Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Xem: 4104|Trả lời: 21
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Chỉ Gọi Tên Em | Thái Trí Hằng [Hoàn]

[Lấy địa chỉ]
Tác giả
Đăng lúc 17-6-2013 17:24:40 | Xem tất
MOD cho mình type tiếp truyện này nhé :D tranh thủ kiếm xèng, hehe
Cơ mà đọc đoạn đầu của truyện cũng thấy có vẻ lạ lạ, hấp dẫn, nên mình sẽ type nốt các chương còn lại
Thanks MOD nha ^^

Bình luận

Hic, mình ko tìm được nguồn repost, các nguồn đều chặn hết, nên h mình sẽ type, truyện cũng ngắn ^^  Đăng lúc 17-6-2013 09:29 PM
tớ repost  Đăng lúc 17-6-2013 08:54 PM
Bạn type hay là repost thế bạn? Vì chủ thread này đăng kí type, bạn cho tớ biết để tớ còn đặt màu :)  Đăng lúc 17-6-2013 06:22 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Sofa
Đăng lúc 17-6-2013 22:37:51 | Xem tất
Bổ sung chú thích cho chương 1 :
[1] Nãi Nãi : nghĩa là “ấm áp”
[2] Lương Lương: nghĩa là “mát mẻ”


CHƯƠNG 2



Sáng ngày hôm sau, dùng xong bữa sáng, mọi người lên đường tới Tử Cấm Thành.

Mấy sinh viên Bắc Kinh cùng đi đều là người tỉnh ngoài đến Bắc Kinh học, nhưng hầu như đều đã tới Tử Cấm Thành nên rất quen thuộc với nơi này.

Giáo viên chỉ nói giờ và địa điểm tập trung rồi rút lui để sinh viên Bắc Kinh dẫn sinh viên Đài Loan đi thăm quan.

Vừa bước vào Ngọ Môn, phản ứng đầu tiên của tất cả các sinh viên đều là phấn khích bắt chước theo mấy vị hoàng đế trong phim tức giận hét lớn: Lôi ra Ngọ Môn chém đầu!

Tuy cũng có người giải thích rằng lôi ra Ngọ Môn chỉ có ý không muốn làm ô uế Tử Cấm Thành, thực tế pháp trường nằm ở chỗ khác kia.

Thế nhưng không thể phủ nhận, ấn tượng Ngọ Môn để lại trong mọi người hầu như chỉ là chém đầu mà thôi.

Nếu như là tôi, phản ứng đầu tiên của tôi là:

Ý? Sao chưa qua Tảo* Môn  đã tới Ngọ Môn  rồi? Vậy cánh cổng tiếp theo liệu có phải Vãn Môn không?

* Tảo – Ngọ - Vãn: Sáng – Trưa – Tối

Nhưng tôi vốn đã chẳng phải người bình thường, vậy nên không cần để ý đến tôi làm gì.

“Lương Lương, hóa ra anh ở đây.” Noãn Noãn bất ngờ chạy đến gần tôi. “Mau! Em nhìn thấy nhà anh rồi!”

“Gì cơ?” Tuy tôi rất kinh ngạc nhưng vẫn chạy theo sau Noãn Noãn.

Chạy được hơn ba chục bước, Noãn Noãn dừng lại, thở hổn hển đưa tay phải chỉ về phía trước: “Đến nhà anh rồi này.”

Theo hướng tay em, tôi thấy một người đàn ông trung niên đang cầm một túi vải màu xám trắng.

Tôi quay lại nhìn Noãn Noãn, tay phải em ôm lấy bụng, vẻ như cười đến đau cả ruột.

“Buồn cười lắm,” tôi nói.

“Đợi đã.” Noãn Noãn phì cười, cố lấy lại vẻ bình tĩnh, nhưng chưa bình tĩnh nổi một giây đã lại phá lên cười.

“Đợi đã đợi đã…” Xem ra Noãn Noãn hình như cũng không được bình thường cho lắm.

Tuy Noãn Noãn đã dần dần ngưng cười thành tiếng nhưng ánh mắt cười có lẽ khó lòng biến mất trong chốc lát.

Tôi nghĩ chắc giờ tâm trạng em rất vui, đây hẳn là thời cơ tốt để lương tâm tôi trỗi dậy.

Xuyên qua cầu Kim Thủy, chúng tôi như quan viên thời cổ lên triều, kẻ trước người sau thẳng hàng đi về hướng Điện Thái Hòa.

Đi mãi đi mãi, tôi hắng giọng nói: “Anh phải nói với em một chuyện.”

“Có gì anh cứ nói đi.”

“Thực ra tên anh không phải Lương Lương.”

“Sao?”

“Anh nói thật đấy, tên anh không phải Lương Lương.”

Ánh mắt cười của Noãn Noãn dần dần biến mất, thay vào đó là sự nghi hoặc khó hiểu, rồi là oán trách.

“Đến tên cũng lấy ra đùa, anh bệnh đấy à.”

“Sorry.”

“Nói tiếng Anh làm gì?”

“Trong tiếng Đài Loan, những lúc thế này thường nói xin lỗi, anh không biết ở Bắc Kinh có nói thế không.”

“Anh bệnh quá hóa đần à?” Noãn Noãn suýt nữa bật cười. “Đương nhiên là giống rồi!”

Tôi cũng thấy mình hơi ngốc, ngờ nghệch cười vài tiếng.

“Ê, anh vẫn chưa nói với em sao anh lại nói tên là Lương Lương?”

“Vừa nghe thấy Noãn Noãn, phản ứng đầu tiên của anh là Lương Lương.”

“Hử?”

“Vì đông ấm, hạ mát.”

“Đồng chí này,” ánh mắt Noãn Noãn rõ vẻ nghi hoặc, “suy nghĩ của anh sâu sắc đấy.”

“Nếu như em hỏi anh em trai AB là ai?” Tôi thử giải thích suy nghĩ sâu sắc của tôi. “Anh sẽ trả lời là CD”

“Hở?” Ánh mắt Noãn Noãn càng ngờ vực.

“Cũng như khi anh vừa nghe thấy cái tên Trần Thủy Biển *, trực giác liền nghĩ ngay rằng nhà ông ta nhất định có năm anh em trai.”

* Trần Thủy Biển: Luật sư, nhân vật chính trị Đài Loan, từng giữ chức Chủ tịch Đảng Dân chủ Tiến bộ khóa 10-11, thị trưởng thành phố Đài Bắc. 12/2010 bị cáo buộc tội tham ô, phạt 17 năm 6 tháng tù, đến 19/1/2011 được tuyên bố vô tội.
“Năm anh em trai?”

“Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Trần Kim Biển, Trần Mộc Biển, Trần Thủy Biển, Trần Hỏa Biển, Trần Thổ Biển,” tôi nói. “Nhà họ xếp thứ tự theo Ngũ hành, Trần Thủy Biển là anh ba.”

“Nói như anh, Đạt Phân Kỳ * là anh cả hơn nữa còn có một em trai tên là Đạt Phân Quái à”

“Đạt Phân Kỳ là ai ?”

“Anh không biết hả?” Noãn Noãn trợn tròn mắt. “Chính là người vẽ bức Nàng Mona Lisa ấy.”

* Đạt Phân Kỳ : Leonardo da Vinci

“À,” tôi gật gù, “dịch sang tiếng Đài Loan gọi là Đạt Văn Tây, ông ấy không phải anh cả mà là anh hai, vì Đạt Văn Đông, Đạt Văn Tây, Đạt Văn Nam, Đạt Văn Bắc.”

“Chỉ có cách dịch khác nhau mà anh em thiếu mất tận mấy người?”

“Xem ra là thế đấy.”

Noãn Noãn không hỏi nữa, chậm rãi bước về phía trước. Tôi đi phía sau, trong lòng thấp thỏm không yên.

Lúc sau, Noãn Noãn quay đầu lại nói: “Đừng buồn nữa. Em kể chuyện cười cho anh nghe.”

“Ừ.”
“Trên xe buýt chật kín người, có một kiều nữ vô tình giẫm phải chân một anh chàng, cô gái quay đầu chậm rãi nói: Ôi, anh, em sor¬ry anh. Kết quả anh đoán xem chàng trai đó nói gì?”

“Chàng trai đó nói gì?”

“Chàng trai trợn trừng mắt nói: ‘Gì? Cô sor¬ry tôi? Tôi mới sor¬ry cả nhà cô ấy!”

Kể xong Noãn Noãn bật cười, tôi cũng cười theo mấy tiếng.

Bởi điệu bộ Noãn Noãn trước giả làm kiều nữ yêu kiều thướt tha, sau giả làm anh chàng cộc cằn thô lỗ rất sinh động thú vị.

“Anh cho em nói một câu, em sẽ bỏ qua cho anh,” Noãn Noãn ngừng cười nói.

“Không vấn đề gì.”

“Vừa rồi anh nói sor¬ry…” Noãn Noãn cố nín cười. “Em sor¬ry cả nhà anh.”

“Rất hân hạnh.”

“Thế là hết nợ nhé,” Noãn Noãn cười nói, “nhưng về sau em vẫn gọi anh là Lương Lương.”

“Được thôi.”

“Vậy cứ thế đi, về sau biệt danh của anh sẽ là Lương Lương

Tôi gật đầu cười, cùng em bước về phía trước.

Tới khoảng sân rộng trước Điện Thái Hòa, có bạn vẫy tay về phía chúng tôi, hét: “Lại đây làm kiểu ảnh!” Tôi và Noãn Noãn vội chạy lại, dưới Điện Thái Hòa đã có hơn chục sinh viên xếp thành hai hàng.

Chuẩn bị chụp ảnh, tôi giơ ngón trỏ và ngón giữa lên làm hình chữ V, Noãn Noãn rất tò mò.

“Sinh viên Đài Loan quen làm chữ V cho cool, hoặc chếch ngón cái và ngón trỏ để dưới cằm, hoặc dùng ngón tay đặt lên má, ngón nào cũng được, gọi là làm hàng.”

Tôi vừa nói xong đã nghe thấy tiếng cậu bạn chụp ảnh hét “Kon¬ica”, giữa tiếng Kon¬ica, một tia sáng lóe lên.

Hỏi Noãn Noãn vì sao phải nói Kon¬ica?

Câu trả lời cũng như người Đài Loan hay nói chữ C trong tiếng Anh, đều là để nhe răng ra cười mà thôi.

Tôi và Noãn Noãn bước vào Điện Thái Hòa, đây là nơi hoàng đế đăng cơ, phải xem cho kĩ mới được.

Trong điện, sàn được lát bằng gạch vàng, có sáu cột trụ đường kính một mét, bề mặt chạm khắc họa tiết mây rồng thếp vàng.

Long kỷ và bình phong được đặt chính giữa sáu chiếc cột kim long, ngự trên đài cơ cao hai mét màu vàng.

Nhìn chiếc long kỷ thếp vàng, tôi bắt đầu đếm xem trên long kỷ có thật có chín con rồng hay không, đếm mãi đếm mãi đến thần người ra.

“Nhớ lại chuyện kiếp trước hả?” Noãn Noãn hỏi đùa.

“Không.” Tôi sực tỉnh, đáp: “Kiếp trước anh ở Ngọ Môn.”

“Cái anh này lạ thật đấy.” Noãn Noãn cười nói.

Sau khi ra khỏi Điện Thái Hòa, tôi vẫn đi dạo cùng Noãn Noãn.

Cảm giác phương hướng của Noãn Noãn hình như không được tốt, lại không thích nhìn biển chỉ dẫn bên đường nên thường vòng qua vòng lại một chỗ mấy lần.

Người khác đi từ Cung Càn Thanh sang Điện Dưỡng Tâm, chúng tôi lại đi từ Điện Dưỡng Tâm sang Cung Càn Thanh.

“Giời ạ, không đi lạc được đâu, anh yên tâm,” em luôn nói thế.

Trên đường đi Noãn Noãn hỏi về mọi thứ ở Đài Loan, cũng hỏi cả gia cảnh nhà tôi.

Tôi nói tôi là anh hai trong nhà, trên có một chị gái, dưới có một em gái.

“Có anh chị em chắc phải vui lắm. Không như em, là con một trong nhà,” Noãn Noãn nói.

“Nhưng anh toàn bị ăn đòn thôi.”

“Sao lại thế?”

“Lúc mấy chị em cãi nhau, bố anh khi thì nói lớn phải nhường bé, anh là đứa lớn nên bị đánh; có khi bố anh lại nói bé phải nghe lớn, anh lại thành đứa bé nên bị đánh. Vậy nên toàn bị ăn đòn.”

“Thật thế á?”

Tôi cười hì hì, nói tiếp:

“Người ta nói làm anh cả có thể bồi dưỡng phong thái lãnh đạo, anh cả khá ngang ngạnh, nhưng cũng chính ngang ngạnh nên mới thích hợp trở thành người dẫn đầu. Còn về những loại xếp giữa giữa như anh, vì hay bị đánh nênâu ngày nhìn thấy gậy là biết nói: đánh đi đánh đi, đánh chết con đi, do vậy mà học được tính độ lượng.”

“Độ lượng?” Noãn Noãn không đồng tình. “Thế gọi là chây ỳ.”

“Thế nhưng cũng có những người xếp giữa giữa rất xảo quyệt, đánh thằng anh thì họ làm thằng em, đánh thằng em thì họ làm thằng anh. Những người đó sau này lớn lên sẽ trở thành những nhân vật lợi hại.”

“Thật không?”

“Ví dụ như Trần Thủy Biển đứng thứ ba trong năm anh em trai chính là một nhân vật lợi hại biến đổi khôn lường.”

“Toàn nói bừa.” Một lúc sau, Noãn Noãn mới thốt ra câu này.

“Anh không biết em còn dẫn anh đi mấy vòng nữa mới ra khỏi Tử Cấm Thành, không nói bừa thì chán lắm.”

“Rồi, đến Ngự Hoa Viên rồi đây.” Em dừng bước chỉ về phía trước. “Qua Ngự Hoa Viên là đến Thần Vũ Môn, ra khỏi Thần Vũ Môn là ra ngoài Tử Cấm Thành rồi.”

Từ lúc bước vào Tử Cấm Thành đến giờ, cứ ngỡ thế giới đâu cũng đều cao lớn, vuông vức, rộng rãi, không ngờ Ngự Hoa Viên lại lung linh xinh xắn, thanh tịnh tú lệ thế này.

Trong vườn đầy những ngọn giả sơn, cây cổ thụ cao lớn, kỳ hoa dị thảo và những lầu gác trang nhã, dưới chân còn có đường đá quanh co uốn lượn.

Tôi và Noãn Noãn dạo qua những cây hoa, lầu gác, giả sơn trong Ngự Hoa Viên, còn thấy cả cây liên lý *.

* Hai cây có cành, nhánh hợp sinh gọi là cây liên lý.

Cây do hai nhánh chính của hai cây bách cuốn lấy mà thành, như thể một đôi tình nhân âu yếm ôm chặt lấy nhau.

Một nhóm người đang đứng dưới cây liên lý chụp ảnh, mà lại còn cứ từng đôi một nam một nữ.

Noãn Noãn nói cây liên lý này đã hơn 400 tuổi, tượng trưng cho tình yêu chân thành thuần khiết.
“Đẹp thật đấy,” ngắm nhìn chăm chú cây liên lý một lúc sau, Noãn Noãn mới nói, “phải không?”

“Đẹp thì đẹp đấy, nhưng chắc cô đơn lắm.”

“Cô đơn?”

“Vì trong hoàng cung này nó đâu chứng kiến nổi một tình yêu chân thành, thuần khiết, vậy nên cứ sống mãi vậy đó.”

“Hả?”

“Nếu như có một ngày, các cặp nam nữ trên đời đều có thể đối với nhau chân thành, thuần khiết, thì còn cần gì cây liên lý nhắc nhở chúng ta sự chân thành, thuần khiết trong tình yêu nữa? Đến lúc đó, cây liên lý có thể ngậm cười héo khô được rồi.”

“Anh ấm đầu đấy à?” Noãn Noãn chăm chú quan sát tôi. “Đợi lát em mua kem cho anh.”

“…” Phù, đúng là nóng thật.

Tháng Bảy ở Bắc Kinh khô nóng hệt ở Đài Loan, huống hồ lại đã đi bộ cả một buổi sáng.

Qua Thần Vũ Môn, tôi lại đi thẳng tiếp, Noãn Noãn ở phía sau gọi tôi: “Lương Lương! Anh đi đâu đấy? Định học theo Sùng Trinh đấy à?”

“Sùng Trinh?” Tôi dừng lại, quay đầu phát hiện Noãn Noãn bước khỏi Thần Vũ Môn liền rẽ phải.

“Khi Lý Tự Thành tấn công vào Bắc Kinh, hoàng đế Sùng Trinh cũng như anh đi thẳng đến Cảnh Sơn đối diện treo cổ tự vẫn.” Noãn Noãn cười, đưa tay vẫy tôi. “Mau qua đây, đừng nghĩ quẩn.”

“Nguy hiểm thật,” tôi quay lại cạnh rồi nói.

Ở đây có sông Hộ Thành rộng hơn 50 mét, chúng tôi tìm một chỗ ngồi nghỉ dưới bóng cây xanh mướt bên sông.

Noãn Noãn mua hai que kem, đưa cho tôi một que.

Hầu hết sinh viên đều đã đi ra, túm năm tụm ba tán chuyện, chụp ảnh hoặc uống nước giải khát.

Tôi và Noãn Noãn vừa ăn kem vừa lau mồ hôi, em nói hình như tôi đã trở về trạng thái bình thường, tôi nói điều đó chứng tỏ là không bình thường.

Tôi lại kể với Noãn Noãn, ở Đài Loan có một nơi tên là “Thiên Lãnh”, kem que ở đó cực kỳ ngon.
“Kem que chính là kem cây mà bọn em thường nói ấy.” Tôi giải thích thêm.

“Em hiểu mà.” Noãn Noãn mỉm cười, nụ cười có chút kỳ quái.

“Hì, thế lúc nào thì dẫn em đi thăm chỗ Noãn Noãn?” Noãn Noãn hỏi.

Hóa ra tôi vừa nói đến Thiên Lãnh lại làm Noãn Noãn nhớ ngay đến Noãn Noãn. Tôi nghĩ một lúc rồi nói: “Có lẽ vào mùa đông *.”

* Cũng là tên bài hát nổi tiếng năm 1988 của ca sĩ Tề Tần.


“Bài này mấy năm trước nổi lắm, gần thành Quốc ca đấy.”

Tôi đang định đáp trả thì Từ Trì đã đi về phía tôi hét lớn: “Anh Thái!”

Từ Trì tay cầm máy ảnh kỹ thuật số, nói: “Chụp cho hai người một kiểu nào.”

Tôi và Noãn Noãn lấy bức tường thành sau lưng làm nền, hai bên giữ một khoảng cách đến gió thổi gấu áo cũng chỉ vừa may chạm phải nhau.

Lúc chuẩn bị chụp,  tôi theo thói quen làm hai dấu chữ V, Noãn Noãn nói tôi làm hàng, tôi bảo tôi già rồi đâu dám.

Từ Trì hét một, hai, ba, Kon¬ica, Noãn Noãn cũng nói theo “Kon¬ica”.

Tôi nhắm đúng lúc ấy hét: Ko¬dak.

“Anh nói gì đấy.” Noãn Noãn phì cười khì khì.

Từ Trì nhanh tay bấm máy, hình như đã may mắn bắt được khoảnh khắc ấy.

Noãn Noãn vội vàng chạy lại, xem xong ảnh trong máy, em căng thẳng nói: “Không được! Cậu phải xóa cái ảnh này đi.”

Tôi cũng chạy lại xem cảnh Noãn Noãn phì cười lúc nãy thế nào, nụ cười của Noãn Noãn rất rạng rỡ.

Tôi đột nhiên nhớ đến từ “kiều” mới nghe tối qua.

Người Bắc Kinh dùng chữ “kiều” xem ra cũng có lý do, đã gọi là kiều nữ, chắc chắn phải rạng rỡ kiều diễm.

“Tớ cho cậu một cây kem, cậu xóa nó đi,” Noãn Noãn nói với Từ Trì.

“Anh cho chú hai que, không được xóa,” tôi cũng nói với Từ Trì.

“Chúng ta là anh em.” Từ Trì vỗ vỗ vai tôi, “Em có chết cũng không xóa.”

Tôi rưng rưng nước mắt, nắm chặt lấy hai tay cậu ta, suýt bật khóc.

“Sao anh không cho xóa?” Giọng Noãn Noãn có chút bực bội. “Miệng em mở rộng quá, không đoan trang.”

“Sao thế được? Đấy là nụ cười tự nhiên, rất thân thiện, tóm lại chỉ có một chữ đẹp”

“Lại nói bừa nữa.”

“Em xem.” Tôi quay sang đối diện với em. “Mắt anh còn mở thao láo thế này, bừa là bừa thế nào.”

Noãn Noãn đang định phản pháo thì nghe tiếng các thầy giục mọi người tập trung.

Sinh viên tề tựu đông đủ xong cùng chụp một bức ảnh tập thể, rồi tới nhà hàng gần đó dùng cơm.

Phân nhóm quả có tác dụng, lúc ăn cơm cũng phân theo nhóm mà ngồi, không phải do dự hồ nghi gì nữa.

Tôi và Noãn Noãn cùng một nhóm, các bạn cùng bàn đại để cũng quen biết ít nhiều nên bữa ăn trôi qua rất suôn sẻ.

Bữa này có sủi cảo, mì vằn thắn, trời nóng nên tôi không có hứng ăn lắm, cũng không ăn được nhiều.

Ăn xong mọi người muốn đi dạo Bắc Hải, Bắc Hải là vườn Ngự Uyển của hoàng gia, nằm ngay phía tây bắc của Tử Cấm Thành.

Mạn phía tây của Tiền Môn có một tòa thành tròn, trong Điện Thừa Quang trên thành có thờ một bức tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đẽo bằng bạch ngọc cao gần một mét rưỡi tọa trên khám thờ Phật bằng gỗ khắc rồng mặt quay về hướng Bắc.

Tượng Phật ngọc khiết bạch vô song, phát ra những ánh hào quang dịu nhẹ, chỉ đáng tiếc bên cánh tay trái bức tượng có một vét dao chém, là dấu tích Liên quân tám nước để lại.

Tôi đoán do tám nước muốn chiếm Phật ngọc, định xẻ bức tượng ra làm tám nhưng không thành.

Có thể thấy Phật ngọc là một tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ, có thể khiến người ta trước cảnh binh đao máu lửa mà vẫn bình tĩnh suy xét đến phân chia công bằng.

Điện Thừa Quang trước có một đình nghỉ lát ngói lưu ly xanh, trên đài hoa sen bằng đá trong đình bày một chiếc vò ngọc hình bầu dục.

Vò ngọc màu lục thẫm có vân trắng, cao bảy mươi phân, chu vi chừng năm mét, trông như một cái bồn tắm.

Thầy Lý ở Bắc Kinh nói chiếc vò ngọc này là sau khi Nguyên Thế Tố * tiến vào Bắc Kinh, mở đại tiệc quân thần thưởng tướng sĩ, sai thợ lựa cả phiến ngọc thạch rồi tỉ mẩn đẽo khắc làm thành vò uống rượu, có thể chứa hơn ba mươi lít rượu.

* Nguyên Thế Tố: Hốt Tất Liệt

Vân trắng trên ngọc tạo thành những con sóng hung hãn, cuộn trào chảy xiết, những con rồng biển nhe nanh giơ vuốt vươn mình trên lớp sóng biển; cũng có cả các loài động vật biến thể có vảy như lợn, ngựa, tê giác, hệt như quỷ thần hình thú dưới Long cung trong truyền thuyết.

Toàn bộ phong cách điêu khắc thể hiện rõ khí phách hào phóng, dũng mãnh của dân tộc du mục.

“Càn Long khi còn tại vị cũng cho gọt giũa lại chiếc vò ngọc này bốn lần, do cách chế tác và phong cách giũa ngọc đời Nguyên, Thanh khác nhau, nên có thể phân biệt ra những điểm khác biệt đã từng qua gọt giũa,” thầy Lý nói. “Các bạn có nhìn ra không?”

Mọi người chăm chú quan sát chiếc vò ngọc, bàn tán sôi nổi.

Noãn Noãn hỏi tôi: “Anh nhìn ra không?”

“Đương nhiên.” Tôi gật đầu, “Vết đẽo của đời Nguyên khá tròn, còn vết của đời Thanh lại khá nông.”

“Thật á?” Noãn Noãn hơi cúi người, tập trung trí lực chăm chú nhìn vò ngọc.

“Nguyên tức là tròn vẹn, Thanh tức là nhẹ nông,” tôi nói. “Đây chính là thâm ý phía sau tên mỗi triều đại.”

Noãn Noãn ban đầu còn thần người ra, rồi lập tức đứng thẳng dậy, quay lại chỉ tôi nói: “Rõ ràng là không hiểu mà còn bày đặt.”

Tôi đương nhiên không hiểu, nếu như cứ chăm chú dị thường như vậy mà có thể nhìn ra điểm khác biệt thì tôi sớm đã đổi nghề làm nhà điêu khắc rồi.

Bắc Hải thực ra là hồ, giữa hồ có Đảo Ngọc, sau khi xuống thành tròn đi qua cầu Vĩnh An được lát bằng đá cẩm thạch trắng là tới.

Trên Đảo Ngọc có tòa Bạch Tháp, Noãn Noãn nói đó là biểu tượng của Bắc Hải, trong tháp còn có hai hạt xá lợi *.

* Hạt xá lợi là những hạt nhỏ có dạng viên tròn, oval, hoa sen, tượng Phật rất phong phú, hình thành sau khi thi thể của các vị cao tăng Phật giáo được hỏa táng. Theo quan điểm duy tâm và tâm linh của nhà Phật, xá lợi là kết kết quả của quá trình tu hành, khổ luyện và là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ xuất hiện ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện.

Leo lên Bạch Tháp, phóng tầm mắt nhìn xa bốn phía, tầm nhìn rất đẹp, có thể thấy cả dải kiến trúc ở trung tâm Bắc Kinh.

Phía bắc Đảo Ngọc có thuyền, có thể chèo qua hồ tới bờ bắc, phần lớn các bạn đều chọn ngồi thuyền, nhưng tôi muốn đi từ cầu Trắc Sơn phía đông sang bờ đông rồi dạo quanh một vòng hồ.

Noãn Noãn nói không được, giờ trời đang nóng, nhỡ tôi say nắng váng đầu lại nói mấy câu ngớ ngẩn đến khi nam nữ trên đời đều đối với nhau chân thành thuần khiết thì Bắc Hải có thể ngậm cười mà cạn rồi.

“Xem bói bảo anh tháng này kỵ nước.” Tôi vẫn lắc đầu.

“Lại còn nói vớ vẩn nữa.” Noãn Noãn nói với người bên cạnh: “Các đồng chí, kéo anh ấy lên thuyền thôi!”

Hai cậu nam sinh người bên trái người bên phải kẹp tôi lên thuyền, Noãn Noãn cười đắc ý.

Lên bờ, một đoàn người tiến vào Cửu Long Bích.



(còn tiếp...)
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Ghế gỗ
Đăng lúc 17-6-2013 22:44:09 | Xem tất
CHƯƠNG 2

(Tiếp)


Hai bên Cửu Long Bích đều có chín con rồng lớn, trên tường lát đá lưu ly bảy màu độc nhất vô nhị, tôi ở Đài Loan sớm đã nghe danh qua sách vở.

Tôi cố gọi Từ Trì, nhờ cậu ta giúp tôi chụp riêng một kiểu, và lại đứng trước Cửu Long Bích giơ tay chữ V.

“Rồng quẫy rồi kìa,” Noãn Noãn cười nói.

Tôi quay lại nhìn, gạch lưu ly rực rỡ sắc màu lại thêm ánh sáng phản chiếu đúng là khiến người ta có ảo giác rồng quẫy.

Rời Cửu Long Bích, qua Ngũ Long Đình, rồi lại men theo bờ tây tới Tây Môn, xe đã đợi bên ngoài Tây Môn.

Tôi lên xe, đánh một giấc thì về đến “trường ngủ” (tôi không có ý xúc phạm trường đại học này đâu).

Rửa mặt qua loa, lát sau có vị học giả đến giảng bài về Lịch sử và Văn hóa Cố Cung.

Tiết giảng rất thú vị, không phải viết lên bảng mà dùng pow¬er point chiếu rất nhiều ảnh.

Hết giờ, chúng tôi phải ở lại làm tiết mục tự giới thiệu bù cho tối qua.

Giáo viên cũng hy vọng sinh viên Đài Loan bày tỏ một chút cảm tưởng về Bắc Kinh hoặc Cố Cung.
Màn tự giới thiệu trên thực tế chỉ mang tính hình thức, bởi đám sinh viên đã quá quen với nhau rồi.
Điều khiến tôi đau đầu là cái gọi là “cảm tưởng”.
Tôi nhớ lại lúc ở sân bay đợi làm thủ tục lên máy bay rời Đài Loan, trong lòng hồ hởi phấn khởi không để đâu cho hết.
Trước khi chuyển tiếp từ Hồng Kông tới Bắc Kinh, nhìn hai chữ “Bắc Kinh” trên cửa máy bay, cảm giác phấn khởi trong tôi trở nên trong suốt, tuy vẫn tồn tại nhưng dường như quá mơ hồ.
Địa danh vẫn luôn khoan thai nằm trong sách giáo khoa của tôi từ tiểu học, trung học rồi đến cả đại học.

Tôi thường nghe nói về nó nhưng chưa từng tận mắt thấy diện mạo nó thế nào.

Tôi không thể tưởng tượng nổi sau khi tiếp xúc với Bắc Kinh, cảm xúc sẽ ra sao?

Điều này hơi giống như nghe bài hát của ai đấy cả đời, bỗng một ngày tự nhiên phải chạy lại bắt tay người ca sĩ ấy.

Bắt tay xong rồi, anh hỏi tôi cảm tưởng thế nào?

Tôi chỉ có thể nói xin đợi chút, tôi phải hỏi tay phải của tôi đã.

Lúc này tôi đứng trên bục giảng, giới thiệu xong tên mình lại phải nói ra cảm tưởng sau khi bắt tay.

Tôi có thể giơ tay phải ra bảo mọi người talk to this hand không?

Tôi chỉ có thể nói Cố Cung rất lớn, Bắc Kinh lại càng lớn, ngay đến sủi cảo và vằn thắn bữa trưa ăn cũng lớn hơn ở Đài Loan.

“Tóm lại, chỉ có một chữ LỚN,” tôi đi đến kết luận.

“Sau đó thì sao?” thầy Lý bên Bắc Kinh hỏi.

“Vì lớn, nên khiến người ta cảm thấy mình nhỏ bé.”

“Còn gì nữa?” thầy Trương bên Bắc Kinh hỏi.

“Ừm…” tôi nghĩ một lúc. “Nhỏ bé có thể giúp người ta học được cách khiêm tốn. Có điều em vốn dĩ đã là người khiêm tốn, mà lại năm phần khiêm, năm phần tốn, rất phù hợp với đạo Trung Dung. Đến Bắc Kinh, thăm xong Cố Cung, biến thành tám phần khiêm, hai phần tốn, có hơi khiêm nhường quá rồi. Em phải đi xem lại một số thứ nhỏ bé mới có thể chỉnh lại được “

Cả giảng đường yên lặng như trước giờ chiếu bóng.

“Em có thể đi xuống được chưa ạ?” đợi hồi lâu tôi mới hỏi.

Không đợi thầy giáo lên tiếng, toàn thể các bạn sinh viên đều vội vàng vỗ tay hoan nghênh tôi xuống khỏi bục giảng.

“Thế nào?” tôi ngồi về chỗ cũ, quay đầu hỏi Noãn Noãn. “Rất cảm động phải không?”

“Tóm lại, chỉ có một chữ bừa,” Noãn Noãn nói.

Tiết mục tự giới thiệu kiêm buổi phát biểu cảm tưởng kết thúc, liền đến bữa tối tôi mong đợi đã lâu.

Vì bữa trưa ăn ít nên buổi tối tôi rất mau đói.

Trước khi bước vào phòng ăn, tôi để tâm quan sát tấm biển hiệu, phát hiện một từ quan trọng: “Món Du”.

Hồi cấp Ba tôi học rất khá môn Địa lý, cũng biết Du là tên gọi tắt của Trùng Khánh, vậy nên đây hẳn là món Trùng Khánh.

Trùng Khánh ở tỉnh Tứ Xuyên, chắc cũng có nguồn gốc sâu xa với món Tứ Xuyên.

Món Tứ Xuyên…?

Tôi bắt đầu toát mồ hôi lạnh.

Tôi không giỏi ăn cay, hồi trước ở Đài Loan lần đầu đi ăn lẩu cay đã bị đau bụng mất ba ngày.

Trong ba ngày ấy, đi ra đi vào nhà vệ sinh, cuối cùng tôi cũng lĩnh ngộ ra thế nào là tí tách tí tách

“Ăn được cay không?” vừa bước vào phòng ăn, thầy Lý đã mỉm cười hỏi thăm.

Bạn đã thấy ai xé vé vào rạp rồi, phim sắp chiếu còn gào thét đòi ra chưa?

“Cũng được ạ,” tôi đành đáp.

“Vậy thì hôm nay ăn rất đã đấy,” thầy Lý lại nói.

Tôi không cầm được hai hàng nước mắt nam nhi.

Quả nhiên, món đầu tiên được bê lên đã khiến tôi liên tưởng ngay đến Biển Đỏ ở Is¬rael.

Nước canh đầy những mảng dầu đỏ trôi nổi, tôi đâu ngây thơ đến nỗi cho rằng đấy là nước cà chua.

“He he,” Noãn Noãn cười.

“Cười gì thế?” tôi hỏi.

“Nghe nói người giỏi ăn cay nhìn thấy đồ cay là mặt đỏ lên ngay; người không biết ăn cay thì mặt sẽ tái xanh.”

“Ý em là gì?”

“Không có gì,” Noãn Noãn nói. “Em thấy mặt anh rất đỏ, nên chỉ vui thay anh từ tận đáy lòng thôi.” Nói xong em lại cười khì khì mấy tiếng.

“Xin cho phép tiểu muội giới thiệu với huynh món này,” Noãn Noãn cười nói. “Đầu tiên thái cá tươi thành lát mỏng, múc dầu ớt cay từng thìa từng thìa trộn chín, thế là xong.”

“…”

“Từng thìa từng thìa đấy.” Noãn Noãn lại làm thêm động tác tay.

Tôi thử cầm bát lên, nhưng tay trái hơi run, bát lắc lư như gặp động đất.

“Xin cho phép tiểu muội phục vụ huynh.” Noãn Noãn gắp mấy miếng cá bỏ vào bát tôi, lại tưới thêm nước xốt, “Huynh thử đi.”

Tôi gắp một miếng cá lên, nuốt chửng vào bụng trước ánh mắt rạng ngời của Noãn Noãn.

Cay đến cháy da đầu mất, cảm giác như có cột khói đang bốc thẳng lên đầu.

“Thấy thế nào?” Noãn Noãn hỏi.

“Cái… đang… cay” Lưỡi tôi phồng rộp, nói không nên lời.

“Xin cho phép tiểu muội giúp huynh đưa ra kết luận,” Noãn Noãn lại nói. “Thịt cá cay, nước xốt lại càng cay, tóm lại chỉ có một chữ cay.”

“Cái này quả thực là quá cay.” Cuối cùng tôi đành thú nhận: “Anh không giỏi ăn cay.”

“Anh ăn được chứ, đừng khiêm tốn quá. Ăn nhiều chút cay nhỏ bé này đi, anh sẽ cân bằng lại, không còn quá khiêm nhường nữa đâu.”

Món thứ hai lại là một đĩa đỏ rực, trông như thể trên đĩa có lửa.

Tiêu đỏ cay chiếm đa số, thịt gà chỉ chiếm thiểu số, còn đang hồ nghi liệu có phải bây giờ tiêu cay rẻ hơn thịt gà không thì Noãn Noãn đã xúc nửa bát nhỏ đặt trước mặt tôi. Chỉ có hai miếng thịt gà, còn đâu toàn là tiêu cay.

“Đây là gà cay, nghe nói tiêu cay mới là nguyên liệu chính, thịt gà chỉ là phụ liệu thôi,” Noãn Noãn cười nói.

Tôi không dám ăn riêng tiêu cay, đành gắp đồng thời cả gà cả tiêu, trên bột tiêu còn mấy hạt nho nhỏ.

Mới nhai một miếng, tôi đã quên mất sự tồn tại của cái ghế bởi toàn mông tê liệt.

“Đừng coi thường mấy hạt be bé này, đây là tiêu hoa đấy.” Noãn Noãn dùng đũa khều mấy hạt nhỏ trên lớp tiêu đỏ cay. “Sẽ làm anh cay đến nhảy dis¬co luôn.”

Món này vừa tê vừa cay, quả thật quá chán chường, quá lạc hồn rồi.

“Lương Lương, anh khóc rồi à?”, Noãn Noãn hỏi.

“Dân tộc mình trước đây khổ quá.” Tôi lau lau khóe mắt. “Thật là khiến người ta thương cảm.”

“Vậy ăn nhiều chút, nuôi dưỡng tinh thần cho tốt mới báo đáp tổ quốc được.”

“Anh không ăn nổi nữa đâu.”

“Được mà.”

“Noãn Noãn, anh sai rồi. Tha cho anh đi.”

Noãn Noãn cười sặc sụa, bộ dạng rất vui vẻ.

Bụng đói cồn cào, tôi lại miễn cưỡng cầm đũa lên.

“Ăn tê sẽ hết ghê, ăn cay sẽ khỏi say,” tôi nói.

“Anh nói gì đấy?” Noãn Noãn hỏi.

Tôi nghĩ tôi đã cay đến nước mắt nước mũi ròng ròng, không biết nói trăng nói sao gì nữa rồi.

“Không ngờ món Tứ Xuyên lại cay tê thế này,” tôi lấy cốc nước, uống một hơi xong mới nói.

“Đây là món Trùng Khánh. Anh mà nói đây là món Tứ Xuyên thì người Trùng Khánh chắc chắn không tha cho anh đâu.”

“Hóa ra món Trùng Khánh không à?”

“Anh mà nói món Trùng Khánh không phải món Tứ Xuyên thì người Thành Đô  chắc chắn sẽ tủi thân lắm đấy.”

“Này, anh chỉ là một kẻ đáng thương không ăn được cay lại phải nhét tiêu đầy bụng, đừng làm khó anh nữa đi.”

“Thực ra là vì món Trùng Khánh muốn tách riêng, trở thành hệ ẩm thực thứ chín của Trung Quốc, nhưng món Tứ Xuyên lại không đồng ý.”

“Món Trùng Khánh với món Tứ Xuyên có gì khác nhau?”

“Đơn giản mà nói thì, món Tứ Xuyên có vị cay dịu dàng uyển chuyển, món Trùng Khánh lại cay kiểu thô mộc phóng khoáng.” Noãn Noãn cười cười. “Đợi lát nữa em chọn thứ gì không quá cay cho anh.”

“Vô cùng cảm kích.” Tôi vội vàng cảm ơn.

“Em chỉ có thể cố hết sức thôi. Dù gì chuyện này cũng như tìm xương trong trứng.”

Tôi thở dài, xem ra tối nay phải chịu bụng đói rồi.

“Sao tối nay lại phải ăn món Trùng Khánh cay thế này chứ?”

“Em nghĩ các thầy có lẽ đang muốn thị uy với mấy sinh viên Đài Loan các anh đấy.”

“Thị uy đáng nhẽ nên làm từ tối qua lúc xuống máy bay mới phải.”

“Nếu như tối qua đã thị uy, nhỡ may làm quá, các anh lại chạy hết về Đài Loan thì sao được,” Noãn Noãn nói. “Hôm nay làm vẫn tốt hơn, đã lên sân khấu, hóa trang xong xuôi rồi, các anh còn có thể không hát được không.”

“Nham hiểm thật"

“Em đùa đấy, anh đừng có tưởng thật.”

Noãn Noãn dường như đã trở thành một viên quan nếm độc, ăn trước xem có cay hay không rồi mới quyết định gắp cho tôi.

Lúc gắp thức ăn cho tôi, em còn tiện thể bỏ luôn mấy thứ tiêu cay với tiêu hoa.

Chỉ đáng tiếc là món Trùng Khánh thô mộc phóng khoáng, bỏ đi tiêu cay cũng chẳng thể thanh tao nho nhã nổi.

Kết quả là cả bữa ăn tôi chỉ ăn được vài miếng, đến canh cũng không dám uống.

Nhưng các sinh viên Đài Loan khác thì ăn rất đã, chỉ có hai ba người bị bất tỉnh vì quá cay.

Tôi về phòng nghỉ, không chịu nổi bụng rỗng lại mò ra đường kiếm hàng ăn gọi một bát mì.

Một bát mì cực to được bê lên, tôi nhìn quanh bàn chỉ có mỗi đũa, bèn đứng dậy đi đến quầy, hỏi: “Cô có muỗng canh không?”

“Cái gì?” Cô bán mì hình như không nghe rõ.

Tôi nghĩ chắc cô không nghe được giọng Đài Loan, bèn thử uốn đầu lưỡi hỏi lại lần nữa: “Muỗng canh?”

“Cái gì?” Cô vẫn không hiểu.

Tôi đành dùng tay làm động tác múc canh đưa lên miệng.
“Thìa chứ gì?” Cô lấy một cái thìa đưa cho tôi, miệng còn nói lớn: “Thìa là thìa, nói cái gì mà muỗng canh? Muỗng muỗi gì?” Khách trong tiệm cười ha hả, cô bán mì cũng cười theo như thể thi xem ai cười to hơn.

Cô này, tôi từ Đài Loan đến không hiểu gì, cô nên nhỏ tiếng một chút, có phải tôi đỡ ngượng hơn bao nhiêu không.

Tôi ăn vội ăn vàng nửa bát mì rồi biến thẳng.

Trên đường về ký túc, tôi gặp cậu em khóa dưới đi vệ sinh. “Em bị đau bụng,” cậu ta nói.

“Đỡ chưa?” tôi hỏi.

“Chưa anh ạ.” Cậu ta lắc đầu. “Lại sắp bét bung ra như hoa hướng dương rồi đây.”

“Thằng đần!” Tôi vội vàng bịt miệng cậu ta lại. “Không được nói mấy lời đấy ở đây.”

Tôi cùng cậu ta về phòng, vừa may gặp đúng Cao Lượng.

“Anh Thái, mọi người định đi dạo phố ẩm thực, anh đi cùng đi,” cậu ta nói.

Hóa ra sinh viên Bắc Kinh sợ sinh viên Đài Loan không quen ăn cay bèn đưa ra đề nghị đi phố ẩm thực đánh chén.

Các giáo viên cũng không cấm cản, chỉ dặn dò ra ngoài chú ý cẩn thận, đừng về muộn, đừng giả hồ đồ tưởng phố bar là phố ẩm thực.

Phố ẩm thực cũng giống như chợ đêm Đài Loan, chỉ có điều chợ đêm Đài Loan bán cả mấy thứ như quần áo, giầy dép, CD, thỉnh thoảng còn có cả quầy coi bói, tiệm mát xa, còn phố ẩm thực chỉ có toàn đồ ăn.

Vừa ăn hơn nửa bát mì, tôi cũng không thấy đói nên chỉ ngắm nghía đây đó, dù gì ngắm cũng không mất tiền.

Lòng vòng một hồi, hương thức ăn bắt đầu kích thích làm tôi muốn thử chút ít.

“Lương Lương.” Tôi quay lại thì thấy Noãn Noãn, em đưa cho tôi hai xiên thịt dê, nói: “Này, cho anh.”

“Không cay chứ?”, tôi hỏi.

“Anh thử xem.”

Tôi hơi hãi, dùng mũi hít ngửi mấy cái, lại lè lưỡi liếm thử.

“Úi chao, hâm quá đấy,” Noãn Noãn cười nói. “Cứ như con cún ấy.”

“Hình như không cay lắm,” tôi nói.

“Em cố ý bảo người ta không cho cay quá mà,” Noãn Noãn nói.

“Cảm ơn em nhé.”

Noãn Noãn mỉm cười, “Buổi tối anh ăn ít, lát nữa ăn thêm nhiều vào.”

Tôi kể với Noãn Noãn chuyện lẻn ra ăn mì, tiện thể kể luôn quá trình hỏi xin muỗng lại thành trò cười.

Noãn Noãn cười đến không khép nổi miệng, khó khăn lắm mới ngừng lại nói: “Dù gì thì cũng ăn rồi, chúng ta ăn thêm ít đồ ăn vặt nữa.” Nói xong bèn kéo tôi đi ăn Lư Đả Cổn, Ái Oa Oa, Uyển Đậu Hoàng* mang đậm phong vị Bắc Kinh.

*Lư Đả Cổn: Bánh cuộn bột nếp nhân đậu đỏ.

Ái Oa Oa: Xôi nếp nhân đậu đỏ phủ dừa bào.

Uyển Đậu Hoàng: Bánh đậu, thường có màu vàng, dùng trong ngày 3/3 âm lịch.


Nói theo cách của Đài Loan, mấy món này đều có thể quy vào đồ ngọt.

Chúng tôi gắng hết sức để ăn mỗi thứ một ít, nếu ăn không hết thì lại chuyển cho các bạn khác bên cạnh, rồi nói: “Cho cậu một ít, coi như làm quen.”

Dạo phố hơn một tiếng, mọi người bèn kéo về trường học.

Tôi ăn no quá, về đến phòng là nằm vật xuống nghỉ, cậu em khóa dưới và Từ Trì, Cao Lượng còn xem lại mấy bức ảnh đã chụp trong ngày.

“Anh Thái, gà của anh này,” Từ Trì gọi.

Tôi nhảy một phát từ trên giường xuống (tôi vẫn đang nằm trên giường mà), xúm lại với bọn họ, hỏi: “Đâu?”

Từ Trì giơ máy ảnh ra trước mặt tôi, màn hình máy ảnh hiện lên rõ ràng nụ cười của Noãn Noãn.

Tôi nhìn chăm chăm Noãn Noãn mấy giây, Từ Trì chuyển sang ảnh tiếp theo, tôi lập tức chuyển lại, lại nhìn chăm chăm mấy giây nữa.

“Anh Thái, anh về Đài Loan rồi em sẽ gửi cho anh mấy cái ảnh này,” Từ Trì nói.

“Trì huynh.” Tôi sung sướng ôm chầm lấy cậu ta. “Tôi gọi cậu là Trì huynh được không?”

Tối hôm đó tâm trạng bốn người chúng tôi đều rất phấn khởi, chém gió mãi đến tận khuya.

Cậu em khóa dưới thỉnh thoảng đang chém dở lại chạy vào nhà vệ sinh, Cao Lượng hỏi: “Không sao chứ?”

“Mông em thành tranh Phạn Cốc rồi đây,” cậu ta đáp.

Từ Trì và Cao Lượng hồi lâu sau mới hiểu ra Phạn Cốc chính là Phạn Cao, tức Van Gogh, chỉ vì cách phiên âm khác nhau mà thôi.

Tôi ngẫm nghĩ rất lâu mới nhớ ra loài hoa Van Gogh thích vẽ nhất là hoa hướng dương.

Định trèo xuống giường dưới tẩn cho cậu ta một trận vì cái tội nói năng bừa bãi, nhưng thấy cậu ta mồm miệng há hốc, mặt mũi ngu ngu, chắc đang ngủ mơ rồi. Tôi đành trèo lên giường mình, nhắm mắt nghĩ đến nụ cười của Noãn Noãn mà chìm vào giấc ngủ.


P.S: chương này thật dài, type xong mà {:152:}  cũng may truyện không dài lắm, ngày mai sẽ type tiếp ^^ chú thích * là của dịch giả nhé.
Mình sẽ type nhiều nhiều rồi mới post lên 1 thể
200 ký tự =.=  200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự 200 ký tự

Bình luận

Cám ơn bạn, tớ chỉ xác nhận để đặt màu và chuyển $ khi hoàn thôi, k có j đâu bạn :)  Đăng lúc 17-6-2013 10:46 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Tầng
Đăng lúc 18-6-2013 12:43:23 | Xem tất
CHƯƠNG 3


Sáng hôm sau chúng tôi làm vệ sinh cá nhân xong, ăn sáng rồi tới giảng đường nghe giảng. Có một học giả nghiên cứu rất sâu về Trường Thành tới diễn thuyết cho chúng tôi nghe. Thầy còn mang một mảnh gạch vụn từ Trường Thành to bằng bàn tay đến, để các bạn sinh viên thử độ cứng của nó.

“Có thể dùng bất kỳ bộ phận nào trên cơ thể các bạn, ai làm vỡ được sẽ có thưởng,” thầy cười nói.

Khi mảnh gạch chuyền tới tay tôi, tôi nói với cậu em bên cạnh: “No, cho anh mượn đầu cậu.”

“Anh mượn cái đầu lợn làm gì?” cậu ta đáp.

Tôi chẳng buồn đếm xỉa tới cậu ta, hai tay nắm chặt mảnh gạch vụn, vận hết tất tật công lực, tưởng tượng mình là Songoku trong Bảy viên ngọc rồng, miệng gầm AA... chuẩn bị biến hình thành Siêu Xay­da.

“Gãy rồi,” tôi nói.

“Gãy thật rồi?” Noãn Noãn kinh ngạc hỏi.

“Ngón tay anh gãy rồi.”

Lần này đến lượt Noãn Noãn không buồn đếm xỉa đến tôi nữa.

Tiết giảng kết thúc vào khoảng 10 giờ, các giáo viên kêu mọi người chuẩn bị rồi đi leo Trường Thành.

Lại nhớ tối qua các thầy còn dặn đi dặn lại nên đi giày thoải mái, các bạn nữ đừng điệu đà đi giày cao gót, nhớ mang bình nước, đừng vứt rác bừa bãi ở Trường Thành, ai dám ký tên lên gạch Trường Thành thì chết chắc vân vân.

“Còn phải chuẩn bị gì nữa?” tôi tò mò hỏi Noãn Noãn. “Chẳng nhẽ còn phải đeo cà vạt nữa à?”

“Em nghĩ là muốn mọi người chuẩn bị tinh thần không lại vui quá mà ngất đi,” Noãn Noãn nói.

Tôi nghĩ cũng có lý.

Hồi đầu muốn tham gia trại hè lần này phần lớn cũng là vì muốn được leo lên Trường Thành.

Chúng tôi sẽ leo đoạn Trường Thành Bát Đạt Lĩnh cách Bắc Kinh chừng 70 cây số, có thể đi thẳng tới bằng đường cao tốc.

Nếu thời cổ kỵ binh vượt qua Bát Đạt Lĩnh, chẳng phải phút chốc có thể đến sát chân thành Bắc Kinh sao?

Đang toát mồ hôi sợ thay cho Bắc Kinh, đột nhiên trong xe rộ lên tiếng “Ồ”.

Tôi quay đầu nhìn ra cửa kính, bị cảnh tượng trước mắt làm cho sững sờ.

“Đây...” tôi lắp bắp.

“Đây là Cư Dung Quan,” Noãn Noãn nói.

Hai bên Cư Dung Quan là núi cao sừng sững chót vót như những lưỡi gươm, giữa là khe sâu, quan thành Cư Dung Quan nằm ở chính giữa khe sâu đó.

Địa thế hiểm trở, chắn giữ vị trí xung yếu của Bắc Kinh, chẳng trách Lã thị Xuân Thu * từng đề: Thiên hạ cửu tắc, Cư Dung kỳ nhất.

*Lã thị Xuân Thu còn gọi là Lã Lãm là bộ sách do Lã Bất Vi – thừa tướng nước Tần thời Chiến Quốc sai các môn khách soạn ra những điều mình biết, hợp lại thành sách.

Cư Dung Quan không chỉ hùng vĩ, mà phong cảnh còn mê đắm lòng người, dãy núi hai bên ánh màu lam biếc, dòng suối trong xanh chảy ở chính giữa. Thật khó tưởng tượng nổi chiến tranh có thể thay thế vẻ hào hùng, tú lệ nơi đây.

“Xem ra Bắc Kinh có thể thở phào nhẹ nhõm rồi” tôi nói.

“Anh bảo gì cơ?” Noãn Noãn hỏi.

“Kỵ binh vượt qua Trường Thành – Bát Đạt Lĩnh, nhìn thấy Cư Dung Quan nhất định sẽ phải xuống ngựa chiêm ngưỡng cảnh đẹp này,” tôi nói. “Trong lúc cảm kích trước vẻ đẹp tú lệ nơi đây, có lẽ sẽ đột nhiên tỉnh ngộ, cảm nhận nhân sinh khổ đoản, đánh đánh giết giết quá vô vị, lên ngựa quay đầu rút về chưa biết chừng.”

Noãn Noãn trợn tròn mắt nhìn tôi, không nói gì.

“Em đừng lo.” Tôi cười cười với Noãn Noãn. “Bắc Kinh an toàn rồi.”

“Đã bảo anh phải chuẩn bị tâm lý mà.” Noãn Noãn trừng mắt với tôi. “Giờ lại toàn nói nhảm nữa.”

Qua Cư Dung Quan, chẳng mấy chốc đã đến Trường Thành – Bát Đạt Lĩnh. Nhìn đồng hồ, vẫn chưa đến mười một rưỡi.

Giáo viên nói giờ đi ăn mì trụng tương trước, ăn no xong còn có sức lên đường.

(Câu “ăn no còn có sức lên đường” nghe thật kỳ kỳ, phạm nhân bị chém đầu vào phút cuối đều được nghe câu này.)

Lúc ăn mì trụng tương, Cao Lượng khơi chuyện, cậu ta nói hồi nhỏ mẹ cậu ta thường nấu một nồi to tương, chỉ cần múc vài thìa tương rưới lên mì, đảo đảo mấy cái, xì xụp húp là hết một bát, bữa ăn coi như xong.

“Bình thường đều ăn thế đấy,” cậu ta nói.

Tôi bỗng nhớ ra từ lúc xuống máy bay đến giờ, một hạt gạo trắng cũng chưa từng nhìn thấy, chứ đừng nói đến cơm trắng.

Trong sách giáo khoa Địa lý có viết: Người miền Nam ăn gạo, người miền Bắc ăn mạch, cổ nhân nói quả nhiên không sai.

Lên đến cáp treo phía nam nối với Nam Tư Lầu, khoang cáp vừa khởi động, Noãn Noãn liền cười thích thú.

Em xoay người lại, quỳ lên ghế ngồi, nhìn ra bên ngoài cửa sổ, vẫy tay lia lịa, miệng còn nói gì đó.

“Ngồi chắc đi,” tôi nói.

“Lần đầu gặp cũng phải chào Trường Thành, nói câu ‘đã vất vả rồi’ chứ,” Noãn Noãn nói.

“Em...”

“Đây cũng là lần đầu em leo Trường Thành đấy.”

“Đã nói em chuẩn bị tâm lý mà,” tôi nói. “Giờ thì toàn nói nhảm rồi.”

“Anh mới nói nhảm ý.” Noãn Noãn lại xoay người ngồi ngay ngắn.

Xuống cáp treo, các giáo viên dặn dò ngắn gọn nên lượng sức mình, không miễn cưỡng cố quá, nhớ hẹn tập trung ở Phong Hỏa Đài.

Tôi nhìn ra xa, Trường Thành uốn lượn qua các mỏm núi, như một con rồng lớn đang đợi rướn mình bay thẳng lên bầu trời.

Nhìn sang trái phải, hai mặt tường thành độ cao không đều, hình dạng cũng không đồng nhất.

Cao Lượng nói những răng cưa lồi lõm kia gọi là tường lũy, cao gần một mét bảy, vừa đủ để che chắn cho những người giữ thành, phòng ngự kẻ địch bên ngoài. Tường lũy có các lỗ hổng để quan sát bên ngoài lúc tuần tra, dưới các lỗ hổng có một lỗ nhỏ hình vuông để đặt cung tên bắn; mặt thấp hơn chỉ cao một mét, gọi là tường hiên, cũng giống như những bức tường thấp khác.

“Tường hiên dng để làm gì?” Noãn Noãn hỏi.

“Tuần tra mệt rồi có thể ngồi nghỉ uống miếng nước,” tôi nói.

“Đừng nói bừa,” Noãn Noãn nói.

“Người ngựa đi trên đường lên thành, nhỡ may bị ngã xuống dưới thì nguy hiểm, tường hiên này có tác dụng bảo vệ,” Cao Lượng nói. “Hơn nữa tường hiên cách mỗi đoạn lại có một cửa tròn, trong cửa có bậc thang đá để binh sĩ lên thành xuống thành.”

Tôi nhìn Cao Lượng bằng ánh mắt kính trọng.

“Sau khi đến Bắc Kinh, cứ không có việc gì làm em lại leo Trường Thành mà,” cậu ta nói.

Chúng tôi cùng leo về phía Bắc, đoạn nào quá dốc còn có lan can sắt để mọi người vịn vào mà lên xuống.

Nhìn qua các lỗ hổng trên thành, toàn là núi non trùng điệp, cây khô, cỏ dại, làm thành một dải hoang vu.

Cứ cách trăm mét lại có một cái lầu thành hình vuông, loại hai tầng gọi là địch lầu, tầng trên cùng dùng để quan sát hoặc tấn công, tầng dưới để binh sĩ nghỉ ngơi hoặc trữ vũ khí; loại một tầng gọi là thành đài, bốn phía đều có lỗ hổng để tuần tra và tấn công.

Cao Lượng nói lầu Nam Tư, Nam Tam, Bắc Tam, Bắc Tư giờ vẫn hay gọi đều là các địch lầu.

“Chúng ta sẽ trèo lên Bắc Bát Lầu cao nhất so với mực nước biển trên đoạn Trường Thành Bát Đạt Lĩnh,” cậu ta nói.

Noãn Noãn dù gì cũng là con gái, thể lực yếu, thỉnh thoảng lại phải dừng lại dựa vào lan can thở lấy hơi.

Có lúc gió thổi khiến em nghiêng ngả, Cao Lượng nói đây là chỗ hút gió, nên gió rất lớn.

“Nếu là vào giữa mùa Thu Đông, gió còn mạnh hơn, trời còn lạnh hơn. Đến lúc đó leo Trường Thành mới càng có cảm nhận sâu sắc,” cậu ta nói.

Lúc này chúng tôi ai nấy đều mặc quần áo mỏng, chỉ mang thêm bình nước mà vẫn phải bám vào lan can lên xuống; vậy mà tướng sĩ giữ thành thời cổ cả người giáp sắt, tay mang binh khí, đầu đội cuồng phong chạy lên chạy xuống nơi này. Ngày ngày nhìn ra cảnh hoang vu bên ngoài, ngoài tấm áo bào của mình chẳng thấy nổi một bóng ai khác, hẳn phải đơn độc, cô quạnh đến nhường nào.

Muốn thấy bóng người lại cũng sợ thấy bóng người, bởi chỉ cần nhìn thấy một bóng người có thể sẽ đồng nghĩa với việc chiến sự bùng nổ, đây là kiểu tâm trạng mâu thuẫn gì?

“Nếu như...”

“Nếu như nam nữ trên đời đều có thể đối với nhau bằng tấm lòng chân thành thuần khiết,” Noãn Noãn ngắt lời tôi, nói tiếp: “đến lúc đó Trường Thành có thể ngậm cười mà sụp đổ rồi. Có phải anh muốn nói thế không?”

“Hì,” tôi bật cười. “Em nghỉ đủ chưa?”

“Rồi,” Noãn Noãn gật đầu.

Cao Lượng thể lực khỏe, dọc đường cứ giơ máy ảnh như giơ súng chụp đông chụp tây chẳng ngơi nghỉ. Tôi và Noãn Noãn cứ đến một địch lầu lại ngồi nghỉ ngơi uống nước, ngắm nghía tứ phía.

Trên tường thành thường thấy mấy dòng chữ “Đã từng đến đây” do các du khách đề lên, hiện tượng này cũng thường thấy tại các danh lam thắng cảnh ở Đài Loan.

Xem ra Tôn Ngộ Không trong Tây du kí quả là hại người không nhẹ.

Còn nhớ hồi đại học đi thăm nhà ma Dân Hùng, ở đó đâu đâu cũng bị viết “đã từng đến đây”.

Có cậu học sinh chơi ác, khắc xong dòng chữ “đã từng đến đây” còn tiện tay viết thêm điện thoại liên lạc với địa chỉ thầy giáo.

“Xem ông còn dám tùy tiện nữa không nào.” Viết xong cậu ta chua thêm một câu.

Tôi đứng dậy xem trên tường còn có những chữ gì.

“Đến Trường Thành rồi! Mình là Hảo hán!”

Câu này quá thường, không chừng phải có đến tám nghìn viên gạch trên Trường Thành viết thế này.

“Mình phải học theo Trường Thành, kiên cường sừng sững nghìn năm!”

Kiên cường cũng tốt, nhưng phải có công, tâm, đức. Không có công, tâm, đức mà sừng sững nghìn năm chắc thành di họa nghìn năm mất.

“Tiểu Hồng! Tình yêu anh dành cho em ngun ngút như Trường Thành!”

Trò ngớ ngẩn làm lúc si mê, cũng có thể thông cảm. Tiểu Hồng làm ơn, đá thằng cha đó đi.

“XX của ta còn dài hơn Trường Thành!”

“Mẹ kiếp!” tôi không kìm nổi buột miệng.

“He he...” Thấy Noãn Noãn đang nhìn, mặt tôi đỏ bừng. “Anh thất thố quá.”

“Không sao,” Noãn Noãn nói, “anh chửi được đấy”.

“Anh còn có thể chửi khó nghe hơn ấy chứ.”

“Chửi nghe xem nào.”

Tôi mở miệng, trước sau đều không phun được từ nào nữa, cuối cùng đành nói: “Hay bọn mình đi tiếp đi.”

Trèo lên phía trước một lúc, cuối cùng cũng­Phong Hỏa Đài, địa thế ở đây vừa cao vừa hiểm, tầm nhìn lại rộng rãi, vậy nên mới được dùng làm nơi đốt lửa báo hiệu.

Có khoảng hơn hai mươi sinh viên đang ngồi tán chuyện, Từ Trì nhìn thấy tôi bèn nói: “Anh Thái, chân anh vẫn ổn đấy chứ?”

Nghe cậu ta nói tôi mới cảm thấy chân mình đã hơi bủn rủn.

Trong bốn giáo viên đã có ba người tới nơi, thầy Lý phía Bắc Kinh bị tụt lại phía sau, thầy tới cũng có nghĩa là cả đoàn đã đầy đủ.

Mười phút sau, thầy Lý cuối cùng cũng cán đích.

Thầy thở hồng hộc, đếm lại số người, hắng giọng vài cái rồi nói:

Mọi người đều đã nghe câu “Bất đáo Trường Thành phỉ hảo hán” rồi, nhưng có nhất định phải leo Trường Thành mới chứng tỏ mình là hảo hán không? Các bạn cứ thử chọn một ngọn núi hiểm trở, rồi trèo từ chân núi lên đỉnh núi xem, ai dám nói các bạn không phải hảo hán? Hoặc giả các bạn đi bộ một lèo quanh Bắc Kinh, giữa đường không nghỉ, không gọi xe cấp cứu không khóc bố gào mẹ, lại chẳng phải hảo hán sao? Leo Trường Thành, mục đích không chỉ để chứng tỏ mình là hảo hán, nhìn dưới chân xem, các bạn đang giẫm lên những động mạch lịch sử. Có Trường Thành, nước Tần mới có thể thôn tính sáu nước, thống nhất Trung Nguyên; nếu như không có Trường Thành, lịch sử sẽ hoàn toàn thay đổi. Các bạn thường đọc trong sách những câu thơ ngắm vịnh Trường Thành cùng những tướng sĩ nơi biên cương, đó là nét đẹp của văn học; ngày hôm nay, các bạn leo một lượt, càng có cảm xúc sâu sắc hơn về nét đẹp văn học ấy, đồng thời các bạn cũng có thể cảm nhận tính chân thực của lịch sử. Lịch sử chính là dấu chân của nhân loại để lại qua hàng nghìn năm, dấu chân của các bạn lúc này đây cũng sẽ trở thành lịch sử trong tương lai đấy. Nhìn quanh bốn phía, địa thế càng hiểm yếu, càng thể hiện sự hùng vĩ của Trường Thành, nếu như Trường Thành được xây trên đồng bằng, thế lại chẳng như một bức tường sao. Đời người cũng thế, càng khó khăn trắc trở, càng có thể thể hiện giá trị của các bạn, càng có thể khích lệ các bạn tiến lên, hiểu được tầng đạo lý này, các bạn mới là hảo hán đích thực.

Thầy nói xong mọi người rào rào vỗ tay, thầy Lý quả thực nói rất hay. Tuy nhiên hơi cảm tính quá thì phải.

Thầy Trương phía Bắc Kinh đứng dậy, cũng hắng giọng nói:

“Lát nữa mọi người cùng đứng chụp một bức ảnh tập thể dưới Phong Hỏa Đài. Trong lúc chụp ảnh, mong các bạn sinh viên hãy cùng thầm cầu nguyện trong lòng: Nguyện Phong Hỏa Đài mãi không còn đốt lên khói lửa.”

Giờ thì sao đây? Cảm tính cũng có thể bị lây nhiễm rồi.

Thầy Trương mời thầy Chu phía Đài Loan cũng lên nói vài lời, thầy Chu chậm rãi đứng dậy, nhìn quanh khắp lượt, nói:

“Thường nghe người ta nói: Đây chính là lịch sử. Câu nói này còn có một ý nghĩa sâu xa khác. Chúng ta đều biết ‘đây’ trong Tiếng Anh nói là ‘dít-sờ’ (this), đọc lên nghe rất giống ‘lịch sử’, do vậy this is lịch sử có nghĩa là...”

Thầy ngẩng đầu lên, nhìn về phía xa, nói: “Đây chính là lịch sử.”

Nghe xong câu này, tôi chỉ còn biết ngã lăn ra đất.

Phong Hỏa Đài dù có đốt lên khói lửa, nghe thầy nói một câu, có lẽ cũng tắt luôn.

Cuối cùng là thầy Ngô phía Đài Loan, thầy chỉ điềm nhiên nói:

“Các bạn sinh viên trong lòng nhất định có rất nhiều cảm xúc muốn được bộc bạch. Thế này đi, tối nay trước khi đi ngủ, mỗi người hãy nộp một bài viết 500 chữ về cảm xúc khi leo Trường Thành cho tôi.”

Tôi vừa nghe xong liền từ dưới đất đứng bật dậy, tru lên một tiếng bi thương.

“Tôi chỉ đùa thôi.” Thầy bật cười ha hả. “Lát nữa còn phải leo tiếp, cho các bạn  liều thuốc kích thích ấy mà.”

“Hơi đâu đùa cái gì chứ.” Tôi hừ mũi.

“Thế còn anh?” Noãn Noãn hỏi. “Anh thì có cảm xúc gì?””

“Anh...”

“Có phải anh lại định nói cáp treo dài, Trường Thành lại càng dài, đến sợi mì ăn bữa trưa cũng dài hơn ở Đài Loan, tóm lại chỉ một chữ dài?”

Tôi cười không trả lời. Đúng là bị em nói trúng rồi.

Khi mọi người tập trung lại chuẩn bị chụp ảnh, thầy Chu lại nói:

“Mọi người lôi chứng minh thư ra để trước ngực chụp ảnh, như vậy mới kool.”

Giờ là lúc chụp ảnh tội phạm truy nã ư?

Tôi liếc trộm tấm thẻ chứng minh thư trong tay Noãn Noãn, còn em đường hoàn quay đầu nhìn chăm chú tấm thẻ của tôi.

Tôi khẳng khái đưa tấm thẻ cho em, em cười cười, cũng đưa tấm thẻ của em cho tôi.

Chứng minh thư của Noãn Noãn có in nổi bản đồ Trung Quốc màu trắng trên nền xanh dịu, còn có một cột biểu thị “Dân tộc Hán”.

“Tiếp tục lên đường thôi,” chụp ảnh xong, thầy Trương nói.

Mới leo được không lâu, đã thấy tận cùng của tường thành là vách núi, cụt đường rồi.

“Đây là nơi nàng Mạnh Khương khóc đổ Trường Thành phải không?”

“Không phải,” Noãn Noãn chỉ tay phải về phía Đông, “là ở Sơn Hải Quan kìa, nơi Trường Thành nhập vào biển.

“Thật không?”

“Phía đông thành Sơn Hải Quan có làng Đá Vọng Phu, phía bắc ngôi làng là ngọn núi Phượng Hoàng, miếu nàng Mạnh Khương ở chỗ đó. Sau miếu có một hòn đá lớn, gọi là đá Vọng Phu. Phía trên bên phải có một vết lõm, là dấu chân em Mạnh Khương đứng trên hòn đá chờ chồng.”

“Em đến đó rồi à?”

“Em nghe kể thế.”

“Sao em toàn nghe kể thế?”

“Vì tai em tốt mà.” Noãn Noãn cười.

Noãn Noãn dứt khoát ngồi xuống, vẫy vẫy tay với tôi, tôi bèn ngồi xuống cạnh em.

“Trên mặt biển Bột Hải phía đông nam miếu nàng Mạnh Khương, có hai rặng san hô cao thấp đối xứng nhau, rặng cao đứng như một tấm bia, rặng thấp nằm như một ngôi mộ, nghe nói đó chính là mộ nàng Mạnh Khương.” Ngừng lại một lúc, Noãn Noãn lại nói tiếp:

“Dù cho nước biển dâng thế nào, cũng vĩnh viễn không nhấn chìm được ngôi mộ đó.” Giọng Noãn Noãn khi kể chuyện rất dịu dàng, khiến người ta không muốn chen ngang phá tan không khí.

“Rất đẹp phải không?” một lúc sau, Noãn Noãn hỏi.

“Ừ.” Tôi gật đầu.

Liếc mắt sang thấy Noãn Noãn khẽ ngẩng đầu, nhắm mắt lại, thần thái rất thả lỏng.

Sau lưng vang lên hai tiếng he he, tôi và Noãn Noãn cùng quay đầu lại, đã thấy Cao Lượng đứng sau lưng.

“Xin lỗi nhé, quấy rầy hai người rồi,” cậu ta nói. “Thực ra có rất nhiều lỗ hổng trong truyền thuyết nàng Mạnh Khương.

“Hở?” Tôi đứng lên.

“Thứ nhất, nàng Mạnh Khương và Tần Thủy Hoàng căn bản không phải là người cùng một thời, Tần Thủy Hoàng phải kêu nàng Mạnh Khương là bà cố cố cố cố..., vài từ cố nữa vẫn còn thiếu. Thứ hai, Trường Thành mà Tần Thủy Hoàng và các vị tiên tổ khác đã xây dựng chưa từng tới tận Sơn Hải Quan.”

Cao Lượng nói như đinh đóng cột.

Tôi tin những gì Cao Lượng nói là đúng với sử sách.

Nhưng, giữa nàng Mạnh Khương “đẹp” và nàng Mạnh Khương “thật”, nếu như hai nàng muốn xông vào đánh nhau một mất một còn, tôi thà giữ nàng Mạnh Khương “đẹp” lại lòng mình.

Dù gì tôi cũng đã lĩnh ngộ được cái “thật” của lịch sử, vậy hãy để tôi giữ lấy cái “đẹp” của nàng Mạnh Khương đi.

Nghe úi chao một tiếng, hóa ra Noãn Noãn muốn đứng dậy kết quả lại ngã phệt xuống đất.

“Chân hơi tê.” Noãn Noãn cười đứng dậy.

“Để anh giúp em.” Tôi đưa tay phải ra.

Noãn Noãn cũng giơ tay phải nắm lấy tay tôi, tôi thuận thế kéo một cái, em liền đứng dậy, phủi phủi ống quần.

“Có đường tắt,” Cao Lượng chỉ về một bên, “đi qua kia là có thể tiếp tục leo rồi.”

Cao Lượng dẫn tôi và Noãn Noãn lên Trường Thành qua đường tắt. “Sắp tới rồi,” cậu ta cứ luôn mồm nói vậy.

Nhìn thấy có một địch lầu không xa, tôi thầm nghĩ lại được nghỉ một lúc

“Cuối cùng cũng đến Bắc Thất Lầu,” Cao Lượng nói.

“Bắc Thất? Cậu khẳng định đây là Bắc Thất ư?”

“Đúng thế,” Cao Lượng nói. “Lầu tiếp theo là điểm cuối cùng, Bắc Bát Lầu.”

“Noãn Noãn!” tôi gọi lớn.

“Em ở ngay cạnh anh này,” Noãn Noãn nói, “anh gọi cái gì thế?”

“Mau, đây là lầu của em, em phải đứng đây chụp riêng một kiểu.”

Noãn Noãn và Cao Lượng hình như đều không hiểu mô tê gì.

Tôi giục mãi, Noãn Noãn nói: “Máy ảnh của cậu ấy chuyên nghiệp lắm, đừng lãng phí phim.”

“Phim cũng như tuổi trẻ ấy, đều dùng để lãng phí mà,” Cao Lượng cười cười.

Ồ? Lời Cao Lượng nói cũng sâu sắc thật.

Cao Lượng giơ ống kính ra ý Noãn Noãn mau chọn tư thế, Noãn Noãn nhìn ánh mắt gi­an tà của tôi, chỉ tôi nói: “Anh quay người đi, không được nhìn.”

Tôi quay người đi, Cao Lượng chụp tách một kiểu, rồi nói: “Anh Thái, anh cũng làm một kiểu không?”

“Thôi,” tôi lắc đầu, “cái lầu này chỉ có thể dùng để hình dung Noãn Noãn thôi.”

Phóng tầm mắt nhìn ra xa, Bắc Bát Lầu cô quạnh đứng giữa không trung, xa xôi nghìn trùng.

Tưởng như ông trời đã giơ tay ra túm Bắc Bát Lầu nhấc lên trời, vậy nên con đường tới Bắc Bát Lầu mới theo đó mà thẳng đứng như vậy.

Đường càng đi càng dốc, thành càng đi càng hẹp, gạch trên tường thành dường như cũng càng dày nặng hơn.

“Đoạn đường này được gọi là dốc Hảo Hán,” Cao Lượng nói. “Anh Thái, cố nữa lên.”

Tôi sắp nước mắt ròng ròng rồi đây.

Phàm là những nơi mang tên dốc Hảo Hán, đều là chỗ ngang nhiên hành hạ con người.

Hồi đại học leo lên dốc Hảo Hán ở núi Ali, leo đến nỗi cuối cùng đúng thành bốn chân bò trên mặt đường mà leo.

Tôi bảo Noãn Noãn leo trước tôi, làm thế ngộ nhỡ em trượt chân rơi xuống tôi còn có thể đỡ kịp.

“Sư huynh, em ở sau anh này.” Tôi quay đầu bèn thấy cậu em khóa dưới, nhưng đến câu chào tôi cũng chẳng còn sức mà nói nữa.

Cậu ta tay phải kéo tay Vương Khắc leo lên, tay trái còn giơ chữ V ra với tôi.

“Em hơi sợ độ cao, nên...” Vương Khắc dường như thấy ngại, nhỏ nhẹ nói.

Không ngờ tên tiểu tử này tinh thần tốt vậy, còn có thể nắm tay con gái nhà người ta nữa, điều này khiến tôi thật không thoải mái.

“Đừng khựng mông lại chứ huynh.” Cậu ta lại nói, “Em không tránh được đâu.”

Nếu như không phải... tôi hết hơi... chửi người... Vương Khắc lại ở đây... tôi nhất định chửi cậu... đồ đầu lợn.

Tôi hẳn phải mệt chết rồi, ngay đến tâm tư trong lòng cũng bị ngắt quãng thế nà

Noãn Noãn hình như cũng không chịu nổi nữa, dừng chân thở hồng hộc.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “nói cho em chuyện này rất hay.”

“Gì?” Noãn Noãn quay lại.

“Em có biết ở Đài Loan đồ ngốc nói thế nào không?”

“Nói thế nào?”

“Chính là ‘bắc thất’.”

“Anh...”

Noãn Noãn trừng mắt chỉ tay về phía tôi.

“Muốn báo thù thì đi tiếp hẵng nói.”

Noãn Noãn biến phẫn uất thành sức mạnh, cắm đầu đi tiếp. Sắp tới rồi... sắp tới rồi...

Cuối cùng cũng tới rồi.

Noãn Noãn chẳng còn sức đâu mà mắng tôi, ngồi liệt dưới đất. Còn tôi đến sức để ngồi cũng chẳng có nữa.

Vương Khắc lia lịa cảm ơn cậu em nọ, thằng nhóc chỉ biết cười ngớ ngẩn.

“Không có gì đâu,” cậu ta nói, “tớ hay dắt mấy bà lão qua đường lắm.”

Thằng khốn, đến tay bà già đầy vết nhăn nheo cũng không tha.

Cảnh sắc trên Bắc Bát Lầu càng hoang vắng, người đứng ở nơi này càng cảm thấy cô độc.

Tôi thầm nghĩ những binh sĩ trấn thủ nơi đây ăn cơm thế nào được? Có khi còn đưa cơm lên nữa.

Lúc đi xuống ăn cơm, cứ nghĩ đến ăn no xong lại phải leo một đoạn thế này, thì sao mà ngon miệng cho nổi.

Có khi lâu ngày rồi chẳng buồn xuống ăn cơm nữa.

Thật khiến người ta quá thương cảm.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

5#
Đăng lúc 18-6-2013 12:49:05 | Xem tất
CHƯƠNG 3
(Tiếp)


Thầy Lý sau rốt cũng lên tới nơi. “Thế nào rồi?” thầy cười hỏi.

“Liệt rồi ạ.” Cả đám sinh viên kêu thảm thiết.

“Đã lĩnh ngộ được ‘’Ỷ kiếm dục thùy ngữ, quan hà không uất hu ‘’* của thi nhân Cao Thích thời Đường chưa?” thầy hỏi.

‘’Ỷ kiếm dục thùy ngữ, quan hà không uất hu ‘’: Rút kiếm khỏi bao, chí hướng báo quốc tỏ cùng ai? Mặt sông biên cương, mênh mông khói sóng lặng như tờ.

“Một lĩnh ngộ quá đau đớn,” có sinh viên Đài Loan trả lời.

“Đây chính là lịch sử,” thầy Chu phía Đài Loan nói. “Mọi người nói có phải không?”

Lần này chẳng ai còn sức trả lời nữa.

“Hăng hái lên nào, các vị hảo hán.” Thầy Trương phía Bắc Kinh giơ máy ảnh lên. “Mọi người cùng chụp chung một bức ở đây, mong các bạn thầm nhủ trong lòng: tôi là một hảo hán yêu hòa bình.”

Lúc chụp ảnh, thầy Ngô phía Đài Loan kêu cậu em khóa dưới tôi nằm xuống đất giả chết, lại gọi thêm bốn sinh nữa lần lượt nắm lấy tứ chi cậu ta khiêng lên làm bối cảnh. Thật khổ cho thầy vẫn còn có hứng làm trò cười.

Từ đây, chúng tôi ngồi cáp treo phía bắc xuống thành. Ngồi trong khoang cáp, thấy buồn ngủ, nên xuống khỏi cáp treo, lên ô tô, chẳng bao lâu tôi đã ngủ thiếp đi.

Noãn Noãn lay tôi tỉnh, mở choàng mắt đã thấy mọi người đều đang xuống xe, tôi cũng nhổm dậy theo.

Trời đã tối, tôi cảm thấy mờ mờ ảo ảo, lúc xuống xe chân bước còn không vững.

“Cả đoàn đi rửa mặt mũi, xốc lại tinh thần trước đã,” thầy Lý nói. “Tôi thấy hay tối nay đừng ra ngoài nữa, cứ ăn trong nhà ăn của trường thôi.”

“Ăn trên xà ngang?” tôi hỏi Noãn Noãn. “Chúng ta đều biến thành vượn rồi sao?”

“Nhìn miệng em đây này.” Noãn Noãn nói lại rành rọt từng chữ: “Nhà – ăn.”

Hóa ra là ăn cơm tại căng tin trường, thế thì quá tốt, không cần phải vội vàng nữa.

Rửa mặt bằng nước lạnh xong, cũng coi như lấy lại được chút tinh thần. Bước vào căng tin, cuối cùng cũng nhìn thấy cơm trắng.

Ai chà, mấy ngày không gặp rồi, em vẫn trắng như thế, thật khiến người ta cảm động quá.

Lát nữa mà ta có ăn ít thì em đừng phật lòng nhé, đấy không phải lỗi của em, chỉ là vì ta mệt quá thôi.

Ý? Hình như em khô đi hả, sau này nhớ vào nồi cơm điện rồi phải uống thêm ít nước nhé.

“Anh lầm bầm cái gì đấy?” Noãn Noãn bê đĩa cơm đứng trước mặt tôi. “Vẫn chưa tỉnh à?”

“Tỉnh rồi chứ.”

“Anh chắc không?” Noãn Noãn đặt đĩa cơm, ngồi xuống đối diện tôi.

“Anh biết em tên là Noãn Noãn, người Hắc Long Giang, lên Bắc Kinh học, thích tỏ ra sành sỏi, tai rất thính nên thường hay nghe nói. Như thế đã coi là tỉnh chưa?”

“Anh vẫn còn quên một chuyện.”

“Chuyện gì?”

“Em muốn tới Noãn Noãn.”

“Anh lại buồn ngủ rồi.” Tôi nằm bò ra bàn giả vờ ngủ. Nằm một lúc, không nghe thấy Noãn Noãn có phản ứng gì.

Cứ nằm bò ra cũng không phải cách hay, tôi bèn từ từ ngồi dậy, len lén cầm bát đũa.

“Mỏi chân không?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ.” Tôi gật đầu. “Em cũng thế à?”

“Đương nhiên rồi, leo cả một ngày Trường Thành, lẽ nào chân vẫn còn bình thường được?”

“Tính hài hước của em sâu sắc thật đấy.”

“Thế ư?”

“Anh từng xem một bộ phim, nữ nhân vật chính và nam nhân vật chính đứng tránh mưa dưới cây dừa, đột nhiên từ trên cây rơi xuống một quả dừa, chàng trai nói: Là quả dừa đấy! Cô gái vặc lại: Từ trên cây dừa rơi xuống đương nhiên là quả dừa, lẽ nào lại là quả ổi chắc?” Tôi cười cười, “tính hài hước của em giống nữ nhân vật chính thật.”

“Anh thích xem phim à?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ,” tôi gật đầu, “phim gì cũng xem, nhưng phim nghệ thuật thì rất ít xem.”

“Sao lại thế?”

“Có lần anh xem một bộ phim nghệ thuật, trong đó Võ Tòng nói với Phan Kim Liên rất thâm tình thế này: trong lòng tôi, chị mãi là một bông hoa vàng trên đồng cỏ xanh.” Tôi cười sằng sặc. “Khoảnh khắc đó, anh sụp đổ luôn.”

“Sao lại cười kiểu thế?”

“Lúc đó anh cười thế đấy, kết quả bao ánh mắt như băng xung quanh đều chĩa hết lại. Từ đó anh không dám xem phim nghệ thuật nữa, sợ lại nghe thấy mấy câu thoại kinh điển kiểu thế.”

Nói xong, tôi lại không kìm nổi cười sằng sặc.

“Cười xong chưa?” Noãn Noãn nói. “Miệng anh không tê à?”

“He.” Tôi ngừng cười, nói: “Thật đến giờ anh vẫn còn sợ đây.”

Đột nhiên cảm thấy chỉ cần ở bên Noãn Noãn, tôi liền trở nên lắm lời.

Điều này có hai khả năng, một là em có thể khiến tôi bất giác muốn nói nhiều, hai là tôi dễ dàng cảm thấy em muốn nghe, thành ra càng nói càng nhiều chuyện.

Ngay như bây giờ, em có vẻ khá mệt mỏi, nhưng lại vẫn có tinh thần nghe tôi nói mấy lời nhảm nhí này.

“Thật mệt quá.” Em cúi đầu nhìn đĩa cơm. “Ăn không hết, phải làm sao đây?”

“Ăn không hết, gói mang về.” Tôi nói.

“Câu này không phải dùng thế đâu.”

“Ở Đài Loan dùng thế đấy.” Tôi cười he he mấy tiếng.

Tôi và Noãn Noãn ra khỏi nhà ăn, đi mấy bước, tôi bỗng dừng khựng lại.

“À. Suýt nữa quên mất,” tôi nói.

“Quên gì ?”

“Anh mới là ‘bắc thất’,” tôi chỉ mình nói. “Lúc ở Trường Thành trêu em, em đừng để bụng nhé.”

Noãn Noãn nghĩ một lúc rồi bật cười thành tiếng, nói: “Lần sau đừng có đem tiếng Đài Loan ra mắng em, em nghe không hiểu đâu.”

“Ừ,” tôi nói, “muốn mắng em nhất định phải mắng bằng tiếng phổ thông, thế em mới hiểu được.”

“Này!”

“Anh đùa thôi.”

Đi qua giảng đường, thấy phần lớn sinh viên đều đang ở bên trong, tiếng cười đầy ắp căn phòng.

Người nói chuyện, người khoe đồ lưu niệm hôm nay mua ở Trường Thành, có người lại xem ảnh trong máy kỹ thuật số.

Tôi và Noãn Noãn nhập hội với bọn họ, Từ Trì nói với tôi: “Anh Thái, em chụp trộm anh một cái đấy.”

Xích lại xem, hóa ra là kiểu tôi ngã phịch xuống đất ở Phong Hỏa Đài.

“Lúc đấy sao anh không làm chữ V?” Noãn Noãn nói.

“Em đúng là chỉ thấy cây mà không thấy rừng,” tôi nói, “hai chân anh choãi ra, chẳng phải là hình chữ V rồi còn gì?”

Tôi đắc ý cười ha ha, cười còn chưa dứt, mắt đã tia thấy cậu em khóa dưới đang ngồi cùng Vương Khắc trong góc giảng đường.

Tôi tò mò tiến lại.

Vương Khắc đang cúi đầu vẽ gì đó, cậu em ngồi đối diện, cũng cúi đầu xem Vương Khắc vẽ vẽ.

Tôi chen đầu vào giữa hai người, ba cái đầu vừa hay làm thành một tam giác cân.

Đó là một bản vẽ phác, Trường Thành uốn lượn trên các mỏm núi như một con rồng, người tới ngao du Trường Thành điểm xuyết thành những vây rồng.

“Vẽ đẹp quá!” tôi thốt lên cảm thán.

Vương Khắc ngẩng đầu lên, bẽn lẽn cười với tôi.

“Sư huynh.” Tên tiểu tử cũng ngẩng lên, ra chiều thần bí nói: “Sáng nhỉ.”

“OK,” tôi gật đầu với cậu ta, “anh hiểu.”

Lúc quay người định đi, tôi còn thấy ánh mắt Vương Khắc đầy vẻ bối rối.

“Ý của cậu ta là anh đang làm cái bóng điện giữa hai đứa ấy,” tôi nói với Vương Khắc. “Bóng điện chính là...”

“Sư huynh!” Cậu em đã hơi sốt ruột.

Vương Khắc đã hiểu ra, mặt lộ vẻ ngượng nghịu, lại cúi xuống vẽ tiếp.

Tôi cười thỏa mãn bỏ đi.

“Anh này, thật xấu gớm,” Noãn Noãn nói.

“Xấu gớm?” tôi hỏi. “Nghĩa là gì?”

“Gớm trong tiếng Đông Bắc nghĩa là rất, cực kỳ.”

“Ồ,” tôi bừng tỉnh lĩnh ngộ, “Noãn Noãn, em thật xinh gớm. Nói thế có được không?”

“Cách nói thì không sao,” Noãn Noãn bật cười, “nhưng tính từ miêu tả em có vẻ không thích hợp"

“Đã không thích hợp sao em còn cười vui thế?”

“Lương Lương!” Noãn Noãn hét lên.

Tôi vội vàng dạt sang bên Từ Trì giả bộ bận bịu.

Mọi người ngồi trong giảng đường nói chuyện rất khuya, mãi đến khi các thầy tới đuổi mới chịu tan.

Về đến phòng, vừa nhảy lên giường đã thấy hai mắt trĩu xuống.

“Anh Thái, lần sau anh đến Bắc Kinh, em dẫn anh đi leo đoạn Trường Thành Tư Mã Đài,” Cao Lượng nói.

Cậu ta bảo chỗ đó là đoạn Trường Thành heo hút, rất ít du khách, với lại phần lớn toàn là khách nước ngoài.

Cậu ta cũng nói Trường Thành Tư Mã Đài cực kỳ hùng vĩ hiểm trở, là thiên đường của các nhà thám hiểm, vân vân...

Tôi cũng chả nhớ nữa, vì cậu ta kể đến nửa tôi đã ngủ thiếp rồi, người đã ngủ trí nhớ vốn ngắn mà.

HẾT CHƯƠNG 3.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

6#
Đăng lúc 18-6-2013 13:06:37 | Xem tất
CHƯƠNG 4


Ngày hôm sau tỉnh dậy, tôi nhảy một phát từ giường trên xuống, đây là thói quen hình thành từ hồi còn học đại học.

Một mặt có thể tức tốc tỉnh táo mà chạy cho kịp tiết đầu tiên, mặt khác, nhỡ may đáp xuống không thành công, cũng có đầy đủ lý do để không phải lên lớp.

Nhưng hôm nay tuy hạ cánh thành công, song hai chân lại mỏi nhừ.

Tôi gần như không đi được.

May mà đánh răng rửa mặt với ăn sáng không cần dùng đến chân, nhưng chặng đường đến giảng đường thì thật lê thê.

“Này.” Vừa bước vào giảng đường, Noãn Noãn liền đưa một lọ gì đó cho tôi.

Tôi cầm trên tay quan sát tỉ mỉ, là thuốc trắng Vân Nam dạng xịt.

“Hiệu nghiệm lắm đấy,” em lại nói.

Tôi xắn ống quần, xịt mỗi bên bắp chân ba phát, cảm giác mát lạnh, đau tê dường như cũng dần dần tan biến.

Trầm ngâm vài giây, tôi lập tức đứng dậy chạy khỏi giảng đường.

“Anh đi đâu đấy?” Tiếng Noãn Noãn với theo sau lưng. “Sắp vào giờ rồi.”

“Đùi cũng cần phải phun nữa,” tôi nói, đầu vẫn không ngoảnh lại.

“Thật là,” Noãn Noãn thấy tôi từ nhà vệ sinh quay lại bèn nói.

Thật là làm sao? Lẽ nào tôi có thể tụt quần giữa giảng đường phun thuốc lên đùi sao?

Hôm nay nghe nói người đứng lớp là một giáo sư đại học, sẽ giảng về đặc sắc ngôn ngữ của tiếng Hán.

Vốn nghĩ chắc sẽ là một học giả già nua, người như vậy thường có thể kiêm cả ảo thuật gia lẫn nhà thôi miên. Tức là vừa sẽ làm ảo thuật khiến mặt bàn có lực hấp dẫn, hút dính lấy mặt bạn; lại cũng là một nhà thôi miên dùng ngữ điệu giảng bài để ru bạn ngủ đi ngủ đi.

Thế nhưng vị giáo sư này tuy đã hơn 60 tuổi, song giảng bài lại rất hóm hỉnh thú vị, giọng điệu nhẹ nhàng không đao to búa lớn.

Bở đám sinh viên chúng tôi đến từ những khoa khác nhau, nên thầy hoàn toàn không giảng những lý luận uyên thâm.

Thầy nói từng âm từng chữ trong tiếng Trung đều có tính sắp xếp kết hợp mạnh, cách ngắt câu khác nhau, ý nghĩa cũng khác nhau. Thậm chí còn thường thấy những câu đọc xuôi cũng được, mà đọc ngược cũng xong.

Ví dụ như “Trẻ con ăn rau cải không thể hư hỏng” câu này sau khi sắp xếp tập hợp lại, có thể trở thành: “Trẻ con không thể ăn rau cải hư hỏng”, “Trẻ con hư hỏng không thể ăn rau cải” đều có nghĩa cả.

Lại có thể trở thành “Rau cải ăn trẻ con không thể hư hỏng”, tuy rằng câu này chỉ có thể xuất hiện trong mấy phim kinh dị.

Tiếng Anh phân làm các thời thì, là bởi coi trọng thời gian, vì vậy nó là ngôn ngữ mang tính khoa học; tiếng Trung không có thời thì, vì người Trung Quốc không chú trọng thời gi­an, không có quan niệm về thời gian.

“Đó là tán nhăng cuội thôi. Một động từ có ba cách viết, đúng là nhàn cư rửng mỡ. Thêm vào một từ biểu thị thời quá khứ chẳng phải là xong sao, hà tất phải khổ sở phân biệt. Đời người các thứ phải học nhiều vô vàn, đừng để động từ làm khó mình.” Thầy mỉm cười. “Đây chính là Phật.”

Tiếng Anh nói a book, a desk, a car, a tree, a man... đều chỉ có một chữ “a”, đơn giản; tiếng Trung lại có cách nói một cây, một hạt, một tờ, một cái, một quyển, một chiếc, một cỗ..., quá phức tạp.

“Đó là bởi người Trung Quốc biết vạn sự vạn vật đều có tính đặc trưng riêng, vì vậy đơn vị đo lường phải khác nhau, biểu thị sự tôn trọng.” Thầy cười lớn. “Đây chính là Đạo.”

Sức sống của tiếng Trung rất mạnh, một từ có thể có bao nhiêu nghĩa quan hệ mật thiết với từ tính của nó.

“Bạn sinh viên nào có thể lấy một ví dụ? Nếu lấy hay, tôi sẽ đích thân viết hai chữ ‘Tài tử’ tặng bạn đó.”

Thầy nói đùa: “Lên mạng bán, có lẽ cũng đáng mấy tiền đấy.”

“Chữ bút lông của vị giáo sư này cực kỳ đẹp,” Noãn Noãn thì thầm nói với tôi, “Lương Lương, thử xem?”

Tôi lắc đầu.

Tôi là người khiêm tốn, lẽ nào tài hoa của tôi cao tám đấu cũng phải để mọi người biết đến hay sao?

Cậu em khóa dưới đột nhiên giơ tay, làm tôi sợ thót tim, thầm nghĩ tên tiểu tử này điên rồi.

Chỉ thấy thầy giáo gật đầu nói: “Mời.”

“Sàng tiền minh nguyệt quang, mỹ nữ lai thưởng quang; y phục thoát quang quang, cộng độ hảo thời quang,” Cậu ta đứng dậy nói. “Bốn chữ ‘quang’ này đều có ý nghĩa khác nhau.”

“Bạn sinh viên này đến từ Đài Loan phải không?” thầy hỏi.

“Dạ.” Cậu ta gật đầu.

“Thật có dũng khí,” thầy giáo lại cười ha hả, “thiếu niên anh hùng.”

Xấu hổ quá, thật đáng xấu hổ. Tôi không ngẩng nổi đầu dậy.

“Vậy lát nữa thầy viết cho em chữ ‘tài tử’ hay ‘thiếu niên anh hùng’ nhỉ?” cậu ta nhỏ giọng hỏi tôi.

“Ngậm mồm vào,” tôi nghiến răng nói.

Thầy giáo tiếp tục để sinh viên Đài Loan cùng sinh viên Bắc Kinh thảo luận về sự khác biệt giữa cách nói hai v

Có người nói, sinh viên Đài Loan nói năng mềm mại nho nhã, ngữ điệu không quá lên bổng xuống trầm, thường dùng từ cảm thán; sinh viên Bắc Kinh nói năng hào khí, ngữ điệu cao, trầm bổng rõ ràng, dùng từ cũng khá tinh giản.

Ví dụ như sinh viên Đài Loan nói “Cậu thật là xinh ấy!”, sinh viên Bắc Kinh sẽ nói “Cậu xinh thật”.

Người ta nói cảm ơn, sinh viên Đài Loan sẽ nói “Đừng khách sáo”; người ta nói xin lỗi, sinh viên Đài Loan sẽ nói Không có gì.

Ngữ điệu luôn kéo bằng, nhỏ nhẹ chậm rãi.

Còn bất kể người ta nói cảm ơn hay xin lỗi, sinh viên Bắc Kinh đều nói “Không sao.”

Câu cuối lên giọng, ngắn gọn, khá có cảm giác hào hùng.

“Chúng ta thử làm một cuộc thử nghiệm nhỏ xem,” sau khi mọi người rào rào nói xong, thầy giáo nói.

Thầy đặt ra một tình huống: Bạn phải đi máy bay tới Bắc Kinh, muốn đi thăm Cố Cung và leo Trường Thành, trước khi ra khỏi nhà nói với mẹ xem phải ngồi máy bay mấy tiếng, mấy giờ tới Bắc Kinh, tới Bắc Kinh xong sẽ gọi về báo đã đến nơi an toàn.

Mọi người lần lượt nói xong, nội dung đều như nhau.

Kết quả phát hiện thấy một đoạn trần thuật gần 50 chữ này có vài chỗ khác nhau về cách nói.

Ví dụ, sinh viên Đài Loan sau cùng nói “Con sẽ gọi về nhà”; sinh viên Bắc Kinh lại nói “sẽ điện lại nhà”.

“Giờ dùng đầu ngón tay đếm xem các bạn vừa nói tổng cộng bao nhiêu chữ?” thầy nói.

Sau khi tính toán bình quân, sinh viên Đài Loan nói 52,4 chữ; sinh viên Bắc Kinh nói 48,

Để đánh giá khách quan, thầy giáo lại đưa ra ba tình huống nữa, kết quả cũng tương tự: trong một đoạn trần thuật gần 50 chữ, sinh viên Đài Loan bình quân dùng nhiều hơn 3 đến 4 chữ.

Tôi thấy không phục, nói với Noãn Noãn: “Mau ra bên ngoài giảng đường. Em nói thế nào?”

“Mau ra ngoài giảng đường.” Noãn Noãn nói.

Đếm ngón tay tính, em nói ít hơn tôi một chữ.

“Cái áo này không tệ,” tôi nói.

“Áo này đẹp đấy,” Noãn Noãn đáp lại.

“Cái áo này đẹp quá mất.”

“Áo này siêu đẹp.”

“Cái áo này quả thực quá tuyệt.”

“Áo này siêu siêu đẹp,” Noãn Noãn cười nói. “Em vẫn dùng ít chữ hơn anh.”

“Em cãi cố. Làm gì có ai nói siêu siêu đẹp.”

“Ở Bắc Kinh nói thế đấy.” Noãn Noãn cười he he.

Cuối cùng thầy giáo lấy tiểu thuyết kiếm hiệp ra làm ví dụ, kết thúc bài giảng buổi sáng hôm nay.

Trong tiểu thuyết kiếm hiệp, đại hiệp Bắc Kinh vừa bước vào quán trọ đã hét: Đem rượu lại đây!

Còn đại hiệp Đài Loan lại nói: Tiểu nhị, cho ta một bình rượu.

Đã thấy rõ khác biệt chưa ?

Đại hiệp Đài Loan thường không bỏ qua chủ từ và thụ từ trong câu, chính là “ta” và “tiểu nhị”; hơn nữa đơn vị đo lường cũng rất rõ ràng, một bình hay một vò, bắt buộc phải phân biệt rõ.

Đại hiệp Bắc Kinh lại đơn giản hơn nhiều, mặc ngươi có là tiểu nhị, tiểu tam hay là chủ tiệm, cứ đem rượu lại đây.

Rượu thì tay ai mang ra mà chả giống nhau.

Vì là ta nói, nên đương nhiên là mang ra cho ta, lẽ nào kêu ngươi đem đi tưới hoa?

Còn về đơn vị đo lường, bất kể dùng bình, vò, vại, chum, cốc, bát, nông hay sâu, cứ đựng được uống rượu là được.

Nếu như luyện đến cảnh giới cao nhất của võ công, đại hiệp Bắc Kinh sẽ chỉ nói: “Rượu!”

Còn đại hiệp Đài Loan dù có đạt đến cảnh giới cao nhất, có lẽ vẫn sẽ nói: “Cho bình rượu.”

Đương nhiên cũng vì vậy mà đại hiệp Đài Loan thường được các quán trọ đặc biệt chào đón.

Bởi chỉ lệnh của đại hiệp Đài Loan rõ ràng, đỡ khiến người ta nhầm lẫn.

Đại hiệp Bắc Kinh chỉ nói đem rượu, nhưng nếu tiểu nhị đem một vò rượu lớn cho đại hiệp Bắc Kinh, bạn đoán xem sẽ ra sao?

“Cái quái gì thế này!” đại hiệp Bắc Kinh tức tối gầm lên. “Ngươi định dìm chết ta đấy à?” Lúc đấy nhất định tiểu nhị sẽ lầm bầm rủa thầm trong miệng cái tên khốn nhà ngài cũng đâu có nói đem ra bao nhiêu rượu.

“Định làm phản hả?” Đại hiệp Bắc Kinh hừ một tiếng bèn rút kiếm ra.

Vì vậy trong tiểu thuyết kiếm hiệp, những trận đánh đấu trong quán trọ thông thường đều xảy ra ở miền Bắc.

Từ xưa Hà Bắc bao tráng sĩ bi ca khảng khái, thường là rượu vào mà đánh nhau, thế còn không bi sao?

“Vậy quán trọ ở Đài Loan thì sao ạ?” một sinh viên hỏi.

“Quán trọ Đài Loan đương nhiên diễn ra nhiều câu chuyện ái tình lâm ly,” thầy cười cười nói. “Các bạn không thấy bán rượu trong quán trọ Đài Loan thường là các tiểu cô nương sao.”

Thầy nói xong, cười rất mờ ám, rồi lập tức thu lại nụ cười, vỗ tay.

“Không tán nhăng cuội nữa, sáng mai chúng ta lại học tiếp phần Văn tự,” thầy nói. “Các bạn mau đi ăn trưa, ăn xong sẽ đi tham quan ngõ cổ.”

Ăn qua quýt bữa trưa trong nhà ăn trường, mọi người lên xe đến thẳng Cổ Lâu, leo lên lầu này có thể nhìn ra thành Bắc Kinh.

Đứng trên Cổ Lâu nhìn ra khu thành cổ Bắc Kinh và những ngõ cổ rối rắm phức tạp, tầm nhìn rất đẹp.

“Trước tiên chúng ta đi dạo gần Thập Sát Hải, cảm nhận một chút,” xuống khỏi Cổ Lâu, thầy Lý nói. “Lát nữa ngồi xe ba bánh dạo ngõ cổ, không cần cuốc bộ nữa.”

Thầy vừa nói dứt, tiếng hoan hô đã ầm ầm vang dội.

Tôi và Noãn Noãn tới cầu Ngân Định, cây cầu đá vòm nối liền Tiền Hải và Hậu Hải của Thập Sát Hải.

Cầu dài chưa đến mười mét, rộng gần tám mét, bên dưới còn có những con thuyền nhỏ xuôi dưới vòm cầu.

Đi từ cầu Ngân Định về phía Hậu Hải, bờ hồ cây cối sum sê, giữa vạt xanh của cây lá điểm xuyến những lầu gác đền chùa cổ kính.

Mặt hồ lặng như gương, phía xa xa, Tây Sơn như ẩn như hiện, vài con thuyền nhỏ lững lờ trôi trên mặt nước, tạo nên một bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp.

Tôi cùng Noãn Noãn đi men theo con đường phủ kín bóng cây ven hồ, tuy đang giữa mùa hạ, nhưng lại cảm thấy rất mát mẻ.

Noãn Noãn mua hai bình sữa chua, chia cho tôi một bình, chúng tôi ngồi bệt xuống đất, cùng phóng tầm mắt ngắm nhìn cảnh hồ.

Dòng thời gi­an dường như chảy chậm lại, gần như ngưng đọng.

Tôi uống một ngụm sữa chua, mùi vị rất tuyệt, cảm giác giống yagurt của Đài Loan.

“Em từng trượt băng ở đây rồi đấy,” bẵng một lúc, Noãn Noãn lên tiếng.

“Trượt băng?” Nhìn nước hồ xanh vắt màu ngọc bích trước mắt, tôi không khỏi thắc mắc: “Ở đây có sân trượt băng sao?”

“Mùa đông đến, mặt hồ kết băng, chẳng phải là sân trượt băng thiên nhiên còn gì?” Noãn Noãn cười khúc khích.

“Quả nhiên ve hè không biết đến băng,” tôi nói, “một người sống ở Đài Loan như anh rất khó tưởng tượng nổi.”

“Anh biết trượt băng không?” Noãn Noãn hỏi.

“Anh chỉ biết ăn băng thôi, không biết trượt băng.” Tôi cười hì hì, “Đến sân trượt băng anh còn chưa thấy nữa là.”

“Bao giờ có cơ hội, anh về quê em, em dạy anh trượt băng.”

“Được thôi. Em phải dạy kiểu, dắt tay anh, rồi nói anh giỏi thật, anh là thiên tài ấy.”

“Mơ đấy à. Em sẽ xuống, rồi mặc kệ anh, còn đứng bên cạnh mắng anh ngốc, làm thế anh sẽ học nhanh lắm.”

“Em mà dạy như thế, anh không học nữa.”

“Không được, anh phải học.”

“Sao chứ?”

“Em muốn nhìn anh ngã.” Noãn Noãn nói xong liền cười rũ.

“Em thật là xấu gớm,” tôi nói.

“Tính từ này thì sát thực hơn rồi đấy.” Noãn Noãn vẫn cười không dứt.

Chúng tôi lại đứng dậy tùy hứng dạo bộ, đi dạo ở đây thật là thoải mái.

“Em đã ở Bắc Kinh năm mùa đông rồi, mùa đông nào cũng đến đây trượt băng,” Noãn Noãn nói.

“Em tốt nghiệp đại học rồi á?” tôi hỏi.

“Vâng,” Noãn Noãn gật đầu, “sắp nghiên cứu sinh năm hai rồi, giờ này năm sau là em đi làm rồi.”

“Làm ở Bắc Kinh à? Hay về quê?”

“Chắc là vẫn ở lại Bắc Kinh làm việc.” Noãn Noãn như thở dài, nói: “Thời gian xa nhà càng dài, đường về nhà càng xa.”

“Nếu như em ở Bắc Kinh làm việc, anh sẽ đến Bắc Kinh tìm em,” tôi nói.

“Thật không?” Noãn Noãn mắt sáng bừng.

“Ừ.” Tôi gật đầu.

“Thế thì tốt quá, ở Bắc Kinh còn nhiều thứ hay lắm, em sẽ chỉ anh xem.” Noãn Noãn rất hứng thú. “Hay nhất là chúng ta có thể lại đi ăn món Tứ Xuyên, món Trùng Khánh, để anh cay ngất đi, chắc chắn là rất vui.”

“Nếu như vậy, anh sẽ lập tức về Đài Loan.”

“Không được, em cứ không cho anh về.”

Noãn Noãn cười rất vui vẻ, nét buồn vừa nãy phảng phất qua mắt em thoắt cái đã tiêu tan.

Trong lòng tôi lại cứ nghĩ đến lần sau gặp lại em ở Bắc Kinh, không biết sẽ thế nào?

Cũng không biết là khi nào nữa?

Và chúng tôi lúc đó, còn có thể ngây thơ đơn giản như bây giờ được không?

“He, nếu như em về quê làm việc, thì anh không tới tìm em nữa à?” Noãn Noãn đột nhiên cất lời.

“Anh không biết Hắc Long Gi­ang là nơi thế nào.” Tôi nghĩ ngợi một lúc, nói tiếp: “Có khi phải leo qua mấy ngọn núi tuyết, nhảy qua mấy con sông băng, chưa biết chừng đi đến hơn nửa tháng mới gặp một bóng người, hơn nữa người ở đó còn không biết nói tiếng phổ thông. Quan trọng là anh không biết săn bắn, không biết phải lấy gì nhét bụng đây.”

“Xem anh tưởng tượng về Hắc Long Giang thế nào kìa,” Noãn Noãn nói. “Hắc Long Giang cũng tiến bộ lắm đấy.”

Xem ra ấn tượng của tôi về Hắc Long Gi­ang e rằng đã dừng lại ở cuối đời Thanh, mà có khi còn sớm hơn nữa.

“Nếu như Hắc Long Giang thật như anh hình dung, thì anh còn đến không?”

Noãn Noãn dừng bước, quay lại đối diện tôi.

“Noãn Noãn.” Tôi cũng dừng bước.

“Ưm?”

“Anh sẽ đến.” Tôi bật cười.

Noãn Noãn cũng cười, nụ cười thật rạng rỡ, như ánh mặt trời mùa đông, tươi sáng mà ấm áp.

Tôi thành thật tin rằng, để thấy lại nụ cười rực rỡ của Noãn Noãn, đến Himalaya tôi cũng sẽ đi.

“Nhưng em phải dạy anh săn bắn trước đã,” tôi nói.

“Cứ không đấy,” Noãn Noãn nói, “tốt nhất cứ để gấu đen cắn chết anh.”

“Gặp gấu đen thì giả chết chứ sao, gì chứ giả chết thì anh có nghề lắm.”

“Còn cả hổ Đông Bắc nữa.”

“Ờm...” tôi nói, “có khi anh không đi thì hơn.”

“Không được, anh vừa hứa sẽ tới mà.”

“Hứa bừa cũng có phạm pháp đâu.”

“Này.”

“Được rồi. Anh đi,” tôi nói. “Nhỡ may gặp phải hổ Đông Bắc, anh sẽ nói lý với nó.”

“Hổ Đông Bắc không hiểu tiếng người đâu.”

“Để gặp em, anh nghìn dặm xa xôi, vượt núi băng ghềnh, chắc chắn khiến ông Trời cảm động. Ông Trời đã thấm thía cảm động rồi, huống chi là hổ Đông Bắc. Có khi nó còn ngậm ngùi xúc động chỉ đường cho anh cũng nên.”

“Đấy là vì nó đói muốn xỉu rồi, đột nhiên thấy thức ăn dâng đến miệng, nên ngậm ngùi xúc thì có,” Noãn Noãn vừa nói vừa cười. Tôi thấy thú vị, cũng cười hùa theo.

Tôi với Noãn Noãn vừa đi vừa cười nói, lại trở về cầu Ngân Định.

Thầy Lý đã tìm được hơn hai mươi chiếc xe xích lô, cứ hai sinh viên ngồi một xe.

Thầy để sinh viên lên xe trước, rồi đi dặn dò từng xe một, không biết nói những việc gì.

Thầy đến bên xe chở tôi và Noãn Noãn, chào người lái xe là bác phu, rồi dặn dò: điểm cuối cùng là Cung Vương Phủ, dọc đường đi nếu chúng tôi thích có thể tùy lúc xuống xe thăm thú, nhưng không được quá lâu.

“Cứ dạo từ tốn, thảnh thơi tản bộ.” Thầy Lý mỉm cười với chúng tôi.

Xe xích lô vừa lăn bánh, Noãn Noãn bèn nói em đến Bắc Kinh lâu vậy rồi nhưng đây là lần đầu tiên được ngồi xe ba bánh đi dạo ngõ cổ.

“Giống cô gái lớn rồi ngồi kiệu hoa ấy,” tôi nói.

“Hả?”

“Đều gọi là lần đầu tiên.”

“Anh nhạt thật đấy.” Noãn Noãn trừng mắt lườm tôi.

“Thưa ông, nghe giọng ông, chắc là người miền Nam?” Bác phu đột nhiên lên tiếng.

“Bác cứ gọi cháu bình thường thôi ạ.” Nghe bác ta gọi ông mà tôi rủn hết cả người. “Cháu từ Đài Loan tới.”

“Thảo nào,” bác phu nói, “người Đài Loan các ngài lịch sự lễ phép lắm, con người rất tốt.”

Tôi ngượng ngùng cười, rồi quay sang Noãn Noãn nói: “He, bác ấy nói anh rất lịch sự lễ phép đấy.”

“Đấy là khách sáo thôi,” Noãn Noãn dửng dưng nói.

“Cô gái ơi, hoàn toàn không khách sáo đâu.” Bác phu cười cười.

“Nghe thấy chưa, cô gái?” Tôi lấy làm đắc ý.

Không ngờ gọi tôi là ông, mà gọi Noãn Noãn chỉ là cô gái, thoắt cái đã cách tới cả hai thế hệ, điều này khiến tôi rất đắc ý.

“Tôi thấy ông đây rất vui tính,” bác phu nói.

“Vì hôm nay thời tiết đẹp quá đấy ạ!” Thấy còn chưa đã, tôi không kìm nổi dang rộng hai tay hét lớn: “Quả thực quá đẹp ấy!”

“Trẻ con,” Noãn Noãn nói.

“Cô gái, cô nói gì?” tôi hỏi.

Noãn Noãn quay đi không thèm đếm xỉa đến tôi nữa, nhưng không lâu sau lại bật cười khúc khích.

“Đúng là trẻ con,” Noãn Noãn quay sang, nhắc lại.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

7#
Đăng lúc 18-6-2013 13:09:46 | Xem tất
CHƯƠNG 4
(tiếp)

Mấy trăm mét bên ngoài rợp trời nhà cao tầng chen chúc, trên đường tiếng còi xe huyên náo, đèn neon thi nhau nhấp nháy; nhưng chỉ cần rẽ vào ngõ cổ, ta liền như được trở về mấy trăm năm trước, bắt gặp cuộc sống đơn sơ, giản dị của người dân Bắc Kinh.

Bà lão ngồi nghỉ lim dim trước tứ hợp viện, ông lão ngồi kéo đàn nhị trong đại tạp viện, những con người này vẫn không hề bị cuốn đi theo dòng chảy của thời đại.

Từ đường cái rẽ vào ngõ cổ, tựa như đi qua đường hầm thời gian, chiêm ngưỡng hai thời đại khác nhau.

Ở đây không có tiếng xe, có chăng chỉ là những tiếng rao hàng trầm bổng réo rắt của những người bán rong.

Những bức tường và mái ngói phủ rêu xanh, những cánh cửa sơn đỏ loang lổ, những vòm cửa tróc lớp sơn vàng, những hốc trụ cửa sâu trũng, nét cổ xưa hiển hiện mọi nơi trong ngõ cổ.

Tôi và Noãn Noãn xuống xe, bước vào một đại tạp viện, những người sống trong đó rất thân thiện chuyện trò với chúng tôi vài câu.

Những thanh dầm mờ sơn, những bức tường sứt góc, đều khiến chúng tôi say mê nhìn ngắm.

Bác phu xe kể cho chúng tôi mọi thứ về ngõ cổ, bác nói còn có những con ngõ rộng chưa đầy nửa mét.

“Người hơi béo một chút là lách không nổi rồi,” bác cười nói.

“Vậy nếu như hai người gặp nhau trong ngõ thì phải làm thế nào?” tôi quay sang hỏi Noãn Noãn.

“Dùng khinh công vậy,” Noãn Noãn cười nói, “phóc một cái là nhảy qua luôn.”

“Nhỡ hai người đều biết khinh công thì sao?” tôi nói. “Thế chẳng phải phóc phóc hai cái rồi binh một tiếng à.”

Noãn Noãn mang vẻ mặt vừa tức vừa buồn cười; còn bác phu thì bật cười ha hả, tiếng cười vang mãi khắp con ngõ.

Trong lúc cười cười nói nói, tôi bị mùi thơm thức ăn xào nấu bên đường thu hút, Noãn Noãn cũng chăm chú nhìn.

“Em muốn ăn không?” tôi hỏi Noãn Noãn.

Noãn Noãn hơi ngượng nghịu, gật gật đầu.

Tôi bảo bác phu dừng xe, tiến lại gần bên cạnh chảo dầu có một khối bột lớn đã nhào kỹ.

Hỏi là gì, thím bán hàng mới nói đây là bánh rán sữa, rồi thím véo một ít bột, dùng tay nặn thành hình tròn, thả bột vào chảo dầu cho nở to thành hình quả bóng, đến khi quả bánh có màu vàng ươm thì vớt ra, lại cho lăn qua đường trắng.

Tôi mua một ít đem về xe, chia cho Noãn Noãn cùng ăn.

Bánh rán sữa ngoài giòn trong non, vừa mềm lại vừa mịn, cắn một miếng hương sữa tỏa ra thơm phức.

Bác phu đạp xe đều đều, thỉnh thoảng còn ngâm nga hát khẽ.

Tôi và Noãn Noãn vừa ăn vừa nói chuyện, vừa nhìn ngắm xung quanh.

Ở một góc ngõ hẻm thế này, rất khó có cảm giác thời gi­an đang trôi đi, tinh thần cũng dễ dàng tĩnh lặng lại.

“Đến Cung Vương Phủ rồi.” Bác phu dừng xe.

Thầy Lý đứng trước Cung Vương Phủ điểm lại số người, thấy vẫn thiếu hai người nữa.

Một lúc sau, một chiếc xích lô chở cậu em khóa dưới tôi và Vương Khắc được bác phu hùng hục đạp đến với tốc độ nhanh nhất.

Tôi bước lại cốc cho cậu ta một cái, cậu ta làm mặt khổ sở kêu không phải quên thời gian, mà là bị lạc đường.

Hóa ra cậu ta và Vương Khắc xuống xe đi bộ vào tham quan các ngõ, càng đi lại càng xa, càng xa lại càng rối rắm, càng rối rắm lại càng loạn, kết quả mệt lử giữa mấy con ngõ chằng chịt, Vương Khắc còn sợ quá bật khóc.

May mà về sau có một cụ già tốt bụng dẫn hai bọn họ

Cung Vương Phủ tuy nổi danh nhờ được vua Hàm Phong ban thưởng cho Cung Thân Vương Dịch Hân, nhưng thực sự khiến nơi đây trở nên nổi tiếng lại là vì đây từng là dinh cơ của vị sủng thần của vua Càn Long – Hòa Thân.

“Văn hóa Vương Phủ là sự kéo dài của văn hóa Cung đình, Cung Vương Phủ lại là tòa vương phủ được bảo tồn hoàn chỉnh nhất hiện nay. Bởi vậy còn có câu nói ‘Một tòa Cung Vương Phủ, nửa bộ sử Thanh triều’.” Thầy Lý mỉm cười nói tiếp: “Các bạn sinh viên cứ từ tốn thăm thú. Có hứng nghe chuyện thì lát nữa đi với tôi.”

Vừa nghe thầy Lý nói vậy, mọi người đều nhất loạt bám đuôi theo thầy.

Trên đường đi, cảnh vật thanh bình tuyệt đẹp, sắc xuân ngập tràn, ngoài phủ rõ ràng đang nóng oi ả, mà bên trong lại mát mẻ vô cùng. Thầy Lý kể về các kiểu kiến trúc, như cổng vòm kiểu Âu ở cửa hoa viên, vào thời đó ở Bắc Kinh chỉ có ba cánh cổng như vậy; các lầu kịch được xây toàn bằng gỗ, ngay đến một cái đinh cũng không dùng; Bát Sảnh với những mái ngói đầy họa tiết chữ Vạn 卍 của Phật giáo và hình vẽ con dơi (ý chỉ vạn phúc), ngay đến hình dáng bên ngoài cũng tựa như một con dơi đang sải cánh; Lưu Bôi Đình nơi Hòa Thân và các văn nhân nhã sĩ thưởng rượu, bên dưới đình có những rãnh hẹp uốn lượn, chén rượu trôi trên mặt nước, dừng trước mặt ai người đó phải làm thơ, không làm được liền bị phạt rượu; Yêu Nguyệt Đài trên giả sơn, lấy ý thơ “Cử yêu bôi minh nguyệt, đối ảnh thành tam nhân” của Lý Bạch; hai hành lang dốc đứng nối liền Yêu Nguyệt Đài gọi là “Thăng Quan Lộ”, Hòa Thân thường đi qua Thăng Quan Lộ, nên mới từng bước từng bước leo cao đến vậy. Cuối cùng là đến cửa Mật Vân Động, thầy Lý nói: “Tiếp theo là bia Phúc Tự. Hãy quan sát kỹ chữ Phúc trên bia, thử xem có thể nhìn ra mấy chữ.”

Đám chúng tôi từng người nối đuôi nhau bước vào động, Noãn Noãn đi trước đột nhiên vòng lại nấp sau tôi, nói: “Anh đi trước đi.”

“Vì sao?” tôi hỏi.

“Phía trước tối lắm, em sợ ngã,” Noãn Noãn cười nói.

“Anh cũng sợ chứ.”

“Đừng nhiều lời nữa.” Noãn Noãn khẽ huých nhẹ tôi. “Mau đi thôi.”

Mật Vân Động nằm dưới giả sơn, tuy có chút ánh đèn nhưng vẫn rất tối tăm.

Nơi sáng nhất trong động chính là tấm bia Phúc Tự, bởi dưới bia được lắp đèn vàng.

Tôi tiến gần lại xem, bia được che bằng một tấm kính, rất nhiều người không sờ được bia bèn sờ tấm kính cho thỏa nguyện vọng.

Tôi không sờ mà chỉ nhìn chăm chăm vào chữ Phúc một hồi, rồi đi ra.

“Em nhìn được mấy chữ?” tôi hỏi Noãn Noãn.

“Em tuệ căn mỏng, chỉ thấy một chữ thôi.” Noãn Noãn hỏi: “Thế còn anh?”

“He he.”

“Thôi đừng vờ vịt đi, anh cũng chỉ nhìn thấy một chữ Phúc thôi chứ gì,” Noãn Noãn nói.

“Bị em đoán trúng rồi.” Tôi bật cười.

Thầy Lý thấy mọi người đều đã ra đủ, kêu mọi người tập trung lại, rồi nói: Bia Phúc Tự có hơn ba trăm năm lịch sử, do đích thân vua Khang Hy chấp bút; bên trên còn có ấn tỷ của Khang Hy. Trong thành Bắc Kinh, Khang Hy chỉ đề có ba chữ, hai chữ còn lại chính là “Vô Vi” trên bức hoành trong điện Gi­ao Thái của Tử Cấm Thành, nhưng Vô Vi lại không được đóng ấn tỷ của Khang Hy. Thái hậu Hiếu Trang mẹ vua Khang Hy, trước đại thọ sáu mươi đột nhiên lâm bệnh nặng, thái y bó tay hết cách, Khang Hy bèn viết chữ Phúc này để cầu phúc cho mẹ, Thái hậu Hiếu Trang nhận được chữ Phúc, quả nhiên khỏi bệnh. Tấm bia này là quốc bảo Đại Thanh, luôn được cất giữ trong Tử Cấm Thành, nhưng đã biến mất một cách thần bí vào thời Càn Long, không ngờ sau lại xuất hiện trong hoa viên sau của Hòa Thân. Vì sao Hòa Thân lại có nó trong tay vẫn là một bí ẩn không ai biết. Nhưng khi vua Gia Khánh lục soát nhà Hòa Thân, chắc chắn đã phát hiện ra vật quốc bảo bị mất này, vì cớ gì lại không mang đi ?

Thầy Lý chỉ ngọn giả sơn, kêu mọi người quan sát tỉ mỉ hình dạng ngọn núi, rồi nói tiếp: Tương truyền kinh thành có hai dòng long mạch, một dòng nằm giữa Tử Cấm Thành, một dòng là sông Hộ Thành, Cung Vương Phủ nằm chính tại điểm gi­ao nhau của hai dòng long mạch, do đó động bia có thể gây động long mạch. Lại nhìn ngọn giả sơn này, mọi người đã nhìn ra dáng rồng chưa? Trên giả sơn có hai miệng ang, có ống dẫn nước vào trong ang, nhưng ang có lỗ thủng. Nước từ đáy ang chảy xuống giả sơn, đá núi lâu năm ẩm ướt bèn mọc đầy rêu xanh, tạo thành Thanh Long, Thanh Long lại là rồng nhà Thanh. Bia Phúc Tự đặt ở động dưới núi, tuy chỉ cao hơn một mét, nhưng dài gần tám mét, gần như xuyên suốt cả ngọn giả sơn; nếu như đem tấm bia đi, ngọn giả sơn sẽ bị sụp, Thanh Long cũng sẽ bị hủy. Gia Khánh sao có thể cắt đứt long mạch Đại Thanh cũng như hủy hoại Thanh Long chứ? Vì vậy vua Gia Khánh ôm hận dùng đá lấp kín cửa Mật Vân Động. Năm 1962, khi trùng tu Cung Vương Phủ, các nhà khảo cổ mới vô tình phát hiện tấm bia Phúc Tự thất lạc đã lâu này trong động.

“Tới Cố Cung phải tận hưởng vương khí, tới Trường Thành phải tận hưởng bá khí, tới Cung Vương Phủ phải tận hưởng phúc khí. Mong rằng các bạn đều có thể hưởng được đầy mình phúc khí,” thầy Lý cười nói. “Còn về chữ Phúc này bao gồm bao nhiêu chữ? Cứ về rồi dần dần cân nhắc. Bây giờ mọi người tự do đi thăm quan, nửa tiếng sau tập trung ở cửa lớn.”

Cả đám sinh viên lần lượt tản ra, tôi và Noãn Noãn đi về phía xa vắng lặng, tới Mẫu Đơn Viện trong Thùy Hoa Môn.

Chính giữa Mẫu Đơn Viện có một cái hồ nhỏ, chúng tôi bèn ngồi nghỉ trên mấy tảng đá ven hồ.

“Chúng ta đều chỉ nhìn ra một chữ Phúc, như thế liệu có hưởng phúc được không?” Noãn Noãn nói.

“Ờ...” tôi thoáng nghĩ ngợi, “cũng không biết nữa.”

Mà tôi còn chẳng sờ vào tấm kính, không khéo tấm kính đã hút hết phúc khí của tấm bia Phúc Tự rồi cũng nên.

“Noãn Noãn,” tôi giơ má trái lại gần em, “làm đi, anh không ngại đâu.”

“Hả?”

“Vừa nãy em chắc chắn đã sờ vào tấm kính ấy, giờ lấy tay em sờ sờ mặt anh đi.”

“Anh mơ đấy à,” Noãn Noãn nói, “hơn nữa em cũng có sờ kính đâu.”

“Anh!” Cậu em khóa dưới tiến lại, nói: “Để em đến phục vụ anh.” Nói rồi, cậu ta chu mỏ, xồ vào tôi.

“Làm cái gì đấy?” Tôi đẩy cậu ta ra.

“Ở trong động em bị vồ ếch, vừa may hôn đúng vào tấm kính. Nào để em chia sẻ cho anh ít phúc khí.” Cậu ta lại chu mỏ xông tới.

“Muốn chết à.” Tôi lách qua, giơ chân đạp cho cậu ta một cái vào mông.

Cậu ta cười ha hả, vừa cười vừa chạy lại bên Vương Khắc.

“Ít nhiều gì thì cũng được hưởng chút phúc khí mà,” Noãn Noãn nói.

“Thực ra...”

Noãn Noãn ngắt lời tôi, nói: “Anh đừng có nói mấy câu kỳ quái nữa, kẻo làm phúc khí sợ quá chạy mất dép đấy.”

“Ờ.” Tôi ngậm miệng lại.

Noãn Noãn thấy tôi không nói gì nữa, bèn nói: “Thôi anh có gì thì nói đi.”

“Anh sợ nói ra mấy câu kỳ quái.”

“Nếu như kỳ thật, thì em đành chấp nhận vậy.” Noãn Noãn bật cười.

“Vừa rồi anh muốn nói, thực ra có đến Cung Vương Phủ hay không cũng chẳng thành vấn đề, vì đến Bắc Kinh lần này quen được em, đã là một cái phúc lớn rồi.”

Noãn Noãn mỉm cười ngượng nghịu, khẽ đưa mắt nhìn ra hồ.

Tôi thấy em không nói gì, cũng không nói nữa, ánh mắt cũng dần dần hướng ra hồ.

“Dưới hồ có cá đấy,” rất lâu sau, Noãn Noãn rốt cuộc cũng lên tiếng.

Trên mặt nước có năm sáu con cá nhỏ dài chừng ba xăng ti mét đang bơi lội tung tăng ven bờ, Noãn Noãn nhúng tay phải xuống nước, đùa giỡn theo đàn cá.

Tôi cũng nhúng tay phải xuống hồ, lúc thì đùa phía sau chúng, lúc lại vượt lên chặn đầu.

“Ấy, anh đừng có làm thế, làm cá sợ bây giờ,” Noãn Noãn cười nói.

“Thế em sợ rồi à?” tôi hỏi.

Noãn Noãn không trả lời, chỉ khẽ gật đầu.

“Ừm... vậy...” tôi hơi bứt rứt không yên, “anh chỉ là nói ra chút cảm nghĩ thôi, em đừng bận tâm nhé.”

“Không sao,” Noãn Noãn nói.

Tay phải của tôi và Noãn Noãn vẫn đang ngâm trong nước, khựng lại không động đậy, như thể trong không khí có một thứ cảm giác tinh khiết, chỉ cần khẽ khuấy động mặt nước hoặc thu lại tay về sẽ có thể phá hỏng sự tinh khiết ấy.

“Sao miệng anh hôm nay nói ngọt thế?” Noãn Noãn nói. “Anh nói thật xem, có phải vì ăn

“Cũng có thể,” tôi nói.

“Ăn xong bánh rán sữa, đến giờ hương vẫn còn lưu trong miệng em đây này.” Noãn Noãn nhoẻn miệng cười.

“Anh cũng thế,” tôi nói. “Nhưng dù anh có ăn một đĩa lớn đậu phụ thối, miệng thối thì cũng vẫn sẽ nói thế. Vì đấy không phải lời đầu môi chót lưỡi, mà xuất phát từ trong lòng anh.”

Sau đó là một quãng im lặng.

Tôi nhìn đồng hồ, quyết định phá vỡ bầu không khí im lặng, nói: “Noãn Noãn, cũng gần đến giờ tập trung rồi đấy.”

Noãn Noãn thu tay phải lại, đứng lên.

Tôi cũng đứng lên, xoay xoay cổ cho đỡ mỏi vì ngồi lâu.

Tay trái Noãn Noãn đang rút khăn giấy khỏi túi, tôi đột nhiên nói: “Đợi chút.”

“Hả?” Noãn Noãn dừng tay lại, nhìn tôi.

“Em xem,” tôi chỉ xuống hồ nước, “hồ nước này giống cái gì?”

Noãn Noãn quay đầu quan sát chăm chú hồ nước, rồi khẽ kêu thầm một tiếng: “Giống con dơi.”

“Cuối cùng chúng ta cũng hưởng được phúc khí rồi.” Tôi cười hả hê. “Đừng lau tay khô đấy.”

Đi được mấy bước, Noãn Noãn bỗng lấy tay phải búng nước lên mặt tôi, cười cười nói: “Cho mặt anh cũng được hưởng chút phúc khí.”

Những giọt nước làm mắt kính tôi bị lóa, gỡ kính xuống lau khô rồi đeo lại, Noãn Noãn đã chạy đi xa tít.

Đến khi tôi tới được cửa lớn Cung Vương Phủ tìm Noãn Noãn định báo thù, tay phải cũng đã khô cong.

Thầy Lý dẫn cả đoàn đến một khu ngõ cổ vắng vẻ, bữa tối sẽ là những món ăn thường ngày của người Bắc Kinh.

Cửa tiệm không lớn lắm bị đám sinh viên chúng tôi ngồi cho chật ních.

Bác chủ tiệm biết một nửa số chúng tôi là từ Đài Loan tới, bèn đi từng bàn hỏi: “Có ăn quen không?”

“Có phải ăn không quen thì không cần trả tiền không?” tôi quay sang hỏi Noãn Noãn.

“Nói bé thôi.” Noãn Noãn lấy cùi chỏ huých huých tôi.

“Có phải ăn không quen...” tôi tăng cao âm lượng.

“Này!” Noãn Noãn hốt hoảng, kéo mạnh tay áo tôi, làm đũa trên bàn rơi hết xuống đất, phát ra tiếng kêu khô khốc.

Bác chủ bước lại, hỏi tôi và Noãn Noãn: “Ăn có quen không?”

“Quen lắm, rất quen, cực kỳ quen bác ạ,” Noãn Noãn vội vàng trả lời.

“Thực ra là không quen lắm,” tôi nói. “Cháu không quen ăn mấy đồ ngon thế này, cứ thấy có gì đó không thật, cứ như trong mơ vậy.”

Bác chủ ngây người một lúc, rồi bật cười ha hả, vỗ vai tôi nói: “Chàng trai tốt, đúng là một chàng trai tốt.”

“Anh cứ phải nói linh tinh mới ăn được cơm đấy à?” Giọng Noãn Noãn có chút bất lực.

“Quen lắm, rất quen, cực kỳ quen,” tôi cười cười nói, “em lợi hại đấy, ba kiểu quen hợp nhất, đúng là vô địch”

Noãn Noãn và một miếng cơm, cũng tự thấy buồn cười, không nhịn nổi nữa, bật cười khúc khích.

Bữa cơm rất thịnh soạn, có bắp cải luộc, đậu phụ tiêu cay, tôm rang, chân giò tỏi, thịt thái chỉ xốt xì dầu đặc sản Bắc Kinh, vân vân, món nào hương vị cũng đậm đà lại rất trôi cơm, khiến tôi ăn liền ba bát.

Thầy Lý bước đến bàn chúng tôi, mỉm cười nói: “Ông chủ tiệm vừa nói với thầy hôm nay giảm giá vịt quay, có làm chút không?” Mọi người tức khắc đặt đũa xuống, vỗ tay rào rào. Cứ thế hết bàn này đến bàn khác dậy lên tiếng vỗ tay.

Xem ra bọn sinh viên chúng tôi quả thật đã được hưởng phúc rồi.

Ăn xong, rời khỏi tiệm, bác chủ tiệm còn ra tận cửa tiễn chúng tôi.

Tôi nói với bác: “Hoan nghênh lần sau lại tới chơi Bắc Kinh.”

Bác chủ tiệm lại cười ha hả nói: “Thằng nhóc này được lắm.”

Tôi ăn quá no, vừa lên xe đã ngồi phịch xuống ghế, bị Noãn Noãn mắng: “Đồ tham ăn.”

Lúc xuống xe, cũng phải nhờ cậu em khóa dưới kéo dậy, tôi mới đứng lên được.

Mọi người dường như đã thành nếp, kết thúc một ngày hoạt động, quay về trường tắm giặt xong, lại tập trung tại giảng đường.

Cậu em khóa dưới mua một cái áo phông có in chữ Phúc, đem trải lên bàn cho mọi người rầm rộ nghiên cứu cái chữ.

“Đã ngẫm nghĩ ra chưa?” thầy Lý bước vào hỏi.

“Vẫn chưa ạ,” mọi người đồng thanh trả lời.

“Bộ bên phải là cách viết chữ ‘Thọ’ trong Lan Đình Tự của vua Khang Hy,” thầy Lý vừa chỉ vừa nói. “Bộ bên trái giống chữ ‘Tử’ và chữ ‘Tài’, góc trên bên phải nét bút giống chữ ‘Đa’, góc dưới bên phải là chữ ‘Điền’, nhưng chữ Điền này lại không đóng bộ khẩu, thầm chỉ phúc lành vô biên.”

Mọi người gật đầu lia lịa, như đã ngộ ra chân lý.

“Chữ Phúc này bao gồm chữ Tử, Tài, Đa, Điền, Phúc, Thọ, ý chỉ đa tử, đa tài, đa điền, đa phúc, đa thọ,” thầy Lý cười, “đã hiểu chưa?”

“Tâm cơ của Khang Hy thật sâu xa,” tôi nói.

“Đừng nói linh tinh đi,” Noãn Noãn nói.

“Hòa Thân mới được gọi là có tâm kế, thông minh tuyệt đỉnh. Chỉ đáng tiếc, ông ta có hướng cầu phúc, có đạo hưởng phúc, nhưng lại không biết tích phúc. Do vậy tuy vinh hoa một đời, lại là người nhiều phúc, cuối cùng vẫn rơi vào kết cục tự vẫn, nhà cửa bị tịch thu.” Thầy Lý ngừng một lúc, nói tiếp: “Ý nghĩa thực sự của phúc, thực chất là tích phúc.”

Thầy Lý nói xong, đoạn dặn dò mọi người mau về nghỉ ngơi sớm, rồi rời khỏi giảng đường.

Đám chúng tôi buôn chuyện một chập nữa, mới ai về phòng nấy.

Cậu em khóa dưới vừa về đến phòng liền mặc ngay chiếc áo phông chữ Phúc. Từ Trì còn lại gần sờ một vòng.

“Thoải mái quá,” cậu em nói, “Anh, anh cũng ra đây sờ đi.”

Tôi chẳng buồn để ý đến cậu ta.

“Anh, em còn mặc cả quần sịp chữ Phúc đây này,” cậu ta lại nói. “Không sờ thật à?”

“Đồ biến thái!” tôi túm lấy gối đập cho cậu ta mấy cái vào đầu.

Cậu ta cười ha hả, Từ Trì và Cao Lượng cũng cười phá lên.

Tôi nằm trên giường, ngẫm nghĩ về lời thầy Lý vừa nói: Ý nghĩa thực sự của phúc, thực chất là tích phúc.

Nếu như nói quen với Noãn Noãn thật sự là cái phúc của tôi, vậy lại phải tích phúc thế nào đây?


HẾT CHƯƠNG 4
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

8#
Đăng lúc 20-6-2013 12:29:10 | Xem tất
CHƯƠNG 5


Sáng sớm ngủ dậy, bước tới phòng vệ sinh vẫn còn mơ mơ màng màng.

Đụng ngay phải cậu em khóa dưới, cậu ta bảo: “Anh, lêu anh cái mông.” Tôi lập tức tỉnh táo, kẹp cổ cậu ta, đe: “Vừa sáng ra đã muốn ăn đòn hả.”

“Là Từ Trì dạy em,” cậu ta thều thào trước khi đứt hơi.

Từ Trì nói đây là tiếng địa phương ở quê cậu ta, dùng để chào hỏi.

Cũng chẳng biết là thật hay giả, nhưng trông bộ dạng Từ Trì chẳng giống đùa chút nào.

Nếu gặp phải con gái mà nói câu này chắc sẽ bị kiện tội quấy rối, còn nếu phải con trai, hẳn sẽ bị tẩn cho một trận nhừ tử.

Nhưng vẫn còn hơn cậu chàng đó lại tụt quần xuống mời bạn chào hỏi thật.

Trước cửa nhà ăn, thầy Lý đứng bàn bạc với thầy Trương một lúc, rồi thông báo: “Hôm nay chúng ta ra ngoài uống nước đậu, cảm nhận chút ít văn hóa ẩm thực Bắc Kinh xưa.”

Tôi hỏi Noãn Noãn: “Nước đậu là sữa đậu nành á?”

“Đương nhiên không phải,” Noãn Noãn nói, “sữa đậu nành làm từ đậu tương, còn nước đậu làm từ đậu xanh. Nước đậu chỉ Bắc Kinh mới có, ở nơi khác không thể uống được.”

“Có ngon không?” tôi lại hỏi.

“Đảm bảo sẽ khiến anh có ấn tượng sâu sắc,” Noãn Noãn nói, thái độ rất kỳ lạ.

Tôi thấy lạ, lại hỏi Từ Trì: “Nước đậu có ngon không?”

“Sẽ khiến anh nhớ suốt đời.” Thái độ của Từ Trì cũng rất thần bí kỳ quái.

Tôi nghĩ Cao Lượng là người thật thà, lời nói có lẽ không giả, bèn hỏi tiếp Cao Lượng: “Nước đậu có ngon không?”

“Ờ...” Cao Lượng ậm ờ một hồi, nói: “Lần đầu em uống xong, ba tháng sau ngất ngưởng ngật ngưỡng.”

Ấn tượng sâu sắc, nhớ suốt đời, ba tháng ngất ngưởng ngật ngưỡng, tại sao đều là mấy loại hình dung này.

Trả lời có ngon hay không lại khó đến thế sao?

Nếu như bạn hỏi: Cô bé đó trông thế nào?

Người ta trả lời: Xinh lắm, bảo đảm khiến cậu nhớ suốt đời.

Bạn đương nhiên sẽ rõ, mình sắp được yế kiến một tuyệt thế gi­ai nhân rồi đây.

Nhưng nếu như người ta chỉ trả lời: Đảm bảo khiến cậu ấn tượng sâu sắc, nhớ suốt đời, ba tháng ngất ngưởng ngật ngưỡng.

Làm sao bạn biết cô bé đó có xinh hay không? Dẫu gặp khủng long cũng sẽ ấn tượng sâu sắc đến cả đời không quên, rồi ba tháng sau ngất ngưởng ngật ngưỡng mà.

Vừa bước vào tiệm nước đậu, đã lập tức ngửi thấy một mùi men chua nghẹt mũi, khiến người ta thấy không thoải mái cho lắm.

Bát nước đậu đặc sánh được bê lên, màu xanh tro trong vắt; ngoài ra còn có một đĩa dưa muối, một đĩa quẩy vòng.

Sợi dưa muối mỏng dài được rắc lên mấy hạt vừng với dầu cay, còn quẩy vòng được rán tới vàng ruộm.

“Cái này phải ăn nóng,” Noãn Noãn bảo tôi, ánh mắt vừa như cười lại như không cười.

Tôi lập cập bưng bát lên, cẩn trọng kề miệng vào thành bát, chậm rãi húp một ngụm nhỏ.

“Ặc!” Tôi kêu lên thảm thiết, nước đậu không chỉ chua mà còn có mùi kỳ kỳ như đậu phụ thối, khiến người ta buồn nôn.

Tôi phồng mang trợn má, bóp mũi bịt tai, nhăn nhó mặt mày, vận đủ ngũ quan mà vẫn không đuổi được cái vị kỳ quái đó đi.

Noãn Noãn cười khúc khích, vừa cười vừa nói: “Mau ăn ít dưa muối cho xuôi đi đã.” Tôi vội vàng gắp một gắp dưa muối bỏ vào miệng, nhồm nhoàm nhai vài miếng, quả nhiên có tác dụng.

“Vị nước đậu kỳ thật đấy,” tôi nói.

“Đấy là ảo giác thôi,” Noãn Noãn nói, “thử lại lần nữa xem.” Tôi lại bê bát lên, hít sâu một hơi, vũ trang lại tâm lý, rồi nín thở uống một ngụm nữa.

Đây nào phải ảo giác? Đây là mùi vị kỳ quái chân thực chứ còn gì nữa. Lúc nước đậu trôi tuột xuống cổ họng, tôi xém chút nữa thì sặc.

Xong đâu đấy, tôi đặt bát xuống, giương đôi mắt trống rỗng nhìn Noãn Noãn.

“Nước đậu này muốn uống được, nhất thiết phải đi kèm với dưa muối và quẩy vòng, không được thiếu thứ nào,” Noãn Noãn nói. “Nước đậu chua, dưa muối mặn và cay, quẩy vòng giòn, khi chua mặn cay giòn kết hợp với nhau, một hương thơm sẽ dần dần quyện mãi trong miệng.” Noãn Noãn húp một ngụm nước đậu, gắp một miếng dưa muối, một miếng quẩy vòng, mặt mày rạng rỡ, ăn rất ngon miệng.

Tôi càng nhìn càng thấy kỳ lạ, không thể tưởng tượng nổi.

“Đã quá đi mất, ăn một lại muốn ăn hai,” Noãn Noãn nói.

“Xin nhận của tiểu đệ một lạy,” tôi nói.

Cậu em khóa dưới ngồi bàn bên đột nhiên chạy lại, ngồi thụp xuống tóm lấy vạt áo tôi, nói: “Anh ơi, em không xong rồi, mau đưa em đến bệnh viện.”

“Sao thế?”

“Em uống sạch cả bát nước đậu rồi,” cậu ta nói xong liền nhắm tịt mắt.

“Phấn chấn lên đi!” Tôi vả cho cậu ta hai phát bôm bốp.

Cậu ta mở bừng hai mắt, đứng dậy xoa má, quay lại chỗ ngồi.

“Vừa rồi anh tát thật đấy à?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ.” Tôi không nhịn nổi, bật cười khì khì. “Cậu ta thích đùa, anh cũng vui vẻ phối hợp thôi.”

“À mà, vừa nãy nói đến đâu rồi nhỉ?”

“Anh bảo anh muốn lạy em.”

Tôi lập tức đứng lên khỏi chỗ ngồi, quỳ một gối xuống đất, hai tay chắp lại, đoạn nói: “Cô nương quả không phải người phàm.”

Noãn Noãn bật cười kéo tôi đứng dậy, nói: “Thực ra lần đầu tiên em uống nước đậu, cũng không chịu nổi cái vị này đâu. Về sau uống liền hơn nửa tháng, quen rồi mới nhận được mùi vị, thậm chí còn nghiện luôn.”

“Thật đúng là đại ca phong lưu,” tôi nói.

“Gì cơ?” Noãn Noãn hỏi.

“Là không hiểu.”

“Hả?”

“Vì có câu không hiểu phong lưu, vì thế đại ca phong lưu, tức là đại ca không hiểu.”

“Anh uống nước đậu đần người ra đấy à?” Noãn Noãn nói. “Em chả hiểu anh nói cái gì cả.”

“Ý anh là, anh rất rất không hiểu,” tôi nói, “muốn hỏi em chuyện này.”

“Hỏi đi.”

“Lần đầu tiên em uống nước đậu, phản ứng có phải cũng như anh không?”

“Ừ,” Noãn Noãn gật đầu, “có thể nói vậy.”

“Về sau em uống liên tục hơn nửa tháng mới quen, lại còn nghiện nữa?”

“Đúng vậy.” Noãn Noãn cười khúc khích. “Hồi đó chỉ cần nghe ngóng được chỗ nào có hàng nước đậu gia truyền, xa mấy em cũng đi bằng được.”

“Nếu như lần đầu tiên em uống nước đậu đã thấy không thể tiếp nhận nổi,” tôi nghiêng đầu ngẫm nghĩ hồi lâu, “thì sao lại uống tiếp liền hơn nửa tháng làm gì?”

Noãn Noãn trợn tròn mắt, không trả lời, rồi rơi vào trạng thái trầm tư.

“Đây thật đúng là tiểu đệ ngẫm mãi,” lâu sau, Noãn Noãn mới nói.

“Hở?” tôi nói.

“Cũng tức là không hiểu ấy,” Noãn Noãn cười cười nói.” Vì có câu ngẫm mãi không hiểu mà.”

“Sao em cũng lại nói chuyện kiểu đấy?”

“Làm thế để anh biết người nghe anh nói chuyện khổ đến mức nào.”

“Em vất vả quá,” tôi nói.

“Nói linh tinh.” Noãn Noãn bật cười khúc khích.

“Văn hóa uống nước đậu, nghe nói đã có hơn nghìn năm rồi. Vì thế vị của nước đậu có lạ thế nào đi nữa, em cũng phải kiên trì uống bằng được.” Noãn Noãn dường như đã tìm được lý do uống nước đậu. “Tóm lại, cứ cho là vì ngốc đi.”

“Em thực quá siêu đấy,” tôi xuýt xoa khen.

“Lương Lương,” Noãn Noãn chỉ cái bát trước mặt tôi nói, “thử nữa không?”

Tôi đưa tay bưng bát, nhưng trước sau vẫn không có can đảm đưa lên miệng, thở dài một tiếng, rồi lại đặt bát xuống.

Noãn Noãn bật cười, bưng bát tôi lên. Tôi vội vàng nói: “Anh đã uống rồi"

“Không sao,” Noãn Noãn nói, “làm được nước đậu vất vả lắm, đừng lãng phí.”

Từ Trì đi qua, thấy bát trước mặt tôi rỗng không, liền kinh ngạc nói: “Anh Thái, anh đã uống hết rồi á?”

“He he,” tôi chỉ cười không đáp.

“Không sao chứ?” Từ Trì nhìn mắt tôi, sờ sờ tay tôi, lại lắc lắc cả người tôi nữa.

“He he he,” tôi lại cười.

“Thật không ngờ đấy,” Từ Trì nói. “Nào! Anh em mình uống thêm bát nữa!”

“Trì huynh!” Tôi vội vàng túm cậu ta lại, “là Noãn Noãn uống hết giúp anh đấy.”

Từ Trì bật cười ha hả, Noãn Noãn cũng cười, còn tôi chỉ cười gượng gạo.

Tôi bắt đầu quan sát phản ứng của mọi người, sinh viên Đài Loan ai cũng đều có vẻ có kinh hồn bạt vía; phản ứng của sinh viên Bắc Kinh lại muôn hình muôn vẻ hơn, có những người siêu thích uống nước đậu như Noãn Noãn, Từ Trì, cũng có những người miễn cưỡng có thể uống được như Cao Lượng, đương nhiên còn có cả người nhắm mắt nhắm mũi đành phải uống.

Thầy Lý lo mọi người không quen uống nước đậu lại đói bụng, bèn gọi thêm mấy món điểm tâm như bánh đường nướng, bánh kỳ lân, bánh mật vừng, bánh nướng mặn... ăn thêm.

Trên đường về trường, Noãn Noãn xúc động nói: “Không hiểu vì nguyên nhân gì mà các tiệm nước đậu càng ngày càng ít đi.”

“Anh biết nguyên nhân đấy,” tôi nói.

“Là vì sao ? “ Noãn Noãn hỏi.

“Bây giờ lựa chọn về điểm tâm phong phú như vậy, tuy nước đậu có phong vị đặc biệt, nhưng làm gì có người trẻ nào cam chịu tập uống thứ nước thiu ấy một thời gi­an dài, cho đến khi nước thiu biến thành mật hoa cơ chứ? Ai mà chịu được cả quá trình ấy?”

“Lương Lương.” Noãn Noãn trầm ngâm nói: “Lời anh nói rất có triết lý đấy.”

“Thật à?”

“Ừm.” Noãn Noãn gật đầu, cười nói: “Thật hiếm có.”

“Nếu như nam nữ trên đời đều có thể đối với nhau chân thành thuần khiết,” tôi nhìn về xa xăm, nói: “tới lúc đó nước đậu có thể ngậm cười tỏa hương rồi.”

“Ngậm cười tỏa hương?”

“Nếu như ai ai cũng có thể thuần khiết, nước đậu sẽ không cần phải giả vờ chua, thiu để thử lòng con người nữa, mà trực tiếp đem hương thơm vốn có của nó ra đối diện với con người là được rồi.”

“Lời anh nói hệt như nước đậu ấy,” Noãn Noãn nói, “nghe lâu rồi cũng thành quen.”

“Thế quen rồi thì có nghiện không?”

“Không nghiện,” Noãn Noãn cười khúc khích, “mà sẽ miễn dịch.”

Trước khi vào giảng đường bắt đầu buổi học, rất nhiều sinh viên ra sức súc miệng cho trôi đi mùi vị quái lạ của nước đậu trong miệng.

Tôi đoán cái vị lạ ấy hẳn khó mà súc cho trôi được, bởi nó đã xộc thẳng vào não, lại bao phủ khắp toàn thân rồi.

Quả nhiên, thầy giáo vừa bước vào lớp đã hỏi: “Sao lại có mùi chua chua thế này? Các bạn vừa đi uống nước đậu về đấy à ?”

Rồi thầy kể rõ cặn kẽ về từng loại nước đậu, cảm xúc như nhớ lại tình yêu đầu ngọt ngào vậy.

“Nước đậu vừa giàu dinh dưỡng, mùi vị lại đặc biệt, đã lâu rồi không uống, tôi rất nhớ hương vị ấy.”

Thầy ơi, xin thầy đừng nói đến nước đậu nữa, mau vào bài học cho rồi.

“Bạn sinh viên ‘Sàng tiền minh nguyệt quang’ hôm qua đâu nhỉ?” Đây là lời đầu tiên thầy nói sau khi trở lại chủ đề chính.

Mọi người sững ra vài giây, rồi cậu em khóa dưới tôi mới từ từ giơ tay lên.

“Đây,” thầy cười cười, đưa ra một cuộn giấy, “cái này tặng bạn.”

Cậu em khóa dưới bước lên bục giảng, tháo cái chun buộc trên cuộn giấy, mở ra, đó là một bức thư pháp cao bằng nửa người.

Bên trên có hai chữ viết bằng bút lông, vừa đen, vừa đậm, lại vừa lớn: “Tài tử”, bên cạnh còn có cả dấu lạc khoản.

Cậu ta mặt đần thối, miệng cười hềnh hệch, mọi người đều hò reo phải chụp lại kiểu ảnh.

Cậu ta lúc thì tay trái làm chữ V, tay phải cầm bức thư pháp, lúc lại đổi tay trái cầm bức thư pháp, tay phải làm chữ V, tiếp nữa còn hai tay làm hai chữ V, mấy đầu ngón tay còn lại kẹp lấy bức thư pháp.

Đèn flash nháy liên tục, cậu ta cũng cứ miệng cười hi hi ngờ nghệch.

Đúng là đồ ngốc, có lẽ cậu ta còn chẳng biết mục tiêu của tất cả các ống kính chính là bức thư pháp nữa kìa.

Thầy giáo bắt đầu nhắc qua về quá trình phát triển của chữ Hán từ chữ Giáp cốt, chữ Kim, chữ Triện, chữ Lệ, chữ Khải, rồi đến chữ phồn thể, chữ giản thể.

Thầy nói xong bèn phát cho chúng tôi một bản đối chiếu chữ phồn thể nhỏ, để tiện cho chúng tôi về sau sử dụng, rồi nói: “Từ chữ phồn thể sang chữ giản thể dễ, nhưng từ chữ giản thể sang chữ phồn thể khó. Các bạn sinh viên Bắc Kinh phải dụng tâm hơn mới được.” Tiếp đó, thầy giảng đến lịch sử giản hóa Hán tự và mục đích giản hóa, rồi đến nguyên tắc và phương pháp giản hóa.

Tôi có thể coi là một trong những người Đài Loan đọc hiểu được chữ giản thể, bởi đã từng tiếp xúc với mấy quyển giáo trình bằng chữ giản thể khi còn trong viện nghiên cứu.

Lúc mới đầu nói thực là không hiểu lắm, nhưng lâu rồi cũng vỡ ra dần dần.

Thỉnh thoảng cũng gặp phải vài chữ không hiểu, nhưng chỉ cần liên hệ chữ ấy với mấy anh em của nó, thì vẫn có thể đoán ra được.

Chữ phồn thể giản hóa thành chữ giản thể cũng gây ra lắm chuyện bi hài, không cẩn thận rất dễ gây nhầm lẫn.

...

Tuy có vẻ phức tạp khủng khiếp là vậy, nhưng đối với những người viết tiểu thuyết bằng chữ giản thể thì đây lại là chuyện tốt.

Vì càng nhiều những từ đồng âm, đồng dạng, lại càng khiến tiểu thuyết thâm thúy, thú vị, đây là đặc quyền mà những người viết bằng chữ phồn thể không cách nào có được.

Trước khi hết giờ, thầy giáo kể trước kia thầy thường trao đổi thư điện tử với một người bạn Đài Loan, thời đó chức năng chuyển đổi chữ phồn thể - giản thể còn chưa hoàn thiện, đa phần chỉ có thể dùng tiếng Anh để giao tiếp.

“Thật không ngờ hai người đều nói tiếng Trung lại phải trao đổi với nhau bằng tiếng Anh,” thầy xúc động nói. “Kết quả là tiếng Anh của chúng tôi đều trở nên tốt hơn, còn tiếng Trung lại thành kém đi.”

Thầy nói đoạn dừng lại trầm ngâm, nhìn khắp toàn thể sinh viên một lượt, rồi nói: “Mong rằng về sau các bạn sẽ không gặp phải tình trạng đáng tiếc đó nữa.”

Tan học, thầy Lý vội vàng giục chúng tôi đến nhà ăn ăn cơm; tới nhà ăn rồi, lại giục chúng tôi ăn cho mau mau.

“Phải tận dụng thời gian,” thầy Lý nói, “đi Thiên Đàn nhất định phải đi lúc vắng người mới được.”

“Vì sao lại phải chọn lúc vắng người để đi Thiên Đàn?” tôi hỏi Noãn Noãn.

“Đừng hỏi em,” Noãn Noãn nói, “em cũng có biết đâu.”

“Thế vì sao đi Thiên Đàn lúc này lại là lúc vắng người nhất?” tôi lại hỏi.

“Hôm nay là ngày cực nóng, lại đúng giữa trưa thế này, làm gì có ai muốn ra khỏi nhà chạy lông nhông?” Noãn Noãn trả lời.

“Vì sao...”

“Đừng hỏi vì sao nữa,” Noãn Noãn ngắt lời tôi. “Còn hỏi nữa là em thu tiền đấy.”

Tôi rút ra một tệ đặt trước mặt Noãn Noãn, hỏi: “Vì sao em lại xinh đẹp thế?”

“Câu này không mất tiền,” Noãn Noãn bật cười, “vì em đẹp bẩm sinh thôi.”

Mọi người vào Thiên Đàn từ Nam Thiên Môn, quả nhiên vì thời tiết nóng nực lại đúng vào giữa trưa, gần như chẳng có bóng dáng du khách nào ở đây.

Vừa bước qua cổng đã thấy một đàn đá lộ thiên có ba tầng thượng, trung, hạ hình tròn, thầy Lý nói đây là Hoàn Khâu Đàn.

Hoàn Khâu Đàn bị hai bức tường thấp vây quanh hình vuông, bên trong hình tròn, tượng trưng cho trời tròn đất vuông.

Đây là nơi hoàng đế tới tế Trời vào ngày Đông chí.

“Chúng ta đi tiếp về hướng Bắc, lát nữa sẽ lại vòng trở lại,” thầy Lý nói.

Chúng tôi không leo lên Hoàn Khâu Đàn, mà đi vòng men theo tầng hạ của đàn đá, theo hướng chính Bắc đi thẳng về trước.

Vừa ra khỏi Hoàn Khâu Đàn, liền thấy một ngôi đền có mái cong vút lợp ngói lưu ly xanh lam.

“Đây là Hoàng Khung Vũ, là nơi đặt bài vị của Hoàng Thiên Thượng Đế và hoàng đế Tổ Tiên.” Mọi người nghe xong liền muốn đi vào điện xem thế nào, nhưng thầy Lý nói để lát nữa, giờ đi sang phía bên trước đã.

“Tuyệt quá, quả nhiên bây giờ không có ai.” Thầy Lý dừng bước bên bức tường bao hình tròn, nói: “Đây là vách hồi âm. Lát nữa hai người một nhóm, mỗi người đứng ở một đầu đường kính của hình tròn, quay mặt vào tường nói, âm lượng không cần lớn, cũng không cần kề sát vào tường. Mọi người thử xem có thể nghe thấy tiếng vọng không.”

Vách hồi âm có đường kính 61,5 mét, cao 3,7 mét, dày 0,9 mét, là tường bao quanh Hoàng Khung Vũ.

Tường được xây bằng gạch nung màu tro nhạt, từng viên gạch liền kề san sát, trơn láng, không có lấy một khe hở, đầu tường lợp mái ngói lưu ly xanh lam.

Kỳ lạ ở chỗ, lúc nãy nhiệt độ ngoài trời chắc chắn vượt quá 30 độ, nhưng đi men theo bức tường tròn, lại cảm thấy vô cùng mát mẻ.

Tôi bước đến vị trí đã định, ghé sát tai vào tường, thấp thoáng nghe thấy tiếng gió, còn cả một số âm thanh vỡ vụn nữa.

“Lương Lương.” Tôi nghe thấy rồi, là tiếng Noãn Noãn, nhưng âm thanh dường như đã bị cho qua tủ băng, lạnh hơn, lại thấp hơn giọng thật của Noãn Noãn.

“Em là người hay là ma đấy?” Tôi nói với bức tường.

Noãn Noãn bật cười, tiếng cười mỏng manh, hơi giống tiếng chim hót.

“Em nghe thấy rồi,” là tiếng Noãn Noãn.

“Anh cũng nghe thấy rồi,” tôi nói.

“Anh ăn no chưa?” là tiếng Noãn Noãn.

“Anh ăn no rồi,” tôi nói.

“Lương Lương.”

“Noãn Noãn.”

“Em chẳng biết nói cái gì nữa,” là tiếng Noãn Noãn.

“Anh cũng thế,” tôi nói.

Noãn Noãn và tôi đều rất phấn khích, phấn khích quá lại thành ra không biết nên nói gì?

Trước đây đều là nhìn nhau nói chuyện, giờ lại nhìn tường nói, từ tường nghe thấy lời đáp, thật không quen tí nào.

Chúng tôi nói bừa mấy câu chả ra đâu vào đâu, dù gì lời nói cũng không quan trọng, quan trọng chỉ là phát ra tiếng.

Tôi giả tiếng chó sủa, Noãn Noãn giả tiếng mèo kêu, tôi lại giả tiếng chó bị xe đụng, Noãn Noãn bèn giả tiếng mèo bị chó cắn.

Tôi thử nói tiếng Anh, có khi vách hồi âm linh thiêng, chưa biết chừng lại coi thường tiếng Anh, nhưng Noãn Noãn vẫn nghe ra.

“Ta là tài tử đây, giai nhân em nơi nao?” là tiếng cậu em khóa dưới.

Ngoảnh đầu sang liền thấy Vương Khắc chỉ cách tôi có năm bước chân, cô bé liếc thấy thái độ của tôi, có chút ngượng ngùng bèn nhích ra xa một chút.

“Em muốn tới Noãn Noãn!” tiếng Noãn Noãn truyền đến.

Tôi giật thót mình, quyết định giả chết.

“Chẳng nghe rõ gì cả,” tôi nói.

“Đừng có giả vờ, rõ ràng là anh nghe thấy rồi.”

“Anh có giả vờ đâu.” Tôi nói xong liền nhận ra mình bị hớ.

Quả nhiên Noãn Noãn bật cười hả hê, mà còn cười rõ lâu, như thể muốn khiến tôi phải thấy xấu hổ.

Cùng với tiếng cười của Noãn Noãn, dường như tôi còn nghe thấy một tiếng nói trong lòng, có lẽ tiếng nói ấy vẫn luôn luẩn quất trong lòng tôi, để đến tận lúc này đây, khi gặp bức vách hồi âm, mới xuất hiện rõ ràng, trọn vẹn.

“Noãn Noãn, anh...” tôi nói.

“Đoạn sau nghe không rõ,” tiếng Noãn Noãn truyền lại.

“Noãn Noãn.” Nói đến đây, tôi ngửa cổ ra sau, nén cho tiếng mình thấp nhất, nhẹ nhất: “Anh thích em.”

“Đoạn sau vẫn nghe không rõ ấy.”

“Đừng có giả vờ,” tôi nói.

“Em không giả vờ mà.” Noãn Noãn dường như đã cuống lên.

Noãn Noãn, anh biết em không nghe thấy, nhưng dù gì anh cũng nói rồi.

Đây là tiếng vọng trong lòng anh.

Tiếng vọng này không cần được trả lời, nó chỉ muốn được truyền đi thôi.

Thầy Lý để mọi người chơi 20 phút, rồi mới giải thích qua về nguyên lý của vách hồi âm.

Nguyên lý này rất dễ hiểu, sóng âm ở bên trong mặt lõm của hình tròn, nên sẽ liên tục được phản xạ và truyền đi.

Mặt tường cứng cáp lại nhẵn bóng, độ tản của sóng âm được giảm đến mức nhỏ nhất, vì vậy mới có thể nghe được tiếng vọng trong vòng mấy chục mét.

Nguyên lý nói thì đơn giản, nhưng tính toán chính xác khi xây dựng, chọn lựa vật liệu, tỉ mỉ thi công, mới là điều kỳ diệu của bức vách hồi âm được xây dựng từ mấy trăm năm trước này.

Lúc này tôi mới hiểu vì sao thầy Lý nhất định chọn lúc vắng người nhất để đến đây, bởi chỉ cần đông du khách, hàng trăm cái miệng cùng hò hét: Nhóc con, Bố ơi, Em ơi, Anh ơi, Tôi muốn đánh rắm, Ăn shit không...

Bạn còn có thể nghe ra cái gì nữa đây?

Đừng nói là tiếng vọng trong mấy chục mét, kể cả có người đứng ngay gần hét lên “Cứu tôi với”, bạn cũng chưa chắc đã nghe thấy nữa là.

Thầy Lý dẫn mọi người trở lại trước điện lớn của Hoàng Khung Vũ. Thấy chúng tôi muốn bước vào điện, thầy lại bật cười nói: “Đợi đã nào.”

Thầy Lý sải ba bước dài trên hành lang từ bắc sang nam trước Hoàng Khung Vũ, rồi dừng lại trên phiến đá thứ ba.

“Đây là đá Tam Âm. Mọi người lần lượt đến vỗ tay ở đây, thử xem có thể nghe thấy ba tiếng vọng không,” thầy nói.

Chúng tôi lần lượt đứng trên phiến đá thứ ba, lấy hết sức vỗ tay, từng người vỗ tay xong, mọi người lại quây lại hỏi han xem nghe tiếng vọng lại thế nào, rồi thảo luận đến chuyện nguyên lý.

Phiến đá thứ ba này vừa vặn nằm đúng tâm đường tròn của vách hồi âm, âm thanh phát ra từ đây sẽ truyền đi bốn phía, đụng phải vách hồi âm phản xạ ngược lại, tụ về tâm ban đầu; rồi cứ thế tiếp tục truyền đi, đụng phải vách, lại phản lại, trở về tâm.

Chỉ có điều âm thanh cuối cùng cũng sẽ mất đi, vì vậy, tiếng vọng tai người nghe thấy sẽ càng lúc càng yếu đi.

Trong điều kiện môi trường cực kỳ yên tĩnh, lực vỗ tay đủ mạnh, trong tai không có ráy tai, chưa biết chừng cũng có thể nghe thấy loáng thoáng tiếng vọng thứ tư.

“Các bạn lợi hại đấy.” Thầy Lý vỗ tay.

“Thầy nên đứng ở phiến đá thứ ba vỗ tay, như vậy bọn em sẽ thấy còn lợi hại hơn,” cậu em khóa dưới tôi nói.

Thầy Lý bật cười, đứng trên phiến đá Tam Âm, lấy hết sức vỗ tay mười mấy cái, chúng tôi đều bật cười thích thú.

Điều này thực ra cũng chẳng có gì, bởi trong đám sinh viên chúng tôi, bất kể là từ Đài Loan hay Bắc Kinh, ít nhất cũng có đến một nửa học về khoa học.

Quay lại Hoàn Khâu Đàn cao ba tầng, chúng tôi trèo thẳng lên tầng cao nhất, trên đàn tế ngoài phiến đá trung tâm là hình tròn ra, những phiến đá quây các vòng bên ngoài đều có hình cánh quạt.

“Phiến đá này gọi là đá Thiên Tâm,” thầy Lý chỉ vào phiến đá tròn trung tâm, nói. “Nghe nói đứng giữa phiến đá này dù có nói nhỏ đến đâu, tiếng vọng cũng rất âm vang, lại như thể tiếng từ trên trời vọng xuống. Về nguyên lý thì các bạn hẳn nắm vững hơn tôi, có thể nói cho được không?”

Nguyên lý này cũng tương tự như đối với đá Tam Âm, đá Thiên Âm vừa đúng nằm ở tâm vòng tròn, xung quanh lại là lan can bằng đá cẩm thạch trắng.

Sóng âm truyền đi bốn phía, sau khi va phải lan can vòng cung kiên cố, phản xạ lại tâm vòng tròn.

Điểm khác với đá Tam Âm là, bề mặt Hoàn Khâu Đàn trơn nhẵn, trong đàn không hề có bất cứ vật cản nào, lại thêm bán kính của vòng tròn khá nhỏ, do vậy sau khi âm thanh phát ra, tiếng vọng sẽ được truyền lại với tốc độ cực nhanh, khiến người nghe không sao phân biệt nổi tiếng vọng và tiếng gốc.

Tiếng vọng và tiếng gốc cùng hòa vào nhau, kết quả là âm thanh nghe được sẽ có cảm giác vang vọng và cộng hưởng hơn.

Cũng vì sóng âm được phản xạ lại từ khắp tứ phía, không thể làm rõ hướng của tiếng vọng, nên có ảo giác như tiếng vọng đó từ trời vọng xuống.

“Thời xưa, khi hoàng đế đứng đây tế trời, chỉ cần hô khẽ một tiếng, khắp bốn bề đều vọng lại tiếng vang rần, như sấm truyền từ trời xuống vậy, cộng thêm không khí trang nghiêm lúc tế lễ, mọi sự càng trở nên thần bí.”

Thầy Lý cũng nói những phiến đá hình quạt bao quanh đá Thiên Tâm là đá ngải thanh, tầng thượng, tầng trung, tầng hạ mỗi tầng có chín vòng đá, càng là những vòng bên ngoài càng có nhiều phiến đá, nhưng số lượng đều là bội số của chín.

Cầu thang nối giữa các tầng đều có chín bậc, lan can đá tầng thượng gồm 72 phiến đá, tầng trung gồm 108 phiến, tầng hạ gồm 180 phiến, không chỉ đều là bội số của chín, mà cộng lại còn vừa đúng 360 phiến, vừa vặn ứng với 360 ngày trong năm.

Sở dĩ liên tục dùng chín và các bội số của chín là để phối hợp với “ngày Trùng Cửu”, đồng thời nhấn mạnh sự tối cao của trời.

Thầy Lý kêu chúng tôi lần lượt đứng thử lên phiến đá Thiên Tâm, tiếc là giờ đã bắt đầu có một vài vị khách, trong tiếng người hơi ồn ào, hiệu quả tiếng vọng e rằng sẽ không tốt lắm.

Còn có một bé gái cứ túm lấy bố gào khóc, tôi gần như buột miệng kêu mọi người ngậm miệng hết, để cô bé đứng khóc trên đá Thiên Tâm, xem xem có thể tiếng khóc chấn động trời xanh, khiến ông trời bực mình nện sấm xuống không.

Đến lượt mình đứng lên đá Thiên Tâm, tôi ngửa cổ nhìn trời, nói: “Xin cảm ơn.” Có thể là do tác dụng tâm lý, tôi cảm thấy âm thanh quả thực lớn hơn thật, lờ mờ cũng nghe thấy cả tiếng vọng.

“Anh nói cái gì thế,” Noãn Noãn nói.

Tôi bảo với Noãn Noãn, hồi học cấp III từng học một bài văn tên “Tạ Thiên” do Trần Chi Phiên viết.

Mở đầu có câu: “Vì những người cần cảm tạ quá nhiều, nên đành cảm tạ ông trời vậy.” Hồi đó đọc xong mà xúc động bồi hồi, giờ cuối cùng cũng có thể trực tiếp bày tỏ với ông trời lòng cảm ân rồi.

“Anh còn nghe thấy cả tiếng vọng nữa đấy,” tôi nói. “Mà không chỉ một tiếng đâu.”

“Thật không?” Noãn Noãn rất tò mò.

“Ừ.” Tôi gật đầu. “Tổng cộng anh nghe thấy chín tiếng vọng, tiếng thứ nhất là: Đừng khách sáo.”

“...”

“Tiếng thứ hai là...”

“Anh đừng nói nữa,” Noãn Noãn ngắt lời tôi, “em có hỏi đâu.”

“Để anh nói đi mà.”

Noãn Noãn chẳng buồn để ý đến tôi nữa, rảo bước đi nhanh chóng.

Tôi đành ở lại đằng sau tự nói một mình, lần lượt từ câu thứ hai đến câu thứ tám: Ngươi vất vả rồi, Ngươi đúng là người khách khí, Giờ rất hiếm gặp được người nào tri ân đồ báo như ngươi, Bắc Kinh có vui không, Có quen không, Có mệt không, Có bạn mới nào chưa.

“Tiếng vọng thứ chín là quan trọng nhất, vì là thứ chín mà,” tôi nói. “Tiếng vọng thứ chín nghe rất rõ ràng, đó là: Ừ, Noãn Noãn thật là một cô gái tốt.”

Noãn Noãn dừng lại, nói: “Sao tiếng vọng thứ chín lại nhắc đến em?”

“Vì lúc tiếng vọng thứ tám hỏi có bạn mới nào chưa? Anh liền trả lời thầm: Có, cô ấy tên là Noãn Noãn, là một cô gái tốt,” tôi nói, “thành ra tiếng vọng thứ chín trả lời thế đấy.”

Noãn Noãn quay người lại đối diện với tôi, khựng lại mất mấy giây, rồi nói: “Anh nói linh tinh lâu vậy rồi, đã khát chưa?”

“Rồi.” Tôi gật gật đầu.

“Lát nữa mua chai sữa chua uống.” Noãn Noãn bật cười.

“Được thôi.” Tôi cũng cười.

Tôi và Noãn Noãn kề vai đi bên nhau, em nói: “Muốn biết vừa nãy em nói gì ở đá Thiên Tâm không?”

“Em nói gì ở đá Thiên Tâm?” tôi hỏi.

“Em muốn tới Noãn Noãn,” Noãn Noãn nói. “Mà em cũng nghe thấy tiếng vọng nữa.”

“Em đừng có nói. Anh có hỏi đâu,” tôi nói.

“He he, em cũng nghe thấy chín tiếng vọng.” Noãn Noãn cười khúc khích. “Tám tiếng đầu tiên là: Được đấy, Đi đi thôi, Nhất định phải đi, Không đi không được, Không thể không đi, Không đi không xong, Không đi là ta dội sấm, Dội sấm rồi ngươi vẫn cứ phải đi.”

Tôi chạy vọt đi, Noãn Noãn lập tức đuổi theo, tôi lách bên này lạng bên kia, Noãn Noãn vẫn theo sát bên cạnh.

“Tiếng vọng thứ chín là quan trọng nhất, đó là: Đây là lời hẹn giữa Noãn Noãn và Lương Lương,” Noãn Noãn nói với tôi.

“Cũng may là em chỉ nói linh tinh thôi,” tôi nói.

“Dù gì anh cũng nghe thấy rồi.” Noãn Noãn nhún vai.

Lại đến Hoàng Khung Vũ, lần này cuối cùng cũng có thể vào trong rồi.

Tổng cộng ba lần đi ngang qua cửa Hoàng Khung Vũ mà không bước vào lần nào, chúng tôi dường như đều đã thành Đại Vũ* rồi.

*Sự tích Đại Vũ trị thủy, Đại Vũ vì giúp dân chống lũ mà ba lần đi ngang qua cửa nhà đều không vào nhà.

Bên trong đền, thẳng hướng Bắc có một phiến đá tròn, nằm ở bài vị thờ phụng Hoàng Thiên Thượng Đế cao nhất trong gian thờ thần.

Hai chái đông tây trong đền mỗi bên xếp bốn bài vị, thờ tám vị hoàng đế đời Thanh, lần lượt là Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực, Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Đạo Quang.

“Anh nhớ đời Thanh có tất cả 12 vị hoàng đế,” tôi hỏi Noãn Noãn, “còn bài vị của Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự, Tuyên Thống đâu?”

“Có thể bọn họ thấy mình làm Trung Quốc be bét ranh bành, nên ngại không vào ở đây,” Noãn Noãn nói.

Ra khỏi Hoàng Khung Vũ, chúng tôi tiếp tục đi về hướng Bắc, qua cầu Đan Bệ dài hun hút, hai bên bờ trồng toàn cây bách.

Thầy Lý nói trong Thiên Đàn có hơn sáu vạn cây bách, được trồng dày đặc khiến nơi nàytrở nên trang nghiêm hơn.

Cầu Đan Bệ nối từ nam sang bắc, cao dần lên, tỏa chỉa thành ba nhánh tả, trung, hữu.

Nhánh trung là Thần đạo, dành cho thần thánh; nhánh hữu là Hoàng đạo, dành cho hoàng đế; nhánh tả là Vương đạo, dành cho các vương công đại thần.

Thầy Lý vừa dứt lời, tất cả mọi người đều không hẹn mà cùng xông lên nhánh Thần đạo.

“Thần đạo vốn chẳng cần xây làm gì,” tôi nói. “Đã là thần, lẽ nào còn cần đi bộ nữa sao?”

Noãn Noãn trợn tròn mắt, lúc sau mới bật cười, nói: “Câu hỏi này của anh, thật khiến người ta không biết trả lời thế nào.”

Lại có người hỏi: Đây rõ ràng là đường, sao phải gọi là cầu?

Thầy Lý trả lời: Phía dưới có một thông đạo hướng Đông Tây, cắt ngang cầu Đan Bệ, vậy nên gọi là cầu.

“Thông đạo này để cho các loài gia súc như bò dê đi, đám gia súc sẽ đi đến một lò mổ cách đây vài trăm mét để bị giết mổ, rồi làm thành đồ tế. Vì vậy thông đạo này bị gọi là Quỷ Môn Quan, có bạn nào muốn đi thử xem không?”

Đầu óc mọi người đều rất bình thường, chẳng ai muốn thử cả.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

9#
Đăng lúc 20-6-2013 12:44:49 | Xem tất
CHƯƠNG 5


(tiếp)

Cuối cùng cũng đến điện Kỳ Niên tiêu biểu cho kiến trúc của Thiên Đàn, đây là tọa điện lớn hình tròn có ba tầng mái, đỉnh ngọc thếp vàng, mái hiên màu lam thẫm, được ốp bằng ngói lưu ly xanh lam. Màu xanh và hình tròn, đều tượng trưng cho trời.

Hoàng đế cử hành nghi lễ tại đây, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

Tòa điện cao chín trượng chín (gần 32 mét), được xây toàn bằng gỗ, dùng hai mươi tám cột gỗ chống đỡ trọng lượng của mái điện.

Hai mươi tám cột gỗ này xếp thành ba vòng, vòng trong bốn cột tượng trưng cho bốn mùa; vòng giữa mười hai cột tượng trưng cho mười hai tháng; vòng ngoài mười hai cột tượng trưng cho mười hai giờ *; vòng giữa và vòng ngoài cộng vào thành hai mươi tư, tượng trưng cho hai mươi tư tiết khí một năm; tổng ba vòng là hai mươi tám, tượng trưng cho hai mươi tám vì tinh tú.

*Đơn vị đo thời gian cổ, một ngày chia làm 12 giờ.

Điện Kỳ Niên tọa lạc trên nền đài ba tầng hình tròn bằng đá cẩm thạch trắng, mỗi tầng đều có lan can cẩm thạch trắng khắc hoa.

Từ xa nhìn lại, mái đền xanh lam sẫm, đá cẩm thạch trắng tinh khiết, cửa gỗ và cột gỗ đỏ sậm, lại thêm vàng, đỏ, xanh lục, xanh trời của màu sơn ngọc tỷ, tổng thể kiến trúc mang màu sắc đối chọi mạnh mẽ mà vẫn giữ vẻ hòa hợp.

Tôi và Noãn Noãn đứng trước cửa lớn điện Kỳ Niên phóng tầm nhìn ra xa, cầu Đan Bệ như một nét mác trải dài về hướng Nam, hàng cây bách cổ hai bờ xanh biếc một màu, thấp thoáng vài mái hiên đền chùa, tầm nhìn như kéo dài vô tận.

Điều này khiến người ta có một ảo giác như đang từ trên trời chầm chậm trượt xuống.

Noãn Noãn đi mua sữa chua về, chúng tôi bèn cùng hưởng thụ cảm giác lâng lâng vừa trượt xuống từ trời vừa uống sữa chua.

Mọi người rời Thiên Đàn qua cửa Bắc Thiên Môn, thầy Lý nói muốn để chúng tôi đi thăm Đại Thạch Lạt Nhi ở Tiền Môn.

Đại Thạch Lạt Nhi cách Thiên Đàn không xa, chỉ đi một chút là tới.

“Đại Thạch Lạt Nhi là khu thương nghiệp cổ nhất, và cũng phồn hoa nhất của Bắc Kinh, nơi đây tập trung dày đặc các biển hiệu cửa tiệm cổ nhất Bắc Kinh. Đồng Nhân Đường bán thuốc bắc, Thụy Phù Tường bán vải, Mã Tụ Nguyên bán mũ, Nội Liên Thăng bán giày vải, Trương Nhất Nguyên bán lá trà, vân vân, đều là những cửa tiệm nổi tiếng có hàng trăm năm lịch sử.” Thầy Lý vừa đi vừa nói, đã đến đầu phố, trên hàng rào trạm lộng bằng sắt cao chừng một tòa nhà hai tầng, có đề ba chữ lớn thếp vàng: Đại Sách Lan.

“Đây...” Tôi có chút kích động, hỏi Noãn Noãn: “Lẽ nào đây chính là...”

“Đại Thạch Lạt Nhi.” Noãn Noãn bật cười khúc khích.

“Sách Lan nghĩa là hàng rào, có thể đọc thành Thạch Lạt à?”

“Em đã tra tự điển,” Noãn Noãn nói, “không đọc được.”

“Vậy...”

“Đừng hỏi nữa,” Noãn Noãn nói. “Cứ gọi theo thế đi.”

Nghe nói, thời Hiếu Tông, để phòng trừ nạn trộm cướp ngày càng hoành hành trong kinh thành, hàng rào này được dựng lên đầu con phố, cứ đêm xuống là đóng chặt, ở những khu rào trọng yếu còn có binh sĩ đi tuần về đêm.

Vì ở đây tập trung nhiều tiệm buôn bán, hàng rào được xây cao lớn, vững chắc, nên người ta gọi đây là “Đại Sách Lan” tức hàng rào lớn.

Đầu đời Thanh có lệnh cấm: “Trong thành gần hoàng cung, nghiêm cấm huyên náo”, vì chỗ này vừa may nằm ngoài dải cô lập, mọi người đều đổ về đây tìm niềm vui, những khu ăn chơi như Khánh Lạc Viên, Quảng Đức Lầu, Quảng Hòa Viên vẫn còn tồn tại đến bây giờ, thuở đấy đều đêm đêm vang tiếng đàn ca.

Nơi đây cũng trở thành nơi người dân thưởng trà, xem kịch, mua sắm, là một phần trong cuộc sống sinh hoạt của người dân Bắc Kinh cổ.

Tôi và Noãn Noãn đi dạo dọc con phố, ngay lập tức bị thu hút bởi một lầu quán có kiến trúc như hý viên tự, bên trên còn có cả biển hiệu “Nơi sản sinh điện ảnh Trung Quốc”.

Bên trong là kiểu kiến trúc hình vòng hai tầng, bốn bề tường có treo rất nhiều tranh ảnh lịch sử.

Vốn dĩ đây là một rạp chiếu phim, bộ phim điện ảnh đầu tiên của Trung Quốc “Núi Định Quân” năm 1905 được chiếu chính tại đây.

Nhìn các máy móc chiếu bóng cổ trưng bày, tôi kể cho Noãn Noãn nghe còn nhớ hồi nhỏ được đi xem chiếu bóng ngoài trời.

Thời đó chỉ cần có lễ kỷ niệm, là khu đất trống trước đình chùa lại được chăng một tấm vải trắng lớn, vào buổi tối sẽ chiếu phim.

Tôi luôn thích đứng cạnh anh thợ chiếu bóng, xem anh chầm chậm quay cuộn phim.

Noãn Noãn nói hồi nhỏ em cũng cực kỳ thích xem chiếu bóng ngoài trời.

Ra khỏi lầu quán, lòng tôi vương đầy những hồi ức xưa cũ, dường như thấy chính mình đã trở lại thành thằng bé nhảy nhót nghịch ngợm thuở nào.

“Đại Sách Lan” là khu phố đi bộ, không hề có xe cộ đi vào, những biển hiệu cổ của các cửa tiệm càng làm tăng thêm vẻ cổ xưa cho cảnh phố.

Noãn Noãn nói ở đây có vài nơi em dường như đã từng thấy trong những bộ phim làm về triều Thanh.

Trong khu “Đại Sách Lan” đều là các tiệm buôn bán, nhưng tôi chẳng rủng rỉnh gì, thành ra ham hố mua sắm cũng không cao.

Thái độ phục vụ ở đây cũng không tồi, mỗi khi khách mua đồ, nhân viên cửa hàng thường nói: “Đây là đồ - Ngài – mua, đây là hóa đơn – Ngài – cần, tôi để hóa đơn trong túi này, để - Ngài – tiện cầm.” Mỗi chữ Ngài đều được kéo dài ra, cũng khá thú vị.

Mỗi khi nhìn thấy giá tiền ghi trên một món đồ, phản ứng đầu tiên của tôi đều là đổi sang tiền Đài, quả nhiên rất rẻ.

“Nhân dân tệ với Đài tệ đổi thế nào ?” Noãn Noãn hỏi.

“Khoảng một đổi bốn,” tôi nói. “Một nhân dân tệ đổi được bốn Đài tệ.”

“Ừm.” Noãn Noãn gật đầu tỏ ra đã hiểu, rồi chỉ vào một bình hoa ghi giá 200 tệ. “Vì thế cái này giá 50 Đài tệ?”

“Là 800 Đài tệ chứ!” Tôi trợn tròn mắt không dám tin vào tai mình.

Noãn Noãn lè lưỡi, nói: “Em vốn không giỏi Toán mà.”

“Thế này sao gọi là không giỏi được?” Tôi nói. “Phải gọi là rất kém.”

Tôi rút trong ví ra một tờ 100 Đài tệ kể từ khi đến Bắc Kinh vẫn chưa được cho ra phơi nắng, nói: “Đổi cho em lấy 100 nhân dân tệ.”

“Anh mơ đấy à!” Noãn Noãn nói.

“Cũng được,” tôi cười cười, “môn toán của em cũng coi như chưa hết thuốc chữa.”

Noãn Noãn dường như rất tò mò về tờ tiền đỏ trong tay tôi, tôi bèn đưa cho em.

“Đây là Tôn Trung Sơn mà” Noãn Noãn xem xét xong, nói.

“Em cũng nhận ra à,” tôi nói. “Lợi hại đấy.”

“Ai mà không nhận ra chứ.” Noãn Noãn lườm tôi một cái.

Tôi thấy Noãn Noãn cực kỳ hứng thú với Đài tệ, bèn lại móc ví ra tờ 1000 Đài tệ màu xanh đưa cho em.

“Sao lại là trẻ con thế này?” Noãn Noãn tỏ vẻ nghi hoặc. “Em còn tưởng sẽ thấy Tưởng Giới Thạch chứ.”

“Hồi xưa thì đúng vậy, mấy năm trước mới đổi rồi.

“Quả nhiên em đoán không sai mà, các anh thế nào cũng in hình Tưởng Giới Thạch...” Noãn Noãn nói rồi đột nhiên ngừng bặt.

“Làm sao thế?” tôi hỏi

“Em gọi thẳng tên Tưởng Giới Thạch, anh không sao chứ?” Noãn Noãn hỏi.

“Có gì mà sao với không sao?” Tôi lấy làm tò mò.

“Tưởng – Giới – Thạch,” Noãn Noãn nói rành rọt từng chữ, “thật là không sao?”

“Đương nhiên không sao rồi,” tôi nói, “em mà gọi là anh Giới Thạch, anh mới làm sao đấy.”

“Anh bệnh đấy à.” Noãn Noãn lại trừng mắt nhìn tôi.

Tôi sực hiểu ra, mấy hôm nay tiếp xúc vui vẻ, tự nhiên, khiến chúng tôi nói đủ mọi chuyện, quên mất rằng giữa đôi bên vẫn còn tồn tại một số khác biệt, thậm chí là cấm kỵ.

“Nếu như mười năm trước em gọi thẳng tên Tưởng Giới Thạch, có lẽ anh sẽ làm sao thật. Nhưng giờ thì không rồi.”

“Vì sao?”

“Ở Đài Loan, làm gì còn Tưởng Giới Thạch nữa!”

Noãn Noãn định nói gì đó lại thôi, dường như cũng chợt nhớ ra những cấm kỵ giữa chúng tôi, bèn cười xòa vài tiếng.

Noãn Noãn hẳn không biết tâm trạng tôi lúc nói những lời này.

Đối với thế hệ sinh viên chúng tôi thời nay ở Đài Loan, chúng tôi từng ngây thơ nhưng đó là vì nhiệt tình.

Những chân lý và tín ngưỡng vẫn kiên tưởng trong một gi­ai đoạn thường chưa đến vài năm đã dễ dàng sụp đổ; mà giá trị quan mới được thiết lập cũng chẳng biết lúc nào sẽ lại rạn vỡ?

Không phải chúng tôi không tin lịch sử, chỉ là không biết nên tin ai?

Vì vậy, chúng tôi không còn tin nữa, cũng không còn nhiệt tình nữa.

Nếu như tôi nói điều này với Noãn Noãn, hẳn em sẽ chẳng thể nào hiểu nổi.

Tôi thử chuyển chủ đề nói chuyện, móc trong túi ra một tờ 100 nhân dân tệ màu đỏ, bên trên là chân dung Mao Trạch Đông.

Tôi đã đổi tiền đô Mỹ trước từ Đài Loan, tới Bắc Kinh lại lấy tiền đô đổi sang nhân dân tệ.

Tôi không muốn nói với Noãn Noãn quá trình phức tạp này, chỉ vào ba tờ tiền trong tay nói: “Giờ em thử coi, đây là tờ 1000 Đại tệ có hình Tưởng Giới Thạch, 100 nhân dân tệ in ảnh Mao Trạch Đông, 100 Đài tệ in hình Tôn Trung Sơn trên đó. Vậy một “tờ Tưởng Giới Thạch” có thể đổi được hai phẩy năm “tờ Mao Trạch Đông” và một “tờ Mao Trạch Đông” lại đổi được bốn “tờ Tôn Trung Sơn”. Em đã hiểu chưa?”

Noãn Noãn thấy thú vị, liền bật cười, gật gật đầu.

“Đúng rồi,” tôi nói, “anh vừa gọi thẳng tên Mao Trạch Đông, em không sao chứ?”

“Mao Trạch Đông vẫn luôn đứng cùng quần chúng nhân dân, gọi thẳng tên có gì sai đâu?”

“Mao – Trạch – Đông,” tôi đọc rành rọt từng chữ, “thật là không làm sao?”

“Anh nhạt toẹt quá đấy.” Noãn Noãn nói xong, liền nhớ ra vừa nãy mình cũng đã có phản ứng như thế, bèn phá lên cười.

“Từ Đài Loan bay đến Hồng Kông rồi lại bay đến Bắc Kinh, anh tiêu mất khoảng 10 tờ Tưởng Giới Thạch.” Nói đoạn tôi hỏi Noãn Noãn: “Xin hỏi như thế là bao nhiêu ông Tôn Trung Sơn?”

“Quá đơn giản,” Noãn Noãn nói, “100 tờ Tôn Trung Sơn.”

“Thế bằng bao nhiêu tờ Mao Trạch Đông?” tôi lại hỏi.

“25 tờ chứ gì” Noãn Noãn vừa cười vừa trả lời.

“Tiếp theo là một câu hỏi rất uyên thâm,” tôi nói. “Nếu anh tiêu hết hai ‘tờ Tưởng Giới Thạch’, 3 ‘’tờ Mao Trạch Đông’’, 4 ‘’tờ Tôn Trung Sơn’’, xin hỏi anh đã tiêu hết bao nhiêu ‘’tờ Mao Trạch Đông’’?”

“Hả?” Noãn Noãn sững người.

Chúng tôi bước vào thiệm Thụy Phù Tường, bên trong bày đầy các xấp vải lụa muôn hình muôn vẻ, khiến người ta hoa hết cả mắt.

Ở đây còn có một quầy cắt may, khách hàng chọn vải xong, người thợ may có thể giúp khách may y phục vừa vặn.

Cũng có thể đặt may xường xám, đo các số đo, chọn vải xong, chóng một chút là hôm sau có thể giao hàng; nếu là khách du lịch nước ngoài, cửa tiệm còn gửi xường xám đã may xong đến tận khách sạn cho khách.

“Chín ông Mao Trạch Đông!” Noãn Noãn đột nhiên nói.

Tôi giật thót người, người trong cửa tiệm dường như cũng đều giật mình, ầm ập ném tới những ánh nhìn kỳ lạ.

“Đấy là đáp án của câu hỏi vừa rồi,” Noãn Noãn có vẻ ngượng nghịu, giảm thật nhỏ âm lượng.

Ra khỏi Thụy Phù Tường, bước vào Nội Liên Thăng, liền nhìn thấy bức hoành “Tiệm giày vải số 1 Trung Quốc”

“Noãn Noãn, cho anh mượn chân em xem nào,” tôi nói.

“Định mua giày cho người yêu hả?”

“Anh không có người yêu,” tôi nói.

Noãn Noãn bật cười khúc khích, cúi xuống cởi dây giày.

“Nhưng bạn gái thì có mấy cô, phải mua vài đôi,” tôi lại nói.

Noãn Noãn khựng tay lại, rồi buộc lại dây giày, đứng lên.

“Đùa thôi mà,” tôi vội vàng cười cười, “anh định mua giày cho mẹ anh.”

Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi, rồi lại cúi xuống tháo dây giày.

“Anh có biết cỡ chân của mẹ anh không?” Noãn Noãn hỏi.

“Chắc là biết.”

“Thật không?”

“Hồi nhỏ hay bị đánh, anh toàn quỳ dưới đất ôm lấy chân mẹ gào khóc: Mẹ, con sai rồi!” Tôi cười nói: “Nhìn lâu rồi, cỡ chân mẹ cũng in sâu trong óc.”

“Toàn nói linh tinh.” Noãn Noãn cũng bật cười.

Noãn Noãn giúp tôi chọn một đôi giày vải để khâu thủ công, mặt giày màu đen có thêu vài bông hoa nhỏ màu đỏ.

Đây là hàng khuyến mại, giá 88 nhân dân tệ, tôi rút tờ 100 nhân dân tệ ra, rồi gọi Noãn Noãn lại: “Nào, chúng ta cùng tạm biệt Mao chủ tịch một tiếng,” tôi nói.

Noãn Noãn chẳng buồn để ý đến tôi, đi thẳng ra ngoài.

Nhân viên bán hàng trả lại cho tôi một tờ 10 tệ và hai đồng 1 tệ.

“Em xem,” tôi bước tới cạnh Noãn Noãn, chỉ vào chân dung Mao Trạch Đông trên tờ 10 tệ, nói: “Mao chủ tịch không nỡ xa bọn mình, thay quần áo cái lại trở về rồi này.”

“Bắc thất!” Noãn Noãn nói.

“Mắng hay lắm,” tôi nói, “câu này đúng là dùng thế đấy.”

Ra khỏi Nội Liên Thăng, Noãn Noãn nói em muốn đi mua một thứ, mười phút sau sẽ quay lại, rồi liền chạy mất tiêu.

Đợi chưa đầy năm phút, tôi đã thấy chán, bèn mua cây kẹo gậy, ngồi xổm xuống góc tường vẽ vòng tròn.

“Mua xong rồi.” Noãn Noãn chạy trở lại, hỏi: “Anh đang làm gì đấy?”

“Anh đang diễn cảnh đứa trẻ bị lạc mẹ.” Tôi đứng dậy.

“Đúng là mất mặt.” Noãn Noãn nói.

“Em mua gì thế?” tôi hỏi.

“Mấy hôm nữa rồi anh sẽ biết.” Noãn Noãn úp úp mở mở.

Phố đi bộ Đại Sách Lan kéo dài từ đông sang tây không đến 300 mét, nhưng tôi và Noãn Noãn vẫn đi bộ đến hai chân mỏi nhừ.

Vừa may trước cửa Đồng Nhân Đường có chỗ để ngồi, chúng tôi bèn ngồi xuống nghỉ giải lao.

“Chỗ này thích thật, cho mọi người được ngồi,” tôi nói. “Nếu như trời nóng quá đi bộ đến ong đầu, có thể vào luôn bên trong gặp bác sĩ bốc thuốc.”

Đúng thế.” Noãn Noãn lau mồ hôi, đưa cho tôi một bình sữa chua.

Tôi phát hiện mùa hè ở Bắc Kinh dường như không thể thiếu được sữa chua lạnh.

“Hay đọc tin trên báo về Đại Sách Lan, đến hôm nay mới có dịp đến đây dạo phố,” Noãn Noãn nói.

“Là những tin thế nào?” tôi hỏi.

“Phần lớn đều là giới thiệu về các cửa tiệm cổ hàng trăm năm, thỉnh thoảng cũng có thông tin về việc dỡ bỏ tu sửa.”

“Dỡ bỏ thật á?”

“Chắc là tu sửa. Nhưng tu sửa xong phong vị kinh kỳ có còn không thì cũng không biết được,” Noãn Noãn nói. “Tuổi này rồi, những thứ cần thuần khiết luôn rất chóng chết.”

Em nhìn ánh chiều tà, hồi lâu lại nói: “Dưới ánh chiều tà, bóng dáng người con gái ngồi nơi Đại Sách Lan uống sữa chua, có lẽ về sau cũng chẳng thể nhìn thấy nữa.”

“Nhưng tinh thần của em sẽ vẫn luôn trường tồn,” tôi nói.

“Nói cái gì thế.” Noãn Noãn bật cười thành tiếng.

Cũng gần đến giờ về, mọi người chầm chậm đến đầu phố phía đông Tiền Môn tập trung.

Tôi thấy biển hiệu “Toàn Tập Đức” phía đối diện, liền hào hứng nói với Noãn Noãn: “Toàn Tập Đức kìa!”

“Muốn ăn vịt quay à?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ.” Tôi gật đầu. “Hôm nay hình như có mời miễn phí.”

“Thật không?” Noãn Noãn giật thót mình. “Làm sao thế được?”

“Anh vừa mới thấy trước cửa tiệm có xếp mấy băng ghế dài, chắc là mời xem miễn phí người ta ăn vịt quay.”

“Anh...” Noãn Noãn không nói tiếp nữa, quay ngoắt đi không thèm để ý đến tôi.

Hai mắt tôi vẫn nhìn chằm chằm vào tiệm vịt quay Toàn Tự Đức phía đối diện.

“Lương Lương,” Noãn Noãn nói, “nếu anh muốn ăn, lần sau đến Bắc Kinh em sẽ mời anh.”

“Đây là lời hứa trong gió hả?”

“Hả?”

“Lúc có gió không nên hứa gì cả, làm vậy sẽ là lời hứa gió bay đấy.”

“Em có như anh đâu,” Noãn Noãn nói. “Em nói muốn tới Noãn Noãn, anh đến một lời hứa cho tử tế cũng không có.”

“Xe đến rồi,” tôi nói.

“Lại vờ vịt nữa.” Noãn Noãn khẽ hừ một tiếng.

Quay về trường ăn cơm xong, mọi người lại tập trung trong giảng đường trưng bày chiến lợi phẩm hôm nay.

Chiến lợi phẩm hôm nay vô cùng phong phú, xem ra hầu bao của rất nhiều người đều đã thất thoát không ít ở Đại Sách Lan.

Từ Trì cho tôi xem ảnh cậu ta chụp ở Đại Sách Lan, có một bức chụp bóng lưng tôi và Noãn Noãn đang kề vai uống sữa chua.

Nhớ tới lời Noãn Noãn nói lúc đó: “Tuổi này rồi, những thứ thuần khiết luôn rất chóng chết."

Không biết lần sau tới Bắc Kinh (nếu như vẫn còn có lần sau), những thứ thuần khiết nào sẽ ra đi trước đây?

Và còn thứ thuần khiết nào vẫn rất thuần khiết?

Nằm trên giường nhắm chặt mắt, tôi thấp thoáng nghe thấy vài âm thanh.

Có lẽ là do ảnh hưởng của vách hồi âm ở Thiên Đàn, tiếng cười của Noãn Noãn vẫn cứ vọng lại trong tim tôi.


HẾT CHƯƠNG 5
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

10#
Đăng lúc 20-6-2013 13:11:18 | Xem tất
CHƯƠNG 6




“Hôm nay đổi gió chút, chúng ta sẽ đến Đại học Bắc Kinh nghe giảng,” thầy Lý nói.

Sinh viên Bắc Kinh trong đoàn chúng tôi không có ai học Bắc Đại *, đến đại học Bắc Kinh nghe giảng là điều rất mới mẻ đối với họ, còn đối với sinh viên Đài Loan, chuyến đi này ít nhiều mang ý nghĩa hành hương.

* Đại học Bắc Kinh được gọi tắt là Bắc Đại.

Chúng tôi vào Bắc Đại qua cổng Tây.

Không ngờ cổng vào ngôi trường này lại mang kiến trúc cửa hoàng cung cổ điển, ba cánh cổng sơn đỏ nhìn vô cùng bắt mắt.

Nếu không phải ở giữa treo tấm biển “Đại  học Bắc Kinh”, tôi còn tưởng đây hẳn phải vương phủ hay cung điện gì chứ.

Hai con sư tử đá được đẽo khắc tinh xảo, uy nghiêm trấn hai bên trái phải cổng trường, ánh mắt rực sáng long lanh rất có thần, bất nộ tự uy.

“Đây là sư tử đá trong Viên Minh Viên”, thầy Lý nói.

Cổng trường nườm nượp người qua lại không ngơi nghỉ, nhưng lại chẳng có ai để ý đến hai con sư tử đá đã trải qua hàng trăm năm thăng trầm này.

Từ cổng Tây bước vào Bắc Đại, thứ đầu tiên đập vào tầm mắt, là hai cột hoa biểu đứng sừng sững chót vót trên thảm cỏ.

Dưới sự tương phản của nền cỏ xanh rờn, cột hoa biểu đội ánh dương trở nên vô cùng khiết bạch trang nghiêm.

Tôi nhớ lại cột hoa biểu đã nhìn thấy ở Tử Cấm Thành, trong lòng dậy lên một nghi vấn: Sao trong khuôn viên trường lại dựng cột hoa biểu?

“Đôi hoa biểu này cũng là lấy từ Viên Minh Viên,” thầy Lý nói.

Lại là từ Viên Minh Viên?

Đi thẳng về hướng đông có thể thấy rất nhiều các tòa nhà xây dựng theo phong cách kiến trúc Minh – Thanh, rất điển nhã, với những vạt cây xanh bao bọc xung quanh.

Noãn Noãn kể với tôi, thầy Lý tốt nghiệp trường Bắc Đại, còn di tích Viên Minh Viên thì nằm ngay cạnh trường này.

Thầy Lý nói trường Bắc Đại nổi tiếng nhất là “nhất tháp hồ đồ”, nghe hệt như nhất loạt hồ đồ.

Cái gọi là “nhất tháp hồ đồ” chính là chỉ tháp Bác Nhã, hồ Vị Danh và đồ thư quán tức thư viện Bắc Đại.

Đi qua một dãy đồi cây cối um tùm, liền thấy hồ Vị Danh, tháp Bác Nhã đứng sừng sững trên bờ hồ tây nam.

Chúng tôi đi thành hàng một men theo bờ hồ Vị Danh, bóng tháp Bác Nhã thấp thoáng ẩn hiện trên mặt hồ, cảnh đẹp vô cùng.

Những gợn sóng li ti đuổi trên mặt nước, hàng dương liễu trên bờ duyên dáng rủ bóng, giữa hồ lại có một hòn đảo nhỏ điểm xuyết giữa sắc hồ bóng tháp.

“Ban đầu khi đặt tên cho hồ này, có rất nhiều cái tên được đưa ra nhưng đều không khiến người ta hài lòng,” thầy Lý nói, “cuối cùng Đại sư Quốc học Tiền Mục bèn đặt luôn hồ là ‘Vị Danh’ tức ‘chưa có tên’, cái tên Vị Danh cũng lưu truyền rộng rãi từ đó.”

“Sau này anh cũng muốn làm Đại sư Quốc học,” tôi nói.

“Ý, muốn quyết tâm phấn đấu hả?” Noãn Noãn cười rất dễ thương.

“Ừ.” Tôi gật đầu. “Anh dốt nhất là đặt tên, nhưng nếu làm Đại sư Quốc học rồi thì sẽ không còn khó khăn gì nữa.”

Noãn Noãn đi ra chỗ khác, không thèm nói gì với tôi nữa.

Nhưng nhỡ may lại nhiều Đại sư Quốc học quá, e rằng cũng vẫn còn khó khăn.

Ví dụ như có hai người Trung Quốc xa lạ gặp nhau trên nước Mỹ, chuyện nọ chuyện kia qua lại, uống rượu cười nói vui vẻ.

Người thứ nhất nói anh ta sống ở tòa nhà Vị Danh trên đường Vị Danh, người thứ hai liền hào hứng nói: Trùng hợp quá, tôi cũng thế đấy.

Người thứ hai nói anh ta tốt nghiệp trường cấp III Vị Danh, bờ song Vị Danh gần trường là nơi anh ta có mối tình đầu tiên.

Tôi cũng thế đấy! Người thứ nhất cực kỳ xúc động.

Hai người rưng rưng nước mắt vài giây sau bèn ôm chầm lấy nhau, hai con cháu Viêm Hoàng tương phùng nơi đất lạ xa xôi, thật đúng là tha hương gặp cố nhân! Hai người đều kêu lên hôm nay để tôi mời.

Nhưng rồi tiếp tục câu chuyện mới phát hiện ra một người ở Bắc Kinh, người kia ở Thượng Hải.

Cuối cùng người Bắc Kinh nói: Người Thượng Hải thực dụng lắm, người Thượng Hải nói: Người Bắc Kinh ngoan cố lắm, ánh dương đã dần khuất nơi triền tây mà tiền rượu vẫn chưa ai trả.

“Vẫn còn chưa xong à,” Noãn Noãn dừng lại, quay đầu trừng mắt với tôi.

“Còn xíu nữa thôi, cố kiên nhẫn một chút,” tôi nói.

“Nói mau lên.”

“Đã vô danh rồi, vậy cũng sẽ vô tranh,” tôi nói. “Hai từ Vị Danh dường như để nhắc nhở tất cả sinh viên Bắc Đại không cần màng danh lợi, rộng lượng không tranh chấp. Anh nghĩ đây mới là chủ ý của Tiền Mục tiên sinh.”

“Câu này mới còn ra hồn.” Noãn Noãn bật cười.

“Nếu học ở đây, hẳn phải dễ kiếm bạn gái lắm,” tôi nói.

“Hả?”

“Trường bọn anh cũng có một cái hồ, đi một vòng chưa hết mười phút. Nhưng đi dạo với con gái thì mười phút sao đủ được? Đành đi tiếp vòng thứ hai, vòng thứ ba, vòng thứ tư…” Tôi thở dài một tiếng, rồi nói tiếp: “Cuối cùng cô gái kia không chịu được nữa bèn nói: Đừng có dẫn tôi đi vòng vòng nữa! Chúng ta chia tay! Đừng tới tìm tôi nữa! Ba dấu chấm than kinh hoàng đã kết thúc một cuộc tình thế đấy.”

“Thế thì sao hồ Vị Danh lại giúp người ta có bạn gái?” Noãn Noãn hỏi.

“Hồ Vị Danh vừa rộng vừa đẹp, thanh niên nam nữ tan học xong đến đây dạo bộ đến cả quên cả thời gi­an. Đi mãi đi mãi, chàng trai bèn nói: Anh nguyện trở thành ngọn tháp Bác Nhã sừng sững uy nghi, còn em là nước hồ Vị Danh dịu dàng đa tình, anh một bước không đi, ngày ngày đứng đó, chỉ mong bóng mình mãi chiếu xuống lòng em. Có khi còn chưa đi hết nửa vòng hồ, một cặp tình nhân đã ra đời rồi.”

“Sao đơn giản thế được.” Noãn Noãn không tán  thành.

“Nếu như chàng trai nói: Chúng ta nhất định sẽ mãi ở bên nhau, vĩnh viễn dài lâu, không chia không lìa, không quản gió, không quản mưa, cũng không quản sấm sét. Liên quân Anh Pháp có thể đốt trụi Viên Minh Viên, cũng không sây sát được hòn đá trong lòng anh, bởi trên hòn đá trung thành ấy có khắc tên em. Thế này thì sao?” tôi hỏi.

“Quá sến,” Noãn Noãn nói, “Anh thử lại đi.”

Tôi ngoẹo đầu nghĩ ngợi hồi lâu mà chẳng nặn nổi câu nào nữa.

“Không nghĩ ra chứ gì.” Noãn Noãn cười khúc khích, “vậy em có thể rảnh tai được rồi.”

“Dù gì thì hồ cũng đủ lớn, có thể đi rất lâu” tôi nói, “đi dạo lâu trong cảnh đẹp nên thơ này, có là người sáp cũng lây thêm vài phần ý thơ.”

“Như anh thì không thể rồi, anh chỉ biết nói nhảm thêm thôi,” Noãn Noãn nói.

Đi tiếp chừng mười lăm phút nữa, tháp Bác Nhã đã gần ngay trước mặt.

Tháp Bác Nhã được xây giả theo tháp đèn cổ Thông Châu, có mười tầng, cao 37 mét.

“Các bạn thử đoán xem, tòa tháp này dùng để làm gì?” thầy Lý chỉ tòa tháp hỏi.

Mọi người bắt đầu rào rào tranh luận, có người nói tháp thường được xây trong đền thờ Phật, xây trong khuôn viên trường thế này kỳ quá; cũng có người nói chắc không phải giống tháp Lôi Phong dùng trấn áp Bạch nương tử, ở đây cũng đang trấn áp một loài yêu quái nào đó ư?

Cuối cùng thấy Lý cũng công bố đáp án: Đây là tòa thủy tháp, một tháp cung cấp nước được cải trang như một tòa bảo tháp.

Tháp Bác Nhã được xây vào những năm 20, trước sau âm thầm lặng lẽ đứng bên bờ hồ, cung cấp nước sinh hoạt cho thầy và trò trường Bắc Đại.  

Tôi ngẩng đầu ngước nhìn tòa tháp cao ngút tầng mây, tháp Bác Nhã dãi dầu sương gió, xung quanh chỉ có những tán tùng bách bầu bạn.

“Một kiến trúc mang đầy vẻ đẹp nghệ thuật văn hóa, có thể chỉ giữ một vai trò đơn giản; hoặc nói cách khác, một người công dân làm nhiệm vụ cấp thoát nước có vẻ hèn kém, nhưng có thể nội tâm anh ta lại mang đầy hơi thở nghệ thuật văn hóa,” thầy Lý nói. “Trước đây khi còn học ở Bắc Đại, tôi thường tới đây trầm ngâm suy ngẫm, lần nào cũng đều có thu nhận đáng kể.”

Rời tháp Bác Nhã, chúng tôi đi về hướng Nam, tạm biệt hồ Vị Danh, chuẩn bị đến nơi sẽ lên lớp.

“Hồ Vị Danh đẹp thật.” Tôi ngoảnh lại nhìn hồ Vị Danh lần cuối, nói: “Nhưng khi đi bên em, lại thấy hồ Vị Danh cũng chỉ thường thường thôi.”

Noãn Noãn đột nhiên dừng khựng lại.

Tôi nói xong liền thấy có điều gì bất thường cũng dừng khựng lại.

Mọi người đều dần dần đi hết, chỉ có tôi và Noãn Noãn vẫn đứng nguyên chỗ cũ.

“Anh!” Cậu em khóa dưới ngoảnh đầu lại hét lớn gọi tôi: “Đừng có chuồn đấy!”

Chẳng hiểu sao tôi lại có thể buột miệng nói ra câu đó?

Là vì trong đầu đang tưởng tượng đến đoạn đối thoại nam nữ đi dạo trên hồ Vị Danh ư?

Hay vì trong lòng tôi vẫn luôn thấy Noãn Noãn rất đẹp, nên bất giác đem so sánh với vẻ đẹp của hồ Vị Danh?

Hai cái giả thiết trên đều đúng, chỉ vì tôi đã đem mình và Noãn Noãn gán vào đôi nam nữ kia?

“Đây chính là đáp ác trước em bảo anh thử lại phải không?” Cuối cùng Noãn Noãn cũng lên tiếng.

“Cứ coi thế đi. Nhưng…ờm…” tôi trả lời, “anh cũng không chắc lắm.”

Không khí chẳng hề vì tôi và Noãn Noãn đều đã mở lời mà thay đổi.

“Anh.” Cậu em chạy lại, nói: “Bọn mình chơi trò rong biển* đi.”

*Trò rong biển: Một cách chơi Oẳn tù tì của Trung Quốc.

“Làm gì?” tôi hỏi.

“Rong biển à rong biển…” Cậu ta dang rộng hai tay như đại bàng xòe cánh, cánh tay uốn lượn như sợi rong biển.

“Nhạt vừa chứ,” tôi nói.

“Rong biển à rong biển à…” Cậu ta lại giơ cao hai tay, cánh tay đang uốn lượn lên trên, tôi liền cốc cho cậu ta một phát, nói: “Lại còn nữa!”

Cậu ta liền cười sằng sặc rồi bỏ chạy, Noãn Noãn cũng bật cười khúc khích.

“Bọn mình đi thôi.” Noãn Noãn dứt lời bèn rảo bước về phía trước.

Tôi cũng rảo bước theo, bắt kịp Noãn Noãn, rồi bắt kịp đoàn người.

Đi qua đường Ngũ Tứ, liền thấy một gian tứ hợp viện xây từ cuối đời Thanh, trên cổng có viết: Trị Bối Tử Viên.

Trước cổng còn có một bức tượng Lão Tử đẽo bằng đá, cao khoảng hai mét.

Trong sân là các đình viện nhỏ còn đậm hương sắc cổ, đâu đâu cũng toát lên một vẻ cổ kính, mộc mạc, điển nhã.

“Hôm nay lên lớp ở đây ư ?” Tôi hỏi Noãn Noãn.

“Nghe nói vậy,” Noãn Noãn nói.

“Ừ,” tôi gật đầu, “chỗ này rất hợp với phong cách của anh.”

Noãn Noãn cười gập bụng, như vừa nghe thấy một chuyện cười siêu hài hước.

Thầy giáo đứng lớp hôm nay tóc bạc trắng, nhưng trên mặt chả có đến nửa cọng râu, giảng về tư tưởng của Lão Trang.

Bài giảng bắt đầu từ chương một “Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh” trong Đạo đức kinh.

“Đạo” là thứ có thể nói, nhưng đạo có thể biểu đạt bằng ngôn từ, thì đạo ấy chẳng vĩnh hằng bất biến; miêu tả diện mạo vạn sự vạn vật – tức “danh”, cũng có thể được định nghĩa, nhưng một khi đã định nghĩa quá rõ ràng, thì diện mạo vốn có của vạn sự vạn vật hẳn không thể được miêu tả chân thực.

Ừm, uyên thâm quá.

Bình thường nếu nghe phải bài giảng uyên thâm kiểu này, tôi đều tận dụng thời gi­an nghe giảng để nạp năng lượng.

Nhưng có thể học ở nơi thế này quả là một trải nghiệm cả đời khó gặp, tính tò mò của tôi dễ dàng đánh bại cơn buồn ngủ.

Len lén quan sát bốn bề phòng học, xà trên mái, gạch dưới đất đều hiển hiện những dấu ấn lịch sử.

Mùi vị không khí cũng khác hẳn, có một hương thơm nhè nhẹ, không sao gọi được thành tên.

Tôi viết lên tờ giấy trước mặt Noãn Noãn: Có ngửi thấy một mùi hương đặc biệt không?

Noãn Noãn hít ng viết lên tờ giấy trước mặt tôi: Không. Là mùi gì?

Tôi lại viết: Mùi hương này rất giống mùi trên người anh.

Noãn Noãn viết: ?

Tôi viết: Đó gọi là hương sách.

Noãn Noãn viết: Ngậm miệng!

Tôi viết: Nhưng anh dùng tay viết mà.

Noãn Noãn viết: Thế thì dừng tay!

Trước khi hết giờ, thầy giáo nói bản tính của con người cũng như viên ngọc bị vùi sâu dưới đáy lòng, chỉ lộ ra một chút ít.

Mỗi người đều phải khai quật từng chút từng chút viên ngọc vùi giấu nơi đáy lòng ấy, đem nó ra, mài giũa nó.

Đây chính là quá trình tìm tòi tự phát huy bản thân.

“Cần nỗ lực khai quật chính mình.” Thầy lấy đây là câu kết của buổi học hôm nay.

“Anh đã khai quật được chính mình chưa?” ra khỏi Trị Bối Tử Viên, Noãn Noãn hỏi.

“Cái có thể khai quật đã chẳng phải khai quật. Thà rằng chẳng khai quật còn hơn,” tôi nói. “Đây là đạo gia đấy.”

“Còn gì nữa không?” Noãn Noãn nói.

“Khai quật chính là không, không chính là khai quật, đây là Phật gia” tôi nói.

“Tiếp theo?”

“Người chí sĩ bậc nhân nhân, không ai khai quật mà hại Đạo nhân, chỉ có kẻ không khai quật mà thành Đạo nhân. Đây là Nho gia.”

Noãn Noãn thở dài, nói: “Nói nhảm hình như chính là bản chất của anh.”

“Giờ em mới phát hiện ra à?”

Chúng tôi tới Tam Giác Địa ăn trưa. Ăn xong, tôi ra cửa hàng gần đó mua phong bì và giấy viết thư của trường Bắc Đại.

“Có ý nghĩa gì đặc biệt à?” Noãn Noãn hỏi.

“Anh định dung phong bì và giấy viết thư để viết CV tìm việc,” tôi nói. “Công ty nhận được thư chắc chắn sẽ nghĩ anh tốt nghiệp đại học Bắc Kinh, tò mò bèn đọc kỹ. Như vậy CV của anh mới không chìm nghỉm giữa cả biển thư.”

“Anh nghĩ nhiều quá rồi đấy.”

“Nghĩ nhiều vẫn cứ tốt hơn. Giờ ở Đài Loan khó tìm việc lắm.”

Mọi người dạo bộ về hướng Bắc, gần đến hồ Vị Danh, liền trông thấy thư viện Bắc Đại.

Đây là tòa nhà mới của thư viện, cửa chính nằm ở hướng Đông, vừa vặn nối liền cổng Đông của trường.

Nếu vào Bắc Đại từ cổng Đông, tầm mắt không có gì cản trở, sẽ có thể nhìn thẳng thấy thư viện Bắc Đại.

Thư viện thiết kế theo phong cách truyền thống kết hợp hiện đại, phần mái hệt như cung điện trong Tử Cấm Thành, toát lên vẻ cổ điển mà phóng khoáng.

Tổng thể kiến trúc có màu xám trắng, càng tràn đầy khí thế trang nghiêm, vững chãi.

Hai bên tường tòa nhà mới vừa khéo nối với tòa nhà cũ, tạo thành thư viện đại học có quy mô lớn nhất châu Á.

Thầy Lý nói có sinh viên trường Bắc Đại đã viết câu thơ miêu tả không khí trong thư viện thế này: Tĩnh, tĩnh một cách hừng hực sôi nổi.

Mọi người liền rộ lên muốn vào thư viện cảm nhận chút không khí.

Chúng tôi đem chứng minh thư đổi lấy một thẻ đọc tạm thời xong, bèn nhẹ chân nhỏ tiếng, lặng lẽ như cá bước vào thư viện.

Điều khiến tôi ấn tượng sâu sắc nhất là ánh mắt của những sinh viên đang đọc sách, hệt như loài mãnh hổ đang dõi sát theo con mồi.

Nếu như thế giới của sinh viên cũng có cảnh giới lý tưởng, thì đây hẳn chính là hình mẫu thế giới đại đồng.

Đáng tiếc tôi đã tốt nghiệp rồi, nếu như vẫn chưa, trở về Đài Loan rồi tôi nhất định sẽ càng dụng công học hành.

Nhưng đứng ở một góc độ khác mà nói, may là tôi đã tốt nghiệp rồi, không thì áp lực thật quá lớn.

Học khả học, phi thường học. Ừm, cứ học nhẹ nhàng là được rồi.

Chúng tôi lại đi về hướng Bắc tới ven hồ Vị Danh, tiếp tục thưởng lãm phong cảnh hai bên bờ hồ buổi sáng vẫn còn chưa dạo hết.

Phía tây hồ Vị Danh, trên mặt nước lộ ra một con cá đá đang quẫy đuôi há miệng hướng lên trời, đây cũng là một di vật của Viên Minh Viên.

“Cá đá trong hồ Vị Danh, thật là một điểm nhấn kết hợp kỳ diệu,” Noãn Noãn nói.

“Anh em bạn bè nó đều đã bị cháy trụi hết rồi, một mình nó hiu quạnh ở đây nhấn nhá nhất định rất cô đơn” tôi nói.

“Ừ! cười. “Thật không ngờ anh cũng có trái tim cảm tính đấy nhỉ.”

“Em có mang khóa ở đây không?”

“Mang khóa làm gì?”

“Anh phải khóa trái tim mình lại, không để em nhìn thấy nữa.”

“Em có mang súng đây, hay là, bắn chết nó luôn đi” Noãn Noãn nói.

Rời khỏi Bắc Đại từ cổng Tây, lên xe ngồi chưa nóng chỗ đã tới Viên Minh Viên, hai nơi này cách nhau chưa đến một cây số.

Nơi đây thực ra cũng chẳng còn lại gì nữa, sau trận cháy lớn ba ngày ba đêm liên quân Anh Pháp gây ra năm 1860, ngoài những hồ nước và bộ phận các văn vật điêu khắc đá vụn nát ra, mọi thứ đều đã bị cháy rụi.

Thế nhưng lá sen xanh biếc, hoa sen thắm sắc trong hồ, cây cối mọc lên từ những khe ngói, đống đổ nát giấu mình giữa những thảm cỏ, tổng thể cảnh sắc tự nhiên vẫn mang một vẻ đẹp và một sức sống mãnh liệt.

“Ngoài chữ viết, tranh ảnh, phim truyện có thể ghi lại lịch sử, những phế tích cũng có thể là bằng chứng cho lịch sử,” thầy Lý nói. “Ý nghĩa tồn tại của công viên di chỉ Viên Minh Viên, chính là để nhắc nhở người dân Trung Quốc chớ quên đi lịch sử.”

Hồi những tử tôn học rộng biết nhiều ham mê cái mới, nhớ tới tổ tiên từng khởi gia với mười ba bộ giáp, viết bảy đại hận cáo thiên, phát binh đánh Minh, bất khả chiến bại, tự hào biết bao.

Nếu bây giờ bị cướp sạch đốt sạch vườn hoa nhà cửa, lẽ nào các bạn lại chỉ biết cúi đầu nhận lỗi, cắt đất bồi thường, vậy thì còn mặt mũi nào gặp lại tổ tiên!?

“Em nói đúng lắm,” tôi nói với Noãn Noãn, “chẳng trách Hàm Phong không dám vào ở Hoàng Khung Vũ trong Thiên Đàn”

“Em nói bừa thôi,” Noãn Noãn nói.

“Không, em không biết nói bừa, chỉ biết nói rõ thôi. Em lúc nào cũng sắc bén, nhìn xa trông rộng,” tôi nói. “Nếu như người con gái Hàm Phong gặp không phải Từ Hy mà là Noãn Noãn, kết cục nhất định sẽ khác.”

“Khác ở đâu?”

“Gỗ làm bài vị của Hàm Phong sẽ rất cứng, tên trên bài vị cũng rất lớn, hương thắp sẽ rất dài, lúc dâng hương mọi người cũng sẽ khóc rất to.”

“Nói đủ chưa thế?”

“Đủ rồi.” Tôi cười cười.

Chúng tôi dừng ở Viên Minh Viên không được bao lâu, đã lại lên xe tới Di Hòa Viên.

Di Hòa Viên nằm ở phía tây Viên Minh Viên , cũng ngồi chưa nóng mông đã đến nơi.

Chính vì gần nhau như thế mà tiền thân của Di Hòa Viên – Thanh Y Viên, cũng đã bị cháy rụi bởi liên quân Anh Pháp.

Về sau Từ Hy trưng dụng ba mươi triệu lượng bạc trắng kinh phí hải quân xây dựng lại trong suốt mười năm, rồi đổi tên thành Di Hòa Viên.

Di Hòa Viên là khu nghỉ mát của hoàng gia cuối đời Thanh, và cũng là hành cung của Từ Hy.

Từ cửa Đông Cung bước vào, sáu tấm cửa đỏ tươi bên trên có khảm đinh vàng, phía trước cửa còn có một đôi sư tử lớn bằng đồng.

Đầu tiên chúng tôi vào thăm quan điện Nhân Thọ nơi Từ Hy xử lý chính sự, Đức Hòa Viên nơi Từ Hy nghe kịch, buồng ngủ Ngọc Lan Đường, rồi đi dạo ven hồ Côn Minh, chiêm ngưỡng cảnh hồ sắc núi.

Hồ Côn Minh gợn sóng biếc, núi Vạn Thọ dưới ánh nắng hòa vào dãy Tây Sơn, sơn thủy một màu.

Trên mặt hồ trải rộng, điểm xuyến ba hòn đảo nhỏ, quanh hồ có đủ các đình đài lầu gác điển nhã muôn hình muôn vẻ.

Di Hòa Viên vừa nguy nga tráng lệ kiểu hoàng gia, lại có linh khí thanh nhã của lâm viên Giang Nam.

“Hồ Côn Minh đẹp thật. Nhưng...”

“Này,” Noãn Noãn vội vàng ngắt lời tôi, “mấy lời quái đản ngày nói một lần là đủ rồi.”

“Hôm nay anh đã nói câu nào quái đản đâu?”

“Thì lúc ở hồ Vị Danh ấy, anh nói gì mà hồ Vị Danh đẹp thật...”

“Hồ Vị Danh đẹp thật, nhưng khi đi bên em, lại thấy hồ Vị Danh cũng chỉ thường thường thôi. Em bảo câu này hả?”

Tốc độ nói của tôi quá nhanh, vốn chẳng kịp nghĩ xem có nên nói hay không, đã liền một hơi nói hết ra rồi.

Noãn Noãn nghe xong dường như đỏ mặt, tôi cũng thấy hai vành tai mình nóng bừng lên.

“Noãn Noãn.”

“Hả?”

“Chúng ta hãy đứng trên lập trường người thứ ba để kiểm điểm đoạn đối thoại này, không mắc vào ân oán cá nhân.”

“Được.” Noãn Noãn gật đầu, rồi bật cười.

“Thanh niên nam nữ tản bộ ven hồ Vị Danh...” Tôi ngừng lại, nuốt nước bọt, rồi nói tiếp: “Nếu chàng trai nói ra một số câu quái đản, cô gái sẽ phản ứng ra sao?”

“Có thể thấy ngọt ngào, mà cũng có thể thấy nhàm chán. Có khi thấy buồn nôn,” Noãn Noãn nói.

“Giả sử, chỉ là giả sử, em là cô gái trong cặp nam nữ đang dạo hồ Vị Danh đó, khi em nghe thấy mấy lời quái đản ấy, em có cảm tưởng thế nào?”

“Cái đấy còn phải xem là ai nói đã.”

“Giả sử, là giả sử nhé, chàng trai đó là anh.”

“Ờm...” Noãn Noãn trầm ngâm một lúc, “mang tai em mềm, chắc cũng nghe lọt thôi.”

“Thật không?”

“Dù gì người như anh miệng cún chẳng mọc được ngà voi, khó lắm mới nói được câu dễ nghe, đương nhiên là phải nghe rồi.”

“Thế thì tốt.”

“Đấy là em nói, giả sử em là cái cô đó.”

“Nhưng đồng thời em cũng giả sử anh là anh chàng đó.”

“Em...” Noãn Noãn ấp úng.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “bọn mình đổi chủ đề đi.”

“Được thôi.” Noãn Noãn như trút được gánh nặng, thở phào nhẹ nhõm.

“Từ Hy quả là đã tốn nhiều tâm huyết,” tôi nói.

“Hả?”

“Nếu không phải Từ Hy trưng dụng kinh phí hải quân, làm sao có được một Di Hòa Viên đẹp thế này?”

“Nói gì thế,” Noãn Noãn nói, “lẽ nào anh không biết đạo chỉ này đã dẫn đến thất bại trong trận chiến Giáp Ngọ sau này à?”

“Nếu như Từ Hy không những không trưng dụng kinh phí hải quân, mà còn ủng hộ cả châu báu của bản thân cho hải quân, ví dụ như áo lót nạm dạ minh châu với quần lót nạm kim cương,” tôi nói, “lẽ nào trận chiến Giáp Ngọ có thể thắng được ư?”

“Cái này...”

“Số tiền đó nếu đổ vào túi người Nhật, thì chi bằng dùng để xây Di Hòa Viên còn hơn. Từ Hy biết về sau người dân Trung Quốc ngoài siêng năng làm việc, cũng cần một số danh thắng để khích lệ tinh thần, nên mới thà chịu thế nhân mắng chửi, cũng phải để lại Di Hòa Viên cho con cháu đời sau. Vì vậy mới nói, Từ Hy quả là tốn nhiều tâm huyết.”

“Nói nhảm.” Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi.

“Thế lại đổi chủ đề là được rồi,” tôi nói.

“OK. Nhưng không được nói mấy chuyện ngớ ngẩn kiểu chuối vấp ngã biến thành cà tím, đậu xanh từ gác rơi xuống lại thành đậu đỏ.”

“Được.” Tôi cũng gật gật đầu. “Đúng rồi, vừa rồi anh nói nhầm, Từ Hy chắc chắn cũng có thắt ruột tượng, vì vậy cái bà hiến tặng là dải ruột tượng được nạm mười chữ ‘Người phụ nữ Trung Quốc có thân hình đẹp nhất’ bằng các loại đá quý.”

“Chuyển chủ đề!”

“Từ Hy thật là tốn nhiều tâm huyết,” tôi nói.

“Này.”

“Trước khi chết, Từ Hy còn không quên gửi thuốc độc cho Quang Tự, bắt ông chết trước.”

“Thế coi là tốn nhiều tâm huyết vào việc gì?”

“Từ Hy biết Quang Tự hiếu thuận, nếu mình chết trước, Quang Tự nhất định sẽ đau khổ tột cùng. Nên thà mình mình chịu đựng nỗi thống khổ của kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh, chứ không muốn để Quang Tự chịu cảnh bi ai mất mẹ.”

“Quang Tự có phải do Từ Hy sinh ra đâu, mẹ Quang Tự là em gái Từ Hy.”

“Nhưng trên danh nghĩa vẫn là mẹ, mà dù gì cũng vẫn cùng huyết thống mà,” tôi nói. “Tóm lại, bàn tay Từ Hy đưa thuốc độc run rẩy lắm. Vì vậy mới nói, Từ Hy quả đã tốn nhiều tâm huyết.”

“Nói như vậy, khi liên quân tám nước đến chân thành Bắc Kinh, Từ Hy trước khi bỏ trốn còn sai người đẩy Trân Phi xuống giếng, cũng là tốn nhiều tâm huyết à?” Noãn Noãn nói.

“Trân Phi bị nhốt mãi trong lãnh cung, thân thể nhất định đã đóng băng rồi. Từ Hy phải bỏ Bắc Kinh chạy đến Tây An, một lộ trình xa xôi là thế, Trân Phi làm sao chịu đựng nổi sự giày vò ấy? Vì không muốn để Trân Phi phải chịu đựng nỗi khổ của cuộc hành trình dài đằng đẵng, Từ Hy chỉ còn cách sai thái giám đẩy nàng xuống giếng. Lúc hạ lệnh, giọng Từ Hy nghẹn ngào mãi.”

“Đổi tiếp chủ đề,” Noãn Noãn nói, “và không được liên quan đến Từ Hy nữa.”

“Thế thì hết chủ đề rồi,” tôi nói, “nhưng chủ đề đầu tiên của anh vẫn chưa nói hết.”

“Chủ đề đầu tiên?” Noãn Noãn hơi nghi hoặc. “Tự nhiên em quên mất rồi, là gì thế?”

“Hồ Côn Minh đẹp thật. Nhưng khi đi bên em, lại thấy hồ Côn Minh và em như chị em gái, hơn nữa Noãn Noãn là chị, còn hồ Côn Minh là em.” Nói liền một mạch xong, tôi vội vàng bổ sung thêm: “Nếu như mạo phạm, xin được lượng thứ. Em cứ coi như anh đang nói nhảm đi.”

“Đươc, em phá lệ,” Noãn Noãn cười nói: “một ngày nghe tận hai câu quái đản.”

Chúng tôi tới bến thuyền Thủy Mộc, khi Từ Hy đi đường thủy từ thành Bắc Kinh tới Di Hòa Viên, thuyền ngự đều neo tại đây.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách