

Anh đoán mọi chuyện đã khởi đầu từ sau khi em có thai. Anh tin chắc đó là bước ngoặt. Có lẽ vì vậy mà anh đã nhận được lời cảnh báo đầu tiên từ tay nhạc công ghita ở Sapporo vào đúng cái đêm em phá thai. Việc có thai hẳn đã kích thích và đánh thức cái gì đó đang tiềm ẩn trong em. Wataya Noboru chỉ chờ có chừng ấy. Đó chính là cách duy nhất để hắn có quan hệ tính giao với đàn bà. Chính vì vậy hắn mới cương quyết giằng em ra khỏi anh mà lôi về phía hắn, một khi cái khuynh hướng đó đã lộ ra ở em. Hắn phải có được em. Wataya Noboru cần em để đóng cái vai mà chị gái em từng đóng cho hắn.

Khi tôi nói xong, im lặng sâu thẳm lấp đầy khoảng trống. Tôi đã nói thành lời tất cả những gì trí tưởng tượng đã mách bảo tôi về Kumiko. Một phần là những suy nghĩ mơ hồ tôi từng có từ trước, phần còn lại thì hình thành trong trí tôi ngay lúc tôi đang nói trong bóng tối. Có lẽ sức mạnh của bóng tối đã lấp đầy những khoảng trống trong tưởng tượng của tôi. Hoặc có thể sự hiện diện của người đàn bà này đã giúp vào đó. Nhưng đằng nào đi nữa, những gì tôi tưởng tượng chẳng dựa trên cơ sở chắc chắn nào.

- Hay quá, hay quá, - người đàn bà nói. Một lần nữa giọng cô lại là giọng nhí nhảnh trẻ con. Hình như cô đổi giọng càng lúc càng nhanh. - Thế đấy, thế đấy. Vậy là em đã bỏ anh đặng lánh mình không cho ai thấy tấm thân ô uế của em. Nghe như là Cầu Waterloo trong sương mù ấy nhỉ, Auld Lang Sync , Robert Taylor và Vivien Leigh...

- Anh sẽ đưa em ra khỏi đây, tôi ngắt lời cô. - Anh sẽ đưa em về nhà, về thế giới của em, thế giới có những con mèo đuôi quặp, có những mảnh vườn nho nhỏ, có những chiếc đồng hồ báo thức vào buổi sáng.

- Bằng cách nào cơ? - người đàn bà hỏi. - Làm sao anh Okada có thể đưa em ra khỏi đây được?

- Như trong truyện cổ tích ấy, - tôi đáp. - Bằng cách phá bỏ lời nguyền.

- Ồ, em hiểu. Nhưng anh Okada đợi một chút. Có vẻ như anh nghĩ em là Kumiko. Anh muốn đưa em về nhà như là đưa Kumiko về. Nhưng nếu em không phải là Kumiko thì sao? Chừng đó anh sẽ làm gì? Có khi anh sắp đưa về nhà một kẻ hoàn toàn khác đấy. Anh có tin chắc mình đang làm gì không? Liệu anh có nên nghĩ kỹ một lần nữa không?

Tôi thò tay nắm chặt chiếc đèn pin trong túi. Đây không thể là ai khác ngoài Kumiko, tôi nghĩ. Nhưng tôi không chứng minh được. Rốt cuộc đó cũng chỉ là giả thuyết, không hơn. Mồ hôi túa ra từ bàn tay tôi đang thọc trong túi.

- Anh sẽ đưa em về nhà, - tôi lại nói, giọng khô khốc. - Anh đến đây là để đưa em về.

Tôi nghe tiếng chăn đệm sột soạt. Cô vừa đổi tư thế trên giường.

- Anh nói thế nhưng có dám chắc không? Không nghi ngờ gì chứ? - Cô hỏi, ép tôi phải xác nhận.

- Phải, anh dám chắc. Anh sẽ đưa em về.

- Anh không nghĩ lại chứ?

- Không nghĩ lại. Ý anh đã quyết, - tôi nói.

Nghe xong cô im lặng hồi lâu, như để kiểm tra sự xác thực của một cái gì đó. Rồi, như để đánh dấu đoạn kết của cuộc đối thoại này, cô thở một hơi dài.

- Em sẽ cho anh một món quà, - cô nói. - Quà chẳng lấy gì làm ghê gớm cả, nhưng có khi sẽ được việc đấy. Đừng bật đèn, cứ lại đây, chậm, thật chậm, lại gần bàn ngủ này.

Tôi rời ghế, chìa tay phải ra trong bóng tối, như để đo bề sâu của sự rỗng không. Tôi cảm thấy những cái gai sắc nhọn của không khí chọc vào đầu ngón tay mình. Rồi tôi chạm vào vật đó. Khi tôi nhận ra nó là gì, không khí dường như nghẹt lại trong cuống họng. "Quà" là một cây gậy bóng chày.

Tôi nắm chặt chỗ tay cầm, giơ thẳng gậy lên. Hầu như chắc chắn đó là cây gậy mà tôi đã lấy của gã đàn ông xách hộp đàn ghita. Tay cầm và trọng lượng y hệt. Ắt là nó rồi. Nhưng, sờ kỹ hơn, tôi thấy có cái gì đó dính vào gậy ngay phía trên chỗ nhãn hiệu. Nghe như là một sợi tóc. Tôi miết nó giữa mấy đầu ngón tay. Xét theo độ dày và độ cứng, nó chắc chắn phải là một sợi tóc người. Có mấy sợi như vậy dính vào gậy, còn thêm cái gì đó như là máu đông. Ai đó đã dùng cây gậy này để đánh vào đầu một người khác, có thể là Wataya Noboru. - Phải cố lắm tôi mới hắt chỗ không khí nghẽn trong họng ra ngoài được.

- Đây là gậy của anh phải không? - Cô hỏi.

- Chắc vậy, - tôi nói, cố giữ bình tĩnh. Giọng tôi bắt đầu có một âm sắc khác hẳn trong bóng tối dày đặc, như thể có ai đó nãy giờ lẩn lút đâu đây đang nói thay tôi. Tôi hắng giọng, kiểm chứng cho chắc xem có phải người đang nói vẫn là tôi không, rồi mới tiếp lời:

- Nhưng hình như ai đó đã dùng cây gậy này để đánh một người khác.

Người đàn bà nín thinh. Tôi ngồi xuống ghế, hạ cây gậy xuống kẹp giữa hai chân.

- Hẳn là em biết có chuyện gì... - tôi nói. - Có ai đó đã dùng cây gậy này để đánh vỡ sọ Wataya Noboru. Tin tức anh nghe được trên tivi là đúng. Wataya Noboru đang nằm ở bệnh viện trong tình trạng nguy kịch. Hắn có thể chết.

- Hắn sẽ không chết, - giọng Kumiko nói, hoàn toàn vô cảm. Nàng nói như thể đang tường thuật một sự kiện lịch sử từ trong một cuốn sách. - Tuy nhiên hắn sẽ không phục hồi ý thức được. Hắn có thể vẫn tiếp tục lang thang trong bóng tối, nhưng đó là loại bóng tối nào thì không ai biết.

Tôi sờ soạng tìm ly rượu dưới chân, nhấc lên. Tôi trút hết chỗ rượu trong ly vào miệng, rồi chẳng nghĩ ngợi gì, nuốt ực. Thứ chất lỏng không có vị gì đi qua họng, trôi xuống thực quản tôi. Chẳng hiểu vì sao tôi thấy ớn lạnh, kế đó là một cảm giác khó chịu như thể có cái gì đó từ xa đang chầm chậm dịch chuyển về phía tôi qua một bóng tối dằng dặc. Tim tôi đập mạnh lên như đã dự cảm được từ trước.

- Chúng ta không còn nhiều thời gian, - tôi nói. - Nếu có thể thì hãy cho anh biết chúng ta đang ở đâu?

- Anh từng đến đây rồi, anh đã biết cách đến đây sao cho vẫn sống và bình an vô sự. Anh ắt phải biết đây là nơi nào chứ. Nhưng bây giờ đó cũng chẳng phải vấn đề quan trọng nữa. Cái chính là...

Ngay khi đó có tiếng gõ cửa - một âm thanh nặng trịch, khô khốc, như ai đó đang đóng đinh vào tường. Hai tiếng, rồi hai tiếng nữa. Chính là tiếng gõ cửa tôi đã nghe lần trước. Người đàn bà thở hổn hển.

- Anh phải đi khỏi đây ngay. - Cô nói, lần này là giọng của Kumiko, không thể lầm được. - Nếu anh đi ngay bây giờ thì vẫn còn kịp xuyên qua tường.

Tôi không rõ mình đang nghĩ đúng hay sai, nhưng tôi biết chừng nào còn ở đây, tôi còn phải đánh bại cái thứ này. Đây là cuộc chiến của tôi, và tôi phải chiến đấu đến cùng.

- Lần này anh không bỏ chạy đâu, - tôi nói với Kumiko. - Anh sẽ đưa em về.

Tôi đặt ly xuống sàn, đội mũ len lên, rồi cầm lấy cây gậy đang kẹp giữa hai đầu gối. Đoạn tôi từ từ tiến lại phía cửa.



1.Tên một bài hát rất phổ biến dựa theo lời thơ của thi hào Scotland Robert Burns (1759 - 1796) - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

98#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:16:08 | Chỉ xem của tác giả

Chương 33

Một nơi nguy hiểm

Những người xem truyền hình

Người rỗng


Cửa bắt đầu mở. Bê chiếc khay bằng cả hai tay, gã bồi khẽ cúi chào rồi bước vào trong phòng. Tôi đứng trong bóng chiếc bình hoa, đợi gã bồi đi ra và tự hỏi khi hắn ra thì mình sẽ làm gì. Khi hắn ra, tôi sẽ có thể vào. Chắc chắn phải có người trong Phòng 208. Nếu mọi việc tiếp tục tiến triển như lần trước (mà quả thật là như vậy), thì cửa phải không khóa. Nhưng mặt khác tôi cũng có thể tạm thời quên cái phòng đi, hẵng theo chân gã bồi trước đã. Khi đó có thể tôi sẽ đến được nơi y xuất phát.

Tôi phân vân một lát không biết chọn đường nào, cuối cùng tôi quyết định đi theo gã bồi. Có cái gì đó nguy hiểm đang lẩn lút trong Phòng 208, cái gì đó có thể gây hậu quả chết người. Tôi vẫn nhớ như in cái tiếng gõ sắc gọn trong bóng tối, ánh lóe màu trắng đầy bạo lực của vật gì đó giống như con dao. Tôi phải thật thận trọng. Trước hết hãy cứ xem gã bồi sẽ dẫn tôi đi đâu. Sau đó tôi có thể quay lại phòng này. Chỉ có điều bằng cách nào? Tôi thọc hai tay vào túi quần, trong đó ngoài chiếc ví, ít tiền lẻ và chiếc khăn mùi soa còn có một cây bút bi nhỏ. Tôi rút cây bút ra, vạch một đường lên tay xem có còn mực không. Tôi có thể dùng bút này đánh dấu lên tường trong khi đi theo gã bồi. Sau đó tôi khả dĩ lần theo dấu mà trở về. Sẽ tìm được thôi.

Cửa mở, tên bồi bước ra tay không. Hắn đã để lại mọi thứ trong phòng kể cả chiếc khay. Đóng cửa phòng lại xong, hắn ưỡn thẳng người rồi vừa huýt sáo Chim ác là ăn cắp vừa tất tả đi ngược lại đường mà hắn đã đến đây. Tôi bước ra khỏi chỗ nấp sau chiếc bình hoa lớn mà theo gót y. Mỗi khi hành lang tẽ làm hai, tôi lại đánh một dấu X nhỏ màu xanh lơ trên bức tường màu kem. Gã bồi không hề ngoái lại. Cách hắn đi có cái gì đó thật đặc biệt. Hắn có thể ứng thí vào Cuộc thi Vô địch về Phong cách Đi đứng dành cho các Bồi Khách sạn Toàn Thế giới. Dáng đi của hắn như thể hùng hồn tuyên bố: "Đã là bồi khách sạn thì phải đi thế này này: đầu ngẩng cao, hàm chìa ra đằng trước, lưng thẳng, tay đung đưa đều đặn theo nhịp của Chim ác là ăn cắp, sải từng bước dài dọc hành lang". Hắn rẽ nhiều góc quanh, đi lên đi xuống nhiều đoạn cầu thang, đi dọc theo những quãng hành lang ánh sáng khi mờ khi tỏ, ngang qua những hốc thụt trên tường làm tạo ra nhiều loại bóng đen. Tôi giữ một khoảng cách hợp lý phía sau hắn nhằm tránh bị phát hiện, nhưng bám theo hắn cũng chẳng lấy gì làm khó. Mỗi khi gặp một góc quanh thì hắn cũng biến mất trong khoảnh khắc, nhưng chẳng việc gì phải lo mất dấu bởi hắn không ngừng huýt sáo vang lừng.

Như con cá hồi di cư ngược dòng sông rốt cuộc cũng tìm đến được một cái hồ yên tĩnh, gã bồi ra khỏi hành lang cuối cùng để bước vào một gian tiền sảnh khách sạn, chính là gian tiền sảnh lắm người nơi tôi đã thấy Wataya Noboru trên màn ảnh truyền hình. Tuy nhiên lần này gian tiền sảnh vắng lặng, chỉ có dăm người ngồi trước một chiếc tivi lớn xem chương trình tin tức của NHK. Gã bồi đã thôi huýt sáo từ khi sắp ra tới chỗ tiền sảnh để không làm phiền mọi người. Giờ thì hắn đang băng qua gian tiền sảnh rồi biến mất sau một cánh cửa có chữ đề "Chỉ dành cho nhân viên".

Giả vờ giết thì giờ, tôi đi tha thẩn quanh gian tiền sảnh, ngồi lên hết sofa này lại tới sofa khác, nhìn lên trần nhà, kiểm tra độ dày của tấm thảm dưới chân. Đoạn tôi đi lại chỗ một quầy điện thoại trả tiền, đút một đồng xu vào, nhưng cái điện thoại này cũng chết câm như điện thoại trong căn buồng kia. Tôi bèn nhấc ống nghe một điện thoại nội bộ khách sạn rồi bấm số "208", nhưng cả điện thoại này cũng chết.

Thế rồi tôi ngồi xuống một chiếc ghế cách xa chỗ đám người kia đang ngồi xem tivi để có thể kín đáo quan sát họ. Nhóm kia gồm có mười hai người, chín đàn ông và ba đàn bà, hầu hết trạc ba mươi, bốn mươi tuổi, có hai người trạc ngoài năm mươi. Toàn bộ đám đàn ông đều mặc com-lê hay áo khoác thể thao, cà-vạt chỉnh tề, đi giày da. Họ chỉ khác nhau chút ít về chiều cao và cân nặng, còn thì chẳng ai có nét gì đặc biệt. Ba người đàn bà đều khoảng ngoài ba mươi tuổi, ăn mặc tươm tất, trang điểm cẩn thận. Thoạt trông có thể ngỡ rằng họ vừa đi dự họp mặt bạn học cũ về, chỉ có điều họ lại ngồi riêng rẽ và chẳng tỏ dấu hiệu gì là quen biết nhau. Thật ra nhóm này hẳn đều là những người xa lạ, chỉ tình cờ gặp nhau ở chỗ cùng quan tâm đến những gì đang chiếu trên màn hình tivi. Họ không hề trao đổi ý kiến, không nhìn nhau cũng chẳng gật đầu với nhau.

Ngồi trên chiếc ghế ở đằng xa, tôi cũng theo dõi tin tức. Các bản tin chẳng có gì đặc biệt lý thú đối với tôi - một ông thống đốc cắt băng khánh thành con đường mới, một lô bút chì dành cho trẻ con bị phát hiện là có chứa độc tố, một tài xế xe tải tử nạn vì đâm phải chiếc xe buýt chở khách du lịch ở Asahikawa do đường đóng băng trơn trượt và bão tuyết lớn nên tầm nhìn kém, vài khách du lịch bị thương, đó là một nhóm khách đang trên đường đến khu nghỉ có suối nước nóng. Phát ngôn viên đọc lần lượt từng mẩu tin bằng giọng bình thản, như đang bày các quân bài ra trước mặt. Tôi nghĩ đến chiếc tivi trong nhà ông Honda, nhà chiêm tinh. Tivi của ông lúc nào cũng bật kênh NHK.

Hình ảnh các tin tức truyền qua không khí này vừa thực lại vừa không đối với tôi. Tôi thấy thương cảm cho tay tài xế xe tải ba mươi bảy tuổi chết trong vụ tai nạn. Không ai muốn chết như thế cả - quằn quại chết dần vì nội tạng bị giập nát giữa một cơn bão tuyết ở Asahikawa. Nhưng tôi không quen biết tay tài xế đó, anh ta cũng chẳng biết tôi. Thành thử mối cảm thông của tôi đối với anh ta chẳng hề mang tính cá nhân. Tôi chỉ có thể cảm thấy một mối cảm thông chung chung đối với một con người chẳng may gặp phải cái chết bất ngờ, đau đớn. Cái cảm xúc chung chung đó có thể rất thực với tôi, nhưng đồng thời cũng không thực chút nào. Tôi rời mắt khỏi màn hình tivi mà nhìn quanh gian tiền sảnh rộng lớn, vắng tanh một lần nữa. Cũng chẳng có gì để chú mục vào. Không thấy nhân viên khách sạn, quầy bar nhỏ thì chưa mở. Vậy duy nhất trên tường là bức tranh sơn dầu lớn vẽ một ngọn núi.

Khi lại quay sang màn hình tivi, tôi nhìn thấy cận cảnh một gương mặt quen thuộc - Wataya Noboru. Tôi ngồi thẳng dậy, chú ý lắng nghe lời của phóng viên. Có chuyện gì đó đã xảy ra với Wataya Noboru. Tôi đã bỏ mất đoạn đầu của bản tin. Chẳng mấy chốc sau, bức ảnh biến mất và phóng viên xuất hiện trên màn hình. Anh ta đeo cà vạt, mặc áo khoác, đứng trước cửa vào một tòa nhà lớn, tay cầm micro.

"... lập tức đưa vào Bệnh viện của Trường Đại học Y khoa Phụ nữ Tokyo và hiện đang được chăm sóc đặc biệt, nhưng cho đến giờ chúng ta chỉ biết rằng ông vẫn chưa hồi tỉnh vì bị một kẻ tấn công lạ mặt đánh nứt sọ. Các bác sĩ từ chối bình luận, liệu vết thương có nguy hiểm đến tính mạng ông hay không. Tường trình chi tiết về tình trạng của ông sẽ được công bố sau. Tường thuật trực tiếp từ cổng chính Đại học Y khoa Phụ nữ Tokyo..."

Ống kính lại quay về phòng thu. Người dẫn chương trình bắt đầu đọc một mẩu giấy người ta vừa đưa cho. "Theo báo cáo mới nhất. Dân biểu Wataya Noboru đã bị trọng thương ở đầu trong một cuộc hành hung chí mạng. Kẻ hành hung trẻ tuổi đã đột nhập vào văn phòng của ông tại Quận Minata, Tokyo lúc 11 giờ 30 trưa nay và, ngay trước mặt những người đang tiếp kiến Dân biểu Wataya Noboru, đã dùng một cây gậy đánh bóng chày đánh mấy cú mạnh liên tiếp lên đầu dân biểu Wataya gây thương tích nghiêm trọng cho ông."

Màn hình chiếu cảnh ngôi nhà nơi tọa lạc văn phòng của Wataya Noboru.

"Hung thủ giả vờ là khách đến thăm văn phòng của Wataya Noboru, giấu cây gậy bóng chày trong một chiếc ống dài thường dùng để đựng các bản đồ án. Các nhân chứng cho biết, y đã lôi gậy ra khỏi ống rồi tấn công mà chẳng nói chẳng rằng."

Màn hình chiếu cảnh văn phòng nơi xảy ra tội ác. Ghế nằm lăn lóc trên sàn, gần đó là một vũng máu đen kịt.

"Vụ hành hung diễn ra bất ngờ đến nỗi cả Dân biểu Wataya lẫn những người đang ở trong phòng cùng ông đều không kịp trở tay. Sau khi kiểm tra xem có chắc là Dân biểu Wataya đã bất tỉnh chưa, hung thủ mới rời khỏi hiện trường, tay vẫn nắm cây gậy bóng chày. Các nhân chứng cho biết hung thủ trạc ba mươi tuổi, mặc áo khoác màu xanh lính thủy, đội mũ len trượt tuyết cũng màu xanh lính thủy, đeo kính sẫm màu. Hắn cao xấp xỉ 1,75 mét, có một vết trông như vết bầm trên má phải. Cảnh sát đang truy lùng hung thủ, dường như hắn đã kịp trà trộn vào đám đông mà biến mất không dấu vết."

Màn hình cho thấy cảnh sát đang ở hiện trường nơi xảy ra tội ác, sau đó là cảnh đường phố nhộn nhịp ở khu Akasaka.

Gậy bóng chày? Vết bầm trên mặt? Tôi cắn môi.

"Wataya Noboru là một ngôi sao đang lên trong giới kinh tế gia và các nhà bình luận chính trị. Mùa xuân năm nay ông đã được bầu vào Hạ viện, nối bước bác mình là Wataya Yoshiraka, thành viên lâu năm của Nghị viện. Từ đó ông đã được công chúng rộng rãi thừa nhận là một nhà chính trị và nhà luận chiến có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Người ta đặt rất nhiều kỳ vọng vào ông. Hiện cảnh sát đang tiến hành điều tra theo hai hướng: một, đây có thể là vụ hành hung có động cơ chính trị, hai, có thể là trả thù cá nhân. Chúng tôi xin lặp lại một lần nữa tin mới nhất: sáng nay, Dân biểu Wataya Noboru, một thành viên lừng tiếng của Hạ viện, đã bị một kẻ lạ mặt hành hung gây thương tích nghiêm trọng ở đầu, được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Hiện vẫn chưa có thông tin chi tiết nào về tình trạng của ông. Còn bây giờ là các tin tức khác..."

Đến đó thì hình như có người tắt tivi. Giọng phát ngôn viên bị cắt ngang nửa chừng, im lặng trùm xuống gian tiền sảnh. Mọi người nãy giờ căng thẳng bắt đầu đổi tư thế cho thoải mái. Rõ ràng là họ tụ tập lại trước màn hình tivi chỉ vì mục đích duy nhất là nghe bản tin về Wataya Noboru. Sau ki tivi đã tắt, không ai cử động. Không ai phát ra một tiếng nào.

Ai đã dùng gậy bóng chày mà đánh Wataya Noboru? Theo người ta mô tả, hung thủ có ngoại hình giống hệt tôi - áo khoác và mũ màu xanh lính thủy, kính râm, vết bầm trên má, chiều cao, độ tuổi - và cây gậy bóng chày. Tôi đã để cây gậy bóng chày dưới đáy giếng hàng mấy tháng trời, nhưng nó vừa biến mất. Nếu đó cũng là cây gậy được dùng để đánh vỡ sọ Wataya Noboru thì ắt hẳn ai đó đã mang nó ra khỏi giếng nhằm chính mục đích này.

Ngay lúc đó cái nhìn của một trong những phụ nữ ở nhóm người kia hướng vào tôi - đó là một phụ nữ gày nhẳng, xương hàm bạnh trông như con cá. Cô ta đeo bông tai màu trắng ngay chính giữa cặp dái tai dài. Cô ta đã xoay người trên ghế rồi cứ giữ nguyên tư thế đó mà nhìn tôi không rời mắt, không thay đổi sắc mặt. Kế đó người đàn ông hói đằng sau cô ta cũng đưa mắt theo hướng nhìn của cô mà ngoái lại nhìn tôi. Về chiều cao và vóc dáng, ông ta trông giống tay chủ hiệu giặt là cạnh nhà ga. Từng người một, những người khác cũng ngoái về phía tôi, như thể đến giờ họ mới biết rằng tôi đang có mặt ở đó cùng họ. Trước cái nhìn chòng chọc của họ, tôi không thể không hiểu ra rằng mình đang mặc áo khoác vào đội mũ màu xanh lính thủy, rằng tôi cao xấp xỉ 1,75 mét, rằng tôi ba mươi tuổi, rằng tôi có vết bầm trên má phải. Những người đó hình như cũng biết tôi là em rể của Wataya Noboru, và tôi không chỉ ghét hắn mà còn căm thù hắn. Tôi thấy điều đó trong mắt họ. Tôi bấu chặt hai tay ghế, phân vân không biết phải làm gì. Tôi không dùng gậy bóng chày để đánh Wataya Noboru. Tôi không phải loại người đó, hơn nữa tôi không còn cây gậy. Nhưng chắc chắn họ sẽ chẳng đời nào tin tôi. Họ chỉ tin những gì đã thấy trên truyền hình.

Tôi chầm chậm đứng dậy khỏi ghế, đi về phía hành lang đã dẫn tôi đến gian tiền sảnh. Tôi phải rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt. Chẳng ai hân hoan chào đón tôi ở đây. Vừa đi được vài bước, tôi ngoảnh lại thì thấy có mấy người đã đứng dậy đi theo tôi. Tôi rảo bước, cắt ngang qua gian tiền sảnh về phía hành lang nọ. Tôi phải tìm đường về lại Phòng 208. Trong mồm tôi khô khốc.

Tôi mới băng qua được gian tiền sảnh và giẫm bước đầu tiên vào hành lang thì đột nhiên tất cả đèn đóm trong khách sạn vụt tắt không một tiếng động. Một bức màn đen nặng trịch từ đâu rơi phập xuống nhanh như một lưỡi rìu. Ai đó thét lên sau lưng tôi, gần hơn tôi tưởng rất nhiều, tận trong lõi giọng thét đó có một nỗi căm thù rắn như đá.

Tôi vẫn dấn bước trong bóng tối, vừa đi vừa cẩn thận dò dẫm hai tay theo mặt tường. Tôi phải thoát khỏi bọn họ. Nhưng bỗng tôi chạm phải một cái bàn nhỏ, đánh đổ một cái gì trong bóng tối, hẳn là bình lọ gì đó. Nó vừa lăn tròn vừa kêu lanh canh trên sàn. Cú va chạm khiến tôi ngã dúi dụi xuống mặt thảm. Tôi lồm cồm bò dậy, lại mò mẫm đi dọc theo hành lang. Ngay khi đó vạt áo khoác của tôi bị giật mạnh lại như vướng phải đinh. Phải một thoáng sau tôi mới hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ai đó đang túm áo khoác tôi mà lôi lại. Không chần chừ, tôi cởi phắt áo khoác rồi lại sấn tới trong bóng tối. Tôi rẽ một góc quanh, lên nhầm một cầu thang, lại rẽ một góc quanh nữa, đầu và vai tôi cứ va vào hết vật này đến vật khác. Có lúc tôi vấp một bước chân, ngã dập mặt vào tường. Thế nhưng tôi không thấy đau, chỉ hơi ê ẩm phía sau mắt. Không thể để họ tóm được tôi ở đây.

Hoàn toàn không có ánh sáng nào, không có cả đèn báo hiệu khẩn cấp mà đáng lẽ phải bật lên trong trường hợp khách sạn mất điện. Sau một hồi cuống cuồng tháo chạy không biết trời đất là gì nữa trong bóng tối như mực đó, tôi dừng lại lấy hơi, lắng nghe những tiếng động sau lưng mình. Nhưng tôi chẳng nghe thấy gì khác ngoài tiếng tim mình đập như điên. Tôi quỳ xuống nghỉ một chút. Hẳn đám người kia đã bỏ cuộc không đuổi theo tôi nữa. Nếu còn tiến tới thêm một chút trong bóng tối, có khi tôi sẽ lạc đường trong cái mê cung hun hút này. Tôi quyết định cứ ở lại đây, tựa lưng vào tường, cố trấn tĩnh lại.

Ai đã tắt đèn đi vậy? Tôi không thể tin đó là ngẫu nhiên. Điều đó đã xảy ra đúng lúc tôi bước vào hành lang trong khi người ta đang cố bắt kịp tôi. Rất có thể ai đó đã làm vậy để cứu nguy cho tôi. Tôi cởi mũ len ra, dùng khăn tay lau mồ hôi trên mặt rồi lại đội mũ vào. Tôi bắt đầu nhận thấy cái đau ở những phần khác trên cơ thể, nhưng hình như tôi không bị thương tích nào đáng kể. Tôi nhìn những cây kim lân tinh của đồng hồ đeo tay trong bóng tối, rồi lại nhớ ra rằng đồng hồ đã đứng từ lúc 11 giờ 30. Đó là lúc tôi trèo xuống giếng, cũng là lúc ai đó đã dùng gậy bóng chày đánh Wataya Noboru tại văn phòng của hắn.

Liệu có phải chính tôi đã làm việc đó không?

Trong bóng tối nhường này, điều ấy đâm ra có thể là một khả năng lý thuyết. Có thể là, ở trên kia, trong thế giới thực, tôi đã đánh hắn bằng gậy bóng chày và làm hắn trọng thương, nhưng tôi là người duy nhất không biết điều đó. Có lẽ nỗi thâm thù bên trong tôi đã tự ý đi đến hành động đó mà chính tôi không biết, để nện hắn một đòn chí tử. Nhưng tôi nói là đi ư? Muốn vậy tôi phải đáp tàu điện tuyến Odakyu đến Shinjuku rồi đổi sang tàu điện ngầm đến Akasaka. Liệu tôi có thể làm từng ấy chuyện mà chính mình không biết không? Không, nhất định là không, trừ phi còn có một cái tôi khác.

"Ông Okada", ai đó nói cạnh tôi trong bóng tối.

Tim tôi như muốn bật ra khỏi họng. Tôi chịu không hiểu nổi giọng nói đó phát ra từ đâu. Bắp thịt tôi căng cứng trong khi tôi căng mắt nhìn vào bóng tối, nhưng dĩ nhiên chẳng nhìn thấy gì.

"Ông Okada", giọng nói lại vang lên. Một giọng đàn ông khe khẽ. "Ông Okada đừng lo. Tôi cùng phe với ông. Chúng ta đã gặp nhau ở đây một lần. Ông có nhớ không?"

Tôi nhớ. Tôi biết giọng nói này. Đó là giọng của gã đàn ông không mặt. Nhưng tôi cần phải thận trọng. Tôi không sẵn sàng trả lời.

- Ông phải rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt, ông Okada ạ. Đèn sáng là họ sẽ tìm thấy ông ngay. Theo tôi, tôi biết một lối tắt.

Gã đàn ông bật một cây đèn bút. Nó hắt ra một tia sáng nhỏ xíu, song vừa đủ để cho tôi nhìn bước chân. "Lối này", gã giục. Tôi lồm cồm đứng dậy hấp tấp theo sau gã.

- Chắc hẳn ông là người đã tắt đèn cho tôi phải không? - Tôi hỏi gã từ đằng sau.

Gã không đáp, nhưng cũng không phủ nhận.

- Cám ơn, - tôi nói. - Suýt chút nữa thì...

- Mấy người đó nguy hiểm lắm, - gã nói. - Nguy hiểm hơn ông tưởng nhiều.

Tôi hỏi gã:

- Có thật là Wataya Noboru bị đánh trọng thương không?

- Trên tivi người ta nói thế, - gã đáp, cẩn thận lựa lời.

- Nhưng tôi không làm việc ấy, - tôi nói. - Lúc đó tôi đang ngồi dưới giếng, một mình.

- Nếu ông bảo vậy, tôi tin ông nói đúng, - gã đáp với vẻ thản nhiên. Gã mở cánh cửa rồi vừa rọi đèn xuống dưới chân vừa bước lên một cầu thang ở phía bên kia cửa. Đó là một cầu thang dài đến nỗi đi được nửa chừng thì tôi không còn biết hai chúng tôi đang lên hay đang xuống nữa. Thậm chí tôi không chắc đây có phải là cầu thang không.

- Liệu có người nào khả dĩ làm chứng rằng lúc đó ông đang ở dưới giếng không? - Gã hỏi mà không ngoái lại.

Tôi không nói gì. Chẳng có người nào như vậy cả.

- Trong trường hợp đó, việc khôn ngoan nhất ông nên làm là chạy trốn. Họ đã tự xác định rằng ông là thủ phạm.

- "Họ" là ai?

Lên đến cầu thang, gã đàn ông rẽ phải, đi một quãng ngắn, mở một cánh cửa rồi bước ra hành lang. Đến đây gã dừng lại nghe ngóng động tĩnh. "Ta phải nhanh lên. Nắm lấy áo tôi".

Tôi nắm lấy vạt dưới áo khoác của gã theo lời gã.

Gã đàn ông không mặt nói:

- Những người đó luôn luôn dán chặt vào chiếc tivi. Chính vì lẽ đó ông mới bị người ta căm ghét đến vậy ở đây. Họ rất thích ông anh vợ của ông.

- Ông biết tôi là ai à? - Tôi hỏi.

- Dĩ nhiên tôi biết.

- Vậy thì ông có biết, Kumiko giờ đang ở đâu không?

Gã đàn ông không nói gì. Tôi nắm chặt đuôi áo khoác gã, như thể hai chúng tôi đang chơi một trò chơi nào đó trong bóng tối, hối hả rẽ một góc quanh nữa, xuống một cầu thang ngắn, băng qua cánh cửa nhỏ bí mật, qua một lối đi kín đáo trần thấp lè tè, lại vào một hành lang nữa. Cái lộ trình kỳ lạ lắt léo này của gã đàn ông không mặt chả khác gì một hành trình vô tận băng qua lòng ruột của một bức tượng đồng khổng lồ.

- Cho tôi nói điều này, ông Okada. Tôi không biết được mọi điều ở đây đâu. Nơi này rất rộng lớn, phạm vi trách nhiệm của tôi chủ yếu là ở gian tiền sảnh. Có nhiều chuyện mà tôi không biết lắm.

- Ông có biết tay bồi hay huýt sáo không?

- Không, tôi không biết. Ở đây chẳng có bồi nào cả, huýt sáo hay không huýt sáo cũng vậy. Nếu ông có thấy một gã bồi đâu đó ở đây thì thật ra hắn không phải là bồi đâu: ấy là một cái gì đó cải dạng thành gã bồi. Mà tôi quên hỏi ông, ông muốn đến Phòng 208 đúng không?

- Đúng. Tôi cần gặp một người đàn bà ở đó.

Nghe vậy, gã đàn ông chẳng nói gì. Gã không gặng hỏi chi tiết về người đàn bà, cũng chẳng hỏi xem tôi có chuyện gì cần gặp cô ta. Gã vẫn tiếp tục đi dọc hành lang với những sải bước đầy tự tin của một người biết rõ nơi này, lôi tôi lẵng nhẵng theo sau như chiếc xà lan, qua một lộ trình phức tạp.

Rốt cuộc, không báo trước, gã đứng khựng lại trước một cánh cửa. Tôi đâm sầm vào gã từ đằng sau, gần như làm gã ngã bổ chửng. Lúc va chạm, tôi cảm thấy da thịt gã nhẹ bẫng, dường như tôi mới va vào một cái vỏ ve sầu rỗng. Gã nhanh chóng gượng thẳng người dậy rồi dùng đèn pin bỏ túi soi lên biển số phòng: 208.

- Cửa này không khóa, - gã nói. - Ông cầm đèn theo mà dùng. Tôi có thể quay về trong bóng tối được. Vào xong thì khóa cửa lại, đừng mở ra cho bất cứ ai. Dù có việc gì đi nữa, hãy cố giải quyết cho nhanh rồi quay về nơi ông xuất phát. Nơi này nguy hiểm lắm. Ông là kẻ đột nhập không ai mời mà đến, và tôi là người duy nhất đứng về phía ông. Đừng quên điều đó.

- Ông là ai? - Tôi hỏi.

Gã đàn ông trao cây đèn pin cho tôi như trao gậy tiếp sức. "Tôi là người rỗng", gã nói. Hướng khuôn mặt không có mặt về phía tôi, gã đứng trong bóng tối đợi tôi trả lời, nhưng tôi không tìm được lời nào cho đúng. Cuối cùng, chẳng nói chẳng rằng, gã biến mất. Mới giây trước gã còn đứng ngay trước mặt tôi, giây sau gã đã bị nuốt chửng vào bóng tối. Tôi rọi đèn về phía gã, nhưng chỉ có một mảng tường trắng xỉn hiện ra từ bóng tối.

° ° °


Như gã đàn ông đã nói, cửa Phòng 208 không khóa. Quả đấm cửa xoay trong tay tôi không một tiếng động. Tôi cẩn thận tắt đèn pin rồi cố bước vào càng êm càng tốt. Cũng như trước, phòng im lặng như tờ, tuyệt không động tĩnh. Có tiếng những viên đá đang tan kêu răng rắc khe khẽ trong xô đựng đá. Tôi bật đèn pin rồi quay lưng lại khóa cửa. Then cửa cài vang lên một tiếng cạch kim khí khô khốc, nghe to một cách bất thường trong phòng này. Trên chiếc bàn ở giữa phòng là chai Cutty Sark vẫn chưa mở, hai chiếc ly sạch, xô đựng đầy nước đá còn mới nguyên. Chiếc khay màu bạc cạnh bình hoa phản chiếu đèn pin hắt ra một ánh lóe đầy nhục cảm, như thể nó đã đợi tôi từ lâu lắm. Dường như để đáp lại, mùi phấn hoa trở nên gắt hơn trong một khoảnh khắc. Không khí quanh tôi đặc quánh lại, trọng lực dường như tăng lên. Tựa lưng vào cánh cửa, tôi quan sát chuyển động quanh tôi trong ánh đèn pin.

Nơi này nguy hiểm lắm. Ông là kẻ đột nhập không ai mời mà đến, và tôi là người duy nhất đứng về phía ông. Đừng quên điều đó.

- Đừng rọi ánh sáng ấy lên tôi, - một giọng phụ nữ vang lên từ phòng trong. - Ông có hứa là sẽ không rọi ánh sáng ấy lên tôi không?

- Tôi hứa, - tôi nói.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

97#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:14:15 | Chỉ xem của tác giả


Chương 32

Buộc người khác dùng trí tưởng tượng
(Chuyện Boris Lột da, tiếp theo)


Boris đã giữ lời hứa. Tù binh Nhật chúng tôi được tự trị một phần, được phép lập ban đại diện. Viên đại tá làm trưởng ban. Từ đó trở đi, các cai tù Nga, cả dân sự và quân sự, đều được lệnh không được bạo hành nữa, và ban đại diện tù binh chịu trách nhiệm giữ gìn trật tự trong trại. Chừng nào chúng tôi không gây chuyện và hoàn thành chỉ tiêu sản xuất thì còn được yên thân. Bề ngoài thì đó là chính sách của tay Ủy viên Bộ chính trị mới, song thực chất là của Boris. Những cái cách thoạt trông có vẻ dân chủ này lẽ ra phải là tin vui cho bọn tù binh chúng tôi.

Nhưng hóa ra mọi chuyện không đơn giản như vậy. Quá say sưa chào đón những cải cách mới, chúng tôi đã quá ngu ngốc không nhìn thấy cái bẫy thâm độc mà Boris đã giăng ra cho chúng tôi.

Được sự hỗ trợ của cảnh sát mật, Boris trở nên có thế lực hơn nhiều so với tay Ủy viên Bộ chính trị mới bổ nhiệm, thế là y tiến hành biến cải trại tù và trị trấn mỏ theo cách của y. Lừa đảo, lật lọng và khủng bố trở thành chuyện bình thường như cơm bữa. Boris chọn ra trong số tù nhân và cai tù những kẻ khỏe mạnh nhất và hung ác nhất (loại này thì không thiếu), đào tạo rồi biến chúng thành đội vệ sĩ riêng của hắn. Vũ trang bằng súng, dao, dùi cui, đám vệ sĩ đặc tuyển này săn sóc tận tình bất cứ kẻ nào dám cự lại Boris, đeo dọa và hành hung họ, đôi khi còn đánh chết họ theo lệnh của hắn. Không ai dám đụng đến chúng. Đám lính được quân đội cứ đến canh gác mỏ thường vờ không thấy những gì diễn ra ngay trước mũi họ. Tới khi đó thì ngay cả quân đội cũng không làm gì được Boris. Lính tráng ngồi đằng xa, chỉ canh chừng ga xe lửa và doanh trại của chính mình, còn những gì xảy ra trong mỏ và trong trại thì coi như chẳng liên quan gì đến họ.

Kẻ mà Boris ưa nhất trong số các cận vệ đặc tuyển của hắn là một tù nhân mệnh danh là "Thằng Tác-ta", đâu như là cựu vô địch vật Mông Cổ. Boris đi đâu hắn cũng kè kè một bên như hình với bóng. Hắn có một vết sẹo bỏng lớn trên má phải, nghe nói do bị tra tấn. Boris không mặc quần áo tù nữa và chuyển vào sống trong một căn nhà nhỏ tươm tất do một nữ tù đảm trách quét dọn.

Theo Nikolai (ông ta ngày càng miễn cưỡng nói chuyện với tôi), một số người Nga mà ông ta biết đã biến mất như bốc hơi giữa đêm khuya. Hồ sơ chính thức ghi rằng họ mất tích hoặc chết vì tai nạn, nhưng chẳng nghi ngờ gì nữa, họ đã được đám lâu la của Boris "săn sóc". Chỉ cần không tuân lệnh Boris hay thậm chí chỉ không làm hắn hài lòng, là đủ để nguy đến tính mạng. Dăm ba người tìm cách khiếu nại trực tiếp lên Trung ương Đảng về tình trạng bạo hành trong trại, thế là sau đó chẳng ai nhìn thấy họ nữa. "Tôi nghe kể chúng giết cả một đứa trẻ mới bảy tuổi để bắt cha mẹ nó phải khuất phục. Chúng đánh thằng bé đến chết trước mặt cha mẹ nó," Nikolai kể, mặt tái mét.

Ban đầu Boris không làm gì quá đáng như vậy trong khu người Nhật. Hắn còn bận tập trung sức lực nhằm kiểm soát hoàn toàn đám cai tù Nga và củng cố vị thế của hắn ở đó, nên tạm thời để người Nhật tự giải quyết lấy việc của mình. Thành thử trong mấy tháng đầu chúng tôi được hưởng một khoảng bình an ngắn ngủi. Đó là những ngày bình lặng, thật sự là êm ả của chúng tôi. Ủy ban của chúng tôi đã đấu tranh thắng lợi để chế độ lao động bớt hà khắc hơn dù chỉ một chút. Lần đầu tiên từ khi đến đây, chúng tôi mới có được cảm giác gì đó gần như là hy vọng. Tất cả đều tin mọi việc đang trở nên tốt đẹp hơn.

Chẳng phải Boris không để mắt đến chúng tôi trong "tuần trăng mật" đó đâu. Đơn giản là hắn đang âm thầm sắp xếp các quân cờ để giành lợi thế chiến lược. Hắn tác động lên các thành viên ủy ban đại diện tù binh Nhật, từng người một, rất kín đáo, người thì hắn mua chuộc, kẻ thì hắn đe dọa, để dần dần khống chế họ. Hắn tránh dùng bạo lực lộ liễu mà tiến hành một cách vô cùng thận trọng, vì vậy chẳng ai nhận thấy hắn đang làm gì. Khi rốt cuộc chúng tôi cũng nhận ra thì đã quá muộn. Dưới cái vỏ bọc dành cho chúng tôi quyền tự trị, hắn làm chúng tôi mất cảnh giác, đồng thời tạo ra một hệ thống kiểm soát mới còn hữu hiệu hơn. Những tính toán của hắn chính xác một cách lạnh tanh và ác quỷ. Quả là hắn đã chấm dứt tình trạng bạo lực tự phát và vô nghĩa mà chúng tôi phải chịu, nhưng thay vào đó hắn tạo ra một thứ bạo lực mới được tính toán lạnh lùng.

Sáu tháng sau, củng cố xong cơ cấu kiểm soát của mình, hắn bèn chuyển hướng, bắt đầu gây áp lực lên chúng tôi. Nạn nhân đầu tiên của hắn là thành viên quan trọng nhất của ủy ban - viên đại tá. Ông đã mấy lần thay mặt tù binh Nhật đối đầu trực diện với Boris về một số vụ việc, hậu quả là ông bị thanh toán. Cho tới khi đó chỉ còn ông và vài người nữa trong ủy ban là không phục tùng Boris. Một đêm nọ chúng đè ông xuống, siết khăn mặt ướt lên mặt ông cho đến khi ông tắc thở chết. Dĩ nhiên đó là theo lệnh của Boris, nhưng hắn chẳng bao giờ nhúng vào cho bẩn tay trong trường hợp giết người Nhật. Hắn chỉ việc ra lệnh cho ủy ban, để chính người Nhật làm việc đó. Cái chết của viên đại tá được ghi là chết vì bệnh. Bọn chúng tôi ai cũng biết kẻ đã giết ông, nhưng chẳng ai dám nói. Chúng tôi biết nội bộ mình có tay trong của Boris, thành thử khi có mặt người khác thì phải giữ mồm giữ miệng. Sau khi đại tá bị ám sát, ủy ban liền bầu cho một ứng viên do chính Boris chọn làm chủ tịch thay ông.

Ngay sau khi có sự thay người trong ủy ban, môi trường làm việc của tù binh Nhật ngày càng xấu đi, cho đến khi trở thành tồi tệ chưa từng thấy. Để đổi lại quyền tự trị, chúng tôi đã có thỏa thuận với Boris về chỉ tiêu sản xuất, ấy thế là chỉ tiêu ngày một nặng nề. Chỉ tiêu không ngừng tăng lên vì cớ này hay cớ khác, cho tới khi công việc trở nên nặng nhọc hơn bao giờ hết. Số tai nạn cũng gia tăng, nhiều người lính Nhật phải bỏ xương nơi đất lạ quê người, nạn nhân của tình trạng khai thác mỏ vô tội vạ. "Tự trị" chỉ có nghĩa là người Nhật giờ tự giám sát lấy công việc của mình thay cho người Nga như trước kia.

Dĩ nhiên, các tù binh ngày một bất mãn. Trại chúng tôi trước kia là một xã hội nho nhỏ nơi chúng tôi chia đều nhau phần lao khổ, nay chỉ còn là sự bất công, rồi cùng với nó là thù hận và nghi kỵ sâu sắc. Những ai phục vụ Boris thì được giao việc nhẹ nhàng hơn, được đặc quyền đặc lợi, những ai không làm cho hắn thì phải chịu cảnh sống thê thảm - ấy là nếu còn được phép sống. Không ai dám mở mồm kêu ca, bởi vì phản đối công khai có nghĩa là chết. Người ta có thể bị ném vào một cái nhà hoang lạnh buốt để chết vì đói rét, hoặc bị siết khăn tắm ướt lên mặt khi đang ngủ, hoặc bị một cái cuốc chim bổ toác sọ từ đằng sau trong khi làm việc ở mỏ, hay bị ném xuống đáy hầm lò. Dưới mỏ tối om, ai biết chuyện gì đang xảy ra? Người ta biến mất, đơn giản là thế.

Tôi không khỏi cảm thấy mình có lỗi trong việc làm trung gian cho Boris và đại tá gặp nhau. Dĩ nhiên, dù tôi không dính tới thì thể nào Boris cũng sẽ chui được vào giữa chúng tôi bằng cách này hay cách khác, không sớm thì muộn, hậu quả vẫn y như vậy. Nhưng ý nghĩ đó không làm nguôi được nỗi đau của tôi. Tôi đã phạm một sai lầm khủng khiếp.

Một hôm tôi được gọi đến tòa nhà nơi Boris dùng làm văn phòng. Đã lâu lắm tôi không gặp hắn. Hắn ngồi uống trà nơi bàn, giống như lần tôi gặp hắn ở phòng trưởng ga. Đứng nghiêm đằng sau hắn là Thằng Tác-ta, bên hông đeo một khẩu súng lục to nòng. Khi tôi vào phòng, Boris ngoái lại tên Mông Cổ, ra hiệu bảo hắn đi ra ngoài. Chỉ còn lại Boris và tôi.

- Thế nào hở Trung úy Mamiya? Anh thấy đó, tôi đã giữ lời hứa.

Đúng là hắn đã giữ lời, tôi đáp. Bất hạnh thay, hắn nói đúng. Mọi điều đã hứa với tôi, hắn đều thực hiện. Tôi như đã ký một giao kèo với quỷ dữ.

- Các anh được quyền tự trị, tôi thì được quyền lực, - hắn vừa nói vừa cười, hai tay giang rộng. - Cả hai ta muốn gì là được nấy. Sản lượng than tăng, ở thủ đô người ta hài lòng. Còn đòi gì hơn nữa? Tôi rất biết ơn anh đã làm người môi giới cho tôi, nên giờ tôi muốn làm gì đó để trả ơn anh.

- Không cần phải thế đâu, - tôi đáp.

- Anh không cần phải xa cách như vậy, Trung úy ạ. Hai ta trở lại vấn đề nhé. Tôi muốn anh làm việc ở đây với tôi. Tôi muốn anh làm trợ lý cho tôi. Đáng tiếc là chốn này quá thiếu những người có khả năng nghĩ bằng cái đầu. Anh có thể thiếu một bàn tay, nhưng bù lại trí óc anh thừa sắc bén. Nếu anh làm thư ký cho tôi, tôi sẽ biết ơn lắm; tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo đảm cho anh thấy dễ chịu ở đây. Chừng đó thì nhất định anh sẽ sống, có khi còn được trở về Nhật nữa. Cứ thân cận với tôi đi, chỉ có lợi cho anh thôi.

Bình thường thì tôi sẽ cự tuyệt thẳng thừng một đề nghị như vậy. Tôi không có ý định làm hầu cận cho Boris, bán rẻ anh em đồng bào để mong yên ổn cái thân mình. Mà nếu khước từ thì hắn sẽ giết tôi, vậy cũng tốt. Nhưng ngay lúc hắn đưa ra đề nghị, một kế hoạch chợt hình thành trong đầu tôi.

- Ông muốn tôi làm những việc gì? - Tôi hỏi.

Công việc mà Boris muốn tôi làm không phải là dễ dàng. Số lượng các sự vụ mà tôi cần đảm nhiệm vô cùng lớn, trong đó quan trọng nhất là quản lý tài sản riêng của Boris. Boris thường xuyên ém lại chừng bốn mươi phần trăm số thực phẩm, quần áo, thuốc men mà Mátxcơva và Hội Chữ thập đỏ Quốc tế gửi tới trại, cất vào kho bí mật rồi bán cho con buôn. Hắn cũng thường hay bán cả một đoàn xe lửa chở than ra chợ đen. Nhiên liệu thiếu trầm trọng, có bao nhiêu cũng không đủ. Hắn đút lót các công nhân đường sắt và trưởng ga để họ cho hắn tùy ý bố trí các đoàn tàu, nhớ đó hắn tha hồ vớ bẫm. Đám lính canh gác nhà ga được đắm mõm thức ăn và tiền nên nhắm mắt làm ngơ mọi chuyện. Nhờ những phương thức "kinh doanh" đó mà Boris đã tích cóp được một tài sản kếch xù. Hắn giải thích với tôi rằng tiền đó thật ra là để làm vốn hoạt động cho cảnh sát mật. "Hoạt động của chúng tôi", như hắn gọi, đòi hỏi chi những khoản rất lớn mà lại không thể ghi vào chứng từ hợp pháp, nên ở đây hắn phải làm nhiệm vụ "huy động" các quỹ bí mật kia. Nhưng đó là dối trá. Có thể một phần tiền được gửi về Mátxcơva thật, nhưng tôi tin chắc rằng hơn một nửa số tiền kia lọt vào túi riêng của Boris. Theo tôi biết, chỗ tiền đó hắn gửi nhà băng nước ngoài hay dùng để mua vàng.

Vì lý do khó hiểu nào đó, Boris hoàn toàn tin cậy tôi. Hình như hắn chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ rằng, tôi có thể tiết lộ những bí mật của hắn cho người ngoài, điều đó giờ đây tôi cảm thấy thật lạ. Hắn luôn luôn cực kỳ đa nghi đối với người Nga và những người da trắng khác, nhưng với người Mông Cổ và người Nhật thì hắn lại tuyệt đối tín nhiệm. Có lẽ hắn cho rằng tôi không thể hại gì hắn được dù tôi có hở ra về bí mật của hắn. Trước hết, tôi hở ra với ai mới được chứ? Quanh tôi toàn những kẻ cộng tác với hắn hoặc tay chân hắn, mỗi người đều được hưởng một phần con con trong khoản lợi nhuận khổng lồ của Boris. Còn những kẻ duy nhất đang khổ sở và chết dần mòn vì Boris đem bán những thức ăn, quần áo, thuốc men mà lẽ ra họ được hưởng để mưu lợi cho riêng hắn, thảy đều là đám tù bất lực trong trại. Hơn nữa, mọi thư từ đều bị kiểm duyệt, mọi tiếp xúc với người ngoài đều bị cấm.

Thế là tôi trở thành thư ký riêng của Boris, một thư ký riêng năng nổ, trung thành. Tôi cải tiến lại hoàn toàn hệ thống sổ kế toán và theo dõi hàng tồn của hắn mà xưa nay là cả một mớ bòng bong. Tôi tiến hành hệ thống hóa và làm rõ luồng chu chuyển hàng hóa, vòng quay tiền mặt. Tôi tạo những cuốn sổ riêng biệt mà chỉ cần liếc vào là có thể biết ngay số lượng, vị trí của bất cứ món hàng nào, giá cả đang dao động ra sao. Tôi lập một danh sách dài những người nhận hối lộ và những "phí tổn cần thiết" cho mỗi người. Tôi làm quần quật cho Boris từ sáng đến tối, hậu quả là tôi mất hết dăm người bạn ít ỏi mà tôi có. Người ta nghĩ về tôi (không thể nào không nghĩ) như một tên đê tiện đáng khinh đã bán mình làm kẻ liếm gót trung thành cho Boris. Và buồn thay, hẳn là mãi đến giờ họ vẫn còn nghĩ về tôi như vậy. Nikolai không nói năng gì với tôi nữa. Hai ba tù binh Nhật mà tôi vẫn chơi thân, nay hễ thấy tôi đến là ngoảnh đi nơi khác. Mặt khác, lại có những kẻ cố làm thân vì thấy tôi đã thành người thân tín của Boris, nhưng tôi không muốn dính dáng gì tới bọn họ. Thế là tôi trở thành kẻ bị cô lập trong trại. Người ta không giết tôi chỉ vì đằng sau tôi có Boris. Kẻ nào dám ám sát vật sở hữu quý nhất của Boris mà lại yên thân được. Ai cũng biết Boris tàn bạo đến mức nào; tiếng tăm "lột da" của hắn đạt đến tầm cỡ huyền thoại ngay cả ở đây.

Tôi càng bị cô lập thì Boris càng tín nhiệm tôi hơn. Hắn hài lòng với thói quen làm việc hữu hiệu và có hệ thống của tôi, và về lời khen thì hắn rất hào phóng.

- Trung úy Mamiya ạ, anh cừ lắm. Chừng nào nước Nhật còn có những người như anh, thì Nhật Bản chắc chắn sẽ phục hồi được sau cơn hỗn loạn thời hậu chiến. Nước tôi thì vô vọng rồi. Có khi thời Sa hoàng còn khá hơn. Ít nhất là Sa hoàng không phải nát óc vì một mớ lý thuyết. Lenin hiểu được dăm ba thứ từ lý thuyết của Marx rồi cứ thế áp dụng sao cho được việc mình, Stalin hiểu dăm ba thứ (có được bao lâu đâu) từ lý thuyết của Lenin rồi cứ thế áp dụng sao cho được việc ông ta. Trí óc càng hạn hẹp thì người ta lại càng có nhiều quyền lực ở cái xứ này. Trung úy ạ, tôi bảo anh thế này: ở đây chỉ có một cách duy nhất để sống sót mà thôi. Đó là không tưởng tượng gì hết. Gã người Nga nào dùng trí tưởng tượng của hắn là tới số. Tôi chả bao giờ dùng trí tưởng tượng của tôi cả. Việc của tôi là làm cho người khác dùng trí tưởng tượng của họ. Đó là miếng bánh của tôi. Hãy nhớ lấy điều đó cho kỹ. Và chừng nào anh còn ở đây thì ít nhất mỗi khi bắt đầu tưởng tượng cái gì đó, hãy hình dung khuôn mặt tôi và tự nhủ: không, đừng làm vậy. Tưởng tượng là mất mạng như chơi. Lời khuyên vàng ngọc của tôi đấy. Gì chứ tưởng tượng thì hãy dành cho kẻ khác.

Nửa năm trôi qua như vậy. Nay đã gần cuối thu năm 1947, tôi đã trở thành người không thể thiếu được đối với Boris. Tôi chịu trách nhiệm về khía cạnh kinh doanh trong hoạt động của hắn, còn Thằng Tác-ta đảm nhận phần bạo lực. Lực lượng cảnh sát mật vẫn chưa triệu hồi Boris về Mátxcơva, nhưng đến khi đó dường như hắn cũng không còn muốn về thủ đô nữa. Hắn đã ít nhiều biến trại tù và mỏ than thành lãnh địa riêng bất khả xâm phạm của mình, ở đó hắn có đầy đủ tiện nghi, đều đều hốt bạc, lại được cả một đội quân của chính mình bảo vệ. Mà có khi ngay cả giới lãnh đạo thủ đô cũng không muốn gọi hắn về mà cứ để hắn ở đó nhằm củng cố chỗ đứng của họ ở Siberia. Giữa Mátxcơva và Boris vẫn thường xuyên trao đổi thư từ, dĩ nhiên không phải bằng bưu điện mà theo đường xe lửa, qua tay các sứ giả bí mật. Đó luôn luôn là những gã cao lớn có cặp mắt lạnh băng. Mỗi khi một tên như vậy bước vào, nhiệt độ trong phòng dường như tụt ngay xuống.

Trong khi đó, tù nhân làm trong mỏ vẫn tiếp tục chết như rạ, xác vẫn tiếp tục bị vứt vào hầm lò. Boris tiến hành đánh giá toàn diện khả năng của từng tù nhân, kẻ nào ốm yếu thì hắn vắt kiệt lực đồng thời giảm khẩu phần ăn để giết họ dần dần và giảm số miệng ăn. Chỗ thức ăn cắt giảm từ khẩu phần của người yếu được bổ sung cho người mạnh để nâng cao năng suất. Ở trại này hiệu quả là tất cả: đó là thứ luật rừng, mạnh được yếu thua. Mỗi khi số nhân lực bắt đầu giảm, hàng đoàn xe tải chật ních tù nhân mới như những đoàn tàu chở gia súc lại đến. Đôi khi có tới hai mươi phần trăm "chuyến hàng" chết trên đường đi, nhưng chuyện đó chẳng ai quan tâm. Hầu hết tù mới là người Nga và Đông Âu từ phía Tây mang về. Thật may cho Boris rằng chính sách bạo lực của Stalin vẫn tiếp tục thịnh hành ở đó.

Kế hoạch của tôi là giết Boris. Dĩ nhiên tôi biết, dù khử kẻ này thì cũng không có gì bảo đảm tình thế của chúng tôi sẽ khá hơn lên. Đằng nào cũng vẫn là địa ngục, không dạng này thì dạng khác. Nhưng đơn giản là tôi không thể để con người như thế tiếp tục tồn tại trên đời này. Như Nikolai đã nói, hắn như con rắn độc. Ai đó sẽ phải chặt đầu nó.

Tôi không sợ chết. Có chăng là tôi sẵn sàng để Boris giết tôi như tôi giết hắn. Nhưng tôi không thể phạm sai lầm. Tôi phải đợi cho đến đúng cái khoảnh khắc khi tôi có thể tin tưởng tuyệt đối rằng sẽ chắc chắn kết liễu được mạng hắn chỉ bằng một phát súng. Tôi vẫn đóng vai người thư ký trung thành của hắn trong khi chờ cơ hội vồ mồi. Nhưng như tôi đã nói, hắn là kẻ cực kỳ thận trọng. Thằng Tác-ta kè kè bên cạnh hắn cả ngày lẫn đêm. Mà cho dù nếu hắn cho tôi cơ hội chỉ gặp mình hắn thì làm sao tôi giết hắn khi chỉ có một bàn tay, lại còn không có súng nữa? Nhưng tôi vẫn nhẫn nại chờ thời cơ. Nếu trên thế giới này quả thật có ông trời, thì lúc nào đó ngài ắt phải ban cơ hội cho tôi.

° ° °

Đầu năm 1948, có một tin đồn loan ra trong trại, rằng các tù binh Nhật cuối cùng cũng được phép trở về tổ quốc, rằng vào mùa xuân sẽ có một con tàu sang đây để đưa chúng tôi hồi hương. Tôi hỏi Boris về chuyện đó.

- Đúng là vậy, Trung úy Mamiya ạ, - hắn nói. - Tin đồn đúng đấy. Các anh sẽ được về nước, không lâu nữa đâu. Một phần do dư luận quốc tế, chúng tôi không thể giữ các anh lâu hơn nữa. Nhưng tôi có một đề nghị cho anh, Trung úy. Liệu anh có muốn ở lại đất nước này, không phải như tù binh chiến tranh mà như một công dân Xô Viết tự do không? Anh đã phục vụ tôi rất tốt, tôi tìm đâu ra người thay thế anh chứ? Về phần đây, nếu ở lại đây với tôi, anh cũng sẽ sống tươi hơn nhiều so với trở về Nhật mà chịu cực chịu nghèo. Nghe nói ở Nhật bây giờ cái ăn cũng chẳng có, người ta đang chết đói. Ở đây thì anh có tiền, có đàn bà, có quyền lực, gì cũng có.

Boris đưa ra đề nghị đó hoàn toàn nghiêm túc. Hắn biết để tôi ra đi thì có thể sẽ nguy hiểm bởi tôi biết bí mật của hắn. Nếu tôi từ chối, hắn có thể khử tôi để diệt khẩu. Nhưng tôi không sợ. Tôi cảm ơn lời mời của hắn nhưng nói rằng, tôi muốn về Nhật vì lo cho cha mẹ và chị gái. Boris nhún vai và không nói gì nữa.

Cơ hội tuyệt vời để giết Boris tự đến với tôi vào một đêm tháng Ba, khi ngày hồi hương đã đến gần. Lúc gần chín giờ tối, Thằng Tác-ta ra ngoài, để lại mình tôi với Boris. Tôi đang làm sổ sách kế toán như mọi khi, Boris ngồi viết thư nơi bàn. Ít khi chúng tôi ở lại văn phòng muộn như vậy. Thỉnh thoảng hắn nhấp một ngụm brandy trong khi ngoáy bút trên giấy. Trên giá mắc áo, bên cạnh áo da và mũ của Boris là khẩu súng lục đút trong bao da. Không phải loại súng lục to đùng do quân đội Liên Xô sản xuất mà là súng Walther PPK của Đức, hình như Boris lấy của một thiếu tá SS bị bắt làm tù binh tại trận chiến trên sông Danube. Súng luôn sạch như lau như ly, bóng loáng, trên báng súng có huy hiệu SS giống như hai lằn sét. Tôi vẫn thường quan sát Boris lau súng, và tôi biết trong băng đạn luôn luôn có đạn - tám viên đạn.

Hắn treo súng nơi giá mắc áo thì thật không bình thường. Vốn cực kỳ cẩn thận, mỗi khi làm việc ở bàn hắn luôn luôn cất súng trong ngăn kéo bên phải. Tuy nhiên, đêm ấy vì lý do nào đó hắn đang trong tâm trạng vui vẻ, nói nhiều nên không thận trọng như mọi khi. Cơ hội này thật không thể có đến lần thứ hai! Đã bao nhiêu lần tôi ôn đi ôn lại trong trí cái cảnh tôi dùng bàn tay duy nhất của mình mở khóa an toàn và đẩy viên đạn đầu tiên vào ổ đạn. Cuối cùng, quyết định hành động, tôi đứng dậy đi ngang qua giá mắc áo, vờ đi lấy một biểu mẫu. Boris cắm cúi viết thư, không nhìn về phía tôi. Ngang qua mắc áo, không dừng lại, tôi rút súng khỏi vỏ. Khẩu súng nhỏ nhắn nằm vừa khớp trong lòng bàn tay tôi. Gọn, nhẹ, rõ là thứ vũ khí tuyệt hảo. Tôi đứng trước mặt Boris và mở chốt an toàn. Đoạn, kẹp súng giữa hai đầu gối, tôi dùng tay phải kéo khóa nòng, đẩy một viên đạn vào ổ đạn. Tôi dùng ngón cái kéo kim hỏa, làm phát ra một âm thanh nhỏ, khô khốc. Nghe cái tiếng ấy, Boris ngẩng đầu lên, thấy tôi đang chĩa súng vào mặt hắn.

Hắn lắc đầu thở dài.

- Đáng buồn cho anh là súng không có đạn, Trung úy ạ, - hắn đậy nắp bút lại rồi nói. - Cầm súng lên nghe nặng nhẹ thì biết có đạn hay không. Thử lắc lắc xem. Tám viên đạn cỡ 7,65 ly, tổng cộng tám mươi gam.

Tôi không tin. Không trù trừ, tôi chĩa họng súng vào trán hắn rồi bóp cò. Chỉ nghe một tiếng tách khô khốc. Hắn nói đúng: súng không có đạn. Tôi đặt súng xuống cắn môi, không nghĩ được gì cả. Boris mở ngăn kéo lấy ra một nắm đạn, đặt vào lòng bàn tay chìa cho tôi xem. Hắn đã lừa tôi. Hắn đã dàn dựng tất cả từ đầu đến cuối để lừa tôi.

- Lâu nay tôi đã biết anh muốn giết tôi, - hắn nhẹ nhàng nói. - Anh đã tưởng tượng, đã hình dung trong đầu chuyện đó hàng bao nhiêu lần, tôi nói có đúng không nhỉ? Tôi đã bảo anh lâu rồi: đừng bao giờ dùng trí tưởng tượng mà mất mạng như chơi. Mà thôi, chẳng sao. Đơn giản là chẳng có cách nào anh giết được tôi hết.

Boris lấy hai viên từ đạn trên lòng bàn tay mình mà ném xuống dưới chân tôi. Chúng kêu lanh canh khi chạm sàn nhà chỗ tôi đứng.

- Đạn thật đấy, - hắn nói. - Tôi không đùa đâu. Nạp vào súng rồi bắn tôi đi. Cơ hội cuối cùng cho anh ấy. Nếu thực sự muốn giết tôi thì hãy ngắm cẩn thận. Nhưng nếu bắn trượt, anh phải hứa không bao giờ tiết lộ bí mật của tôi. Anh không được nói với bất cứ ai trên đời này về những gì tôi đang làm ở đây. Thỏa thuận thế nhé.

Tôi gật đầu. Tôi đã giữ lời.

Lại kẹp súng giữa hai đầu gối, tôi bấm nút tháo băng đạn ra rồi nạp hai viên đạn. Làm việc đó bằng một tay thật không dễ, ấy là chưa nói bàn tay ấy cứ run bần bật. Boris quan sát từng cử động của tôi, vẻ mặt bình thản. Thậm chí môi hắn còn thoảng cười. Gắn băng đạn vào chỗ cũ xong, tôi nhắm vào giữa hai mắt hắn, cố buộc tay mình thôi run rồi bóp cò. Căn phòng rung chuyển vì tiếng gầm của khẩu súng, nhưng viên đạn chệch qua tai Boris mà đập vào tường. Bụi vữa trắng xóa bay tứ tung. Tôi đã bắn trượt dù chỉ đứng cách hai mét. Tôi đâu phải xạ thủ tồi. Lúc còn đóng quân ở Tân Kinh, tôi vẫn thường hăm hở tập bắn. Và dù tôi chỉ còn bàn tay phải, nhưng bàn tay đó mạnh hơn của hầu hết người khác, hơn nữa khẩu Walther là loại súng có cấu trúc cực chuẩn, giúp ta nhắm chính xác, chắc chắn. Tôi không tin được rằng mình đã bắn lầm. Tôi lại kéo kim hỏa rồi nhắm lần nữa. Tôi hít một hơi dài rồi tự nhủ: "Mày phải giết kẻ này". Giết được hắn thì đời tôi mới có chút ý nghĩa.

- Lần này thì nhắm cho chắc, Trung úy Mamiya ạ. Viên đạn cuối cùng của anh đấy, - Boris vẫn cười cười.

Ngay lúc đó Thằng Tác-ta chạy bổ vào phòng, lăm lăm khẩu súng lục to tướng.

- Đừng xen vào, - Boris quát hắn. - Cứ để Mamiya giết tao. Nếu hắn giết được tao thì mày làm gì cứ làm.

Thằng Tác-ta gật rồi chĩa họng súng vào tôi.

Siết chặt khẩu Walther trong bàn tay phải, tôi chĩa thẳng ra, nhắm vào chính giữa cái nụ cười khinh mạn, tự tin của Boris rồi bình tĩnh bóp cò. Súng hơi nảy, nhưng tôi giữ chắc. Phát bắn không chê vào đâu được. Nhưng viên đạn lại sượt qua đầu Boris, lần này thì đập nát chiếc đồng hồ treo tường sau lưng Boris thành từng mảnh. Boris thậm chí không động cả lông mày. Hắn tựa lưng vào ghế, vẫn nhìn tôi chằm chằm bằng cặp mắt như của loài rắn. Khẩu súng rơi đánh choang xuống sàn.

Trong một lát không ai nói gì, không ai động đậy. Nhưng rồi Boris rời ghế, cúi xuống nhặt khẩu Walther lên. Hắn nhìn khẩu súng trong tay mình hồi lâu với vẻ đăm chiêu rồi đút lại vào bao súng trên giá mắc áo. Đoạn hắn vỗ vỗ tay tôi hai lần như để an ủi tôi.

- Tôi đã bảo là anh không giết được tôi mà, phải không? - Boris nói. Hắn lấy trong túi áo ra một gói Camel, rút một điếu cho vào mồm rồi châm lửa. - Không phải vì anh bắn tồi. Chỉ có điều anh không thể giết tôi được. Anh không đủ tư cách để giết tôi. Đó là lý do duy nhất khiến anh bỏ lỡ cơ hội. Giờ thì, thật đáng tiếc, anh sẽ phải mang lời nguyền của tôi mà trở về quê hương. Nghe đây: dù anh có ở đâu, anh sẽ không bao giờ hạnh phúc. Anh sẽ không yêu bất cứ ai, cũng không được bất cứ ai yêu. Lời nguyền của tôi đấy. Tôi sẽ không giết anh đâu. Nhưng tôi tha cho anh không phải vì lòng tốt. Bao năm nay tôi đã giết nhiều người rồi, và tôi sẽ còn giết nhiều người nữa. Nhưng tôi không bao giờ giết nếu không cần giết. Vĩnh biệt, Trung úy Mamiya. Một tuần nữa anh sẽ rời khỏi đây đến cảng Nakhodka. Bon voyage (1). Hai chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa.

Đó là lần cuối cùng tôi gặp Boris Lột da. Một tuần sau tôi rời trại tập trung, đi tàu thủy đến Nakhodka. Sau nhiều nỗi gian truân, rốt cuộc tôi cũng về đến Nhật Bản vào mùa xuân năm 1949.

Nói thật với ông, thưa ông Okada, tôi không hề biết liệu câu chuyện dông dài kỳ lạ này có ý nghĩa nào với ông không. Có khi đó chẳng qua chỉ là những lời lảm nhảm của một ông già. Nhưng tôi muốn, và phải kể cho ông nghe câu chuyện của tôi. Đọc xong thư, chắc ông đã hiểu rằng đời tôi hoàn toàn thất bại. Tôi đã mất tất cả. Tôi chẳng còn là gì cả. Tôi không làm được bất cứ cái gì. Bởi sức mạnh của lời nguyền đó, tôi không yêu ai mà không được ai yêu. Tôi chỉ còn là cái bóng biết đi, cứ thế biến vào bóng tối. Tuy nhiên, đã ký thác được câu chuyện của mình cho ông, thưa ông Okada, tôi cũng được chút vui lòng mà ra đi.

Mong sao ông sẽ sống một cuộc đời tốt đẹp, không phải ân hận về bất cứ điều gì.


Chú thích:

1.Tiếng Pháp, tạm dịch "Chúc đi đường bình an" - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

96#
 Tác giả| Đăng lúc 12-6-2013 23:11:46 | Chỉ xem của tác giả


Chương 31
Gậy biến mất

Chim ác là ăn cắp trở về


Mặc áo len và áo khoác, mũ len kéo sụp gần như tận mắt, tôi trèo qua bức tường sau nhà, nhảy xuống ngõ. Phải một lát nữa trời mới sáng, thiên hạ đang còn ngủ. Tôi nhẹ nhàng đi dọc con ngõ về phía Dinh.

Trong nhà chẳng có gì thay đổi so với khi tôi bỏ đi sáu ngày trước đó. Bát đĩa bẩn vẫn nằm trong chậu rửa. Không thấy mẩu thư viết tay nào, không có tin nhắn nào trong máy trả lời tự động. Màn hình vi tính trong phòng Quế vẫn chết lạnh như trước. Máy điều hòa vẫn giữ không khí ở nhiệt độ bình thường trong nhà. Tôi cởi áo khoác và găng tay rồi đun nước pha trà. Tôi ăn sáng bằng vái cái bánh bích quy, rửa bát trong chậu rồi cất vào chạn. 9 giờ sáng, vẫn không thấy tăm hơi Quế đâu.

° ° °


Tôi ra ngoài sân, giở nắp giếng rồi cúi người nhìn vào bên trong. Vẫn cái bóng tối đặc sệt đó. Tôi biết rõ cái giếng này như một phần mở rộng của chính thân thể mình: bóng tối của nó, cái mùi và sự câm lặng của nó là một phần của tôi. Theo nghĩa nào đó, tôi biết rõ cái giếng này hơn là biết Kumiko. Dĩ nhiên ký ức về nàng hãy còn sống nguyên, tươi rói. Nhắm mắt lại là tôi có thể hồi tưởng từng chi tiết của giọng nói nàng, khuôn mặt, thân thể nàng, từng cử chỉ của nàng. Dù gì tôi cũng đã sống chung một mái nhà với nàng suốt sáu năm trời. Nhưng bây giờ tôi nhận ra rằng có một cái gì đó ở nàng mà tôi không hồi tưởng được rõ rệt như vậy. Mà cũng có thể đó chỉ là do tôi không dám chắc những gì mình nhớ lại là chính xác, cũng như tôi không thể hình dung lại chắc chắn cái khúc quặp ở đuôi con mèo khi nó mới trở về.

Tôi ngồi bên thành giếng, tay thọc vào túi áo khoác, nhìn bốn bề chung quanh lần nữa. Có cảm giác như trời có thể đổ cơn mưa lạnh hay tuyết rơi bất cứ lúc nào. Lặng gió, nhưng không khí lạnh tê tái. Một bầy chim nhỏ bay tới bay lui trên bầu trời vẽ thành những họa tiết phức tạp như thể đang viết chữ, rồi đột ngột vù đi mất. Lát sau tôi nghe thấy tiếng u u trầm trầm của một chiếc phản lực khuất trên những đám mây dày. Vào một ngày u ám tối trời như thế này, tôi có thể chui xuống giếng mà không sợ mặt trời làm hỏng mắt khi trở lên.

Nhưng tôi vẫn ngồi đó một hồi, không làm gì cả. Chẳng việc gì phải làm vội. Ngày chỉ vừa chớm bắt đầu, còn lâu mới đến trưa. Tôi ngồi trên thành giếng, mặc cho đầu óc nghĩ lan man chuyện này chuyện khác không theo thứ tự gì. Con chim đá từng ở trong vườn này, người ta mang nó đi đâu? Phải chăng nó đang trang trí cho một khu vườn khác, vẫn đau đáu niềm khao khát vĩnh cửu và vô nghĩa là cất cánh lên bầu trời? Hay nó đã bị quẳng làm đồng nát khi người ta phá dỡ căn nhà của gia đình Miyawaki mùa hè năm ngoái? Tôi bùi ngùi nhớ lại bức tượng chim. Không có nó, dường như khu vườn mất đi sự cân bằng tinh diệu nào đó.

Khi không còn gì để nghĩ nữa, tôi theo chiếc thang bằng thép trèo xuống giếng. Đặt chân lên đáy giếng, tôi hít mấy hơi dài để kiểm tra xem không khí có bình thường không, cũng như mọi khi. Nó vẫn vậy, sực mùi rêu, nhưng thở được. Tôi sờ soạng tìm cây gậy lần trước đã tựa vào vách giếng. Không có ở đó. Gậy chẳng thấy đâu cả. Nó đã biến mất. Hoàn toàn biến mất. Không dấu vết.

° ° °


Tôi ngồi xuống nền giếng, tựa lưng vào tường mà thở dài.

Ai đã lấy cái gậy đi chứ? Chỉ có thể là Quế. Anh ta là người duy nhất biết có nó, cũng là người duy nhất có thể nghĩ đến chuyện chui xuống giếng. Nhưng cớ sao phải lấy cây gậy đi? Điều đó thì tôi không hiểu nổi - một trong những điều tôi không hiểu nổi.

Tôi đành phải dấn tới mà không có cây gậy, chẳng còn cách nào khác. Cũng không sao. Xét cho cùng, cây gậy chỉ là một thứ bùa hộ mệnh. Không có thì cũng chẳng phải là gì ghê gớm. Chẳng phải dù không có nó tôi vẫn từng lọt được vào căn phòng kia sao? Đưa ra cho chính mình những lập luận đó rồi, tôi liền giật dây thùng để đóng nắp giếng. Tôi đặt tay lên đầu gối rồi nhắm mắt lại trong bóng tối.

Cũng như lần trước, tôi không thể nào tập trung tư tưởng. Mọi thứ ý nghĩ linh tinh chen chúc trong đầu, không còn chỗ để tập trung. Để thoát khỏi chúng, tôi cố nghĩ về hồ bơi, cái hồ bơi trong nhà dài hai mươi lăm mét mà tôi thường đến để bơi. Tôi hình dung mình làm vài vòng bơi sải ở đó. Không việc gì phải bơi nhanh, chỉ cần lặp đi lặp lại từng đó động tác một cách êm ru, đều đặn. Khuỳnh hai cùi chỏ ra sao cho không gây tiếng ồn, không bắn nước tung tóe, rồi dùng hai tay nhẹ nhàng xẻ nước, đầu tiên là ngón tay. Tôi hớp nước vào mồm rồi chầm chậm tuôn ra, như là thở dưới nước vậy. Sau một hồi, tôi cảm thấy thân mình trôi tự nhiên qua nước, như cưỡi trên làn gió nhẹ. Âm thanh duy nhất nghe được là tiếng thở đều đều của chính tôi. Tôi lướt trên gió như chim trên bầu trời nhìn xuống mặt đất ở bên dưới. Tôi thấy những thành thị xa xôi, những con người bé tí, những dòng sông trôi. Một nỗi bình an tràn ngập trong tôi, một cảm giác gần như ngây ngất. Bơi là một trong những điều đẹp đẽ nhất trong đời tôi. Nó chưa hề giải quyết được vấn đề gì, nhưng cũng không hề có hại, cũng chưa có gì làm hỏng niềm vui đó đối với tôi.

Đúng lúc đó, tôi nghe thấy một cái gì.

Quả thật tôi đang nghe thấy một tiếng u u trầm trầm, đơn điệu trong bóng tối, giống như tiếng vù vù của đôi cánh côn trùng. Nhưng cái âm thanh này nhân tạo quá, cơ khí quá, không thể là cánh côn trùng được. Tần số của nó có những biến đổi cao thấp tinh tế, như khi ta chuyển kênh ở máy thu thanh sóng ngắn. Tôi nín thở lắng nghe, cố nắm bắt xem âm thanh từ đâu. Dường như nó phát ra từ một điểm cố định trong bóng tối song đồng thời lại như từ chính trong đầu tôi. Trong bóng tối thăm thẳm, ranh giới giữa hai bên hầu như không thể nào xác định được.

Tập trung hết tâm trí vào âm thanh đó, tôi ngủ lúc nào không biết. Thậm chí tôi không kịp cảm thấy buồn ngủ trước khi thiếp đi. Hoàn toàn bất ngờ, tôi thiếp đi, như thể tôi đang đi dọc theo một hành lang mà trong đầu chẳng có ý định gì cụ thể thì bỗng dưng bị ai đó kéo vào một căn phòng chưa hề biết. Tôi chìm vào cơn nửa tỉnh nửa mê đặc sệt như bùn đó trong bao lâu? Tôi không biết. Hẳn là không quá lâu. Có thể chỉ trong một khoảnh khắc. Nhưng khi có một cái gì đó làm cho ý thức trở lại thì tôi biết mình đã ở trong một bóng tối khác. Không khí khác, nhiệt độ khác, tính chất và chiều sâu của bóng tối khác. Cái bóng tối này nhuốm một thứ ánh sáng yếu ớt đùng đục. Và một mùi phấn hoa găn gắt quen thuộc xộc vào mũi tôi. Tôi đang ở trong căn phòng khách sạn kỳ lạ đó.

Tôi ngẩng đầu lên, nhìn quanh, nín thở.

Tôi đã đi xuyên qua tường.


Tôi đang ngồi trên sàn trải thảm, lưng tựa vào bức tường bọc vải. Tay tôi vẫn đang xếp trên đầu gối. Cơn ngủ của tôi một khoảnh khắc trước đó đáng sợ và sâu hun hút bao nhiêu thì cơn tỉnh của tôi lúc này trọn vẹn và rõ rệt bấy nhiêu. Sự tương phản giữa mơ và tỉnh, nó cùng cực đến mức phải mất một hồi tôi mới quen được với cái tỉnh này. Tiếng tim tôi đập nghe cũng rõ mồn một. Không nghi ngờ gì nữa. Tôi đang ở đây. Rốt cuộc tôi đã vào được trong căn phòng.

° ° °


Trong bóng tối dường như dệt bằng nhiều lớp lưới mắt nhỏ, căn phòng giống hệt như tôi nhớ từ lần trước. Tuy nhiên, khi mắt đã quen với bóng tối, tôi bắt đầu nhận ra những khác biệt nhỏ. Đầu tiên là cái điện thoại giờ nằm ở chỗ khác. Trước nó ở trên bàn ngủ, nay thì nằm trên một cái gối và dường như lọt thỏm vào trong gối. Kế đó tôi thấy lượng whisky trong chai đã vơi đi, gần như cạn đến đáy. Đá trong xô đã tan hết, chỉ còn lại một thứ nước cũ, đùng đục. Chất lỏng trong cốc đã khô, sờ tay vào tôi thấy lòng cốc phủ một lớp bụi trắng. Tôi lại gần giường, nhấc chiếc điện thoại lên, áp ống nghe lên tai. Đường dây không hoạt động. Căn phòng có vẻ đã bị bỏ rơi, bị lãng quên từ lâu lắm. Không có dấu vết sự hiện diện của con người. Duy có mấy bông hoa trong lọ còn giữ nguyên vẻ tươi tắn đến kỳ lạ.

Có dấu hiệu cho thấy ai đó đã nằm trên giường: ga trải giường, chăn, gối đều hơi bị xô lệch. Tôi kéo thẳng ga trải giường rồi sờ xem có hơi ấm không, nhưng không có. Cũng không còn mùi nước hoa. Vậy từ khi người này rời giường đến giờ cũng đã khá lâu. Tôi ngồi nép ở mép giường, nhìn khắp phòng một lần nữa, lắng nghe. Nhưng chẳng có âm thanh nào. Nơi này giống như ngôi mộ cổ đã bị những tên đào mộ lấy trộm thi hài trong đó mang đi.

° ° °


Đột nhiên điện thoại reo. Tim tôi co rúm lại như một con mèo sợ sệt. Những tiếng vang lảnh lót làm rung động những hạt phấn hoa lơ lửng trong không khí; các cánh hoa khẽ chuyển mình, ngẩng lên trong bóng tối. Làm thế nào điện thoại lại reo được? Mới vài phút trước nó còn câm lặng như tảng đá trong lòng đất. Tôi cố thở đều, giữ yên nhịp tim, rồi kiểm tra xem, liệu mình có vẫn ở trong căn phòng đó không. Tôi vươn tay chạm vào ống nghe, chần chừ một chút rồi mới nhấc lên. Cho tới khi đó điện thoại đã reo ba, bốn lần.

"Alô". Điện thoại chết lặng ngay khi tôi nhấc ống nghe lên. Sức nặng bất khả cưỡng của cái chết đè nặng trong tay tôi như một cái bao cát. "Alô", tôi lại nói, nhưng giọng khô khốc của tôi dội trở lại không chút thay đổi, như thể bật lại từ một bức tường dày. Tôi đặt máy xuống, rồi lại nhấc lên nghe. Không có âm thanh nào. Tôi ngồi trên mép giường, cố thở đều trong khi chờ điện thoại reo lại. Nó không reo. Tôi nhìn những hạt bụi phấn trong không khí lại trở về với vô thức và chìm vào bóng tối. Tôi thử khôi phục lại tiếng điện thoại reo trong đầu mình. Tôi không còn dám tin chắc là điện thoại đã reo thật nữa. Nhưng nếu tôi để những nỗi ngờ vực kiểu đó len lỏi vào thì sẽ cứ ngờ vực mãi không bao giờ dứt. Tôi phải vạch ranh giới ở đâu đó. Nếu không thì tôi sẽ phải nghi ngờ ngay chính sự tồn tại của mình ở nơi này. Điện thoại đã reo. Điều đó là chắc chắn, không thể lầm được. Rồi một khoảnh khắc sau nó đã chết lặng. Tôi hắng giọng, nhưng cả cái âm thanh đó cũng lập tức tan biến trong không khí.

Tôi đứng dậy đi một vòng quanh phòng. Tôi săm soi sàn nhà, nhìn chằm chặp lên trần, ngồi lên bàn, tựa vào tường, xoay nhanh quả đấm cửa, bật lên bật xuống công tắc cây đèn chân đế. Quả đấm hiển nhiên không xoay, đèn không sáng. Cửa sổ bị phong kín từ bên ngoài. Tôi căng tai nghe xem có tiếng gì không, nhưng sự im lặng giống như bức tường cao ngất, nhẵn thín. Thế nhưng tôi vẫn cảm thấy có một cái gì đó đang cố đánh lừa tôi, dường như có những kẻ khác đang nín thở, ép sát người vào tường, xóa màu da để tôi không biết rằng có họ ở đó. Cho nên tôi cũng vờ không nhận thấy. Cả hai bên chúng tôi rất giỏi lừa nhau. Tôi lại hắng giọng và sờ tay lên môi.

Tôi quyết định kiểm tra căn phòng một lần nữa. Tôi lại thử cây đèn chân đế, nhưng đèn không sáng. Tôi mở nút chai whisky, ngửi chỗ rượu còn sót lại. Mùi vẫn không thay đổi. Cutty Sark. Tôi đậy nút lại rồi đặt lại chai lên bàn. Tôi kê ống nghe lên tai một lần nữa, nhưng câm lặng vẫn hoàn câm lặng. Tôi bước chậm mấy bước để cảm nhận tấm thảm bên dưới giày. Tôi áp tai vào tường, tập trung chú ý, cố nghe xem có âm thanh nào lọt qua không, nhưng dĩ nhiên là không. Tôi đi lại phía cửa, xoay quả đấm, dù biết làm thế là vô nghĩa. Quả đấm xoay dễ dàng về bên phải. Tôi ngớ ra một lúc, không hiểu thế nào. Mới đó quả đấm cửa còn cứng ngắc như gắn bằng xi-măng. Tôi lặp lại từ đầu, buông quả đấm ra rồi lại chìa tay nắm lấy, xoay sang phải, xoay sang trái. Nó xoay ngon lành trong tay tôi. Một cảm giác kỳ quặc nảy ra trong tôi, như thể lưỡi tôi đang sưng phù lên trong mồm.

Cửa mở.

Tôi đẩy quả đấm cho đến khi cửa mở ra vừa đủ cho một làn ánh sáng chói lòa tuôn vào phòng. Cây gậy. Giá như có cây gậy, tôi sẽ thấy tự tin hơn. Mà thôi, quên cây gậy đi! Tôi đẩy rộng cửa ra. Tôi nhìn bên phải rồi bên trái, thấy không có ai, tôi mới bước ra ngoài. Đó là một hành lang dài, trải thảm. Cách không xa là một chiếc bình lớn có cắm hoa. Đó chính là chiếc bình hoa mà tôi đã nấp đằng sau, khi gã bồi huýt sáo luôn mồm kia gõ cửa. Trong ký ức của tôi hành lang này dài, có nhiều chỗ ngoặt và nhánh rẽ. Tôi đã tình cờ chạm trán gã bồi huýt sáo kia và đi theo gã. Tấm biển trên cửa ghi rõ Phòng 208.

Bước thật cẩn thận, tôi đến gần bình hoa. Tôi hy vọng có thể tìm được đường ra chỗ tiền sảnh, nơi lần trước Wataya Noboru đã xuất hiện trên truyền hình. Tôi mong sẽ có thể tìm ra vài manh mối ở đó. Nhưng đi lang thang trong cái khách sạn này chẳng khác gì liều mạng đi trong sa mạc mênh mông mà không có la bàn. Nếu không tìm được chỗ tiền sảnh rồi tiếp tục không tìm được đường trở lại Phòng 208 thì ắt tôi sẽ bị cầm tù trong chốn mê cung này, không thể quay về thế giới thực nữa.

Nhưng không có thời gian chần chừ thêm. Đây có thể là cơ hội cuối cùng của tôi. Tôi đã đợi dưới đáy giếng từng ngày một, trong sáu tháng trời, nay thì cửa đã mở trước mặt tôi. Hơn nữa, chẳng mấy chốc người ta sẽ tước đi cái giếng khỏi tôi. Nếu tôi lùi bước lần này thì bao nhiêu thời gian công sức của tôi sẽ hóa thành công cốc.

Tôi rẽ mấy lần. Đôi giày tennis bẩn thỉu của tôi bước êm ru trên thảm. Tôi chẳng nghe thấy gì, không giọng người, không tiếng nhạc, không tiếng tivi, không có cả tiếng cánh quạt hay thang máy. Khách sạn lặng ngắt như một công trình đổ nát bị thời gian bỏ quên. Tôi rẽ nhiều lần, đi qua nhiều cánh cửa. Hành lang phân nhánh liên tục, cứ mỗi lần như vậy tôi đều rẽ phải, ý là để nếu muốn quay về, tôi chỉ cần toàn rẽ trái là sẽ tìm được phòng nơi xuất phát. Nhưng rồi tôi mất phương hướng. Đi, đi mãi mà không hề cảm thấy mình đang đến gần bất cứ cái gì. Các phòng đánh số không theo thứ tự nào, lại cứ nối nhau không biết bao giờ mới hết nên có số cũng bằng không. Các con số chưa kịp ghi vào trí nhớ thì đã trôi tuột mất khỏi đầu tôi. Thỉnh thoảng tôi lại có cảm giác mình đã đi qua số này số nọ rồi. Đến giữa hành lang tôi dừng lại thở. Có phải tôi đang đi vòng vòng cùng một chỗ như khi người ta lạc lối trong rừng?

° ° °


Đang đứng đó tự hỏi sẽ làm gì thì tôi nghe một âm thanh quen thuộc ở đằng xa. Đó là gã bồi luôn mồm huýt sáo. Hắn huýt quả là cừ khôi, thật chẳng ai sánh bằng. Cũng như lần trước, hắn đang huýt bản overtune trong vở Chim ác là ăn cắp của Rossini, giai điệu này huýt sáo không dễ, nhưng xem ra hắn làm được chẳng khó khăn gì. Tôi tiến dọc theo hành lang về phía có tiếng huýt sáo mà lúc này nghe đã to hơn, rõ hơn. Hình như hắn đang đi về phía tôi. Tôi nhìn thấy một cái cột khá to, liền nấp đằng sau.

Gã bồi vẫn bưng một chiếc khay bằng bạc, trên đó vẫn là chai Cutty Sark, xô nước đá và hai chiếc cốc. Hắn đi vội ngang qua tôi, hướng thẳng về phía trước, vẻ mặt chừng như hắn đang bị mê hoặc bởi tiếng huýt sáo của chính mình. Hắn không nhìn về phía tôi, hắn đang vội đến nỗi không thể phí phạm dù chỉ một giây cho một động tác thừa. Mọi cái y như lần trước, tôi nghĩ. Dường như thể xác tôi đang được đưa về quá khứ.

Ngay khi gã bồi đi qua rồi, tôi liền theo chân hắn. Chiếc khay bạc của hắn bập bềnh lên xuống nhịp nhàng theo giai điệu mà hắn đang huýt sáo, thỉnh thoảng lại phản chiếu ánh đèn chùm trên trần. Hắn lặp đi lặp lại giai điệu Chim ác là ăn cắp như một lời thần chú. Chẳng biết vở opera này nói về cái gì nhỉ? Tôi chẳng biết gì hơn về nó ngoài giai điệu có phần buồn tẻ của khúc overtune và cái tên kỳ bí. Hồi tôi còn nhỏ, nhà tôi có một đĩa thu bản overtune này do Toscanini điều khiển dàn nhạc. So với cách diễn tấu trẻ trung, khinh khoái, hiện đại của Claudio Abbado thì cách của Toscanini có gì đó khốc liệt khuấy động máu trong người, như khi sau trận chiến sống mái với một kẻ thù hùng mạnh, ta đánh bại được đối phương và khoan thai bóp cổ y cho đến chết. Nhưng thật ra Chim ác là ăn cắp có phải là câu chuyện về một con chim dính vào trò ăn cắp không? Nếu mọi việc giải quyết êm xuôi, hẳn tôi phải đến thư viện tìm trong từ điển bách khoa âm nhạc xem sao. Thậm chí tôi cần mua một đĩa thu toàn bộ vở opera nếu có. Hay là không cần? Có khi đến lúc đó, tôi lại chẳng buồn biết lời đáp cho các câu hỏi kia là gì nữa.

Gã bồi chuyên huýt sáo vẫn tiếp tục đi thẳng, bước đều tăm tắp như người máy, tôi thì theo sau, cách một quãng cố định. Không cần nghĩ tôi cũng biết hắn đang đi đâu. Hắn đang mang chai Cutty Sark, nước đá và ly đến Phòng 208. Thật vậy, hắn dừng lại trước Phòng 208. Hắn chuyển khay sang tay trái, kiểm tra số phòng, sửa lại tư thế rồi gõ cửa cho có lệ. Gõ ba lần, rồi ba lần nữa.

Tôi không biết liệu có tiếng trả lời từ bên trong không. Tôi nấp sau bình hoa quan sát gã bồi. Thời gian trôi qua, nhưng gã bồi vẫn đứng nguyên đó, như đang cố thử xem giới hạn sức chịu đựng của mình đến đâu. Hắn không gõ thêm, chỉ lẳng lặng chờ cửa mở. Cuối cùng, như đáp lại một lời cầu nguyện, cửa bắt đầu mở vào trong.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách