Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 11644|Trả lời: 64
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Cùng Anh Ngắm Hoa Sơn Tra | Ngải Mễ

[Lấy địa chỉ]
Nhảy đến trang chỉ định
Tác giả
Đăng lúc 3-10-2012 02:01:50 | Chỉ xem của tác giả Trả lời thưởng |Xem thứ tự |Chế độ đọc


"Anh không thể chờ em nổi một năm lẻ một tháng, anh cũng không thể chờ em đến hai mươi lăm tuổi, nhưng anh sẽ chờ em suốt đời" (Trích nhật kí, trang 463)


Cùng anh ngắm hoa sơn tra

Tác giả: Ngải Mễ

Người dịch: Sơn Lê

Đơn vị xuất bản: NXB Phụ nữ



Vài nét về tác giả Ngải Mễ:

Nữ văn sĩ Ngải Mễ bắt đầu sáng tác từ năm 2005, cho đến nay đã có hàng loạt tiểu thuyết được xuất bản. Khởi đầu là bộ tiểu thuyết về tình yêu:

- Cùng anh ngắm hoa sơn tra (Phần I), 2007.
- Dịu dàng đến vô cùng (Phần II), 2009.

và các tiểu thuyết khác:
- Mười năm biến động, 2009.
- Không biết nói tương lai, 2009.
- Ba người đồng hành, 2010.
- Chim cùng rừng, 2010.


~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~


Trước khi post truyện thì dành 5 phút cho tiết mục quảng cáo.{:291:}

Đầu tiên, tác phẩm này đã được đạo diễn Trương Nghệ Mưu chuyển thể thành phim điện ảnh tựa "Sơn tra thụ chi luyến", đã được làm vietsub. Phim được công chiếu vào cuối năm 2010 và dự LHP Berlin lần thứ 62 năm 2011. Thread phim online nằm ở đây . Ngoài ra, còn có bản phim truyền hình của tác phẩm này nữa, nhưng mình chưa xem, tại vẫn còn hình bóng một cô Tĩnh Thu người nhó bé và rụt rè của Châu Đông Vũ và một lão Tam chân thành của Đậu Kiêu.

Bài hát cho phim được Trần Sở Sinh hát, cũng có vietsub rồi do bạn khác làm, mình dịch không được trao chuốt nên không có ý định dịch và làm vietsub lại MV đó. Mình đưa bản MV vietsub lên đây, nếu mod không đồng ý thì mình gỡ xuống.



Đọc xong mấy dòng lảm nhảm và nghe bài hát kia xong thì chắc cũng hết 5 phút rồi {:313:}


~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

















Rate

Số người tham gia 3Sức gió +20 Thu lại Lý do
nail65 + 5 Ủng hộ 1 cái!
greenrosetq + 10 Ảnh đẹp ^^
Spica + 5 em rate đây ^^

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
Đăng lúc 19-6-2013 09:38:51 | Chỉ xem của tác giả
Thay lời bạt của Tĩnh Thu




Theo cách nói của Hoàng Nhan, Cùng anh ngắm hoa sơn tra không phải tôi viết, viết lời bạt là việc làm quá sức, cho nên chỉ dám coi là thay lời bạt.

Từ lâu, Ngải Mễ “dọa” tôi: “Cư dân mạng muốn đọc chuyện của cậu, tớ sẽ đưa chuyện của cậu lên mạng”. Nhưng tôi không có chuyện gì, vì xưa nay tôi sống rất “bình thường – LIZE”, cẩn thận, cần cù. Tai họa chưa đến thì đã chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất, nỗi sợ hãi và khổ đau đều đã phân tán vào những tháng ngày tai họa chưa đến. Khi tai họa thực sự đến, trong lòng không còn bị choáng váng, chấn động. Cũng như vậy, khi hạnh phúc đến, tôi nhắc nhở mình: phúc họa ẩn chứa, đừng nên phấn chấn, vui mừng tất có nỗi buồn. Vậy là cảm nhận hạnh phúc lại bị tai họa sẵn sàng xóa sạch.

Sống như thế không chỉ bị tai họa bỗng nhiên ập đến xô đổ, nhưng đồng thời cũng cướp đi quyền đại từ đại bi, cuối cùng biến cuộc sống thành li nước ấm, khuôn trong hai mươi bảy độ ổn định, sống mơ màng buồn ngủ.

Cuối cùng tôi để Ngải Mễ viết câu chuyện của Ba, bởi năm nay kỉ niệm ba mươi năm ngày Ba qua đời. Tôi chuẩn bị về nước thăm Ba, nên cho chuyện của anh được viết ra đời và đưa lên mạng cũng là một cách kỷ niệm. Ngải Mễ xem chuyện của Ba, vui mừng đồng ý, vậy là có Cùng anh ngắm hoa sơn tra.

Trước hết tôi cảm ơn ngòi bút thăng hoa diệu kì của Ngải Mễ, đấy là điều mà tôi không thể làm được. Tôi đưa cho Ngải Mễ chỉ là những cái vô cùng thô sơ viết trên cuốn sổ vô cùng thô sơ của một cô gái hai mươi tuổi. Hồi ấy, hiểu biết về văn học của tôi đến từ mấy cuốn sách tôi được đọc. Câu chuyện xảy ra hồi cuối Cách mạng văn hóa, tôi sống trong những năm tháng đó, cho nên lúc viết không nói gì đến bối cảnh thời ấy. Lúc ấy tư tưởng của tôi bị vô số điều trói buộc, những cái viết ra không thoát khỏi phong cách “Tám điều của Đảng” đang độc bá văn đàn thời bấy giờ.

Ngải Mễ đã lấy những cái ấu trĩ, thô sơ và khô cúng để làm tư liệu ban đầu viết lên một câu chuyện khiến bạn đọc phải rơi nước mắt, ấy thuộc về ngòi bút, tầm nhìn vag tấm lòng của Ngải Mễ. Ngòi bút của Ngải Mễ thật tuyệt vời, điều này mọi người cùng chứng kiến. Có người phê phán Ngải Mễ viết Chí mệnh đích ôn nhu (Tạm dịch: Dịu dàng đến vô cùng) rằng, ngòi bút tuyệt vời như thế tại sao không viết một đề tài có ý nghĩa? Một đề tài có ý nghĩ hay không, phải xem điều ấy nói với ai, ở đây tôi không có ý lạm bàn Chí mệnh đích ôn nhu có ý nghĩa hay không, tôi chỉ muốn lấy đấy làm ví dụ để chứng minh, cho dù những người phê bình Ngải Mễ như thế cũng phải ca ngợi ngòi bút của tác giả. Theo tôi, ngòi bút của Ngải Mễ hay ở chỗ giản dị, sinh động, vừa trang trọng, vừa hài hòa. Ngải Mễ không hoa lệ cầu kỳ hoặc kết cấu phức tạp. Nhưng cái tác giả viết ra, ngôn từ rất bình dị, người có trình độ trung học đọc có thể hiểu. Câu văn của ác giả không dài, rất ít câu dài quá một dòng. Những nhân vật tác giả khắc họa không những sinh động mà còn sâu sắc, đọc rồi khó quên.

Nghe Ngải Mễ nói, có những người nói nhỏ với nhau, nam nhân vật của tác giả đều là một loại, nữ nhân vật cũng một loại,. Có thể những người ấy nói “một loại” có những kiến giải độc đáo, nhưng tôi biết Ngải Mễ khắc họa “nhiều loại” nhân vật nam và nữ (kể cả nhân vật thứ yếu), mỗi loại đều hết sức rõ ràng sinh động, tưởng như trở thành đại từ cho nhân vạt nào đó. Chúng ta trong cuộc sống hoặc trong truyện bắt gặp một con người nào đó sẽ bất giác nghĩ rằng, “người này giống với cậu Tiểu Côn”, hoặc “người này không như Hoàng Nhan”, hoặc “câu nói này giống với câu nói của Đường Tiểu Lâm”, điều ấy chứng tỏ nhân vật dưới ngòi bút của Ngải Mễ đã “sống lại”, không còn là “nhân vật”, mà là một con người sống động bước vào cuộc sống chúng ta, tưởng chừng ở ngay cạnh chúng ta. Mỗi câu chuyện của tc giả viết ra đều có những nhóm nam nhân vật và nữ nhân vật, nhưng tuyệt đối không rau ông nọ cắm cằm bà kia, không lẫn lộn người này với người khác, cũng không lẫn lộn Chu Kiến Tân với Tôn Kiến Tân.

Khi chúng ta bất ngờ so sánh Ba với Hồng Nhan thì đã chứng minh rằng nhân vật của Ngải Mễ được khắc họa vô cùng thành công, vì Hoàng Nhan đã trở thành đại từ cho một loại nhân vật nào đó. Có được gọi là người tình vĩ đại hay không, đầu tiên phải so sánh với Hòng Nhan, nếu không so sánh được thì dứt khoát đừng so sánh. Ba và Hoàng Nhan đều kiên cường đấu tranh được một chút ít gì đó, lấy cái “ghen” chiến thắng Hoàng Nhan, nhưng lấy cái chết sớm để thua Hoang Nhan.

Ở đây tôi đùa không đúng lúc, tôi muốn nói hai nhân vật vô cùng giống nhau, Ngải Mễ viết đã để mọi người nhận ra ai là ai. Viết hai người không giống nhau để mọi người nhận ra đâu là A, đâu là B rất dễ dàng. Viết cùng một loại người để mọi người cảm thấy không giống nhau mới cần công sức.

Ngải Mễ có thể mô tả nhân vật sống động vì có đôi mắt sắc bén. Lỗ Tấn đã từng nói, muốn tiết kiệm bút mực nhất để vẽ ra một con người, tốt nhất là vẽ cặp mắt. Ngải Mễ dù viết về người nào, đều có thể trực tiếp nhất, đơn giản nhất là viết đôi mắt người đó. Những nhân vật phụ trong Cùng anh ngắm hoa sơn tra, ví dụ “cô em vợ”, Trương Nhất, bà Đồng,… tôi phải viết rất nhiều trong thiên hồi ký của mình, cộng thêm rất nhiều lời bình mới phân biệt được những con người đó, nhưng Ngải Mễ chỉ nắm mấy chi tiết, chỉ vài ba câu đã tái hiện sinh động những con người ấy ngay trước mắt chúng ta.

Lâu nay, cùng một loại nhân vật, cùng một sự việc chúng ta đã quen thấy, quen nghe, thậm chí đã trải qua, nhưng mỗi chúng ta đều viết ra, mức độ làm cảm động người đọc rất khác nhau. Giống như “chú em ngốc” của chúng ta, tôi thấy nó lớn lên, biết nhiều chuyện vui của nó hồi nhỏ, nhưng không có cách nào chỉ trong một đoạn ngắn để cư dân mạng say mê chú em này. Dưới ngòi bút kỳ diệu của Ngải Mễ, khiến tôi phát hiện cái đáng yêu – cái ngốc đáng yêu của nó.

Chúng ta sống trong cùng một thế giới, nhưng cái mọi người trông thấy đều rất khác nhau. Thế giới khách quan chỉ có một, nhưng thế giới chủ quan trong lòng mỗi người, hoặc nói, thế giới khách quan phản ánh trong lòng mỗi người, lại vô cùng khác nhau, cho nên “nhân giả kiến nhân, trí giả kiến trí” cũng có thể dùng trong trường hợp n

Có người nói: “Thế giới này không thiếu cái đẹp, chỉ thiếu những cặp mắt phát hiện cái đẹp”. Tôi đồng ý với câu nói ấy. Cho nên nói, không phải Ngải Mễ may mắn được sống với những con người đáng yêu ấy, mà những con người ấy có may mắn được Ngải Mễ phát hiện ra cái đẹp của họ, đồng thời thông qua ngòi bút, ngải Mễ khiến những con người ấy được lên mạng, được nhiều người biết và nhận ra. Ba bị chôn vùi trong cuốn sổ của tôi gần chục năm, tôi cũng đã cho người khác xem, đã kể cho người khác nghe, nhưng mức độ câm đọng của họ rất khác nhau. Ba mượn ngòi bút của Ngải Mễ để bước lên mạng, mới trở thành một nhân vật nổi tiếng một thời.

Cặp mắt sắc bén của Ngải Mễ đến từ trái tim trong sáng. Ngải Mễ là người yêu cái đẹp, thích phát hiện cái đẹp, khai thác cái đẹp, biểu đạt cái đẹp, làm cái đẹp đẹp hơn. Ngải Mễ có thể từ một nhân vật trông thấy cái đáng yêu của nhân vật, cho nên mới có thể dùng ngòi bút để viết ra những nhân vật đáng yêu.

Ngải Mễ nói khi viết Mười năm chập chờn không rơi một giọt nước mắt, tôi tin diều ấy, vì hồi ức ấy đối với tác giả là tài sản quý. Bất luận Hoàng Nhan có cùng với Ngải Mễ hay không, nhưng tác giả luôn khẳng định con người hoang Nhan, luôn ngợi khen phẩm chất của anh. Ngải Mễ không vì bản thân cô mà phủ nhận giá trị của anh. Nhưng khi Ngải Mễ viết Cùng anh ngắm hoa sơn tra lại nhiều lần rơi nước mắt, thương tâm đến đọ Hoàng Nhan phải sợ hãi, không thể không phản lại cam kết của mình, tự mình vung dao. Trái tim Ngải Mễ xúc động bởi những câu chuyện của người khác, nước mắt của tác giả chảy cho những sự việc của người khác. Bất ngờ tôi nhớ đến câu nói của Ba: “Con trai không rơi nước mắt cho bản thân, con trai cũng không rơi nước mắt vì người khác ư?”. Câu hỏi thật tuyệt, câu hỏi thật thẳng thắn. Đáng tiếc, không có ai ngạc nhiên vì nước mắt con gái, nếu không, Ngải Mễ cũng có thể thẳng thắn đưa ra câu hỏi ấy.

Ngải Mễ viết mấy tiểu thuyết liên tiếp, giống như quả cầu tuyết, càng lăn, càng thu hút nhiều bạn đọc, đến cuối cùng càng trở nên sôi nổi, muốn thôi cũng không được; rất nhiều bạn đọc vốn ít mặn mà nhưng nay đã nói lên cảm nhận của mình. Viết truyện đến độ làm cho người đọc si mê, đến độ làm cho người đọc phải nghiện, không thể không nói đấy là thành công.

Ngòi bút, tầm mắt và tấm lòng của Ngải Mễ cũng đúng với Hoàng Nhan, nhưng Hoàng Nhan có cái mũ đàn ông, tương đối khó thể hiện cái dịu dàng của bản thân. Nhưng Hoàng Nhan không chỉ cáng đáng toàn bộ công việc gia đình, hàng ngày phải đưa đón Ngải Mễ, cần mẫn quản lí Ngải Viên, hơn nữa phải viết nhiều đoạn trong Cùng anh ngắm hoa sơn tra. Nghe Ngải Mễ nói, có nhiều đoạn tác giả đã khóc, Hoàng Nhan sơ thảo trước cho Ngải Mễ nhiều đoạn, để Ngải Mễ không quá buồn, ảnh hưởng đến sức khỏe, tác giả chỉ đọc lại, in dấu ấn Ngải Mễ là có thể đưa lên mạng.


Xin gửi lời cảm ơn Ngải Mễ, Hoàng Nhan!



Trong thời gian này tôi hàng ngày đọc Cùng anh ngắm hoa sơn tra, nhưng tôi đọc nhiều hơn là những ý kiến của bạn đọc. Câu chuyện với tôi không có gì xa lạ, nhưng ý kiến của mọi người là mới mẻ. Đọc câu chuyện này và ngọn sóng trào lên trong lòng bạn đọc là hai sự trải nghiệm khác nhau. Tôi vô cùng kinh ngạc ý kiến bạn đọc là hai sự trải nghiệm khác nhau. Tôi vô cùng kinh ngạc ý kiến bạn đọc trên mạng, lời lẽ chân thành, nội dung cảm động. Mọi người giúp tôi hiểu được những điều chưa hiểu, không dám hiểu, cho tôi đứng trên điểm cao hoàn toàn mới để hiểu những điểm gây xúc động lòng người của Ba.

Có thể vì câu chuyện của người khác dễ làm xúc động long người, trái tim vẫn rất trẻ. Đọc sách phải rơi nước mắt, lo lắng cho cố nhân, đấy là những việc vô cùng không đúng đối với nhiều người, kể cả tôi, chuyện là chuyện, hoặc do tác giả viết nên, hoặc s đã qua, vì số phận éo le của nhân vật trong chuyện rất ấu trĩ. Nhưng đọc những lời của bạn đọc trên mạng khiến tôi thay đổi cách nhìn, một con người, chỉ khi con người đó cảm động, lo lắng đối với người và việc không trực tiếp quan hệ với mình, tấm lòng con người đó mới thật sống, thật sự trẻ trung. Mỗi quan tâm kiểu “lo lắng cho cố nhân” kết thành một chỉnh thể, một con người sẽ không còn cô đơn vì sự cộng hưởng tưởng như ấu trĩ. Tất cả những gì chúng ta cho là chân thiện mỹ đều đáng được chúng ta cảm động, bất kể cái chân thiện mỹ ấy có ảnh hưởng đến bữa cơm chiều nay của chúng ta hay không, bất kể cái chân thiện mỹ ấy không đáng gì trong con mắt người khác.

Nếu chúng ta chỉ quan tâm đến chút hỉ nộ ái ố ở ngay chớp mũi, thì cuộc sống của chúng ta vô cùng phẳng lặng, thế giới của chúng ta vô cùng nhỏ hẹp, linh hồn chúng ta vô cùng cô đơn. Nếu chúng ta vui mừng vì sự cô đơn của người khác thì tình thần chúng ta sẽ bạc nhược, hình ảnh của chúng ta nhỏ bé, hạnh phúc của chúng ta rất ích kỷ. Nếu chúng ta phấn khích về sự hỉ nộ ái ố của ai đó, mà trào lộng, mà châm biếm, vậy thì tâm linh chúng ta không ngay thẳng, linh hồn chúng ta xấu xa độc ác, chúng ta không chỉ hạ thấp ý nghĩa cuộc sống của mình, mà cũng can thiệp và phương thức sống của người khác.

Trong mấy chục ngày gần đây, mỗi ngày có hàng ngàn người tụ tập dưới gốc cây sơn tra xem, thảo luận, đề nghị. Đến những ngày cuối, số người xem đã lên đến hàng vạn lượt. Tôi nghĩ, nếu linh hồn Ba ở trên trời, nhất định sẽ cảm thấy được an ủi vì cách sống và cách yêu của anh được nhiều người khẳng định, chính nó cổ vũ nhiều người yêu quý người bên cạnh mình, yêu quý cuộc sống.

Nhiều người có những kiến nghị hay, có nhiều người để lại những lời tâm huyết, có nhiều người rơi nước mắt đồng cảm, tất cả đều làm tôi cảm động rơi nước mắt. Tôi sẽ chuyển những lời thăm hỏi, gửi gắm, kỳ vọng và kính mến đến Ba, bảo với anh rằng, ba mươi năm qua vẫn có nhiều người cảm động vì anh, có nhiều người khóc vì anh, anh sống trong lòng mọi người. Con người được một người tri kỷ là đủ lắm rồi. Con người được nhiều người tri kỷ, ở dưới suối vàng không còn gì phải tiếc nuối.

Một lần nữa cảm ơn Ngải Mễ và Hoàng Nhan cùng cư dân mạng đọc Cùng anh ngắm hoa sơn tra. Rất lâu rồi không dùng Hán ngữ, lời không đạt ý, sai sót nhiều, xin được tha thứ.





HẾT
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
Đăng lúc 19-6-2013 09:37:00 | Chỉ xem của tác giả

VĨ THANH




BA ĐÃ ĐI. Theo di nguyện, thi hài của anh sau khi hỏa táng được chôn dưới gốc cây sơn tra. Anh không phải là liệt sĩ kháng Nhật, nhưng đại đội sản xuất Tây Thôn Bình coi anh như người có công, chôn anh ở đấy. Thời kì đầu Cách mạng văn hóa bia mộ liệt sĩ đều coi là “bốn cũ”1 bị bỏ đi, cho nên mộ của Thu cũng không có bia.

- Nó muốn được chôn ở đấy, chúng tôi ở xa, tôi gửi nó cho cô.

Nhật kí của Ba, thư từ anh viết cho Thu và ảnh của anh được để vào cái xắc quân dụng, nhờ em trai của anh cất giữ. Anh nhắn lại, nếu Thu sống hạnh phúc thì đừng đưa những thứ này cho Thu; nếu tình yêu của Thu không suôn sẻ, hoặc hôn nhân bất hạnh thì đưa những thứ này cho Thu, để Thu biết ở đời này đã có một người yêu Thu, một lòng yêu Thu, để Thu tin rằng có tình yêu vĩnh viễn. Trên trang bìa trong của cuốn nhật kí anh viết:

“Anh không chờ em nổi một năm lẻ một tháng, anh cũng không thể chờ em đến hai mươi lăm năm, nhưng anh sẽ chờ em suốt đời”.

Bên người anh chỉ có một tấm ảnh Thu sáu tuổi và một lá thư mười sáu chữ anh vẫn giữ, cũng để trong cái xắc quân dụng. Tôn Kiến Dân trao tất cả cho Thu.

Tháng năm hàng năm, Thu đều đến bên gốc cây sơn tra kia, cùng Ba ngắm hoa sơn tra. Không rõ có phải do tác động tâm lí, Thu thấy hoa trên cây kia thắm đỏ hơn những đóa hoa anh đã gửi cho Thu.

Mười năm sau, Thu thi làm nghiên cứu sinh thạc sĩ khoa tiếng Anh đại học L.

Hai mươi năm sau, Thu vượt đại dương, đến nước Mĩ giành được học vị tiến sĩ.

Ba mươi năm sau, Thu giảng dạy tại một trường đại học ở Mĩ. Năm nay, Thu đem theo con gái bay về bên gốc sơn tra, thăm Ba.

Thu nói với con gái:

- Người yêu của mẹ an giấc ngàn năm thu ở nơi đây.

Kỷ niệm ba mươi năm Tôn Kiến Tân (Ba) qua đời.

_______________________________________________

1 Văn hóa cũ, tư tưởng cũ, phong tục cũ và tập quán cũ – ND.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
Đăng lúc 19-6-2013 09:35:48 | Chỉ xem của tác giả

Chương 47





THU THẤT VỌNG lên tàu về K. Lúc đi, tràn trề hi vọng, nghĩ rằng cho dù không gặp, ít ra cũng có thể qua người nhà để hỏi thăm anh nằm ở bệnh viện nào, cứ coi như anh đã chết, người nhà anh cũng sẽ bảo cho biết phần mộ của anh, không ngờ không bước qua nổi của quân khu.

Cô giáo Giang an ủi:

- Có thể vì chúng ta không đem theo giấy giới thiệu của cơ quan, người ta mới không cho vào. Lần sau nhớ đem theo giấy giới thiệu chắc chắn sẽ được vào.

- Nhưng vệ binh nói, tư lệnh không phải họ Tôn, lẽ nào…

- Có thể mẹ của cậu Tần họ Tôn chăng? Cậu ấy có lần nói, khi bố bị đấu, cả nhà bị đuổi ra khỏi khu vực quân khu, chứng tỏ hồi ấy gia đình cậu ấy ở trong khuôn viên quân khu. Về sau bố cậu ấy được phục chức, chắc chắn gia đình lại quay về.

Thu cảm thấy cô giáo Giang phân tích có lí, vấn đề ở chỗ lần này không tìm thấy, sắp tới lại hkoong có ngày nghỉ, phải chờ đến nghỉ hè, không biết đến lúc ấy ba còn nữa hay không.

Cô giáo Giang nói:

- Cả nhà cậu ấy đi vắng, có thể là chuyện xấu, cũng có thể là chuyện tốt. Là chuyện xấu, đấy là chúng ta không gặp; là chuyện tốt, vì cải du lịch, chứng tỏ gia đình không có chuyện gì.

Thu cảm thấy có khả năng như cô giáo Giang nói. Nếu Ba ở trng đó, hoặc đã chết, cả nhà anh còn tâm tư nào để đi du lịch? Chắc chắn đã khỏi bệnh, hoặc quân y viện thành phố K chuẩn đoán sai, Ba ở trong đó, hoặc đã chết, cả nhà anh còn tâm tư nào để đi du lịch? Chắc chắn đã khỏi bệnh, hoặc quân y viện thành phố K chuẩn đoán sai, Ba về tỉnh A đi khám lại ở các bệnh viện khác, kết quả phát hiện không phải bệnh máu trắng, quả là một tin vui lớn. Dù sao thì đội thăm dò của anh đã rút đi nơi khác, biết đâu đã giải tán, Ba ở lại tỉnh A.

Thu hình dung Ba đang cùng bố và các em đi chơi ở một nơi có phong cảnh đẹp, mấy người chụp ảnh cho nhau lại nhờ người qua đường chụp giúp. Thu thật sống động, tưởng chừng nhu nghe được cả tiếng cười của anh.

Nhưng Thu lập tức nghi ngờ khả năng đó, Thu hỏi cô giáo Giang:

- Nếu anh ấy khỏi bệnh, tại sao không đến tìm em?

Cô giáo Giang nói:

- Tại sao em không nghĩ lần này anh ấy đi là để tìm em? Biết đâu anh ấy đến K thì anh ấy đến B, bỏ lỡ cơ hội gặp nhau. Trường hợp ấy nhiều lắm. Có thể em về đến nhà thì anh ấy đang ngồi chờ em, đang bị mẹ em tra khảo này nọ.

Thu nhớ lại lần ấy Ba bị mẹ “tra khảo”, bất giác mỉm cười. Chợt Thu nôn nóng muốn đi tàu về đến thành phố K ngay.

Nửa đêm tàu về đến K. Ba không có ở nhà Thu. Thu hỏi mẹ mấy hôm nay có ai tìm Thu không, mẹ bảo có cậu Tân đến, hỏi có chuyện gì, cậu ta không nói, ngồi một lúc rồi về.

Thu vô cùng thất vọng, tại sao là Chu Kiến Tân mà không phải là Tôn Kiến Tân?

Ngay đêm hôm ấy, Thu không ngủ, ngồi viết cho Tư lệnh quân khu tỉnh A một lá thư. Thu kể về bệnh tình của Ba, lại rứt ruột lấy ra một tấm ảnh của anh gửi kèm với l, xin ông tư lệnh tìm giúp người có tên là Tôn Kiến Tân. Thu tưởng tượng cho dù bố Ba không phải là tư lệnh quân khu thì cũng là một thủ trưởng nào đó trong quân khu, ông tư lệnh nhất định tìm thấy.

Hôm sau, Thu gửi thư theo đường bảo đảm, biết thư bảo đảm chậm hơn thư thường nhưng nhất định đến tay người nhận. Đến lúc này Thu không còn mong xuất hiện kỳ tích, chỉ có thể chuẩn bị tư tưởng cho trường hợp xấu nhất, đây là ông tư lệnh không tìm thấy Ba. Thu chỉ còn phải chờ đến nghỉ hè sẽ đến tỉnh A, ở lại đấy để tìm Ba. Nếu vụ hè năm nay không tìm thấy Ba thì vụ hè nào Ba cũng đi tìm, tìm thấy Ba mới thôi.

Buổi sáng Ngày Thanh niên (4 – 5), trường trung học số Tám tổ chức hội mừng. Lẽ ra, ngày Thanh niên không bao gồm cấp tiểu học, nhưng trường tiểu học trực thuộc ở ngay trong khuôn viên trường trung học số Tám, trường trung học tổ chứ múa hát tưng bừng, trường tiểu học không thể lên lớp nổi, cho nên năm nào cũng tổ chức chung. Nhưng buổi chiều học sinh trung học được nghỉ, học sinh tiểu học vẫn phải đi học.

Thu vẫn đệm đàn cho các lớp hát. Thu vừa đệm đàn cho màn hợp xướng của lớp một, bỗng một thầy giáo báo cho Thu biết, có một anh bộ đội đến tìm, có việc gấp, bảo Thu ra phòng thường trực ở cổng. Thu nghe nói “anh bộ dội”, nghĩ ngay có thể bố Ba cho lính đến. Thư vừa gửi đi, chưa thể nhận được, chỉ có thể ông Tư lệnh đi đâu đấy về, nghe nói Thu đến tìm, vậy là cho lính đến.

Nhưng lại cảm thấy không có khả năng, Thu không nói với vệ binh quân khu địa chỉ của mình, ông Tư lệnh làm sao biết được Thu ở đây?

Thu nghi ngờ chạy ra cổng, trông thấy một anh bộ đội rất giống Ba, thất Thu, anh bộ đội đi tới, vội vã nói:

- Có phải đồng chí Tĩnh Thu không? Em là Tôn Kiến Dân, em trai anh Tôn Kiến Tân, hiện tại tình trạng của anh Tân rất xấu, mời chị đến bệnh viện thăm anh ấy.

Vừa nghe nói, chân Thu bủn rủn, giọng run run:

- Anh ấy… thế nào rồi?

- Mời chị lên xe em sẽ nói. Em đến đây một lúc rồi. Định vào tìm, nhưng hôm nay nhà trường mở hội, cổng trường khóa.

Thu không kịp xin phép, nói với bảo vệ:

- Nhờ bác nói giúp mẹ cháu buổi chiều lên lớp dạy giúp cháu, bây giờ cháu phải vào bệnh viện, tình hình bệnh của bạn cháu đang nguy cấp.

Bác bảo vệ nhận lời, Thu cùng Kiến Dân vội vàng ra khỏi cổng. Ngoài cổng đã đậu sẵn một chiếc xe jeep quân đội, lúc Thu và Kiến Dân lên xe, nghe thấy tiếng mấy cậu học sinh:

- Cô giáo Thu bị quân quản bắt!

Thu đành phải quay lại cổng trường, nhờ bảo vệ giải thích cho mẹ, để tin kia đừng lan truyền, khiến mẹ phải sợ.

Trên xe chỉ có người lái xe và Kiến Dân. Dọc đường, Kiến Dân nói chuyện với Thu. Ba sau ngày ở bệnh viện huyện ra, anh không về tỉnh A, mà đến đội Ba ở Hoàng Hoa Trường, một mặt có thể giúp điều tra xem có phải do môi trường công tác của đội thăm dò dẫn đến bệnh máu trắng, mặt khác, Hoàng Hoa Trường chỉ cách nông trường trường trung học số Tám vài ba cây số, đường xe có thể chạy, có thể đi xe đạp, tiện cho anh đến nông trường thăm Thu.

Sau đấy Thu về K dạy học, Ba cũng về thành phố K, nằm ở viện quân y kia. Anh chỉ một lần về tỉnh A nghỉ Tết, sau Tết lại về K. Bố anh khuyên anh nên ở lại tỉnh A, nhưng anh không chịu. Bố anh đành cho một người giúp việc theo vè K để chăm sóc anh. Về sau Kiến Dân cũng đến đây, cùng Ba ở trong bệnh viện. Bố anh không thể ở thành phố K, chỉ thỉnh thoảng đến thăm anh, vì từ A đi ô tô đến đây mất hơn chục tiếng đồng hồ. Lúc này bố anh, các cô, các dì, mấy người anh em họ và bạn của anh đang ở cả đây.

Kiến Dân nói:

- Lúc anh Tân còn đi lại được, em với anh ấy đã đến ường thăm chị, thấy chị đang tập bóng chuyền cho mấy cô học sinh. Em đi qua trường cũng thấy chị đang lên lớp. Về sau, anh Tân không đi lại được nữa, bảo em đến xem chị thế nào, về kể lại cho anh ấy biết, Anh ấy không cho em nói với chị anh ấy đang ở thành phố này, cũng cho em nói với chị anh ấy bị bệnh máu trắng. Anh ấy bảo đừng cho chị biết, để chị sống không phải lo lắng gì. Theo lời anh ấy dặn, em không dám đến quấy rầy chị, nhưng anh ấy đi quá… đau đớn, quá lâu. Anh ấy trong tình trạng sắp chết từ mấy hôm nay rồi, bệnh viện đã dừng thuốc, dừng cấp cứu, nhưng anh ấy vẫn chưa trút hơi thở cuối cùng, không nhắm được mắt. Chúng em nghĩ, chắc là anh muốn được gặp chị, cho nên bỏ qua lời dặn của anh ấy, em đến tìm chị. Chắc chắn chị sẽ hiểu chúng em, em tin chị cũng muốn gặp anh ấy. Nhưng chị đừng quá kích động, kẻo rồi linh hồn anh ấy ở trên trời sẽ trách bọn em.

Thu không nói được câu nào, không hiểu có phải Thu suy nghĩ về anh quá nhiều, suy nghĩ đến độ thần kinh không còn bình thường. Một mặt, Thu vui mừng vì được gặp anh, mặt khác lòng đau như dao cắt vì nghe tin anh sắp quia đời. Thu chỉ mong đây là một giấc mộng. Thu mong được tỉnh mộng, thấy Ba cúi xuống nhìn mình, hỏi Thu có phải đang nằm mê. Bảo với Thu đây là điều ngược lại.

Kiến Dân nói:

- Chị Thu, chị đã là đảng viên cộng sản chưa?

Thu lắc đầu.

- Đã là đoàn viên chưa?

Thu gật đầu.

- Vậy chị với danh nghĩ đoàn viên bảo đảm tuyệt đối không để ảnh hưởng đến công tác của chị.

Thu gật đầu.

Đến bệnh viện, xe chạy thẳng đến trước phòng bệnh, Kiến Dân bảo Thu xuống xe, đưa lên tầng hai,. Trong phòng có nhiều người, mát ai cũng mọng đỏ. Thấy Thu, một vị trông như thủ trưởng ra đón, hỏi:

Thu gật đầu, vị Thủ trưởng nắm tay Thu, nước mắt của người già đầm đìa, chỉ giường bệnh:

- Anh ấy đang chờ cô, cô đến… từ biệt anh ấy đi! – Nói xong, ông đi ra hành lang.

Thu đến bên giường, thất một người nằm trên đó, nhưng Thu không tin rằng đấy là Ba, anh rất gầy, đúng là da bọc xương, lông mày rất dài và rất đậm, đôi mắt trũng sâu, lòng trắng đầy tia máu, tóc rụng nhiều, trở nên thưa thớt. Hai gò má anh nhô cao, hai bên má lõm xuống, sắc mặt trắng như khăn trải giường bệnh viện.

Thu không dám đến gần, cảm thấy không thể là Ba. Thu mấy tháng trước Thu gặp vẫn là một thanh niên đẹp trai, phong độ ngời ngời, nhưng người bệnh trước mặt lại vô cùng thảm thương.

Có mấy người khẽ đẩy Thu đến gần giường, Thu cố hết sức dũng cảm đến trước giường bệnh, tìm bàn tay anh dưới tấm chăn, thấy rõ vết sẹo trên mu bàn tay trái. Tay anh gầy nhơ xương, vết sẹo càng thêm dài. Chân Thu mềm nhũn, Thu quỳ xuống bên giường.

Thu cảm thấy có người lôi Thu đứng dậy, Thu không chịu đứng lên. Có người giục Thu:

- Gọi đi! Gọi đi!

Thu quay lại, ngơ ngác hỏi:

- Gọi gì?

- Gọi tên anh ấy đi, bình thường cô gọi thế nào thì bây giờ gọi như thế. Cô không gọi, anh ấy không đi đâu!

Thu không gọi nên lời, bình thường Thu không gọi tên anh, bậy giờ càng không gọi nổi. Thu chỉ biết nắm tay anh, sững sờ nhìn anh. Bàn tay anh chưa lạnh hẳn, vẫn còn ấm, chứng tỏ anh còn sống, nhưng lồng ngực anh không còn thoi thóp lên xuống. Có mấy người giục Thu:

- Gọi đi, gọi anh ấy đi!

Thu nắm tay anh, nói với anh:

- Em là Tĩnh Thu, em là Tĩnh Thu…

Đã có lần anh nói, một chân anh bước xuống huyệt mộ, hễ nghe thấy tên Tĩnh Thu, anh sẽ rụt chân lại để nhìn Thu. Thu vẫn nắm tay anh, lòng đầy hi vọng nói với anh:

- Em là Tĩnh Thu, em là Tĩnh Thu đây…

Thu không biết mình đã nói bao nhiêu lần, đôi chân tê dại, giọng khàn khàn, người bên cạnh không nén nổi, nói:

- Đừng gọi nữa, anh ấy không nghe thấy nữa rồi!

Nhưng Thu không tin, vì mắt anh vẫn chưa nhắm hẳn. Thu biết anh vẫn còn nghe thấy, chẳng qua anh không thể nói nổi, không thể trả lời Thu, nhưng nhất định anh nghe thấy. Tưởng chừng Thu trông thấy một chân anh đã bước xuống huyệt mộ, nhưng Thu tin rằng mình gọi anh, anh sẽ không nỡ bước thêm một chân nữa xuống mộ.

Thu liên tục nói với anh:

- Em là Thu, em là Tĩnh Thu…

Thu sợ anh không nghe thấy, nhưng bị một màn sương trăng bao phủ, anh cần một chút thời gian, dựa vào cái bớt để xác nhận đây có phải là Thu hay không,

Thu nghe thấy những tiếng khóc nén lại, nhưng Thu không khóc, vẫn kiên trì nói với anh:

- Em là Tĩnh Thu! Em là Tĩnh Thu!

Một lúc sau, Thu thấy anh nhắm mắt, hai giọt nước mắt từ khóe mắt lăn xuống.

Hai giọt nước mắt màu đỏ, long lanh…

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
Đăng lúc 19-6-2013 09:34:35 | Chỉ xem của tác giả

Chương 46





THU KHÔNG NGỜ mình ngớ ngẩn như vậy, thế nào gọi là cùng phòng mà không biết. Nếu không gặp Ngụy Linh, có thể Thu vẫn trách oan Ba, cho rằng anh đã “được” rồi. Lúc đầu thu nghĩ ngủ với nhau trên giường là cùng phòng, nhưng lần ấy Á Dân nói “rất may hai người chưa cởi áo bông, chưa tắt đèn”, Thu cho rằng cởi áo bông và tắt đèn mới quan trọng.

Lần Thu gặp Ba trong bệnh viện, Thu chuẩn bị làm tất cả mọi việc có thể làm trước khi chết, cho nên Thu rất dũng cảm cởi áo bông, cuối cũng còn tắt đèn.

Lần ấy Ba nói không dám đụng đến người Thu, sợ không chịu nổi phải làm chuyện vợ chồng. Thu bảo anh đừng sợ, bảo anh làm, không làm hai người sẽ chết không nhắm mắt. Sau đấy Ba nằm phủ lên người Thu, Thu cho rằng sự việc sau ấy là chuyện vợ chồng. Thu nhớ, đêm hôm ấy vì không hiểu biết và hiếu kỳ nói những chuyện không hay, nhất định làm Ba buồn, lúc ấy rất muốn cắt lưỡi mình. Đêm hôm ấy hai người “bay” xong, anh dùng khăn lau cái lầy nhầy trên bụng Thu, Thu hỏi:

- Tại sao anh biết đấy không phải là nước giải?

Hnh như anh rất khó xử, nói:

- Không phải.

- Nhưng nước giải cũng ở đấy ra à?

Thấy anh gật đầu thừa nhận, Thu truy hỏi:

- Anh biết lúc nào buồn đi giải, lúc nào không cơ mà? Anh có nhầm không?

Hình như anh không thể nói rõ, chỉ hàm hồ:

- Bản thân có cảm giác. Em đừng sợ, không phải… nước giải đâu.

Anh dậy, đổ ít nước nóng ra chậu, nhúng cái khăn mặt vào nước rồi vắt khô, giúp Thu lau tay, lau trên bụng, nói:

- Thế này yên tâm chưa?

Thu thanh minh:

- Em không nói anh bẩn, chỉ ghê sợ cái lầy nhầy ấy thôi. – Suy nghĩ một lúc rồi Thu nói tiếp: – Lạ nhỉ, tại sao con trai dùng một cái để làm hai việc?

Anh không thể giải thích nổi, chỉ ôm Thu, cười không thành tiếng:

- Ý của em là, con trai phải có hai cái ống, mỗi cái làm một việc? Em hỏi chuyện này thật phức tạp, anh không trả lời nổi. Anh không tự làm, điều này phải hỏi tạo hóa.

Về sau anh kể lại cho Thu nghe chuyện lần đầu tiên anh làm. Hồi ấy anh mới học lớp sáu, có lần thi, một đề thi rất khó, anh cảm thấy mình không làm nổi, rất căng thẳng, lại cảm thấy như mình tè ra quần, nhưng có cảm giác khoan khoái kỳ lạ, về sau mới biết đấy là di tinh.

Thu hết sức ngạc nhiên:

- Lớp sáu mà anh đã… hư đốn như vậy rồi à?

Anh giải thích:

- Đấy chỉ là hiện tượng sinh lý bình thường. Con trai bước vào thời thanh xuân, bắt đầu phát dục sẽ gặp hin tượng ấy. Có lúc nằm cũng bị. Giống như con gái, đến một lúc nhất định sẽ có “bạn thân”.

Thu bừng tỉnh, vậy là con trai cũng có “bạn thân”, nhưng tại sao bạn thân của con gái đến lại khó chịu, còn con trai “bạn thân” đến lại có cảm giác “khoái kỳ lạ”, rất không công bằng.

Thu cũng kể cho anh nghe lần đầu tiên của mình. Hồi ấy, giữa lúc mẹ phải nằm bệnh viện, bệnh viện cách nhà khoảng chục cây số, em gái còn nhỏ, không thể đi xa như thế, đêm phải ở lại bệnh viện ngủ chung giường với mẹ. Thu ban ngày đến bệnh viện chăm sóc mẹ, buổi tối về nhà ngủ với Tả Hồng.

Một hôm vào lúc nửa đêm, hai cô gái ra ngoài đi giải, Hồng nói:

- Nhất định “bạn thân” của đằng ấy đến, trên giường có màu đỏ, nhưng “bạn thân” của tớ vẫn chưa đến.

Tả Hồng giúp Thu tìm giấy vệ sinh, dùng một sợi dây khẩu trang rất dài quấn lại, buộc lên người Thu. Thu vừa sợ vừa xấu hổ, không biết phải làm thế nào. Hồng nói với Thu:

- Người con gái nào cũng phải có “bạn thân”, nhất định bạn học của đằng ấy có nhiều đứa có từ rất sớm. Đằng ấy đến bệnh viện nói với mẹ, mẹ đằng ấy sẽ bảo cách xử lí.

Hôm ấy Thu đến bệnh viện nhưng không sao nói ra nổi, Thu chần chừ hồi lâu mới nói với mẹ. Mẹ vui mừng nói:

- Thật khéo, mẹ vừa mổ cắt bỏ tử cung, bỏ tử cung rồi sẽ không có “bạn thân” nữa, đúng lúc này thì con có, cuộc sống truyền đời.

Ba nghe chuyện của Thu, anh nói:

- Mong sau này em lấy chồng, sinh con trai, sinh con gái, con gái lại sinh con gái, chúng sẽ giống em để em truyền đời.

Thu cảm thấy câu nói ấy của anh là mong muốn Thu lấy người khác và sinh con. Thu không muốn nghe anh nói những điều ấy, liền lấy tay bịt miệng anh, nói:

- Em không lấy ai, chỉ lấy anh thôi, sẽ sinh con của anh.

Anh ôm Thu, miệng lầm rầm:

- Tại sao em tốt với anh như thế? Anh cũng muốn lấy em, nhưng…

Thu nhìn anh rất buồn, liền chuyển sang chuyện khác. Thu nói:

- Người em bên phải lớn hơn bên trái. – Thu ghép hai ngón tay cái rồi khép hai cánh tay lại cho anh thấy, bên phải lớn hơn bên trái một chút.

Anh nhìn một lúc rồi nần hai bầu vú của Thu, hỏi:

- Cái này của em cũng một bên to một bên nhỏ à?

Thu gật đầu:

- Khác nhau một chút, bên phải lớn hơn, cho nên em may áo nịt ngực, bên phải lớn hơn một vài phân.

Anh chui vào chăn xem hồi lâu, rồi nhô đầu ra, nói:

- Em nằm anh không thấy gì, em ngồi lên cho anh xem.

Thu ngồi dậy cho anh thấy, anh nói cóơn một ít, rồi hỏi:

- Để anh vẽ em, được không? Anh đã từng học vẽ. Chờ trời sáng, anh về phòng bệnh lấy bút giấy.

- Vẽ để làm gì?

- Để ngày ngày ngắm nhìn. – Anh thanh minh. – Nếu em không thích thì thôi.

- Không phải em không thích, nhưng anh đừng vẽ, em có thể cho anh xem hàng ngày.

- Anh vẫn muốn vẽ.

Hôm sau anh về phòng bệnh lấy bút giấy, để Thu nằm nghiêng quàng cái chăn, anh ngắm nhìn, sau đấy vẽ một lúc, anh vẽ ngắm nhìn, lại vẽ. Rất nhanh chóng vẽ xong bức tranh. Thu xem, tuy bức tranh chỉ mấy nét đại khái, nhưng rất giống.

Thu dặn lại:

- Anh đừng cho ai thấy, người ta thấy sẽ cho anh là đồi trụy. Lưu manh bắt anh đấy.

Anh cười:

- Anh làm sao cho ai xem được?

Hôm ấy anh bảo Thu không mặc áo quần, nằm trong chăn. Anh ra ngoài đổ bô rồi vào lấy chậu rửa mặt, cốc đánh răng để Thu rửa mặt, đánh răng, sau đấy đến nhà ăn bệnh viện lấy cơm về. Thu khoác cái áo ngồi trong chăn an cơm, ăn xong lại chui vào chăn. Anh cũng cởi áo quần lên giường, hai người âu yếm nhau hồi lâu. Cho đến khi chỉ còn nửa tiếng đồng hồ nữa là hết xe về Nghiêm Gia Hà hai người mới vội vã mặc quần áo, chạy ra bến xe.

Thu nhớ lại cái ngày hôm ấy, biết anh lúc bấy giờ chuẩn bị xa Thu, để Thu chuẩn bị sống tiếp, nhưng Thu lại trách nhầm anh, quả thật anh đã không làm gì.

Thu rất lấy làm c, rất ân hận, nếu sớm biết, nhất định Thu sẽ đi tìm anh. Đến nay đã cách xa ngày ấy gần nửa năm, nếu biết anh bị bệnh máu trắng kể từ hôm anh cứa tay đến nay đã tám chín tháng, có thể anh đã chết từ cuối năm ngoái.

Nhưng anh đã nói, nó như vậy chứng tỏ anh chưa thể chết được. Thu nhớ lại, hình như “nó” thường xuyên như thế, chẳng phải đã chứng minh anh vẫn sống? Thu lại hi vọng, có thể anh khỏe hơn mọi người, có thể anh vẫn sống?

Thu phải tìm được anh, cho dù anh đã chết. Thu cũng muốn biết anh được chôn ở đâu. Nếu anh không bị bệnh chắc chắn anh về chăm sóc bố, cho dù anh đã lấy người khác Thu cũng phải đi thăm anh. Cho dù vì lí do gì để anh xa Thu, nhất định Thu phải biết rõ, bằng không Thu sẽ không bao giờ yên tâm.

Đầu mối đầu tiên Thu có thể nghĩ đến là Phương, vì lúc bấy giờ Phương biết bệnh tình của Ba, có thể Phương biết địa chỉ của anh ở tỉnh A. Hồi ấy Phương nói không biết, có thể Ba dặn Phương. Bây giờ Thu đảm bảo với Phương rằng sẽ không tự tử, nhất định Phương sẽ nói địa chỉ của Ba.

Chủ nhật, Thu về Tây Thôn Bình đến thẳng nhà Phương. Bà Trương và cả nhà thấy Thu đề rất ngạc nhiên, rất nhiệt tình. Lâm đã lấy vợ, cô vợ quê tận một bản miền núi xa, rất xinh xắn, hai vợ chồng ở chung với bà Trương, nghe nói chuẩn bị làm nhà mới.

Sau khi chào hỏi chuyện trò với mọi người, Thu liền vào phòng Phương nói chuyện.

Nghe Thu hỏi đến Ba, Phương thở dài, nói:

- Phương không biết địa chỉ của anh ấy ở tỉnh A, nếu biết Phương dâu đợi đến hôm nay mà đã đi thăm anh ấy từ lâu rồi.

Thu không tin, khẩn khoản:

- Hồi ấy anh Ba không nói với ai về bệnh tình, chỉ nói với Phương, chắc chắn anh ấy cho Phương biết địa chỉ>

- Anh ấy không nói với Phương về bệnh máu trắng, ấy là lúc anh ấy gọi điện thoại ở bưu điện Nghiêm Gia Hà, anh Cả của Phương nghe thấy. Anh Ba là người thứ hai của đội thăm dò thứ Hai bị bệnh máu trắng, cho nên anh ấy yêu cầu tổng đội của người điều tra, xem có liên quan gì đến môi trường công tác của đội.

- Vậy sau ngày anh ấy đi, Thu đến tìm Phương ở trường, tại sao Phương không nói với Thu?

- Chị Thu nói lại với anh ấy Phương cho chị biết anh bị bệnh máu trắng, anh ấy hỏi Phương tại sao biết? Anh ấy dặn Phương không được nói với chị Thu, để anh ấy tự nói. Anh ấy bảo, rất may viết cho chị nhiều thư nhưng thư không đến tay chị, vì trong thư anh ấy nói, sợ thủy thổ vùng này có vấn đề, muốn nhắc nhở chị.

Thu tỏ ra bất lực:

- Chả trách gì, sau đấy anh ấy không đưa thư cho Thu xem. Cuối cùng có phải thủy thổ vùng này có vấn đề không?

- Có thể không phải, hai người bị bệnh đều là người của đội thăm dò, sau đấy đội thăm dò rút đi, không biết đã xong việc hay là vì nguyên nhân khác?

- Anh Ba đi cùng đội thăm dò hay là…

- Cuối năm anh ấy đi, bảo vệ tỉnh A, sau đấy không có tin tức gì.

Thu quyết định nhân dịp nghỉ Quốc tế lao động (1 – 5) đến tỉnh A thăm Ba, những mong được gặp anh một lần. Cho dù không gặp, Thu cũng mong đến thăm một anh. Thu biết mẹ sẽ không cho Thu một mình đến tỉnh A xa xôi, lạ người lạ đất, Thu cũng chưa bao giờ đi xa như thế. Thu muốn rủ Ngụy Linh cùng đi, nhưng Linh bảo, mồng Một tháng Năm Tiêu Hội sẽ nghĩ về, nhất định không để Linh đi tỉnh A. Hơn nữa, tiền tàu xe đến tỉnh A khá cao, hai cô gái đi với nhau cũng không an toàn.

Không còn cách nào khác, Thu quyết định ba bảy hai mươi mốt, đi một mình.

Thu chỉ biết nhà Ba ở thành phố B thuộc tỉnh A, nhưng không biết cụ thể ở đâu. Thu nghĩ, bố anh là tư lệnh quân khu, chỉ cần tìm đến quân khu tỉnh A sẽ có cách tìm được ông tư lệnh. Tìm được ông tư lệnh rất có thể tìm thấy con ông Tư lệnh.

Thu suy nghĩ rồi đến nhờ cô giáo Giang mua hộ vé tàu đi tỉnh A trong thời gian nghỉ mồng Một tháng Năm. Thu biết, một sinh viên như cô có người nhà làm ở ga, có thể mua được vé. Nghỉ lễ mồng Một tháng Năm tàu rất đông, không có thời gian ra ga xếp hàng mua vé, thứ nữa có thể không mua được.

Cô giáo Giang đồng ý giúp Thu nhưng cô rất lo, nói:

- Em chuẩn bị một mình đi du lịch ở tỉnh A à? Rất không an toàn em ạ.

Thu nói với cô giáo Giang mình đi tỉnh A để tìm Ba, nhờ cô bằng mọi cách mua giúp vé tàu, nếu trong dịp nghỉ lễ này mà không đi, sẽ pgair chờ đến nghỉ hè, như vậy không có hy vọng được gặp lại Ba.

Mấy hôm sau, cô giáo Giang giúp Thu mua được vé, cô mua hai vé, sẽ cùng đi với Thu, không để Thu đi một mình, không an toàn. Cô giáo Giang nói với mẹ Thu, bảo cô đưa đứa bé thứ hai đến thành phố B chơi với một người bạn, một mình không tiện chăm sóc thằng nhỏ, muốn mời Thu cùng đi, giúp chăm sóc đứa nhỏ. Mẹ thấy đi cũng cô giáo Giang nên không có ý kiến gì, đồng ý để Thu đi.

Đứa nhỏ của cô giáo Giang gọi là Đệ Đệ, mới hai tuổi. Thu và cô giáo Giang đưa nó lên tàu, đến thành phố B ở nhờ nhà cô giáo Hồ, bạn của cô Giang.

Hôm sau, Thu và cô giáo Giang đưa thằng nhỏ chuyển mấy lần xe mới tìm được đến đại bản doanh của quân khu ở một nơi gọi là đồi Hoa Đào, bên ngoài có tường cao, đứng ngoài có thể thấy cây cối trên sườn đồi trong khuôn viên, hoa nở rực rỡ, giống như tiên cảnh giữa chốn trần gian. Thu thấy Ba về một nơi đẹp như thế này là đúng, thoải mái hơn ở một gian nhà chật hẹp. Thu chỉ mong anh vẫn còn ở đây.

Ở cổng có lính bồng súng đứng gác, hai người bảo đến tìm ông tư lệnh họ Tôn. Vệ binh không cho vào, bảo tư lệnh không phải họ Tôn, có phải hai người đã nhầm? Cô giáo Giang nói:

- Vậy có vị phó tư lệnh hoặc có vị thủ trưởng nào họ Tôn không?

Vệ binh tìm và trả lời không có ai họ Tôn. Thu hỏi:

- Ông Tư lệnh họ gì?

Vệ binh không trả lời. Cô giáo Giang nói:

- Dù tư lệnh họ gì thì cũng cho chúng tôi gặp.

Vệ binh bảo phải gọi điện về xin ý kiến, một lúc sau ra nói với hai người, ông tư lệnh không có nhà.

Thu nói, nhà ông tư lệnh có ai nữa không, tôi muốn hỏi thăm con trai ông ấy.

Vệ binh lại gọi điện vào. Mỗi lần gọi điện như thế rất lâu, cô giáo Giang lấy làm lạ, hỏi:

- Tại sao anh gọi điện mất nhiều thì giờ như thế?

Vệ binh giải thích: điện thoại không được gọi trực tiếp vào nhà riêng tư lệnh, phải gọi đến văn phòng nào đấy, điện sẽ do văn phòng ấy chuyển, cho nên rất mất thời gian.

Sau một hồi loanh quanh đi lại, cuối cùng không biết được tin tức gì, chỉ biết cả nhà thủ trưởng đi vắng, có thể là đi du lịch. Hỏi thủ trưởng đi chơi đâu, vệ binh có bị đánh chết cũng không chịu nói, tưởng như hai người sẽ mai phục trên con đường thủ trưởng đi qua để đánh bom sát hại cả gia đình thủ trưởng!

Buổi chiều họ lại đến một lần nữa, mong gặp được một vệ binh nhiệt tình, kết quả anh vệ binh buổi chiều càng tệ hơn, hỏi han nửa ngày cuối cùng chỉ một chút tin tức như uổi sáng cũng không hỏi nổi.

Thu vô cùng thất vọng. Giá như trước đây không nói chết theo anh. Tại sao tám trăm năm trước lại thề thốt với anh như vậy? Vậy mà làm anh phải sợ.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

61#
Đăng lúc 19-6-2013 09:33:29 | Chỉ xem của tác giả

Chương 45





MỘT DỊP NGẪU NHIÊN, Thu phát hiện “kể đầu sỏ” trả lại thư. Hôm ấy Thu được hai lớp mười một đang lao động ở nông trường mời tham gia đệm đàn cho buổi biểu diễn ở Phó Gia Xung. Nông trường của trường số Tám liên hệ với một nông trường của đám thanh niên trí thức, nông trường ấy cũng ở Phó Gia Xung. Vì là cuối tuần, Thu nhận lời không chút do dự, nông trường của trường sô Tám còn cử một cậu về cõng cây đàn accordéon cho Thu.

Thu đến nông trường, tập luyện với học sinh, cùng học sinh lớp mười một đến nông trường của đám thanh niên trí thức, trở thành nhân vật được chú ý, vì Thu kéo accordéon, lại là nữ. Thanh niên trí thức của nông trường cùng mời Thu đệm đàn, đệm mấy bài rất quen thuộc, vậy là Thu đệm đàn cho cả hai bên.

Buổi biểu diễn kết thúc, rất nhiều người vây lấy Thu, có người yêu cầu Thu biểu diễn một bài, có người nâng cây đàn lên kéo thử, bảo rất nặng, kéo không nổi.

Một cậu thanh niên trí thức tên là Ngưu Phúc Sinh nghe đến tên Tĩnh Thu, cậu ta đến, nói với Thu:

- Bạn họ Tĩnh à? Có người họ Tĩnh thật sao?

Thấy Thu gật đầu, liền nói:

- Cách đây ít lâu, bọn này nhận được một lá thư có thể là của bạn.

Hồi ấy, nông trường của trường số Tám mới xây dựng, người đưa thư chưa biết, chỉ thấy mấy chữ “Nông trường trường Trung học số Tám thành phố K”, nên đưa đến nông trường này, vì nông trường này gọi là “Nông trường đội công trình số Tám của thành phố K”. Đội công trình số tám trước kia thuộc biên chế quân đội, về sau chuyển đi nơi khác, nông trường này dành cho con em của họ tốt nghiệp trung học phổ thông về đây rèn luyện, coi như lên rừng về đồng ruộng, sau đấy rút về thành phố K, phần lớn được vào đội công trình số Tám.

Người nhận thư của nông trường không biết ai tên là Tĩnh Thu, hỏi mọi người nhưng không ai biết, vậy là họ trả lại thư cho người gửi. Cậu học sinh kia thấy cái họ ít gặp, thư lại từ Nghiêm Gia Hà gửi đến, tỏ ra kỳ lạ, hai nơi cách nhau mấy cây số mà thư với từ? Cậu ta nhớ cái tên “Tĩnh Thu”, bây giờ được gặp chủ nhân của cái tên ấy chợt nhớ lại chuyện cũ.

Thu cảm ơn cậu ta, đồng thời nhớ từ nay về sau có thư của “Tĩnh Thu” thì nhận giúp, có dịp Thu sẽ về lấy. Phúc Sinh hỏi địa chỉ của Thu ở thành phố K, hứa nếu có thư của Thu sẽ nhận giúp, bao giờ cậu ta về thành phố K sẽ đem về cho Thu.

Phát hiện ấy đã xóa sạch nghi ngờ đối với thày Trịnh, mà cũng xóa mọi nghi ngờ đối với Ba, ít ra xóa sạch nghi ngờ về anh trong chuyện viết thư, chứng tỏ đúng anh là người viết thư. Nhưng sau đấy Ba gặp Thu tại sao lại không đưa những lá thư đó cho Thu xem? Thu đoán đấy là những lá thư tuyệt giao, cho nên anh không đưa cho Thu xem sợ làm vỡ kế hoạch của mình.

Bây giờ Thu đã có phòng riêng do nhà trường cấp. Đó là một căn phòng chừng mười mét vuông, ở chung với cô giáo Lưu. Trong phòng có một cái bàn hai ngăn kéo, mỗi người một ngăn, tự khóa lại. Thu đã có nửa bầu trời cất giấu mọi bí mật của mình.

Nhà của cô giáo Lưu ở bên kia sông, cứ cuối tuần cô lại về, cho nên cuối tuần căn phòng này là khoảng trời của riêng Thu. Những lúc ấy Thu chốt cửa, đem thư và ảnh của Ba ra xem, tưởng tượng đấy là những lá thư của bác sĩ Thành gửi cho Thu. Những lúc nghĩ như thế Thu cảm thấy hạnh phúc vô cùng, rất say sưa vì những lời lẽ trong thư chỉ có thể từ miệng những người như bác sĩ Thành nói ra mới có ý nghĩa, bằng không sẽ là những lời đáng khinh. Không biết ma sai quỷ khiến thế nào, Thu ghi mấy bài thơ lên giấy, định một dịp nào đấy sẽ cho bác sĩ Thành xem. Thu cũng không biết cho bác sĩ Thành xem có ý nghĩa gì, Thu chỉ muốn cho anh xem vậy thôi.

Một hôm, nhân lúc bác sĩ Thành đón đứa con trên tay Thu, Thu lén nhét mấy bài thơ đã chép từ mấy hôm nay vào túi áo bác sĩ Thành. Hai ba ngày sau đấy, Thu không dám đến nhà bác sĩ Thành, Thu không có cảm giác có lỗi với cô giáo Giang, vì chưa bao giờ Thu có ý nghĩ giành bác sĩ Thành về cho mình, Thu chỉ sùng bái bác sĩ Thành, yêu anh, những bài thơ ấy viết cho anh, cho nên muốn để anh xem. Thu không dám đến là bởi sợ bác sĩ Thành cười chê văn chương, cười chê tình cảm của Thu.

Một buổi tối cuối tuần, bác sĩ Thành tìm đến căn hộ của Thu. Anh trả lại những bài thơ cho Thu, mỉm cười, nói:

- Cháu Thu, cháu rất có tài văn chương, có thể trở thành nhà thơ lớn, có thể gặp được “anh” trong thơ của cháu, hãy giữ lấy, giữ lấy để gửi cho “anh”.

Thu bối rối, vội thanh minh:

- Xin lỗi, cháu không biết mình đã viết nhũng gì, cũng không biết tại sao lại bỏ những thứ đó vào túi chú, chắc cháu điên mất rồi.

Bác sĩ Thành nói:

- Cháu có tâm sự gì thì nói với cô Giang, cô là người từng trải, rất hiểu cháu, cũng sẽ giữ bí mật cho cháu.

Thu khẩn khoản:

- Xin chú đừng nói gì với cô, chắc chắn cô sẽ mắng cháu, chú cũng đừng nói gì với ai.

- Tôi không nói gì đâu, cháu đừng sợ, cháu không làm điều gì, chỉ viết mấy bài thơ, rồi nhờ một người không hiểu gì về thơ làm tham mưu. Về thơ, tôi khồng theerddua ra ý kiến gì, nhưng trong cuộc sống có gì khó khăn tôi có thể giúp.

Giọng nói của bác sĩ Thành rất dịu dàng, rất thành khẩn, Thu không biết vì mình tin tưởng ở anh hay là muốn thanh minh chỉ vì sùng bái anh mà không có ý gì khác. Thu nói chuyện Ba cho anh nghe, nhưng không nói chi tiết về cái đêm hôm ấy.

Bác sĩ Thành nghe xong, phỏng đoán:

- Có thể cậu ấy bị bệnh máu trắng, nếu không, thật sự khó giải thích tại sao cậu ấy lại lẩn tránh cháu. Cậu ấy nằm bệnh viện huyện cũng có thể vì bị cảm. Vì người bị bệnh máu trắng sức đề kháng rất kém, dễ bị các chứng bệnh thông thường. Hiện tại chưa có cách chữa bệnh máu trắng, chỉ có thể bị cảm trị cảm, bị trúng gió trị trúng gió, cố gắng kéo dài sự sống. Bệnh viện huyện không biết, có thể quân y viện kia đã phát hiện ra bệnh máu trắng của cậu ấy.

- Nhưng chú nói… quân y viện kia bảo anh ấy bị suy giảm tiểu cầu cơ mà?

- Nếu cậu ấy không muốn cho cháu biết, tất nhiên cậu ấy yêu cầu bác sĩ giữ bí mật. – Bác sĩ Thành nói thêm – Tôi cũng chỉ phỏng đoán, phỏng đoán chưa chắc đã chính xác. Nếu đúng như lời tôi nói, rất có thể như thế, vì cháu nói sẽ đi với cậu ấy, liệu cậu ấy còn lựa chọn nào khác? Không thể để cháu đi theo. Hơn nữa, để cháu thấy cậu ấy mỗi ngày một gầy, một tiều tụy, từng bước đi đến cái chết, liệu cậu ấy có thể chịu đựng nổi không? Nếu là cháu, cháu có muốn để cậu ấy thấy mình từng bước đi đến cái chết không?

- Theo ý chú… lúc này anh ấy ở tỉnh A… chờ chết sao?

- Bác sĩ Thành suy nghĩ giây lát rồi nói:

- Không hẳn, cậu ấy cũng có thể ở ngay thành phố này. Nếu là tô sẽ ở thành phố K, cuối cùng… được gần nhau hơn.

Thu khẩn thiết nói:

- Chú giúp cháu hỏi thăm các bệnh viện được không ạ?

- Tôi sẵn sàng, nhưng cháu phải bảo đảm không làm những chuyện ngu ngốc.

Thu vội bảo đảm:

- Vâng, cháu sẽ không, không… không… nói những điều ấy nữa.

- Không những không nói mà cũng không làm những chuyện đó. Cậu ấy lo lắng cho cháu, vô hình trung cháu làm gia tăng gánh nặng tư tưởng cho cậu ấy. Có thể cậu ấy đã chuẩn bị tư tưởng cho số mệnh, lặng lẽ dối diện với cái chết, nhưng cậu ấy nghĩ nếu cậu ấy đi và phải đem theo cháu đi, chắc chắn cậu ấy bực mình lắm.

Bác sĩ Thành kể cho Thu nghe về thân thế con trai lớn của anh. Con trai lớn của anh không phải là con đẻ, mà là con của một bệnh nhân. Bệnh nhân ấy chết, chồng của chị ta cũng tự tử theo, để lại một đứa con, bác sĩ Thành nhận nuôi, đưa từ thành phố J về thành phố K để mọi người không nói với đứa trẻ về chuyện bố mẹ nó chết thê thảm thế nào.

Bác sĩ Thành nói:

- Hàng ngày tôi làm việc trong bệnh viện, rất thường xuyên thấy người chết, thấy người nhà bệnh nhân đau đớn tuyệt vọng. Mấy năm gần đây trông thấy cảnh sinh li từ biệt, cảm nhận lớn nhất là cuộc sống của mỗi con người đều không thuộc về họ, không thể muốn thế nào được như thế. Nếu cháu đi với cậu ấy, mẹ cháu sẽ đau khổ biết chừng nào? Anh trai, em gái của cháu đau khổ biết chừng nào? Mọi người đều buồn, những điều đó không có lợi cho bất cứ ai, Trong khi cậu ấy đang sống chỉ có thêm gánh nặng tư tưởng, sau khi cậu ấy chết, chắc chắn cháu biết sẽ không tai sinh, cũng không có thể giới khác, cho dù hai người cùng chết cũng không thể đến với nhau. Cậu ấy nói đúng, cháu sống, cậu ấy sẽ không chết.

- Cháu chỉ sợ… anh ấy đã… chú giúp cháu hỏi thăm được không?

Bác sĩ Thành hỏi thăm các nơi cho Thu, nhưng không bệnh viện nào có bệnh nhân tên là Tôn Kiến Tân, kể cả quân y viện kia. Bác sĩ Thành nói:

- Tôi đã trổ hết tài, có thể tôi đã đoán nhầm, cậu ấy không ở K này.

Thu cũng trổ hết tài, điều duy nhất an ủi Thu là có thể bác sĩ Thành đã đoán nhầm, anh nói “nếu tôi nhầm”, nhưng Ba không phải bác sĩ Thành, cả hai khác nhau ở một điểm quan trọng, nhưng Thu không nói ra diểm quan trọng kia, cho nên có thể bác sĩ Thành đã nhầm.

Giữa tháng Tư năm 1976, Ngụy Linh đang học ở trường sư phạm khu đến tìm Thu, bảo có một chuyện quan trọng muốn bàn với Thu. Ngụy Linh từ nông thôn được gọi về trường sư phạm, cuối tuần nào cũng về nhà bố ở trường trung học sô Tám thành phố K, rất hay đến chơi với Thu.

Ngụy Linh vừa gặp thu đã nói:

- Tớ gặp tai họa rồi, chỉ có đằng ấy mới cứu được tớ.

Thu giật mình, hỏi có chuyện gì.

Ngụy Linh ấp úng:

- Tớ… có thể… mang thai, nhưng bạn trai tớ không cho cái ấy vào, làm sao có mang được?

Thu không hiểu:

- Cái gì không cho vào đâu?>

- Tất nhiên là cái sinh con, tinh dịch của đàn ông.

Thu không muốn hỏi tỉ mỉ chuyện ấy, giúp đỡ thì giúp đỡ, Thu không muốn vì giúp đỡ mà buộc Linh phải nói ra “quy trình gây án”, nhưng chi tiết ấy với Thu là vô cùng quan trọng. Không kiềm chế nổi, Thu hỏi:

- Cho cái sinh con vào đâu?

Linh nói:

- Ôi, đằng ấy chưa yêu, chưa làm những chuyện ấy, nói ra đằng ấy cũng không hiểu, tức là cho cái sinh con vào bên trong chỗ “bạn thân” của đằng ấy vẫn ra.

Linh bực mình:

- Anh ấy không cho vào trong, nhưng ở ngoài… chắc chắn có một ít lọt vào trong, nếu không thì tại sao tớ lại mang thai được? Đúng là tai vạ trên trời rơi xuống! Tớ rất hiểu, tớ chưa ở cùng phòng với bất cứ anh nào.

Thu tròn xoe mắt, cho cái bầy nhầy ấy vào đâu? Đến là buồn nôn. Thu nhớ lại một câu chuyện nghe thật sợ hãi, bảo có một người con gái phơi trái lót sát tường, bị một con nhện bám vào, người con gái kia mặc cái quần lót liền bị mang thai, đẻ ra một ổ nhện. Cho nên Thu không dám lộn trái quần lót để phơi, cũng không dám phơi quần lót ở những nơi sát tường hoặc những nơi có nhện. Nhưng trước đây Thu không hiểu tại sao nhện bò vào quần lót con gái lại có mang? Bây giờ Thu mới hiểu, là vì nhện để dính cái sinh con vào quần lót, con gái mặc vào, cái sinh con lọt vào trong ấy của con gái, cho nên mới có mang.

Bỗng Thu hiểu, đúng như Ba nói, không làm gì, vì anh không cho cái sinh con vào trong, chứng tỏ anh chưa “được”. Anh chưa “được” tức là mọi phỏng đoán trước đây của mình là sai. Nhất định anh bị bệnh máu trắng, anh sợ sau khi anh chết Thu sẽ đi theo, cho nên anh nói dối anh không bị bệnh máu trắng. Nhưng nếu anh còn ở huyện K, thu sẽ sớm biết anh bị bệnh máu trắng, cho nên anh trốn về tỉnh A. Anh làm như vậy có thể Thu hận anh, nhưng giữ được sinh mệnh Thu.

Nghĩ đến đây lòng Thu như dao cắt, không biết phải bằng cách nào để tìm thấy anh, cũng không biết đến lúc này anh còn sống hay không?

Lần Thu gặp Ba trong bệnh viện, Thu chuẩn bị làm tất cả mọi việc có thể làm trước khi chết, cho nên Thu rất dũng cảm cởi áo lông, cuối cùng còn tắt đèn.

Lần ấy Ba nói không dám đụng đến người Thu, sợ không chịu nổi phải làm chuyện vợ chồng. Thu bảo anh đừng sợ, bảo anh làm, không làm hai người sẽ chết không nhắm mắt. Sau đấy Ba nằm phủ lên người Thu, Thu cho rằng sự việc sau ấy là chuyện vợ chồng. Thu nhớ, đêm hôm ấy vì không hiểu biết và hiếu kỳ nói những chuyện không hay, nhất định làm Ba buồn, lúc này rất muốn cắt lưỡi mình. Đêm hôm ấy, hai người “bay” xong, anh dùng khăn lau cái lầy nhầy trên bụng Thu, Thu hỏi:

- Tại sao anh biết đấy không phải nước giải?

Hnh như anh rất khó xử, nói:

- Không phải.

- Nhưng nước giải cũng ở đấy ra à?

Thấy anh gật đầu thừa nhận, Thu truy hỏi:

- Anh biết lúc nào buồn đi giải, lúc nào không cơ mà? Anh có nhầm không?

Hình như anh không thể nói rõ, chỉ hàm hồ:

- Bản thân có cảm giác. Em đừng sợ, không phải… nước giải đâu.

Anh dậy, đổ ít nước nóng ra chậu, nhúng cái khăn mặt vào nước rồi vắt khô, giúp Thu lau tay, lau trên bụng, nói:

- Thế này yên tâm chưa?

Thu thanh minh:

- Em không nói anh bẩn, chỉ sợ cái lầy nhầy ấy thôi. – Suy nghĩ một lúc rồi Thu nói tiếp: – Lạ nhỉ, tại sao con trai dùng một cái để làm hai việc?

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

60#
Đăng lúc 19-6-2013 09:31:31 | Chỉ xem của tác giả

Chương 44




LẦN NÀY THU KHÔNG BIẾT phải chuẩn bị tư tưởng cho tình huống xấu nhất thế nào. Có thể Ba sợ Thu lo lắng cho bệnh tình của anh, nên nói dối mình không bị bệnh gì, một mình “chờ chết”. Nhưng mọi chứng cứ đều phản bác lại mọi suy đoán, y lệnh của bệnh viện chứng minh anh bị cảm, người của đội Hai chứng minh mọi thủ tục điều động anh về tỉnh A đã xong xuôi.

Bảo Ba “mua” hết mọi người để giúp anh nói dối là điều không thể. Nhất là y lệnh bao nhiêu ngày, y lệnh của bảo nhiêu người, bùa chú không giống nhau, chắc chắn xuất phát từ những bàn tay của các bác sĩ khác nhau, không thể bảo Ba nhờ nhiều bác sĩ như vậy giúp anh ngụy tạo y lệnh.

Nói cho cùng, chỉ có Phương bảo anh bị bệnh máu trắng, hơn nữa lại nghe chính Ba nói, không còn ai được thấy chứng cứ. Thu không hiểu nổi tại sao Ba lại nói dối như vậy, bảo mình bị bệnh máu trắng. Ba bảo là để được gặp Thu, nhưng sau khi gặp mặt rồi mới nói bị bệnh máu trắng, làm sao hiểu nổi?

Thu chưa có thời gian để làm rõ sự việc thì bị một việc khác làm Thu sợ: “bạn thân” của Thu không thấy đến thăm. “Bạn thân” của Thu đến rất đúng ngày, chỉ những khi gặp chuyện gì lớn mới đến sớm, còn chưa bao giờ đến muộn. “Bạn thân” đến muộn có nghĩa là đã có mang, Thu hiểu điều thường thức ấy, vì đã nghe nói rất nhiều cô mang thai vì “bạn thân” không đến mới nhận ra mình mang thai.

Đấy là những chuyện thường gặp, đều rất bi thương, sợ hãi, lại là những người mà Thu quen biết nên càng bi thảm, càng sợ hãi. Trường trung học số Tám có một cô gái có biệt danh “Đại Lan”, tốt nghiệp trung học cơ sở liền về nông thôn, không biết vì sao yêu một cậu cũng nghịch ngợm, dẫn đến có mang. Đại Lan tìm mọi cách cho đứa bé ra, cố tình gánh thật nặng, nhảy từ trên cao xuống, ngã bị thương, vậy mà đứa bé vẫn không ra.

Về sau cô này sinh con, có thể vì gánh quá nặng, nhảy quá nhiều, lại bó bụng, cho nên đứa bé trở nên dị dạng, có hai cái xương sườn bị trễ xuống. Cho đến nay Đại Lan vẫn ở nông thôn, chưa được g bạn trai của cô ta vì chuyện này và những chuyện đánh nhau khác, phải lãnh án hai mươi năm tù. Đưa mẹ giao cho mẹ cậu ta nuôi, cả hai gia đình khổ cực không còn gì khổ hơn.

Đại Lan vẫn chưa thể coi là người bất hạnh nhất. Dù sao thì cô ta cũng mang tiếng xấu, ở nông thôn không được về lại thành phố, ít ra bạn trai của cô ta thừa nhận đứa bé là con, Đại Lan vẫn giữ được mạng sống. Còn một cô gái nữa tên là Cung càng bất hạnh hơn, cô ta cũng yêu một anh, rồi mang bầu, anh kia không biết lấy đâu ra thảo dược, bảo uống rồi sẽ ra thai. Cô này đem về nhà, lén sắc uống, kết quả cái thai không ra, nhưng người mẹ thì chết. Chuyện này khiến trường số Tám sôi sục, nhà cô kia bắt anh kia đền mạng, hai bên gia đình đánh nhau, cuối cùng gia đình anh kia phải dọn đi nơi khác.

Thu nghe nói, nạo thai ở bệnh viện phải xuất trình chứng minh đơn vị công tác, hình như phải có đủ chứng minh đơn vị của hai bên trai và gái. Tất nhiên Thu không thể có chứng minh đơn vị công tác, Ba bây giờ không biết đi đâu, càng không thể có chứng minh của anh. Thu nghĩ, Ba hiểu mọi chuyện, chắc chắn biết điều này, anh lén bỏ đi, phải chăng anh sợ xấu hổ? Cho nên cao chạy xa bay, để một mình Thu đối diện với chuyện này.

Dù nghĩ thế nào thì Thu cũng cảm thấy Ba không phải là con người như vậy, những gì tốt đẹp anh dành cho Thu trước đây đã chứng minh anh rất chăm sóc đến Thu, luôn suy nghĩ mọi chuyện cho Thu. Cớ gì anh bỏ Thu lại một mình trong hoàn cảnh khó xử này? Cho dù anh thật sự bị bệnh máu trắng, không có lí do gì để anh bỏ mặc Thu? Liệu anh có thể để sự việc kết thúc mới lảnh tránh “chờ chết” không?

Những hành động không logic của anh có thể giải thích: anh làm những việc đó để giành được Thu.

Thu nhớ lại tiểu thuyết Tess 1 của nước Anh mà Thu đã đọc, cuốn sách không phải của Ba cho mượn, mà là hồi Thu đến bệnh viện thành phố K để học y, mượn của một bác sĩ phòng chiếu xạ, chỉ mượn được ba hôm đã bị đòi lại, Thu không có thời gian đọc kỹ, nhưng vẫn nhớ tình tiết câu chuyện, chuyện kể về một cô gái trẻ bị một anh lắm tiền lừa lấy trinh.

Thu còn nghĩ đến một vài câu chuyện tương tự, đều là chuyện những người đàn ông nhiều tiền lừa dối các cô gái nghèo. Khi chưa được, đám đàn ông theo đuổi, buông lời đường m tiền tài vật chất đều tung ra, mọi đòi hỏi đều đáp ứng. Nhưng một khi được rồi liền trở mặt, cuối cùng mọi chuyện bất hạnh đều rơi cả lên đầu các cô gái trẻ. Bỗng Thu phát hiện, chưa bao giờ Ba cho Thu mượn những loại truyện ấy, hình như sợ Thu xem rồi đề cao cảnh giác.

Suy nghĩ theo cách nghĩ ấy, nhất cử nhất động của Ba đều được giải thích. Anh cố gắng bao nhiêu lâu là để có màn kịch hôm ấy ở bệnh viện. Nếu anh không để Thu phải lo lắng vì căn bệnh của anh, anh sẽ không nói “cung tên không sao, chỉ cần không cùng mệnh”. Anh cũng không gật đầu khi Thu hỏi có phải anh bị bệnh máu trắng mà sẽ giữ bí mật từ đầu đến cuối. Thỉnh thoảng anh để lộ mình bị bệnh hiểm nghèo là vì sao? Chỉ có thể vì giành được Thu. Anh biết Thu rất yêu anh, anh cũng biết nếu bị bệnh hiểm nghèo Thu sẽ để anh làm mọi chuyện, kể cả cho anh.

Xem ra để “được” là lí do anh theo đuổi không mệt mỏi suốt hơn một năm. Trước khi “được” anh sắm vai một nhân sĩ ôn tồn nho nhã, quan tâm chiều chuộng, nhưng “được” rồi anh liền xé bỏ mặt nạ, để lại một mảnh giấy rồi biến mất.

Lòng Thu như lửa đốt, không biết phải thế nào. Nếu Thu có mang, chỉ có hai con đường. Con đường thứ nhất là chết, cho dù chết thì cũng chỉ giải thoát bản thân, mà gia đình Thu còn bị người đời cười chê. Tốt nhất là cứu người mà chết, như vậy không có ai truy tìm nguyên nhân cái chết của Thu. Một con đường khác là vào bệnh viện nạo Thai, sau đấy thân bại danh liệt, sống nhục sống nhã. Thu không muốn sinh con, sẽ thật bất công biết chừng nào đối với đứa trẻ! Một mình suốt đời chịu nhục, lẽ nào liên lụy đến cả đứa trẻ vô tội?

Mấy ngày hôm đó Thu như sống trong địa ngục, không biết đến bao giờ mới hết sợ hãi. Rất may, mấy hôm sau “bạn thân” đến, Thu kích động nước mắt lưng tròng, đúng là gặp lại người bạn lâu năm xa cách, những gì khó chịu trên cơ thể đều rất đáng chúc mừng. Chỉ cần không mang thai, còn nữa đều là chuyện vặt.

Mọi người nói đến chuyện con gái thất thân đều rất sợ hãi chỉ vì hai việc, một là mang thai rồi sẽ thân bại danh liệt, một nữa là sau này sẽ không lấy được chồng. Bây giờ không còn buồn vì chuyện mang thai, chỉ còn vấn đề không lấy được chồng. Thu cảm thấy mình không còn tâm trạng nào để nói đến chuyện lấy chồng. Nếu một người như Ba chỉ vì “được” mà đến ân cần chiều chuộng, Thu nghĩ sẽ không còn ai thật lòng yêu Thu.

Thu không trách, chỉ nghĩ, nếu mình đáng được anh yêu, tất nhiên anh ấy yêu mình; nếu anh không yêu, chỉ vì mình không đáng để anh yêu.

Vấn đề ở chỗ Ba tuy không yêu Thu, tại sao anh phải tốn nhiều tinh thần và sức lực để “được” như vậy? Có thể đàn ông là thế, càng chưa được càng phải cố để được. Ba phải giả vờ ân cần chăm sóc lâu như vậy, chủ yếu vì anh chưa được. Giống như Tú, có thể đã “được” từ lâu, cho nên anh từ lâu không để ý đến cô ta nữa. Nhất định anh đã “được” rất nhiều con gái ở đấy, cho nên anh biết chỗ ấy của con gái có gì, anh cũng biết “bay” là thế nào.

Lại cả chuyện “canh đỗ xanh”, chắc chắn anh đã thổi phồng chuyện ấy với người cùng phòng, bảo Thu là “canh đỗ xanh” giải nhiệt của anh, nếu không, tại sao Thái người ở cùng phòng với anh lại nói ra? Cùng một sự việc ấy, lúc anh dỗ dành Thu lại nói là “bay”. Nhưng khi nói chuyện với người cùng phòng, anh lại bảo là “giải nhiệt”. Nghĩ mà đã thấy buồn nôn.

Và cả mấy lá thư kia, anh bảo gửi về nông trường, nhưng thầy Trịnh lấy danh dự đảng viên ra thề thầy không gửi trả lại thư. Lúc đầu Thu nghi ngờ thầy Trịnh nói dối, bây giờ xem ra chính là anh đã nói dối.

Còn nữa… Thu không muốn suy nghĩ nhiều, tưởng chừng mỗi sự việc đều quy về một điểm, từ đầu đến cuối chỉ là khổ nhục kế, ngồi bên bờ sông suốt buổi tối, chảy nước mắt, dùng dao cứa vào tay, chuyện nọ bi thảm hơn chuyện kia, một khi những thứ đó chưa được thực hiện, anh nghĩ ra chiêu bị bệnh máu trắng.

Rất kỳ lạ là, khi Thu nhìn thấu anh, nhìn rõ anh, trái tim Thu không còn đau khổ, Thu cũng không hối hận vì những chuyện mình đã làm. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Trí tuệ của con người không thể tự có, người khác dùng kinh nghiệm của bản thân để giáo dục mi, mi không thể học được. Chỉ đến khi mi trải qua, mi mới thật sự có trí tuệ. Đến khi mi có trí tuệ để nhắc nhở người khác, người khác cũng sẽ như mi lúc ban đầu không tin ở trí tuệ của mình, cho nên trong đời ai cũng phạm sai lầm, đều dùng sai lầm của bản thân để chỉ bảo, giáo dục cho đời sau, và đời sau vẫn phạm sai lầm.

Thu ở nông trường chưa đến nửa năm thì được gọi về trường dạy học. Có thể nói trong họa được phúc, nhưng là trong họa của người khác để Thu được phúc. Thu tiếp nhận lớp bốn của trường tiểu học trực thuộc, cô giáo cũ tên là Vương, là một cô giáo tốt tính, công tác tích cực, nhưng dạy không tốt, ngày nào cũng làm việc vất vả nhưng lớp học chẳng ra gì.

Cách đấy ít lâu, đến lượt lớp của cô đi lao động. Các trường có nhiệm vụ thu gom sắt vụn, nhà trường liên hệ với một nhà máy ở bên kia sông, cho học sinh vào nhặt đinh, ốc vít bỏ đi, nộp cho nhà nước luyện thép. Cô Vương đưa học sinh đi nhặt sắt vụn, lúc về đội ngũ học sinh đi lộn xộn, tản mát. Cô vừa phải gánh sắt vụn, vừa phải đôn đáo giữ trật tự, bận túi bụi, cuối cùng có mấy học sinh nghịch ngợm không biết đã đi vào đâu.

Hôm ấy nước sông ở cửa trường học đang xuống thấp, sông chỉ như một dòng nước hẹp, phải dùng những bao tải xỉ than xếp thành một con đường để người qua sông đi từ bờ ra gần dòng nước, lên một con đò nhỏ, người ta gọi đấy là “bến cạn”.

Hai bên bến cạn trơ đáy sông, có chỗ là bùn, có chỗ trên mặt khô nứt nẻ nhưng dưới là bùn nhão. Trong lớp của cô Vương có một học sinh nam tên là Tăng rất nghịch ngợm tụt lại sau, chơi ở bên kia sông đến tận tối, nó bị sa xuống vũng bùn, lúc ấy không có người, vậy là chìm xuống bùn mỗi lúc một sâu.

Cô Vương đưa phần đông học sinh về trường rồi quay lại tìm cậu học sinh kia, tìm mãi vẫn không thấy, cô về, vô cùng lo lắng, mong ngày mai trông thấy những cậu học sinh nghịch ngợm. Hôm sau, vừa vào lớp thì phụ huynh em tăng đến, hỏi tại sao con ông ta cả đêm hôm qua không về, đòi cô giáo phải trả con cho ông ta.

Chuyện làm ồn ào cả trường. Nhà trường vội cho người đi tìm, đi trình báo với công an. Qua một ngày đào bới mới thấy cậu học sinh kia dưới lớp bùn bên bến cạn, cậu ta đã chết từ lúc nào. Gia đình cậu học sinh kia thấy mồm, mặt con mình đầy bùn hôi thối, nghĩ đến cảnh nó giãy giụa trước khi chết, vô cùng phẫn nộ và đau khổ, trút giận dữ lên đầu cô giáo Vương, bảo nếu cô giáo không có khả năng quản lí học sinh, con của họ không bỏ lớp để chạy chơi, dẫn đến tai nạn.

Gia đình cậu học sinh kia ngày nào cũng kéo họ hàng thân thuộc đến vây bắt đòi cô giáo phải đền mạng. Nhà trường không còn cách nào đành cho cô giáo Vương về nông trường. Không thầy cô nào dám nhận lớp của cô giáo Vương, nhà trường phải gọi Thu về nhận lớp.

Thu vốn là một học sinh luôn phục tùng sự phân công, lúc này tuy tham gia công tác, đối với các thầy các cô hết sức cung kính, nghe lời. Hơn nữa Thu biết nếu không nhận lớp này nhà trường sẽ không cho Thu làm giáo viên. Thu không nói gì, về lại thành phố, thay cô giáo Vương làm giáo viên lớp bốn.

Gia đình cậu học sinh kia không thù oán gì Thu, cũng không đến gây rắc rối, phụ huynh học sinh khác thấy Thu nhận lớp cũng tỏ ra cảm kích. Thu dồn hết tâm sức cho công việc, chuẩn bị bài giảng, lên lớp, đi thăm gia đình học sinh, nói chuyện với học sinh, bận tối ngày. Về sau Thu phát huy sở trường chơi bóng chuyền của mình, tổ chức một đội bóng chuyền nữ tiểu học, sáng chiều nào cũng hướng dẫn tập luyện. Có lúc đưa học sinh đi chơi ngoại thành, học sinh rất thích thú, lớp của Thu nhanh chóng trở thành lớp giỏi nhất trong khối lớp bốn của trường.

Những lúc bận rộn Thu không còn thời gian nghĩ đến Ba. Nhưng đêm khuya thanh vắng Thu nghĩ lại những chuyện đã qua, thoáng chút nghi ngờ, có phải Ba là một công tử chơi bời? Hay là anh đang nằm thoi thóp chờ chết ở một bệnh viện nào?

Thu nhớ đến cái bệnh viện quân đội ở thành phố K, anh bảo chỉ vì cứa một nhát dao vào tay, bệnh viện mới gọi anh đến kiểm tra. Liệu có thể tìm hiểu ở bệnh viện này xem có phải anh bị bệnh máu trắng không? Thu càng nghĩ càng không yên tâm, liền nhờ bác sĩ Thành thăm dò giúp.

Bác sĩ Thành bảo quân y viện ấy trực thuộc trung ương, không thuộc hệ thống y tế của thành phố. Nghe nói, tuân theo lời Mao Chủ tịch: “Chuẩn bị chiến tranh, chuẩn bị chống đói, vì nhân dân, đề phòng đại chiến thế giới thứ ba bùng nổ”, Bệnh viện này xây dựng riêng cho các vị thủ trưởng. Hồi ấy, để chuẩn bị cho thế chiến thứ ba, trong bệnh viện còn có hầm phòng không đề phòng bom nguyên tử của các nước đế quốc và xét lại. Về sau, chuyện thế chiến thứ ba không còn căng thẳng, bệnh viện ấy mới có một bộ phận mở, nhưng cũng ít ai được vào.

Bác sĩ Thành phải mắt nhiều công sức mới hỏi được. Theo ghi chép sau khi khám, tiểu cầu của Tôn Kiến Tân có phần suy giảm, nhưng không phải bệnh máu trắng.

Trên đảo Giang Tâm có một hợp tác xã làm giá đỗ, cho nên thứ rau người trên đảo ăn nhiều nhất là giá đỗ. Thu cảm thấy Ba và bác sĩ Thành giống như ngọn giá đỗ, ngọn giá trắng tinh, ngón tay bóp nhẹ lập tức nước trào ra, nhưng phía trên là hai mảnh của hạt đỗ giống nhau, nhưng một mảnh đỗ đã bị thối đen, một mảnh khác vẫn giữ nguyên màu vàng vốn có.

Điểm khác nhau đó là “được”, bác sĩ Thành lấy vợ đã nhiều năm vẫn chung thủy với cô giáo Giang, còn Ba “được” rồi liền trở mặt.

Thu càng ngày càng năng đến nhà cô giáo Giang chỉ để nghe tiếng bác sĩ Thành, để thấy anh chung thủy yêu vợ. Bác sĩ Thành có thể là người đàn ông duy nhất trên Giang Tâm đổ nước rửa chân cho phụ nữ, anh đổ nước rửa chân của vợ, của mẹ vợ. Nhất là mùa hè, mọi người hay dùng cái chậu gỗ đựng được nhiều nước để tắm ở nhà. Cái chậu gỗ lớn ấy không một phụ nữ nào bưng nổi, đều phải dùng một cái chậu nhỏ múc đem đi đổ. Nhưng bác sĩ Thành bưng nổi cái chậu to ấy, bưng ra ngoài đổ đi.

Thu không cảm thấy bác sĩ Thành vì thế mà không nở mày nở mặt, ngược lại Thu thấy anh là một người đàn ông vĩ đại. Nhất là Thu cảm thấy tình yêu của bác sĩ Thành dành cho hai đứa con. Về mùa hè, tối nào Thu cũng thấy bác sĩ Thành đưa cậu con lớn ra sông đi bơi, cô giáo Giang cùng cậu con nhỏ ngồi trên bờ xem. Rất nhiều buổi tối Thu tháy bác sĩ Thành chơi đùa với con trên giường, anh bò làm ngựa cho con cưỡi, đúng là “làm ngựa cho lũ nhi đồng”.

Vợ chồng bác sĩ Thành được mọi người công nhận là một đôi hòa thuận, tâm đâu ý hợp. Hai người, một người kéo đàn, một người hát, hài hòa ăn ý, coi như một cảnh quan trên đảo Giang Tâm.

Trong con mắt Thu, chỉ có những người như bác sĩ Thành trong ngoài như nhau, trước sau như một, trước khi “được” và sau khi “được” không có gì khác mới thật là người đáng yêu.>

Thu nhìn bác sĩ Thành yêu quý vợ, trong lòng Thu chợt hiện lên những câu thơ, những câu thơ ngắn, chỉ từng đoạn từng đoạn, xuất phát từ một tình cảm nào đó, cảm thán cho một tâm trạng nào đó. Những câu thơ cứ lẩn quất trong đầu, chừng như kêu gọi Thu hãy nhớ lấy. Về đến phòng mình, Thu ghi lại những câu thơ ấy, có lúc thơ không có đề mục, Thu cũng không ghi rõ tên anh, chỉ dùng một từ “anh”.

_________________________________

1 Một tấm gương giúp đỡ mọi người thời bấy giờ. – ND

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

59#
Đăng lúc 19-6-2013 09:29:51 | Chỉ xem của tác giả

Chương 43





Tối hôm sau, Thu về đến nông trường. Ba đưa Thu đi, đến khi trông thấy cái nhà hình chữ L, hai người mới lưu luyến chia tay.

Ba nói, anh còn phải chờ bệnh viện xác nhận, bảo Thu cứ về nông trường làm việc, nếu không anh sẽ nổi cáu. Thu sợ anh nổi cáu sẽ cắt tay, đành phải về nông trường. Hai người hẹn nhau, cứ hai tuần vào ngày nghỉ của Thu sẽ gặp nhau tại bệnh viện huyện, cho dù lúc đó đã ra viện anh vẫn chờ Thu ở phòng riêng của cô y tá cao. Anh đồng ý với Thu, nếu đúng là bệnh máu trắng anh sẽ viết thư báo cho Thu biết ngay, không có thư có nghĩa là bình an vô sự.

Ngay tối hôm Thu về đến nông trường liền đi tìm thầy Trịnh để báo thầy không trả lại thư của Thu. Thu nói khéo: “Thưa thầy, em có một người bạn học ở trường trung học Nghiêm Gia Hà, nó bảo viết cho em mấy lá thư gửi về nông trường theo địa chỉ “Nông trường trường trung học số Tám thành phố K, đại đội sản xuất Phó Gia Xung, công xã nhân dân Ngiêm Gia Hà”, nhưng thư đều bị trả lại người gửi. Thầy thấy tại sao, có phải sai địa chỉ không ạ?>

- Địa chỉ đúng rồi. – Thầy Trịnh có vẻ bức xúc. – Ai lại gửi thư trả lại như thế nhỉ?

Thu nghĩ, thầy vờ vịt khéo quá, lại hỏi:

- Thư của nông trường thì ai chuyển đến ạ?

- Thư đưa về đại đội sản xuất, nói chung, cha của tôi mỗi lần lên đại đội tiện thể lấy về, mỗi lần tôi về nhà thấy thư đều đem đến đây. Cha tôi biết tên mầy người ở nông trường, tuyệt đối không trả lại thư của cô.

Thầy Trịnh hỏi:

- Có phải cô nghi ngờ tôi trả lại thư của cô? Tôi có thể dùng danh nghĩa đảng viên để thề, tôi không trả lại thư của cô.

Thầy Trịnh nói thế, Thu không còn biết nói sao, đành tin tưởng thầy không dám trả lại thư.

Ban ngày Thu bận thổi nấu cho học sinh, có lúc tranh thủ ra đồng lao động. Đến tối, khi nằm ngủ, Thu nhắm mắt, hồi tưởng lại một ngày một đêm sống bên Ba, nhất là đêm hôm ấy, khiến tình cảm trào dâng. Có lúc Thu tự vuốt ve bản thân, nhưng không chút cảm giác, lẽ nào bàn tay Ba có điện? Tại sao anh chạm đến đâu chỗ ấy lập tức có cảm giác buồn buồn? Thu muốn ngày nào cũng cùng bay với anh, ít nhất trong những năm anh còn sống, ngày nào cũng được bay với anh.

Thu nghe người ta nói, con gái làm chuyện ấy với nam giới, cơ thể sẽ biến đổi, ngay như đi tiểu cũng khác. Thu nghe nói con gái lớn đi tiểu thành bãi, nhưng không ai nói dáng đi biến đổi thế nào. Thu cảm thấy dáng đi của mình không thay đổi, nhưng lại sợ người khác phát hiện dáng đi của mình thay đổi.

Một tuần lễ qua đi trong tâm trạng nôn nóng, nhưng đến tối Chủ Nhật, trước đấy một hôm, cô giáo Triệu về nghỉ vẫn chưa trở lại nông trường, hai hôm sau mới nhờ người đưa thư đến báo cô đi nạo thai, phải nghỉ một tháng. Thu nghe tin, trố mắt ngơ ngác, cô Triệu chưa về có nghĩa là Thu không thể đến phố huyện K, nông trường chỉ có Thu và cô giáo Triệu lo chuyện nấu ăn, nhất định phải có một người. Lòng Thu như lửa đốt, liền đi tìm thầy Trịnh nói với thầy, Thu hẹn cuối tuần thứ hai có việc phải về, bây giờ không được về, ở nhà mẹ rất nóng ruột.

Thầy Trịnh động viên:

- Cô Triệu nghỉ ở nhà, mẹ em biết em bận việc nông trường, bà ấy sẽ không lo lắng gì đâu. Nhà trường sẽ cử người đến làm thay việc cho cô giáo Triệu, em cố gắng vài tuần tôi sẽ cho em nghỉ thâm vài ngày. Bây giờ nông trường chỉ có một mình em làm bếp, em phải coi trọng công tác, giúp nông trường trong việc này.

Thu có chuyện khổ tâm nhưng không dám nói ra, không biết phải làm thế nào để báo cho Ba biết mình không thể đi nổi. Cũng may, không có thư của Ba chứng tỏ bệnh viện vẫn chưa xác định anh bị bệnh ấy, Thu đành kiên nhẫn chờ thêm mấy hôm, tin rằng Ba sẽ hiểu.

Mấy hôm sau, nhà trường cử cô giáo Lí đến làm thay việc của cô giáo Triệu. Thu khẩn thiết xin thầy Trịnh cho nghỉ cuối tuần này để về nhà. Thầy trịnh muốn báo Thu kéo dài thêm một tuần nữa, để cô giáo Lí quen việc rồi Thu hãy nghỉ, nhưng Thu không chịu. Chưa bao giờ thầy Trịnh thấy Thu không phục tùng sự phân công, rất không vui, nhưng không có cách nào, đành cho Thu nghỉ.

Đã quá ngày hẹn hơn một tuần lễ, nhưng Thu tin anh vẫn chờ. Sáng thứ Bảy Thu đi rất sớm, một mình đi từ Phó Gia Xung lên Nghiêm Gia Hà, ngồi chuyến xe đầu tiên để đến bệnh viện K. Thu vào phòng bệnh của anh trước, nhưng anh không có ở đấy, người nằm cùng phòng đã thay đổi, bảo phòng này không có ai tên là Ba.

Thu lại đến phòng của cô y tá, nhưng Ba cũng không ở đấy. Thu đi tìm, mọi người bảo hôm nay cô Cao nghỉ. Thu lần mò hỏi thăm được địa chỉ rồi đến thẳng đấy. Nhà cô Cao không có ai, Thu đành ngồi chờ ở cửa. Chờ đến tận chiều cô Cao mới từ bên nhà chồng về. Thu tự giới thiệu mình là bạn của Ba, muốn hỏi Ba đi đâu.

Cô Cao nói:

- Ôi, cô là Thu? Anh ấy mượn phòng để cho cô đấy à?Thấy Thu gật đầu, cô Cao nói:

- Anh ấy ra viện lâu rồi, có để lại cho cô một lá thư, nhưng tôi để trong khu bệnh viện, bây giờ cô đi lấy với tôi nhé.

Thu nghĩ, có thể anh để lại địa chỉ của đội Hai, bảo Thu đến đấy tìm Thu đi với cô y tá một lần nữa vào căn phòng kia, trăm mối tơ vò, những gì xảy ra trong đêm hôm ấy hiện ra trước mắt.

Cô y tá đưa lá thư của Ba cho Thu, lá Thư không phong bì, vẫn gấp theo hình chim bồ câu. Bỗng Thu có dự cảm không may mắn. Quả nhiên, Ba viết:

Rất xin lỗi vì anh đã nói dối em, đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng nói dối em. Anh không bị bệnh máu trắng, anh nói như vậy là muốn để trước khi đi được gặp em.

Bố anh đang vô cùng nguy kịch, ông rất muốn anh về bên ông, cho nên ông bí mật điều động anh về. Lẽ ra anh phải về tỉnh A công tác từ lâu, nhưng anh muốn được gặp em, cho nên cứ chờ ở đấy, chờ có cơ hội. Lần này được ông Trời khai ơn, coi như anh đã được gặp em, cùng em qua một ngày một đêm hạnh phúc. Và anh đi không chút tiếc nuối.

Anh đã hứa với mẹ em, chờ em một năm một tháng, anh cũng đã hứa với em chờ em đến hai mươi lăm tuổi, xem ra anh không thể giữ nổi những lời hứa đó. Con cái vốn rất tình cảm, cuối cùng không thể nào so với những lời gọi cao hơn thế. Em muốn trách anh thế nào thì cứ trách, tất cả đều là sai lầm của anh.

Người cùng tên với anh sẽ che nắng che mưa cho em, có thể chịu đựng vì em, anh tin đấy là một người tốt. Nếu em cùng anh ấy sống đến đầu bạc răng long, anh xin chúc mừng hạnh phúc của hai người.

Lá thư như một đòn mạnh khiến Thu choáng váng, không thể hiểu nổi ý anh. Thu nghĩ, nhất định bệnh việnác nhận anh bị bệnh máu trắng, anh sợ Thu buồn, nên mới nói dối như thế để thu quên anh, để Thu sống hạnh phúc.

Thu hỏi cô y tá:

- Chị có biết anh Tân bị bệnh gì mà phải nằm viện không?

- Cô không biết à? Bị cảm nặng.

Thu thận trọng hỏi: “Tại sao em lại nghe nói anh ấy bị… bệnh máu trắng?

- Bệnh máu trắng? – Cô Cao tỏ ra kinh ngạc thật sự. – Tôi không nghe nói, bệnh máu trắng thì không nằm ở chỗ chúng tôi. Điều kiện ở bệnh viện này không tốt, bệnh hơi nặng một chút là phải chuyển viện.

- Anh ấy ra viện hôm nào thế ạ?

Cô Cao suy nghĩ rồi nói:

- Ra viện phải hai tuần rồi, hôm ấy tôi đi làm ca ngày, mỗi tuần chúng tôi đổi ca một lần, đúng vậy, phải hai tuần rồi.

- Cuối tuần trước anh ấy có về lại bệnh viện không?

- Tôi không rõ, nhưng anh ấy mượn chìa khóa phòng tôi. Tôi còn có một chìa khóa nữa, trước khi đi anh ấy bỏ chìa khóa vào trong phòng rồi khóa ngoài, cho nên tôi không rõ cuối tuần trước aanh ấy có về đây không. Anh ấy mượn chìa khóa là để cho cô đến ở hay sao?

Thu không trả lời. Xem ra cuối tuần trước Ba đã chờ Thu ở đây. Có phải vì không thấy Thu đến nên anh đã hiểu nhầm mới viết lá thư này rồi về tỉnh A? Nhưng Ba không phải là con người một lần lỗi hẹn mà hiểu nhầm.

Thu không biết tại sao, ngồi ở đây cũng không thể gọi anh về được, Thu muốn đến đội Hai để tìm anh, nhưng hỏi thời gian, nhận ra bây giờ đã muộn, không còn xe đi Nghiêm Gia Hà, Thu đành cảm ơn cô Cao rồi rae về thành phố K.

Thu ngồi ở nhà, lòng vẫn không sao bình tĩnh nổi, Thu bực nhất vì không thể biết chân tướng sự thật. Không biết chân tướng sự thật khác nào trên sân bóng không có chỉ giới, không biết đứng đâu để nhận bóng, cũng không biết phát bóng đến tận đâu. Sự lo lắng đề phòng còn dễ sợ hơn trái bóng trúng vào trán cầu thủ. Thu buồn vô hạn, ai nói chuyện cũng làm Thu bực mình, tưởng như mọi người đang cố tình gây chuyện với Thu.

Thu có ba ngày nghỉ, nhưng sáng thứ Hai Thu đã lên đường về nông trường, nói dối mẹ vì cô giáo Lí mới đến, chưa quen việc, phải về sớm để giúp cô. Đến phố huyện K Thu xuống xe, lại đến bệnh viện huyện, đến phòng Ba đã nằm để xem. Tất nhiên Ba không ở đấy, thu biết điều đó, nhưng chỉ là để dự phòng ngộ nhỡ anh về đấy.

Thu lại đến văn phòng bệnh viện để hỏi thăm lí do Ba nằm viện, người ta bảo Thu đi tìm bác sĩ Tạ, khoa nội. Thu tìm thấy phòng của bác sĩ Tạ, Thu thấy một phụ nữ tuổi trung niên đang nói chuyện áo len với một nữ bác sĩ khác. Nghe nói Thu tìm, bà ta bảo Thu chờ ở cửa.

Thu nghe hai vị bác sĩ tranh luận mãi về một kiểu đan không lấy gì làm phức tạp, Thu liền bước vào, tự giới thiệu cách đan. Hai người phụ nữ khép cửa lại, lấy cái áo len ra, bảo Thu chứng thực lời mình nói. Thu nhanh tay đan, khiến cả hai người đều phục, bảo Thu viết cách đan ra một tờ giấy.

Hai nữ bác sĩ nghiên cứu một lúc, tin rằng mình đã hiểu, lúc này bác sĩ Tạ mới hỏi Thu có việc gì. Thu nói:

- Em muốn hỏi thăm anh Tôn Kiến Tân mắc bệnh gì mà phải nằm viện?

Thu nói rõ tâm trạng lo lắng của mình, sợ anh bị bệnh hiểm nghèo, lo Thu buồn nên tránh mặt. Nếu như vậy Thu sẽ tìm đến tỉnh A, sống với anh mấy tháng.

Hai nữ bác sĩ đều khen Thu. Bác sĩ Tạ nói:

- Tôi cũng không nhớ ai bị bệnh gì phải vào viện, để tôi kiểm tra giúp cô.

Nói xong, bà lục tìm trong tủ, lấy ra một cuốn sổ, mở ra xem nói:

- Vì cảm phải vào viện, được tiêm, uống thuốc, truyền nước trị cảm.

Thu không tin, nói:

- Đấy là cuốn sổ gì, chị có thể cho em xem được không?

Bác sĩ Tạ nói:

- Đây là cuốn sổ y lệnh, cô muốn xem thì xem, nhưng cô sẽ không hiểu gì đâu.

Thu có mấy ngày học y, cũng đã làm ở bệnh viện, tuy chưa học được gì, nhưng “y lệnh” thì Thu đã nghe nói, Thu cầm cuốn sổ xem, đúng là sổ y lệnh, đều là những chữ rồng bay phượng múa của bác sĩ, phần nhiều là chữ la tinh “như trên”, “như trên”. Thu lật giở tang trước, tìm thấy y lệnh khi Ba mới vào viện, nhận thấy tên thuốc penicilin, truyền nước đường vào tĩnh mạch, xem ra đúng là bị cảm.

Từ bệnh viện ra, tâm trạng Thu vô cùng phức tạp. Ba bị cảm, Thu mừng cho anh, nhưng anh để lại bức thư rồi biến mất, khiến Thu khó hiểu. Thu xuống xe ở Nghiêm Gia Hà, không cần suy nghĩ gì cứ thế đến trường trung học tìm Phương. Bất kể Phương đang trên lớp, Thu đứng ở cửa sổ vẫy tay gọi, thầy giáo đang giảng bài chạy ra hỏi Thu có chuyện gì, Thu bảo tìm Phương, thầy giáo bực mình vào lớp gọi Phương ra.

Phương rất ngạc nhiên:

- Tại sao lúc này chị đang ở đây?

Thu nói với giọng trách móc:

- Tại sao hôm ấy Phương bảo anh của Phương nằm viện? Rõ ràng là anh ấy…

- Phương anh ấy là anh cơ mà?

- Phương bảo anh ấy bị bệnh, nhưng bệnh viện nói không phải. Ai bảo với Phương anh ấy bị bệnh hiểm nghèo?

Phương do dự giây lát rồi nói:

- Chính anh ấy bảo, Phương không nói dối, chị Thu có tin hay không là việc của chị.

- Anh ấy về tỉnh A rồi, Phương có biết không?

- Có nghe nói. Thế nào, chị định đến tỉnh A tìm anh ấy à?

- Thu không biết địa chỉ của anh ấy ở tỉnh A, biết tìm anh ấy ở đâu? Phương có địa chỉ của anh ấy không?

Phương như tự trách mình:

- Phương làm sao có địa chỉ của anh ấy? Ngay cả chị anh ấy cũng không nói, làm sao cho Phương biết? Phương không hiểu hai người làm chuyện gì?

- Bọn mình không làm chuyện gì, chỉ lo anh ấy bị bệnh máu trắng, nhưng anh ấy không muốn để Thu phải lo lắng nên mới trốn về tỉnh A.

- Phương không tin. Anh ấy về tỉnh A thì chị Thu không lo à? Chị càng lo hơn ấy chứ.

Thu nghĩ cũng phải. Thu hỏi, tỏ ra khó hiểu:

- Theo Phương thì tại sao anh ấy về tỉnh A?

Phương có phần bực mình:

- Chị Thu hỏi Phương, Phương hỏi ai? Cho nên Phương nói, không biết hai người làm cái trò gì là vậy.Thu khẩn khoản:

- Phương có biết đội Hai ở đâu không? Phương có thể đi với Thu được không? Thu muốn đến đấy xem sao, Thu sợ anh ấy ở đấy, tránh không muốn gặp Thu.

Phương nói:

- Phương đang lên lớp, bảo chị Thu địa chỉ, chị đi tìm, gần thôi, Phương chỉ chỗ cho chị.

Theo chỉ dẫn của Phương, Thu tìm đến nơi đội Hai đang làm việc, cách Nghiêm Gia Hà hơn một cây số, chả trách gì Ba nói đến giờ nghỉ trưa anh lại lên phố Nghiêm Gia Hà chơi. Thu hỏi thăm những người đang làm việc, mọi người đều nói Ba được điều về tỉnh A rồi, bố anh ta làm quan to, đã thu xếp công việc cho anh ấy, đâu có giống chúng tôi không có ô dù, suốt đời phải đi dã ngoại.

Thu hỏi:

- Các anh có nghe nói… anh ấy bị bệnh hiểm nghèo gì không?

Mọi người nhìn nhau:

- Cậu ấy bị bệnh hiểm nghèo à? Tôi thấy cậu ấy rất khỏe, có thể đánh chết cả hổ ý chứ.

Một anh khác nói:

- Ôi, cậu chỉ nói mò, cậu ấy bị bệnh, phải nằm bệnh viện huyện…

Người thứ ba nói:

- Cậu ấy có ô dù, không muốn đi làm, trốn vào bệnh viện ít hôm, ai mà chả biết gái phố huyện xinh đẹp.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

58#
Đăng lúc 19-6-2013 09:28:50 | Chỉ xem của tác giả

Chương 42




THU NHẮM MẮT nhưng không ngủ, trong đầu chỉ nghĩ sẽ hỏi anh vào lúc nào.

Thu hé mắt nhìn xem anh đã ngủ chưa. Vừa hé mắt thì thấy anh đang nhìn mình, mắt anh đẫm lệ. Thấy Thu bỗng mở to mắt, anh quay mặt đi, lấy khăn lau mắt, giải thích:

-Vừa rồi… nhớ lại cảnh Bạch Mao nữ ngủ, ông Dương Bạch Lao hát “Hỉ Nhi, Hỉ Nhi, con ngủ đi, con đâu có biết cha đang nợ nần…”

Anh thôi không hát tiếp. Thu từ trong chăn vùng dậy, ôm lấy anh, nói khẽ:

-Anh…bảo với em… có phải anh bị… bệnh máu trắng?

-Bệnh máu trắng? Ai… ai bảo?

-Phương.

Chừng như anh rất kinh ngạc:

-Cô ấy… nói à? Cô ấy…

-Bất kể là ai nói, anh bảo với em, em muốn biết, anh càng giấu em càng không yên tâm, đi đường suýt đụng xe. Anh nói thật với em, để em biết… thế nào…

Anh suy nghĩ hồi lâu, cuối cùng cũng gật đầu, nước mắt chảy tràn. Thu giúp anh lau nước mắt. Anh nói như xin lỗi:

-Anh không giống con trai phải không? Em có lần nói, con trai ít khóc.

Thu giải thích:

-Đấy là em nói… con trai không khóc trước mặt người ngoài, em không phải là người ngoài.

-Thật ra anh không sợ chết, chỉ là… không muốn chết, muốn được hàng ngày ở bên em.

-Chúng ta sẽ được ở bên nhau, em sẽ không để anh đi một mình, em sẽ đi với anh, cho dù đến thế giới nào, em cũng sẽ đi với anh, anh đừng sợ.

Anh sững sờ:

-Em đang nói gì thế? Em đừng nói dại nữa. Anh không dám nói thật với em chỉ sợ em làm chuyện dại dột. Anh không muốn em đi với anh. Em phải sống, anh sẽ không chết đâu. Nhưng nếu như em chết, anh cũng sẽ… chết. Em có hiểu không? Em nghe thấy không?

-Em hiểu, “em chết, anh cũng sẽ… chết”, cho nên em theo anh.

Anh vội nói:

-Anh muốn em sống, sống vì hai ta, giúp anh sống, qua em để được thấy thế giới này, qua trái tim em để cảm nhận thế giới này. Anh muốn… lấy em, sinh con, hai ta sống bên con, con lại có con, chúng ta sẽ không bao giờ chết. Cuộc sống là đời nọ kế tiếp đời kia…

-Chúng ta có… con được không>

-Chúng ta không có con, nhưng em có con, em có cũng như anh có. Em sẽ sống rất lâu rất lâu, em sẽ lấy chồng, làm mẹ, sau đấy làm bà, em sẽ có con, có cháu. Rồi nhiều năm sau em sẽ kể chuyện anh cho các con, các cháu nghe, em đừng nói tên anh, chỉ cần nói một người em đã yêu, như thế là đủ. Anh nghĩ… đến ngày ấu mới có đủ dũng cảm… đối mặt… với hiện tại. Nghĩ đến ngày ấy anh cảm thấy chỉ là… đến một nơi khác, ở đấy thấy em… sống hạnh phúc.

Chợt anh phát hiện Thu chỉ mặc mỗi áo len và quần len ngồi ngoài chăn, vội nói:

-Em vào chăn đi, coi chừng bị cảm lạnh.

Thu chui vào chăn, nói với anh:

-Anh… cũng vào chăn đi nào.

Anh suy nghĩ giây lát rồi cởi áo ngoài, chỉ mặc áo len và quần len, chui vào chăn, đưa một cánh tay ra cho Thu gối đầu. Cả hai cùng run rẩy, anh nói:

-Em đừng sợ, anh không làm gì đâu.

Thu nằm trong lòng anh, đầu gối lên tay anh, nghe trái tim anh đang đập dồn dập,

-Tim anh có nhảy ra khỏi cổ họng được không?

-Ôi, anh không nghĩ… có thể cùng em ngủ chung giường, anh cho rằng… trong đời không có cơ hội này. –Anh nằm nghiêng, ôm chặt lất Thu. –Mong ngày nào cũng được như thế này.

-Em cũng mong đuọc như thế này.

-Anh ôm em, em có ngủ được không?

Thấy Thu gật đầu, anh nói:

-Em ngủ đi, cứ yên tâm ngủ.

Thu nhắm mắt, nhưng không ngủ nổi. Thu rúc đầu vào cổ anh, dùng tay “đọc” khuôn mặt anh. Bỗng anh hỏi:

-Em… có muốn xem… con trai thế nào không? Anh nói… có muốn xem anh không? Muốn xem… anh cho xem.

Thu hỏi:

-Anh đã cho ai xem chưa? -Thấy anh lắc đầu, Thu lại hỏi: -Anh… đã thấy… con gái chưa?

Anh lại lắc đầu, tự chế giễu:

-Có thể chết cũng không nhắm được mắt. –Nói xong anh bắt đầu lần mò cởi áo quần trong chăn, vừa cởi vừa nói: -Anh cởi ra cho em xem nhé, nhưng em đừng sợ, anh không làm gì em đâu, anh chỉ muốn… hoàn thành một tâm nguyện…

Anh ném quần áo ra ngoài chăn, sau đấy kéo tay Thu, để lên ngực:

-Em dùng tay để xem… -Anh nắm tay Thu di động trên ngực. –Anh có gầy lắm không? –Anh đưa tay Thu xuống bụng dưới rồi buông ra. –Tự em xem dần…

Thu không dám động tay, biết nếu dịch xuống dưới là cái ấy của đàn ông. Thu đã thấy của trẻ con, chúng đi tiểu không cần che giấu, Thu trông thấy chúng đứng phướn bụng, ra sức kéo, kéo thành một đường cong. Thu còn trông thấy cái ấy của đàn ông trên hình vẽ treo trong phòng châm cứu, nhưng không dám nhìn kỹ.

Thấy Thu để yên, anh nắm tay Thu d xuống dưới, tay Thu chạm vào đám lông, giật mình hỏi:

-Đàn ông cũng… có lông à?

Thu thấy trên hình vẽ huyệt vị đàn ông trong châm cứu không có lông.

Anh cười:

-Em nghĩ… chỉ nữ mới có thôi à?

Thu càng ngạc nhiên:

-Tại sao anh biết?

-Đấy là điều thường thức, trong sách có nói.

Anh ấp tay Thu vào chỗ vừa nóng vừa cứng của anh.

Thu hốt hoảng:

-Anh sốt đấy à? Lại sưng to?

Anh lăc đầu, nói như rên rỉ:

-Em… đừng sợ, anh không sao, nó có thể như thế, chứng tỏ anh… chưa chết. Em… nắm chặt lấy nó, nó… thích em nắm chặt…

Thu nắm chặt, tay Thu rất bé, chỉ năm được một phần, Thu nhẹ nhàng bóp, nó tuột ra, anh run lên. Thu nói:

-Hình như nó không thích em nắm, nó trườn khỏi tay…

-Nó thích, không phải trườn, mà nó nhảy… Em có nhớ lần chúng ta bơi ở song không? Anh thấy em mặc đồ bơi, nó như thế đấy, anh sợ em trông thấy, nên cố chìm xuống nước để tránh…

Chừng như Thu đã hiểu ra nhiều chuyện, hỏi tiếp:

-Lần ấy… anh cõng em qua sông, nó cũng như thế

Thấy anh nhắm mắt, gật đầu, Thu lại hỏi:

-Nhưng lần ấy em không mặc… đồ bơi, sao nó lại…

Anh cười, bỗng ôm chặt Thu, hôn lên khuôn mặt Thu, chừng như cuồng loạn nói với Thu.

-Anh chỉ cần đụng vào người em, trông thấy em, nghĩ đến em, nó sẽ như thế, nắm chặt lấy nó, đừng sợ…

Thu không hiểu anh đang nói gì thì cảm thấy lòng bàn tay nóng lên, hình như toàn thân anh đang co giật. Thu nghĩ, có thể mình nắm nó quá chặt, Thu buông lòng bàn tay, nhưng tay Thu bị anh nắm chặt, không buông ra nổi. Thu đành dùng một cánh tay khác ôm lấy anh, cảm thấy lung anh ướt như mưa, mồ hôi đầm đìa. Thu vội hỏi:

-Anh không sao chứ? Anh có khó chịu không? Có cần gọi bác sĩ không?

Anh lắc đầu, một lúc sau mới nói:

-Anh không sao. Tuyệt lắm… vừa rồiay lên miền cực lạc trên bầu trời, em làm anh bay lên… anh bay lên với em. Anh muốn đưa anh bay lên, nhưng… đôi cánh anh đã gãy, không thể đưa em bay lâu hơn… -Anh lấy khăn lau tay cho Thu. –Em có thấy buồn nôn không? Đừng sợ, cái ấy không bẩn đâu… đấy là cái… làm em bé…

Thu cũng lấy cái khăn gối lau lưng, lau người cho anh, cảm thấy “nó” là cái vòi nước trên người anh, chỉ khẽ vặn là toàn thân anh đẫm nước, khiến chăn cũng ướt. Thu lật lại chăn, sau đấy cũng như anh vừa rồi, đưa một cánh tay cho anh làm gối. Anh co người, nằm trong lòng Thu, dáng vẻ mệt mỏi. Thu cảm thấy đầu tóc anh cũng ướt, biết rằng vừa rồi anh bay rất mệt, Thu đau lòng ôm chặt anh, để anh ngủ. Thu nghe thấy nhịp thở đều đều khe khẽ của anh, Thu cũng chìm vào giấc ngủ.

Ngủ một lúc, hơi ấm đánh thức Thu dậy, anh nằm trong lòng như cái lò than hồng. Thu nghĩ, hai người ngủ với nhau thật tuyệt vời, một người ngủ không ấm, chân không dám duỗi thẳng. Lúc này Thu thấy nóng hầm hập, áo len quần len như kim châm toàn thân, cái nịt ngực kiểu áo lót cũng bó chặt khiến Thu không thoải mái. Mẹ dặn Thu, lúc ngủ nên cởi cúc nịt ngực, nịt chặt quá sẽ bị ung thư vú. Thu muốn cởi áo len, quần len, cởi cả cúc nịt ngực, nhưng lại sợ làm anh tỉnh giấc. Đang do dự thì anh mở mắt, hỏi:

-Em… chưa ngủ à?

-Em ngủ rồi, nóng quá, muốn cởi áo len.

Thu mò mẫm cởi áo len, hỏi:

-Anh có muốn xem em không? Anh nói… anh chưa được xem con gái mà? Anh nói, chết không nhắm mắt được đấy thôi? Em cởi cho anh xem…

-Em đừng thế, anh chỉ nói vậy thôi, người chết nhắm được mắt hay không đều như nhau cả.

-Anh không muốn xem em à?

-Tại sao không? Ngày nào cũng nghỉ, lúc nào cũng nghĩ, nghĩ đến nát óc. Nhưng anh…

Cũng như anh vừa nãy, Thu ném tất cả áo quần lên mặt chăn, rồi cầm tay anh để lên ngực mình:

-Anh cũng dùng tay để xem.

Anh như bị lửa đốt, rụt tay khỏi ngực Thu:

-Đừng… đừng thế, anh … anh sợ mình sẽ… không kìm giữ nổi…

-Không kìm giữ nổi

-Không kìm giữ nổi… làm cái chuyện… vợ chồng với em.

-Thì cứ làm.

Anh lắc đầu:

-Sau này em còn lấy chồng, lấy người khác, anh phải giữ trọn vẹn cho… chồng em.

Thu nói rất kiên quyết:

-Em không lấy ai, chỉ lấy anh. Anh đi, em sẽ đi theo, anh làm gì, em sẽ theo làm nấy. Nếu không, anh chết không nhắm mắt, em cũng vậy.

Anh suy nghĩ một lúc, dùng một cánh tay ôm Thu, tay kia chầm chậm “xem” Thu. Thu cảm thấy như bị điện giật, những nơi tay anh chạm đến đều có cảm giác buồn buồn, cả da đầu cũng buồn buồn. Một bàn tay anh ép hai đầu vú của Thu vào giữa, muốn nắm lấy, nhưng ép đi ép lại vẫn không nắm được cả hai. Toàn thân Thu mềm nhũn, phía dưới hình như có gì đó chảy ra, Thu hoảng hốt:

-Ối ối, hình như… đến, đừng làm dây bẩn ra giường.

Anh vùng dậy, không mặc quần áo, chạy đi lấy giất vệ sinh cho Thu, nói:

-Nếu không đủ, sáng mai cửa hàng mở cửa anh đi mua thêm.

Thu nhìn khăn trải giường, không thấy đỏ, vội lấy giấy vệ sinh lau mình, cũng không thấy đỏ, chỉ có gì đó như nước. Thu nói như xin lỗi:

-Em nhầm, tuần trước vừa có.

Không nghe thấy anh trả lời, Thu ngước lên, thấy anh khỏa thân đứng kia, đang nhìn Thu cũng khỏa thân. Thu thấy toàn thân anh, chợt Thu nghĩ, anh cũng nhìn thấy toàn thân mình, Thu vội chui ngay vào chăn, toàn thân run rẩy.

Anh cũng theo vào chăn, ôm Thu, thở hổn hển:

-Em… đẹp lắm, phát dục rất đẹp. Em nằm nghiêng trông như nữ thần trong thần thoại Hi Lạp vậy. Tại sao em không thích chỗ này lớn? Nó cao lên thế nàu mới đẹp.

Anh ôm chặt Thu, miệng lẩm bẩm:

-Rất muốn đưa em bay…

-Anh đưa em bay đi!

Anh khẽ thở dài, rất thận trọng nằm lên người Thu…

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

57#
Đăng lúc 19-6-2013 09:26:50 | Chỉ xem của tác giả

Chương 41





THU VỀ ĐẾN NHÀ bận thu xếp vài thứ cần thiết phải đem đi, lúc này mới nhớ ra đã muộn, không còn ô tô đến phố huyện K, đành chờ đến mai.

Nằm trên giường, Thu bắt đầu sử dụng tuyệt chiêu: chuẩn bị tư tưởng cho trường hợp xáu nhất. Không biết có phải bệnh viện chuẩn đoán sai, nhưng ý nghĩ vẩn vơ của Thu lúc bay lên đỉnh cao hi vọng, lúc lại rơi xuống vực sâu tuyệt vọng, nỗi đau cứ bay lên rồi rơi xuống.

Lúc này Thu không nghĩ như vậy nữa, mà cho rằng bệnh viện huyện không chuẩn đoán sai, vậy thì phải thế nào? Tức là Ba bị bệnh máu trắng. Tức là bị bệnh máu trắng, không sống được bao lâu. Vậy thì sống được bao lâu? Một lần nữa, Thu lại chuẩn bị tư tưởng cho những trường hợp xấu nhất, tức là anh chỉ sống nổi nửa năm. Lúc này có thể đã hết một phần của nửa năm, coi như chỉ sống trên dưới ba tháng nữa.

Thu nhớ lại, hồi mẹ phải mổ u tử cung, Thu vào viện chăm sóc mẹ, lúc ấy mới mười bốn tuổi, nằm cùng phòng có một bệnh nhân ung thư buồng trứng ở giai đoạn cuối, mọi người vẫn gọi là bà Tào, người gầy như quỷ đói, đêm nào cũng rên la làm cả phòng không ai ngủ nổi.

Một hôm, người nhà bà Tào đón và ra viện, bà tươi cười vui vẻ cùng người nhà xuất viện. Thu rất phục bà ta, cho rằng bà đã khỏi bệnh, trở thành người đầu tiên trong phòng được xuất viện. Về sau mới nghe người năm cùng phòng nói, bà ấy về nhà để chờ chết.

Bác sĩ nói với con gái bà Tào:

-Mẹ của cô không khỏi được, gia đình không có bảo hiểm y tế, đừng làm cho gia đình khuynh gia bại sản. Cô đưa mẹ về, để mẹ muốn ăn gì thì ăn, muốn mặc gì thì mặc, muốn đi đâu chơi thì cho mẹ đi chơi.

Về sau có ai tỏ ra buồn bã về bệnh tật, mọi người lại lấy tấm gương bà Tào ra động viên:

-Bệnh của bà đâu có nặng như của bà Tào? Bà vần còn ở bệnh viện đấy, nếu bệnh nặng thì bệnh viện đã khuyên về nhà chờ chết rồi.

Cho nên nằm viện coi như còn hạnh phúc, nằm “chờ sống”, chỉ đến khi bệnh viện khuyên về mới coi như hết đường cứu chữa, đi.

Lúc này Ba đang nằm viện, chứng tỏ vẫn đang “chờ sống”. Nếu một ngày nào đó bệnh viện bảo anh về, Thu sẽ nói với mẹ đón anh về nhà mình. Mẹ vẫn quý ba, chỉ sợ người khác nói, sợ gia đình anh không đồng ý, sợ hai người làm chuyện gì đó. Nhưng nếu biết Ba còn sống nổi ba tháng, sẽ không có ai nói gì, gia đình anh có đồng ý hay không cũng mặc, mà cũng không xảy ra chuyện gì, chắc chắn mẹ không sợ.

Thu sẽ chăm sóc anh, anh muốn ăn gì thì ăn, muốn mặc gì thì mặc, anh muốn đi đâu chơi Thu sẽ đưa anh đi. Lần trước Ba để lại tiền cho Thu, gần bốn trăm đồng, như vậy cũng bằng tiền lương một năm của Thu rồi, Thu chưa dùng đồng nào, số tiền đó có thể thỏa mãn mọi nhu cầu cảu Ba.

Chờ đến lúc Ba đi, Thu sẽ đi theo Ba. Thu biết nếu mình chết, chắc chắn mẹ rất buồn, nhưng nếu Thu không chết, chắc chắn Thu sống còn buồn hơn chết và mẹ càng buồn hơn. Thu nghĩ, đến lúc ấy sẽ nói rõ với mẹ, để mẹ biết chết đôi với Thu là con đường tốt nhất, như vậy mẹ sẽ không quá buồn. Dù sao thì anh trai của Thu đã được về thành phố, có thể chăm sóc mẹ và em gái. Bố tuy vẫn còn phải đội cái mũ thành phần địa chủ, nhưng đã được điều về dạy ở trường tiểu học của đại đội sản xuất. Trong thời gian này tâm trạng mẹ rất thanh thản, cuộc sống so ới trước khá hơn, bệnh đi tiểu ra máu không điều trị nhưng đã thuyên giảm. Không có Thu cuộc sống gia đình cũng có thể ổn.

Như vậy Thu có thể sống với Ba ba tháng, sau đấy cùng anh sang một thế giới khác, vĩnh viễn bên nhau. Chỉ cần được sống với anh, ở thế giới nào cũng mặc lòng, đều như nhau, sống bên nhau là đủ.

Thu nghĩ, cho dù sự việc phát triển thế nào thì cũng xấu đến mức ấy, cho dù Ba chỉ sống được ba tháng nữa, biết đâu chuẩn đoán của bệnh viện huyện là sai, vậy có thể sống được một đời.

Thu nghĩ đến tất cả những trường hợp ấy, cảm thấy yên tâm, giống như một vị tướng bày mưu tính kế, bài binh bố trận, mọi đường tiến thoái đều đã được xếp đặt cẩn thận, không còn gì phải lo lắng.

Hôm sau, Thu dậy sớm, bảo với mẹ phải về nông trường. Mẹ hơi ngạc nhiên, nhưng Thu nói nông trường đã bố trí như vậy, chỉ bảo Thu về thu tiền, hôm sau nhất định phải về. Thu nói:

-Mẹ không tin có thể đến hỏi thầy Trịnh.

Thấy Thu nói vậy, tất nhiên mẹ tin, nói:

-Tại sao mẹ không tin con? Mẹ… chỉ muốn con ở nhà nghỉ ít hôm.

Thu ra bến xe, mua vé, rồi vào nhà vệ sinh mặc cái áo mới máy. Thu đoán, Ba sẽ chờ ở bến xe, cho nên Thu phải mặc trước, để anh lần đầu trông thấy vải áo do anh mua. Thu phải thỏa mãn yêu cầu của anh, đừng nói gì anh bảo mặc, anh bảo cởi ra Thu cũng cởi ra cho anh ngắm.

Quả nhiên Ba chờ Thu ngoài bến xe, anh mặc cái áo dạ đen, nhưng bên ngoài k cái áo bông quân phục. Nếu không biết anh ốm, Thu cũng sẽ không thể biết anh là người “chờ chết”. Thu quyết định không nói gì đến bệnh trạng của anh, vờ như không biết gì, tránh để anh buồn.

Anh thấy Thu, vội đi tới cầm cái bọc trong tay Thu, nói ngay:

-Mặc rồi à? Đẹp lắm, em may nhanh đấy nhỉ. Em nên đi làm thợ may.

Thu không muốn để anh xách đồ, sợ anh mệt, nhưng Thu ý thức được nếu không để anh mang đồ, chứng tỏ Thu đã biết anh là một bệnh nhân, cho nên Thu để anh giúp. Anh không dám dắt tay Thu, nhưng đi gần bên nhau, lúc đến một cửa hàng, anh bảo Thu đứng chờ ở cửa, anh chỉ vào cửa kính, nói:

-Em có thấy đẹp không?

Thu trông thấy hai người, anh đứng hơi nghiêng, mỉm cười, cảm giác rất khỏe mạnh, rất trẻ trung. Thu nghe nói, nếu soi vào gương thấy ai đó có cái đầu lâu chứng tỏ người ấy sắp chết. Thu chú ý nhìn, không thấy trên đầu anh có đầu lầu. Thu lại quay sang nhìn người anh, đúng là có cảm giác khỏe mạnh, trẻ trung. Thu nghĩ, có thể bệnh viện chuẩn đoán sai, một bệnh viện nhỏ của huyện biết gì về bệnh máu trắng?

Anh hỏi:

-Ngày mai em về nông trường à?

Thấy Thu gật đầu, anh vui mừng nói:

-Vậy em… có thể ở lại đây một ngày một đêm?

Thu lại gật đầu. Anh cười nói:

-Anh lại một lần nữa tiên tri tiên giác, mượn phòng của chị Cao, y tá bệnh viện, tối nay em có thể ngủ ở đấy.

Anh đưa Thu đến cửa hiệu bách hóa lớn nhất huyện, mua khan mặt, bàn chải răng, chậu rửa mặt, tưởng như sẽ ở đấy lâu dài. Sau đấy đến sạp bán trái cây mua trái cây, đến quầy thực phẩm mua thức ăn. Anh mua gì Thu cũng không ngăn, để anh muốn mua gì thì mua.

Sau khi mua rất nhiều thứ, anh nói:

-Chúng ta mang những thứ này về trước, sau đấy đi đâu đó chơi, anh sẽ đưa em đi. Em có muốn đi xem phim không?

Thu lắc đầu, không muốn đi đâu. Thu thấy anh mặc mọi người, nghĩ bụng cuối cùng thì anh ốm thật rồi, sợ lạnh, vậy là Thu nói:

-Anh bảo, anh mượn phòng của ai đó rồi cơ mà? Chúng ta về đấy chơi, ngoài trời lạnh lắm.

-Em… có muốn đi xem cây sơn tra không?

Thu lại lắc đầu:

-Thôi anh ạ, bây giờ hoa chưa nở, chúng ta về chỗ ấy chơi, để lúc khác đi xem.

Thấy anh không trả lời, Thu nghĩ, phải chăng anh biết sẽ không sống được bao lâu, muốn thực hiện những lời đã hứa lúc còn sống? Thu chợt cảm thấy không rét mà run, rất thận trọng nhìn anh, phát hiện anh cũng đang nhìn mình.

Anh quay mặt đi, nói:

-Em nói đúng, để sau này, lúc nào hoa nở hãy đi xem.

Anh lại đưa ra mấy nơi, nhưng Thu đều không hứng thú, vẫn kiên

-Chúng ta về căn phòng của chị y ta ngồi chơi cho ấm áp.

Hai người về bệnh viện, anh đưa Thu đến căn phòng của cô y tá Cao. Đó là một căn phòng nhỏ trên tầng hai, có một chiếc giường cá nhân, trên trải khăn trải giường trắng của bệnh viện, chăn cũng giống như chăn của phòng bệnh, vỏ chăn bọc ruột bông.

Anh giải thích:

-Chị Cao ở ngay phố huyện, đây chỉ là chỗ ngủ mỗi lần trực đêm, chị ấy ít khi ngủ lại đây. Chăn đệm trên giường mới thay hôm qua, rất sạch sẽ.

Trong phòng chỉ có một cái ghế, Thu ngồi lên giường. Anh đi rửa trái cây, lấy nước nóng, bận rộn một lúc rồi mới ngồi vào ghế, gọt trái cây cho Thu ăn. Thu thấy vết thương trên mu bàn tay trái của anh dài chừng ba phân, Thu hỏi:

-Đây là vết thương lần trước phải không?

Anh cùng Thu nhìn vào mu bàn tay trái của mình, nói:

-Ừ, có

-Không xấu. Lần ấy anh thật nhanh tay, chỉ loáng một cái…

-Chỉ vì cắt một nhát nên bệnh viện ấy mới báo cho anh đi kiểm tra. –Hình như anh nhận ra mình đã lỡ lời, lập tức dùng lại, nói sang chuyện khác: -Thông báo cho anh đến thay thuốc. Có vết sẹo này rồi coi như có dấu vết, không thể mất được. Em có dấu vết riêng gì không, bảo anh để anh tìm em cho dễ?

Thu định hỏi, đi đâu tìm em? Nhưng Thu không dám hỏi, trong đầu óc hiện lên một cảnh tượng mà Thu thường xuyên mơ thấy: bốn bề sờng mù giăng giăng, anh và Thu lần mò tìm nhau. Thu không biết tại sao lại rất muốn gọi tên anh nhưng không thể cất tiếng nổi, nhìn xung quanh cũng không thấy rõ, tất cả đều mờ mịt. Còn anh thì gọi “Thu ơi, Thu ơi” ở tận đâu đâu, Thu đi tìm theo tiếng gọi chỉ thấy bóng anh bị bao phủ trong sương mù.

Bỗng Thu nhớ ra, đấy là tình cảnh hai người sau khi chết, cảm thấy sống mũi cay nồng, vội hít thở thật sâu, nói:

-Em có cái bớt đỏ ở sau gáy, tóc che kín không trông thấy.

Anh nói:

-Có thể

Thu vén tóc, chỉ cho anh xem cái bớt. Anh vạch tóc Thu, xem rất lâu. Thu quay lại, thất mắt anh đỏ hoe, vội hỏi:

-Anh sao thế?

Anh nói:

-Không sao. Anh nằm mơ chỉ thấy sương mù bao phủ, không trông thấy rõ. Trông thấy một bóng người giống em, anh gọi “Tĩnh Thu, Tĩnh Thu” nhưng người kia quay lại hóa ra không phải em. –Anh cười. –Sau này biết cách tìm em rồi, chỉ cần vạch tóc ra là thấy dấu vết.

Thu hỏi:

-Tại sao anh cứ gọi Tĩnh Thu? Chúng em ở đây chỉ thịch gọi tên không, không gọi tên đệm.

-Anh thích hai tiếng Tĩnh Thu. Nghe thấy cái tên ấy cho dù một chân anh đã bước xuống huyệt, anh cũng cố rút chân lên để nhìn em.

Thu lại thấy sống mũi cay nồng, quay đi nhìn chỗ khác

An him lặng một lúc rồi nói:

-Em kể chuyện hồi nhỏ, kể chuyện nông trường của em cho anh nghe đi nào, chuyện gì anh cũng nghe.

Thu kể chuyện hồi nhỏ, kể chuyeenjn nông trường hiện tại. Thu cũng đòi anh kể chuyện hồi nhỏ, chuyện gia đình anh. Ngày hôm ấy như để hai người kể chuyện cho nhau nghe, buổi trưa lấy cơm ở nhà ăn bệnh viện về, buổi tối hai người đi nhà hàng. Ăn xong trời đã muộn, ngoài đường vắng vẻ, hai người dắt tay nhau đi dạo phố huyện. Lúc về trời đã tối hẳn, anh đi lấy mấy bình nước nóng để Thu rửa mặt, rửa chân.

Anh ra ngoài, Thu rửa vội, nhưng không biết đổ nước đi đâu, đành phải chờ anh về hỏi. Một lúc sau anh đem về cái bô của bệnh viện, bảo trên lầu này không có nhà vệ sinh, buổi tối Thu dùng tạm. Mặt Thu đỏ tưng bừng, nghĩ bụng, chắc chắn anh nghe chuyện ở nông trường đi nhà vệ sinh phải cầm búa theo, biết nửa đêm Thu cần đi vệ sinh.

Anh bưng chậu nước Thu vừa rửa mặt, rửa chân ra ngoài, Thu vội gọi anh lại:

-Đấy là nước em rửa chân.

Anh đứng lại, hỏi:

-Thì sao? Em còn dùng nữa à? Anh đổ đi rồi lấy nước sạch vào cho em.

-Không, em… ở quê em nam giới không bưng nước rửa chân của con gái đi đổ, như vậy sẽ không có tiền đồ… -Thu nói.

Anh cười:

-Em tin điều ấy à? Anh không cần tiền đồ, chỉ cần cả đời đổ nước rửa chân cho em thôi. –Nói xong anh đi ra ngoài, một lúc sau anh mang cái chậu không vào.

Anh đóng cửa, hỏi:

-Sao em không ngồi vào trong chăn kia đi? Chân trần đứng một lúc sẽ bị lạnh đấy.

Nói xong, anh rũ chăn, trải ra, vén một góc, bảo Thu ngồi vào. Thuy suy nghĩ, rồi mặc cả áo ngồi lên đầu giường, kéo chăn đắp kín chân.

Anh nhích cái ghế đến gần giường, ngồi xuống. Thu hỏi:

-Đêm nay anh ngủ đâu?

-Anh về phòng bệnh.

Thu do dự giât lát, hỏi:

-Tối nay anh… không về phòng bệnh có được không?

-Em bảo anh không về, anh sẽ không về.

Hai người nói chuyện một lúc, anh nói:

-Muộn rồi, em ngủ đi, hôm nay ngồi xe mệt, ngày mai lại phải ngồi xe tiếp, ngủ sớm một chút.

-Còn anh?

-Anh có ngủ hay không cũng không sao. Dù sao thì ngày mai anh vẫn có thể ng

Thu cởi áo ngoài, chỉ mặc áo len và quần len, chui vào nằm trong chăn.

Anh đắp chăn cho Thu, vỗ vỗ ngoài chăn, nói:

-Ngủ đi, anh canh cho em ngủ.

Anh ngồi ở ghế, khoác cái áo bông quân đội.

Đây là lần đàu tiên Thu qua đêm trong cùng một căn phòng với nam giới, nhưng hình như Thu không sợ. Xem ra Mao Chủ tịch nói cói lí: “Người Trung Quốc không sợ chết, lẽ nào sợ khó khăn?” Lúc này Thu đã chuẩn bị chết, vậy còn sợ gì nữa? Ai nói gì mặc ai. Cho dù người khác nói đến méo cả miệng thì Thu cũng mặc kệ họ.

Nhưng Thu sợ phải hỏi anh chuyện ấy, Thu muốn hỏi có phải anh bị bệnh máu trắng không, nếu đúng, ngày mai Thu về nông trường nói với thầy Trịnh rồi sẽ trở lại đây chăm sóc anh. Nếu anh chỉ bị cảm, vậy Thu lại về nông trường làm việc, chờ đến ngày nghỉ sẽ đến thăm anh.

Suốt cả ngày hôm nay Thu không dám hỏi câu ấy.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách