Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: kadaj97
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại] Trăng Lạnh Như Sương | Phỉ Ngã Tư Tồn

  [Lấy địa chỉ]
91#
Đăng lúc 18-6-2013 20:31:17 | Chỉ xem của tác giả

Chương 10: ĐÀI DAO KIA TRĂNG TỎ ẮT GẶP




Không biết tự bao giờ, tiểu cô nương luôn luôn kéo ống tay áo chàng đã trở thành một cô thiếu nữ.
Một ngày kia, lúc chàng đang tỷ thí bắn cung trong vườn cùng Mộ Nguyên, ở xa xa trông thấy nàng cùng a hoàn Cận Hương đang bước dạo trên cầu, xiêm y màu vàng nhạt, tựa như một cảnh sắc xuân tháng hai dịu dàng điềm đạm chưa từng có, đập vào con mắt, thân hình mềm mại lả lướt làm cho lòng người tiếc thương.
Con gái vào tuổi cập kê, cơ hội ở chung cùng chàng hầu như chẳng còn, một lần chợt tình cờ gặp gỡ này, nàng theo đúng quy củ hành lễ:
“Kính gặp Lục ca.”
Trong tay nàng theo lệ cầm chiếc quạt lụa trắng thêu một bức thủy mặc họa cảnh nước đổ sườn núi, che đi hơn phân nửa khuôn mặt, chỉ lộ ra phía một bên vành tay có cài một cây trâm thược dược, đóa hoa kiều diễm khe khẽ rung rinh trong gió xuân, một đôi con mắt vẫn sáng long lanh như trong ký ức ngày nào, ánh mắt đong đưa lúng liếng, phảng phất  một ngọn gió xuân vừa khẽ lướt qua gợn lên những làn sóng vô tận. Chàng chỉ thấy con tim mình đánh “thịch” một tiếng, từ sâu trong xúc cảm nổi lên những cơn sóng lòng không dứt, hết đợt này đến đợt khác dồn dập theo đôi con ngươi của nàng. . .
********************************
Chàng lại đưa tay rót một chén rượu, chậm rãi nuốt cạn. Ánh trăng đầy trời như nước, chiếu vào trong gác, in bóng chính mình lẻ loi trên tấm lông cừu đỏ, đơn độc đến thê lương.
Chàng quay mặt lại, trên mặt chợt nở một nụ cười, nói với Mạnh Hành Chi:
“Nếu lão Thất đã kiêng kỵ một chiêu sát kia, vậy bổn vương nhất định sẽ giúp hắn đạt được mục đích.”
Mạnh Hành Chi nói:
“Vương gia, cũng không nên nóng ruột nhất thời, mất bình tĩnh là không tốt.”
Trên mặt chàng vẫn là cái kiểu cười tản mạn như thế:
“Chúng ta trầm tĩnh được, thế nhưng có người lại không có khả năng trầm tĩnh đươc.”

********************************
Lễ Vạn Thọ của Hoàng Đế là vào ngày mười lăm tháng năm, bởi vì còn đang chịu tang, cho nên hết thảy những loại lễ mừng này đều phải làm cho thật đơn giản. Dù thế, còn mới đang tháng tư mà ban Ti Lễ đã đặc biệt vội vã, sửa soạn sắp xếp đâu đó để bày yến tiệc, trong một hành cung to như vậy, nơi nào dọn tiệc, nơi nào ca múa, nơi nào du ngoạn, đều phải bố trí kỹ càng từng cái một, vội vàng đến nỗi be bét ra cả. Ai dè vừa vào tháng năm, Hoàng Đế thình lình lại thay đổi ý định, muốn đi nghỉ ở Đông Hoa kinh trước dự tính, lại còn quyết định sẽ làm lễ Vạn Thọ ở đó.
Ở trong kinh ngày hè nắng nóng thiêu đốt, các vị Hoàng Đế qua bao triều đại, tháng sáu hằng năm may mắn có Đông Hoa kinh để đến nghỉ hè, tới đầu mùa thu mới trở về Tây Trường kinh.
Hoàng Đế xưa nay chỉ ưa lạnh ghét nóng, nghĩ đến cái nóng hầm hập dọc đường vào tháng sáu đã thấy sợ, cho nên dời thời gian nghỉ hè lên sớm trước một tháng. Điều này lại làm cho Dự Thân Vương cảm thấy lo lắng, bởi vì chàng là người thống lĩnh đoàn xa giá. Lộ trình mười ngày đi Đông Hoa kinh sắp tới, hoàng thân quốc thích thì vẫn đi thuyền dọc theo dòng Đông Giang quanh co khúc khuỷu như từ trước tới giờ. Còn văn võ bá quan, quân đội ngự vệ, lớp lớp hàng nghìn người đi theo hộ giá, cung điện quán xá trạm ngựa dọc đường để nghỉ chân, cầu cống đường sá, khắp nơi mọi chốn đều phải thăm dò bố trí, hòng sắp xếp phòng ngừa trên đường.
“Thời gian quá gấp rút, chỉ sợ sẽ khó mà chuẩn bị, thần đệ thỉnh Hoàng Thượng cân nhắc.”
Dự Thân Vương bẩm tấu lúc ở ngự cung.
“Xa giá dứt khoát là phải an toàn yên ổn.”
Không hiểu sao Hoàng Đế  lại vô cùng cố chấp, nói:
“Trẫm sẽ cưỡi ngựa đi, như vậy có thể nhanh đến hơn.”
Dừng một chút lại nói:
“Hoàng thân quốc thích thì ngồi thuyền, đến chậm một chút cũng chẳng sao.”
Dự Thân Vương thoáng chần chờ, Hoàng Đế lại nói thêm:
“Ý trẫm đã quyết.”
Dự Thân Vương chỉ đành khom người lĩnh chỉ, đợi đến sau khi lui ra, lập tức cho người đi kiếm Trình Viễn. Trình Viễn là một tên nội quan nhỏ bé trong cung, từ xa xa vừa nhìn thấy chàng đã vội hành lễ, nói:
“Vương gia vạn an.”
Thân Vương tư cách tôn quý, đứng trên đủ mọi loại quan, ngay cả sự phụ cũng phải bái lạy, huống chi là một gã quan nho nhỏ trông coi trước ngự cung như gã.
Dự Thân Vương chỉ bảo một tiếng:
“Đứng lên đi.”
Trình Viễn vội vàng đáp:
“Tạ ơn Vương gia.”
Nhân tiện đứng lên đỡ khuỷu tay chàng tiến đến bên chiếc ghế đá dưới một tàng cây, lại nói:
“Vương gia có điều gì sai bảo, xin chỉ cần sai người đi phân phó nô tì là được rồi ạ.”
Lại sai người đi châm một tách trà nhỏ, tự tay dâng lên Dự Thân Vương.
Dự Thân Vương lúc ở trước sảnh ngự cung đối với chuyện phức tạp rắc rối này đã thấy đau đầu, lúc này ngồi ở dưới tán cây xanh rậm, áo bào đón gió nhẹ thổi, mát mẻ vô cùng, nét mặt còn chưa tỏ vẻ gì, nhấp một ngụm trà, chỉ thấy trong miệng sinh đầy tân dịch, không khỏi nói:
“Quả nhiên là kẻ hầu người hạ do một tay lão Triệu dạy dỗ.”
Trình Viễn cười cười nói:
“Phải nói là nhờ có Vương gia ngày thường chỉ bảo.”
Dự Thân Vương nói:
“Ta cũng không phải có chuyện gì, chỉ hỏi ngươi, xung quanh Hoàng Thượng đều vẫn ổn cả chứ?”
Trình Viễn là một kẻ như thế nào, lập tức nói:
“Ý của Vương gia quả thực nỗ tì không rõ.”
Dự Thân Vương chợt tắt ý cười, lạnh lùng nói:
“Ngay cả sư phụ của ngươi cũng không dám giả bộ trước mặt ta, ngươi đây lại muốn thử?”
Trình Viễn vội kêu lên:
“Nô tì không dám, nô tì có gan bằng trời cũng không dám lừa dối Vương gia. Đúng thực là sư phụ cấm không được nói huyên thuyên cùng người ngoài, nhưng trước mặt Vương gia nô tì dĩ nhiên tuyệt không dám giấu . . .”
Thanh âm của gã đột nhiên trở nên khẽ khàng:
“Vạn Tuế gia cùng Mộ cô nương mấy ngày nay hình như là đang bất hòa.”
Dự Thân Vương “ừm” một tiếng, hỏi:
“Vì sao?”
Trình Viễn nghĩ ngợi, nói:
“Nô tì cũng không rõ chuyện gì xảy ra, chỉ e đại bất kính mà nói thì, có vẻ là Mộ cô nương lại giận dỗi, có thái độ không dễ coi với Vạn Tuế gia.”
Những lời này thực khó mà tưởng tượng, từ lúc lên ngôi tới nay, chưa một phi tần nào mà dám tỏ thái độ với  Hoàng Đế, huống chi là một cô cung nữ thân phận mờ ám. Có điều Dự Thân Vương nhớ lại ngày ấy gặp qua một lần, cả người nàng tựa như băng thanh ngọc khiết tạc thành, trong con người ẩn chứa một loại khí chất ngạo nghễ, rõ ràng là chẳng thèm đem mọi sự thế gian để vào trong mắt. Nói nàng dám kiêu căng với bậc chí tôn, thật ra chàng cũng tin tưởng đôi phần.
Trình Viễn thưa:
“Vạn Tuế gia đối với Mộ cô nương phải nói là không có chút nào để chê, muốn gì được nấy. Đáng tiếc tính tình Mộ cô nương không được tốt lắm. mấy ngày này kỳ cục lại làm loạn lên, Vạn Tuế gia bực bội, thấy cô ta liền phát giận, mà không thấy được cô lại càng giận.”
Gã  cau mày một cách đau khổ nói:
“Đừng nói là bọn nô tỳ, ngay cả sư phụ cũng phát rầu.”
Thì ra là thế, trong lòng Dự Thân Vương buồn lo, nhưng cũng không lộ ra mặt, chỉ hỏi:
“Vậy lần đi Đông Hoa kinh này, cô ấy  có đi theo hầu hạ hay không?”
Trình Viễn thưa:
“Nô tì không rõ.”
Lại bổ sung:
“Nhắc đến Mộ cô nương, sắc mặt Hoàng Thượng lập tức trở nên mất hòa nhã, sư phụ bảo, không ai được chọc Vạn Tuế gia giận, cho nên bọn nô tì cũng chẳng ai dám hỏi đến chuyện này.”
Đã gần đến ngày thứ ba đầu tháng năm, ngày thứ hai thì sẽ khởi hành, Triệu Hữu Trí mắt thấy thực sự không thể để tình hình như thế mãi, buổi chiều lúc hầu hạ Hoàng Đế thay quần áo, liều mạng hỏi một câu:
“Ngày mai là khởi gia, không biết có phải chúng nô tì đều phải đi theo hầu hạ Vạn Tuế gia?”
Hoàng Đế dạo gần đây tính tình hay cáu bẳn, chỉ lạnh nhạt liếc lão một cái, nói:
“Ta coi ngươi làm việc quả là có trách nhiệm.”
Triệu Hữu Trí mấy ngày qua một lỗi nhỏ cũng chẳng phạm, nhưng lão vốn đã theo Hoàng Đế từ nhỏ tới giờ, hiểu rõ tính tình, vội vàng cung kính nói:
“Nô tì đáng chết.”
Lại nhân đó hỏi thêm một câu:
“Có phải toàn bộ bọn nô tì đều đi theo đại giá?”
Hoàng Đế đáp:
“Cho nàng ngồi trong mấy cái thuyền râu  ria đi.”
Rõ ràng là còn đang dỗi, Triệu Hữu Trí cười thầm trong bụng, cung kính thưa:
“Vâng.”
Hoàng Đế khởi giá đã được nửa ngày, hoàng thân quốc thích mới từ bến phà Thượng Uyển bắt đầu nhổ neo. Thuyền bè chậm rãi nối đuôi nhau, vô số thuyền lầu buồm gấm, đầu nối đuôi, đủ loại lớn nhỏ của nội quan bao xung quanh hộ gia ngự thuyền, quanh co khúc khuỷu hơn mười dặm, chậm rãi dọc theo dòng sông xuôi về phía đông, khung cảnh nguy nga tráng lệ.
Thế nước đầu hạ dồi dào, đường sông rộng rãi khoáng đạt, thuyền đi vô cùng ổn định. Hai bên bờ sông, liễu buông cành lả lướt trên đê, xa xa bên trong là những mái nhà, liễu xanh trải rộng về phía thôn làng, như một bức họa đồ vô cùng vô tận, từ trong cửa sổ khoang thuyền dần hiện ra các bài trí bên trong.
Như Sương không phải là phi tần, vốn không có tư cách ngồi thuyền riêng, song nội quan tổng quản vẫn biết đối đãi với nàng đặc biệt, chọn một tòa thuyền tầng cho nàng. Hai cô cung nữ chuyên hầu hạ nàng vốn là người của ngự cung, sáng tinh mơ hôm nay đã theo hầu đại gía rồi, cho nên Hoa phi bấy giờ sai hai cung nữ sang bên thuyền này  thay thế.
Như Sương hôm nay dậy rất sớm đợi lên thuyền, lúc này thuyền đã đi cực vững vàng, ngày dài, sau một buổi trưa đã thấy mệt mỏi, bèn nằm trong khoang thuyền nặng nề ngủ, đến lúc tỉnh lại thì bóng tà đã xế.
Nàng cũng không gọi người, tự mình cầm cái quạt lụa che mặt thêu bông hoa thược dược bằng kim tuyến, dùng tay cầm bằng ngà có thắt tua rua màu mận vén hai bên rèm lụa trên song cửa sổ khoang thuyền, hướng tầm mắt nhìn ra xa xa bên ngoài. Nhìn thấy ánh tà dương phản chiếu trên mặt sông, nom như hàng vạn con rắn vằn vàng nhảy múa điên cuồng, lân quang chói lòa cả mắt.
Thuyền lầu nối đuôi nhau xuôi dòng, vô số nhứng cánh buồm gấm nghiêng mình đón nhận nắng chiều hoàng hôn, đẹp lộng lẫy chói mắt. Triền đê xanh như vạt áo màu ngọc bích uốn lượn, liễu rủ mềm mại, bao nhiêu cảnh vật nối tiếp, chậm rãi từ trước mắt lùi dần về phía sau, nhìn lâu cũng chóng cả mặt.
“Thì ra cô nương đã tỉnh rồi.”
Một giọng nói lanh lảnh vang lên, Như Sương miễn cưỡng quay đầu lại nhìn, hóa ra là một trong hai cô cung nữ được cử đến tạm thời, gọi là Kiểm nhi. Kiểm nhi hết sức ân cần vồn vã nói:
“Em đem chậu nước đến, để cô nương rửa mặt.”
Khuôn mặt trang điểm tỉ mỉ dần dần hiện lên rõ nét trong gương, Kiểm nhi giúp nàng chải qua lại đầu, bàn tay ở phía sau nâng mái tóc óng ánh soi lên gương, xuýt xoa:
“Tóc cô nương thật tốt, vừa đen lại vừa dày.”
Hồi còn ở nhà, người thường chải đầu cho nàng là Tiểu Hoàn, mỗi lần chải xong, đều nâng lấy tóc giơ lên soi qua gương để cho nàng xem như vậy.
Ảnh ảo phản chiếu nơi mặt gương trơn láng như nước, trên dải tóc mây đen dày cài một chiếc thoa bằng vàng ròng, phượng hoàng chín đuôi, trên mỗi đuôi đều đính một hạt minh châu, các hạt minh châu được kết dây vàng nối thành một chuỗi, chuỗi dây vàng đính ngọc công phu đung đưa một bên khuôn mặt. Mái đầu đoan trang, cảm giác như vừa mới say sóng, cũng thấy hơi hoa mắt.
Trong tay cầm hai cái hộp bằng gỗ đàn khảm mắt lưới, bên trong đầy ních châu ngọc đá quý.
Sau khi vào hậu cung, có dạo nàng yêu thích mấy thứ này, Hoàng Đế bèn mệnh cho trong kho tìm ra hết toàn bộ tinh hoa đá quý, đưa đến cho nàng. Lúc này nàng mở hộp ra, trong khoang thuyền u ám bỗng phát ra những tia sáng, Kiểm nhi lại xuýt xoa:
“Hạt châu này thực là đẹp, nô tì dù đã từng hầu hạ cả Hoàng quý phi rồi, cũng chưa bao giờ thấy được một viên ngọc trân châu tròn to như thế.”
Như Sương cũng chẳng buồn mở miệng, tay khẽ giơ lên, Kiểm nhi còn chưa kịp mở miệng kêu, chỉ biết mở trừng trừng mắt nhìn nàng ném thẳng viên ngọc ra ngoài cửa sổ.
Kiểm nhi muốn lao đến giữ lại, nhưng làm sao mà có thể. Chỉ nghe “tõm” một tiếng nhỏ, trân châu đã rơi vào lòng sông, sóng lăn tăn gợn lên, một điểm ánh sáng viên ngọc trắng xóa nhanh chóng chìm xuống sâu, trong giây lát đã không thấy tăm hơi.
Bảo bối hiếm có như vậy, trong cung cũng không có nhiều, ai ngờ nàng lại có thể tiện tay mà ném đi như đồ bỏ đi, không một chút tiếc nuối nào.
Kiểm Nhi nhất thời kinh hãi không nói nên lời. Như Sương cũng chẳng bận tâm, trong đám châu báu rực rỡ, tiện tay nhặt ra một khối ngọc bội, xanh màu thạch bích hoàn mỹ, điêu khắc tinh xảo, bên dưới còn kết một dải hoa văn đồng tâm, Kiểm nhi sợ nàng lại muốn ném xuống sông, vội vàng đóng cửa sổ lại. Như Sương thấy nàng đóng cửa đi, cũng không nói gì, chỉ cầm khối ngọc bội trong tay ngắm nghía một lúc, rồi nói:
“Cái này thưởng cho em.”
Từ lúc lên thuyền tới nay, Kiểm nhi bây giờ mới lần đầu tiên nghe nàng nói chuyện, âm thanh thô rát khó nghe đến nỗi dọa Kiểm nhi nhảy dựng lên, nửa ngày mới hoàn hồn lại, cười cười:
“Cảm tạ phần thưởng của cô nương, nhưng cái này quá quý giá, Kiểm nhi không dám nhận.”
Như Sương thản nhiên nhìn con bé một lát, cuối cùng từ trong môi phát ra ba chữ:
“Mở cửa sổ.”
Kiểm nhi hoảng hốt, vội nói:
“Cô nương, cô nương, nô tì nhận là được mà.”
Nói xong đi qua nhận, hành lễ nói:
“Cảm tạ Mộ cô nương.”
Như Sương cũng không tỏ vẻ quan tâm, đứng dậy đi đến bên cửa sổ, cách một lớp mành lụa mỏng tang, có thể thấy được phía xa xa bên bờ đê có một đội quân kỵ mã phi nhanh, chính là ngự quân bảo vệ xa giá, từ chỗ tất đạo(đường cấm cho vua) đến tận đây đưa tin tức. Kiểm nhi thấy nàng nhìn đoàn kỵ mã bên bờ sông đến ngẩn ngơ, cười cười nói:
“Không biết là đại giá đã đi đến đâu, đã đến trạm thứ bao nhiêu rồi. Có điều cung quyến thì đều đang ở trên thuyền.”
Như Sương lười trả lời cô , nói thêm cũng chỉ như vẽ rắn thêm chân, đặt cây quạt kê dưới hàm, chỉ yên lặng ngồi tính toán lộ trình.
Nếu đúng mười hai dặm lại dừng một trạm, thì mỗi trạm đều phải chuẩn bị chu đáo nơi ăn chỗ nghỉ, mà cứ cách năm mươi dặm, thì lại có một hành cung. Xung quanh đại giá đều có các văn võ bá quan hộ tống, ngự quân thì cũng phải có mấy nghìn người, cả một đoàn đông đúc như vậy, mỗi ngày cũng chỉ đi được hơn mười dặm, chỉ mong đêm nay có thể kịp đến nghỉ chân tại Nhạc Xương hành cung.
Thuyền đi xuôi dòng, nhưng nước sông trôi lờ lững thế này, so với đại giá thì còn cách xa hơn nhiều nữa. Cũng may thuyền lầu thoải mái, buổi tối các thuyền đều đỗ lại, đầu đuôi nối tiếp thành một hàng, đám cung quyến đều ở lại trong thuyền.
Mắt thấy trời dần dần tối đen, trên đỉnh cột buồm của chiếc thuyền buồm tiên phong dẫn đường liền treo một chuỗi đèn sáng, rồi một tiếng kèn hiệu lệnh phát ra, âm thanh rất trầm nhưng vang rất xa, chắc cũng phải cả vài dặm. Có một con thuyền phía sau cũng thổi kèn đáp lại, một tiếng truyền đi, lập tức liền có những con thuyền nhỏ của ngự quân đến bảo vệ, tiếng kèn lệnh này cũng chính là báo tin đã hạ neo cập bến đầy đủ.
Vô số dây xích sắt được ném ra, mũi thuyền phía sau neo lại với đuôi thuyền phía trước, lại có một cái ván bắc ngang, từng cặp thuyền như vậy được ghép vào một chỗ.
Bóng đêm càng lúc càng dày đặc, trong khoang thuyền đền dầu thắp sáng bừng, giống như một cái đèn rồng cực lớn, lẳng lặng nằm yên trên nước. Xa xa trông thấy có một dãy thuyền lầu sáng trưng, tựa như lầu hoa điện ngọc lung linh, từng tầng từng tầng đều tỏa ánh lộng lẫy, ảnh ảo dát vào trên nước, như vô số làn sao băng xẹt qua, cả một vùng lấp lánh diễm lệ. Có một cung nữ cầm chiếc đèn lồng thong thả bước qua trên ván, bóng lửa thật lớn, chập chờn lướt qua một màn tinh tú in trên nước, có ngọn gió thổi qua lại bị tan thành nhiều mảnh nhỏ nhảy nhót trong làn sóng.
Như Sương nhờ có một giấc ngủ trưa dài, lúc này cũng không còn mệt mỏi.
Hai bên bờ sông giáp con đê cũng tản mác vô số những điểm sáng, gần như tạo thành một triền đuốc uốn lượn kéo dài, đó là ngự quân đi tuần tra ban đêm cùng với các sĩ tốt đưa tin qua lại với đoàn xa giá. Trong tiếng bước chân rầm rầm pha lẫn cả âm thanh tiếng lục lạc lanh lảnh kêu, ở giữa một vùng đồng nội khoáng đạt nghe đặc biệt rõ ràng.
Kiểm nhi cùng một cô cung nữ khác gọi Lật nhi sửa soạn lại giường chiếu, trải một tấm mền lụa mỏng, buông tấm màn lụa màu khói như da cá nhám cho nàng, dùng quạt lùa qua trong màn một lần, đảm bảo là không có một con muỗi nào, ém màn thật gọn, đoạn đi ra nói với Như Sương:
“Cô nương ngày hôm nay nhất định là rất mệt, hơn nữa đã trống điểm canh một rồi, gió đêm trên sông thổi mạnh, cô nương dù sao cũng nên đi nghỉ sớm.”
Như Sương đang nhập tâm phân biệt tiếng chuông thanh thúy giữa những tiếng bước chân, hãy còn say sưa. Kiểm nhi lại thấy tính tình nàng có chút cổ quái, cũng không nói thêm nữa, chỉnh lại đèn cho nàng, rồi cùng Lật nhi lặng lẽ thối lui ra bên ngoài khoang thuyền.
Như Sương nghe tiếng chuông ngựa ngày một gần, âm thanh trong trẻo mà xa xăm, cách xa bao nhiêu cũng vẫn nghe được rõ ràng, chỉ có loại chuông đúc bằng đồng đỏ mới có được tiếng vang giòn giã như vậy.
Lòng nàng suy nghĩ chồng chất, trong nháy mắt mà đã có biết bao ý nghĩ lướt qua, nghe tiếng lục lạc càng ngày càng gần, rõ ràng là ngay trên bờ đê cách thuyền mình không xa, nàng đã định chủ ý, “phù” một tiếng thổi tắt đèn, nhưng cũng không nhúc nhích, lẳng lặng ngồi ở bên bàn.
Đêm nay không trăng, nhưng trên trời chi chít những vì sao, cách một mành lụa mỏng trên song cửa sổ, ánh sao u ám chiếu vào trong khoang thuyền, tất cả chìm trong bóng tối mờ mờ dần hiện ra những góc cạnh. Cao là cái tủ, thấp là cái bàn, ở trên bàn còn có một bình hoa trắng, cắm bên trong là một vài nhành liễu, chính là lúc lên thuyền nàng đã thuận tay ngắt lấy. Hương lá liễu thanh nhã, hòa cùng huân hương trong ống tay áo của chính mình, đạm nhạt đến nỗi suýt không ngửi ra được. Tuy nhiên trong bóng đêm nơi đây, tất cả mọi vật đều êm dịu mà rõ ràng phân minh, kể cả những tâm tư sâu kín nhất từ tận đáy lòng cũng đều trở nên thật rõ nét.
Đi con đường nào, nàng cũng không thể làm chủ.
Cả cánh đồng bát ngát trời sao vạn dặm, dưới mạn thuyền tiếng sóng vỗ về khẽ rơi vào thính giác, hết thảy giọng người cũng đều trở nên xa xăm, gió sông mát lạnh nồng nàn, mang theo hơi nước, phây phẩy nơi mành lụa mỏng tang, thình lình lớp lụa phất tung lên, chẳng khác nào cánh bướm chớp nhả bay lượn.
Chuyện cũ thống thiết kinh hãi, cuối cùng trong khoảnh khắc chợt tan biến hết thảy.
Ngay trong nháy mắt nàng như người mất hồn, ngoài cửa sổ bất thình lình có bóng người to lớn nhoáng qua một cái, rõ ràng là thân thể đàn ông. Nội quan thì thường phải đội mũ, mà cái bóng người in một một trên ô cửa sổ bằng giấy ở gian ngoài, thì lại không hề có mũ. Trong đầu nàng lập tức vỡ lẽ,  mở miệng kêu to:
“Người đâu, có thích khách!”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

92#
Đăng lúc 19-6-2013 09:04:02 | Chỉ xem của tác giả


Chương 11: NHÂN SINH SẦU LỆ TRÙNG DƯƠNG XA CÁCH




Hai tiếng “đột nhập” còn chưa kịp ra khỏi miệng, cửa sổ bên mạn thuyền đã lập lòe ánh đuốc cháy rừng rực, trên thuyền trước sau có hơn mười ngọn đuốc cũng được đốt lên trong nháy mắt, lập tức trên sông dưới sông đều sáng bừng một màu lửa. Bên bờ cũng bắt đầu xuất hiện ánh đèn lồng, rồi càng ngày lại được thắp lên càng nhiều, Như Sương đứng cách một màn cửa sổ mà mắt tưởng như không mở nổi. Chỉ nghe bên ngoài “ùm” một tiếng, rồi giọng nói the thé của một tên nội quan nào đó, trong cái tĩnh mịch ban đêm như muốn chọc thủng cả lỗ tai:
“Thích khách nhảy xuống sông rồi! Mau bắt tên thích khách! Người tới! Thích khách nhảy xuống sông! Bắt thích khách!”
Ván cầu vang lên tiếng bước chân hỗn loạn, bên dưới mạn thuyền chớp sáng, tiếng chân đi nghe càng ngày càng nhốn nháo. Trên bờ ngựa hí vang, vô số ngọn đèn lồng vọt về phía này, lại nghe “ùm! ùm!” trong nước không dứt, chính là ngự lâm quân nhảy xuống sông đuổi theo thích khách.
Bên ngoài tiếng người ầm ĩ hỗn tạp, tiếp đó chợt có người hoảng sợ gõ lên cửa:
“Mộ cô nương! Mộ cô nương!”
Đúng là giọng nói của cung nữ Lật nhi, không thấy nàng trả lời, bên ngoài lập tức trở nên sốt ruột, dùng sức đạp tung cửa khoang thuyền, phải có hơn mười ngọn đèn đồng loạt xông vào, trong khoang thuyền tức khắc sáng như ban ngày. Thấy nàng vẫn bình an ngồi đó, nội quan dẫn đầu mới thở phào một hơi nhẹ nhõm, nói:
“Cô nương hẳn là rất sợ hãi. Trên thuyền có thích khách, bây giờ ngự lâm quân đã đuổi theo xuống nước, thỉnh cô nương hãy yên tâm.”
Như Sương nhận ra người này chính là Liêu Tồn Trung - thái giám tổng quản trong cung của Hoa phi, nàng cũng chẳng muốn trả lời, Lật nhi nói:
“Thật đúng là hết cả hồn, may mà cô nương còn chưa ngủ.”
Như Sương bảo Lật nhi đưa đèn qua, lấy mồi lửa châm lại cây đèn trên bàn. Nàng cầm ngọn bấc nhỏ, tự mình khêu cho đèn sáng, xong mới chậm rãi nói:
“Một buổi tối náo nhiệt như thế, ta mà đi ngủ thì tiếc quá.”
Liêu Tồn Trung trước có nghe nói tính nết của nàng lập dị, trù trừ vài giây đang định cáo lui, vừa hay bên ngoài thì đã nghe truyền Hoa phi tới. Chỉ thấy ánh đèn của bốn ngọn Bát Bảo ngân vàng càng lúc càng gần, về đêm gió mạnh, Hoa phi khoác một tấm áo choàng đỏ thẫm, càng làm lộ ra phong thái yểu điệu, hai bên cung nữ nội quan cung kính vây quanh. Liêu Tồn Trung dìu Hoa phi bước vào khoang thuyền, Như Sương xưa nay vốn không thèm đếm xỉa đến cung quy lễ giáo, vẫn ngồi yên ở đó, thờ ơ lạnh nhạt. Hoa phi cũng làm bộ không có việc gì, nói:
“Thật không ngờ lại xảy ra sự tình như vậy, ta vừa nghe báo đã vội chạy tới, may mà không làm tổn thương ai. Tên thích khách kia đúng là lớn mật, còn không biết sợ cái gì là lăng trì xử tử, tru di cửu tộc.”
Như Sương trước giờ chẳng ưa nói chuyện, vẫn cầm trong tay chiếc quạt lụa, chốc chốc lại phe phẩy vài cái. Hoa phi tuy là thấy thái độ nàng hờ hững, song cũng không muốn sinh sự đôi co. Đúng lúc đó, từ bên ngoài có một tên nội quan bước vào bẩm báo:
“Khởi bẩm nương nương, thích khách đã bị tóm.”
Tên thích khách vì ngạt nước lâu đã chết đuối, lúc ngự lâm quân vớt được lên cũng chỉ được cái xác không hồn. Vô số ánh đuốc soi lên cái thi thể mềm oặt ướt sũng, có người còn lật khuôn mặt thích khách qua để nhìn cho rõ, lửa trên đuốc bị gió thổi phừng phừng, chập chờn lúc mờ lúc tỏ. Hoa phi mặc dù không phải lần đầu tiên tận mắt thấy người chết, song vẫn cảm thấy lộn mửa.
Một người đàn ông lai lịch bất minh tại sao lại có thể đi loạn trên thuyền lầu của cung quyến cơ chứ, thật đúng là làm người ta thấy khó hiểu. Cuối cùng sau khi lục soát khắp toàn thân thích khách, mới tìm ra một khối ngọc bội, nội quan lập tức đem trình lên cho Hoa phi.
Hoa phi xem qua biết  đích thị là một khối dương chi bạch ngọc hảo hạng, hoàn hảo không chút tỳ vết, điêu khắc hình một cuộn lá sen, bên dưới lại thêm một đôi uyên ương, chạm trổ cực kỳ tinh xảo, bên dưới nữa lại kết một đôi  hoa văn đồng tâm. Mà hoa kia bằng lụa tơ tằm, mặc dù bị ngấm nước sông mà vẫn chẳng hề phải màu, hơn nữa phương pháp kết loại đồng tâm vạn niên như ý này, tỉ mỉ sang trọng vô cùng, dứt khoát không phải loại hoa văn “vạn niên” tầm thường trong dân gian.
Hoa phi thấy rõ nút thắt bên dưới ngọc bội, tô điểm gấp đôi cho chất ngọc cùng đường nét chạm khắc tinh xảo, loại báu vật như vậy xuất xứ từ trong cung đình là không thể nghi ngờ., liền gọi Liêu Tồn Trung:
“Đi thăm dò xem, vật này là của người nào trong cung.”
Như Sương lúc này mới nhàn nhã nói:
“Khỏi cần, cái đó của ta.”
Hoa phi nói:
“Đã là đồ của Mộ cô nương, cớ gì lại ở trên người thích khách?”
Như Sương cũng chỉ đáp một cách thờ ơ:
“Điều này thì phải hỏi Kiểm nhi, ngọc này hồi chiều ta đã thưởng cho cô ấy rồi.”
Trong giọng nói lại mang chút châm biếm. Hoa phi thấy vẻ mặt nàng vẫn điềm nhiên như không, liền cho người kêu Kiểm nhi qua vặn hỏi. Kiểm nhi sớm đã mặt cắt không còn giọt máu, quỳ sụp xuống mà dập đầu lia lịa. Hoa phi hỏi:
“Ngươi chính là Kiểm nhi? Thứ này tại sao lại ở trong tay thích khách? Ngươi hãy thành thật khai báo cho bản cung hay.”
Kiểm nhi vì sợ mà toàn thân run bần bật, miệng há hốc, nửa ngày cũng không thốt ra được một chữ. Hoa phi nói:
“Ngươi không muốn khai cũng chẳng sao, ta tự nhiên sẽ có cách làm cho ngươi mở mồm mới thôi.”
Lập tức sai ngươi mang một mẩu tăm đến.
Kiểm nhi đã nghe qua khảo hình bằng tăm tre, khiếp đảm đến hồn phi phách tán, khóc ròng:
“Nương nương tha mạng, nương nương tha mạng, miếng ngọc bội này quả thực là Mộ cô nương cho thần, bảo thần giao cho Trương Thắng Bảo, nói rằng Trương Thắng Bảo tự nhiên sẽ biết đem cho ai.”
Hoa phi hỏi:
“Ai là Trương Thắng Bảo?”
Kiểm nhi đáp:
“Là một tên nội quan chạy vặt cho phòng bếp, gã có nhiệm vụ đi mua đồ ăn, cho nên bọn thần cũng thường hay sai gã ra ngoài cung mua này nọ. Lúc này ở trên thuyền, cũng chỉ có bọn ở phòng bếp là có thể được lên bờ.”


Hoa phi xoay mặt liếc qua Như Sương, thấy nàng vẫn mắt điếc tai ngơ ngồi đó, bèn phân phó cho Liêu Tồn Trung:
“Đi giải Trương Bảo Thắng đến đây.”
Truyền gọi Trương Bảo Thắng mãi không thấy đến, Liêu Tồn Trung lập tức đi tìm, lúc quay lại, sắc mặt cực kỳ khó coi:
“Nương nương, Trương Bảo Thắng vừa rồi vì sợ quá mà đã nhảy sông tự vẫn.”
Hoa phi làm như thể bất ngờ lắm, lại liếc Như Sương, nói:
“Hiện thời nhân chứng vật chứng đều đủ cả, chỉ đành làm khó Mộ cô nương vậy.”
Rồi phân phó kẻ dưới đem cả Kiểm nhi lẫn Lật nhi đi, thay một người mới đến hầu hạ Như Sương, lại lệnh gia tăng canh phòng nghiêm mật thuyền lầu Như Sương hơn nữa, bất luận kẻ nào cũng không được ra vào. Hoa phi nói:
“Trước tiên đành phải làm phiền cô nương một đêm, tinh mơ ngày mai bản cung nhất định phái người đi bẩm báo Hoàng Thượng, xử trí như thế nào, cũng chỉ có dựa vào thánh chỉ.”
Nói rồi đứng dậy:
“Cô nương nên nghỉ ngơi sớm, dù gì ngày mai Hoàng Thượng cũng sẽ biết cả mà.”
Như Sương lúc bấy giờ mới mở miệng nói:
“Ta chỉ sợ sống không qua tối nay mà thôi.”
Mặt Hoa phi biến sắc:
“Cô có ý gì?”
Như Sương đứng lên, dùng tay cầm chiếc quạt nhẹ vén tấm mành lụa mỏng tang, nhìn ra bên ngoài cửa sổ nơi có những đốm lửa lập lòe ở trên bờ cách đó không xa:
“Nếu ta đêm nay đã chết, ngày mai khi Hoàng Thượng hỏi đến, các người chỉ việc tâu rằng ta bởi vì gian tình bại lộ nhục nhã mà tự sát là xong, coi như yên chuyện. Một kế liên hoàn này của cô, đầu tiên là vu cho ta cùng người có gian tình, sau đó ung dung mà lấy mạng ta, bước cuối cùng là giết người diệt khẩu, trừ khử hậu hoạn.”
Quay đầu nhìn thẳng vào mặt Kiểm nhi:
“Nhân chứng ba người đã chết hai, ngươi còn chưa sợ hay sao?”
Kiểm nhi vốn từ nãy đến giờ vẫn quỳ ở đó không đứng lên nổi, toàn thân mềm nhũn xém chút nữa muốn gục ngay xuống sàn.
Trong lòng Hoa phi hoảng hốt cùng giận dữ đan xen, lạnh giọng nói:
“Cái miệng ngậm máu phun người nhà ngươi, muốn nói rằng việc tối nay chính là do bản cung vu hãm cho ngươi đấy hẳn?”
Như Sương chẳng buồn đáp, chỉ quay mặt đi. Hoa phi tức đến mặt đỏ gay, Liêu Tồn Trung lại còn không biết tùy cơ ứng biến, nói:
“Nương nương, không bằng ngay lập tức phái người đi bẩm tấu Hoàng Thượng, cung thỉnh Hoàng Đế ra thánh chỉ.”
Hoa phi còn chưa kịp nói gì, bên ngoài đã có một tiếng báo vào, giọng nói của tên nội quan rành mạch rõ ràng tấu:
“Nương nương, có Dự Thân Vương thỉnh gặp.”
Hoa phi kinh ngạc há hốc. Dự Thân Vương vốn luôn hộ tống một bên đại giá, vừa rồi lúc hoàng hôn còn có ngựa báo đến, thông tri cho mọi người biết Hoàng Đế đã dừng chân nghỉ lại Nhạc Xương hành cung, mà thống lĩnh cảnh vệ là Dự Thân Vương lúc này hẳn nhiên là phải ở Nhạc Xương mới đúng, làm thế nào mà đêm hôm khuyu khoắt lại đến tận nơi đây? Huống chi bấy giờ dù là ở trên thuyền, cũng chẳng khác nào trong cung cấm, đêm đã khuyu lắm rồi, thân vương không thể tự tiện mà vào trong thuyền lầu đươc.
Hoa phi nghe báo chàng đến, là phụng chỉ mà đến, buộc lòng phải ra, bèn sai người buông mành, cách một mành mà tiếp kiến.
Từ trong tấm mành lụa mỏng, lờ mờ trông thấy Dự Thân Vương hành lễ, giọng nói vẫn trầm tĩnh như thường:
“Định Loan không làm tròn bổn phận, để cho thích khách làm kinh động đến phượng giá, thỉnh Hoa phi thứ tội.”
Chàng thân là thống lĩnh ngự lâm quân, cho nên trước tiên cũng phải nói đôi lời này. Hoa phi thì ngữ khí như chuyện nhà, giọng điệu vô cùng khách sáo đáp:
“Thỉnh mời Thất gia ngồi xuống.”
Lại nói:
“Thất gia tới thật đúng lúc, tên thích khách này thân phận quả là đáng ngờ, bản cung đang muốn phái người đi tra xét.”
Dự Thân Vương hết sức ung dung nói:
“Hoàng Thượng không yên lòng đoàn thuyền cung quyến, cho nên vừa đến hành cung, đã mệnh cho Định Loan qua xem, không ngờ lại xảy ra chuyện thật.”
Nói không yên lòng cung quyến, chỉ sợ chẳng qua là không yên lòng một người mà thôi. Hoa phi chua xót trong lòng, song giọng điệu vẫn cố gắng tỏ ra ôn hòa:
“Thất gia phụng chỉ mà tới, quả thực là rất tốt. Ta mặc dù coi quản hậu cung, nhưng việc này còn liên quan đến người bên ngoài, đen trắng đúng sai, vào tay Thất gia, nhất định một sớm một chiều sẽ rõ ràng chân tướng.”
Ngay đó liền lệnh cho Liêu Tồn Trung đem mảnh ngọc bội uyên ương cùng những lời khai của Kiểm nhi ra thuật lại từ đầu đến cuối. Liêu Tồn Trung mồm mép lanh lơi, diễn giải thần tình hết sức sinh động, Dự Thân Vương ngồi chăm chú nghe qua một lượt, mãi đến khi Liêu Tồn Trung kể xong xuôi đầu đuôi ngọn ngành, mới hỏi một câu:
“Trước tiên, phải xem thích khách là người nào?”
Mọi người đưa mắt nhìn nhau ngơ ngác, mãi nửa ngày mới có một tên nội quan tấu đáp:
“Là do Mộ cô nương kêu lên đầu tiên, nói có thích khách. . .”
Giọng nói của Như Sương vốn đặc biệt, ngay trong đêm thanh vắng tĩnh mịch kêu lớn, người nghe được cũng không ít.
Trong lòng Hoa phi trầm xuống, Dự Thân Vương nói:
“Một khi đã như vậy, chuyện miếng ngọc bội tất nhiên là có ẩn tình trong đó. Sự việc can hệ đến cung đình, ngày mai bổn vương sẽ xin thánh chỉ Hoàng Thượng.”
Nói xong đứng dậy cáo lui, thi lễ còn chưa xong, mới ngẩng đầu lên, đã chợt thấy từ phía sau rèm vươn ra một cánh tay mềm mại trắng nõn, chưa kịp phản ứng, bàn tay ấy đã đẩy dạt mành sổ sang một bên, một người từ phía sau rèm nhanh nhẹ bước ra, hướng về phía chàng chỉnh đốn trang phục hành lễ, một đôi con ngươi như nước hồ băng ngàn thước, trong veo thuần khiết, dưới ánh đèn lấp lánh không ngừng:
“Vương gia, thỉnh Vương gia lập tức mang Như Sương đến gặp Hoàng Thượng.”
Dự Thân Vương không bao giờ nghĩ nàng sẽ vén rèm đi ra, hơn nữa còn là lần đầu tiên nghe nàng mở miệng nói chuyện, tâm thần vẫn còn chấn động, ngập ngừng không đáp.
Như Sương lại nói tiếp:
“Vương gia là con người cơ trí, đương nhiên đã thấu suốt tận cùng sự việc tối nay, chính là người khác đặt bẫy Như Sương. Lòng người hiểm ác khôn lường, Như Sương yêu quý tính mạng mình, tự biết ăn bữa nay lo bữa mai, dứt khoát không thể cứ ở đây mặc người hãm hại. Kính mong Vương gia đem Như Sương cùng cung nữ Kiểm nhi đến trước ngự giá, thỉnh nhận phán quyết thánh chỉ.”
Hoa phi cũng bị sốc vì cách hành xử của nàng, nghe được nàng nói như vậy, trong lòng tức giận cùng sợ hãi đan xen, đứng bật dậy, cách tấm mành mà mắng nàng:
“Mộ Như Sương, ngươi nói vậy là có ý gì?”
Như Sương không nói một lời, chỉ chăm chú ở Dự Thân Vương. Dự Thân Vương chưa bao giờ bị một thiếu nữ nhìn gần như vậy, không tiện đối diện ánh mắt của nàng, chỉ đành quay mặt đi.
Ngay trong nháy mắt này, cung nữ Kiểm nhi đang quỳ trên mặt đất bất chợt kêu lên:
“Hoa phi nương nương, ta thay ngài vu hãm cho Mộ cô nương, không ngờ ngài lại nói mà không giữ lời, còn muốn giết người diệt khẩu, dù cho phải chết, ta hóa thành quỷ cũng quyết không buông tha cho ngài.”
Nói xong phá cửa sổ mà nhảy ra, “ùm” một tiếng đã chìm vào lòng sông. Hoa phi kinh hồn bạt vía, chỉ thiếu điều muốn xỉu, vài cung nữ phía sau rèm liên tục gọi:
“Nương nương, nương nương. . .”
Hoa phi run run nói:
“Mau! Mau đi bắt lại con tiện nhân ấy!”
Cô ta biết rằng, nếu Kiểm nhi mà chết, bản thân coi như hết đường chối cãi, nhìn lại phía trong mành, chỉ thấy Như Sương lạnh nhạt đứng yên nơi đó, Dự Thân Vương bước vội lại phía bên mạn thuyền, ngự lâm quân cũng đã nhanh chóng lao theo xuống nước cứu.
Hoa phi cũng bất chấp lễ nghi, vén mành gấp gáp đi ra ngoài, vài con thuyền nhỏ của ngự lâm quân chèo lòng vòng quanh mặt sông, giơ đèn lồng soi xuống mong tìm người, thế nhưng nước sông chảy xiết, Kiểm nhi vừa lao đầu vào sông, phút chốc đã chẳng thấy tăm hơi. Nửa canh giờ dần trôi qua, Hoa phi  đã rét run lập cập, được cung nữ dìu đứng nơi đó, không nói một lời. Như Sương thong thả bước lên, nhìn mặt sông đen kịt, thản nhiên nói:
“Xem ra lại chết thêm một người.”
Hoa phi quay đầu nhìn, chỉ thấy dưới ánh đèn, sắc mặt nàng như ngọc, mi mục như vẽ, dung mạo thanh tú không sao tả xiết. Hoa phi nhịn không được lại rùng mình một cái, trong giọng nói chất chứa thù hận:
“Một chiêu này của ngươi mới thật ngoan độc làm sao! Ngươi sẽ gặp báo ứng . . . nhất định có ngày ngươi sẽ phải chịu báo ứng!”
Như Sương nói rất khẽ, cơ hồ ngoại trừ chính nàng, không một người nào khác có thể nghe thấy:
“Gặp báo ứng nào phải ta, những kẻ nên gặp báo ứng, một người cũng trốn không lọt.”
Nói xong cười nhạt một cái, từ lúc vào cung đến giờ, nàng chưa một lần cười, lúc này nhoẻn miệng cười, như hoa sen chớm nở, xinh đẹp thanh khiết. Chớp mắt đã phất ngang chiếc quạt lụa, che đi hơn nửa khuôn mặt, Hoa phi còn đang ngẩn ngơ tưởng mình hoa mắt, nàng đã chậm rãi lui vào.
Dự Thân Vương thấy được mò cứu cũng vô vọng, có vớt được lên cũng chỉ thêm một cái xác chết mà thôi, vì thế cứ đi đi lại lại trong khoang thuyền. Như Sương chỉnh đốn trang phục thi lễ:
“Thỉnh Vương gia vì Như Sương mà quyết định chủ ý.”
Hoa phi mặt tàn như tro, đã sắp phát khóc đến nơi, nói:
“Thất gia, hiện tại ta cũng hết đường chối cãi, chỉ mong thánh chỉ ý tài của Hoàng Thượng.”
Dự Thân Vương thoáng vẻ trầm ngâm, nói:
“Thần đệ tuân lệnh.”
Chàng vừa dùng cách xưng hô như vậy, ý là muốn lấy thân phận hoàng đệ mà phân xử chuyện nhà, mặc dù theo lễ chế thì không thỏa đáng cho lắm, nhưng cũng miễn cưỡng coi như công bằng.
Đêm đã canh ba, lúc Như Sương trở ra mạn thuyền, chỉ thấy gió sông lạnh lẽo, thổi vào người nàng làm tấm áo choàng thêu kim tuyến hàng trăm cánh bướm tung bay, Như Sương bất giác đưa tay nắm chặt dải lụa dài thắt sau gáy. Nội quan cầm trong tay chiếc đèn lưu ly, soi sáng ván cầu dưới chân cho nàng. Như Sương ngẩng đầu lên, thấy trên bờ đê ngự lâm quân đang vây quanh một cỗ xe ngựa, cũng chỉ là loại xe mà các cung nữ ngày thường vẫn đi, ánh đuốc sáng bừng bao quanh thấy rất rõ ràng. Dự Thân Vương đã lên ngựa từ trước, chờ hầu bên cạnh xe.
Bãi bồi trên sông đá vụn lô nhô, phải đi thật chậm, vất vả lắm mới đến được trước xe, một tên nội quan cúi phục người xuống, thế nhưng nàng lại không giẫm lên lưng anh ta mà vào xe theo lệ, ngược lại chỉ nhẹ nhàng nói:
“Đỡ ta lên là được rồi.”
Nội quan hầu hạ xe ngựa hoảng sợ, vẫn cứ phục người ở yên đó, nói:
“Nô tì không dám, nô tì hẳn là phải hầu hạ cô nương lên xe.”
Như Sương thản nhiên nói:
“Anh là nô tì hầu hạ người ta, tôi cũng là nô tì hầu hạ người ta, có cái gì mà dám với không dám?”
Nội quan kia đáp “Vâng”, đứng dậy đi đến đỡ khuỷu tay nàng, dùng sức nâng lên, dáng điệu nàng uyển chuyển, đã bước lên xe, một cô cung nữ nhón nhón vén mành xe lên, đợi nàng ngồi yên ổn trong xe rồi, mới buông tấm mành xuống.
Phía trước xe treo một đôi đèn lồng sáng, đá vụn dọc đường kêu lạo xạo, cách một tấm mành gấm mỏng, thấy hai ngọn đèn lung lay lúc lắc, cứ tưởng một đôi chuông gió biết phát sáng, thậm chí còn nghe được cả tiếng chuông lanh lảnh đong đưa trong gió. . . Như Sương bình tâm lại, mới biết chẳng qua chỉ là ảo giác. Tiếng lục lạc bằng đồng đỏ nghe giòn giã mà trong trẻo kia, thì ra là ở ngay bên cạnh xe ngựa, tự nhiên mà lọt vào tai.
Không ngờ quả nhiên là chàng đến, thì ra chính nàng đã đoán sai mất rồi, ngựa của ngự quân cho phép dùng lục lạc bằng đồng đỏ, mà nàng đã quên rằng Dự Thân Vương sớm đã được ân chỉ, ban cho dây cương tía đính lục lạc bằng đồng. Bóng của đội kỵ binh ngự lâm quân cao lớn hùng dũng phản chiếu lên tấm mành hai bên cửa sổ xe, thấp thoáng một đường điểm những ánh đuốc kéo dài về phía trước, tựa như hai con rồng lửa vĩ đại hai bên, kẹp chiếc xe nhỏ bé của nàng vào chính giữa.
Nhìn xuyên qua cái lỗ trên song cửa đẽo hình con mắt tinh xảo, có thể trông thấy Dự Thân Vương cầm cương khiển ngựa đi cách đó không xa. Bên cạnh chàng hầu cận vây quanh, vô vàn ánh đuốc chiếu lên khuôn mặt chàng, nét mặt trông nghiêng cương nghị điềm tĩnh, nghĩ cũng như bóng đêm sâu thẳm ngoài kia, mênh mang khó lường mà dịu dàng đột ngột. Ngay cả tư thế cưỡi ngựa cầm cương của chàng, cũng giống đến lạ kỳ cái hình ảnh vẫn luôn bí mật tồn tại trong sâu thẳm ký ức của nàng. Đêm tĩnh mịch như thế, chỉ nghe tiếng lửa cháy “lách tách”, tiếng vó ngựa “lóc cóc” đạp lên đá vụn, còn có lục lạc “leng keng” vang lên lanh lảnh . . . Mà trong hỗn hợp âm thanh ấy, bất ngờ lại có tiếng  nện thình thịch ở đâu . . . hóa ra, chính là con tim của nàng đang đập một cách dị thường.
Nàng dựa đầu vào bên mép cửa sổ, cảm giác phập phồng khó chịu như nuốt hết toàn bộ lý trí, mỗi một đợt dâng lên là một cơn mất mát dị thường. Cách xa như vậy, tựa nghìn trùng vách đá cheo leo, đã biết vĩnh viễn sẽ không thể vượt qua, mà phía bờ bên kia rốt cuộc cũng chỉ là một mảnh trời chiều mịt mờ không lối thoát, rốt cuộc cũng chỉ là ảo ảnh trong giấc mộng hư ảo của riêng nàng, có lẽ, cả cuộc đời vĩnh viễn sẽ không bao giờ với tới.
Trong lòng chợt thắt lại, trái tim đau như bị người bóp nghẹt, đau đớn đến như vậy.
Cung nữ đi theo hầu hỏi:
“Cô nương thấy mệt sao, tốt hơn vẫn nên nằm xuống nghỉ một chút.”
Nàng không thể trả lời được, tim đập gấp gáp, mỗi một nhịp như nện vào lồng ngực, mạnh đến phát đau, đến nỗi hít thở cũng không được. Một giọt mồ hôi to như hạt đậu thấm ra ngoài trán, nàng cắn nát đôi môi, quyết không để phát ra một tiếng rên nào. Cung nữ đi theo rốt cuộc đã phát hiện nàng bất thường, vội hỏi:
“Cô nương, cô bị làm sao thế?”
Nàng sờ vào túi toan lấy thuốc, ai ngờ nhấc cánh tay lên cũng không nổi, cung nữ lo sợ luống cuống không yên, vén phắt mành xe, gấp giọng nói:
“Mau dừng xe! Vương gia, Mộ cô nương không xong rồi.”
Toàn bộ âm thanh lọt vào trong tai đều trở nên hỗn loạn, xa xăm mơ hồ, giống như trong một giấc mộng.
Có ánh sáng chói mắt ùa vào trong xe, rồi tiếng người bên cạnh nói chuyện ong ong, nàng cố gắng mở to hai mắt, mơ hồ bắt gặp một đôi con ngươi quen thuộc, lòng bỗng nhiên chùng xuống, dốc hết sức lực mới phát ra được âm thanh yếu ớt như tơ nhện:
“Trong túi . . . thuốc . . .”
Viên thuốc to bằng hạt đậu tằm, tản mát làn hơi lạnh nhàn nhạt quen thuộc, nhét vào trong miệng, rồi lại có nước đổ vào, nàng khó khăn nuốt xuống. Nước ngọt thơm mát lạnh, cảm giác như có một dòng suối thanh khiết, róc rách từ cổ họng chảy vào trong cơ thể. Nàng từ từ lấy lại được hơi, đau thắt nơi ngực cũng dần tan biến, lúc này mới phát hiện bản thân đang ngồi dựa vào bên vai cung nữ, một gã thiên phu trưởng(chỉ huy của một đôi quân nghìn người) trên tay cầm một túi da đựng nước, mắt vẫn nhìn nàng chăm chăm, ngay cả Dự Thân Vương cũng ghìm ngựa đứng ở bên càng xe, thấy nàng tỉnh, chỉ hỏi:
“Có thể đi tiếp được chưa?”
Nàng khẽ gật đầu, chàng liền không nói thêm một lời, xoay chuyển đầu ngựa, ra mệnh lệnh cho mọi người:
“Tiếp tục chạy đi.”
Cung nữ buông mành xe, thân ảnh cao lớn ấy cùng ánh lửa lại bị ngăn cách ở ngoài, không thể nhìn thấy nữa. Vó ngựa lóc cóc lại vang lên nặng nề, nàng sức cùng lực kiệt, mê man thiếp đi trong dược lực của viên thuốc.
Đị phía sau ngựa của Dự Thân Vương là một tên thiên phu trưởng gọi Trì Tấn Nhiên, chính là thị vệ thân tín đã từng theo Dự Thân Vương xuất chinh Hồi Hột, tuổi còn chưa quá hai mươi, song vì công trạng lớn nên đã được thăng chức thiên phu trưởng. Mặt cậu ta còn như búng ra sữa, tính nết thì trẻ con, thúc ngựa đuổi theo Dự Thân Vương, khom người duỗi cánh tay vẫn đang cầm túi nước đem giắt trở lại phía sau yên ngựa của Dự Thân Vương, cười lộ ra hàm răng trắng như tuyết:
“Một người bệnh hoạn như thế, thực chẳng hiểu Hoàng Thượng thích nàng ta ở điểm gì? Nửa đêm canh ba chúng ta đi lần này thật vô tích sự.”
Dự Thân Vương quay sang lườm cậu một cái, ý cảnh cáo.
Trì Tấn Nhiên gặp ánh mắt chàng đảo qua như thế, gãi gãi cái đầu, làm hòa:
“Vương gia, là ta nói sai rồi, Quan Vân Trường ngàn dặm đưa tiễn phu nhân, Vương gia ngài cùng Quan gia gia giống nhau, chỉ đề cao lòng thành bất khuất, có nhật nguyệt nay tỏ tường.”
Dự Thân Vương quay lại quất cho cậu một roi ngay tức thì:
“Nói hươu nói vượn cái gì đó, lại còn chưa chịu cút lên đằng trước mà dò đường đi!”
Trì Tấn Nhiên lè lưỡi, thúc ngựa chạy thẳng về trước.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

93#
Đăng lúc 19-6-2013 09:10:52 | Chỉ xem của tác giả


Chương 12: MẶT PHẤN TRÂM VÀNG CÀI TÓC MÂY


Còn chưa tới tháng sáu, vậy mà trong điện  Thanh Lương đã phải dùng băng rồi. Hồi còn mùa đông, mấy nghìn phu chuyên khuân vác đã lên tận núi Vân Ca đục một tảng băng khổng lồ, vận chuyển về bảo quản tại hầm băng của Đông Hoa kinh mấy tháng liền. Đợi cho đến lúc này lôi ra, từ một tảng băng thô mà điêu khắc kỳ công, cuối cùng đã thành một đài băng trên có lầu các cùng bao cảnh núi non sông nước sinh động như thật, cố định trong cái chậu vàng đặt ngay giữa Thanh Lương điện.
Thanh Lương điện được xây dựng trên mặt nước, bốn bề trống không, có hành lang bao bọc, mành trúc buông rủ, bên trong điện cực kỳ yên tĩnh mà mát rượi, phía trước, đài băng đặt trên đế vàng đang chậm rãi tỏa hơi lạnh, thấy từng đường nét điêu khắc dần tan chảy trở nên nhạt nhòa, từng giọt nước lắt nhắt chảy xuống, rơi vào giữa chậu đánh “tách” một tiếng nghe thật trong trẻo.


Như Sương từ trong cơn mộng tỉnh lại, trống ngực đánh thình thịch, trên trán nàng nhễ nhại mồ hôi, ướt đẫm mái tóc, vài lọn tóc mai dính bết bên thái dương.


Ngoài mành ve ngân, tiếng râm ran không dứt truyền vào tận trong điện, lại càng làm nổi lên cái tĩnh mịch, nàng hé nửa con mắt, rồi lại thiêm thiếp mê man. . .


Đó là một ngày khi còn đang ở nhà, bên ngoài Tú lâu, cây chuối tây vừa xòe tàu lá mới xanh nõn nà, bóng nắng  vàng dịu chiếu qua tấm mành, rơi xuống sàn nhà trơn phẳng nhẵn bóng như mặt gương. Trên tấm vóc xanh nhạt đang căng trên chiếc khung mây, thêu hình một chú chim anh vũ quả nho, sắc lông mao anh vũ vô cùng sặc sỡ nhiều màu, dùng đủ hơn ba mươi loại tơ sợi, đường thêu cũng vô cùng rắc rối kỳ công. Vô tình ngẩng đầu lên, chợt trông thấy ngoài mành hoa lựu nở đỏ rực, màu đỏ như ngọn lửa đập vào mắt khiến mắt chỉ muốn nhắm lại, thế mà  hình ảnh ngọn lửa hồng sống động nhảy múa vẫn còn như đang hiển hiện mãi. Một ngày dài vắng vẻ như vậy, dáng hoa im lìm, trong khuê phòng chỉ đượm  một nỗi muộn phiền duy nhất, đó là làm sao để phối hợp màu sắc thật hài hòa cho chú vẹt trên khung thêu này. . .


Có bước chân cực nhẹ, đi tới trước giường thì chậm rãi đứng lại, cúi nửa người xuống toan nhặt chiếc quạt lụa trắng ngần rơi trên mặt đất. Nàng thình lình mở con mắt, làm cho Hoàng Đế giật nảy  mình, sau mỉm cười nói:
“Đã tỉnh?”


Giọng điệu thương tiếc:
“Xem cái trán ngủ mà đầy mồ hôi kìa, ta đã sợ nóng, mà nàng còn sợ nóng hơn cả ta nữa.”


Như Sương ngồi dậy vuốt vuốt mái tóc, ống tay áo mỏng manh tuột xuống, để lộ cánh tay trắng như tuyết, trên cổ tay còn đeo một chuỗi ngọc, lại càng làm tôn lên vẻ nõn nà của màu da. Nàng lại nằm xuống quay mặt vào bên trong giường, làm như vẫn còn đang muốn ngủ tiếp. Hoàng Đế nói:

“Vẫn nên đứng dậy đi thôi, ngủ từ bữa trưa đến tận bây giờ, cẩn thận bị đầy bụng khó tiêu.”

Nói đoạn tiện tay cầm chiếc quạt lụa, phe phẩy quạt cho nàng. Như Sương thình lình  ngồi bật dậy, chẳng nói chẳng rằng giật phắt chiếc quạt đi, “cạch” một tiếng đã ném trên mặt đất. Một lần bất ngờ như vậy, đến cả Triệu Hữu Trí cũng bị dọa cho nhảy dựng.

Hoàng Đế giận lắm, đứng dậy phẩy áo mà đi, tức tối đi được mấy bước, bỗng dừng lại, kêu:
“Người đâu!”

Hai gã nội quan nghe gọi mò vào, khom người chờ lệnh, Hoàng Đế quay lại chỉ vào Như Sương, trên trán còn hằn nổi gân xanh:
“Trẫm muốn cho cô ta  . . .”


Mới nói được vài chữ, lại thấy nàng vẫn thản nhiên vô sự, vẫn cứ quay lưng ra ngoài, khuôn mặt trông nghiêng tuyệt đẹp, hàng mi dài đen rợp chẳng khác nào đôi cánh bướm chấp chới, rất dày, cách một tấm màn hoa lay động, đập vào mắt chàng. Hốt nhiên, ký ức lần cuối chàng đến Cảnh Tú cung bất ngờ dội về, cung nữ bước ra tiếp kiến, vui vẻ tâu:
“Vạn Tuế gia, Hoàng quý phi đang ngủ.”

Chàng khẽ “à” một tiếng, bước nhẹ qua tấm bình phong, xa xa từ ngoài song cửa sổ, vừa vặn trông thấy nàng đang ngủ, khóe miệng mỉm cười lơ đãng, làm người ta nghĩ rằng hẳn đang trong giấc mộng ngọt ngào. Nàng vĩnh viễn sẽ không biết được, chàng chỉ vừa mới ban chiếu dụ ấy xong. Ví bằng thời gian lúc đó sẽ ngưng lại mãi, ví bằng năm tháng khoảnh khắc rồi già đi, ví bằng chỉ trong nháy mắt đầy đầu đã bạc. Chàng đứng nơi đó, chẳng qua chỉ là cách vài bước chân, thế nhưng gang tấc dưới chân bỗng chốc  biến thành ngàn dặm xa vắng, cả cuộc đời này, vĩnh viễn sẽ không bao giờ vượt qua nổi.


Đó là kiếp này một lần cuối cùng còn được nhìn thấy nàng. Cuối thu trời xanh phẳng lặng, ánh nắng xuyên thấu qua song vải thưa, vờn trên khuôn mặt nàng, một tia sáng ấm áp nhỏ nhoi, nhạt như lông tơ trên cánh bướm, không có cách nào chạm được đến. Gió chập chờn thổi qua tấm màn hoa, dung nhan trước mắt mơ hồ tựa như trong giấc mộng, tất cả những hình ảnh và ánh sáng mê ly này đây, cũng chỉ thoáng qua trong chớp mắt, rồi sẽ trôi đi trong im lặng.


Lòng Hoàng Đế mềm nhũn, thấy hai gã nội quan vẫn đang khúm na  khúm núm đứng một góc đó, chỉ đành đổi giọng sai bảo:
“Đem lại đây cho Thục phi mâm nho Thổ Nhĩ Lỗ vừa cống.”


Còn chưa đến tháng sáu, nho tươi hiếm như kỳ trân dị bảo, Thổ Nhĩ Lỗ chẳng qua chỉ cống được  hai cái  thúng nhỏ, bỏ đi những quả còn xanh, dọc đường đi lại bị thối rữa, phần còn lại cũng chẳng còn bao. Triệu Hữu Trí thầm tức cười trong bụng, đợi nho mang tới, tự mình bưng qua, còn dặn nội quan đưa nho:
“Trở về đi, tiện thể nói cho bên ngoài,  hôm nay Hoàng Thượng  sẽ không ra.”


Buổi chiều thường lệ có một lần nghị triều, bởi vì thời tiết nóng, triều đình lại dụng binh hai nơi, sự tình lôi thôi rắc rối cũng nhiều, cho nên việc lâm triều mỗi ngày là khỏi phải nói, buổi nghị triều hôm nay cũng có rất nhiều việc. Nội quan chư tướng đều tề tựu đông đủ, đang chờ trong phòng đợi hầu chiếu như thường ngày. Có tốp năm tốp ba thì bàn chuyện rì rầm, có người dùng trà, có người nhắm mắt dưỡng thần, lại có người còn đang xem xét bản sớ tấu.


Dự Thân Vương vốn tính tình cực kỳ trầm lặng, ngồi xếp bằng ở trên sạp, đang chậm rãi lật xem một tập sổ sách thật dày. Đại học sĩ Trình Phổ chính là một bậc nguyên lão già cả đã qua ba đời vua Thiên Hữu, đối với chuyện triều chính đều đã từng trải, cũng chính là vị có tuổi tác cao nhất. Lúc này chắp tay thong thả đi lại vài vòng, chợt bắt gặp chiếc đồng hồ bằng nước trong phòng, thấy đã không còn mấy thời gian, ngừng bước chân, đăm chiêu nói:
“Hôm nay phỏng chừng là Hoàng Thượng sẽ không ra mất thôi.”


Nói còn chưa xong, đã thấy mành được xốc lên, một tên nội quan tiến vào, đúng là thái giám trông coi lao dịch của  điện  Thanh Lương, tên gọi Tiểu  Đông  Tử, vòng  tay làm lễ:
“Bẩm chư vị Vương gia, các đại nhân, Hoàng Đế hôm nay sẽ không tiếp triều.”


Thoáng chốc, mọi người trong phòng nhìn nhau, chợt có một tiếng “hừ” rất nhỏ, Trình Phổ thấy Tiểu Đông Tử thi lễ toan thối lui, vội gọi giật gã lại, hỏi:
“Khoan đã, Hoàng Thượng có đích thân ra thánh chỉ hay không?”


Tiểu Đông Tử thoáng ngập ngừng, như là không biết trả lời ra làm sao, Trình Phổ nói:
“Hôm qua đại triều, truyền miễn, hôm nay lâm triều, lại truyền miễn, tới lúc này, hội nghị triều đình, lại cũng truyền miễn, Hoàng Thượng nếu không muốn lâm triều, thì cũng phải có một cái cớ chứ?”


Lão vốn là thái phó (thầy dạy) cho thái tử, là bề tôi được chính Hưng Tông Hoàng Đế trước lúc lâm chung chỉ định làm cố mệnh đại thần(tức đại thần phò tá thái tử lên ngôi). Ai ngờ Mục Tông đoản mệnh, một thái phó như lão lại không thể đền đáp được dù chỉ một phần vạn long ân của Hoàng Đế, thâm tâm luôn tự trách, hối hận không chịu nổi. Mãi đến lúc đương kim Hoàng Đế lên ngôi, lão lấy cương vị một bậc đại học sĩ mà dẫn dắt triều chính, một lòng cúc cung tận tụy hòng báo đáp thánh ân, cho nên mới đốc thúc Hoàng Đế không chút nhân nhượng như thế.

Tháng trước, Hoàng Đế vì việc phong phi cho Như Sương mà nổi lên tranh chấp cùng các đại thần, quan lại thì theo tổ chế, khăng khăng rằng con gái tội thần không được sắc phong, trong khi Hoàng Đế thì vẫn khư khư cố chấp, gạt ngang các nội thần mà trực tiếp truyền mệnh bên dưới làm lễ nghi ban chiếu công bố toàn thiên hạ. Trình Phổ tức giận đến nỗi mấy ngày cáo ốm không vào triều, chờ lão “khỏi bệnh”, Hoàng Đế lại cho khởi triều như thường, nào biết mới buổi đầu tiên, đã đòi miễn lâm triều. Hôm đó cho gọi Triệu Hữu Trí tới hỏi, lão đáp:

“Long thể Vạn Tuế gia xưa nay ngại nóng, chư vị đại nhân đều biết cả, mỗi ngày phải đợi đến qua giờ tý, ban đêm yên tĩnh, mát mẻ một chút mới ngủ được, cho nên buổi sáng không tránh khỏi thức dậy hơi muộn.”


Trình Phổ không thể công nhiên chỉ trích Hoàng Đế, chỉ “hừ” một tiếng miễn cưỡng chấp nhận. Ai ngờ Hoàng Đế càng ngày càng chây lười, đã nhiều ngày qua mà nhóm các vị đại thần muốn gặp mặt cũng đành bó tay.


Trình Phổ bấy giờ càng nghĩ càng giận, chỉ muốn phát tác, Tiểu Đông Tử thấy lão sôi máu, sợ tới mức lắp ba lắp bắp:
“Trình . . . Trình đại nhân . . . Nô tì chỉ là một tên sai vặt hèn hạ, nội tình bên trong, nô tì thực sự không biết.”

Trình Phổ nghe lại càng tức, quay đầu nhìn Dự Thân Vương, chẳng nói thêm lời nào, Dự Thân Vương cũng đã hiểu ý lão. Thế nhưng việc cũng chẳng còn nằm trong tầm tay chàng, chàng chỉ biết thở dài một hơi, tình thế đột nhiên lật ngược như vậy, quả thực là ngoài dự kiến. Thời điểm đưa Như Sương tới hành cung, vụ thích khách Hoàng Để bỏ qua một bên chẳng hỏi tới, cũng không nói sẽ xử trí Hoa phi như thế nào, trong lòng chàng vẫn có chút hy vọng. Ai ngờ vừa đến Đông Hoa kinh, Hoàng Đế lập tức muốn sắc phong cho Như Sương làm phi tần, bỏ ngoài tai mọi phản đối của quần thần, ngay cả chàng đứng ra khuyên ngăn cũng không được, chỉ có thể trơ mắt nhìn chiếu thư sắc phong ban hành khắp thiên hạ.
Chàng vẫy tay gọi Tiểu Đông Tử, nói với gã:


“Ngươi nói một tiếng với Triệu tổng quản, thỉnh lão tâu lại với Hoàng Thượng, ta hôm nay có chuyện quan trọng nhất định phải gặp Hoàng Thượng. Thỉnh lão vô luận là thế nào, cũng phải nghĩ một biện pháp.”
Tiểu Đông Tử vâng dạ, hành lễ cáo lui, vừa đi tới cửa, Dự Thân Vương lại gọi gã lại, nghĩ ngợi một lúc, cuối cùng chỉ phất tay:
“Đi đi.”


Tiểu Đông Tử chạy một mạch trở về Thanh Lương điện, đã thấy ngoài điện yên ắng tĩnh mịch, bọn nội quan đều lui cả vào dưới tán hoa dưới bậc thềm, chỉ có mình Triệu Hữu Trí ngồi trên bậc, ôm phất trần mà gục mặt xuống gối, hình như còn đang gật gà gật gù theo làn gió mát. Tiểu Đông Tử một mặt thì không dám quấy rầy, một mặt lại nghĩ đến lời của Dự Thân Vương, chần chừ mãi, rốt cuộc vẫn dè dặt tiến lên. Triệu Hữu Trí tưởng như đang lơ mơ  ngái ngủ, đột nhiên  mở mắt ngay tức khắc.
Tiểu Đông Tử bẩm báo lại  toàn bộ lời nói của Dự Thân Vương , Triệu Hữu Trí khẽ cau mày, che mặt ngáp cái, nhìn sắc trời trong xanh, lẩm bẩm nói:


“Ngươi cứ đi đi.”
Trong điện râm mát như nước, chỉ nghe thấy mỗi tiếng băng tan lâu lâu “tách” một cái, như là đồng hồ nước rỉ giọt, chỉ là không được đều đặn như thế mà thôi. Như Sương thì như chẳng nhìn chẳng thấy, xoay người muốn ngủ, Hoàng Đế nói:
“Hôm qua ta đi gặp Hoa phi, là vì  hoàng trưởng  tử bị bệnh, cho nên muốn cô ấy chăm sóc. Có điều chỉ nói có vài câu, ngay cả chén trà nhỏ trong điện của cô ta cũng chưa nhấp  ngụm nào, đã lập tức quay về. Nàng lại còn cáu kỉnh với ta như vậy, cũng thật quá không hiểu chuyện.”

Như Sương vẫn nằm đó chẳng nhúc nhích, chỉ nói:
“Chàng hiện giờ còn phải đi xem xét người ở nơi ấy, còn chưa xong đâu.”
Hoàng Đế bèn đánh trống lảng, nói:
“Đừng ngủ, ngồi dậy ăn nho đi.”


Thấy Như Sương mãi chẳng đáp, Hoàng Đế  tự tay nhón lấy một quả, bóc lớp vỏ mỏng, bỏ vào miệng:
“Chà, ngọt ghê, nàng không muốn nếm thử sao?”


Như Sương nghiêng mắt liếc chàng một cái, đột nhiên ghé mặt lại, Hoàng Đế chỉ cảm thấy hương hoa lan ngào ngạt xông thẳng vào chóp mũi, đôi tay mềm mại của nàng đã choàng sau gáy mình, làn  môi thơm ấm mềm  đã  dán chặt lấy môi mình. Hoàng Đế tưởng chừng hô hấp như trì trệ, cảm nhận cánh môi anh đào trơn mềm dịu dàng của nàng làm cho cả thân mình muốn tan chảy, không thể cưỡng càng không thể rời. Tuy nhiên, chỉ trong nháy mắt như ánh chớp vừa qua, nàng đã buông tay, xỏ chân vào đôi hài dưới giường, đi đến trước gương, chải từng lọn tóc tơ, thản nhiên như chẳng có việc gì mà quay đầu lại cười, nói:
“Đúng là ngọt thật đấy.”


Nàng cầm chiếc lược ngà, từng chút từng chút một chải mái tóc, khóe môi ẩn hiện một nét cười. Mà cánh tay cầm chiếc lược chải đầu kia, cũng trắng ngần trong trẻo chẳng khác nào ngà voi, càng làm tôn lên suối tóc đen tuyền, soi rõ cả bóng người. Hoàng Đế chỉ cảm thấy xinh đẹp mê ly làm cho người ta không mở nổi con mắt. Như Sương đột nhiên dừng tay chải, khe khẽ thở dài, cúi mặt xuống. Khuôn mặt trông nghiêng của nàng tuyệt đẹp, dạo gần đây dung nhan cũng bớt tiều tụy hẳn, cái vẻ lãnh đạm khó gần cũng nhạt đi đôi phần, song theo đó lại sinh ra một vẻ yêu kiều thanh khiết đến lạ.


Hoàng Đế nhớ lại ngày Mộ phi mới xuất giá, ngày đầu tiên đứng xem nàng trang điểm, nàng thẹn thùng xấu hổ quay mặt đi, dung nhan kia chẳng khác nào bông thược dược vừa chớm nở. . .


Chàng đột nhiên đứng bật dậy, bước vài bước lên trước ôm chầm lấy Như Sương, xoay một cái ném nàng lên giường. Như Sương kêu nhỏ một tiếng, âm thanh cuối cùng đã chôn vùi trong nụ hôn của Hoàng Đế. Sức lực của chàng thật lớn, giống như chỉ muốn rút cạn toàn bộ không khí trong lồng ngực nàng, kia chẳng phải là hôn, mà phải nói là nhay nghiến một cách thô bạo mới đúng. Như Sương nhắm đôi mắt, cũng hung hăng cắn lại, cả hai người đều như đang phát tiết toàn bộ thống hận cùng ai oán, cũng chẳng phát ra một âm thanh gì, chỉ có trầm mặc mà  kịch liệt triền miên.


Mái tóc dài của nàng cuốn lấy ngón tay trỏ chàng, lạnh mà trơn, như một con rắn nhỏ cứ nuốt vào nhả ra thứ hơi lạnh buốt đến rùng mình. Chàng nghe thấy hơi thở của chính mình nặng nề gấp gáp pha lẫn hơi thở mỏng manh hỗn loạn của nàng, cả người không thể khống chế được một nỗi tuyệt vọng dâng trào khôn kể.


Lần đầu tiên cũng đã như thế, quả thực là nỗi bi thương tuyệt vọng không nói nên lời.
Đó là ở Nhạc Xương hành cung, hừng đông đã hửng, Dự Thân Vương bất ngờ dẫn Như Sương tới, khiến chàng vô cùng bất ngờ. Khoác áo choàng bước dậy, Dự Thân Vương đứng cách một song cửa sổ mà bẩm tấu lại từng câu từng chữ. Ngọn ngành sự việc làm cho chàng phải nhíu mày.


Như Sương bước vào điện, vừa thấy chàng, đã che mặt mà khóc. Hoàng Đế xưa nay  chán ghét đàn bà con gái nỉ non, ai ngờ nàng lại đâm đầu ngã nhào vào trong lồng ngực mình, như một đứa trẻ mà khóc to thành tiếng, làm cho chàng luống cuống cả tay chân, mãi hồi lâu mới đưa tay xoa nhẹ lưng nàng. Như Sương khóc đã thấm mệt, cuộn mình nằm trong lòng hoàng đế, lâu lâu lại thút thít một tiếng. Hoàng Đế nghe nàng khóc mà phiền muộn trong lòng, chỉ đành dịu giọng dỗ dành nàng:
“Được rồi, được rồi, trẫm biết là nàng đã phải chịu tủi thân rồi.”


Như Sương ngẩng mặt, làn da mặt trắng ngần trong suốt, ẩn hiện những tơ máu đỏ bừng, nước mắt vòng quanh, càng thêm vẻ đáng thương động lòng người. Nàng tuy là gầy yếu, song sức lực thì không nhỏ, dùng sức thúc trước ngực Hoàng Đế một cái thật mạnh. Hoàng Đế đã sớm đoán được nàng sẽ làm vậy, tăng lực trên tay, đoạn nở nụ cười:
“Được rồi, đều là ta không tốt, đã đỡ rồi?”


Nàng chậm chạp cúi đầu, đường cong trên chiếc cằm xinh vẫn quen thuộc như vậy, chính bởi cái cúi đầu ấy, mà bản thân lại không nhịn được đặt nơi cần cổ một nụ hôn. Hơi thở của nàng nhẹ mà nông, mang theo làn hương thơm mát quen thuộc, tựa như có thể làm rung động đến tận nơi sâu thẳm nhất. Chàng không thể lại nghĩ cái gì, chỉ buông thả bản thân mà hôn nàng, trong thời khắc mê ly mà hoảng hốt này, chẳng sợ chỉ như một giấc mộng, chàng cũng không thể nào buông tay.
Tất cả những khát vọng, toàn bộ những không cam lòng, toàn bộ những gì đã mất, ký ức này cũng đã khô cạn từ lâu, giờ đây vỡ tan thành những mảnh nhỏ, này đây mềm mại ấm áp đã vĩnh viễn chẳng còn. Trong sự quấn quít triền miên lúc bấy giờ, hốt nhiên cứ sống dậy từng tấc từng tấc một, đó là sự đau đớn mãnh liệt khảm tận xương cốt. Như tuyệt vọng mà giải khát bằng một ly rượu độc, chàng không thể nào chống đỡ, chỉ có thể bất lực mà rơi vào, điên cuồng mà cắn xé hết thảy, đến tận lúc tiếng kêu the thé mà nhức nhối vang lên, trong cơn thống hận không lối thoát của chính mình chàng mới cảm nhận một sự thỏa mãn không nói nên lời.


Miễn là lòng này chẳng còn hiu quạnh, miễn là không còn cảm giác khó chịu như bị ai nạo vét, chỉ cần trong nháy mắt liền quên đi. . .
Cho dù là độc dược, cũng tốt.


Mỗi khi cuồng nhiệt qua đi, mất mát lại càng thêm sâu đậm, cả người mệt mỏi đến nỗi không mở nổi mắt.
Chàng vốn chán ghét là vậy, nhưng chẳng thể nào dứt ra. Từ ngày Mộ phi ra đi, đêm dài đen tối như một hình phạt tàn khốc, dù nàng có bước vào giấc mộng, dù nàng chẳng bước vào giấc mộng, tỉnh dậy bên mình vĩnh viễn trống vắng, luôn luôn lạnh lẽo đến thấu xương. Chàng từng coi cái hậu cung như không còn tồn tại, thế nhưng, cuối cùng nàng đã trở lại, vẫn còn sống mà trở về.


Ai hay, tỉnh giấc thì đã hóa thành hư vô, ban đêm vạn vật mông lung, mà ngày về tất cả đều tàn nhẫn khắc nghiệt đến rõ nét!
Thật may, trời vừa sáng thì Như Sương đã không còn lưu lại, nàng luôn luôn dậy sớm trước chàng, lúc chàng còn đang mơ màng thì đã rời đi, chỉ còn lại trên giường phảng phất một làn hương, khiến lòng chàng thảng thốt như trong giấc mộng.
Lại là lâm triều, dù sao giờ mão cũng còn phải thức dậy lâm triều, Triệu Hữu Trí đã mấy lần gọi chàng tỉnh lại, thấy chàng cáu kỉnh, lão liền thôi không dám làm phền. Chàng lười biếng nghĩ, kỳ thực không lên lâm triều cũng không phải chuyện gì to tát, quần thần rộ lên vài ngày, lại bắt đầu đệ trình lên một đống tấu chương khuyên ngăn này nọ, thấy chàng đều chẳng đếm xỉa tới, đành phải thỏa thiệp mỗi ngày sẽ lại có một lần nghị triều vào buổi chiều mà thôi.


Mọi sự ở dưới bàn tay quyền lực của đế vương đều trở nên thật dễ dàng, nhưng vì sao muốn quên một người, lại chỉ có thể mãi mãi nương nhờ vào ký ức, nương nhờ vào trí nhớ tàn nhẫn mà vô vọng đến vậy!


Hết thảy những gì tốt đẹp nhất đều chỉ nơi đầu ngón tay mà bị thời gian phong hóa thành cát bụi, từng hạt từng hạt gió thổi bay đi, vĩnh viễn chẳng thể tìm lại được nữa. Thể xác và tinh thần chàng đều đã quá mệt mỏi, đôi mắt lại nặng nề mà thiếp đi.
Ngoài cửa sổ, bóng tà dương đã lẩn khuất về tây, cách một lớp mành lụa thưa, ánh lên những tia sáng ảm đạm giữa điện.
Những bản tấu chương vẫn còn chất đống trên bàn, đặc biệt là tin quân cấp báo đặt cạnh chiếc bút lông trĩ, trên lông mao lấp loáng một tầng bảy sắc, tựa như màu men trên những đồ sứ vừa mới cống, nảy lên một luồng sáng lạnh lẽo trông dễ vỡ.
Dự Thân Vương quay đầu lại nhìn chiếc đồng hồ cát bằng đồng, trong con ngươi cũng tản mát một thứ ánh sáng của hào quang giữa ngày, dần dần càng trở nên tối tăm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

94#
Đăng lúc 19-6-2013 11:08:27 | Chỉ xem của tác giả
Chương 13: SEN KHAI ĐIỆN THỦY HƯƠNG LẢ LƯỚT

Đêm đã về khuyu, không gian yên ắng không một tiếng động. Từ xa xa vọng lại tiếng “Chuông Thái Bình” điểm sang canh, ba tiếng ngân dài, rồi dần dần lịm tắt. Trong điện không thắp đèn, bóng trăng ngả về tây xuyên qua lớp mành lụa mỏng tang mà rọi vào,  ánh thủy ngân chảy tràn trên mặt đất.


Như Sương lại giật mình tỉnh cơn mê, chăn gấm lành lạnh mà mỏng đắp ở trên mình, trông như một cái kén tằm, cuốn chặt làm nàng hít thở không thông. Lòng nàng phập phồng nỗi kinh hoàng, thở phì phò, một lúc sau mới đưa tay sờ soạng bình thuốc. Nàng dốc ngược lọ thuốc một cách gấp gáp, ngón tay run lẩy bẩy tựa hồ cầm không nổi. Vất vả mãi mới đổ ra được một viên, ngậm vào miệng. Hơi thở dần dần ổn định, hương thuốc lạnh lẽo tỏa nhẹ ra từ trong miệng. Trên lưng, mồ hôi chảy đầm đìa ướt đẫm vạt áo, nàng uể oải nằm sấp trên giường, lòng bàn tay hơi xót lạnh, kiệt sức buông thõng tay xuống, lọ thuốc giờ đã trống trơn.


Bên cạnh, hô hấp của Hoàng Đế vẫn vô cùng bình ổn, nếu không phải đêm khuyu quá yên tĩnh, hẳn sẽ không thể nghe được. Cái loại âm thanh này nàng ghét cay ghét đắng, mỗi thời khắc đêm dài tĩnh mịch, đáy lòng nàng sẽ không đè nén được cái cảm giác phiền muộn vô bờ, kèm theo đó là nỗi hận thù thấu xương của chính mình.


Bấy giờ trong dạ dày lại nổi lên cảm giác cuồn cuộn chỉ muốn nôn ọe, sau mỗi lần uống thuốc, luôn luôn có một khoảnh khắc suy kiệt như thế, giống như tứ chi trăm mạch cũng chẳng còn là của mình, ngay cả cơ thể cũng thấy lơ lửng không thực.
Nàng lẳng lặng nằm một lát, lúc sau thấy đã lấy lại được chút sức lực, bèn im hơi lặng tiếng rời đi. Nương theo ánh trăng mờ ảo mà nhận diện  đôi giày thêu hoa kim tuyến của mình, lớp lớp cánh sen óng ánh, ẩn hiện theo từng bước chân, mắt cá chân mịn màng trong suốt cũng lộ ra, tựu như trong đám hoa sen kia nở rộ một bông hoa thanh bạch vô ngần.


Nàng buông rèm mắt xuống, trên đời này đã không còn cái gì là trong sáng hoàn hảo không chút tỳ vết nữa rồi. Cho dù là ánh trăng, khi xuyên qua những lớp mành bạc, cũng chỉ là ánh than tro, nhạt nhòa như ánh đèn lúc mờ lúc tỏ, mông lung đến ngay cả bóng người cũng chỉ như một vài nét phác mờ nhạt.


Nàng bước đi cực khẽ, gần như không một tiếng động băng qua lớp lớp màn trướng. Cung nữ canh giấc còn đang ngồi đánh gật đánh gù bên ngoài điện, nàng ở trong này tiện tay cầm lấy một đèn cầy đựng trong đế hoa trên bàn.


Ban đêm oi ả như thế, ngay cả ánh nến nho nhỏ cũng làm người ta nóng đến khó chịu. Ngọn bấc giữa tâm đèn cháy sáng rực, trông như một đóa hoa nở rộ lung linh, song chỉ trong nháy mắt, đỏ hồng đến cực hạn lại trở về thành tro tàn.


Có ánh đèn sáng ngời bừng lên, cung nữ cũng choàng tỉnh, không nói gì, chỉ khe khẽ vỗ tay gọi người bước vào. Tới hầu nàng là cô cung nữ của điện Thanh Lương tên gọi Huệ Nhi, toan lấy áo choàng khoác thêm cho nàng, lại bị nàng đưa tay ra ngăn lại. Đêm dù chưa khuyu, nhưng vẫn oi bức đến lạ kỳ, ngay cả một ngọn gió cũng chẳng có. Bước ra ngoài điện, một gã nội quan cầm đèn đứng chực, thấy các nàng xuất hiện thì khom người đi trước dẫn đường.


Hành lang hun hút vẫn thật dài, dù rằng mỗi đêm đều đi một lần như thế. Ngọn đèn phía trước chập chờn mông lung, soi rõ nền gạch trơn nhẵn bên dưới cho nàng, đen bóng trong veo. Như Sương bỗng nhiên muốn cười rộ lên một cái. Đêm tĩnh mịch nhường này, một ngọn đèn cứ đi giữa hành lang quanh co khúc khuỷu, quả thực chẳng khác nào cô hồn dã quỷ, lừng lững bay về, im ắng thê lương.


Giữa điện Thanh Lương  vẫn còn đốt một ngọn đèn, nội quan cùng cung nữ đều đang chờ hầu ở đó, nàng nói:
“Mọi người đi ngủ cả đi.”
Huệ Nhi dìu nàng bước vào phòng, buông tấm màn châu hình mắt lưới cho nàng. Nàng đã buồn ngủ lắm rồi, chỉ nói một câu:
“Thuốc đã hết, bảo bọn họ đem đến một lọ nữa.”


Liền nặng nề thiếp đi.
Giấc ngủ hôm nay ngon lạ thường, lúc tỉnh dậy thì mặt trời đã lên quá song cửa sổ, trong một tích tắc nàng chợt hoảng hốt ngơ ngẩn. Giống như ngày còn đang là một thiếu nữ, một lần thức tỉnh sau giấc ngủ trưa giữa khuê phòng trên Tú lâu, bà vú ở phía sau phòng đang chọn thước Phật. Không gian vắng vẻ im lìm, chỉ thấy ánh mặt trời qua song cửa sổ đang lặng lẽ chuyển bóng, chiếu lên bông hoa ngọc trâm cắm trong chiếc bình trên bàn, trắng ngần thanh thoát như ngọc vươn thẳng, đưa hương tinh khiết bay xa.


Nàng nhón tay lấy một nhành hoa, cánh hoa mềm mại khẽ vờn qua bên mặt, làm đầu óc con người trở nên mơ màng.
Bên ngoài song cửa sổ, hoa văn lồi lõm xuyên thấu vào in trên tà áo, gợn trên cánh tay, mỏng manh mà dày đặc quấn quýt, cánh lá dây leo uốn lượn tạo thành những hình thù đủ loại. Từ sâu trong những tàn hoa xanh rậm rịt, ve sầu ngân lên đôi tiếng thong thả. Hình như còn thấp thoáng tiếng nói cười râm ran ở đâu đây, phải chăng là Tiểu Hoàn của nàng cùng vài tên tiểu nha đầu nào đó, vẫn thường tinh nghịch cầm chiếc vợt bắt ve mà nô đùa bên hành lang như ngày xưa?  Rồi chỉ chốc lát sau, Tiểu Hoàn sẽ vui vẻ xăm xăm đi vào cùng với một cái lồng mây, bên trong có một chú ve, đặt lên bàn trang điểm cho nàng. . .


Tiếng ve dần dần dịu đi, trên song cửa sổ dài chạm những hoa văn dày đặc tinh xảo, cột trụ màu son chạm rỗng long phượng kết hợp với nước sơn vàng kim, thứ hoa văn lộng lẫy lấp lánh nhường vậy, đỏ chót ánh vàng, nhìn lâu sẽ như đâm thẳng vào con mắt. Đầu ngón tay nàng nhẹ nới, một cây trâm ngọc hình nụ rất nặng rơi trên mặt đất, một tiếng “cạch” cực khẽ vang lên, rốt cuộc vẫn làm kinh động đến người khác, Huệ Nhi tiến vào:
“Nương nương đã tỉnh?”


Các cung nữ cũng nối đuôi nhau mà vào, bưng cả chậu để rửa mặt, nàng cũng hờ hững mặc cho người ta sửa soạn. Cuối cùng, đến lúc chải tóc, chỉ còn mỗi Huệ Nhi hầu bên cạnh, mới hỏi:
“Thuốc đâu?”


Một lọ sứ nho nhỏ sắc xanh biếc được đặt trước gương đồng, cầm lên tay thấy nhẹ bẫng, Như Sương lập tức mở nắp lọ, đổ ra lòng bàn tay. Lòng bàn tay nàng trắng ngần như ngọc, đựng vài viên thuốc như vậy, lại càng tôn thêm sắc màu đẹp đẽ như minh châu, đôi mày thanh tú khẽ nhíu lại, hỏi:
“Làm sao lại chỉ được có năm viên?”
Giọng Huệ Nhi cực thấp:


“Thuốc này bây giờ không dễ chế biến, bên ngoài cũng tiện thể muốn nhắn vào, thỉnh nương nương dùng tạm, đợi đến lúc pha chế được, sẽ đưa tiếp cho nương nương.”
Như Sương chậm rãi trút các viên thuốc trở lại trong bình, mỗi một viên rơi vào, lại nghe một tiếng “tách . . .tách” tựa như rơi thẳng vào lòng người. Nàng nhìn hình ảnh mình trong gương, vốn lông mày nàng nhạt, mí mắt cũng không rõ, cho nên thường dùng con ốc vẽ một đường phẩm xanh đen thật dài, trông càng như lẩn vào tóc mai, lấp ló xinh đẹp.


Phương pháp kẻ mi mắt này nhờ nàng mới ra đời, bấy giờ đàn bà con gái nhà quan ở trong cung ngoài cung cũng đều đua nhau làm theo, được gọi là “tần mi”. Nghe đâu cái phương pháp này vừa truyền ra, ở trên chợ bán ốc kẻ mí đã tăng giá lên đến mười kim tiền một cái, thế mà cung vẫn không đủ cầu. Quan Ngự Sử chuyên phụ trách vì chuyện này mà đã đệ trình lên một bản tấu khuyên gián, thỉnh Hoàng Đế ngăn lại. Hoàng đế bèn ra một cái sắc lệnh, từ nay trong cung không được xài ốc kẻ mí, chỉ có mình nàng là vẫn được dùng như trước. Vẻn vẹn chừng ấy, cục ngân sách vì một mình Như Sương mà mỗi tháng chi ra một nghìn hai lượng để mua phấn kẻ. Hoa phi nghe thế thì mỉa mai, nói:
“Cứ vẽ cho đủ kiểu thế, chẳng lẽ còn vẽ ra được một hàng lông mày thứ ba hay sao chứ.”


Lúc này, Như Sương khẽ cau đôi lông mày, đầu mày thấp thoáng, viền mắt trông như một dải núi xa, trên đầu nàng cài một chiếc thoa phượng bằng vàng đính đá thạch anh, phần tua thật dài buông rủ xuống tận hàng lông mi, khe khẽ rung rinh. Tình cờ sợi tua lắc mạnh, lộ ra một bông hoa đỏ đính ở giữa trán, đỏ thắm như một giọt máu, lấp lánh muốn rơi ra.
Nàng đặt lọ thuốc xuống, đưa tay chống má, trông chẳng khác nào một cô bé đang ngồi suy tư, mãi một hồi lâu, khóe môi chợt mỉm cười:
“Hắn muốn gì?”


Âm thanh của Huệ Nhi lại càng thấp hơn nữa, gần như là đang rủ rỉ vào tai:
“Nương nương hiển nhiên là đã rõ mà.”
Như Sương thản nhiên nói:
“Lúc này mà manh động, chẳng phải còn quá sớm hay sao?”


Huệ Nhi vẫn một vẻ cung kính như trước:
“Vương gia nói, nương nương hẳn đã có “bùa hộ mệnh”, ra tay sớm hay muộn, lúc nào mà chả được. Tốt hơn hết là vẫn nhanh tay lên một chút.”
Như Sương cứ ngồi nhìn ảnh mình trong gương mãi, qua hồi lâu, mói lạnh nhạt đáp:
“Được thôi, chỉ mong hắn không hối hận.”
Huệ Nhi mỉm cười:


“Nương nương thánh tuệ, dĩ nhiên sẽ không làm người thất vọng.”
Như Sương làm như không nghe thấy, dáng vẻ lười biếng uể oải nói:
“Phái người đi hỏi, Hoàng Thượng có còn ở bên kia hay không.”


Cũng không truyền làm cơm trưa, bởi Hoàng Đế vừa mới rời giường, nội quan liền bẩm báo rằng có Dự Thân Vương muốn yết kiến, Hoàng Đế chỉ thờ ơ nói:
“Vậy nói trẫm còn chưa dậy, bảo hắn chiều lại qua đi.”
Nói còn chưa xong, đã nghe thấy giọng nói của Dự Thân Vương, mặc dù cách cái cửa sổ, vẫn sang sảng cố chấp bay vào:
“Nếu thế, Định Loan sẽ ở đây chờ hầu.”


Hoàng Đế bấy giờ mới phát giác, cười:
“Ai bảo ngươi chọn đúng lúc . . . vào đi.”

Dự Thân Vương mặc trang phục tiến triều, áo mãng bào thêu chữ màu vàng kim, bạch ngọc rồng giắt một bên đai lưng, càng toát lên khí khái anh hùng, nhanh nhẹn quỳ xuống hành đại lễ. Vốn ở trước triều đình chàng đã được đặc miễn hành đại lễ, Hoàng Đế thấy chàng trịnh trọng như thế thì lấy làm lạ, đã biết là có chuyện, không khỏi cảm thấy nhức đầu, cười nói:
“Được rồi, được rồi, có chuyện gì thì nói trước đã, không cần phải khách khí như vậy.”


Dự Thân Vương vẫn chưa chịu đứng lên:
“Thần đệ ngu dốt, tự thấy bản thân không gánh nổi trọng trách, mọi việc chỉ đành dựa vào thánh chỉ của Hoàng Thượng.”
Hoàng Đế cười nói:


“Mấy cái lão già kia nhất định là đã lôi thôi làm đệ nhức đầu, ta biết, mấy ngày qua ta đã trì hoãn quá nhiều . . . ngày mai trẫm sẽ vào triều sớm đối phó với bọn họ là được, đệ còn muốn giở giọng trịch thượng với Tứ ca, thật làm ta cũng muốn trở mặt.”
Dự Thân Vương nói:
“Tạ ơn hoàng huynh.”


Hoàng Đế cười cười:
“Đứng lên đi, còn không mau đứng dậy, hay lại muốn giận dỗi với ta nữa à.”
Dự Thân Vương bật cười, nói:

“Bộ Binh nhân được điệp báo, người của Kỷ Nhĩ Mậu đã giết chết đại thủ lĩnh Bá Sở của Lan Hoàn, xem ra ý chí là  không nhỏ.”
Ánh mắt Hoàng Đế chớp động, trầm ngâm không nói, Dự Thân Vương lại tiếp:
“Năm vừa qua, triều đình liên tiếp phải dụng binh áp chế dân phía nam, cho tới nay vẫn còn tiếp tục. Hơn nữa quan ải Định Lan là nơi hiểm yếu, dễ thủ khó công, cho nên mới tạm thời buông lỏng cho Kỷ Nhĩ  Mậu, chỉ sợ bây giờ lại thành nuôi hổ trong nhà.”


Hoàng Đế nói:
“Nếu đã nuôi thành một con mãnh hổ, chúng ta cũng chỉ đành chờ đến khi chắc ăn được mười phần, mới có thể khua một cái cho rụng hết cả hàm răng nhọn của nó.”


Dự Thân Vương muốn nói gì lại thôi, rốt cuộc cũng chỉ tâu trước những việc quan trọng hơn. Tấu chương dồn dập rất nhiều, mãi đến tận đầu giờ Mùi mà vẫn tấu chưa xong, Hoàng Đế phải truyền mệnh ban thưởng cho Dự Thân Vương cùng ăn một bữa cơm trưa. Nội quan Trình Viễn lúc bấy giờ tiến nhanh tới hạ giọng bẩm báo:
“Hoàng Thượng, nương nương bên kia cũng chưa có dùng bữa.”


Hoàng Đế tuy có bốn phi tần, nhưng hai chữ “nương nương” trong miệng nội quan, cũng chỉ có ám chỉ Thục phi Mộ thị mà thôi. Hoa phi tuy rằng hiện thời là chủ quản hậu cung, song vì vụ thích khách mà không còn được Hoàng Đế sủng hạnh, Hoàng Đế tự nhiên chỉ yêu chiều Như Sương. Không chỉ cho nàng ở trong Dục Thanh cung là cung gần điện Thanh Lương  nhất, hằng ngày đều kè kè bên cạnh mà còn cho cùng ăn cùng uống – một đặc quyền của riêng Hoàng hậu. Trong hậu cung thấy cái chế độ vượt quá cả giới hạn đó dĩ nhiên là xôn xao cả lên, ban Ti Lễ cũng không thể không can gián, Hoàng Đế nói:
“Trẫm đường đường là thiên tử, chẳng nhẽ hằng ngày ăn cơm cùng cô nào cũng không thể tự quyết định?”
Nếu mà Hoàng Đế đã bực mình đến nước ấy, vậy thì từ đây chỉ có vậy mà tuân theo, mà lúc bấy giờ Trình Viễn nói như thế, ý là muốn nhắc nhở, Thục phi vẫn đang chờ chàng.


Hoàng Đế “à” một tiếng, đoạn nói:
“Vậy thì đi báo với Thục phi, hôm nay trẫm dùng cơm cùng Thất đệ, không cần phải chờ trẫm.”
Trình Viễn vừa đi được mấy bước, Hoàng Đế đã gọi giật gã lại:
“Nhiều ngày qua khẩu vị của Thục phi không tốt, chỉ sợ là hay ăn lạnh quá làm tổn hại đến dạ dày, dặn nàng ấy đừng ham dùng dưa và mấy loại rau quả lạnh quá, mấy thứ đó không tốt cho dạ dày.”


Trình Viễn thưa “vâng”, Hoàng Đế lại nói:
“Còn có, truyền ngự y bắt mạch một cái, đừng trì hoãn lại thành bệnh ngoài da.”
Trên mặt Trình Viễn lập tức hiện lên vẻ lúng túng, Hoàng Đế biết tính tình Như Sương xưa nay cố chấp, chỉ toàn giấu bệnh sợ thầy, vừa nghe nói truyền ngự y, như một đứa trẻ con nghe phải uống thuốc, nhất định sẽ cáu kỉnh làm loạn không thôi.


Hoàng Đế nói:
“Cứ bảo là ý chỉ của trẫm, người đã không khỏe, cớ nào lại không chịu truyền ngự y.”
Trình Viễn nhận mệnh mà đi, Dự Thân Vương thấy Hoàng Đế dặn dò ân cần như thế, phải nói là cực kỳ cẩn thận, trong lòng yên lặng suy nghĩ.


Một bữa trưa này tuy đầy sơn hào hải vị, nhưng còn phải để ý đến lễ nghi, Dự Thân Vương cũng không phải con người tham ăn tục uống, hơn nữa Hoàng Đế vốn ngại nóng, xưa nay vào những ngày nóng ăn rất ít, cho nên hai người đều cảm thấy nhạt nhẽo vô vị. Dùng xong bữa trưa, cung nữ bưng trà đến, Trình Viễn xong lệnh đã trở về, quả nhiên nói:
“Vạn Tuế gia, nương nương nói người không bệnh, không cần phải gọi ngự y.”


Trong lòng Hoàng Đế vốn đã dự kiến như vây, Trình Viễn bất ngờ cười hì hì, lại ấp a ấp úng nói:
“Còn có câu . . . nô tì cũng không biết có nên tâu lại hay không.”
Hoàng Đế bỗng nhiên nổi giận:
“Cái gì mà nên nói hay không nên nói, đây là cung cách đối đáp với chủ nhân hay sao? Ngày thường trẫm buông thả cho bọn ngươi quá mức, đứa nào cũng chỉ thiếu điều tạo phản nữa thôi. Còn dám dong dài, trẫm đánh gãy cái đôi chân chó của nhà ngươi.”


Trình Viễn trước giờ vốn được Hoàng Đế một bề tin tưởng, không ngờ hôm nay đột nhiên lại dẫm phải cái đinh như vậy, sợ tới mức chỉ liên tục dập đầu mà kêu:
“Nô tì đáng chết.”
Hoàng Đế thở phì một hơi, tiếp lấy chén trà cung nữ dâng lên, nhấp một ngụm. Dự Thân Vương thấy Trình Viễn đã lui ra, bèn nói:


“Thần đệ vẫn canh cánh một chuyện, chỉ mong cầu tình hoàng thượng một lần, có lẽ cái này không nên là do thần đệ nói, song Định Loan không nói, cũng sẽ chẳng có ai dám hỏi Tứ ca. Ấy là, Hàm phi cũng không phải phạm lỗi lớn, mong hoàng huynh vì nể mặt hoàng trưởng tử, tha cho cô ấy lần này.”
Hoàng Đế hỏi:


“Tại sao bỗng dưng lại nhắc chuyện này thế?”
Dự Thân Vương đáp:
“Thần đệ nghe nói hôm trước hoàng trưởng tự bị sốt, Hàm phi là mẹ đẻ, từ khi sinh ra đến giờ đều à do cô ấy một tay chăm bẵm cho hoàng trưởng tử, chung quy vẫn tốt hơn nhiều so với người ngoài.”


Hoàng trưởng tử Vĩnh Di năm nay mới ba tuổi, vốn ở cùng mẹ đẻ là Hàm phi, từ ngày Hàm phi bị giáng chức thì hoàng trưởng tử cùng với bốn nhũ mẫu và sau gã nội quan phải nương nhở nơi Hoa phi mà ở. Đã nhiều ngày qua thời tiết nóng bức, Vĩnh Di bị ốm, khóc nháo không thôi, Hoàng Đế còn chưa kịp phiền não vì việc này, đã nghe Dự Thân Vương nói thế, gật gật đầu:
“Cũng được.”


Bèn sai người cho truyền Trình Viễn vào, nhưng thấy Trình Viễn tiu nghỉu mà hành đại lễ, Hoàng Đế vừa bực vừa buồn cười, trách gã:
“Nhìn xem, thật có triển vọng quá đi thôi.”
Vẻ mặt Trình Viễn đau khổ nói:
“Nô tì nói xằng nói bậy, thỉnh xin Hoàng Thượng trách phạt.”
Hoàng Đế nói:


“Trẫm cũng chẳng phạt ngươi, còn có chuyện cho ngươi làm đây. Ngươi hãy tức khắc trở về Tây Trường kinh một chuyến, truyền ý chỉ của trẫm, mệnh cho Hàm phi đến Đông Hoa kinh này.”
Thời tiết nóng như vầy, rong ruổi cả trăm dặm đường, vậy cũng coi như là khổ sai, trong nháy mắt Trình Viễn lại đã tươi cười rạng rỡ, vội vàng hành lễ:
“Nô tì tuân chỉ.”


Sau bữa trưa, Hoàng Đế lại theo thường lệ muốn đi nghỉ trưa, Dự Thân Vương bèn cáo lui, gặp tiểu thái giám Lục Phúc đang thêm nước vào cho cái lồng chim bên hành lang, thấy chàng vội vàng thi lễ:
“Kính gặp Vương gia.”


Dự Thân Vương biết gã cũng là đồ đệ của Triệu Hữu Trí, có chút tài lanh, liền bảo:
“Ngươi đi xem xem Trình Viễn đã khởi hành hay chưa, nếu chưa ra khỏi cung thì bảo ta chờ gã trước cửa cung, có đôi điều muốn căn dặn.”


Lục Phúc vội vâng dạ một tiếng rồi chạy đi.
Dự Thân Vương trở ra, mệnh cho kiệu mát đi đến ngoài cửa Càn Khôn chờ, quả nhiên chỉ thoáng chốc đã thấy Trình Viễn theo hai gã nội thị mò đến. Trông thấy kiệu của Dự Thân Vương, Trình Viễn liền bảo hai gã nội thị đứng yên đó chờ, còn mình gã bước lên, ở xa xa hành lễ:


“Nô tì kính gặp Vương gia.”
Dự Thân Vương nói:
“Miễn lễ.”
Trình Viễn thưa:


“Bẩm, nghe nói Vương gia cho gọi, không biết là Vương gia có điều gì sai bảo.”
Dự Thân Vương hỏi:
“Lần này về kinh đi đường thủy hay đường bộ.”
Từ Đông Hoa kinh về Tây Trường kinh, có thể đi đường bộ, hoặc đi đường thủy. Đường thủy xa, thuyền đi lại chậm. Trình Viễn bèn thưa:


“Nô tì tính đi đường bộ, cưỡi ngựa thì sẽ mau hơn chút.”
Dự Thân Vương vuốt vuốt cằm, nói:
“Hàm phi phụng chỉ đến hành cung, ngươi trên đường phải hầu hạ cẩn thận, thời tiết rất nóng, kiệu xe mệt nhọc, đừng để Hàm phi bị bệnh.”


Trình Viễn muốn thăm dò thử ý chàng, bèn nói:
“Vương gia, cung quyến theo lệ vẫn thường đi đường thủy.”
Dự Thân Vương đáp:


“Ta biết, nhưng Hàm phi mấy tháng nay đã không được gặp hoàng trưởng tử, sốt ruột nhớ con, tất nhiên sẽ muốn đi đường bộ.”
Trình Viễn đã ngộ ra, không khỏi toát mồ hôi như tương, hướng về phía Dự Thân Vương mà hành lễ:
“Nô tì đã hiểu.”


Tiếng ve râm ran từng đợt lọt vào tai, thời tiết nóng bức, ngoài cửa cung tuyệt không được che đậy, sau buổi trưa mặt trời chói chang như đốt. Trình Viễn ra mồ hôi ướt đầm y áo, lại bị mặt trời thiêu cho khô, kết thành một lớp váng, nhộn nhạo trên lưng làm cho gã vừa đau vừa ngứa. Nghe Dự Thân Vương nói:
“Lần này đi vất vả, đi nhanh về nhanh, đừng làm hỏng việc.”


Trình Viễn cung kính đáp:
“Thỉnh Vương gia yên tâm, nô tì sẽ cố gắng hết sức.”
Dự Thân Vương gật đầu một cái, từ bên trong đã đưa ra ba con tuấn mã, Trình Viễn liền hành lễ mà từ biệt Dự Thân Vương, cùng hai gã nội thị đi theo, dẫn ngựa ra xa khoảng trăm bước, đi thẳng ra tận cấm cung, mới dám nhảy lên lưng ngựa mà đi.
Dự Thân Vương nhìn theo ba con ngựa cuốn vó mà phi, càng lúc càng xa, mới thở nhẹ một hơi.


Trình Viễn làm việc quả thực ổn thỏa, đến vào giờ Dậu ngày thứ hai, đã theo hộ tống kiệu của Hàm phi chạy về hành cung. Thời tiết nóng nhường nào, hai ngày mệt mỏi chạy đi chạy lại giữa đường xa gió cát, vất vả là không cần phải bàn. Hàm phi xưa nay khó mà chịu được chuyến đi cực khổ như vậy, Trình Viễn phải khéo léo khuyên bảo cô ta mới nghe, rạng sáng lập tức khởi hành, bỏ thuyền mà đi xe, một đường đi thật quá gian nan. Sau khi vào cung tắm rửa thay quần áo qua loa, xong lập tức đi gặp Hoàng Đế để tạ ơn.


Trời thì nóng, đang lúc hoàng hôn khí nóng vẫn chưa giảm, Hoàng Đế ở Thủy các phía sau điện Thanh Lương hóng mát cùng Như Sương. Khẩu vị của Như Sương gần đây rất không tốt, bữa tối chỉ ăn cho có lệ mà cũng không chịu, lúc này ngự phòng dâng lên một bát nước đá, nguyên là một món ăn ngọt dùng ngó sen tươi, dưa ngọt, đào mật, mật ong trộn cùng đá vụn. Như Sương xưa nay vốn thích đồ lạnh, Hoàng Đế lại sợ nàng đau dạ dày, chung quy vẫn không cho nàng ăn nhiều đồ lạnh, chỉ lệnh nội quan lấy nửa bát cho nàng.


Như Sương đã ăn xong nửa bát rồi, thấy trước mặt Hoàng Đế vẫn còn hơn phân nửa, chiếc bát sứ mỏng trong suốt màu xanh ngọc, bên trong còn có một cụm băng vụn, mật ong nổi lềnh bềnh, trông càng ngọt càng mát, thơm mát đến thẩm thấu cả người. Nàng cầm chiếc nĩa bạc, tiện tay vớt một mẩu đào mật ăn. Hoàng Đế cười cười:
“Này, này, sao lại có chuyện đi cướp của nhà người ta thế nhỉ.”


Như Sương ngậm cái nĩa nhọn, ngoảnh đầu lại cười, để lộ hàm răng trắng muốt như ngọc:
“Cái này làm sao có thể gọi là cướp được chứ.”
Nói xong lại nhón một miếng dưa ngọt bỏ vào miệng, Hoàng Đế giơ bát ra xa, tiện tay đưa cho tiểu thái giám, nói:
“Không được ăn nữa, phải biết thương cái dạ dày một chút, ngày hôm qua còn không biết ăn bậy bạ cái gì, để cho sáng nôn thốc nôn tháo cả ra, bây giờ lại đã quên rồi hay sao?”


Như Sương còn đang muốn đối đáp lại, bỗng nhiên nội quan bước vào bẩm tấu, nói Hàm phi đã tới, muốn vào thỉnh an Hoàng Đế. Nụ cười trên khuôn mặt Như Sương tắt lịm, qua một hồi sau cười lạnh một tiếng, ném thẳng cái nĩa trong tay lên bàn đánh cạch một cái, liền bỏ đi.
Hoàng Đế chỉ đành bảo với nội quan:
“Nói cô ta không cần thỉnh an, hoàng trưởng tử còn đang ở cung của Hoa phi, để cô ta đi thăm hoàng tử trước đi.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

95#
Đăng lúc 19-6-2013 11:13:25 | Chỉ xem của tác giả


Chương 14: TRĂNG THANH GIÓ MÁT THÔI SẮP TÀN



Khi Hàm phi đến được điện Hiền Đức, thì đèn đã được thắp lên rồi. Hoa phi đích thân đi ra chào đón, vừa thấy cô, đã sắp rơi lệ:
“Em gái tốt của chị, em đã đến là ổn rồi. Mấy ngày qua thật khổ cho em quá.”


Bộ dạng cảm khái như thể có muôn vàn lời nói ấp ủ, chẳng qua là không biết nên diễn đạt ra sao.
Hàm phi thì cũng đã nghe nói về cảnh ngộ của Hoa phi hiện giờ, thấy thần sắc cô nàng tiều tụy, đã không còn cái phong độ hơn người khi xưa nữa, nắm lấy bàn tay của mình với điệu bộ chân thành vô cùng. Cô cũng không khỏi thấy có ba phần thương cảm, chỉ đáp:
“Cám ơn chị đã nhớ đến em.”


Trước giờ chăm sóc hoàng tử có bốn bà vú em, cầm đầu là bà vú họ Trần, cực kỳ tận tâm tận lực, dẫn mọi người bước ra, hành lễ với Hàm phi rồi nói:
“Thưa, tiểu hoàng tử vừa mới ngủ ạ.”


Hàm phi sốt ruột trong lòng, bước nhanh mà vào, cung nữ vén tấm mành rồng lên, cách một lớp màn lụa mỏng, có thể lờ mờ trông thấy đứa bé đang nằm trên giường, cô đưa tay vạch màn, thấy được con đang say giấc ngọt, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ bừng, trên môi còn đọng vài giọt mồ hôi, không biết là mơ thấy gì mà khóe miệng như mỉm cười. Lòng cô ta nhẹ nhõm, lúc bấy giờ mới cảm nhận cái khốn khổ trong lần bôn ba vừa qua, thể xác và tinh thần đều mệt mỏi rã rời, đôi chân mềm nhũn, chỉ đành ngồi tạm trên giường, tiếp lấy chiếc quạt lộng bà Trần đưa, khẽ quạt cho con.


Đêm dần thanh tĩnh, gió mát hiu hiu, thổi tấm màn lụa trong điện bay phơ phất. Hoàng tử ở trong điện ngủ rất sâu, Hàm phi cùng Hoa phi thì sánh vai ở ngoài điện mà ngồi, thầm thì những câu chuyện dài, ngắm vầng trăng sáng trong chiếu vào bậc thềm ngọc trước điện, như thủy ngân chảy tràn trên mặt đất, hết sức sáng ngời.


Hàm phi thở dài:
“Không ngờ là vẫn còn có ngày được thấy ánh trăng của kinh thành Đông Hoa.”
Hoa phi lại cười nói:
“Em đây tốt số hơn người, cớ sao lại nói những lời nhụt chí như vậy?”


Hai cô tuy vốn có hiềm khích, song đều là những trắc phi được Hoàng Đế cưới về từ trước khi lên ngôi, lúc này lại rất có ý thức biến chiến tranh thành tơ lụa (dùng biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp). Vừa nhắc tới Như Sương, trên mặt Hoa phi đã đượm vẻ u uất, nói:
“Không thể ngờ chúng ta lại có ngày rơi vào cái cảnh ngộ này, hiện giờ chị không sợ, chỉ e có sẽ có một ngày cô ta bước vào được điện Khôn Nguyên, đến lúc đó hẳn hai chị em mình chẳng còn đường sống.”


Điện Khôn Nguyên chính là trung cung, nơi ở của hoàng hậu. Hàm phi cảm thấy kinh ngạc:
“Cô ta xuất thân trong tù tội, làm sao có ngày sẽ thành mẫu nghi thiên hạ được chứ?”
Hoa phi nói:
“Cái loại yêu nghiệt ném đá giấu tay, mê hoặc quân vương này, không bao giờ có thể lường trước được. Thời điểm phong tước phi tần, quần thần cũng cực lực khuyên ngăn, Hoàng Thượng lại vẫn cố ý mà làm, Trình thái phó tức đến nỗi đổ bệnh, cuối cùng vẫn không ngăn cản được.”


Hàm phi hít một ngụm khí lạnh, hoảng sợ nói:
“Chị, thế phải làm cái gì bây giờ, chẳng lẽ trở mắt nhìn ả bắt nạt chúng ta?”
Hoa phi đáp:
“Kế sách hiện tại, chỉ có thể là gắng mà dựa vào hoàng trưởng tử . . . Hoàng Thượng xưa nay vẫn yêu trẻ nhỏ, lại coi trọng hoàng trưởng tử, phụ tử tình thâm, chỉ cần Hoàng Thượng yêu thương hoàng trưởng tử, yêu nghiệt kia cũng chẳng làm được gì.”


Hàm phi thở dài:
“Nói thì nói thế, nhưng Hoàng Thượng trước giờ luôn đối xử lạnh nhạt, qua một chuyện lần trước, lại càng không thể bàn đến cái gì gọi là tình cảm.”
Hoa phi nắm lấy tay cô, hai người vốn đã nói chuyện rất nhỏ, bây giờ lại càng như thì thầm:
“Trước mắt đang có một chuyện quan trọng hơn cần bàn bạc với em . . . chỉ sợ là yêu nghiệt kia nhiều ngày qua đã đi cả lên đầu chúng ta rồi.”


Hàm phi thấy cô ta trịnh trọng như thế, không thể không hỏi:
“Chị vốn xuất thân cao quý, hiện nay lại là chủ quản hậu cung, con yêu nghiệt đó sao mà có thể qua mặt chị được?”
Hoa phi nhíu chặt đôi lông mày, đáp:
“Chị nghe rõ ràng người của điện Thanh Lương nói, yêu nghiệt kia đã nhiều ngày không thiết ăn thiết uống, ngày đến lại còn hay buồn nôn ói mửa, dù chưa truyền ngự y, song xem tình trạng của ả, chỉ e là đại sự không ổn mất rồi.”


Hàm phi kinh hãi thất thanh:
“Trời ạ, chứ không phải là đã có . . . có . . .”
Có một cục nghẹn như đã nuốt cả mấy tiếng đằng sau, nghĩ ngợi chốc lát, lại càng hốt hoảng:
“Hiện thời cả lục cung chỉ có mình ả được cưng chiều, ngộ nhỡ mà ả sinh hoàng tử thật, vậy phải làm sao bây giờ?”


Còn chưa cam lòng, lại hỏi:
“Có khi nào đã đoán sai hay không, có thể là bị bệnh gì đó?”
Hoa phi nhấc một chén trà trên chiếc bàn trà cao cao, khẽ nhấp một ngụm, thở ơ nói:
“Mặc kệ có phải đoán sai hay không, dù gì chúng ta cũng phải kiếm cách, cho ả vĩnh viễn cũng không thể sinh được hoàng tử.”


Hàm phi thoáng rùng mình, nhớ tới cái truyền thuyết bí mật của người xưa trong cung, rằng trong thái y viện vốn có một phương thuốc gọi là “Cửu Xạ Thang”, là thứ thuốc âm đến độ lạnh buốt, vốn được truyền từ triều đại suy tàn của Chu Ai Đế, nghe nói không những có thể phá thai, mà còn gây vô sinh về sau. Cô ta giật mình sợ sệt nói:
“Khó . . . Nói . . . Chẳng lẽ . . . Đó là trọng tội bị liệt vào tội diệt nòi, nếu mà Hoàng Thượng biết được . . .”


Hoa phi cắt ngang lời cô:
“Hoàng Thượng làm sao mà biết, Hoàng Thượng cũng chỉ biết cô ta vô phúc, sinh không được em bé mà thôi.”
Hàm phi trầm mặc không nói, đêm dài tĩnh mịch, xung quanh tiếng côn trùng kêu lít nhít, chợt có cơn gió lạnh thổi tới, lồng vào áo người như muốn cất bay, Hàm phi bất giác nhìn về hướng có tiếng hát bay đến. Hoa phi cười lạnh nói:
“Đó là điện Thanh Lương đấy, nghe nói đêm nay lại mở dạ yến ca múa, say sưa mơ mộng, ả ta cũng thật là có phúc.”


Hàm phi vẫn im lặng, Hoa phi lại nói:
“Em cũng đừng lo lắng nhiều, nếu còn để kéo dài thêm nữa, ngộ nhỡ ả sinh được con, Hoàng Thượng nhất định sẽ lập con ả làm thái tử, tới lúc đó, cũng đừng có mà hối hận cho hoàng trưởng tử đấy.”


Hoa phi ngoảnh đầu lại nhìn, cách vài tấm mành lụa, vẫn có thể mơ hồ trông thấy con mình ngủ trên giường, sinh hài bé bỏng kia chính là toàn bộ hy vọng mà cô gửi gắm, là tương lai của cô. Cô nhất định sẽ không để con phải chịu tủi nhục, cuối cùng đã quả quyết nói:
“Em đều nghe chị là được.”


Hoàng trưởng tử vốn cũng chỉ bị sốt, chăm sóc chu đáo mấy ngày, dần dần hồi phục. Hàm phi theo lệ mang cậu bé đến vấn an Hoàng Thượng, vừa đúng lúc hoàng đế mới bãi triều trở về, đang thay đổi trang phục trong tẩm điện, nghe nói hoàng trưởng tử đến, lập tức cho triệu vào. Hàm phi tự mình dẫn hoàng tử lên điện, hai mẹ con thi lễ, vừa nói được mấy câu, đã nghe cung nữ truyền báo Thục phi tới.


Hàm phi cảm thấy chấn động tâm thần, không tự chủ được nắm chặt lấy bàn tay nhỏ bé của con, nghe thấy những bước chân khẽ khàng, bốn cung nữ đã dẫn Như Sương tới.


Điện về chiều, gió mát như nước, nàng mang trên người một dải áo lụa màu hồng nhạt kiều diễm, bước sen khoan thai, linh hoạt như chẳng hề chạm đất, người xưa vẫn thường gọi “sóng nâng nhẹ bước”, cũng chính là như thế này đây. Tà váy dài tha thướt của nàng khẽ phất qua sàn nhà trong sáng như gương không một tiếng động, trên nền gạch đen bóng hiện lên chiếc bóng mờ nhạt của nàng, con ngươi lấp lánh, toát ra một thấn thái mê ly khó nắm bắt, càng thêm phần xinh đẹp. Mà vẻ xinh đẹp kia dường như bị phủ một lớp voan mỏng, thấp thoáng ẩn hiện, làm người ta có cảm giác không chân thật.
Hàm phi còn đang thất thần, Như Sương đã tiến đến gần, nhẹ nhàng thi lễ:
“Kính gặp Hoàng Thượng.”


Hoàng Đế nói:
“Không phải là kêu không thoải mái sao, còn đi lên đây nữa.”
Như Sương đáp:
“Nằm mãi xương cốt đau nhức, muốn đứng lên một chút.”


Đôi mắt trong veo phẳng lặng như nước hồ thu đã liếc về phía Vĩnh Di:
“Đây hẳn là hoàng trưởng tử, ngày thường thực khó mà gặp mặt.”
Vĩnh Di nhỏ tuổi nhưng đã có chút hiểu biết, bước lên hành lễ theo nghi thức:
“Vĩnh Di kính gặp mẫu phi.”


Như Sương chợt nở nụ cười, dung nhan nàng vốn đẹp như tuyết, cười một cái, chẳng khác nào băng giá vỡ tan, tuyết lạnh cũng hòa vào xuân ấm, sự ấm áp dào dạt không có lời nào diễn đạt:
“Trẻ nhỏ thật thú vị.”


Hoàng Đế rất ít khi thấy được nàng cười sung sướng đến vậy, thuận miệng nói:
“Thật không ngờ nàng cũng yêu trẻ con.”
Lại tiếp:
“Qua mấy ngày nữa là đến sinh nhật hoàng tử. Tuy là trẻ con thì không thể mừng thọ, song vẫn mở yến tại Tĩnh Nhân cung, coi như bày tiệc giúp Hàm phi.”
Hàm phi lo sợ không yên, nói:
“Đa tạ Hoàng Thượng, thần thiếp sợ là. . . “


Hoàng Đế trước giờ vẫn không thể kiên nhẫn nghe cô ta nhiều lời, lại thấy Như Sương chẳng vui vẻ gì, chỉ phất tay một cái, lệnh cho Hàm phi cùng Vĩnh Di đều thối lui.
Thấy Hàm phi đã kính cẩn lui ra, Như Sương thở dài nói:
“Kỳ thực ta cũng không chán ghét cô ấy.”


Hoàng Đế mỉm cười hỏi:
“Vậy nàng chán ghét điều gì?”
Như Sương vươn tay, lòng bàn tay nàng nóng bỏng, đặt lên tay chàng, tựa như một cái bàn ủi, chàng chỉ cảm thấy mu bàn tay nóng rực, môi nàng phảng phất ý cười nhẹ:
“Ta chính là chán ghét chàng xem nhẹ những người đàn bà  quanh mình.”


Hoàng Đế bật cười một tiếng, nói:
“Nói cứ như thật ấy nhỉ.”
Như Sương chậm rãi thở dài, nói:
“Người ta đối với chàng thật lòng, nhưng chàng chưa một lần đáp trả.”


*********************************


Mồng chín tháng sáu chính là sinh nhật hoàng trưởng tử, yến tiệc được tổ chức trong Tĩnh Nhân cung, ngay cả người trong cung của Thục phi Mộ thị cũng đều đến đưa lễ vật. Hàm phi nghe nói Như Sương sẽ đến cùng Hoàng Đế, cực kỳ không thích, trao đổi ánh mắt với Hoa phi, đoạn đứng dậy chào đón.


Thời tiết tuy nóng, song hàng mái hiên của Tĩnh Nhân cung rất sâu, vô cùng mát mẻ. Tuy là bữa tiệc thân mật, song vẫn mỗi người một chiếu, bày đủ sơn hào hải vị. Tâm tình của Hoàng Đế rất tốt, tự mình gọi hoàng trưởng tử đến ngồi  bên cạnh. Như Sương cũng ngồi một bên Hoàng Đế, chỉ là khác chiếu. Gần đây khẩu vị của nàng không tốt, chỉ ưa ăn đồ lạnh, cho nên phòng bếp vì nàng chuyên làm món canh mơ xanh. Trong bát canh mơ thả một miếng băng, hương lạnh bốc lên, dùng thìa bạc quấy, đá vụn va vào nhau tạo những âm thanh nho nhỏ. Vĩnh Di không kìm được nhìn một cái, cậu bé tuy còn nhỏ tuổi, song cực kỳ hiểu chuyện, cố gắng dằn mình đừng nhìn sang đó nữa.


Như Sương tiện miệng nói:
“Canh này quả thực ngon lắm, cũng dâng một chén đầy cho hoàng trưởng tử đi.”
Cung nữ theo mệnh cũng dâng một chén cho Vĩnh Di, Vĩnh Di rời bàn hành lễ cảm ơn, xong mới lên nhận ban thưởng. Mãi mới xong tiệc, nội quan dâng trà lên, Hàm phi nói:
“Ở chỗ thần thiếp cũng chẳng có trà gì ngon, đây là trà Đinh Giác Hương Vụ năm nay, thỉnh Hoàng Thượng cùng Hoa phi, Thục phi thưởng thức.”


Trái tim trong ngực cô ta thời khắc đó cũng chỉ như muốn thót lên tận cổ họng, cứ nện thình thịch, chắc sắp phá cả lồng ngực mà nhảy ra, ngay cả lời nói cũng vô cùng gượng gạo.
Hoa phi thì ngược lại vô cũng bình tĩnh, cười nói:
“Chúng ta đều là kẻ phàm nhân, uống trà nào cũng chỉ như trâu ăn mẫu đơn (như Trư Bát Giới ăn quả nhân sâm), mà Thục phi đã thưởng qua đủ loại trà ngon, vậy thỉnh cho đôi câu bình luận.”


Như Sương đáp:
“Xin thứ lỗi, ta trước giờ vẫn không uống trà Hương Vụ.”
Hoàng Đế cười nói:
“Nàng thực đúng là cái đồ xảo trá tinh quái mà.”
Hàm phi lại như trút được gánh nặng, Hoa phi thì vẫn làm vẻ tự nhiên, nói:
“Thục phi nếu như không muốn uống, vậy thì chúng ta cũng đành uống vậy.”
Lại tinh tế cùng đàm luận trà đạo với Hàm phi. Mà trên trán Hàm phi thì đã rịn mồ hôi, chỉ có cứng họng, cơ hồ ngay cả nói đều không nổi. Hoa phi hung hăng lườm cô ta một cái, cô ta mới tạm trấn định. Hoàng Đế cùng Như Sương cũng chỉ ngồi chơi một lúc, sau đứng dậy đi về.


Kiệu loan đưa đến mọi người đều thối lui, Hàm phi lúc bấy giờ mới kinh hồn bạt vía mà nói:
“Chị ơi, không thành công, tim em chỉ muốn nhảy ra ngoài, không thành công rồi.”
Hoa phi nói:
“Cô ta chẳng phải không có uống trà sao? Cô còn sợ cái gì? Lần này không thành, sẽ có lần sau.”


Hàm phi xem chừng đã phát khóc rồi:
“Hay là chúng ta thôi đi, em chỉ thấy đại họa giáng xuống đầu, ngộ nhỡ mà Hoàng Thượng biết . . .”


Hoa phi thở dài:
“Chuyện này cũng chỉ là vì Vĩnh Di, nếu em đã quyết định thế, người ngoài như chị nói phỏng có ích gì. Thôi thì chúng ta dừng tay, để mặc cô ta vậy đi. Đến lúc con trai cô ta được lập Thái tử, cô ta lên làm Hoàng Hậu rồi, chúng ta chỉ cần ả xuống tay lưu tình, chỉ cần cứ bày cái mặt cho ả giày xéo, thì muốn sống cũng đâu có khó gì!”


Hai hàng lông mày của Hàm phi nhíu chặt, cắn môi không nói, chợt nghe có tiếng bước chân dồn dập, từ xa tiến lại. Hai người bọn họ vốn đuổi lui mọi người mà nói chuyện bí mật, cực kỳ cảnh giác, Hàm phi cao giọng hỏi:
“Ai?”


Có tiếng cung nữ hoảng sợ nói:
“Nương nương, không xong rồi, tiểu hoàng tử bỗng nhiên kêu đau bụng, hiện giờ còn đang đau đến lăn lộn.”


Chỉ nghe “xoảng” một tiếng, Hàm phi đã đánh vỡ chén trà, trong lòng cô thất kinh, nhắm thẳng bên ngoài mà chạy. Hoa phi hoảng hồn, cũng vội vã chạy theo tới Thiên điện. Từ xa đã nghe thấy tiếng khóc lóc khẩn thiết của vú em, mấy bà vú đều rơi lệ đầy mặt, đứng quanh Vĩnh Di, tay chân luống cuống. Hàm phi thấy khuôn mặt nhỏ nhắn của con trắng bệch, miệng sùi bọt mép, toàn thân run lẩy bẩy không ngừng, hít thở gấp gáp, vốn đã bất tỉnh nhân sự. Hàm phi chỉ thấy trời đất quay cuồng, thân hình mềm nhũn, xém chút cũng muốn ngất đi. Hoa phi vội vàng nói:
“Gọi ngự y!Mau gọi ngự y!”


Đã sớm có cung nữ chạy đi rồi, Hoa phi lại nói:
“Đi khiển người bẩm báo Hoàng Thượng, mau!”

********************************

Như Sương ra mồ hôi lạnh đầy đầu, tứ chi run rẩy, ngón tay vô lực túm lấy góc chăn, ngay cả hít thở cũng làm không nổi. Nàng cắn nát môi mình, một đường tơ máu từ khóe miệng chảy xuống, răng nanh ngập sâu vào trong môi, cắn đến nỗi đôi môi cũng trắng bệch. Sắc mặt nàng cũng bợt bạt đến đáng sợ, lăn lộn trên giường, trong bụng đau đớn kịch liệt làm nàng chỉ muốn hét to lên, thế nhưng cuối cùng chỉ phát ra một tiếng rên rỉ mơ hồ.

Không bằng chết đi, đau đớn như vậy, thà chết đi cho rồi.
Trong cơ thể như có một con dao nhỏ bén nhọn, cắt đi từng phần từng phần huyết nhục, muốn mổ banh cả người nàng ra. Cơn đau đớn cứ lần lượt dâng lên, nàng kiềm chế đến cực hạn, nức nở tưởng như sắp chết.


Nàng lại nhớ về cái buổi sáng khốc liệt ấy, bản thân bướng bỉnh túm lấy tay của mẹ, có chết cũng không chịu buông, đến nỗi tên cai ngục cầm roi da ra sức quất, roi nóng bừng hằn từng vết trên người nàng, đau muốn nhảy dựng lên. Thế nhưng như thế cũng không khiến cho nàng thả, chỉ càng làm cho nàng điên cuồng mà khóc thét lên:
“Mẹ ơi! Mẹ ơi! ”

Không . . . Không . . . Nàng vĩnh viễn sẽ không khóc . . . Một giọt nước mắt thật lớn đã trào ra nơi khóe mắt, huyết nhục tróc ra từng mảng đau đớn bóp nát thần trí của nàng, nàng phải dùng hết sức lực, mới có thể phát ra âm thanh yếu ớt:
“Đinh Thuần . . .”

Hoàng Đế đã lo lắng phát điên, cứ đi qua đi lại trong phòng, chẳng khác nào con thú đang bị vây khốn. Bỗng nghe thấy giọng nói của nàng, giống như đang nguyền rủa, bị nàng tuyệt vọng mà gọi như vậy, cách một khung cửa sổ, cách nhiều người như vậy, cách mưa gió nặng nề trong đêm đen, nàng trăn trở khóc lóc, âm thanh kia sao mà ai oán thế lương đến cắt lòng:
“Định Thuần . . . Định Thuần. . . “


Tâm giống như bị tùng xẻo tàn khốc, khoét lở hàng trăm lỗ thủng, máu tươi đầm đìa, mỗi một giọt đều đau tận xương cốt.
Nàng đang gọi chàng , nàng vẫn luôn ở đó gọi chàng . . . cho đến tận lúc sinh mệnh đứt lìa, chàng cũng không có ở nơi đó.
Hai mắt chàng đỏ lên, chợt xoay người, bước nhanh về hướng cửa điện. Triệu Hữu Trí phát hoảng, “huỵch” một tiếng đã quỳ sụp xuống mà ôm lấy chân chàng:
“Vạn Tuế gia, Vạn Tuế gia, không thể vào được!”


Hoàng Đế càng thêm cấp bách, trong lúc vội vã lại thoát không ra, nội quan tiến lên càng nhiều, quỳ quỳ ôm ôm, mà chàng thì vung chân đá loạn xạ, ngay cả giọng nói đều đã trở nên hổn hển:
“Kẻ nào dám ngăn trẫm, hôm nay trẫm sẽ lấy mạng kẻ đó.”


Triệu Hữu Trí tựa hồ là đã muốn khóc:
“Vạn Tuế gia, hôm nay mà ngài có muốn giết nô tì, nô tì cũng không thể để cho ngài vào.”


Răng của Hoàng Đế va vào nhau lách cách cả khuôn mặt cũng như biến dạng đi, hơi thở phì phò, thình lình vận sức xô một cái, mấy tên nội quan té nhào, thế mà vẫn lóp ngóp túm chặt lấy chân chàng. Hoàng Đế giận dữ, giật lấy cái bình hoa bên cạnh, dùng sức ném thẳng lên đầu Triệu Hữu Trí, mạnh tới mức Triệu Hữu Trí u đầu bể trán, chảy máu đến xém chút hôn mê bất tỉnh. Mấy tên nội quan rốt cuộc sợ tới mức buông thõng tay, Hoàng Đế chỉ vài bước đã vọt tới cửa, đang muốn đưa tay đẩy cửa, ngoài điện đã có tiếng nội quan hốt hoảng bẩm báo:
“Vạn Tuế gia, Hoa phi nương nương phái người cầu kiến.”


Hoàng Đế cũng chẳng thèm quay đầu, rống lên:
“Cút!”
Ngay đó đã đá phanh cánh cửa nội điện, ngự y bà đỡ cùng các cung nữ trong phòng thất kinh quay đầu lại, nội quan kia vẫn dập đầu run giọng nói:
“Vạn Tuế gia, Hoa phi nương nương nói, hoàng trưởng tử không xong rồi.”


Hoàng Đế lúc này đã bước vào bên trong, nghe được một câu như vậy thân hình khựng lại một chút, chậm chạp xoay người, thình lình cúi xuống dùng sức túm lấy cổ áo tên nội quan, giọng nói khàn đục:
“Ngươi nói cái gì?”
Nội quan kia đã sợ tới mức run lẩy bẩy, chỉ thấy hai mắt Hoàng Đế như ánh chớp, lạnh lùng nhìn chăm chăm vào mình thì lắp ba lắp bắp:
“Hoa phi nương nương . . . sai người đến đến cấp tấu, nói là hoàng trưởng tử không xong rồi.”


Âm thanh phía sau dần trở nên xa vời, những tiếng thì thầm ong ong, tiếng ngự y vội vã sai bảo, tiếng cung nữ chạy tới chạy lui, còn có tiếng kêu đau thương điên cuồng của nàng, nháy mắt mọi hình ảnh đều trở nên mờ mịt. Qua hồi lâu, chàng mới hồi phục tinh thần:
“Hoàng trưởng tử như thế nào?”


Nội quan lắp bắp bẩm tấu ngọn nguồn, nghe được vài câu liền trầm giọng ra lệnh:
“Khởi kiệu!”
Đoạn bước ra cửa, phía sau vẫn truyền đến tiếng rên rỉ khe khẽ, khổ sở như thế, tuyệt vọng như thế, bất lực như thế:
“Định Thuần . . .”


Tựa như một thanh đao bén nhọn đâm xoay vào trong tâm, cắt đứt từng đoạn ruột gan con người. Chàng không thể không quay đầu lại, lúc này quay đầu, liền không có cách nào rời đi. Bàn tay nàng co quắp trên không trung, muốn bắt cái gì mà không thể, cả thân hình đau đớn vặn vẹo trên giường, máu đã thấm ướt tấm đệm dưới thân nàng, cả người nàng như bị những chiếc đinh vô hình đóng cứng , co quắp đến đáng sợ. Nàng chảy nhiều máu như vậy, tưởng như toàn bộ máu trong người đều đã chảy ra hết. Nàng thoi thóp, đã không còn một chút sức lực nào, âm thanh líu ríu kia như tiếng nỉ non, giống như chỉ là một âm rung sau cùng, cố đọc rõ từng chữ mà vẫn mơ hồ:
“Ta muốn chàng . . . ở đây . . .”


Chuyện xưa lại ồ ạt dội về, sinh mệnh trong cái đêm mưa rét buốt chưa từng có ấy, từng tấc từng tấc đều là hơi thở cuối cùng của nàng . . .
Chàng siết chặt tay nàng, tay nàng lạnh đến đáng sợ, cứng ngắc, chàng cùng nàng mười ngón tay giao nhau, tựa như muốn tiếp thêm sức mạnh cho nàng, ghé bên tai nàng nói:
“Ta ở đây.”

Miệng nàng hơi hơi ngáp ngáp, âm thanh phát ra càng thấp, chàng không thể không ghé tai bên môi nàng, mới có thể nghe rõ:
“Đứa bé . . .”
“Không sao.” Chàng ngây ngốc an ủi.” Đứa bé nhất định không sao, nàng cũng không sao cả, ta ở đây, ta luôn luôn ở đây cùng hai người mà.”


Ánh lệ trong suốt chợt lóe lên, lại một giọt nước mắt rất lớn chảy ra từ khóe mắt nàng, đậu trên ống tay áo của chàng, chậm rãi ngấm vào trong những đường hoa văn rồng vàng, thoáng chốc chẳng còn tăm hơi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

96#
Đăng lúc 19-6-2013 11:57:00 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16: LÁ SEN QUẦN VẢI MỘT SẮC NGỜI


Trời nóng như  phun lửa xuống nhân gian.
Đường núi thẳng tắp, hai bên sườn chẳng hề có một bóng cây che, những tảng đã bị ánh nắng chói chang hun nóng đến mức phát ra tia sáng, vó ngựa bước trên đường mà đã sắp tóe ra lửa đến nơi.


Một đội hình cả hàng trăm người đi men theo rìa núi quanh co khúc khuỷu, sau giờ ngọ, một ngọn gió cũng không cảm nhận được. Mười bảy người đi ngựa chính là các thủ lĩnh hộ vệ mặc quân phục, ba mươi tư con ngựa cũng được huấn luyện cực kỳ chu đáo, mỗi bước chân đạp xuống đều răm rắp, giống như tiếng trống đều nhịp. Cờ xí có hơn mười chiếc đều rủ xuống bên cột, trên đường đi cũng thỉnh thoảng phất lên đôi cái, lộ ra tấm cờ hiệu màu đen có thêu hoa văn rồng vàng, rõ ràng là nghi trượng  dành cho vương gia.


Bọn thị vệ thì sớm đã ra mồ hoi ướt đẫm cả áo ngoài, phơi giữa nắng thì khô, rồi lại ra mồ hôi, lại ướt, lúc bây giờ lớp áo trong đã đọng thành một lớp váng trắng, nhưng cũng chỉ dám im lặng mà thúc ngựa đi.
“Thời tiết con mẹ nó nóng như chó!”
Có một giọng thiếu niên thì thào nói.
“Phì!”


Từ Trường nhịn không được rốt cuộc cười ra tiếng, gã mặc dù chỉ khoảng trên dưới hai mươi tuổi, nhưng thân là nội thị thân cận, lập tức thu lại nụ cười, làm ra vẻ một ông cụ non, hầm hố nói:
“Thập nhất gia, thân phận ngài cao quý, không thể cứ tùy tiện mở mồm là lại con mẹ nó.”


Người thiếu niên này quả thực rất khôi ngô, mi thanh mục tú đẹp một cách kỳ lạ, khóe miệng hơi trễ xuống, vẻ mặt cực không đồng tình.


Từ Trường thầm nghĩ trong lòng, các hoàng tử của Ngu thị quả nhiên đều có tướng mạo xuất chúng, chẳng trách ngày Kính Thân Vương vừa mới nhập ngũ, mọi người ai cũng có ý khinh thường, đặt cho cậu cái biệt danh “anh chàng mặt phấn”, chính là muốn chế giễu cái vẻ đẹp trẻ con của cậu. Không ngờ vị thân vương tuổi thiếu niên này mấy năm qua lăn lộn đánh đấm, ăn bờ ở bụi, xông pha chiến đấu mà ngay cả đầu mày cũng chẳng hề nhăn nhó một lần.


Tôi luyện giữa mảnh đất sương gió gian nan phía Bắc Trường Thành, thế nhưng cơ thể cũng không tráng kiện hơn được chút nào, vẫn cứ là một vẻ anh tuấn mà yếu ớt như vậy, chỉ có ánh mắt là đã dần ẩn chứa một tia nhìn sắc bén, rất có khí phách ngang ngược.


“Một mực phải đi kinh thành, ngay cả chửi con mẹ nó cũng chẳng cho.”
Kính Thân Vương thật ảo não.
“Ngẫm lại thực chẳng có gì hứng thú.”


“Vương gia, nếu gặp được Hoàng Thượng, cũng không cho phép nói như vậy đâu đấy.”


Trên mặt Từ Trường cũng ẩn chứa ưu sầu. Tây Trường kinh không giống như vùng quan ngoại, có thể tùy tiện mà cười nói hỉ hả, nhất cử nhất động, không biết có bao nhiêu người đang dòm ngó, huống chi Hoàng Đế và Kính Thân Vương vốn là anh em cùng một mẹ sinh ra, trước giờ cũng đã có hiềm khích thầm kín.


Kính Thân Vương dáng vẻ thì yếu ớt, nhưng trời sinh lại có cái tính nóng nảy, một khi đã nổi bướng lên thì ai cũng không ngăn được, cho nên trong lòng Từ Trường vẫn cứ lo ngay ngáy, chỉ sợ sẽ gây cãi lộn ngay giữa ngự cung. Kính Thân Vương bèn an ủi gã:
“Ta đã biết phải nói gì rồi mà.”


Khóe miệng khẽ nhếch, chợt có một vẻ mặt nghiêm trang khó thấy:
“Ngươi yên tâm đi.”


Đi suốt ba ngày không ngừng nghỉ, giữa trưa mới vào được đến trong kinh thành Tây Trường. Bên ngoài thành, cách chừng mười dặm, có một khu vực gọi là “Đình nghỉ chân”, từ trước đến nay quan lại văn võ mỗi lần rời kinh hay trở về, đều được nghênh đón đưa tiễn tại chỗ này. Nói là đình, thực chất cũng chỉ là một tòa lầu hình bát giác nhỏ, nằm ở một bên đường lớn. Bên lề đường, dương liễu lả lướt rủ cành, thấp thoáng lộ ra một góc lan can màu đỏ chót của lầu nhỏ, tiếng ve râm ran cả ngày.


Lúc này mồ hôi đã mả mướt như mưa, phủ doãn(chức quan cai trị đứng đầu kinh thành) Trường kinh đã sớm phái người ra đón, bước lên trước hành lễ, song Kính Thân Vương xưa nay vốn ghét lễ nghi rườm rà, vội cho người ngăn lại.
Gã quan chạy việc cũng hết sức thức thời:
“Tiết trời nóng quá, thỉnh Vương gia bước vào trong lầu nghỉ ngơi hóng mát.”


Những lời này quả thực đầy ý quan tâm. Đến lúc bước vào trong lầu, bốn mặt xung quanh đều rợp bóng râm, nhà chính thì vừa sâu vừa rộng rất mát mẻ, toàn bộ mồ hôi đều tản đi, cảm giác nhẹ nhàng thoải mái vô cùng.
Đã sớm có trà nước cùng trái cây ướp lạnh được chuẩn bị sẵn, Kính Thân Vương lên đường gấp rút giữa cái nắng đổ lửa, tới lúc này mới cảm thấy khắp người ngay cả từng lỗ chân lông đều nở ra một cách khoan khoái. Thấy được bốn bề cửa sổ chạm khắc đều được mở thông, gió mát cuồn cuộn thổi vào trong lầu, cực kỳ mát mẻ. Phóng tầm mắt ra xa còn có núi non xanh biếc như bức họa đồ, chính là núi Tây Sơn. Mà phía xa  mé đông tường thành trông lúc nhúc những mái nhà, chìm ngập trong làn ánh sáng mờ ảo, quả nhiên là Tây Trường kinh mười dặm hồng trần.


Từ Trường thấy cậu đăm chiêu, vội hỏi han:
“Vương gia, nước ô mai này vừa mát lại mang vị ngọt ngọt chua chua, quả thực là loại ngon tiêu chuẩn.”
Kính Thân Vương nhoẻn miệng cười, một hơi uống cạn nước ô mai trong ly, trong miệng sinh tân dịch, không khỏi khen ngợi:
“Ngon thật đấy.”


Gã nội quan chạy việc vội vàng tiến lên cười nịnh:
“Được một câu khẳng định này của Vương gia, chính là phúc phận hãnh diện của hạ thần.”


Kính Thân Vương ra kinh hơn một năm, đã lâu không nghe cái loại a dua nịnh hót như vậy, chỉ thấy buồn nôn, không thèm để ý đến gã này nữa, đặt tách trà xuống, thong thả bước đến bên cửa sổ, nhìn về phía xa xa. Bỗng thấy trên đường có vài cỗ xe ngựa vách dầu nhẹ nhàng lướt qua, ba bốn chiếc xe đều được trang trí lộng lẫy, trong đó có một chiếc cực kỳ nổi bật, toàn thân xe màu đỏ thẫm, màn trướng buông rủ. Kính Thân Vương thấy cỗ xe do một tên đầy tớ cưỡi con ngựa cao lớn bảo hộ, cũng chỉ nghĩ hẳn là nữ quyến trong nhà quan lại trở về kinh thành.


Thình lình có một ngọn gió thổi qua, mành xe chợt phất lên, lộ ra một lớp rèm lụa mỏng, hoa văn được thêu bằng kim tuyến, dưới ánh mặt trời lấp loáng như một dải bạc, chồng chéo đan xen đập vào mắt con người.


Nguyên là thân vương còn đang ở đây, cho nên mấy chiếc xe kia chỉ đành tạm dừng lại, phía sau xe lập tức có một gã đầy tớ phi ngựa lên muốn thương lượng, song Vương gia thân phận tôn quý, hơn hẳn trăm quan, tuyệt nhiên là không có cái đạo lý nhường đường. Đôi bên tranh chấp mấy câu, mà gã đầy tớ thì hết sức ngạo mạn, nói:
“Hắn có là ai mà ở chỗ này, cũng đều phải tránh đường hết cho ta.”


Hộ vệ của Kính Thân Vương vẫn ăn nói hết sức chuẩn mực, rằng:
“Theo “Luật Đại Ngu”, trăm quan từ trên xuống dưới, mỗi khi gặp nghi trượng của Vương gia thì đều phải lánh đi.”
Gã đầy tớ liên tục cười gằn, nói:
“Còn dám lôi “Luật Đại Ngu” ra mà dọa người, ngươi cứ chờ đó.”


Rồi gã giơ roi giục ngựa chạy trở về, lại xuống ngựa hướng vào chủ nhân trong xe mà bẩm báo.
Kính Thân Vương vốn là con người trong thô lỗ lại có tinh tế, gặp sự tình kỳ quặc như thế, cũng chỉ gọi Từ Trường đi xuống xem xét. Từ Trường nhìn kỹ mấy cỗ xe ngựa, cũng chẳng thấy có gì khác thường, quay lại bẩm báo với Kính Thân Vương:
“Hình như đều là nữ quyến thì phải.”


Kính Thân Vương nói:
“Nếu đã là thân bằng nữ quyến, vậy ta nhường một chút cũng có làm sao.”
Đoạn lệnh cho đội quân  tránh sang một bên, để cho xe ngựa đi qua trước.


Bọn tôi tớ của đối phương thế nhưng lại còn kiêu căng ngạo nghễ, nhất định không chịu tạ ơn, cũng chẳng thèm xuống ngựa, cả đoàn cứ nghênh ngang mà đi như vậy.


Kính Thân Vương đứng yên lặng bên cửa sổ, xe ngựa đi rất chậm, chợt bắt gặp từ trong chiếc xe màu đỏ son, tấm mành lụa bạc được vén lên một góc. Ánh mắt trời chiếu lên hoa văn kim tuyến vốn dĩ đã rất lóa mắt, thế nhưng dung mạo như đóa hoa phù dung hé ra từ phía sau rèm kia, nháy mắt thoảng qua như cánh hồng nhạn, trông lại càng chói ngời hơn cả cái nắng tháng sáu. Kính Thân Vương chỉ cảm thấy chấn động tâm thần, mà tấm rèm lụa kia thì đã buông xuống mất rồi. Chàng nghi mình hẳn đã hoa mắt, song dung nhan chỉ hé lộ trong khoảnh khắc như ánh chớp lằn ấy, rạch ngang bầu trời tối tăm tĩnh mịch, rất lâu sau đó vẫn còn lưu lại một đường cung lửa giữa màu xanh u thẳm, khiến kẻ khác thần tình mê mẩn.


Chàng nhìn đoàn xe ngựa cứ đi xa dần xa dần, không hiểu sao dâng lên một cảm giác phiền muộn chưa từng có. Bỗng nhiên những lời dạy của sư phụ ngày còn thơ ấu chợt nảy lên trong tim.
“Sông dài núi rộng biết tìm nơi nao…”


Từ Trường vỗ tay cười sằng sặc:
“Cái kiểu văn thơ tắc tị của Vương gia, một câu văn đã toan đánh rụng cả hàm răng của đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc rồi.”


Kính Thân Vương vốn đã quen đùa giỡn với gã, thẹn quá hóa giận, giả vờ đạp cho gã một cước.
Kính Thân Vương là bởi vì phụng chỉ về kinh, cho nên vừa thay y phục liền tiến cung yết kiến, Từ Trường vẫn còn lo chàng sẽ nổi tính khí lên, cứ dặn đi dặn lại:
“Gặp Hoàng Thượng, trò chuyện chốc chốc phải cẩn trọng, ngài vốn quen tính tùy tiện, nếu mà truyền đến tai người ta, không chừng lại sinh ra đủ chuyện rắc rối.”


Kính Thân Vương vừa trở về kinh đô, đã cảm thấy chân tay bị trói buộc, chỉ luôn rầu rĩ không vui. Đến tận lúc lên kiệu rồi, Từ Trường vẫn còn lo lắng mà kéo ống tay chàng, thì thầm cực nhỏ:
“Thập Nhất gia, cũng nên vì Hiếu Di Hoàng thái hậu mà nhẫn nại một chút.”


Kính Thân Vương phì cười:
“Ngươi cứ yên tâm, ta tuyệt sẽ không đánh nhau với hắn là được.”
Rời cung đã hơn một năm, quả thực tính nóng nảy đã bớt đi rất  nhiểu, vào triều, đứng ở phía sau cửa điện Vĩnh Thái mà hầu chỉ, Triệu Hữu Trí tự mình bước ra nghênh đón, cười hì hì nói:
“Hoàng Thượng vẫn còn đang nghỉ trưa, thỉnh Vương gia cùng nô tì đi “Thanh Phong Minh Nguyệt các”, nơi đó mát mẻ, chốc nữa Vạn Tuế gia cũng sẽ đến đó triệu kiến Vương gia.”


“Thanh Phong Minh Nguyệt các” kỳ thực là một tòa cung điện có quy mô tương đối ổn, nằm ở bên bờ hồ Thái Dịch, vốn là nơi đọc sách của chư vị hoàng tử, Kính Thân Vương cũng đã từng khổ luyện đèn sách nơi đây mười năm. Lúc bấy giờ đi theo Triệu Hữu Trí bước vào điện, thấy giữa điện, toàn bộ đồ đạc bài trí đều đã thay đổi, không còn chút dấu tích nào của ngày xưa nữa, tâm trạng không khỏi thấy buồn xốn xang.


Triệu Hữu Trí đưa được chàng đến tận nơi rồi, sợ Hoàng Đế đã tỉnh, bèn lập tức quay trở về điện Thanh Lương, chỉ còn một tên tiểu thái giám ở lại hầu trà.


Kính Thân Vương không kiên nhẫn chờ lâu, thấy trong điện ngoài điện đều một mực nghiêm trang, Tiểu Hoàng Môn cũng cúi đầu chắp tay, đứng hầu phía sâu trong đại điện. Chàng lững thững bước thong thả ra hành lang phía sau điện, hành lang vắng vẻ này vốn xây vươn ra trên nước, bên dưới chính là nước hồ Thái Dịch xanh ngắt sâu thẳm.


Thời điểm nắng gắt ngày hè, dõi mắt nhìn lại, thấy lá xanh sen hồng trong ao Thái Dịch, tầng tầng lớp lớp nối nhau chạy thẳng về phía chân trời. Mà ngay cạnh lan can đỏ thắm này, lá sen như màu ngọc bích phủ trùm, tươi đẹp thanh khiết, còn có một vài phiến lá nghiêng nghiêng ngả vào bên trong lan can. Lá to bằng cả cái bánh xe, lúc nha lúc nhúc, mà ở giữa những lá sen trùng điệp lại chợt vươn lên một nhánh hoa, giống như một nét bút son chắc nịch, chấm phá sắc nét tựa hồ không bao giờ phai.


Bốn bề đều là hương hoa thơm ngát, pha lẫn vào hơi thở thanh thoát của đám lục bình, chầm chậm phả vào mặt, khiến người ta sảng khoái tinh thần.


Còn đang lúc bồi hồi, ở giữa đám lá sen rậm rạp như rừng chợt truyền đến tiếng cười trong trẻo. Chàng ngỡ là mình đã nghe lầm mất rồi, một lúc sau, lại nghe tiếng cười của con gái vang lên như chuông, trong veo vô ngần còn hơn trước, kêu lên:
“Ái chà, không được rồi…”


Chợt thấy lá sen lay động, từ sâu trong hồ biếc có một chiếc thuyền bé bơi ra, lá  lùa kêu loạt xoạt bên mạn thuyền, hỗn độn mà tẽ ra hai bên. Con thuyền rất nhỏ, trông như một chiếc thoi ngọc, chỉ nháy mắt đã xuyên qua đám hoa lá mà đi đến.
Trên thuyền có hai người, thiếu nữ cầm chèo đứng ở đuôi thuyền đã trông thấy Kính Thân Vương, không khỏi cúi mặt kêu lên một tiếng. Thiếu nữ ngồi nơi mũi thuyền thì đặt ngang chiếc mái chòe bên mạn, trong tay vẫn còn cầm một cành sen hồng, trông thấy có người đàn ông lạ mặt đứng lặng trên hành lang, vội vội vàng vàng đưa ngang cành hoa lên che mặt đi.


Trên đóa sen hồng cứ cánh này xen vào cánh kia, như mây tựa sắc, càng tôn lên một đôi cánh tay nõn nà trắng tựa sương mai. Hai con ngươi đen nháy màu nước sơn, lấp ló giữa tầng tầng lớp lớp cánh hoa, nhìn Kính Thân Vương, chẳng khác nào hai viên thủy ngân đen, trong suốt lấp lánh không thôi.


Kính Thân Vương bắt gặp một nửa khuôn mặt hé ra ấy, cũng xinh đẹp động lòng người như cánh sen rung rinh bên gò má nàng, bất chợt nhớ đến dung nhan kia, thốt lên:
“Là nàng!”


Nàng bối tóc hai bên, dải tóc mây đen nhánh đến châu ngọc cũng không thể sánh, người vận một bộ y xanh lục bằng lụa mỏng manh, màu xanh của váy rất nhạt, chẳng khác nào phiến lá sen vừa chớm mở. Cô gái vận trang phục dân gian mà đi ngắt hoa sen, không ngờ có thể gặp nhau trong cung, mặc dù nàng ăn mặc vô cùng giản dị, song nụ cười chúm chím xinh đẹp lại toát ra một phong thái tao nhã hơn người, dung mạo mờ ảo như thế, thực khó mà miêu tả thành lời.


Cô gái đang cầm mái chèo bối rối đứng lên, muốn hành kễ với Kính Thân Vương, mà chiếc thuyền con vốn cực hẹp, người hoảng loạn làm cho nó chòng chành. Cô gái vận đồ xanh cúi đầu kêu lên, vội vàng vứt vật trong tay mà giữ lấy mé thuyền, hoa sen kia rơi tõm trong làn nước biếc, vô cùng đẹp mắt. Tuy nhiên. mắt thấy cô gái áo xanh lúc này đã sắp rơi xuống nước, Kính Thân Vương hoảng hốt la lên:
“Cẩn thận!”

Trông tình thế cấp bách chỉ muốn đưa tay ra đỡ, thế nhưng khoảng cách không cho phép, cho nên cũng vô dụng. Cô gái cầm chèo luống cuống tay chân, chiếc thuyền bé quay quay một vài vòng, cuối cùng cũng ổn định trở lại. Cô gái cầm chèo bấy giờ mới thản nhiên cười nói:
“Cũng không thể đứng lên mà hành lễ chào hỏi, thỉnh Vương gia thứ tội.”

Kính Thân Vương từ trước đến nay cũng chẳng buồn truy cứu mấy chuyện này, chàng đoán hai người này nhất định là cung nữ, không biết vì sao lại đi hái hoa sen, chỉ thấy cô gái vận đồ xanh hồn nhiên xán lạn, tâm sinh cảm tình, hỏi:
“Các cô là người của ai trong cung?”


Cô gái áo xanh nhìn cô gái cầm chèo, cô gái cầm chèo mỉm cười nói:
“Không thể nói cho Vương gia được.”


Bên môi cô lại nở một nụ cười tinh quái:
“Các nữ quan, tu nghi đều đang ngủ trưa, cho nên chúng tôi mới lén chuồn ra ngoài chơi, Vương gia quay về mà nói cho người ta là chuyện của chúng tôi hỏng bét cả.”


Vẻ mặt nàng xinh xắn vui tươi, có những lời nói như vậy nhưng cũng không làm người ta thấy ghét, Kính Thân Vương không thể không nói:
“Đương nhiên ta sẽ không nói cho ai.”


Cô gái cầm chèo cười cười:
“Cám ơn Thập Nhất gia.”


Cô gái áo xanh thì vẫn không nói lời nào, ngồi ở mũi thuyền, tùy tay nghịch nước, mặt hồ gợn sóng, nước theo kẽ ngón tay nõn nà của nàng chảy xuống, tựa như một chiếc lược bằng ngọc trắng, chải xuống vô số những dải lụa tơ tằm xanh biếc cực nhỏ.


Kính thân Vương nhìn vạt áo đơn của nàng bị gió hồ thổi lay động, ống tay áo phơ phất như muốn bay lên, sóng dồn lấp lánh, bóng nàng in trên mặt nước, như phiến lá khẽ nghiêng, mang theo nét thanh tao tươi đẹp khó mà diễn tả. Tự cổ chí kim vẫn luôn ví người đẹp như hoa, không ngờ hôm nay được tận mắt nhìn thấy, rốt cuộc mà ví như lá xanh, rực rỡ không thua nửa phần.


Đúng lúc sợi tơ trên ngọn cờ lòng đang khẽ lay động, chợt nghe từ phía xa xa vang lên tiếng vỗ tay, chính là kiệu loan của Hoàng Đế từ trong cung đang đi đến, nội quan vỗ tay là để làm hiệu, tiếng vỗ tay đã nghe càng ngày càng gần. Trong lòng chàng khẽ rùng mình một cái, nghĩ đến từ nay về sau có thể sẽ không còn có duyên gặp mặt, vội hỏi cô gái áo xanh:
“Cô tên là gì?”


Cô gái kia chỉ cười mà không đáp. thuận tay nhặt đóa hoa sen vừa rơi xuống nước lúc nãy, từ xa mà ném về phía chàng. Chàng đón lấy trong tay, hoa sen ấy vẫn còn vương nước hồ mát lạnh, những hạt nước li ti đọng lại, thấm ướt lòng bàn tay, chậm rãi chảy từ cổ tay vào trong ống tay áo, cảm giác tươi mát mà diệu kỳ, tựa như đã có một cái gì đó chảy vào trong cõi lòng.


Cô gái đứng ở sau mũi thuyền đã bắt đầu động mái chèo, chiếc thuyền bé xoay mũi, lại một lần nữa tiến vào sâu trong đám lá. Lá sen lay động hỗn loạn, bóng chiếc thuyền đã xa dần, ở phía xa xa ấy, vẫn thấy cô gái áo xanh ngoái đầu, hướng về phía mình mà nở một nụ cười say đắm lòng người.


Sông thu dạo bước làn thu
Yêu sao sắc ấy sen hồng vẫn tươi
Ngọc non lá biếc xanh ngời
Dập dềnh sóng nước nào tròn hay vuông
Giai nhân mây tía vẫn còn
Muốn tặng mà nỗi cách xa chân trời
Nhớ người sao chẳng gặp người
Ngẩn ngơ gió mát trước thềm trông theo.
(Chiết hà hữu tặng – Lý Bạch – dịch thơ:Đông Y Lâm)


Quả thực là “Nhớ người sao chẳng gặp người/Ngẩn ngơ gió mát trước thềm trông theo”.


Chàng đeo một nỗi muộn phiền vô hạn, chỉ có thể hận cái cô cầm chèo kia thì nói chuyện liên mồm, mà bản thân ngay cả giọng nói của thiếu nữu áo xanh như thế nào cũng còn chưa biết. Nếu có thể được nghe nàng nói nửa câu, niềm sung sướng ấy chắc hẳn không có lời nào diễn tả. Chàng cứ âm thầm mà suy diễn đủ thứ, dù sao cũng là tâm tình người thiếu niên, nỗi lòng ra sao chẳng thể giấu, đến tận lúc xa giá rầm rộ đi tới, quỳ xuống hành lễ mà tâm thần vẫn bất định không thôi.


Hoàng Đế xưa nay không ưa đứa em cùng mẹ này lắm. Hai người hơn kém nhau đến bảy tuổi, cho nên thuở nhỏ cũng chẳng hề thân thiết, tuổi tác đã cách biệt, mà tính tình cả hai lại càng cách xa vạn dặm. Lúc này Hoàng Đế cau mày, nhìn Kính Thân Vương thi hành đại lễ xong, lạnh nhạt nói:
“Miễn lễ.”

Hoàng Đế hỏi qua về tình hình vùng biên giới, đoạn nói:
“Trẫm mệnh cho ngươi đi vùng quan ngoại, là muốn rèn giũa tính tình cho ngươi, mong ngươi có thể sửa bớt cái tính khí của mình đi, thế nhưng xem ra hiện tại ngươi cũng chẳng có chuyển biến gì. Nhìn cái bộ dạng của ngươi, thực sự càng ngày càng nóng nảy không yên, thật uổng một phen trẫm khổ tâm.”


Kính Thân Vương vẫn nhớ kỹ lời dặn dò của Từ Trường, chỉ cúi đầu mà lĩnh giáo huấn. Tai thì nghe Hoàng Đế nghiêm khắc dạy dỗ, mà trong bụng thì cứ nghĩ hoài, hai cô gái kia sao cứ không chịu nói ra mình làm ở đâu, bản thân lại chẳng biết tên nàng,  trong cung mấy vạn cung nữ, biển người mờ mịt, làm sao còn cơ duyện gặp lại đây?


Vừa nghĩ đến đó, trong lòng lại buồn rầu, không khỏi thở dài một tiếng. Hoàng Đế vừa nghe cậu chàng thở dài ngậm ngùi, lại như đổ dầu vào lửa, đã cáu đến cực điểm, tuy nhiên giọng điệu lại vẫn hờ hững như không:
“Ngươi không cần trở về vùng quan ngoại nữa, chắc có ở đến hai chục năm cũng công cốc. Trẫm thấy, tốt hơn là ngươi vẫn nên ở lại trong kinh, đi theo Thất ca ngươi mà học hỏi dăm ba năm, xem có thể học cho ra cái phong thái lịch lãm hay không.”
Kính Thân Vương nghe nói là sẽ không được hồi quân ngũ, đã cảm thấy rầu đến già rồi, chàng xưa nay lại cực không vừa mắt Dự Thân Vương, thế mà Hoàng Đế lại còn muốn đem mình giao vào tay “kẻ thù không đội trời chung”, cục tức này thử hỏi nuốt sao nổi? Lập tức đáp:


“Thỉnh Hoàng Thượng vẫn cho thần trở về vùng quan ngoại đi thôi, thần đệ ngu dốt, mỗi ngày ở trước mặt Hoàng Thượng, chỉ sợ khi không lại chọc cho Hoàng Thượng phát cáu, thần đệ thà rằng cách Hoàng Thượng thật xa.”


Hoàng Đế lãnh đạm nói:
“Ngươi nói cái gì gì thế . . . cũng không sợ Hiếu Di Hoàng Thái hậu dưới đất còn linh, nghe được sẽ buồn lòng lắm sao?”
Kính Thân Vương kinh ngạc bật thẳng người dậy, trong mắt như tóe lửa, lớn tiếng nói:
“Đừng nhắc đến mẫu hậu với ta! Ngươi đừng có mà nhắc đến mẫu hậu trước mặt ta!”


Chàng phẫn nộ, căn bản đã quên phắt vua tôi trên dưới, mà Hoàng Đế thì ngược lại, cực kỳ bình tĩnh:
“Xem lại cái bộ dạng này của ngươi đi, chẳng còn ra cái thể thống gì nữa. Kẻ bất hiếu là người, trẫm trước giờ cũng chưa từng làm cho mẫu hậu phải hổ thẹn bao giờ.”


Trong lòng Kính Thân Vương đau đớn, phẫn nộ, thất vọng đan xen lẫn lộn, chỉ nói:
“Mẫu hậu dù đối đãi với huynh như thế nào, người cũng là mẹ, người sinh ra huynh, nuôi nấng huynh, vậy mà huynh lại ghi hận trong tâm. Nếu không phải do huynh . . . huynh . . .”


Tâm trạng chàng kích động, rốt cuộc nói không nên lời, tiến lên từng bước, Triệu Hữu Trí thấy tình hình không ổn, vội kêu một tiếng:
“Vương gia!”


Kính Thân Vương nhớ lại một trận tranh chấp ngay trước giường bệnh trong điện Từ Ý năm đó, quả thực khiến cho Hiếu Di hoàng thái hậu đau thấu tâm can. Chàng nhớ lúc ấy mẹ đã bệnh trầm trọng, chính mình lại bị Hoàng Đế khiển trách ngay trước giường bệnh của người, khiến cho mẹ đã bệnh lại càng thương tâm, nếu không phải vì đó thì hoàng thái hậu cũng đã không phải đau khổ mà chết đi. Mà bản thân ngay cả nhìn mặt mẫu hậu lần cuối cũng không kịp.
Nghĩ đến đây ruột gan không khỏi thắt lại, siết chặt nắm tay, trừng trừng con mắt mà nhìn Hoàng Đế. Hoàng Đế bị chàng chọc cho sôi máu sắp điên lên rồi, thế nhưng tạm thời lại không thể phát tác. Cuối cùng Kính Thân Vương cũng buông lỏng tay, lui về sau từng bước:
“Thần đệ cáo lui.”


Một nửa phần khiêm cung mà bề tôi nên có cũng chẳng thấy đâu, hoàng đế giận lắm, còn chưa nói được lời nào, Triệu Hữu Trí chạy nhanh lại nói:
“Vạn Tuế gia, Vương gia đi đường vất vả, có chuyện gì thỉnh ngày mai hãy truyền Vương gia tới.”
Hoàng Đế cũng biết dưới cơn thịnh nộ này mà xử lý Kính Thân Vương, nhất định sẽ tạo nên động thái cực sai lầm, cho nên cũng chỉ phất tay. Triệu Hữu Trí vội nháy mắt với Kính Thân Vương, mà Kính Thân Vương cũng chả buồn cảm kích, trừng mắt với lão một cái, cũng không thèm hành lễ với Hoàng Đế, phất tay áo ngang nhiên mà đi. Hoàng Đế thấy chàng như thế, tức đến nỗi một hồi lâu cũng không nói nổi.


Trong điện im ắng, gió lạnh thổi như muốn tung tấm mành trúc giữa điện, hương sen thoang thoảng bay vào. Xa xa tiếng ve lác đác rền rĩ, rồi lại rơi vào yên lặng. Một lúc sau, đột nhiên từ mặt hồ phía sau điện truyền đến một giọng hát của con gái dịu dàng mềm mại.


Hoàng Đế thì còn đang nổi nóng, “rầm” một tiếng đập mạnh tay lên tập công văn trên bàn, nói:
“Đi, đi ra ngoài xem, là kẻ nào đang tranh cãi om sòm ở kia, lôi cái loại nô tì vô lễ đó ra lập tức đánh hai mươi gậy cho trẫm.”


Triệu Hữu Trí vội vã tự mình đi, một lát sau, đã nghe tiếng hát càng ngày càng gần, âm thanh kia cực kỳ êm ái mà trầm bổng, du dương đến động lòng người, ca từ lọt vào tai nghe hết sức rõ ràng:
“Lá xanh thanh nước biếc, sen tươi khoác lụa hồng, dưới gốc còn có ngó[1], trên có vợ thương chồng[2] . . .”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

97#
Đăng lúc 19-6-2013 12:18:00 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17: PHÙ DUNG ĐÔI MÁ ĐUA MÀU THẮM


Tiếng ca mát rượi như gió, truyền vào trong tai, khiến cho tâm thần con người đều trở nên sáng suốt minh mẫn. Hoàng Đế vốn còn đang  giận đến tức thở  cũng dần dần  bình tĩnh lại. Triệu Hữu Trí tiến vào, thấy sắc mặt chàng đã có chút hòa hoãn, cười mím chi, đoạn thỉnh an nói:
“Vạn Tuế gia, chính là mấy tú nữ vừa ứng tuyển, mới vào cung, cho nên cũng chưa hiểu phép tắc quy củ gì, lại không biết có ngự giá ở đây, cho nên mới tùy tiện ồn ào xôn xao. Nô tì đã đưa mấy cô gái ấy về đây, Hoàng Thượng có muốn xem qua một lượt không ạ?”


Hoàng Đế lạnh lùng lườm lão:
“Ngươi lại chuẩn bị bày cái trò gì đó?”
Triệu Hữu Trí cười cười:
“Nô tì không dám.”


Hoàng Đế chẳng buồn lắm lời với lão, chỉ hơi ngửa mặt lên, Triệu Hữu Trí ngầm hiểu, hai tay vỗ nhẹ.
Lớp lớp những tấm rèm dày được nâng lên, giống như có ngọn gió lùa qua, thoang thoảng đưa hương sen thơm ngát bay vào. Cũng không phải là trang phục bắt buộc của cung nữ, chỉ là một áo lụa trắng thuần, một áo xanh như lục bình, tóc bối hai bên, trông vô cùng thanh lịch mà khả ái, đều duyên dáng xuyên qua lớp rèm mà thướt tha đi đến,  tới  trước mặt Hoàng Đế thì uyển chuyển bái lạy.


Vẻ mặt Hoàng Đế bỗng nhiên có chút thảng thốt:
“Ngẩng đầu lên.”
Đôi mắt sáng trong veo tựa hồ phản chiếu được cả bóng người, Hoàng Đế như khẽ hít một hơi, mà đôi mắt loang loáng nước kia, thì vẫn cứ bình tĩnh mà nhìn Hoàng Đế.
Triệu Hữu Trí khẽ giọng nhắc:
“Thấy Hoàng Đế mà sao vẫn không có chút khuôn phép nào thế?”
“Trục Hà kính gặp Hoàng Thượng, chúc Hoàng Thượng vạn phúc kim an.”


Hoàng Đế hỏi:
“Cô gọi là Trục Hà?”
“Vâng.”
Hoàng Đế lại hỏi:
“Cô là con gái nhà ai?”
“Cha của nô tì là nội thị trong bộ Hộ, tên Ngô Tấn.”


Hoàng Đế nhớ ra, thê tử của Ngô Tấn họ Mộ, chính là một chi họ xa trong Mộ thị, vốn là con cháu ngoài năm đời, cho nên thời điểm gặp nạn tru di lại được miễn. Hiển nhiên là sẽ giống đến thế, gần như giống hệt Như Sương, chỉ là dựa vào mặt mày vẫn khiến người ta biết được đôi chút. Mà người ở trước mắt, thì chẳng khác nào một cái bóng trong nước, như dải lụa lênh đênh huyền ảo, linh động khắp chốn.


Hình như có một cánh tay thời gian, lại kéo chàng trở về rất lâu trước đó.
Hoàng Đế sau cùng nói:
“Đứng lên đi, để cho trẫm nhìn cô một cái.”
Trục Hà thưa vâng, rồi đứng dậy chậm rãi đi về phía Hoàng Đế.


Triệu Hữu Trí khẽ khàng lui ra ngoài, phân phó cho bọn tiểu thái giám đứng chực hầu, còn mình thì đi theo dãy hành lang râm mát, vòng thẳng qua ngọn giả sơn, đến điện Thanh Hoa vốn xưa nay là nơi ở của Hoàng quý phi.
Nắng ban ngày vẫn đang đốt ác liệt, trước điện có một hàng cây hòe già, hòe xanh như mây, tán rợp một khoảng râm trên mặt đất. Thực yên ắng tĩnh mịch, ngay cả một tiếng ve kêu cũng chẳng thấy, bởi Như Sương đang trong thời kỳ dưỡng bệnh, mệnh cho kẻ hầu người hạ hằng ngày đều phải đi xem xét, thấy ve liền bắt đem đi.


Thị Nhi – tâm phúc của Như Sương đang đứng dựa dưới bóng cây hòe, thấy lão, cười hì hì chào một tiếng:
“Triệu công công.”
Đoạn đưa lão vào trong điện.
Như Sương vừa mới thay xiêm y, còn đang chải đầu, tóc mây đen nhánh chảy xuống, buông thả trên vạt váy màu khói ráng. Triệu Hữu Trí khom mình hành lễ:
“Nương nương.”


Bệnh vừa khỏi, người trong gương sắc mặt nhợt nhạt, tựa như một bóng người bằng bạch ngọc, Như Sương nhìn chính mình trong gương, miệng như đang lầm bầm:
“Hoàng Thượng đối với Kính Thân Vương, thật ra rất tốt.”


Triệu Hữu Trí cười bồi:
“Vạn Tuế gia cũng chỉ có một đứa em trai cùng mẹ này, quả thực rất thương yêu Thập Nhất gia.”
Mặt Như Sương không có gì thay đồi, một lúc sau mới cười:
“Anh chàng này đúng  là ương bướng, cũng làm người ta chịu không nổi.”


Triệu Hữu Trí lại không dám tiếp lời, Như Sương hỏi:
“Ý của Hoàng Thượng, là muốn giữ Thập Nhất gia ở lại?”
Triệu Hữu Trí đáp:
“Nô tì cũng không dám đoán bừa, có điều hình như Hoàng Thượng muốn gửi cho Thất gia dạy dỗ.”


Thị Nhi thắt lại mái tóc dài cho Như Sương, vấn thành  hình một đám mây, dùng trâm châu găm từng cái từng cái vào.
Nàng tuy chỉ được phong làm phi tần, song sớm đã có chiếu chỉ đặc biệt, vị thế chẳng khác Hoàng quý phi, hưởng một nửa chế độ của Hoàng Hậu.


Chuỗi ngọc kết bằng dải tơ kim phượng trên đầu buông trĩu xuống, khẽ rung rinh. Nàng có vẻ đã mệt mỏi:
“Ngươi đi đi, nếu mấy ngày Hoàng Thượng có hỏi đến ta, cứ nói ta mệt, đang ngủ.”
Triệu Hữu Trí tuân mệnh, vừa lui đến một bên cánh cửa, Như Sương bỗng cười, gọi lão lại:
“Nếu mà Hoàng Thượng đã quên hỏi ta, công công hẳn cũng đừng quên đấy.”


Triệu Hữu Trí cười cười:
“Nương nương đã nói, nô tì tuyệt nhiên không dám trái.”
Như Sương vốn được sủng ái nhất trong lục cung, kể từ ngày hôm đó trở về sau, lại chưa hề nhận được chỉ thị.
Ngày hôm đó, ở Tú cung tuyển tú nữ, nàng không thể không cố xốc lại tinh thần  đến chủ trì.


Hoàng Đế đối với chuyện tuyển tú nữ cũng chẳng có hứng thú, cũng không khởi giá đến Tú cung tự mình chọn lựa. Tuyển tú nữ là một lễ lớn, theo lệ thì Hoàng Hậu cùng các phi tần đều phải đến chủ trì, song chiếc ghế Hoàng Hậu còn bỏ ngỏ, cho nên Thục phi Mộ thị hiện đang tạm quản hậu cung. Một đại lễ lớn như thế, ngay cả Tình phi đang mang trọng bệnh cũng phải đến dự, vì vậy mà không khí lại càng thêm phần khách sáo, hai người chung một cái chiếu mà ngồi. Bên dưới lại có một chiếu khác, chính là dành cho Chiêu Nghi họ Ngô vừa được sắc phong.


Tình phi bấy lâu nay sống trong bệnh tật, nhan sắc đã sớm tàn phai, nay thấy Ngô Chiêu Nghi, chỉ cảm thấy hào quang tươi đẹp tỏa ra tứ phía, không khỏi chăm chăm nhìn rất lâu. Như Sương lại cười nói:
“Tình phi tỷ tỷ cứ nhìn em gái họ Ngô như thế, lại khiến cho cô ấy chê cười hai chị em chúng mình chưa thấy qua cảnh đời.”
Tình phi không khỏi thẹn thùng, nói:


“Ngô Chiêu Nghi và em có dung mạo giống hệt, chẳng khác nào một cặp song sinh, cho nên ta mới nhất thời để ý đến vậy.”
Quả thực là giống hệt sao?
Như Sương khẽ nhếch đôi môi anh đào với vẻ hứng thú, nhìn chung dáng vẻ thì giống thật, song Ngô Chiêu Nghi giống như một viên thủy ngân, lấp la lấp lánh không ngừng, mà Như Sương, thì tựa một viên ngọc bằng băng, dù cho có ánh nước, cũng chỉ là nước băng ngưng tụ lạnh ngắt.


Như Sương mỉm cười thật tươi, vì là nhân vật chủ trì đại lẽ, cho nên nàng vận một bộ xiêm y lông đuôi trĩ đỏ chót, những sợi tua bằng tơ vàng được thêu trên chiếc khăn choàng vai lộng lẫy buông rủ, hoa văn chiếc đuôi phượng kéo thật dài tới thẳng mép váy. Cổ tay áo cũng được điểm hoa văn màu vàng hết sức công phu, bên mép còn thêu một bông hoa rộng đến hai tấc, mười đầu ngón tay búp măng lồ lộ, móng tay sơn bóng màu hồng lại được màu đỏ của chiếc váy đuôi trĩ tôn lên, chẳng khác nào những viên ngọc lưu ly cực nhạt mà cực trong.


Giữa đại điện hun hút đồ sộ mà yên tĩnh, chỉ nghe thấy âm thanh vạt váy lướt sàn sạt, nội quan dài giọng hô tên họ từng người, cấp bậc của cha anh, từng khuôn mặt như hoa tựa ngọc cứ lần lượt thoáng qua trước mắt, theo nghi thức, hết sức cung kính mà hành lễ. Như Sương  cứ một câu lại một câu rôm rả với Tình phi, cũng chẳng buồn để tâm đến việc chọn lựa các cô gái đang lần lượt lướt qua này.


Trục Hà có chút ngơ ngác nhìn người thiếu nữ yêu kiều duyên dáng ấy, ngồi ở sâu trong điện cao xa như vậy, tựa như cách mình rất xa rất xa.
Vào thời điểm đứng bên cửa cung sâu hút như biển cả, Như Sương khẽ vươn cái chuôi quạt, điều chỉnh cái giá đứng của con chim anh vũ, khóe miệng vẫn ẩn ẩn một nụ cười như có như không lúc trước:
“Hắn đưa cô đến đây . . . chính cô lại tưởng  là một  điều tốt?”


Con chim anh vũ trong chiếc lồng vàng kêu “kéc” một tiếng, đập đập đôi cánh. Gió nhẹ se sẽ phất mái tóc mai của nàng, trong nháy mắt ấy Trục Hà nhìn cặp mày được vẽ hết sức tinh tế của nàng, cảm giác như nét núi mùa xuân nhàn nhạt chạy xa xa, hơi hơi nhướng lên.
Hiện thời cô đã cao cao tại thượng, từ trên mà nhìn xuống phồn hoa đô hội chốn hồng trần, thế nhưng tất thảy đều cách xa như vậy, giống như thanh âm của chính cô, từng đã xa xôi, mơ hồ, hình như là phát ra từ trong miệng của một người khác:
“Vương gia đối với họ Ngô có đại ân, Trục Hà không thể nào vọng ơn bội nghĩa.”


Có lẽ phải qua một hồi lâu, mới nghe Như Sương bật cười một tiếng, giọng cười cực khẽ, chỉ như một tiếng thở dài:
“Cô gái ngu ngốc . . .”
Vành tai của cô bất chợt nóng bừng lên, giống như phát sốt. Ai cũng chưa từng biết tâm tư thực sự nơi đáy lòng cô, thế nhưng tại thời khắc này, cô thật sự cho rằng mình đã bị người ta nhìn thấu. Vị Thục phi nương nương này có một ánh mắt khiến cho kẻ khác không dám nhìn gần, nhưng ngay lúc cô ngước lên, thì đôi mắt ấy đã dịu lại, trở nên tối tăm, giống như than, một khi đã cháy hết những nhiệt huyết cùng ánh sáng, rốt cuộc chỉ còn lại mảnh tro lụi tàn.
Cả giọng nói của nàng cũng không mang một chút ấm áp nào:
“Vậy thì cô cứ chờ xem.”


Hết thảy đều là một màn kịch đã được dàn dựng tỉ mỉ, khai thừa chuyển hợp, xướng đọc hay gõ nhịp, ngay cả một bước cũng không thể nhầm. Cô thuận lợi mà vào cung làm Chiêu Nghi Ngô thị, hết sức được ân sủng, ánh mắt Hoàng Đế nhìn cô, bao giờ cũng ấm áp dịu dàng, tựa như rất lâu rất lâu trước kia, cũng đã từng cùng cô kết thành tri kỷ.
Chỉ có mình cô là biết rõ, cái bí mật được giấu thật sâu trong đáy lòng kia vẫn luôn tồn tại. Hoàng Đế ngẫu nhiên quay mặt đi, khuôn mặt trông nghiêng hơi cúi, thì cái bí mật trùng trùng kinh người kia sẽ khiến cho tim cô đập nhanh, để rồi sau đó  nảy lên trong ngực một cảm giác đau đớn sâu sắc.


Vào cung chỉ mới ngắn ngủi mấy ngày, đã nghe nổi lên những lời đồn đãi nho nhỏ. Cô và Thục phi có dung mạo giống nhau đến lạ, chẳng khác nào hai đóa hoa xinh đẹp, đều mang một nét rực rỡ tươi tắn của riêng mình. Nhưng cô không phải là Thục phi, bởi cô gái có địa vị tôn quý nhất hậu cung này cũng giống như một pho tượng ngọc, hoàn mỹ không chút tỳ vết, tinh khiết động lòng người, song lại không có một chút sức sống nào, ngay cả lúc cười rộ lên đáy mắt vẫn u ám đến vậy, dường như nàng chưa hề mỉm cười.


**********************

Cuối cùng cũng chọn được tám cô gái, ở lại trong cung một vài năm, hoặc là được đặc chỉ  sắc phong làm phi tần, hoặc là ban thưởng cho các vương công đại thần làm thê thiếp, kết cục như thế nào cũng chỉ đành xem vào con đường vẫn mệnh của  các cô.
Tình phi nói:
“Có thêm người mới, trong cung lại thêm phần náo nhiệt.”
Như Sương thì vẫn cứ một bộ dáng như cười như không:
“Chị nói phải lắm.”


Hoàng Đế kỳ thực cũng không ham nữ sắc, lần tuyển tú nữ này là ý tứ của quần thần. Mà tấu chương thúc giục lập Hoàng Hậu vốn cứ bay lên như tuyết, từ ngày Hoa phi đột tử, Hàm phi bệnh nặng, bỗng nhiên lại đột ngột dừng lại không một tiếng động. Nghe đâu Thái phó Trình Phổ từng đã dựng đứng cả râu tóc, phẫn nộ mà thề thốt ngay tại bản phủ:
“Nếu như Hoàng Thượng cứ khăng khăng lập con yêu nghiệt kia làm Hoàng Hậu, cựu thần lập tức đập đầu mà chết ngay tại bậc thềm Thái miếu.”


Kể từ đó, các đại thần lại thúc giục Hoàng Đế tuyển tú nữ, ý chừng là muốn chọn ra trong đám tiểu thư khuê các một vị Hoàng Hậu Đại Ngu trong tương lai.
Hoàng Đế lại không hề có hứng thú thu nạp mỹ nhân, cuối cùng vẫn cứ để cho “yêu nghiệt” của mình ngồi ngay ngắn ở dưới ngai báu mà hưởng nhận biết bao lễ bái của chúng mỹ nhân khuê các.
Tám cô cung nữ được tuyển chọn lần này, mãi cho đến tận đêm Thất tịch(mồng 7 tháng 7) tiếp nhận yến tiệc ban thưởng mới có cơ hội được chứng kiến một khuôn mặt của đấng quân vương.


Đêm Thất tịch, trong cung cực kỳ tưng bừng sôi nổi, ngoài lễ “Khất xảo”(cầu Chức Nữ được khéo tay thêu thùa), theo lệ ở lầu Thanh Sướng còn mở tiệc ban thưởng cho các đấng thân vương, công chúa. Tiệc rượu trong cung, dĩ nhiên là bày đủ các loại sơn hào hải vị, ca múa tưng bừng.


Ngày hôm đó Hoàng Đế dường như đặc biệt vui vẻ, còn mệnh cho Ngô Chiêu Nghi gảy đàn sắt(đàn 25 dây), xướng một khúc từ[1] mới, dành được một tràng hưởng ứng nhiệt liệt.
Như Sương vốn có tính không kiên nhẫn ngồi lâu, đứng dậy đi ra ngoài. Không ngờ vừa mới bước vào phía sau hậu điện, Trình Viễn đã lặng lặng tiến lên bẩm báo:
“Nương nương, cung Thừa Dục phái người đến nói rằng tình trạng của Tình phi nương nương không được tốt, không biết là nương nương có muốn qua thăm?”


Tình phi xưa nay thân thể suy nhược, trong một năm thì đã khoảng nửa năm bệnh liệt giường.
Giữa hậu điện cực kỳ yên tĩnh, chỉ nghe láng máng tiếng ca thổi ngoài điện trước, giống như một khúc nhạc tiên thoắt ẩn thoắt hiện phiêu diêu truyền đến. Đàn sáo xen lẫn trong tiếng nói cười, náo nhiệt phồn hoa cực điểm. Như Sương nghĩ đến Tình phi lúc này cô quạnh một mình, quả thực đáng thương, nhân tiện nói:
“Ta đi thăm chị ấy một cái.”


Lập tức Như Sương bước lên xe đi, nội quan cầm theo một cái đèn lồng chữ bát (八), vây quanh chiếc xe mà theo. Đông cung nơi Tình phi cư trú cũng rất xa xôi hoang vắng. Lúc này trong cung đều đang mở tiệc vui vẻ, đường đi yên ắng không một bóng người, chỉ nghe tiếng côn trùng vào thu kêu rin rít, làm cho con người cũng cảm nhận được hơi thu đang đến dần.
Bên ngoài đông cung lạnh tanh mà ảm đạm, mấy cung nữ ngồi trực đang thi nhau chơi đùa, hi hi ha ha, hồn nhiên vô sự, thấy có ánh đèn tiến đến, còn tưởng là đến ban thưởng, tết nhất như vậy, theo lệ vẫn thường có tặng phẩm cho cung nữ. Đợi đến lúc nhìn rõ là Thục phi tới, không kịp chuẩn bị, cuống quít hành lễ không thôi.


Như Sương  giận muốn phát tác, lại sợ kinh động đến Tình phi, cũng chỉ lườm Trình Viễn một cái. Trình Viễn ngầm hiểu ý, nói:
“Xin nương nương cứ yên lòng.”


Như Sương biết gã sẽ xử lý chuyện này, bèn tự ý bước vào trong cửa điện, xa xa đã nghe được hương thuốc nồng đặc bay tới. Chỉ thấy lớp lớp màn che, giữa điện cũng chỉ châm hai ngọn đèn, ánh sáng ảm đạm, càng lộ ra vẻ tịch mịch.
Như Sương bước đi khẽ khàng, thấy được Tình phi nằm ngủ trên giường, mờ mờ mịt mịt, hình như là đã ngủ thật rồi. Chỉ có một cung nữ già  hầu hạ thuốc men ở bên giường, đang thổi bát thuốc bốc hơi ngùn ngụt mà lệ thì đã rơi nhòa. Cung nữ nọ thấy nàng, vừa mừng vừa sợ, kêu lên một tiếng:
“Nương nương.”


Rồi nghẹn ngào không nói nên lời. Như Sương hỏi:
“Làm thế nào mà đã bệnh thành như vậy, còn không truyền ngự y?”
Cung nữ gạt nước mắt, đáp:
“Đã muốn truyền rồi, thế nhưng nương nương lại nói, tết nhất thế này, sợ Hoàng Thượng lại tâm tình khồn thoải mái, chỉ nói chính mình thường ngày cũng đã như thế, cứ chịu đựng mà sống qua ngày thôi, cho nên ngăn không cho ai biết.”


Như Sương bèn lệnh cho nội quan:
“Truyền lời của ta, đến cửa Vĩnh Tể gọi ngự y qua đây.”
Lập tức có người nhận mệnh mà đi.
Nhìn dưới ánh đèn, thấy đôi lông mày thanh tú của Tình phi khẽ nhíu, sắc mặt tái nhợt không một tia máu, Như Sương bước nhanh tới, sẽ sàng gọi:
“Tỷ tỷ.”


Tình phi rên lên một tiếng,cũng không biết là có nghe hay không. Qua một hồi lâu, rốt cuộc Tình phi cũng mở mắt, mờ mịt nhìn nàng. Như Sương lại kêu một tiếng:
“Tình phi tỷ tỷ.”
Tình phi như đã nghe thấy, trên mặt thoáng nở nụ cười, lại hổn hển. Mãi nửa ngày, mới như lấy lại được chút sức lực, âm thanh nhỏ đến nỗi gần như không nghe thấy gì:
“Đúng . . . đúng là Hoàng . . . Hoàng quý phi . . .”


Lòng Như Sương nao nao, chỉ cúi xuống mỉm cười, khẽ giọng nói:
“Chị cũng quá là hồ đồ đi, bệnh đến mức này mà cũng không cho người ta biết.”
Tình phi hơi hơi lắc đầu, đoạn nhắm mắt lại, không còn sức mà trò chuyện nữa. Như Sương vốn tưởng rằng cô ấy đã ngủ thiếp đi, không ngờ cô lại cố gắng mở mắt ra, thanh âm đứt quãng:
“Chị sợ là phải đi trước rồi . . . Ngày ấy . . . ngày ấy. . . chị nói với em . . . em hãy quên đi . . .”


Trong lòng Như Sương thấy kỳ quái, cúi thấp mình xuống mà nắm lấy tay cô:
“Tình phi tỷ tỷ?”
Tình phi thở dốc:
“Chúng ta cũng từng là chị em một thời gian . . . Lâm Nguyệt . . . Những lời chị nói ngày ấy . . . Em đừng để bụng . . .”
Như Sương không biết cô ấy có ý gì, song vẫn nhẹ giọng an ủi:
“Chị yên tâm, em đều thấu hiểu cả mà.”


Tình phi như thở phào nhẹ nhõm, nỉ non:
“Vậy . . . Vậy . . Được rồi. . .”
Từ khóe mắt đã chảy ra một dòng lệ:
“Chính là . . . Chính chàng cũng không biết đươc, thực ra không phải là em . . . Nhưng chị vẫn thật hâm mộ . . .”
Như Sương nắm lấy tay cô, mười đầu ngón tay lạnh lẽo, cũng không biết là tay cũng Tình phi lạnh, hay là tay của chính mình đang phát lạnh. Ý thức của Tình phi đã trở nên mông lung, lời nói cũng dần mơ hồ.
Cuối cùng thì ngự y cũng đến, sau khi bắt mạch, Như Sương cho triệu kiến trên điện, hỏi:
“Mấy ngày trước tinh thần vẫn đang khỏe khoắn, sao đột nhiên lại bệnh thành như vậy?”


Ngự y đáp:
“Bệnh của nương nương đã không phải mới một hai ngày, chỉ dám đại bất kính mà nói, chẳng khác nào một khúc gỗ, bên trong đã sớm mục rỗng cả, cũng may nương nương phúc phận hơn người, chậm rãi điều dưỡng, chung quy cũng có ngày vực được dậy.”
Như Sương cũng hiểu rõ ý tứ của gã, việc đã đến nước này, quả thực không còn làm được gì hơn, nhìn thấy Tình phi dùng xong thuốc, nặng nề mà ngủ rồi, mới trở về.


Đêm đã khuyu, lối đi trong cung cũng đã sớm đẫm hơi sương, dưới ánh trăng trông như được rải đầy nước thủy ngân. Lòng dạ Như Sương ngổn ngang trăm mối,  nghe tiếng bước chân đi lại của nội quan làm kinh động bầy chim trên cành, soạt một tiếng đã bay lẩn vào trong bóng trăng sâu hút. Bất giác ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy dãy tường trong cung dày đặc, vài gốc ngô đồng cao vượt cả đầu tường, cành lá lưa thưa, phản chiếu lại mảnh trăng lưỡi liềm đêm thu.


Khu vực cung điện này có quy mô cực kỳ to lớn, dưới bóng trăng chỉ thấy trùng trùng điệp điệp những xương thú mạ vàng, lạnh lùng giọi lại ánh trăng. Khắp nơi đều vắng vẻ im lìm, ngay cả ngọn đèn dầu nho nhỏ cũng không có, đặc biệt tĩnh mịch thê lương gọi cơn ớn lạnh trong người.
Như Sương thấy như vậy liền hỏi:
“Đây là nơi nào vậy?”


Trình Viễn hộ tống bên xe cũng chỉ ậm ậm ừ ừ, Như Sương hiểu là trong cung cũng có rất nhiều bộ phận cấm kỵ, nhưng tính nàng xưa nay cứng đầu không thôi, Trình Viễn chỉ đành thưa:
“Bẩm nương nương, nơi này là cung Cảnh Tú.”
Cung  Cảnh Tú ?


Trong lòng như có một cái gì đó thoáng xẹt qua, ban đầu cũng không thấy đau đớn, nhưng về sau cảm giác không thể nào hiểu nổi, thì ra nơi đây chính là cung Cảnh Tú.
Tường cung điện cao cao, ngô đồng thưa thớt, trăng rọi bóng ngô đồng, không ngờ nơi đây vừa hay lại là cung Cảnh Tú.
Nàng bảo người hầu:
“Dừng kiệu.”


Phu khuân kiệu từ từ hạ kiệu xuống, Trình Viễn bước lên đỡ lấy cánh tay nàng, mặt mày đau khổ ủ ê:
“Nương nương, vẫn nên trở về thôi, nửa đêm đường xa, ngộ nhỡ bị cảm lạnh, nô tì quả thực là tội đáng muôn chết.”
Như Sương lạnh lùng nói:
“Ngươi mà nói thêm nửa câu, bản cung lập tức tác thành cho ngươi.”


Trình Viễn sợ run, Như Sương quay người ngẩng lên nhìn, chăm chăm ngó vào bên trong cung điện sâu hút đong đầy ánh trăng.
Theo lệ từ các triều đại đã qua, Hoàng quý phi đều được ở trong điện Thanh Hoa, nhưng ngày đầu Lâm Nguyệt vào cung đã ở trong cung Cảnh Tú, về sau mặc dù được sắc phong làm Hoàng quý phi nhưng vẫn không hề chuyển đi. Từ ngày Mộ thị qua đời, Cảnh Tú không còn người nào ở, Hoàng Đế  hạ lệnh không cho quét dọn lau chùi gì, cung nữ lại càng không dám tự tiện lảng vảng đến gần, vì vậy nơi đây dần  dần trở nên hoang vu tàn phế.
Như Sương thấy chiếc khóa bằng đồng trên cửa đã đóng gỉ xanh, tiện miệng nói:
“Đem chìa khóa đến đây.”


Trình Viễn kinh hãi đến toát mồ hôi lạnh:
“Nương nương!”
Như Sương nhíu đôi mày, Trình Viễn vội vã kêu lên:
“Nương nương, đêm khuyu rồi, cung này cũng bị niêm phong đã lâu, vẫn nên đợi ngày mai có người đến quét tước dọn dẹp rồi nương nương hãy quay lại thôi.”
Như Sương không đáp, Trình Viễn vẫn quỳ rập ở đó, nói:
“Nương nương, nếu như lúc này nương nương muốn vào, nô tì cũng không dám ngăn cản, nhưng thỉnh nương nương hãy nghĩ lại.”


Mặt Như Sương không có biểu cảm gì, chỉ nhìn đăm đăm lên mảnh trăng lưỡi liềm trước hiên, vầng sáng ấy trong trẻo mà lạnh lẽo, chiếu lên một dãy viền mái hình mỏ diều hâu nằm im lìm, qua một hồi lâu, từ trong môi mới bật ra hai chữ:
“Về thôi.”
Trình Viễn chỉ thấy như được đại xá, vội vàng đỡ nàng bước lên kiệu. Gió đêm lành lạnh, lùa qua những tán ngô đồng  nghe xào xạc, chiếc đèn lồng trong tay nội quan cũng hốt nhiên lúc sáng lúc tối, chập chờn mông lung. Ống tay áo Như Sương bị gió thốc lên, trong bóng đêm trông như con bướm cứ chờn vờn vỗ đôi cánh vĩ đại mà lộng lẫy.


Nàng nhớ đến những lời nói vô nghĩa của Tình phi, thực mơ hồ, câu chữ lộn xộn như những mảnh vụn, thế nhưng lại chắp ghép thành cái bí mật ghê gớm nằm sâu trong đáy lòng nàng, chuyện kinh hãi đáng sợ ấy nàng tuyệt không thể lại nhớ đến.
Kiệu đi rất nhanh, nàng ngoảnh đầu lại, cung Cảnh Tú đã dần dần chìm trong màn đêm dày đặc, ánh trăng mịt mờ, chạm móc quanh những đường viền liên miên nối tiếp của cung điện, tựa hồ như hình ảnh ngọn núi thu nhỏ, trùng trùng điệp điệp, lắc lư lay động trong tầm mắt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

98#
Đăng lúc 19-6-2013 12:50:47 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18: AI BẢO GIÓ THU CHỈ BIẾT LẠNH


Kính Thân Vương đã hơi có cảm giác say, chàng đang không vui, chỉ có cứ ôm nỗi buồn bực mà uống rượu. Rượu Tửu Kính trong cung đặc mà nhuyễn, không giống với cái chất cay mà gắt như mũi dao nhọn của thứ rượu vùng phía Bắc Trường Thành.


Tiệc tùng nhạc nhẽo đã lên đến đoạn cao trào, tiếng dây đàn bật lên cấp bách liên tục vang  bên tai, chỉ cảm thấy phiền nhiễu không chịu nổi. Chàng vừa uống hai chén, đã cảm giác men rượu đột ngột xông lên, bèn đứng dậy đi ra. Ra tới hậu điện, mới biết đêm đã lạnh như nước, hơi lạnh thấm vào trong quần áo, ở bên ngoài tấm mành lụa còn trông thấy vài bóng đom đóm lập lòe, tựa như mấy đốm sáng lướt qua.
Chàng nhanh chóng bị tiếng côn trùng kêu chi chít ngoài kia dẫn dắt, bước xuống bậc thềm, chỉ thấy cung điện trùng trùng nối tiếp, đêm tĩnh tựa trong thơ.
“Vương gia.”


Chàng quay đầu lại, bắt gặp một gã nội quan, chắc khoảng hơn mười tuổi là cùng, cười hì hì hành lễ:
“Nô tì kính gặp Thập Nhất gia.”
Không đợi chàng trả lời, liền đi đến bên cạnh, Kính Thân Vương vốn đang không muốn gặp tên nội quan nào, cũng không nói gì. Nội quan kia đưa tay đỡ lấy cánh tay chàng, nói:
“Đêm khuyu gió rét, kính mong Vương gia giữ gìn thân thể.”
Kính Thân Vương chợt thấy lòng bàn tay cồm cộm, hình như là đã bị nhét vật gì vào, đang kinh ngạc thì gã nội quan đã thi lễ, khoanh tay rút lui.


Kính Thân Vương nhìn chung quanh không một bóng người, lúc này mới đưa tay lên, thì ra trong tay là một tấm khăn đội đầu  xếp thành hình vuông rất khéo léo. Nếp gấp của khăn cực tinh tế, phần chóp như ý được gấp cự kỳ rắc rối, mở ra thì trong có một mẩu giấy hoa mai nhạt màu, được bọc ở giữa là một hạt sen. Nương theo ánh đèn chiếu ra từ song cửa sổ hậu điện, đã thấy trên giấy viết “Mưa sa gió táp vỡ nhụy vàng/Phòng thúy đưa hương cành hợp hoan“ . Nét chữ mềm mại, hình như chính là bút tích của con gái. Tim chàng bỗng thót lên, đập thình thịch, hốt nhiên nghĩ đến người thiếu nữ hái hoa sen trên thuyền hôm ấy, che tay áo cười chúm chím, mắt đẹp ngoái nhìn, quả tim trong ngực chỉ thiếu điều muốn nhảy ra khỏi cuống họng.


Quả nhiên bên dưới còn có một dòng chưc cực nhỏ “Vừa gặp quân tử, lòng nào không vui? Đợi chàng nơi đường hẻm Trường Canh, chỉ nguyện lòng chàng thấu lòng ta.”
Lòng chàng thì đã ngổn ngang, chỉ không biết cô gái áo xanh kia thân phận ra sao. Thực ra ngày ấy nàng vận trang phục thiếu nữ, nhưng trong cung, cho dù là một cung nữu tầm thường, bản thân là Vương gia, hẹn ước vụng trộm như thế  cũng quả thật chẳng còn ra thể thống gì.


Gió đêm dịu dàng, cảm giác man mát, hương thơm trên giấy thư kia phảng phất đưa tình, dường như đưa thấu tận tim can con người . Không khỏi nhớ đến cặp mắt nọ, làm thu trong vắt, làm người ta hồn xiêu phách lạc mà tim đập chân run. Lúc này ca thổi đã mơ hồ, có tiếng nói cười loáng thoáng truyền ra từ điện trước, phỏng chừng Ngô Chiêu nghi lại vừa đàn tấu một khúc, dĩ nhiên cũng dẫn theo một tràng hưởng ứng vang dội . . . náo nhiệt như thế, mà trong đình này lại chỉ có mỗi trăng mờ sao thưa, chính mình cũng chỉ là một cái bóng cô độc, in trên nền gạch bóng sáng ngời.
Trong lòng chàng nóng lên, gặp nhau một lần nào có ngại gì!


Nghĩ như vậy, lập tức bước xuống bậc thềm. Chung quanh yên ắng không tiếng động, chàng bước rất nhẹ, cửa Thùy Hoa vốn có hai gã nội quan đứng canh, thấy chàng đi ra thì khom mình hành lễ, bị chàng xua xua tay không ngừng.
Dáng vẻ thì như là đang bước nhàn tản bộ, lần theo dãy tường cao cao, đi thẳng một mạch về hướng tây. Bất giác đi rất xa, vòng qua một bức tường, đã thấy một cái lối giữa, nơi đây một bên là tường cung cao cao, một bên còn lại chính là cung Trường Canh, cho nên cái lối đi vừa hẹp vừa dài này được gọi là đường hẻm Trường Canh.


Bóng đêm thực sự đã dày, chỉ nghe tiếng côn trùng vào thu kêu rin rít, trên trời sao sáng như thủy ngân, ánh sao không ngớt sà xuống bên mái ngói như ánh ngọc lưu ly. Xa xa tuy có một vài đốm đèn, song mọi âm thanh đều bị đình chỉ trong cái tĩnh mịch, không hề nghe nửa tiếng người nói chuyện.
Chàng đứng đợi rất lâu, sau cùng thấy một bóng đèn như sao, dần dần bước lại gần, trong lòng cảm thấy vui vẻ. Cầm đèn đến chỉ là một cô gái trẻ tóc mai trái đào, cũng không nói một câu, chỉ gật đầu với chàng một cái ý ra hiệu, đoạn đưa đèn dẫn lối.


Chàng theo cô ta đi xuyên qua con hẻm, đi dọc theo tường cung một hồi lâu. Trong bóng tối không phân biệt được phương hướng, chỉ cảm giác vừa băng qua một cánh cửa nách, cuối cùng lại vượt một con đường quanh co, rốt cuộc cũng thấy được mái hiên cung điện trùng trùng, một góc mái cong tà tà như chọc vào màn đêm.
Bước qua một cánh cửa hẹp rồi lại ra phía sau một tấm bình phong mà trong phòng vẫn chưa đốt đèn, hình như là một gian phòng nhỏ[1] nằm chếch bên điện.


Loại phòng nhỏ này xưa nay là phòng trực đêm của nội quan hoặc cung nữ. Cô gái kia dẫn chàng vào phòng, thi lễ xong liền cầm đèn lặng lẽ thối lui. Nhìn ánh đèn leo lắt những tia cuối cùng cũng dần biến mất đằng sau cánh cửa, trong lòng chàng bỗng nổi lên một nỗi bất an. Chóp mũi đã bắt được một làn hương thoang thoảng kéo đến, đích thị là loại hương đốt trong lò sưởi mà trong cung thường dùng, bên tai lại nghe thấy có tiếng bước chân lộn xộn, rồi có người bước vào trước điện. Nghe âm thanh tà áo quét sàn sàn, dường như là không chỉ có một người.
Chàng không khỏi kinh ngạc.


Tiếng con gái vừa đi lại vừa trò chuyện, cách hơi xa nên nghe không rõ. Bất chợt loáng thoáng có tiếng gọi “Nương nương” đập vào tai khiến chàng cả kinh, trước mắt bỗng nhiên sáng ngời, thì ra đã có người vén mành đem đèn tiến vào. Một ánh đèn đột nhiên bừng sáng như vậy, chói mắt vô cùng, không thể không đưa tay lên che con mắt, đã nghe thấy có người hốt hoảng kinh hãi mà quát:
“Ở đâu ra một tên điên lớn mật, lại dám xông bừa vào buồng ngủ của nương nương thế này?”


Lòng chàng chợt trùng xuống, chỉ cố hết sức mà mở to hai mắt, mới thấy đèn lồng sáng như tuyết. Cầm đèn là một người ăn mặc trang phục nữ quan, theo ánh sáng còn có thể thấy một vị mỹ nhân yêu kiều, vốn đã dỡ hết trang phục, chỉ khoác một tấm áo choáng trắng muốt, tóc mây chảy dài như ngọc đen nhánh, hơi rối, buông xõa trên mặt đất. Cả người nàng tựa như chạm khắc từ băng ngọc, ẩn hiện ánh hào quang lộng lẫy, Nữ quan cầm đèn đã tiến lên, ý như muốn làm bức ngăn cách.
Chàng kinh ngạc đến mức bật thốt lên:
“Là cô. . .”


Nhưng lập tức phát hiện, mỹ nhân thanh lệ này và cô gái hái hoa sen ngày đó có khí chất hoàn toàn khác nhau. Thiếu nữ hái sen mặc dù  dung mạo giống hệt người này, song hành vi cử chỉ lại tựa như bóng hoa chập chờn, tình nhàn ý hạ, mà người trước mắt thì tĩnh lặng như nước hồ sâu, kề cạnh một bên là mảnh rừng băng giá. Trong thoáng chốc chỉ cảm thấy hoang mang, mà bóng hình trước mắt thì như thật như huyễn, nhất định không phải là thiếu nữ hái sen rồi!
Mỹ nhân thanh lệ ấy khẽ nhíu mày, vẫn chưa nói một câu nào, ngoài cửa đã nghe có tiếng vỗ tay, nữ quan thảng thốt kinh hoàng, chỉ kịp nói:
“Nương nương, Hoàng Thượng tới!”


Đến mới thực là nhanh, miệng nàng không khỏi nhếch một nét cười lạnh.
Hoàng Đế đã vào đến cửa điện, nội quan cầm ngọn đèn sáng rực càng ngày càng gần, một vòng ánh sáng bủa vây quanh Hoàng Đế mà tiến vào hậu điện, mà nội quan dẫn đầu là Triệu Hữu Trí rốt cuộc đã cảm nhận được sự bất thường, nhanh chóng ngừng bước, Hoàng Đế cũng dừng lại. Nhưng vừa bước qua tấm bình phong, tất thảy đều không có cách nào che giấu được nữa, Hoàng Đế lập tức nghi nghi hoặc  hoặc  nhìn hai người bọn họ.
Dường như là có người thầm hít vào một hơi, sắc mặt Hoàng Đế ở dưới ngọn đèn hình như đã bắt đầu đen lại, cảm thấy không  thể nào tin nổi một màn trước mắt, cho nên hỏi:
“Ngươi làm sao lại ở chỗ này? Đây là cái chuyện gì?”


Kính Thân Vương chỉ buộc quỳ sụp xuống, không thể nói lời nào, Như Sương thì chẳng buồn nhúc nhích, vẫn đứng nơi đó, cười mà như không.
“Nói mau!”
Hoàng Đế đã giận tím mặt.
“Đây là cái chuyện gì?!”


Kính Thân Vương đã sớm đổ mồ hôi lạnh ròng ròng, biết rõ mạng mình hôm nay khó giữ, chỉ có thể liên tục dập đầu, gắng gượng nói:
“Thần đệ . . .”
Lại không thể thốt ra được chữ nào nữa.
Hoàng Đế tức đến phát run, quay ngoắt sang, con mắt tóe lửa nhìn Như Sương. Mà Như Sương thì hờ hững, nói:
“Bất luận thần thiếp nói cái gì, Hoàng Thượng đều cũng sẽ không tin. Hôm nay thần thiếp bị người ta hãm hại, cũng không còn lời nào để nói.”


Ngực Hoàng Đế phập phồng dữ dội, hô hấp dồn dập. Triệu Hữu Trí thấy tình hình không ổn, chỉ kêu lên:
“Hoàng Thượng!”
Hoàng Đế đã nổi điên:
“Người đâu! Truyền Dịch đình lệnh!”
Triệu Hữu Trí lại kêu:
“Hoàng Thượng!”


Đây là chuyện gièm pha trong cung đình, liên quan đến thể diện, Hoàng Đế mặc dù đang trong cơn thịnh nộ, song vẫn biết là lão đang nhắc nhở bản thân, chuyện như  vầy  tuyệt không thể để truyền ra ngoài. Mặc kệ xử lý thế nào, vạn vạn lần cũng không thể để cho bên ngoài biết được, bằng không có khác nào đem vua ra làm trò hề cho thiên hạ!


Khai triều đã ba trăm năm đến nay, trong cung cấm cũng chưa hề xảy ra một vụ bê bối đến thế. . . Hoàng Đế hung dữ lườm Kính Thân Vương một cái, bỗng muốn giết người, song gần như ngay lập tức đè xuống:
“Kính Thân Vương trong tình trạng sau khi say rượu, trước mặt vua đánh mất oai nghi, nói ra những lời ô uế với Hoàng Thượng, phải chịu giam giữ tại Bắc Uyển, từ nay về sau nếu không có chiếu chỉ cấm không được bước qua cửa Uyển nửa bước!”


Đây là giới cấm, Triệu Hữu Trí không khỏi thở phào một hơi, nhắc nhở Kính Thân Vương:
“Mau mau tạ ơn!”
Kính Thân Vương thì còn đang bất động đến cứng đờ ở đó, Hoàng Đế nhìn chàng trừng trừng, giống như chỉ muốn dùng ánh mắt mà xoáy hai cái lỗ trên người chàng. Triệu Hữu Trí nháy mắt ra hiệu, lập tức có nội quan tiến lên, ấn Kính Thân Vương dập đầu một cái, đoạn rời đi. Giữa điện im ắng không một tiếng động, lúc này chỉ nghe thấy âm thanh đồng hồ nước chảy, một giọt rơi xuống đánh tách một cái, qua một hồi lâu, lại tiếp một giọt, nghe như tiếng mưa rơi.


Hoàng Đế rốt cuộc mở miệng nói:
“Thục phi Mộ thị tố tiết không đoan, ngay hôm nay tước bỏ phong vị, phế làm thường dân, giam cầm trong cung Vĩnh Thanh.
Con ngươi đen nặng nề của nàng nhìn chàng, vẫn bình lặng như nước, Hoàng Đế cả giận nói:
“Còn không mau lôi ra ngoài!”


Nội quan lúc này mới lấy dũng khi tiến lên kéo nàng, nàng thản nhiên nói:
“Ta tự mình đi được!”
Nàng vẫn mặc bộ đồ ngủ, chân trần bước theo nội quan xuống bậc thềm, đi thẳng không buồn ngoảnh lại.


Sáng sớm hôm sau Dự Thân Vương mới biết được tin tức, trong cung cấm vốn bị giấu kín đến giọt nước cũng không lọt. Chàng chỉ biết Kính Thân Vương sau khi uống rượu thất lễ, va chạm với Hoàng Đế, cho nên bị giáng chức, vì vậy bèn nhân trước lúc lâm triều một mình thỉnh gặp, ý muốn cầu tình giúp Kính Thân Vương. Nhưng đứng đợi hầu ngoài cửa Nghi Môn rất lâu, vẫn chưa được triệu kiến, đến tận đầu giờ Thìn, Hoàng Đế vẫn không chịu cho khởi triều. Đợi thêm một lát, mới nghe Tiểu Hoàng Môn truyền chỉ lâm triều, lúc này mới hay thì ra tối hôm qua Tình phi lâm bệnh qua đời.


Tình phi đã bao năm nay mắc bệnh trầm kha, cho nên chuyện chết vì bệnh cũng không khiến người ta bất ngờ, theo lệ cũ trong cung thì sẽ hạ chiếu chỉ xuống cho bộ Lễ, mệnh làm lễ truy phong Thụy hiệu(danh hiệu sau khi chết), việc này cũng đều đã trong dự liệu. Một điều kỳ lạ chính là, buổi chiều lại có thêm một ý chỉ, khiển trách Thục phi Mộ thị tố tiết không đoan, “Mặc dù cai quản lục cung, lại còn nảy sinh lòng ghen tỵ”, đối với một Tình phi bệnh lâu năm đã “Không thể quan tâm được nhiều hơn” lại còn động tí là “làm ra vẻ bề trên”, cho nên phế truất phong vị, giáng làm thường dân, giam cầm trong cung Vĩnh Thanh.


Cái này thì quả thực là vượt xa dự đoán, bởi Hoàng Đế yêu quý Như Sương, chiều chuộng còn vượt ngoài quy chế, vì chuyện phong phi mà tranh chấp cùng quần thần, làm Trình Phổ tức giận mà đổ bệnh một thời gian. Có ai ngờ một Tình phi lâu nay thất sủng, lại có thể vì cô mà phế truất Thục phi Mộ thị, thực đúng là một cử chỉ khiến người khác bất ngờ.
Cũng vì đó mà không quá mấy ngày, từ triều đình đến dân chúng lần lượt nổi lên những lời đồn đại, truyền nhau rằng, Tình phi chết chính là do Thục phi Mộ thị hãm hại, cho nên Hoàng Đế cuối cùng đã đem nhốt vị “phi tần hồ ly tinh” họ Mộ vào lãnh cung.


*********************************


Mới đầu Dự Thân Vương cũng không để ý đến mấy lời đồn đãi này lắm, xưa nay người ta vốn tỏ vẻ khinh thường với Thục phi Mộ thị, cho nên vui sướng khi thấy người gặp họa, mượn chuyện Tình phi mà thêu dệt đủ điều bịa đặt. Không ngờ qua một vài ngày nữa, nội dung đồn đại lại dần thay đổi, ai ai cũng nói Thục phi bị phế chính là vì tư thông với Định Vịnh – em trai cùng mẹ của Hoàng Đế, mà Tình phi lại phá hỏng cuộc hội ngộ của hai người, cho nên bị Thục phi họ Mộ  sai kẻ đi đầu độc hòng giết người diệt khẩu, Hoàng Đế nổi trận lôi đình đã phế truất Thục phi, giam lỏng Kính Thân Vương.


Một khoảng thời gian, giữa phường buôn phố chợ bàn tán như đã tường tận lắm, mượn bữa trà dư tửu hậu, lại càng kháo cho nhau nghe thêm mười phần sinh động. Luôn luôn có khoảng dăm ba người tụ tập lại, đợi hầu bàn mang trà đến, còn chưa trò chuyện được mấy chữ, rốt cuộc vẫn là hoặc chủ hoặc khách sẽ có người lôi ra cái chuyện “Thiên hạ đệ nhất nực cười” này ra. Lại là Kính Thân Vương cùng Thục phi bí mật ước hẹn như thế nào, Tình phi tự mình đưa hoa lại vô tình bắt gặp hai người ra sao, Thục phi thẹn quá hóa giận ra sao, rồi cử nội quan tâm phúc bí mật bỏ độc vào cháo hại Tình phi như thế nào, mà Hoàng Đế thăm hỏi Tình phi lúc lâm chung, cuối cùng biết được chân tướng thì nổi giận đùng đùng suốt đêm tuyên triệu Dịch đình lệnh(bộ phận xét xử) . . .


Đầy đủ tình tiết tỉ mỉ như thể tai nghe mắt thấy, chuyện bê bối trong cung đình đến bực này dĩ nhiên sẽ làm cho người ta hiếu kỳ không thôi, người nói thì nước miếng bay vèo vèo, người nghe thì tấm tắc lấy làm hay.
Dự Thân Vương phải hơn tháng sau mới biết được ngọn nguồn, bởi vì thân phận của chàng tôn quý, hơn nữa lại có quan hệ cực kỳ thân thiết với Hoàng Đế, cho nên không ai dám đề cập đến chuyện này trước mặt chàng. Nhưng cuối cùng thì miệng lưỡi thế gian như nước sôi lửa bỏng, quả thực giấu giếm không được. Dự Thân Vương bấy giờ mới biết bên ngoài lại có mấy kiểu “Chuyện châm biếm” như thế, không khỏi lấy làm buồn lòng.


Vốn còn đang đợt lũ mùa thu trên sông Mẫn, vỡ đê cũng không ít hơn bốn chục địa điểm, ba châu mười lăm huyện cùng hàng vạn khoảnh (khoảng 6 6667hecta/1 khoảnh) ruộng phì nhiêu đều chìm ngập trong biển nước, mấy vạn dân tị nạn trôi dạt khắp nơi, rày đây mai đó, thậm chí còn phát sinh cả dịch bệnh, luôn phải cấp bách điều động lượng thực cùng thuốc men đi cứu trợ thiên tai.


Mà cuối thu thì ngựa béo, bộ phận quân Kỷ Nhĩ Mậu lại thừa dịp xuống nam, quấy nhiễu vùng quan ải Định Lan. Nguyên là hằng năm vào những ngày này đều có quân du thủ du thực đến xâm phạm, quân phòng thủ nhất thời sơ suất, lại để cho gián điệp trà trộn vào trong quan ải Định Lan, hơn mười gián điệp nửa đêm khuya khoắt đồng loạt phóng hỏa, quân dân toàn thành ồ ra dập lửa không kịp, trong một đêm rốt cuộc cả thành Định Lan bị đốt cho xơ xác tiêu điều.
Quan ải Định Lan chính là vùng cửa khẩu tây bắc được triều đình chú trọng nhất, gặp biến cố bất ngờ, tức tốc điều động quân đội đóng ở Hạc châu và Phồn châu lên bắc viện trợ, kịch chiến cùng kỵ binh của Kỷ Nhĩ Mậu đã lâu ngày, thế nhưng vẫn không thể nào phân chia cao thấp.


Mắt thấy đã không thể không điều tiếp bắc doanh đi cứu viện, cái gọi ‘loạn trong giặc ngoài’ chính là đây, ngay cả cuộc đi săn thú mùa thu theo lệ của Hoàng Đế cũng đều phải hoãn chưa biết đến khi nào. Mà Dự Thân Vương thân là tổng đương việc lớn quốc gia thì đã mấy ngày qua chưa hề chợp mắt, lại nghe thế gian đồn đãi mấy “chuyện châm biếm” như vậy, lập tức cảm thấy đầu váng mắt hoa, gắng gượng bám lấy bàn mà đứng lên, chỉ nói:
“Thay thường phục.”


Vẻ mặt đã trở lại như thường.
“Đi Thượng Uyển.”
Nguyên là bệnh dịch tràn lan, Hoàng Đế mấy ngày qua bị nhiễm gió lạnh, cho nên đã di giá đi Thượng Uyển dưỡng bệnh. Nội quan đại thần đều không hộ tống theo, cũng may ngựa phi như bay chỉ nửa ngày là đến nơi, xa xa đã trông thấy một hàng cây phong đỏ rực màu lửa, như bốc cháy cả một góc trời, thấp thoáng sắc đen ngọc lưu ly liên tục nhô lên hạ xuống, quả là một cảnh sắc thiên thu say đắm lòng người đất Thượng Uyển.


Tây Trường kinh khí hậu ôn hòa, hơi thu đậm đà trong màu lá phong đỏ chính vào đúng tháng chín, song, loại Hỏa Phong của Thượng Uyển thì khác hẳn các giống cây bình thường, mới tháng bảy mà lá đã đỏ như thiêu, cho nên mới nói: phong Thượng Uyển chính là một thắng cảnh kỳ quan, xưa nay vốn là nguồn cảm hứng cho biết bao thi từ ca phú của các bậc nho gia lão học.


Tinh thần của Hoàng Đế cũng không tồi, chỉ có vóc dáng hơi hao gầy, khoác tấm áo kép ngồi trên đài Thính Ba, nhìn xem bọn tiểu thái giám đang dựng giàn hoa cúc, đứng hầu phía sau vẫn là hái giám ban Ti Lễ Triệu Hữu Trí.
Thấy Trình Viễn dẫn Dự Thân Vương tiến vào, Hoàng Đế có vẻ rất hào hứng:
“Nghe nói đệ đang khủng hoảng ngập đầu, làm thế nào còn có thời gian rảnh rỗi mà đến thăm ta?”


Dự Thân Vương chỉ hành lễ mà không lên tiếng, Hoàng Đế mệnh cho Trình Viễn đỡ dậy, cười nói:
“Nhìn xem đệ gầy đến mức này, quả thực làm trẫm đâu lòng quá. Có chút việc nhỏ, cứ giao cho bọn đầy tớ làm là được rồi, phải biết tự chăm sóc bản thân chứ.”


Dự Thân Vương lúc này mới nói:
“Thần đệ có một yêu cầu hơi quá đáng, nhưng vẫn thỉnh Hoàng Thượng y chuẩn.”
Hoàng Đế hỏi:
“Chuyện gì?”


“Bắc doanh đang gấp rút đi tiếp viện quan ải Định Lan, thế nhưng lại chưa có người cầm quân, thần đệ thỉnh Hoàng Thượng đặc xá tội lỗi cho Thập Nhất đệ, để đệ ấy dẫn binh mà đi.”
Hoàng Đế thoáng biến sắc, nhưng trong nháy mắt đã cười:
“Võ tướng cả triều đình, tại sao lại chỉ muốn mình nó đi?”


“Thập Nhất đệ tuy là phạm lỗi lớn, nhưng vẫn là anh em cùng một mẹ sinh ra với Hoàng Thượng, mong Hoàng Thượng xét tình Hiếu Di Hoàng thái hậu, bỏ qua cho cậu ta một lần này.”
Hoàng Đế không đáp, trong phút chốc cả gian nhà thủy tạ (nhà xây trên mặt nước) trở nên yên ắng, chỉ nghe bên dưới đầm sen cuối mùa ngẫu nhiên “tách” một tiếng, chắc hẳn là một chú ếch còn chậm chạp chưa tấp bùn ngủ đông vừa nhảy vào trong nước. Hoàng Đế nhìn gợn sóng đang dần dần lan rộng đến xuất thần:
“Có bộ phận nào gây khó dễ, đệ cứ nói.”


Một “chuyện châm biếm” thiên hạ như thế, làm sao mà đem ra nói cho Hoàng Thượng nghe? Dự Thân Vương vẫn im lặng nhíu mày, có vẻ lập lờ:
“Kỳ thực là tính tình Thập Nhất đệ vốn giãi đãi, Hoàng Thượng cũng biết người ngoài . . . Huống hồ xử lý Thập Nhất đệ như vậy, không tránh khỏi bên ngoài có điều bàn tán.”


Hoàng Đế hỏi:
“Bàn tán cái gì?”
Dự Thân Vương thấy giấu giếm không được nữa, vả lại trong triều đình, chỉ e ngoài bản thân mình ra, cũng tuyệt không có hoàng thân quốc thích nào dám báo cáo lại với Hoàng Thượng, vì vậy bèn đem những lời đồn đãi tấu lại một cách giản lược nhất. Chàng đã cố tránh nặng tìm nhẹ, làm như nói bâng quơ, vậy mà vẫn khiến Hoàng Đế tức giận đến phát run lên, đứng phắt dậy, bước xuống khỏi ghế ngồi, đi đi lại lại hai vòng quanh nhà thủy tạ.


Dự Thân Vương thấy chàng nóng nảy, vội hỏi:
“Tứ ca, chuyện này nhất định là xuất phát từ bọn tiểu nhân có dụng tâm sâu kín, cố tình đi gieo rắc làm vấy bẩn danh dự cao quý của Tứ ca, xin người đừng để trong lòng. Thần đã mệnh cho binh mã cửu thành âm thầm bí mật điều tra, tìm cách ngừng mọi lời đồn đãi lại.”


Hoàng Đế tuy giận dữ mà lại cười:
“Hay, hay lắm.”
Chàng ngước mắt, nhìn về phía một mảnh hồ hiu quanh với những đóa sen đã tàn:
“Làm cho người ta truyền đại những lời như vậy, quả thực là thông minh đấy. Muốn dùng cách này mà bức ta phải thả Định Vịnh, khôi phục lại vương tước, đoạn sẽ giao phó trọng trách cho nó, hoặc sẽ phải giao nộp binh quyền, đổi lại trong dân gian sẽ không còn bàn tán về chuyện anh em ta có hiềm khích? Hừ, đáng tiếc, trẫm sẽ không để cho hắn được toại nguyện.”
“Lão Thất, đệ về kinh trước đi.”


Khóe miệng Hoàng Đế khẽ nhếch:
“Về phần ai lãnh binh đi Định Lan, trẫm sẽ tìm được một người tốt hơn . . . Duệ Thân Vương Định Trạm thuở nhỏ tinh thông binh pháp, võ nghệ dũng mãnh, hẳn nên để cậu ta lĩnh quân bắc doanh đi chi viện cho Định Lan đi.”
“Tứ ca.”


Hoàng Đế khẽ cười lạnh:
“Hắn đã cho rằng ta sẽ không dễ dàng giao binh quyền vào trong tay hắn, cho nên mới nghĩ xuống tay với Định Vịnh, hay thay một kế “Dương đông kích tây” này. Ha, cho rằng trẫm không dám sao, trẫm mới cho hắn biết thế nào là “gậy ông đập lưng ông”.


Bắc doanh chính là do một tay Dự Thân Vương khéo tổ chức dạy dỗ mà nên, toàn bộ binh tốt sĩ quan, hết thảy đều trung thành đáng tín nhiệm, vả lại vùng tây bắc đều là sa mạc hoang vu, triều đình chỉ cần nhanh chóng cung cấp lương thảo, nhất định đại quân sẽ không xảy ra biến cố gì.


Nghe những lời kia của Hoàng Đế, trong lòng Dự Thân Vương cũng đã thông hiểu mấy phần. Hoàng Đế hơi hơi nheo con mắt, vẻ mặt như thờ ơ:
“Về phần Định Vịnh, muốn thả liền thả đi, đồng thời sẽ cho nó đeo thêm tội ban sai, cùng đại quân của Duệ Thân Vương đi trưng thu lương thực.”


Trưng thu lương thực là một loại khổ sai chẳng khác nào khoai nóng bỏng tay.
Vì lũ quét hoành hành mà mùa vụ ở Lưỡng Châu vốn có tiếng “Gặt hái thành thục, thiên hạ sung túc”, năm nay đột nhiên lại gặp tai họa bất ngờ ít có, rốt cuộc đến một hạt thóc cũng không thu được. Dân tị nạn ào ào đổ lên bắc, sống lang thang bất định, dọc đường chết vì bệnh tật nhiều vô kể, còn đem ôn dịch mà lây lan đến cả những châu quận khác ở phía bắc. Các châu ở đất bắc vội vàng thi hành công tác phòng chống dịch bệnh, lại còn phải kiêm thêm việc phân phối lương thực đến vùng phía nam hòng cứu trợ thiên tai, quan lại cùng bách tính đều khốn khổ không sao kể xiết.


Mà tình hình chiến sự nơi quan ải Định Lan ngày càng căng thẳng, đại quân sắp tới sẽ tạm rút, trưng thu thuế ruộng cấp bách lửa xém lông mày, lại càng như trăm cân còn đổ thêm cân. Kính Thân Vương thì tính tình vốn cẩu thả lại cục cằn, điều cậu ta đi trưng thu lương thực, chỉ e cậu chàng sẽ làm mất lòng cho bằng hết toàn bộ đại quan tướng soái nơi biên cương mới thôi.
Qua một hồi trao đổi bàn bạc, Dự Thân Vương hành lễ cáo lui, Hoàng Đế bỗng gọi chàng lại:
“Lão Thất.”


Dự Thân Vương dừng bước, Hoàng Đế lại ngừng một chút, mới từ đôi môi mỏng nặn ra một câu:
“Cung Vĩnh Thanh, đệ gia tăng thêm người chú ý, đừng để cho nàng chết mất.”


Nhỡ mà Như Sương bị phế làm thường dân mà còn gặp chuyện gì ngoài ý muốn, rồi lại bị đồn đãi ra ngoài, chắc chắn lần này sẽ là một truyền thuyết cho rằng Hoàng Đế thẹn quá hóa giận mà “giết người diệt khẩu”, cái này có lẽ cũng sẽ là một kế hoạch về sau của Duệ Thân Vương, cho nên Hoàng Đế mới cố ý dặn dò như vậy.
Dự Thân Vương đáp:
“Thần đệ tuân chỉ.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

99#
Đăng lúc 19-6-2013 13:50:29 | Chỉ xem của tác giả

Chương 19: KHÚC VẮNG XIN ĐỪNG DẮT HƠI THU



Sắc trời đã tối, song Dự Thân Vương vẫn lên đường suốt đêm, tức tốc trở về kinh thành. Vệ sĩ hộ tống giơ cao bó đuốc sáng rực, tiếng bước chân nghe ầm ầm. Mảnh trăng non cong cong như chiếc lưỡi liềm ai bỏ quên trên cánh rừng sao, ánh trăng như nước, chiếu vào trên áo mũ binh giáp, trong trẻo lung linh như ngầm chứa đựng cả hơi băng. Mà trong rừng, cây cỏ đều vương những hạt sương đêm, gió mùa thu thổi qua mặt thứ hơi lành lạnh.
Trì Tấn Nhiên cưỡi ngựa đi sau Dự Thân Vương bị gió lùa cho rét run cầm cập, chỉ thấy Dự Thân Vương vẫn phi ngựa như tên bắn, gió thốc tấm áo choàng trên vai chàng bay phấp phới như lá cờ. Ngọn đuốc trên tay quân hầu cũng bị thổi cứ kêu phần phật, ánh lửa chiếu lên khuôn mặt của Dự Thân Vương, tranh sáng tranh tối.
“Vương gia!” Trì Tấn Nhiên thấy thân hình của chàng bỗng nhiên lệch sang một bên, không khỏi cả kinh kêu một tiếng. Dự Thân Vương theo phản xạ ghìm dây cương lại, dựng thẳng thân hình, có vẻ áy náy:
“Xém chút nữa thì ngủ luôn rồi.”
Trì Tấn Nhiên nói:
“Vương gia đã quá mệt mỏi, sau khi trở lại kinh thành cần phải nghỉ ngơi một chút mới được.”
Dự Thân Vương mạnh mẽ xốc lại tinh thần, đón nhận cái gió mùa thu căm căm một cách nghiêm nghị, cố mở to con mắt trĩu nặng, giọng nói vang vang:
“Trở về kinh lại càng nhiều việc, chỉ e càng không có thời gian mà nghỉ ngơi nữa.”
Trì Tấn Nhiên không nhịn được nói:
“Vương gia, việc có lúc nào xong được, tội gì mà phải hành xác mình như thế . . .”
Dự Thân Vương đáp:
“Ăn lộc của vua, trung tâm báo quốc, cúc cung tận tụy. Ta mà chết đi, thì ngươi vẫn còn phải đọc sách nhiều năm nữa, còn chưa biết sách thánh hiền đã đọc đến đâu rồi đó?”
Trì Tấn Nhiên cười hì hì:
“Ăn lộc của vua, trung tâm báo quốc, đạo lý này đương nhiên ta hiểu mà. Nhưng mà ngài cũng phải ăn ngon ngủ ngon, thì mới hoàn thành nhiệm vụ của Hoàng Đế giao được, chứ không đói bụng, hoặc ngủ thiếu, thì ý chí không ăn thua, rồi mọi việc sẽ thành hỏng bét cả.”
Dự Thân Vương rốt cuộc cũng bật cười, Trì Tấn Nhiên lại nói:
“Vương gia thân mang trọng trách, cho nên lại càng phải chăm lo cho chính mình.”
Dự Thân Vương đáp:
“Ngươi thật đúng là lôi thôi rông dài quá đi.”
Chàng ngẩng đầu lên nhìn ánh trăng đầy trời như sương, chỉ cảm thấy lạnh lẽo thấu xương. Hơn mười kỵ mã bảo vệ xung quanh, trong tiếng bước chân rầm rầm vẫn nghe thấy côn trùng kêu ri ri bên bụi cỏ, hơi thu càng đượm. Không nhịn được huýt sáo một tiếng dài, cao giọng ngâm:
“Tám trăm dặm hàng quân chia thịt,
Năm mươi dây, đàn bậy biên thành,
Mùa thu, bãi điểm binh.
Ngựa chiến “Đích Lư” phi khoẻ,
Cung giương, sét nổi, giật mình. . .”
(Phá trận tử – Tân Khí Tật – dịch: thivien.net)
Giọng ngâm đến đoạn này thì không khỏi thấp xuống.
“Đền đáp ơn vua lo việc lớn
Dành cho thân thế được thơm danh . . .”
Một câu cuối cùng, lại như một tiếng thở than não ruột.
Lúc vào đến thành thì ngày đã rạng, Dự Thân Vương trở lại trước phủ, trong phủ sớm đã có quan viên đứng đợi sẵn chờ hầu. Đợi đến lúc xử lý xong đống công văn, thì cũng đã qua giờ ngọ rồi, chỉ cảm thấy bụng đói như bị đốt, bấy giờ mới truyền dọn bữa trưa. Còn chưa ăn xong, ngoài cửa đã thông báo có thị lang của bộ Hộ và bộ Công đến thăm viếng.
Hai người kia vốn là vì việc cứu trợ thiên tai mà đến, bộ Hộ quản lý thóc gạo của ba mươi hai châu trong cả nước, xem xét lương thực còn lại bao nhiêu, thiếu bao nhiêu, còn có viện trợ cho xuất chinh bao nhiêu; mà bộ Công thì quản lý vận tải, mỗi ngày chuyên chở xuống phía nam bao nhiêu, nơi nào điều động nơi nào chuyển đi, đều là mấy chuyện vặt vãnh mà vẫn phải bận lòng.
Xong cuộc bàn bạc thì bóng chiều đã ngả về tây, Dự Thân Vương tự mình đưa tiễn hai vị thị lang ra tận ngoài hiên, hai người nói:
“Không dám! Thỉnh Vương gia dừng bước.”
Đoạn chắp tay làm lễ. Dự Thân Vương nhìn theo bóng bọn họ, lúc vừa quay lại thì bắt gặp gã nội quan chuyên hầu hạ theo mình tên Đa Thuận, nhớ tới lúc sáng sớm có sai gã vào cung nghe ngóng tình hình gần đây của phế phi Mộ thị, bèn hỏi:
“Làm thế nào mà bây giờ mới quay về?”
Đa Thuận vội vàng bước lên đỡ khuỷu tay chàng, trở vào trong điện rồi mới bày vẻ mặt đau khổ nói:
“Vương gia lại bắt bẻ nô tì rồi . . . Ngài nghĩ xem, cung Vĩnh Thanh là một nơi như vậy, loại người như nô tì làm sao có thể tùy tiện vào đấy được. Phải cho người quen tìm đủ phương pháp, khó khăn lắm mới nhìn đến được khuôn mặt của Thục phi, à không, họ Mộ.”
Dự Thân Vương đã bắt đầu cảm thấy mệt mỏi, cau mày bảo gã:
“Chọn chuyện gì quan trọng thì nói mau mau đi.”
“Vâng.”
Đa Thuận lo lắng mà nói.
“Theo như nô tì thấy, nô tì cũng đành lớn mật . . . chỉ e họ Mộ kia sống không được bao lâu nữa.”
Dự Thân Vương đang bưng tách trà không khỏi thoáng chững lại, một lúc sau mới nhấp một ngụm, lạnh nhạt nói:
“Như thế nào?”
Đa Thuận thưa:
“Nghe nói vừa vào cung Vĩnh Thanh liền bị bệnh, đến nay đã một tháng rồi, nô tì thấy bệnh rất nặng, nằm liệt giường chẳng còn biết gì, lại không có ai biết đến, đã thế còn không chịu để thầy thuốc xem mạch, có lẽ là gắng gượng cho qua ngày mà thôi.”
Dự Thân Vương còn đang trầm mặc, Đa Thuận đột nhiên nói:
“Vương gia, nếu không . . .”
Dự Thân Vương ngẩng đầu lên:
“Việc này giao cho ngươi làm, cần phải lo liệu một chút, tìm cách mời thầy thuốc, cũng nên trông nom nhiều hơn. Nếu như có chuyện gì, cứ chạy về báo cho ta.”
Đa Thuận không nghĩ chính mình hóa ra đã hiểu sai, cảm thấy bất ngờ:
“Vương gia, việc này thực ra là không hợp với quy định trong cung cho lắm, hơn nữa . . .”
Dự Thân Vương nói:
“Bảo ngươi đi thì cứ đi, nếu như cần phí tổn, cứ đi thẳng đến phòng thu chi mà lấy.”
Đa Thuận chỉ đành khoanh tay đáp:
“Vâng.”
Đa Thuận theo mệnh lệnh của chàng, đã sắp xếp cho một người vào trong cung Vĩnh Thanh, lặng lẽ thỉnh lương y hỏi mua thuốc. Tình trạng của Như Sương thì lại tốt một ngày, xấu một ngày, cuối cùng là vẫn chẳng đỡ hơn được tí nào. Dự Thân Vương theo lời dặn của Hoàng Đế, còn đang trăm công ngàn việc nhưng vẫn cho gọi Tể Xuân Vinh vào phủ, tự mình hỏi han một lần.
Vị Tể Xuân Vinh kia tuy là mát tay vào bậc nhất quốc gia, song cũng chẳng phải thần tiên, chỉ thành thành thật thật mà bẩm tấu với Dự Thân Vương:
“Thần đã cố hết sức, nhưng nương nương . . .”
Nói tới đây, vội vội vàng vàng sửa lại:
“Thứ nhân họ Mộ . . . Từ lần đẻ non trước, khí huyết đều hư tổn, căn bản là đã suy sụp, về sau tuy là có tăng cường điều dưỡng, rốt cuộc vẫn chưa có chuyển biến. Thần tài hèn học ít . . .”
Dự Thân Vương nói:
“Thôi, ta đã biết.”
Đoạn chuyển hướng câu chuyện, hỏi lão về tình hình bệnh dịch.
Dịch bệnh đã không còn là chuyện ngày một ngày hai nữa rồi, lũ lụt ở Giang Nam, người dân chạy nạn lánh thẳng lên bắc, không hợp khí hậu, dọc đường rất nhiều người mắc bệnh. Ban đầu là sốt nhẹ tiêu chảy, qua dăm ba ngày thì phát sốt nhiệt độ tăng cao, thuốc men đều không hiệu quả, ngã đùng ra đường, sau cùng cũng biến thành dịch.
Dần dần từ nam ra bắc, bệnh theo dân tị nạn mà lây lan, tuy rằng quan dân các tỉnh đều cực lực phòng hộ, nhưng thế đi của dịch chứng ào ạt, trước đó không lâu toàn bộ quận Trần An phía nam của Quân châu đều đã mắc bệnh, mà Quân châu cách Tây Trường kinh, chẳng qua cũng chỉ trăm dặm mà thôi. Dự Thân Vương hết sức lo lắng, bởi vì dân cư Tây Trường kinh đông đúc, lại là chốn hoàng thành, một khi bệnh dịch lan vào, hậu quả khó mà gánh nổi.
Tể Xuân Vinh nói:
“Thế tới của dịch chứng cực hung mãnh, kế sách hiện giờ, chỉ có thể là đóng cửa Tây Trường kinh, trừ quân cấp báo ngoại thành, còn lại những người khác ra vào đều phải chờ. Sau đó thì thiết lập một nhà tình thương, gom lại toàn bộ những người dân bị bệnh, nhất định phải cách ly bọn họ với người thường.
Thần còn có một kế sách này, trong thành chọn ra Hạnh Lâm đường, Diệu Xuân đường, Tố Vấn quán, Thiên Kim đường đi đầu, cùng hơn ba mươi nhà cất chứa và phân phát thuốc thang lớn nữa, Vương gia cũng nên ra lệnh cho phường hội, trong thời gian này phải liên lạc chuẩn bị sẵn thuốc men phòng bệnh truyền nhiễm.”
Với cái đầu tiên thì Dự Thân Vương khẽ lắc:
“Đóng cửa thành tuyệt đối không được.”
Về kế sách thứ hai, xem ra có vẻ khả quan, cho nên lập tức bố trí lập một nhà tình thương ở phía ngoại thành thưa thớt, phàm là dân lưu lạc đều đưa đến đó để điều dưỡng, tiếp đó lại liên hệ hơn mười nhà chứa thuốc lớn khác nhanh chóng đi phân phát thuốc men cho cả thành, ngăn ngừa dịch bệnh lan truyền.
Quả nhiên, trong kinh thành đã bắt đầu có người phát bênh, khởi đầu cũng mới khoảng dăm ba trường hợp, tức khắc sai người đưa đến nhà tình thương. Nhưng người bệnh biết rõ đến nhà tình thương thì cũng chỉ còn đường chết, không khỏi gào thét giãy giụa, ngay cả người nhà bệnh nhân cũng giấu giếm không đi báo.
Mùa thu, Tây Trường kinh mưa nhiều, mưa đổ ào ào không dứt, cư dân ở phía đông kinh thành đều nghèo, dân tị nạn chạy cả vào trong kinh thành nương nhờ nơi bạn bè thân thích. Một gian chòi dựng tạm lùn tịt, thường thường rác rưởi cặn bã giăng đầy trên đất, nước mưa tuôn xuống, ô uế chảy ra khắp mọi ngóc ngách.
Tuy là ăn nước giếng, song khí hậu Tây Trường kinh khô khan, đào giếng phải hơn mười trượng, thậm chí còn phải sâu hơn nữa mới có nước ngọt, nhà nghèo thì đào không nổi giếng sâu, bèn đào một miệng giếng nông rồi gạn mà ăn, mấy ngày mưa liên miên, nước giếng đã sớm ô nhiễm, vì thế một nhà bệnh, lập tức lây sang cả mười nhà. Cứ như vậy, dịch bệnh ruốt cuộc từ từ mà lan ra, thậm chí còn có vài hộ gia đình đồng loạt mà chết bệnh ngay giữa đường. Tây Trường kinh bấy giờ chẳng khác nào cái lồng ôn dịch đáng sợ, mọi người ai nấy đều bất an không thôi.
Những ngày này mưa như trút nước, Dự Thân Vương ở trong phủ nghe tiếng mưa rào rào, không khỏi thở dài. Đứng dậy tiện tay đẩy cửa sổ nhìn ra, chỉ thấy trời tối đen như mực, tựa như trên trời đã bị chọc một lỗ thủng, mưa cứ thế mà ào ào dội thẳng xuống.
Trong phòng lớn tuy được lát gạch xanh, nhưng đã phủ một tầng hơi nước mỏng, mưa kia rơi xuống mặt đất, bọt nước nảy lên, trông chẳng khác nào trong nồi nước sôi.
Chàng lo lắng cho đại cuộc, trong lòng cũng như đang tuôn mưa, cảm thấy không thể nào yên ổn. Hoàng Đế mấy ngày trước đã muốn trở về, bị chàng một mực ngăn cản lại . . . Bởi vì trong thành ôn dịch tràn lan, nghĩ Hoàng Đế vẫn tốt nhất là ở lai Thượng Uyển an toàn hơn. Mà trong thành liên lạc dường như đã bị cắt đứt hoàn toàn, bách tính ngay cả cưới hỏi hay tang lễ đều bị cấm chỉ, ai cũng không được qua lại với nhau, mỗi nhà đều phải khép chặt cửa, trên cửa còn treo một túi cỏ thơm, gọi là “Phòng dịch”.
Trong lúc đó, quan lại đồng liêu, nếu không có công việc quan trọng cũng không được đi lui đi tới, nghị triều tạm thời hoãn lại. Hoàng Đế vốn không ở trong kinh, cho nên quần thần mỗi ngày đều hội thảo trong phủ Dự Thân Vương, cùng bàn luận những chính sự quan trọng. Trình Phổ đã cao tuổi, lo lắng cũng không được nhiều nữa, nhưng phía nam cứu nạn, phía bắc động binh, việc to việc nhỏ, tất tần tật Dự Thân Vương cũng đều phải hỏi han.
Chuyện này cũng thôi không bàn nữa, quan trọng nhất lúc bấy giờ chính là tiền, bạc trong ngân quỹ quốc gia cứ liên tục chảy ra như nước, vậy mà vẫn không duy trì được cục diện.
“Không bột đố gột nên hồ.”
Thị lang bộ Hộ là Lý Tự thở dài.
“Vương gia cũng biết, sớm đã là thu không đủ chi, năm ngoái tuy có thu nhập được một khoản lớn, nhưng chi phí cho công trình thủy lợi cùng quân đội đều không ít, còn có xây lăng tẩm cùng việc đào mương ở Định châu, bốn cái thì đã khốn đốn vì ba cái, làm sao mà có thể ổn thỏa cho hết được.”
Khoản thu năm ngoái kỳ thực là từ tài sản của Mộ thị. Họ Mộ trăm năm danh gia vọng tộc, có ruộng lúa phì nhiêu, đất đai bạt ngàn, nhà cửa, vàng bạc, phải nói là đếm không xuể, đổi ra bạc cũng được hơn hai trăm bốn mươi vạn lượng, khiến cho triều đình cả năm qua cũng được sung túc.
Dự Thân Vương cảm nhận khí thu mát mẻ từ vạt áo, bên ngoài mưa vẫn rào rào, không khỏi nhăn mày.
Từ cửa ải cũng nhận được tin báo không hay. Tướng Bùi Tĩnh phòng giữ Hạc châu thống lĩnh viện binh, đã kịch liệt giao chiến cùng quân Kỷ Nhĩ Mậu dưới chân núi Mẫn Nguyệt đã mấy ngày, Bùi Tĩnh thì thua chạy te tua, hai vạn nhân mã mà tổn thất chỉ còn lại khoảng năm nghìn, không những không giải vây được cho ải Định Lan, ngược lại chính mình còn bị vây bên bờ Hắc Thủy.
Thị lang của bộ Binh lo lắng bồn chồn, nói:
“Bùi Tĩnh đã trấn giữ biên ải hơn mười năm, cũng đã giao tranh cùng Kỷ Nhĩ Mậu bao năm, không ngờ lần này lại lâm vào tình cảnh như thế. Tay chủ soái bên Kỷ Nhĩ Mậu, quả thực là không thể khinh thường.”
Tướng soái cầm đầu cuộc xuất chinh phía nam này của Kỷ Nhĩ Mậu, trước giờ còn chưa có danh vị gì, thế nhưng lại được người của Kỷ Nhĩ Mậu tung hô là “Thản nhã trạch kim”, tức là “Thần ánh sáng”. Vóc dáng cũng chẳng hề cao lớn dũng mãnh, thậm chí còn gầy yếu nhỏ thó hơn cả người thường. Tuy nhiên, chưa có ai từng được thấy bộ mặt thật của người này, lúc ra trận luôn mang mặt nạ bằng vàng, điêu khắc trên đó rất dữ tợn, cưỡi tuấn mã, nắm thương dài, toàn thân giáp sắt sáng ngời, phản chiếu ánh mặt trời như ngày chính ngọ, quả thực ẩn hiện khí chất thần linh oai nghiêm.
Cách dùng binh của hắn cực kỳ xuất quỷ nhập thần, mấy tháng nay giao chiến cùng Thiên triều, vậy mà vẫn bách chiến bách thắng, chỉ trong vòng một khoảng thời gian ngắn đã khiến cho ba quân nơi biên ải kiêng sợ.
Thám tử được phái đi thăm dò đã trở về, báo rằng người này chính là con tư sinh của Đại hãn Kỷ Nhĩ Mậu Tra Kha Nhĩ với nữ phù thủy Oman, năm nay mới mười sáu, ngoại hình xinh đẹp như con gái, cho nên mới phải mang mặt nạ vàng mà xuất trận, hòng trợ oai.
Lời đồn đãi cũng không kém phần ly kỳ, rằng người này thực ra cũng không phải là con riêng của Tra Khả Nhĩ, mà thực sự là một vị công chúa nhỏ tuổi nhất của đại hãn, vốn thuở nhỏ đã sùng võ hiếu chiến, tinh thông binh pháp. Cho nên lần này Kỷ Nhĩ Mậu tiến đánh phía nam, Tra Khả Nhĩ rốt cuộc phải giao phó cho con gái mình làm chủ soái. Kỳ thực theo tục lệ của Kỷ Nhĩ Mậu, con gái và con trai xưa nay vẫn bình đẳng, nếu như thật có chuyện này, thì cũng không phải bất ngờ cho lắm.
Tổng chỉ huy quân đội bắc doanh là Duệ Thân Vương, lúc nhận được điệp báo như vậy, chỉ ngửa mặt lên trời mà cười sằng sặc:
“Hay lắm, đợi đến lúc đại quân của ta bắt được cô công chúa nhỏ này, cũng hi vọng hai bên sẽ có mối nhân duyên tốt đẹp.”
Tên người hầu đứng một bên soạn công văn lúc nghe xong thì cũng không tỏ thái độ gì, song ngay tối hôm đó lại gửi một bức mật thư cấp báo cho Dự Thân Vương tường thuật lại sự tình, giọng điệu vô cùng rầu rĩ:
“Ý tứ bừa bãi, mồm miệng chớt nhả, biểu lộ ra cũng chỉ là cái loại vô tích sự đến phát khủng.”
Dự Thân Vương đối với việc Hoàng Đế phái Duệ Thân Vương thống lĩnh quân đội cũng cực không vừa lòng, bởi Duệ Thân Vương còn chưa từng một lần ra trận, cậy tài khinh người, chỉ sợ quân dành chiến thắng không phải dễ. Mà Hoàng Đế thì thờ ơ nói:
“Thắng thì thôi, mà không thắng thì vừa hay trẫm sẽ hỏi tội hắn.” (Á, anh gian xảo quá^^)
Nhưng quan ải Định Lan vùng tây bắc chính là điểm chủ chốt, nếu mất Định Lan, sáu châu ở vùng tây bắc nhất định sẽ rơi vào thế hung hiểm, kỵ binh của Kỷ Nhĩ Mậu có thể lập tức tiến xuống nam, dễ dàng đánh bại Trung Nguyên.
Dự Thân Vương nói:
“Tới lúc đó, chỉ e sẽ thành liên lụy đến cả đại sự thiên hạ.”
Hoàng Đế khẽ nheo con mắt, giống như cười:
“Nếu như liên lụy cả đại sự thiên hạ, vậy thì trước mặt tổ tiên xã tắc, giết một Thân vương, chung quy cũng thành xong chuyện.”
Đây là lần đầu tiên Dự Thân Vương nghe được một chữ “giết” phun ra từ trong miệng Hoàng Đế, nhẹ nhàng bâng quơ, lại làm cho đáy lòng người ta phát lạnh. Nhưng chàng xưa nay kính yêu Hoàng Đế, cho nên từ đó về sau cũng không còn đế cập tới.
Mà Duệ Thân Vương dẫn đại quân, lại không ngừng sai người trở về thúc dục lương thảo đòi thết đãi tiệc tùng, dọc đường lại còn quấy nhiễu dân chúng địa phương, làm các quan địa phương chạy theo cung phụng cũng không kịp, bèn đồng loạt gửi tham tấu lên. Mà Hoàng Đế thì xưa nay dung túng cho người anh em này, phàm có điều tấu, lập tức không phê chuẩn. Trong thời gian ngắn, cả bộ Binh, bộ Lại, bộ Hộ đều vì vị Vương gia kiêu ngạo ngang bướng này mà phải một bản, trái một bản, tấu chương cứ như tuyết bay lên vèo vèo, khổ không nói hết.
Đây vẫn chưa phải là chuyện khiến cho Dự Thân Vương đau đầu nhất, mà việc phòng bệnh ngừa dịch mới chính là đại sự khẩn cấp đến độ cháy sém lông mày. Bởi vì ôn dịch hoành hành, cả một kinh đô lúc bấy giờ tựa như một tòa thành trống, không khí trầm mặc đe dọa.
Cổng thành thì sớm đã cấm tiệt xuất ra nhập vào, các cửa hiệu đều đầu cơ tích trữ, tuy là quân đội mỗi ngày đều đi tuần, nhưng lòng dân vẫn kinh hoàng lo sợ không thôi. Mấy ngày sau, chuyện tình mà Dự Thân Vương cánh cánh nhất cuối cùng cũng đã phát sinh, trong cung đã có người bị nhiễm dịch chứng.
Tuy là Hoàng Đế không ở trong cung, nội quan bị bệnh chết cũng đã được đưa đi hỏa táng ở ngoại thành, nhưng chưa quá một ngày, đã lại có một cung nữ mắc bệnh, biểu hiện của bệnh không giống với dịch chứng, Dự Thân Vương tức khác ra lệnh phàm là cung nữ nếu bị bệnh đều phải đưa đến chùa Đại Phật Tự trong núi Tây Giác ở ngoại thành, tuyệt đối cách ly.
Mà chính Dự Thân Vương cũng đã ngã bệnh, thoạt đầu chỉ nghĩ là do làm việc quá sức mà ra, về sau mới thấy sốt nhẹ mà mãi không lui, mặc dù không bị tiêu chảy, nhưng vài ngày sau thì thuốc thang châm cứu cũng đã vô hiêu. Trong lòng chàng đã rõ, chỉ sợ bản thân cũng nhiễm dịch rồi, cho nên dứt khoát, một mặt sai người đi thông báo cho Trình Phổ, một mặt sửa soạn một mình di cư đến chùa. Sợ rằng Hoàng Đế sẽ lo lắng, cho nên đành giấu kín.
Đa Thuận khổ sợ khuyên bảo vô ích,không nhịn được ôm lấy chân chàng mà kêu khóc, Dự Thân Vương hỏi:
“Ngươi khóc cái gì?”
Đa Thuận vừa lau nước mắt vừa nói:
“Vương gia đi nơi nào, nô tì đến nơi ấy. Vương gia thuở nhỏ chính là được nô tì bồng bế, nô tì đã hầu Vương gia nhiều năm như vậy, từ sáng đến tối một ly cũng không rời, nếu Vương gia mà ruồng bỏ nô tì, nô tì cũng chỉ còn cách lập tức đập đầu vào cột mà chết.”
Dự Thân Vương thì đã phát nóng hầm hập, cảm thấy toàn thân đều uể oải, gã này lại còn lôi thôi vướng víu, chỉ đành dở khóc dở cười:
“Ta đi chừng dăm ba ngày là cùng, đợi hết bệnh rồi sẽ trở lại, ngươi còn bày ra cái vẻ khiếp nhược đó mà làm chi?”
Đa Thuận nước mắt nước mũi ròng ròng, nói cái gì cũng không chịu buông tay, Dự Thân Vương bất đắc dĩ, cũng đành phải để gã theo lên Đại Phật Tự.
Ngôi chùa Đại Phật Tự này vốn là nơi Hoàng Đế Nhân Tông tu hành sau khi nhường ngôi (wtf? NHÂN tông? tu hành? trùng hợp chăng@@), bao năm qua cũng chính là nơi lễ Phật của hoàng gia. Hơn một trăm năm rồi lại được xây cất thêm, đền đài gác Phật đều uy nghi tráng lệ, trong chùa còn có một pho tượng Phật bằng gỗ bạch đàn cực lớn, cao tới tám trượng, đội trời đạp đất, trang trọng uy nghiêm, được người trong thiên hạ xưng là kỳ quan, cũng vậy mà chùa nổi tiếng với tên Đại Phật Tự.
Dự Thân Vương đem theo Đa Thuận, người ngựa đơn giản mà ra khỏi thành, đợi đến khi tới được cửa chùa dươi chân núi Tây Giác, đã thấy đài vân chót vót, thềm đá như thang. Lúc đi lên trên, trời hoàng hôn mây mù tỏa khói như sắp mưa, mà điện chầu gác Phật nguy nga , khắp nơi trong chùa đều đốt thảo dược đưa hương thơm ngát, làn khói trằng mờ mờ ảo ảo lượn lờ trong góc điện, trên mái cong còn treo chuông đồng, lúc này bị gió thổi qua phát ra âm thanh lảnh lót trong veo, giống như cái khánh.
Phương trượng Trí Quang tự mình dẫn theo một chú tiểu sa di đi xuống nghênh đón Dự Thân Vương.
Đại Phật Tự vốn mang đậm cảnh sắc mùa thu, có “ba đặc sắc” nổi tiếng của Tây kinh, “ba đặc sắc” đó là chỉ phong rậm, quế thơm, trúc dày của chùa. Phía sau chùa nguyên là có một khoảng rừng trúc, trong bóng xanh ngọc bích, tiếng gió thở  vi vu tinh tế, lá vót nhọn nhỏ, chính giữa rừng trúc còn được đào một khe suối nho nhỏ uốn lượn, nước cũng trong mát như ngọc bích. Mặc dù lối đi được lát gạch, nhưng mênh mông vẫn là lớp lớp rêu xám, chỉ nghe suối chảy róc rách, âm thanh nghe như tiếng ai nói chuyện bên tai, rì rầm lúc được lúc mất.
Mọi người men theo con đường quanh co khúc khuỷu mà đi, qua một cây cầu trúc, mới trúc xanh dày đặc, che cả một mảng tường đá thấp lùn, trông như  những lớp tường trùng trùng bao quanh.
Dự Thân Vương tuy đã mấy lần tới chùa phụng Phật, thế nhưng chưa hề đi ra đằng sau, lúc này bắt gặp một khung cảnh u nhã tĩnh mịch như vậy, không khỏi cảm thấy nổi da gà.
“Tây Trường kinh không ngờ còn có một địa phương như thế này, nếu mà ngồi đây đóng cửa tĩnh tọa, hẳn cũng có người đốn ngộ cảnh thiền.”
Gió lùa qua lá trúc nghe rào rào như mưa rơi, đại sư  Trí Quang mỉm cười nói:
“Vương gia quả nhiên là người có thiện duyên.”
Xa xa trên cánh cửa thiền viện, chợt thấy một tấm hoành phi, nét chữ cực kỳ tao nhã, chính là ba chữ “Ngồi thanh tĩnh”, hai người kìm lòng không đậu bèn nhìn nhau cười.
Dự Thân Vương chăm chú nhìn nét chữ trong chốc lát, nói:
“Đây giống như là bút tích của Tiên hoàng Thắng Vũ Đế?”
Đại sư  Trí Quang đáp:
“Đúng vậy. Tiên hoàng Thắng Vũ Đế khi còn là một hoàng tử, nhân việc mẹ đẻ là Kính Tuệ Thái hậu băng hà, chôn cất tại bản chùa này, cho nên Thắng Vũ Đế bèn cất am ở đây chịu tang ba năm.”
Vì là bút tích của Tiên đế, Dự Thân Vương phải chỉnh đốn lại vạt áo, đoạn mới cung kính bước vào. Lúc vào trong viện, thấy song cửa sổ bằng gỗ sáng bóng, mấy chiếc bàn phản ánh màu xanh, toàn bộ thiền viện đều một sắc xanh biêng biếc, bài trí hết sức đầy đủ mà sạch sẽ.
Trong sân còn có đôi hàng cây ngô đồng, lá vàng rơi rải rác trên mặt đất, chất đống bên thềm. Dưới thềm dù được lát gạch, song rêu xám mọc nhiều, trông như những đụn hoa trắng. Mà ngước mắt nhìn lên, chỉ thấy rừng tre như biển, ngửa mặt lên mãi mới thấy lấp ló một góc trời trong vắt xanh biếc màu ngọc lưu ly.
Dự Thân Vương bất giác nói:
“Ở đây đọc sách thì thật tuyệt.”
Đại sư  Trí Quang cười không nói, bảo tiểu sa di đi pha một ấm trà thuốc. Hiểu biết về y học của ông rất khá, đích thân xem mạch giúp Dự Thân Vương, trầm ngâm nói:
“Bệnh của Vương gia không giống như dịch chứng.”
Dự Thân Vương trả lời:
“Đúng là không phải thật, lúc này đại dịch khắp thành, dù sao cũng sẽ phiền hà cho kẻ khác, cho nên ta mới tới đây.”
Trí Quang không khỏi chắp tay nói:
“Vương gia có lòng đại từ đại bi, nhất định sẽ được báo đáp.”
Nơi đây vắng vẻ tịch mịch, bên ngoài bức tường phía tây hốt nhiên vọng lại tiếng con gái khóc tu tu, nghe rất rõ ràng. Dự Thân Vương không khỏi cảm thấy bất ngờ. Đất Phật cửa thiền, làm sao lại có tiếng nỉ non của con gái, huống chi đây ở sâu trong rừng trúc, rêu phủ quạnh hiu, càng làm cho người ta tưởng là nghe nhầm.
Trí Quang nói:
“Nhà khách phía tây có vài vị nữ cư sĩ trong cung đến ở, cũng là vì bị bệnh mà đến. Vốn là Vương gia hôm nay tới đây, cho nên bần tăng bảo người giúp các vị ấy tìm một chỗ nghỉ tạm khác, chắc là vì không muốn di dời, cho nên mới khóc.”
Dự Thân Vương lúc này mới nhớ, thì ra là cung nữ đi dưỡng bệnh đây mà. Nghe người con gái kia khóc thật bi thương, trong lòng cũng không nỡ, nói:
“Thôi khỏi, cứ để họ ở chỗ này cũng được.”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

100#
Đăng lúc 19-6-2013 15:14:12 | Chỉ xem của tác giả

Chương 20: KHÓI NƯỚC THẨM SÂN SÂU LẠNH NGẮT



Dự Thân Vương thì nói thế, mà  Đa Thuận thì lại ra chiều không đồng tình:
“Ở gần như vậy, khí bệnh bay qua thì Vương gia làm thế nào được?”
Dự Thân Vương nói:
“Ta cũng là bệnh nhân, lại còn đi sợ khí bệnh?”


Đa Thuận không dám cãi lại, thấy tiểu sa di bưng trà thuốc đến, vội vàng tiếp lấy đem đi rót, lại đợi cho nguội bớt, đoạn mới đưa mời Dự Thân Vương. Đại sư Trí Quang nói:
“Trong chùa cũng chỉ có cơm chay, mỗi ngày sẽ sai đồ đệ đưa tới cho Vương gia, chỉ đành để Vương gia chịu khổ một phen vậy.”


Dự Thân Vương đáp:
“Nào có thể như vậy, phạm vào cõi bồng lai tiên cảnh, quấy nhiễu bậc chân tu đã là cực kỳ không phải rồi.”
Vì trời đã về tối, Trí Quang bèn cáo biệt đi trước. Dự Thân Vương tiễn ông ra tận mái hiên, bắt gặp một cảnh chiều hôm mịt mờ, làn khói lam bốc lên nghi ngút, rừng trúc sâu thẳm như sóng biếc biển cả. Mà tiếng chuông chùa ngàn năm xa xôi vọng lại bên tai, trong khoảnh khắc quả thực bay vút lên khỏi cõi hồng trần. Chỉ cảm thấy hơi nước trong trẻo quét qua vạt áo, ngọn gió mát thẩm thấu vào tận trong phổi.


Thời điểm thắp đèn, quả nhiên có một tiểu sa di bưng cơm nước đến. Thiền phòng sơ sài, đốt một ngọn đèn dầu, dưới ánh đèn lờ mờ nhìn kỹ, cũng chỉ thấy có cơm trắng cùng đậu phụ, ngoài ra còn một đĩa đậu mầm xào cải xanh. Dù chỉ là nước luộc canh suông, song Dự Thân Vương vẫn xới một bát cơm gạo lứt. Ngược lại Đa Thuận thì mặt nhăn mày nhó:
“Cơm gì mà nhiều sạn quá, ăn một miếng cơm thì kèm một hạt sạn.”
Dự Thân Vương cười nói:


“Trong lòng có sạn, trong miệng sẽ có sạn, lòng không có sạn, thì miệng tự nhiên cũng chẳng còn một hạt sạn.” (Oa, anh Thất nói một câu nghe có đạo vị nha^^, like)


Đa Thuận nửa cười nửa mếu:
“Vương gia, ngài thì còn có thể an nhàn thoải mái tĩnh tọa như vậy. Nô tì tuy là kẻ ngu dốt vô học, nhưng đã tới Đại Phật Tự cùng các Thái phi nương nương nhiều lần, đã ở trong miếu này thọ trai[1] mấy bữa, chẳng lẽ chưa lần nào được ăn đông cô mộc nhĩ, rau xanh trái ngọt hay sao? Không kể đến nấm hương, nấm rơm, kim châm, vân chi mà ngay cả nấm đầu khỉ, nấm gan bò tía cũng chẳng hiếm. Vậy mà hôm nay chúng ta tới, lại chỉ  cho ăn cái thứ này.”


Dự Thân Vương nói:
“Trong thành giao thông cấm tiệt, giá gạo cứ liên tục tăng lên theo cấp số nhân, tháng trước đại sư Trí Quang đã mở kho phân thóc, cứu tế người nghèo, trong chùa chỉ sợ lương thực cũng không còn nhiều. Ngươi chưa đi ra ngoài, còn chưa biết đó thôi. Bữa nay đã có một chén cơm mà ăn, lại còn chưa biết đủ.”


Đa Thuận vâng vâng dạ dạ,hầu hạ Dự Thân Vương ăn cơm, nghe ngoài kia cuồng phong cuốn qua rừng, lá trúc xào xạc, Dự Thân Vương hỏi:
“Mưa phải không?”
Nói chưa xong, đã nghe ngoài tán ngô đồng tiếng rơi tí tách, quả nhiên là mưa.


Mưa gió đêm thu vốn đã điêu tàn quạnh quẽ, huống chi là chốn chùa hoang sân vắng. Ánh đèn dầu trong phòng nhỏ như hạt đậu, chiếu qua song cửa sổ, bóng trúc âm u lay động, trên phiến lá ngô đồng giọt rơi tí tách, nhỏ nhặt mà liên miên, cái rét đêm thanh càng như thấu vào tận xương cốt.


Đa Thuận không khỏi rùng mình một cái, lấy áo choàng phủ thêm cho Dự Thân Vương, nói:
“Vương gia vẫn nên đi ngủ sớm, ban đêm ở đây lạnh hơn trong phủ nhiều lắm ạ.”


Mỗi chiều tối Dự Thân Vương đều bị lên cơn sốt nhẹ, lúc này đứng lên đã cảm thấy trong người nóng hầm hập, biết mình lại phát sốt, toan gật đầu, chợt nghe có người đẩy cửa viện. Tiếng bước chân bì bõm đã bước vào trong sân, đạp lên thảm lá, âm thanh sàn sạt giòn vỡ.


Đa Thuận quát hỏi:
“Ai đó?”
“Là nô tì, Trương Duyệt.”
Bấy giờ Đa Thuận mới đi ra gian ngoài, vén mành trúc lên nhìn, chỉ thấy một gã nội quan vận đồ đen quỳ ở ngoài thềm:
“Thỉnh an Vương gia.”


Dự Thân Vương lúc này mới nhớ, Trương Duyệt chính là kẻ đã được bố trí vào trong cung Vĩnh Thanh, bởi vì bệnh dịch hoành hành, toàn bộ người mắc bệnh trong cung đều phải vào chùa, Như Sương cũng chẳng ngoại lệ. Không đợi chàng mở miệng, Đa Thuận đã lớn tiếng trách mắng:
“Ngươi không hầu hạ Mộ thị cho tốt, đến đây làm cái gì?”


Trương Duyệt dập đầu sát đất, thưa:
“Nô tì muốn bẩm báo với Vương gia, nô tì nghe nói hồi chiều Vương gia đến chùa. Họ Mộ dường như không ổn, trong tình thế cấp bách nô tì cũng phải đánh bạo tự tiện đến đây, mong Vương gia thứ tội.”
Dự Thân Vương nói:
“Thôi miễn, rốt cuộc là chuyện như thế nào?”


Trương Duyệt đáp:
“Nô tì không dám nói, Mộ thị ở trong nhà khách Tu Hoàng, nô tì cả gan thỉnh Vương gia đưa ra cái quyết định.”
Dự Thân Vương biết nhất định là bệnh tình nguy cấp cho nên Trương Duyệt mới liều lĩnh đến đây, chỉ không nghĩ tới Như Sương cũng ở trong nhà khách Tu Hoàng, thực tế chỉ cách mình trong gang tấc. Chàng nhớ lại lời dặn dò của Hoàng Đế, thoáng lưỡng lự, bảo Đa Thuận:
“Xách đèn, bản vương đi xem.”


Trương Duyệt đi đằng trước đưa đèn lồng, Đa Thuận cầm ô che cho Dự Thân Vương, dọc theo con đường lát gạch ngập nước thẳng về hướng tây. Đêm đen như sơn, một mẩu đèn lồng nho nhỏ ánh da cam, quầng sáng cũng chỉ chừng trượng, trúc xì xầm như biển, ào ào tứ phía chỉ muốn ập vào ba người. Một đoạn đường ngắn ngủi hơn mười bước, thế nhưng lại như trải dài đằng đẵng chẳng tới.


Nhà khách Tu Hoàng vốn là khu viện nằm sâu nhất trong rừng trúc. Gạch lát mòn vẹt, cánh cửa nhỏ sơn đen đã bong tróc từng mảng, nhìn qua thì tưởng khéo léo tinh xảo, đến lúc lại gần mới biết ngay cả bức tranh chạm khắc trên nền sơn cũng đã phai không còn gì. Mà trong sân viện núi đá đan xen, bên bờ đá còn trồng hai gốc mai già cực lớn.
Vòng qua vách núi, mới thấy khuôn viên ánh đèn mờ mịt, Trương Duyệt đốt thêm đèn rồi mời Dự Thân Vương vào phòng, vách ngăn chạm trổ, thoang thoảng hương thuốc nồng đượm bay ra. Mấy chiếc bàn gỗ trong phòng đều cũ kỹ, theo ánh đèn chỉ thấy nước sơn bàng bạc phủ đầy bụi, càng làm tăng thêm vẻ tịch liêu của căn phòng.


Có cung nữ bước ra, Trương Duyệt hỏi:
“Mộ thị đã tỉnh chưa? Vương gia đến.”
Cung nữ kia luống cuống hành lễ không kịp, Dự Thân Vương nói:
“Thôi  được  rồi.”
Cung nữ trở lại vén màn, nhẹ giọng kêu:
“Nương nương, nương nương, Thất gia tới.”


Người trong cung đều gọi Dự Thân Vương là Thất gia, mà cung nữ này vốn là người hầu hạ cũ của Như Sương, cho nên vẫn cứ kêu nàng hai tiếng “nương nương”.


Nếu mà ở trong cung đình lễ pháp nghiêm ngặt, bị người nghe được chắc cũng chỉ có nước chết, song lúc này ở chùa, Dự Thân Vương đối nhân xử thế vốn rộng lượng, chỉ để ý nhìn vào Như Sương đang nắm trong màn. Vẫn là dung mạo như ngọc khi xưa, nay hơi thở yếu ớt, dường như đã thành vô tri vô giác, bèn hỏi:
“Tể Xuân Vinh đã đến khám chưa?”


Cung nữ thưa:
“Tể viện hôm trước phải đi Thượng Uyển, Trương công công thỉnh Hà ngự y đến xem mỗi ngày. Hôm nay vốn phải kê thêm thuốc, chỉ sợ giới nghiêm trong thành . . .”


Dự Thân Vương liền mệnh đi lấy toa thuốc đến xem, cũng chỉ có hai vị thuốc, trong đó có một vị là nhân sâm.
Do dịch bệnh nổi lên bốn phía, nghe đồn chỉ cần dùng nhân sâm cũng có thể phòng dịch, cho nên trong kinh nhân sâm cực kỳ quý hiếm, có cầm bảo vật mà đi đổi cũng không được. Vì thế bèn lệnh cho Đa Thuận:
“Ta nhớ ngươi có mang theo mấy mẩu nhân sâm,  trước mang đến đây đi.”


Đa Thuận không dám trái ý, chỉ đành đốt đèn về lấy thuốc đưa qua, giao cho Trương Duyệt. Lập tức đi sắc thuốc, cung nữ thổi cho nguội bớt, Trương Duyệt lại nâng Như Sương dậy, ý muốn đút thuốc cho nàng. Mà đôi môi Như Sương thì vẫn mím chặt, cung nữ cầm thìa, song không có cách nào nạy được khớp hàm ra, đã nóng nảy đến vã cả mồ hôi.
Dự Thân Vương nói:
“Để ta.”


Đi nhanh về phía trước, đoạn ấn vào huyệt Giáp Xa trên gò má nàng. Huyệt Giáp Xa chuyên điều khiển cơ nhai của con người, quả nhiên thấy môi Như Sương khẽ nhếch, cung nữ lập tức đút thìa thuốc vào, Dự Thân Vương thấy nàng vẫn còn nuốt được nước thuốc, trong lòng cũng hơi yên tâm. Nhìn nàng uống xong thuốc, Đa Thuận thưa:
“Vương gia, nương nương bệnh như vậy, đã không còn cách cứu vãn, chỉ có thể trông vào mệnh trời mà thôi. Vương gia vẫn nên về nghỉ ngơi, nương nương nếu có phúc, nhất đinh ngày mai sẽ tốt lên.”


Dự Thân vương vốn cũng đang là bệnh nhân, thấy tình trạng của Như Sương hơi khá lên, đêm nay cũng không có việc gì, mới khẽ thở dài đánh thượt, nói:
“Ôi . . . Nhìn vận khí của nàng cũng đã không còn . . .”


Cảm giác toàn thân vô lực, trong người càng nóng lên, chỉ đành dựa vào Đa Thuận mà trở về ngủ.
Đại sư Trí Quang thông hiểu y dược, mỗi ngày đều qua bắt mạch kê đơn cho Dự Thân Vương, Dự Thân Vương nhân đó thỉnh sư Trí Quang sang khám bệnh giúp Như Sương. Không ngờ sư Trí Quang vừa bắt mạch xong, sắc mặt đã trầm trọng, chậm rãi nói:
“Theo như mạch đập của vị cư sĩ này, nhìn qua thì giống như khí – huyết đều hư tổn, song xét cho kỹ càng, lại có chỗ kỳ quặc, hình như là đã trúng độc.”


Dự Thân Vương bất ngờ:
“Trúng độc?”
“Nữ cư sĩ này bị tổn thương hai mạch tâm phế, có vẻ quanh năm đều ăn loại thuốc lạnh mà ức, chỉ không biết đích xác là thuốc gì. Xem qua thấy tính dược cực mạnh, chỉ sợ độc tính lâu ngày khó mà bài trừ.”


Dự Thân Vương bất chợt nhớ lại ngày ấy hộ tống nàng đến hành cung, trên đường bệnh cũ của nàng tái phát, đã từng ăn một viên thuốc, hương thơm mát rất kỳ dị,  không khỏi nói:
“Ta đã gặp qua loại thuốc viên này một lần, toàn bộ đều màu xanh, to bằng hạt đậu tằm, thơm mát lạ thường, phảng phất như xạ hương nhưng lại không phải.”


Kiến thức về hạnh lâm của đại sư Trí Quang cực kỳ uyên bác, nghe chàng miêu tả như vậy, đã biết:
“Không phải là Hàn Chu Hoàn đấy chứ?”
Chắp hai tay, thầm tụng câu a di đà phật, đoạn nói:
“Tiên sư đã từng gặp trong sách cổ của người xưa ghi chép loại thuốc này, nói chỉ dùng Chu Sa cùng hơn mười loại kỳ dược hợp chế mà thành, mặc dù tạm thời làm cho phế quản thư thái, uống vào tất đỡ ngay tức khắc, thế nhưng dùng lâu thành nghiện, để lại hậu họa cho đời sau, ôi, quả thật là âm độc không thể dùng.”


Dự Thân Vương không ngờ thứ thuốc ấy lại có độc tính kinh người như vậy, hỏi:
“Có thể giải được chăng?”
Trí Quang khoát tay, nói:
“Tiên sư còn chưa lần nào tận mắt nhìn thấy loại thuốc ấy, bần tăng lại càng không, thực sự chưa có nửa phần chắc chắn. Có điều có thể nỗ lực một lần này xem sao.”


Ông cân nhắc rất lâu, đoạn mới đặt bút kê ra một đơn thuốc. Trong chùa vốn có kho thuốc, Trương Duyệt nhận lệnh đến chỗ sa di trông coi kho để lấy thuốc. Nhưng nay bệnh dịch hoành hành, dược liệu trong chùa  mười phần đã chi ra tám chín phần cho bách tính toàn thành, chỉ còn lại một hai phần không đủ dùng. Mà thiếu dược liệu rồi lại không có chỗ mà mua, cho nên mười ngày liên tục cũng không hề đạt được một chút hiệu quả nào.


Chính Dự Thân Vương thì cũng đang bệnh, may nhờ có đại sư  Trí Quang đến bắt mạch hàng ngày, cho nên mới cảm thấy dần hồi phục, chỉ còn lên cơn sốt mỗi đêm, đến sáng mai thì lại thôi. Hoàng Đế đã biết được tình hình của chàng,  lo lắng hết sức, ngày nào cũng cử người đến thăm hỏi.


Mặc dù sư Trí Quang đã cho biết là không phải dịch chứng, song Dự Thân Vương lo xa, lúc nào cũng ở sau cửa mà xua sứ giả đi, lại khéo léo thỉnh Hoàng Thượng chớ sai người đến nữa, tránh khỏi bị truyền nhiễm.
Bệnh trạng của chàng vẫn cứ dậm chân tại chỗ, trong khi đó Như Sương thì đã bắt đầu có chuyển biến tốt. Ngày hôm ấy Trương Duyệt báo lại:


“Cuối cùng nương nương đã tỉnh rồi, mặc dù chỉ trong chốc lát, nhưng dù sao cũng mở được mắt, còn hỏi một câu “Đây là đâu? , hiển nhiên là đã nhận thức được xung quanh.”
Dự Thân Vương cũng yên tâm:
“Chăm sóc cho tốt vào.”


Thấm thoát mười ngày trôi qua. Dự Thân Vương ở trong chùa, cảm thấy đời người chưa bao giờ thanh tĩnh như vậy. Mỗi ngày, tiếng tụng kinh vang lên trong tĩnh mịch, nghe trúc xì xào như mưa, tuy rằng chỉ có cơm cà cháo hoa, nằm sương ăn gió, song lòng dạ lại khoan khoái như được tẩy rửa.


Sáng tinh mơ hôm ấy, chân trời vừa rạng, đàn chim trước rừng trúc đã hát ca tưng bừng. Chàng chắp tay mà đứng trong sân, lắng nghe chim ca líu lo, trên mặt không khỏi mang theo nét cười. Đa Thuận lặng lẽ từ ngoài tiến vào, bắt gặp một cảnh như vậy, chỉ hận đến mức giãy đành đạch:
“Ông nội con ơi! Buổi sáng lạnh như thế này, đã không chịu khoác áo choàng còn đứng đầu con gió, quả thực là muốn mạng của nô tì mà.”


Dự Thân Vương lúc này lại nổi lên một đợt ho, ho khan hai tiếng, hỏi:
“Ngươi vừa đi đâu đấy?”
Đa Thuận trả lời:
“Nô tì đi thăm Mộ nương nương, nghe Trương Duyệt nói, ngày hôm qua nương nương còn ăn được vài thìa cháo, lại còn trò chuyện được đôi câu, trông đã chẳng khác nào người bình thường, xem ra, tình hình cũng  tốt đẹp lên rồi.”
Dự Thân Vương không khỏi mỉm cười nói:
“Đại  sư  Trí Quang là cây cao bóng cả trong nước, quả nhiên là có một đôi tay vàng.”


Đa Thuận nói:
“Cái gì mà bàn tay vàng cơ chứ, Vương gia bệnh lâu như vậy, mỗi ngày ông lão đều hết kê toa này đến toa khác, thế mà bệnh của Vương gia vẫn cứ nhùng nhằng không hết.”


Dự Thân Vương nói:
“Ngươi thì biết cái gì, thuốc và châm cứu khác nhau, còn phải dựa vào vận khí trời cho, tốt hay không tốt, nào có liên can đến thầy thuốc?”


Đa Thuận cười nói:
“Kỳ thực ở nơi này, nô tì cảm thấy tinh thần của Vương gia thoải mái hơn rất nhiều so với hồi trong phủ. Trước đây lúc nào cũng chỉ thấy Vương gia cau mày nhăn trán, mà mấy ngày qua lại thường nở nụ cười.”


Trong chùa ngày tháng trôi nhanh, nhưng là khoảng thời gian bình dị nhất trong đời, Dự Thân Vương trong cơn bệnh tật lại có thể thong dong tự tại mà ngồi tĩnh tâm. Thi thoảng sư Trí Quang cho mượn vài cuốn kinh Phật, cũng thong thả mà ngồi đọc. Lúc Đa Thuận sắc thuốc bưng đến, thấy chàng vẫn ngồi miết bên cửa sổ đọc kinh, lại cằn nhằn cấm cảu:
“Khó khăn lắm mới nói là dưỡng bệnh, cũng không chịu nghỉ ngơi một ngày, lại còn hao công phí sức đi đọc sách.”


Dự Thân Vương nghe thế, cũng chỉ cười mà thôi.
Chiều tối hôm đó Dự Thân Vương vẫn đang ngồi xem kinh sách, chợt nghe có tiếng bước chân dồn dập, chưa kịp đứng dậy, giọng nói hoảng hốt của Trương Duyệtt đã vang lên:
“Vương gia, Vương gia . . .”


Đa Thuận bước ra mắng:
“Cài gì mà cứ chuyện bé xé ra to thế?”
Trương Duyệt rã rời, nuốt nước bọt đánh ực, nói:
“Mộ nương nương đột nhiên lại không tốt, sư Trí Quang không có ở trong chùa, nô tì thật sự rất sợ . . .”


Bệnh tình của Như Sương lúc trước đã có chuyển biến tốt, giờ nghe Trương Duyệt kinh hoàng thất thố như vậy, Dự Thân Vương không thể không hỏi:
“Như thế nào?”


Ai cũng không biết đã xảy ra chuyện gì, đợi khi Dự Thân Vương bước vào nhà khách Tu Hoàng, chỉ thấy cung nữ đứng lộn xộn trốn ở góc phòng, chăn màn, gối nệm đều bị quăng bừa bãi trên đất, mà Như Sương thì đang co lại bên mép giường run cầm cập. Dự Thân Vương thấy môi nàng tím ngắt, hàm răng đánh lách lách, dường như đang rét đến cùng cực. Trương Duyệt đánh bạo nhặt tấm chăn lên đắp lại cho nàng, cả người nàng vẫn còn run bần bật, như con thú nhỏ co quắp thành một đống.


Dự Thân Vương đoán hàn độc đang phát tác, mà sư Trí Quang đúng lúc này lại còn đang đi phía đông thành phân kinh phát thuốc cho dân nghèo, không có trong chùa. Đành phải buộc lòng nghĩ biện pháp khác, bèn sai người mang tới vài tấm chăn nữa, Như Sương vẫn lạnh đến phát run. Sau cùng đem vài chậu than tới đặt trong phòng, vừa mới bưng chậu than vào, Như Sương đột nhiên bật cười ha hả.


Nàng bệnh lâu ngày, người gầy trơ xương, trông càng nhếch nhác gấp bội, lúc này cười để lộ hàm răng trắng nhởn, chăng khác nào bệnh nhân tâm thần. Thoáng một cái thình lình xô ngã cung nữ, mọi người chưa kịp ngăn, chỉ nghe “cốp” một tiếng, nàng đã đập đầu vào cây cột nhà, một dòng máu tươi lập tức trào ra.


Trương Duyệt cùng mọi người ai cũng kinh hoàng đến mặt cắt không còn giọt máu, Dự Thân Vương xông lên trước bịt lại vết thương trên trán nàng, máu phun qua năm kẽ ngón tay, chàng đưa tay lên thăm dò hơi thở của nàng:
“Vẫn còn thở.”


Trương Duyệt bị dọa cho choáng váng đầu óc, chỉ có Đa Thuận là phản ứng nhanh nhẹn, vội vàng vốc một nắm hương tàn trong lư, chạy đến cố gắng đắp lên vết rách trên trán Như Sương. Dự Thân Vương lại sai Đa Thuận chạy vào trong kho đem thuốc trị ngoại thương đến đây, Như Sương sớm đã hôn mê bất tỉnh.


Trương Duyệt sợ hãi nước mắt nước mũi tùm lum, run rẩy quỳ xuống, nói:
“Vương gia ban ơn . . .”
Dự Thân Vương nói:
“Thôi thôi, ai cũng không ngờ cô ta sẽ tìm chết, đừng tự trách mình quá. Vả lại ta đứng ngay chỗ nay mà còn không ngăn nổi, ngươi còn tội tình gì? Mau đứng lên đi.”


Trương Duyệt vừa quẹt nước mắt vừa nói:
“Ban ngày nương nương còn tốt như vậy, ai biết . . .”
Dự Thân Vương nhớ lại vẻ mặt thảng thốt của Như Sương hồi nãy, hình như đã phát điên, chắc hẳn là bị hàn độc đày đọa đến mức đầu óc bất thường, không nén được tiếng thở dài.
Đợi đến ngày thứ hai, đại  sư Trí Quang trở về chùa, qua xem xét thương thế của Như Sương, đích thân đến nói lại cho Dự Thân Vương:
“Trung khí của nữ cư sĩ này đã không đủ, lần này bị ngoại thương rất nặng, vết rách sưng đỏ,  lại còn phát nhiệt, sợ là hết sức hung hiểm.”
Từ hôm ấy trở đi, Như Sương vẫn mê man mãi không tỉnh. Mỗi ngày đều sốt cao không hạ, liên tục kéo dài đến mấy bữa như vậy, ngay cả thuốc thang đều trị không nổi nữa, cứ trơ mắt nhìn mà vô phương cứu chữa, Trương Duyệt cùng mọi người cũng chỉ đành lặng lẽ chuẩn bị hậu sự. Ai dè qua thêm vài ngày, Như Sương  đột nhiên tỉnh lại như một kỳ tích. Trí Quang thật sự bất ngờ, thử kê lại vài toa thuốc, quả nhiên tĩnh dưỡng dần dần hồi phục. Chỉ là Như Sương sau khi mêm man tỉnh dậy, như kiểu mất trí nhớ, chỉ nói:
“Đậy là nơi nào? Các ông mau mau đưa tôi về nhà đi.”


Cung nữ thấy nàng như vậy, dè dặt nói:
“Nương nương, ngài đang ở đây để dưỡng bênh. Chờ khỏi bệnh rồi, lập tức sẽ trở về trong cung mà.”
Như Sương nói:
“Nương nương? Sao cô lại gọi tôi như thế? Bắt ta vào trong cung làm cái gì?”


Phát ngôn hồ đồ như vậy, phải nói là tinh thần và trí tuệ hoàn toàn biến mất. Vẫn biết lai lịch của bản thân, thế nhưng năm qua xảy ra đủ thứ biến động, Mộ thị tru di tam tộc, nàng vào cung, phong phi, phế vị . . . dường như đều đã quên sạch. Chỉ biết bản thân là con gái họ Mộ, cho lên thường xuyên tranh cãi ầm ĩ, khăng khăng là phải về nhà.
Trương Duyệt không dám khinh suất, bẩm báo lại tường tận với Dự Thân Vương, lại thỉnh sư Trí Quang đến khám bệnh một lần nữa. Trí Quang ngồi trò chuyện hỏi han Như Sương cả buổi, sau mới nói lại với Dự Thân Vương rằng:
“Vương gia, nương nương bị ngoại thương ở đầu quá nặng, chỉ e là đã mắc chứng thất hồn.”


“Chứng thất hồn?”
“Sách y dược của tiền triều chép rằng, có một thương dân ở Tể châu là Vương mỗ, đi đốn củi thì bị cành cây đập mạnh vào đầu, tuy là tỉnh lại, nhưng toàn bộ ký ức của hơn mười năm trước đều quên hết, chỉ nhớ rõ những chuyện hồi còn bé. Người ta đều gọi là chứng “Thất hồn”. Xem bệnh trạng của chứng thất hồn, so với tình hình hiện nay của nữ cư sĩ, quả thực là giống y hệt.”


Dự Thân Vương nghe thế, tuy là chưa bao giờ gặp qua, cũng chỉ hỏi:
“Có phương pháp nào chữa trị hay không?”
Đại sư Trí Quang nói:
“Loại bệnh này bần tăng cũng đã từng thấy, bệnh này không phải về kinh mạch, nếu không có thần lực cực mạnh, chỉ e thuốc thường không linh.”


Dự Thân Vương thở dài:
“Cái mà gọi thiên mệnh chính là đây.”
Đại sư  Trí Quang chắp tay niệm Phật:
“Kiếp trước gieo nhân, kiếp này gặt quả. Nữ  cư sĩ này nghiệp chướng chồng chất, quả báo như vậy, cũng không phải là điều bất hạnh.”


Dự Thân Vương nghĩ, việc này hẳn là cần bẩm báo lên Hoàng Đế, mọi tình tiết lớn nhỏ, còn phải do chính mình viết ra, vì vậy trước tiên bèn đến nhà khách Tu Hoàng hỏi thăm.
Vừa bước qua cổng viện, chỉ thấy trúc mọc bít bùng, nhìn xuyên qua bóng trúc, Như Sương đang ngồi một mình dưới ô cửa sổ, chống má ngẩn ngơ mà nhìn vách núi. Bệnh của nàng đã dần hồi phục, dung mạo mặc dù không bì kịp vẻ xinh đẹp của ngày xưa, nét tiều tụy vẫn còn vương trên khuôn mặt, nhưng nhan sắc thanh khiết tinh thuần, vẫn mang dáng dấp một cô thiếu nữ con nhà khuê các.


Dự Thân Vương nhớ  có đôi dịp  gặp Như Sương ở trong cung, đều bị ngăn cách bởi lớp son phấn dày dặn, về sau mấy lần khốn đốn vì bệnh tật dày vò, dáng vẻ đã không còn bình thường. Hiện tại nàng áo trắng thuần khiết, cũng giống như bao cô thiếu nữ con nhà danh gia vọng tộc khác, dường như con người đã hoàn toàn thay đổi.
Cung nữ bưng thuốc đến, xa xa bắt gặp Dự Thân Vương cùng Đa Thuận bước vào trong sân, vội vàng nói:
“Tiểu thư, Dự Thân Vương tới.”


Như Sương sau khi tỉnh dậy, chỉ cho người ta gọi mình là “Mộ tiểu thư”, Trương Duyệt cùng mọi người không dám trái ý, sợ chọc nàng tái phát bệnh cũ, cho nên cũng đành gọi một tiếng “Tiểu thư”.


Như Sương nghe cung nữ báo lại, ngước mắt nhìn lên, quả nhiên trông thấy ngoài sân trúc xanh rậm rạp, có một người đàn ông mặc áo đen chắp tay mà đứng, tướng mạo khôi ngô, anh tuấn như ngọc. Nàng đứng dậy chỉnh đốn trang phục, cách một khung cửa sổ mà hành lễ, trong giọng nói dường như còn đượm một vẻ sợ sệt:
“Kính gặp Vương gia.”


Từ sau ngày bị bệnh, giọng nói của nàng đã trở về như cũ, nghe thật trong trẻo mà dịu dàng.
Sau đó, nàng theo tập quán như  của các thiếu nữ chưa gả, thuận tay đưa chiếc quạt lụa lên che khuất một phần khuôn mặt mình, chỉ lặng yên đứng cúi đầu, điệu bộ kính cẩn như mỗi lần gặp cha hoặc anh trai.


Dự Thân vương nhìn nàng hành lễ, phong thái ngượng ngùng e ấp như cô thiếu nữ, thấp thoáng đâu đó hình ảnh của  viên ngọc quý được nâng niu trong phủ họ Mộ khi xưa, lại nghĩ đến những lời nói của đại sư Trí Quang, ký ức mấy năm gần đây hoàn toàn biến mất, với nàng mà nói, hẳn cũng không phải là một bất hạnh. Trong lòng không nén được thổn thức cảm khái.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách