Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: kadaj97
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại] Trăng Lạnh Như Sương | Phỉ Ngã Tư Tồn

  [Lấy địa chỉ]
101#
Đăng lúc 26-6-2013 08:44:51 | Chỉ xem của tác giả

Chương 21: KHÓI NƯỚC THẨM SÂN SÂU LẠNH NGẮT



Dự Thân Vương viết một phong thư thuật lại sơ qua toàn bộ bệnh tình của Như Sương, sai người đem đến Thượng Uyển chỗ Hoàng Đế. Tức thì Hoàng Đế cũng có thư hồi đáp, trong thư không hề đề cập đến Mộ thị, chỉ đơn giản là dặn chàng dưỡng bệnh cho tốt, ngoài ra còn kèm thêm vài tập sổ sách, phê trên là “Cho Dự Thân Vương xem kỹ”.


Hóa ra là chuyện Duệ Thân Vương dẫn đại quân, dọc đường quấy nhiễu dân lành, rốt cục vào đầu tháng sáu cũng đã mò được đến Phồn châu, lực lượng đóng quân tại đó. Mà đô đốc Phồn châu là Lý Duyên đến trước đại trướng yết kiến, không biết vì sao lại chọc giận Duệ Thân Vương, bị người của Duệ Vương kéo ra ngoài trướng dùng gậy mà đánh cho đến chết.


Quân đội đóng giữ nơi Phồn châu thiếu chút nữa thì khởi dậy làm phản, may mắn một vị phó tướng dưới trướng Duệ Vương nhận được điệp báo, bí mật bẩm báo lại. Duệ Thân Vương lập tức mệnh cho ba quân vây chặt, tước hết toàn bộ binh khí của một vạn năm nghìn binh lính trong quân đội đóng giữ tại Phồn châu. Rốt cuộc còn chưa thấy mặt mũi đại quân của Kỷ Nhĩ Mậu ra làm sao, thì đã kịp bắt giữ một nghìn năm trăm  binh lính của quân nhà mình làm tù binh một cách gọn lẹ.(bó tay^^)
Dự Thân Vương cầm bản tấu chương đọc đi đọc lại mấy lần, mỗi một lần xem, đôi mày lại càng nhíu chặt hơn một phần.


Đêm sớm đã khuyu, Đa Thuận trở vào mấy lần, song không dám giục chàng đi nghỉ, chỉ có bưng trà rót nước. Sau cùng Dự Thân Vương cũng gấp bản tấu chương, mệnh Đa Thuận tắt đèn, bấy giờ mới đi ngủ.


Tuy là nằm xuống, nhưng mấy chuyện chính sự trong triều vẫn còn đang luẩn quẩn trong đầu, lòng dạ ngổn ngang, mãi mà vẫn không ngủ được. Bên tai tiếng mưa gió vẫn bịt bùng, chỉ cảm thấy toàn bộ âm thanh đều buồn tẻ, mưa giọt tí tách trên phiến ngô đồng, lạnh lẽo đìu hiu. Quả thực người xưa đã từng nói “Đêm dài gió trúc giục cành thu”[1].


Cứ nửa tỉnh nửa mê như vậy, mỗi đêm chàng đều lên cơn sốt nhẹ, lúc này nằm trên giường lại bắt đầu thấy nóng, trong mông lung chỉ cảm thấy ngọn lửa đèn dầu chập chờn rung động, rốt cuộc ban đêm vẫn không ngủ nổi.


Không ngủ được, nghe gian ngoài âm thanh hít thở đều đều của Đa Thuận thi thoảng ngưng lại, trong tiếng thở còn có tiếng ngáy, biết gã đã ngủ rất say, cũng không muốn làm kinh động, tự khoác thêm một tấm áo, kéo đôi giày, đoạn thong thả bước lại bên cửa sổ, đẩy cánh cửa ra. Không ngờ mưa đã thôi rơi, có ánh trăng cuối tháng rỉ qua tán ngô đồng chảy xuống đất, khắp sân trăng sáng như tuyết đọng, trong trẻo mà lạnh lẽo cả hồn người, trong thoáng chốc vì vậy mà hóa ngẩn ngơ.


Đang lúc xuất thần, chợt nghe có tiếng vi vu dìu dặt, dường như sáo mà không hẳn sáo, tựa như tiêu lại chẳng phải tiêu, âm thanh trầm buồn tao nhã, xuyên qua rừng trúc, thấu qua màn trăng mà vẳng đến, làn điệu hết sức đơn giản, điệp một lần lại ngắt ba lần. Chàng chăm chú lắng nghe một hồi lâu, mới nghe ra đúng là một khúc nổi danh thuở tiền triều,tên gọi  ”U hoàng”.


“Lẻ loi ngồi tựa khóm u hoàng
Đàn ngân một tiếng vẫn còn vang
Rừng sâu núi thẳm ai hay biết
Vầng trăng tri kỷ sáng ánh vàng.”[2]
(Dịch thơ: Đông Y Lâm)


Lời thơ được một danh sĩ tiền triều phổ nhạc, nhất vịnh tam thán, cực kỳ phong nhã. Chàng vẫn thường nghe người ta đàn tấu, không ngờ cải biên lại thành nhạc sáo, cũng  u uất rung động lòng người đến vậy. Mà tiếng sáo ngắt quãng, thổi được một lần, lại thổi lại từ đầu. Chàng không kìm lòng được bước ra dưới hàng hiên mà lắng nghe, dưới thềm từng tụm cỏ huyên chen mọc, vương đôi tấm mạng nhện, mà khúc nhạc lại bắt đầu nổi lên.


Mảnh trăng tàn trong sân ánh hàng cây ngô đồng, hơi lạnh thấm xương. Chàng lần bước theo tiếng nhạc dẫn lối, càng lúc nghe càng rõ, dường như còn cách không xa lắm. Lúc đi qua cây cầu trúc, trong tiếng suối róc rách lại lắng nghe, có vẻ đã ở ngay trước mặt, vì vậy bèn đi thẳng một mạch. May mà có ánh trăng bàng bạc, chiếu lên dòng suối như thủy ngân, chảy tràn qua cả con đường lát đá.


Vòng qua một góc tường thấp tè, chỉ thấy bên tảng đá cạnh bờ suối, có một thiếu nữ áo trắng đang tựa người vào phiến đá mà ngồi. Dưới ánh trăng, thấy nàng áo trắng còn hơn tuyết, tóc mây lõa xõa trên bờ vai, đen ánh như ngọc, mềm mại buông rủ đến tận gót chân. Khe nước tỏa mù uốn lượn, một làn gió thoảng qua, lá trúc trong rừng lại xào xạc như mưa, thổi bay làn tóc mây trên cánh tay nàng. Lúc bấy giờ mới bắt gặp cánh tay nõn nà như ngọc, mà giữa đôi môi áp một phiến lá trúc mỏng tựa phỉ thúy, khúc nhạc kia chính là từ phiến lá nàng dùng để thổi mà ra.


Cách dòng suối ngóng qua, cũng không rõ tình này cảnh này, như mộng tựa ảo, mà bóng người trước mắt kia, là tiên hay quỷ, là hồ hay yêu.
Nàng ở kia khẽ ngước đầu, bắt gặp Dự Thân Vương, đưa tay tuồn mái tóc dài, lúc này mới lộ ra hai gò má nhợt nhạt, không hề điểm một chút hồng hào. Con ngươi đen trầm lặng, loang loáng như làn suối phản chiếu ánh bạc, chỉ khẽ động là sẽ vỡ tan thành ngàn vạn bóng trăng, hào quang lấp lánh không ngừng.


Chàng hoảng hốt nói:
“Thì ra là cô.”


Nàng đứng dậy, bỏ là trúc khỏi miệng, tiện tay phất một cái, phiến trúc kia liền rơi vào trong dòng nước, nước suối dựa ánh trăng trông như thủy ngân, uốn lượn chảy về trước. Phiến lá trúc kia, cũng chỉ là nước chảy bèo trôi, xoay tròn theo dòng xoáy, vòng qua những mỏm đá nhấp nhô, chậm rãi trôi qua trước mặt chàng. Lá nhọn mà mỏng mắc vào sườn đá, nhưng chỉ trong chớp mắt, lại bị dòng nước cuốn theo, rốt cuộc cũng dần trôi về phương xa, nhìn theo đã mất hút.


Nàng vẫn đứng nguyên nơi đó, tư thái thướt tha yểu điệu tựa nàng tiên, ánh trăng tàn cuối tháng phủ trùm lên thân hình của nàng, hình như còn có đám khói mây chiều ráng lững lờ bay quanh.


Sau cùng, nàng thi lễ, trong giọng nói còn ẩn hiện một tia khiếp sợ:
“Vương gia.”


Dự Thân Vương thấy hơi không được tự nhiên, bảo:
“Không cần đa lễ như vậy.”


Trong chốc lát không nói lời nào.
Dự Thân Vương nghĩ đến thân phận tự thấy xấu hổ, đêm hôm khuyu khoắt, cô nam quả nữ với nhau quả thực quá mờ ám, bèn nói:
“Đêm khuyu gió lạnh, cô bệnh mới dậy, vẫn nên mau chóng trở về đi thôi.”


Dứt lời toan quay đi, ai ngờ Như Sương vội vàng kêu lên:
“Vương gia.”
Chàng dừng bước, Như Sương như cố lấy dũng khí, nói:
“Xin hỏi Vương gia, vì sao không cho Như Sương được về nhà?”


Ánh trăng thuần sáng, rơi đầy trên mặt đất như thanh sương. Chàng ngẩn ngơ mà nghĩ, thì ra là thế.
Thì ra, nàng tên là Như Sương. . .
Chàng nói:
“Trong thành bệnh dịch đang hoành hành, cho nên mới để cô ở trong chùa tĩnh dưỡng.”


“Nhưng mà . . .”
Như Sương khẽ nhíu mày, dưới ánh trăng nhìn lại, hàng lông mày nhàn nhạt như được vẽ một nét phấn xa xa, càng tôn lên một đôi con ngươi như nước:
“Qua ngần ấy ngày rồi, tại sao trong nhà vẫn không có một ai tới thăm tôi?”
“Nói là dịch chứng, đương nhiên không tiện sai người đến thăm hỏi.”


“Nhưng bà vú cùng Tiểu Hoàn, hai người ấy bất luận thế nào cũng sẽ không bỏ mặc tôi. Mặc kệ tôi có bệnh gì, họ nhất định cũng sẽ theo tôi.”
Dự Thân Vương không khỏi im lặng, bởi vì trong con ngươi nàng đã ngấn ngấn bóng sáng chợt vỡ òa, đã chực khóc rồi:
“Vương gia, ngài đừng gạt tôi . . . người trong nhà . . . người trong nhà tôi . . . đều đã chết rồi phải không?”


Thấy chàng vẫn lặng im như cũ, nước mắt nàng tuôn rơi lã chã:
“Có phải bọn họ đều đã bệnh chết, có phải không? Cho nên mới không cho tôi về, cho nên tôi mới một mình ở nơi này, có phải vậy không?”


Dưới bóng trăng chỉ thấy lệ nàng rơi trên vạt áo, lấp nhánh những viên trong suốt như ngọc, Dự Thân Vương bỗng nhiên trả lời cực dứt khoát:
“Phải.”


Hít một hơi, mới tiếp:
“Cô đoán không sai, bọn họ đều đã bệnh chết.”


Chàng vốn muốn nói họ Mộ đã bị tru di tam tộc, nhưng nghĩ lại Như Sương bệnh mới khỏi, sợ nàng sẽ bị kích thích, cũng không hiểu tại sao, lời nói đã chực tuôn khỏi miệng thì lại thay đổi ý định.
Dù là như thế, sắc mặt nàng cũng thoáng chốc tái nhợt đi, trăng chiếu xuống, càng như không còn một chút tia máu. Ngay sau đó, thân mình lay động run rẩy, đã mềm oặt ngã trên đất rồi.


Chỉ nghe âm thanh trầm đục vang lên, bọt nước bắn tung tóe khắp nơi, phân nửa người nàng đã ngập trong nước , cứ  như một đóa hoa cực nhẹ rơi tõm vào nước, lập tức bị nước suối đánh tan rã rời. Dự Thân Vương chần chừ trong giây lát, chỉ sợ nàng bị ngạt  mà chết, vì thế bèn nhảy vào dòng suối, vươn hai tay bế nàng lên. Nhưng khắp người Như Sương đều đẫm nước, lập tức cảm nhận được vạt váy ẩm ướt đã thẩm thấu một khoảng man mát trước ngực mình, ngấm vào tận trong tim.


Cơ thể nàng rất nhẹ, ôm vào ngực chẳng khác nào một đứa con nít, hai mắt nhắm nghiền, hiển nhiên là đã ngất đi rồi. Dự Thân Vương cứ ôm một cô gái mình mẩy ướt sũng mà đứng như vậy, nhất thời cảm thấy khó xử vô cùng. Suy đi nghĩ lại, vẫn thấy tốt nhất là nên đưa nàng trở lại nhà khách Tu Hoàng, vì thế bèn ôm nàng bước nhanh về phía nhà Tu Hoàng. Bên ngoài, chỉ thấy khoảng sân thanh tĩnh, lặng lẽ không một tiếng động phóng qua tường gạch, nương theo trăng sáng mà phân biệt phương hướng, vòng qua vách núi  đá, đi dọc theo đường mòn đến nơi ở của Như Sương.


Cánh cửa gian buồng vẫn đang khép hờ, ở gian ngoài, cung nữ nằm trên giường đang ngủ say. Chàng bế người vào phòng ngủ gian trong, ánh trăng rỉ qua khe cửa sổ mà tràn vào, chiếu lên trên hai tấm màn màu bạc đang mắc trước giường, phản xạ ánh hào quang trong trẻo mà lạnh lùng.


Chàng đặt Như Sương lên giường, giũ cái chan đắp cho nàng. Đang tính xoay người, ai ngờ vừa mới nhúc nhích đôi chân, ống tay áo lại bị Như Sương đè người lên. Chàng cố gắng giật nhanh ra, tay dùng sức, thân hơi nghiêng, chẳng biết đụng phải cái gì treo trước giường, chỉ nghe “cách” một tiếng, trong lòng trầm xuống, cung nữ ở gian ngoài đã choàng tỉnh, kêu lên:
“Tiểu thư?!”


Chàng không thể lên tiếng, cung nữ kia thấy Như Sương không trả lời, sợ có biến cố gì, liền muốn đi vào phòng ngủ kiểm tra. Dự Thân Vương nghe âm thanh cô ta soàn soạt trên đất tìm giày, trong lòng quýnh lên, mà Như Sương thì như cố tình lại đè lên phân nửa ống tay áo chàng, không giật ra nổi. Phá cửa sổ mà ra thì đã không kịp, nếu bị cung nữ mạo muội tiến vào bắt gặp, thì làm sao cho phải?


Nghe cô gái kia đã kéo giày lệt xệt đi lên, tiếng bước chân càng lúc càng gần, không thể nghĩ nhiều, xoay người nhảy thẳng vào giường, kéo tấm chăn lụa qua đắp trên người, tay trái gạt ngang, hai tấm màn bị gió từ tay chàng quạt mạnh, dập dờn bung ra, màn lụa xanh biếc đã lặng lẽ buông xuống. Cung nữ kia cũng đã bước qua tấm bình phong, lại khẽ khàng kêu một tiếng:
“Tiểu thư?!”


Dự Thân Vương lo lắng bội phần, cách tấm mành thấy cô gái vẫn chưa tiến lên trước, bấy giờ mới hơi yên tâm, ngay lúc đó, thình lình nghe ở dưới vành tai có người đang khe khẽ thở dài. Dự Thân Vương không khỏi chấn động, liếc mắt nhìn xuống, chỉ thấy con ngươi sáng ngời của Như Sương đang bình tĩnh nhìn mình.


Cơn kinh hoàng này không phải chuyện nhỏ, chỉ xém chút nữa nhảy dựng lên phát hoảng, nhưng thân mình vừa mới nhúc nhích, nàng đã vươn hai tay ôm lấy chàng, dù chưa dùng sức, nhưng trong gang tấc ấy, bên mép tóc của nàng tỏa ra hương thơm tnh tế, ngấm vào tận trong phổi, như thể ăn mòn cả xương tủy. Trong nháy mắt toàn bộ sức lực của chàng hoàn toàn biến mất, vừa muốn động mà chẳng thể động.


Nàng lại khẽ hắt hơi một cái, hỏi:
“Như Ý, động tĩnh vừa rồi là cái gì vậy?”
Thanh âm lười biếng, làm như vừa mới bừng tỉnh trong giấc mộng.


Cung nữ kia đáp:
“Không biết có phải là chuột không nữa.”
Nàng “ừm” một tiếng không nói gì nữa, có vẻ đã thiêm thiếp ngủ lại. Cung nữ  thấy nàng không nói chuyện, cũng tự giác lui ra ngoài.


Qua khoảng thời gian chừng tàn một nén nhang, nghe ở gian ngoài tiếng hít thở của cô cung nữ đã đều đều, ngủ say, chàng mới nói:
“Cô buông tay.”


Thanh âm cố đè nén thật nhỏ, chỉ sợ làm người ở gian ngoài tỉnh lại. Hơi thở của nàng như hương lan, pha phả trên mặt chàng, giọng nói cũng lí nhí như muỗi:
“Ta cố tình không buông đấy.”


Trong giọng điệu còn pha vài phần tinh quái của trẻ con.
Trên trán chàng đã toát mồ hôi lạnh, nói:
“Cô không muốn sống chăng, ta sẽ gọi người.”


“Nếu lúc này Vương gia kêu lên, toàn bộ những người trong viện này đều sống không nổi. Vương gia xưa nay là đấng hiền vương, tất không muốn liên lụy người người vô tội, lại càng không muốn liên lụy đến danh dự cao quý của Hoàng Thượng. Ta tuy là phế phi, nhưng nếu lan truyền ra bên ngoài, không mặt mũi nhìn người chính là hoàng gia. Huống chi Hoàng Thượng với Vương gia như tay như chân, dĩ nhiên cũng không thể để cho danh dự của Vương gia bị tổn hại.”
Trong đầu chàng giống như sấm lằn chớp đánh:


“Hóa ra hơn một tháng nay, bệnh của cô đều là  giả, cái gì mà chứng thất hồn cũng chỉ là giả, đều là cô diễn kịch!”
Nàng khẽ cười nhạt một tiếng, nói:
“Cái gì là thật, cái gì là giả, trên đời này nào có cái gọi là thực cùng giả rõ ràng như vậy. Nói nó thật, thì nó thật, bảo nó giả, nó cũng sẽ giả.”


Một giọt mồ hôi to như hột đậu thoáng trượt qua đầu mày của chàng:
“Cô bỏ vào trong lư hương cái gì vậy hả?”


“Không có bỏ gì khác, chẳng qua là thêm một chút Chu Linh. Hai ngày nay Vương gia bệnh tật ho lao chung quy là không tốt, cho nên vẫn liên tục uống Xuyên Bối Mẫu. Chu Linh này vốn cũng chỉ là một loại hương liệu hiếm gặp trên thế gian, nhưng nếu mà gặp được Xuyên Bối Mẫu, kỳ diệu thay lại có tác dụng cơ đấy. Ái chà, Vương gia, ngài nóng lắm sao, xem cái trán đầy mồ hôi này . . .”


Giọng nói của nàng ngọt như đường mật, vươn ngón tay chậm rãi xoa nhẹ cái trán đẫm mồ hôi của chàng.
Ánh trăng chiếu vào phòng mờ ảo, trong màn lại càng thêm mông lung, mặc dù nhìn không rõ dung mạo của nàng, song vẫn xinh đẹp vô ngần. Dự Thân Vương chỉ cảm thấy khắp người như bốc cháy, dùng toàn bộ sức lực cuối cùng, thình lình “bốp” một tiếng đã tát vào bên má nàng, âm thanh giòn giã vang vang. Như Sương giống như bị cái bạt tai của chàng đánh cho ngớ ra, một tay đưa lên ôm má, một tay chống thân mình nửa ngồi nửa dựa chỗ kia, không nói một lời nào. Chỉ nghe cung nữ gian ngoài trở mình, lại chìm sâu vào giấc ngủ.


Dược tính bắt đầu phát tác, xem ra đã dồn toàn bộ sức lực, song hơi thở vẫn gấp gáp liên tục. Như Sương thong thả nghiêng mình nằm xuống, mềm mại, quấn quít, hôn lên môi chàng. Chàng chỉ thấy đôi môi nàng lạnh lẽo, giống như đuôi cá,  bơi qua bơi lại không một tiếng động, mang theo hơi thở thơm mát, chạy trên tấm da thịt nóng bỏng của chàng.
Trong đầu óc hỗn loạn của chàng còn một tia lý trí cuối cùng, đưa tay muốn đẩy nàng ra:
“Không được . . .”


Nhưng lời nói đã bị đôi môi của nàng phủ lên, tay chàng đặt ở bên hông nàng, cách một lớp xiêm y ẩm ẩm mong manh, lòng bàn tay đã chạm vào da thịt trắng nõn mịn màng như phấn, không còn sức mà đẩy ra nữa. Trong lồng ngực cơn dục vọng đã nổi dậy khát khao, mà nụ hôn của nàng khẽ như phiến lá, dán chặt đê mê.


Nàng cứ từng nút từng nút một mà cởi bỏ hàng cúc trước vạt áo chàng, luồn tay vào bên trong lớp áo của chàng. Lòng bàn tay nàng lạnh ngắt, dán nơi lồng ngực nóng bỏng của chàng, lập tức tình dục mãnh liệt nổi lên, khó mà ngăn nổi. Rốt cuộc nàng dời môi, nhẹ nhàng cắn nơi đầu vai của chàng một cái, chàng chợt hít sâu một hơi, chỉ cảm thấy toàn thân máu nóng rừng rực sôi trào, đã sắp phá tung huyết mạch, bứt phá da thịt mà phun ra, hóa thành con thú dữ tợn, với hàm răng trắng nhởn như tuyết, tựa hồ chỉ muốn cắn xé hết thảy.
Vầng trăng dần ngả về tây, lọt qua song cửa sổ, chảy tràn trên đất như dòng thủy ngân.


. . .
Sáng sớm hôm sau mưa lại tuôn xối xả, biển trúc rì rào sóng lớn. Ngày cuối thu trời ướm hơi lạnh, Đa Thuận cảm giác ngủ mê man, lúc tỉnh dậy chỉ thấy ngoài cửa sổ trời quang sáng rõ, thầm than, hỏng rồi! Đã ngủ quên giờ. Vội vội vàng vàng đứng lên sửa soạn, đi hầu hạ Dự Thân Vương. Ai ngờ mới bước vào gian trong, buồng ngủ im ắng, vắng tanh không một bóng người.
Bên ngoài mưa giọt như dải tơ bạc, Đa Thuận mở ô lần theo con đường nhỏ đi về phía trước, con suối hẹp ngập nước, dòng chảy rất xiết, âm thanh róc rách vang to. Vòng qua một góc tường, rừng trúc càng ngày càng rậm, xa xa đã trông thấy một bóng người đứng bên sườn vách núi đá, trong lòng vui vẻ, bước lên trước giương ô che, kêu một tiếng:
“Vương gia.”


Dự Thân Vương “ừ” một tiếng, Đa Thuận thấy quần áo của chàng đã ướt sũng, ngay cả tóc cũng nhỏ nước giọt giọt, không biết đã đứng nơi này bao lâu rồi. Vì thế lại bắt đầu lải nhải than vãn:
“Vương gia mới khỏe lên được chút, lại không chịu thương chính mình, thời tiết như vầy, đứng ngay dưới mưa lạnh, còn không phải là muốn hành hạ bản thân hay sao?”


Dự Thân Vương có vẻ không kiên nhẫn nghe gã nói dong nói dài, bảo:
“Đi về thôi.”


Đa Thuận giúp chàng đưa ô, đi vài bước, Dự Thân Vương đột nhiên hỏi:
“Hoàng Thượng hôm nay có sai người đến hay không?”


Đa Thuận thưa:
“Còn sớm lắm mà, Hoàng Thượng nếu có sai người đến, chắc cũng phải sau buổi trưa.”


Bởi vì từ Thượng Uyển đến đây, phi ngựa cũng chỉ có hai canh giờ.
Dự Thân Vương không nói gì nữa, mãi đến buổi trưa, Đa Thuận mới cảm giác được sự khác thường. Dự Thân Vương sửa xong hết sổ sách, dáng vẻ đã vô cùng mệt mỏi. Đa Thuận rót một chén trà dâng đến, vô tình đụng phải tay chàng, chỉ thấy nóng rực, không khỏi cả kinh nói:
“Vương gia, ngài bị làm sao thế?”


Dự Thân Vương đáp:
“Chỉ là nóng lên mà thôi, nghỉ một chút được rồi.”


Tuy là nói như vậy, nhưng uống thuốc vào rồi, thật lâu vẫn không thấy hạ nhiệt, thậm chí liên tục ba bốn ngày sau vẫn không hề thuyên giảm. Bệnh chàng vốn đã dần dần có chuyển biến tốt, chẳng hiểu sao bỗng dưng tái phát trở lại, đã uống một chén thuốc rồi, cũng chẳng thấy hiệu quả là bao, trong lòng Đa Thuận không khỏi sốt sắng.


Hoàng hôn ngày hôm đó, mưa lại đổ xuống, chỉ nghe mưa táp trên lá trúc, sàn sạt vang lên, hơi thu hiu hắt càng nồng đượm. Đa Thuận đang sắc thuốc dưới mái hiên, chợt thấy cung nữ cầm ô, đỡ Như Sương tiến vào trong sân, vội buông cây quạt, bước lên đón, kêu:
“Mộ cô nương.”


Như Sương bệnh lâu mới khỏi, Đa Thuận thấy nàng chỉ mặc một bộ áo kép màu mận chín, lấp ló bên dưới sắc váy xanh lơ, viền váy đã bị nước mưa thấm ướt phân nửa, sạch sẽ thuần khiết, toát lên một vẻ gọn gàng tao nhã, chỉ hỏi:
“Vương gia vẫn tốt chứ?”


Đa Thuận mặt cau mày có, khe khẽ lắc đầu, nói:
“Lại vẫn là tình trạng khi trước.”
Dẫn Như Sương vào phòng, cách tấm mành bẩm:
“Vương gia, có Mộ cô nương tới.”


Dự Thân Vương còn đang nằm nhắm mắt dưỡng thần, Như Sương tự mình xốc mành lên. Đa Thuận vội phủ thêm áo choàng cho Dự Thân Vương, chàng đang bệnh, thiền phòng lại thô sơ, khoác áo ngồi trên giường, sắc mặt thoáng vẻ mỏi mệt.
Như Sương tha thướt hành lễ:
“Vương gia.”


Dự Thân Vương im lặng phất tay, Đa Thuận cũng biết ý lui ra ngoài.
Trong phòng yên ắng tĩnh mịch, chỉ nghe tán ngô đồng ngoài hiên soàn soạt mưa rơi, qua một hồi lâu, Dự Thân Vương mới nói:
“Rốt cuộc cô muốn thế nào?”


Đôi mày thanh tú của nàng khẽ nhíu:
“Ta hiểu ý Thất gia, ta làm cho Thất gia yên lòng là được.”


Chộp lấy thanh kiếm của Dự Thân Vương trên bàn, “soạt” một tiếng đã tuốt lưỡi, giơ ngang nơi cổ mình. Dự Thân Vương kinh hãi, không ngờ được nàng sẽ có hành động như thế, không kịp nghĩ nhiều, vươn tay muốn đoạt lại kiếm, ai ngờ Như Sương nắm cực chắc, cướp lại không nổi, trơ mắt nhìn thấy mép kiếm đã cách cổ họng nàng không quá nửa tấc. Chàng bật ngón tay trỏ một cái, vốn đã mang bệnh nặng, hai lần động mạnh như thế cơ hồ đã vắt kiệt sức. Rốt cuộc cũng đẩy được mũi kiếm,”keng” một tiếng kiếm rơi xuống mặt đất.


Chàng vừa mới vận hết  lực, lúc này hô hấp dồn dập, gập người mà ho khan, ho đến mức cả thân mình cũng run rẩy. Như Sương thong thả bước lên, vươn tay giống như muốn đỡ chàng, chàng hơi nghiêng thân hòng tránh khỏi tay nàng, lại ho đến nhăn cả trán, cũng không nói được một lời.


Chàng ho đến lục phủ ngũ tạng đều quặn đau, cuối cùng ngưng một hơi, gắng sức gạt tay nàng, giọng nói cực nhỏ, gần như không thể nghe ra:
“Người đáng chết không phải nàng, đáng chết là ta.”


Một câu chưa hết, bỗng nhiên cảm giác có vị tanh ngọt, không nhịn được phun một ngụm máu tươi.
Bên tai mơ hồ nghe tiếng kêu thất thanh của Như Sương, chàng chỉ cảm thấy đất trời chao đảo, đứng không thẳng nữa, cuối cùng cũng rơi vào bóng tối mông lung mà mềm mại.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

102#
Đăng lúc 26-6-2013 09:09:24 | Chỉ xem của tác giả


Chương 22: GIỌT NƯỚC TÍCH TẬN TẦNG MÂY THANH KHIẾT


Chàng sốt cao không hạ, bị bệnh nằm liên tục mấy ngày liền, mê man, khi mộng khi tỉnh. Trong mộng, dường như thanh sương chảy tràn trên mặt đất, trăng lạnh như sương.

Dưới ánh trăng, thấy nàng áo trắng còn hơn tuyết, tóc mây lõa xõa trên bờ vai, đen ánh như ngọc, mềm mại buông rủ đến tận gót chân. Khe nước tỏa mù uốn lượn . . . Thình lình, giấc mơ của những ngay ấu thơ lại ùa về, thời tiết rất lạnh, rất lạnh, Tứ ca dạy chàng tập viết, cầm chiếc bút, giúp chàng nắn nót từng chữ . . . Nhưng trong điện giống như có vết nứt . . . Lạnh đến nỗi toàn thân chàng đều phát run.  . .


Chàng tỉnh lại từ trong giấc mơ hỗn loạn, Đa Thuận nói câu gì, chàng cũng nghe không rõ, bởi vì cả người đều nóng ran, lại nặng nề thiêm thiếp mê man.


Rất xa rất xa có người đang gọi tên chàng  . . . Định Loan . . . Định Loan . . . Hình như là giọng của phụ hoàng . . . Nhưng phụ hoàng chưa một lần  dịu dàng mà gọi tên chàng như thế . . . Nhất định là Tứ ca, hồi còn nhỏ, cứ hễ đến thời khắc trong cung tổ chức tiệc mừng quốc khánh, chàng đều lặng lẽ trốn vào một góc, thui thủi không muốn gặp ai. Tứ ca luôn sai người đi khắp nơi tìm chàng, chàng không chịu lên tiếng trả lời, mà thanh âm kia thì vẫn kiên nhẫn không dứt “Định Loan” . . .


Sau cùng chàng bồn chồn tỉnh giấc, mí mắt nặng nề hé mở, ngọn đèn dầu trong phòng nhỏ như hạt đậu, bóng lửa chờn vờn, ngoài cửa sổ, tiếng mưa rả rích rơi, thu lạnh đến thế. Miễn cưỡng mở to hai mắt, thấy dưới quầng sáng mông lung, hiện ra một khuôn mặt cực kỳ quen thuộc, hoảng hốt cả kinh:
“Tứ ca?!”


Hoàng Đế là cải trang mà đến, Triệu Hữu Trí đứng ngay đằng sau. Thấy chàng tỉnh lại, Hoàng Đế đưa tay đè chàng nằm xuống, hòa nhã nói:
“Nằm đi, đừng động đậy gì cả.”


Chàng lại ngọ nguậy muốn đứng lên, Hoàng Đế vận sức vào tay:
“Lão Thất!”


Kỳ thực toàn thân đã mệt mỏi cùng cực, dùng hết sức vẫn bị Hoàng Đế cản lại, chàng rã rời đổ phịch lên gối:
“Tứ ca . . . Sao huynh lại tới đây . . .”
“Ta lo lắng lắm, cho nên đến thăm.”


Hoàng Đế cười thật điềm đạm, mặt mày vẫn thản nhiên ôn hòa, tựa như vẫn là người anh luôn luôn dốc lòng che chở chàng của mười năm trước.
“Đệ làm sao mà bệnh đến mức này?”


Ngoài cửa sổ giọt mưa tí tách, gió thoảng qua lá trúc, Dự Thân Vương lẩm bẩm:
“Trời mưa . . .”
“Phải, trời mưa, ban đêm trời lạnh . . .”


Hoàng Đế giúp chàng chỉnh lại chăn cho ngay ngắn, nhẹ nhàng nói:
“Bệnh của đệ đều là do quá cật lực mà ra, nghỉ ngơi thoải mái vài ngày, an dưỡng cho khỏe lại.”
Trong lòng Dự Thân Vương run lên, kêu một tiếng:
“Tứ ca.”


Hoàng Đế nắm tay chàng, hỏi:
“Chuyện gì?”
Chàng muốn nói lại thôi, cuối cùng chỉ nói:
“Ý chí của Định Trạm không nhỏ, mọi sự Tứ ca đều phải cẩn trọng.”
“Ta biết.”


Khóe miệng Hoàng Đế khẽ cong, phảng phất một ý cười lạnh:
“Hắn liều mạng dâng nửa giang sơn cho bọn giặc Hồ((thời xưa chỉ các dân tộc phía Bắc và phía Tây Trung Quốc), hẳn cũng muốn mưu đồ tạo phản.”


“Con người Kỷ Nhĩ Mậu trời sinh tàn bạo giảo hoạt, kỵ binh tung hoành, Thiên triều phải liên tiếp tấn công mới có cơ may thắng.”
Dự Thân Vương lại hổn hển một hơi.


“Định Trạm chỉ sợ là muốn dẫn sói vào nhà, trọng yếu nhất là hai châu Hoằng, Nhan.”
Trấn thủ hai châu Hoằng, Nhan chính là Định quốc đại tướng quân Hoa Lẫm, vốn sầu não vì sự cố của Hoa phi đã lâu. Hoàng Đế tuy đã dùng nhiều phương thức hòng xoa dịu, thế nhưng Hoa lão tướng quân dường như đã kiên quyết, thời gian không lâu liền đệ trình một bản tấu xin từ quan về ở ẩn. Hoàng Đế vừa nhớ đến lại thấy nhức đầu, song trước mặt Dự Thân Vương cũng chỉ an ủi:
“Hoa Lẫm tuy là cao tuổi, song cũng chẳng đến nỗi già mà hồ đồ, chuyện này đều không phải gấp, đệ cứ an tâm mà tĩnh dưỡng là được.”


Dự Thân Vương vốn phát nhiệt còn chưa hạ, thần trí uể oải đến cực điểm, gắng gượng nói chuyện cùng Hoàng Đế chốc lát, rốt cuộc lại mơ màng thiếp đi. Vì Hoàng Đế cải trang mà đến, ngoại trừ nội quan, chỉ dẫn theo một cấm vệ quân trong ngự doanh làm hộ giá.


Nhìn mưa rơi vội vã đêm thâu, gió thu mang hơi thu đều lạnh đến thấu xương, tiếng mưa lộp bộp trên rừng trúc, càng làm tăng thêm cảm giác quạnh quẽ, cũng không thể không trú lại chùa một đêm.
Cũng may Đại Phật Tự từ trước nay đều là nơi lễ Phật của hoàng gia, thiền phòng tăng xá sạch sẽ cũng không thiếu, Trí Quang đại sự đã sớm sai người bố trí ổn thỏa. Triệu Hữu Trí đốc thúc tiểu thái giám đi dọn dẹp giường, lau dọn sạch sẽ, lại tự mình hầu hạ Hoàng Đế thay đổi trang phục. Hoàng Đế không buồn ngủ lắm, ngồi dưới bậu cửa sổ, nghe bên ngoài kia mưa sa gió giật, tựa hồ thoáng ngẩn ngơ.


Triệu Hữu Trí biết chàng lo lắng bệnh tình của Dự Thân Vương, không dám lắm mồm khuyên bảo, chỉ chỉnh cho đèn sáng thêm, nói:
“Đã là canh tư, thỉnh Vạn Tuế gia vẫn nên đi ngủ.”


Hoàng Đế ừ một tiếng, ngoài kia gió thét mưa gào, rừng trúc lay động trong rả rích, làm người ta cảm giác như sắp nổi lên phong ba bão táp.


Chàng ngủ không yên giấc, sáng sớm tinh mơ đã thấy tỉnh, mưa vẫn giọt giọt tí tách rơi quá nửa đêm, đến tận bình minh vẫn còn đọng lại chút dư âm, leng keng có tiếng chuông gió đầu hiên, càng như vọng lại hơi lạnh lắng lòng. Lại nhớ đến bệnh tình của Dự Thân Vương, vừa tỉnh dậy đã sai người đi hỏi, báo rằng Dự Thân Vương vẫn chưa tỉnh. Hoàng Đế lo lắng không thôi, Triệu Hữu Trí thấy vậy khuyên nhủ:


“Vạn Tuế gia vẫn nên khởi giá về Thượng Uyển thôi, ở trong chùa này cực kỳ bất tiện, vả lại kinh thành bệnh dịch tràn lan, Hoàng Thượng lại là cải trang đến, khiến lòng Thất gia chỉ có bất an.”


Hoàng Đế nhìn mưa ngoài cửa sổ, nói:
“Trẫm ra ngoài một chút.”


Triệu Hữu Trí không biết làm sao, đành phải gọi tiểu thái giám đi lấy ô to bằng giấy dầu, nhắm mắt nhắm mũi mà theo đuôi Hoàng Đế. Hoàng Đế như tùy ý mà đi, dọc theo con đường lát gạch ngập nước hướng về phía nam. Vòng qua rừng trúc, xa xa trông thấy một tòa tháp cổ màu gạch xanh, hình tháp như cây bút, thấp thoáng vài đám đỏ sẫm như lửa. . . chính là hai gốc cây thích đại thụ sau tháp, lá cây đỏ rực như bùng lên.


Hoàng Đế chắp tay đứng lặng hồi lâu, ngưng mắt nhìn lá đỏ dưới chân tháp, không biết đang nghĩ gì. Triệu Hữu Trí cũng chẳng dám nhúc nhích, chỉ là cánh tay cầm dù đã vừa tê vừa mỏi, lại không dám lên tiếng. Ngay lúc còn đang không biết làm sao, chợt thấy từ trong rừng trúc một bóng người bước ra, không khỏi lắp bắp kinh hãi.


Hoàng Đế hình như cũng đã phát hiện, quay đầu, chỉ thấy người kia áo trắng tóc đen, tay xách một cái làn trúc nho nhỏ, bên trong đựng đầy hoa cúc vàng, càng bước càng gần. Gót sen khoan thai, dung mạo so với hoa cúc kia lại càng trong trẻo mà lạnh lùng, Hoàng Đế chợt cảm thấy lóa mắt.


Nàng bắt gặp Hoàng Đế đứng đó, nghiêng đầu khẽ liếc, bỗng nhiên hé cười, hai lúm đồng tiền lồ lộ. Cũng không cầm quạt, bèn đưa cành hoa cúc lên che mặt, lúng liếng xinh đẹp, lại cúi đầu, đi về phía trước. Hoàng Đế vừa ngạc nhiên vừa nghi hoặc, buột miệng thốt lên:
“Chậm đã.”


Đôi mắt đen trầm lắng của nàng nhìn chàng, tràn đầy vẻ thắc mắc. Hoàng Đế rốt cuộc gọi một tiếng:
“Như Sương.”


Đầu mày của nàng khẽ nhíu, qua một lúc sau mới thẹn thùng cười. Trong lòng Hoàng Đế chấn động, mà khóe miệng nàng vẫn cười dịu dàng như thế. Vạt áo trắng hơi ẩm, càng làm tăng thêm vẻ mong manh yếu đuối, chỉ có sắc mặt là vẫn điềm đạm bình thản, tựa như rất lâu rất lâu về trước đã từng gặp ở nơi nào.
Chàng thảng thốt nghĩ, chẳng lẽ là nàng?


Không, sẽ không là nàng, không thể nào là nàng. Không thể nghĩ nhiều, mà cũng không muốn nghĩ nhiều.
Chàng ngước mắt nhìn lên hai bóng cây lá đỏ sau tháp, đoạn thấp giọng thì thào:
“Hận mệnh ấy dài, mình quạnh quẽ, biết hay chăng.”


Nàng cũng thuận miệng ngâm nga:
“Lá cành liền nhánh tự bao thuở, chung mưa gió.”


Hai câu này xuất từ tập thơ “Đề diệp tập” của Tiên hoàng Thắng Vũ Đế.
Hơn mười năm về trước, thuở Hoàng Đế vẫn còn là hoàng tử, vốn thiếu niên tính hay tò mò, từng gạt thái phó(thầy dạy) đọc trộm cuốn từ tập này, bấy giờ thốt nhiên nghe nàng thuận miệng ngâm nga, trong lòng chấn động, dường như tự chất vấn, chỉ ngơ ngẩn nhìn nàng. Mà nàng thì thản nhiên như không, khoé miệng nở một nụ cười nhạt:
“Truyền thuyết rằng hai gốc cây thích đại thụ này, chính là do Thắng Vũ Đế tự tay trồng, cảnh sắc mùa thu trong kinh thành, hàng năm vẫn lấy đó làm tiên phong.”


Chàng hỏi:
“Nàng rốt cuộc . . . nàng rốt cuộc là ai?”
Nàng nhẹ nhàng “ừm” một tiếng, nhưng không trả lời.


Lòng bàn tay Triệu Hữu Trí đã sớm thấm đẫm mồ hôi lạnh, lúc này thấy sau lưng cũng hơi lạnh hiu hiu, thì ra ngay cả áo trong cũng đã ướt đẫm.
Như Sương như không nghe không thấy, Hoàng Đế nhìn nàng đứng trong mưa, mưa phùn như tơ thấm ướt mái tóc mai của nàng, mà ngón tay thon thon của nàng như ngọc, vờn qua làn tóc , đôi mắt ngước lên, lại cười.
Hoàng Đế cũng không nhịn được mỉm cười theo, tiếp lấy ô trong tay Triệu Hữu Trí, vẫy vẫy nàng, nói:
“Đến đây,  cùng ta đi ngắt lá đỏ.”


Như Sương vui vẻ đáp ứng, Triệu Hữu Trí muốn nói gì lai thôi, lại thấy Hoàng Đế xua tay ý bảo lão không cần đi theo, đành phải đứng nguyên chỗ cũ,trơ mắt nhìn Hoàng Đế cầm ô, Như Sương đứng bên cạnh chàng. Hai người sóng vai mà đi, càng lúc càng xa, hơi nước mát dịu như sương, sau cùng đi qua ngọn tháp, đã mất hút.



Hai gốc cây thích sau tháp, lá đỏ rực như ngọn lửa bùng cháy, Như Sương chỉ vận trang phục như một nữ nhi khuê các, xiêm y áo lụa đều một màu xanh lơ thuần khiết, đứng dưới lá đỏ, càng toát lên dáng người thướt tha yểu điệu. Nàng ngẩng đầu ngắt một phiến lá, lá cây đỏ sẫm như máu, ghé bên sườn mặt, càng như tôn lên gò má rạng rỡ ẩn hiện sắc trắng nõn nà.
Hoàng Đế nói:
“Quả thực chưa từng thấy nàng vận trang phục như thế này.”


Miệng nàng khẽ nhếch, thoáng ý cười, Hoàng Đế bắt gặp trên trán nàng có vết thương mới chưa lành, một vết thẹo hồng mờ nhạt, nhớ lại bức thư của Dự Thân Vương, trong ngực lại thoáng động.
Như Sương bỗng quay mặt đi, khe khẽ thở dài. Hoàng Đế cũng không hỏi, qua thật lâu, ngưng mắt nhìn giọt mưa rả rích trên tàng lá đỏ, đoạn nói:
“Thì ra nàng cũng từng đọc “Đề diệp tập”.


Nàng cúi đầu vuốt vuốt mặt lá trong tay, hàng mi thật dài buông xuống, chấp chới tựa cánh bướm run rẩy, giọng nói cũng rất nhỏ, tựa một tiếng thở dài:
“Cũng chưa đọc xong được.”


Chàng chợt hỏi:
“Nàng có biết tập từ này vì sao gọi là “Đề diệp tập”?
Mưa vương trên lá, đọng lại như sương, nàng lau bọt nước trên phiến lá đỏ, ngẩng đầu cười yếu ớt:
“Tiên hoàng Thắng Vũ Đế dùng lá đề thơ, nên gọi “Đề diệp tập”.


Hoàng Đế nhìn nàng, như thể trước giờ chưa từng biết nàng, khóe miệng khẽ cong, trên mặt cũng không tỏ vẻ gì, chỉ nhìn nàng, hồi lâu sau, mới quay mặt đi, nói:
“Lá đỏ này . . . nếu như đề lên trên mặt lá đỏ, quả thực là thích hợp.”


Như Sương nhẹ nhàng “ừm” một tiếng, nói:
“Người con gái ấy họ Diệp.”


Đây là cấm kỵ trong cung hơn mười năm qua, Hoàng Đế nghe nàng bỗng nhiên đề cập, chỉ thấy tiếng mưa rả rích vang lên, mưa rơi càng lúc càng nặng hạt. Giọng Như Sương thỏ thẻ, như hòa vào trong tiếng mưa:
“Bởi vì hận nước thù nhà, bảo nàng phải cư xử như thế nào đây? Dù cho hai trái tim cùng nhịp đập, tình sâu tựa bể, cuối cùng cũng không tránh khỏi dứt áo đoạn tình,  bất cần ra đi.”


Nửa người nàng đã ở ngoài ô, đầu vai thấm ướt, Hoàng Đế không thể không nắm lấy tay nàng, kéo nàng vào sát mình, chỉ cảm thấy bàn tay nàng lạnh ngắt.


Giọng điệu Hàng Đế buồn bã như thở dài:
“Ký ức ngày trong Tây Giác này, trúc sâu tựa bể, lá đượm lá tình, mới hay chợt bừng cơn mộng.”


Câu mà chàng ngâm chính là lời bạt trong “Đề diệp tập”, hai người đứng dưới tán ô, lặng nhìn hai gốc cây đỏ lạ, trong khoảnh khắc ngôn từ đều tan biến.
Hai người đều biết Diệp thị cuối cùng tự vận mà chết, mà Thắng Vũ Đế trị vì suốt hai mươi năm trời không hề bước chân đến Đại Phật Tự nửa bước. Mãi tới về già trọng bệnh, mới hạ lệnh cho người xây dựng một tòa tháp trong chùa, sau đó thân hành tới chùa, tự tay vun  trồng  hai gốc cây thích bên sườn tháp.


Mỗi đợt thu về, hai cây thích đại thụ luôn luôn là báo hiệu trời thu bằng những tàng lá đỏ rực, nhen lên khắp kinh thành Tây Trường một cảnh sắc thiên thiên thu rực lửa. Bởi vì hai cây lá đỏ nồng đượm, đứng kế bên những hàng phong từa tựa lại càng nổi bật lên sắc nồng cháy, cho nên được nhân gian gọi là Huyết Thích.


“Chính tại nơi này Diệp thị đã tự kết liễu sinh mạng mình, trong cung vẫn truyền nhau nghe rằng, bởi vì bóng thích được nhuốm máu nàng, cho nên mới mang một màu đỏ kỳ lạ đến thế.”
Hoàng Đế ngước mắt nhìn chuông đồng bên góc tháp, tiếng leng keng âm hưởng trong gió:
“Xây một tòa tháp như vậy, thì có làm được cái gì?”


Bắt gặp một đôi con ngươi sáng như sao của Như Sương nhìn mình, thoắt nhiên hứng thú rã rời:
“Một lời vô nghĩa như vậy, cũng không nhất thiết phải trả lời.”
Mưa bụi điểm lạnh, thoảng hoặc có làn gió vờn qua mặt, Như Sương chỉ nhìn chàng, trong đáy mắt vô thương vô bi, cũng không chút hỉ nộ ái  ố, cứ đơn giản là nhìn chàng như vậy.


Chàng nhớ lại cơn dông đêm ấy, chớp lằn rạch ngang như xé toạc bầu trời, sấm nổ đùng đùng kéo theo bóng đêm vô cùng vô tận, một mình đứng lặng trên lầu thành, tường thành cao cao bao bọc, hết thảy đều bị bóng tối mịt mờ mông lung nuốt chửng.
Chính là như thế, hóa ra, đúng là như thế.


Cuộc đời như một bàn cờ, sớm nắng chiều mưa, có ai ngờ trong chốn u minh sáng tối lại đã định sẵn là thế. Chắng qua đã quá mệt mỏi, sự mỏi mệt chồng chất dâng lên từ tận sâu đáy lòng, chàng nhàn nhạt nói:
“Cùng trẫm về kinh đi thôi, mặc kệ nàng có phải thật sự đã quên hay không, trẫm cũng luôn hy vọng nàng sẽ đứng ở bên cạnh mình.”


Như Sương vẫn không đáp, đôi con ngươi như nước, loang loáng bóng sáng. Nàng ngoảnh đầu nhìn lá đỏ, trong cơn mưa bụi rả rích kéo dài, hai ngọn cây như hai bó đuốc, thiêu đốt cả tầm mắt con người.


**************************************


Như Sương tựa hồ đã thật sự quên hết toàn bộ sự việc trước kia, sau khi trở về Thượng Uyển, đối với mọi người cũng đều không nhớ gì, cái tính bướng bỉnh kiêu ngạo trước đây dã không còn, hiện giờ trở nên ôn hòa rất nhiều.


Triệu Hữu Trí tuy là lo lắng trùng trùng, song Hoàng Đế vẫn lạnh nhạt như trước, cũng không khôi phục lại danh phận cho Như Sương. Nàng ngày ngày vẫn ra vào cung Chính Thanh, có vẻ không giống phi tần, lại mang dáng dấp của một nữu quan. Mọi người trong cung đều xấu hổ không biết xưng hô với nàng ra sao, chỉ đành gọi “Mộ cô nương”, dần dần về sau lại thành “Mộ nương”.


Hoàng Đế đối với nàng mặc dù không còn cưng chiều một cách vô cớ như trước, song cũng đặc biệt khác xa so với tất thảy trong hậu cung, thường xuyên ở bên bầu bạn.


“Chiêu nghi nương nương nếu không so đo, trước mắt yêu nghiệt kia chính là mối tai họa của hậu cung, nương nương thoạt tiên không biết, họ Mộ kia ngày xưa bày kế độc cưỡng chết Hoa phi, bức điên Hàm phi, hại chết Tình phi, cư nhiên về sau bá chủ cả hậu cung, trong đây ai ai mà không biết cô ta chính là một con đàn bà tâm địa rắn rết?”


Người nói dần dần nghiêng mình qua, khe khẽ như thì thầm:
“Nương nương nếu không thừa dịp chỗ đứng của ả chưa vững, một tay quét sạch, bằng không hậu hoạn về sau e khó lường.”


Chiêu nghi Ngô thị nửa ngồi nửa dựa trên lò  sưởi, mái  đầu nghiêng nghiêng, bối  tóc đen nhánh như ngọc lưa thưa lõa xõa, cây trâm nạm vàng mười hai nhánh gài ngang bím tóc, sợi tua màu hoàng kim được kết tinh xảo thoáng đong đưa, làm ánh lên những đợt sóng màu vàng kim lấp lánh. Nghe người ta trình bày mối nguy cơ có vẻ nguy ngập như thế, cô ta cũng chỉ vươn cánh tay, những ngón tay ngọc ngà thanh thoát  che đôi môi anh đào ngáp một cái, vẻ mặt lười biếng:
“Rồi sao?”


“Rồi sao ư?”
Người nói dường như thoáng bất ngờ, chần chừ nói:
“Nương nương, ả ta là đồ yêu nghiệt.”


“Yêu nghiệt?”
Trục Hà như cười như không.


“Hình như ta nghe người ta nói, trong cung này cũng thường gọi ta là yêu nghiệt cơ đấy.”
Người kia tái mặt, gượng gạo kêu lên:
“Nương nương .  ..”


Đôi môi hồng của Trục Hà hé mở, không buồn để ý gọi một tiếng:
“Người đâu!”


Hai gã nội quan theo gọi mà vào, nàng tiện tay chỉ:
“Tên này châm ngòi ly gián, không thể lưu lại, tha ra ngoài cho ta.”
Hia gã nội quan lập tức tiến lên bắt người, kẻ kia hoảng hốt kêu lên:
“Nương nương! Nương nương ban ơn . . . nương nương . . .”


Rốt cuộc cũng bị tha ra ngoài, hình như đã bị nhét cái gì vào miệng, tức khắc đã không còn nghe một âm thanh nào vọng lại. Giây lát trong điện trở về yên tĩnh, chỉ có cái lư đốt hương là cứ phun ra hết đun khói này đến đụn khói khác. Trục Hà vươn tay, chậm rãi xoa xoa trên đỉnh lư hương một vòng, hoa văn tinh xảo nhẵn nhụi, trơn mát bàn tay.
Nghĩ ngợi thất thần, đoạn kêu:
“Huệ nhi, thay quần áo.”


Huệ nhi giúp cô đứng lên, cười bồi nói:
“Nương nương muốn đi dạo vườn một chút?”
“Chúng ta đi thăm Mộ nương một cái.”


Huệ nhi nói:
“Nương nương, Vương gia dặn dò, chưa được hành động thiếu suy nghĩ.”
Trục Hà đáp:
“Ta biết chứng mực.”


Như Sương là phế phi, còn chưa được phục vị, cho nên cũng chỉ ở nơi một gian vũ phòng, tuy là bày biện sạch sẽ, song giữa phòng cũng chỉ có một cái giường. Trục Hà vừa mở cửa đã bắt gặp Như Sương đang ngồi dưới cửa sổ thêu hoa, cái khung thêu giăng ngang bên khung cửa. Trong phòng cũng không có bao nhiêu chỗ trống, nghe tiếng bước chân, nàng quay đầu lại nhìn. Thấy Trục Hà đang vịn lấy Huệ nhi mà bước vào, Như Sương cũng chưa đứng dậy, lại tiếp tục cúi đầu mà thêu.


Trục Hà thấy nàng đnag thêu hoa mai, mai đen, tuồn những sợi tơ đen lên nền gấm trắng, hai màu đen trắng phân minh, trông như một bức thủy mặc. Tà tà mấy nhánh, phía trên lại treo lơ lửng một diềm trăng lạnh lẽo, sắc trăng kia cũng cực nhạt, thêu dát như bức họa. Phương thức đưa mũi kim cực kỳ linh hoạt, kỳ thực thiếu nữ con nhà thế gia vọng tộc trong kinh thành đều là một tay thêu thùa cực giỏi, mà con gái Mộ gia, đương nhiên sẽ không ngoại lệ.


Như Sương vẫn cứ thản nhiên cúi đầu mà thêu, Trục Hà ngồi bên mé giường, làm ý ra hiệu, Huệ nhi liền đóng cửa lại, chính mình đứng canh bên ngoài.


Trong phòng cực im ắng, tựa hồ còn nghe được cả tiếng kim khâu đâm xuyên qua tấm vóc, qua một hồi lâu, Trục Hà mới cười:
“Mộ nương thật sự là có một đôi tay khéo léo, chẳng trách Hoàng Thượng thích như thế.”


Như SƯơng mỉm cười:
“Chiệu nghi hiện thời danh vị cao nhất cái hậu cung này, dĩ nhiên Hoàng Đế lại càng yêu thích hơn nữa.”
Trục Hà nói:
“Thôi, nơi này cũng chẳng có người noài, hai người chúng ta hẳn cũng không phải xa lạ đến mức đó chứ?”


Như Sương thờ ơ như không, vẫn cúi đầu tiếp tục thêu.
“Ngày đó thật ra là Vương gia bày kế hãm hại cô cùng Kính Thân Vương, có điều KÍnh Thân Vương là em trai cùng một mẹ với Hoàng Thượng, nếu không có chuyện như vậy, động đến hắn tuyệt không được. Trong lòng cô cũng phải hiểu, không nên oán Vương gia. Huống chi hiện thời cô cũng yên ổn mà ở trong này, Hoàng Đế đối đãi với cô, cũng chưa nảy sinh hiềm khích gì.”


Nhụy hoa rất nhỏ, kim càng nhỏ, một sợi tơ mà xẻ àm bốn phần, nếu không cẩn thận, xé sẽ bị đứt. Như Sương luồn chỉ, hơi hơi dẩu miệng, chăm chú cần thận kéo sợi chỉ ra thật nhẹ.
“Vương gia muốn tôi truyền đạt một câu, nếu cô chịu sửa lại ý định, Vương gia cũng sẽ như trước, toàn tâm toàn ý hỗ trợ cho cô.”


Cuối cùng Như Sương cũng ngẩng đầu lên, lạnh nhạt nói:
“Mấy tháng không gặp, Chiêu nghi nương nương quả nhiên khiến người ta phải nhìn với cặp mắt khác xưa.”


Con ngươi nàng cực đen, phải gọi là hai tròng mắt sánh nước, phản chiếu bóng Trục Hà toàn thân vận áo gấm hoa mỹ, mà dưới đáy đen thẳm kia tựa như lấp lánh ánh vàng kim chói lóa, khẽ liếc:
“Ta không oán Vương gia, càng không oán hận cô.”


Trục Hà mỉm cười:
“Tôi biết trong lòng cô thấu hiểu.”
“Hoàng Thượng kỳ thực là con người thông minh hiếm có, vì tiết kiệm sức mình, thường ưa mượn đao giết người.”


Như Sương cúi đầu thêu hoa, sắc mặt điềm tĩnh mà chuyên tâm, tựa như chính mình chỉ đang tự tại mà ngồi trong khuê phòng:
“Vương gia hiện thời tuy có binh quyền trong tay, vẫn phải đề phòng cẩn thận từng bước, từng bước, không thể vọng động.”
Trong tay Trục Hà nắm một tấm khăn thêu hoa hải đường vàng kim, xoắn chặt nơi đầu ngón tay:
“Đại sự đã được thu xếp cả rồi, tuyệt đối không sai sót.”


Như Sương ung dung mà thêu từng cánh hoa mai, động tác nhẹ nhàng, dường như kia chẳng pahỉ thêu, mà chính là đang thảo từng nét họa, sắc đen trên tấm vóc tựa như mây khói nhuốm đẫm, đáy mắt nàng ẩn hiện một nét cười:
“Trên đời này nào có cái chuyện tuyệt đối không sai sót, huống chi, hiện tại nương nương thật sự nhẫn tâm xuống tay sao?”


Trục Hà dường như vừa hít một ngụm khí lạnh, chưa kịp nói gì, chợt nghe gian ngoài Huệ nhi ho khan hai tiếng, biết có người đến, lập tức không phát ra một lời nào, chỉ nghe tiếng bước chân lộn xộn, nàng kêu “Huệ nhi”, cũng không thấy ai trả lời. Vừa đẩy cửa ra nhìn, đã thấy nội quan vậy quanh Hoàng Đế trong chốc lát đã bước nhanh vào trong viện, không ki[j suy nghĩ nhiều, buộc lòng uyển chuyển bái lạy, khéo nở nụ cười thật tươi:
“Hoàng Thượng.”


Mấy ngày nay nàng chưa gặp Hoàng Đế, sắc mặt Hoàng Đế vẫn hòa ái như vậy, ra ý cho hai bên đợ nàng đứng dậy, đoạn hỏi:
“Sao nàng lại tới đây?”


“Nô tì đến thăm Mộ cô nương, chỉ sợ một mình sống ở trong này, e thiếu người chăm sóc.”
Hoàng Đế cười cười:
“Nàng làm việc quả thật chu toàn.”


Quay mặt về phía Như Sương:
“Không ngờ nàng thật sự trốn trong phòng mà thêu hoa, bất quá trẫm chỉ nói đùa một câu, lại làm chuyện phí công như vậy, thời tiết thì lạnh, thân thể nàng không khỏe, đừng để cho mình lại mắc bệnh.”


Như Sương nhoẻn miệng cười:
“Thần thiếp đã đáp ứng với Hoàng Thượng, huống hồ nhàn rỗi cả ngày, thêu thùa âu nó cũng để giết thời gian.”
Trục Hà nói:
“Phương pháp thêu này quả thực nô tì chưa từng gặp qua, thật không nghĩ Mộ cô nương còn có tay nghề cao như vậy, nô tì ngưỡng mộ còn muốn sau này học hỏi đôi điều.”


Hoàng Đế nhìn hai người sóng vai mà đứng, dưới song cửa sổ chúm chím cười xinh, tươi đẹp là thế, quả thực chẳng khác nào một cặp song sinh, không kìm được mỉm cười.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

103#
Đăng lúc 26-6-2013 12:58:33 | Chỉ xem của tác giả

Chương 23: ĐIỆN NGỌC TINH THUẦN GIẾNG NGỌC LẠNH LẼO


Đợi đến lúc Dự Thân VƯơng lành bệnh thì cơn rét đậm rét hại cũng đã kéo đến.

Sau mấy trận tuyết lớn, rốt cuộc dịch bệnh trong thành cũng dần dần mai danh ẩn tích trong khí trời giá rét, đại dịch đi qua, ngay cả trong cung cũng trơ lại một vẻ tiêu điều cô tịch. Trên đại lộ cấm mênh mông thẳng tắp, chỉ lác đác đôi tiếng bước chân xền xệt vang tai, tựa hồ đang đạp nát cả cái tĩnh mịch ngút ngàn.

Bọn tiểu thái giám đi quét tuyết đã sớm đứng núp ru rú trong góc, bởi vì lạnh, gió cuộn những đám tuyết cuồng lên đập tới tấp vào mặt, đau ê ẩm.

Đến cửa Định Hòa thì xuống ngựa, nội quan đã sớm đứng đợi để nghênh đón, thấy chàng thở phào một hơi:
“Vương gia, Hoàng Đế đang ở trong noãn các phía đông.”

Tiểu thái giám xốc mành, một uồng hơi ấm phả vào mặt, thoang thoảng hương hoa thơm ngát đan xen, trong noãn các bày ngập hoa cúc và những đóa mai hái sớm, đều là thứ hương thơm ngây ngất lòng người. Trong phòng ấm áp, cho nên Hoàng Đế cũng chỉ mặc một tấm áo bào kép, trông qua hình như hao gầy đi đôi phần, khiến người ta cảm giác không có sức sống, thấy chàng tiến vào, lại cười cười , nói:

“Lão Lục quả nhiên cũng có chút bản lĩnh đấy.”

Trên xấp tấu chương còn điểm lốm đốm màu đen, Dự Thân Vương tiếp lấy, mới biết thì ra là vết máu, đã khô từ lâu, máu đỏ đông lại giờ chuyển sang sắc đen. Nét chữ viết tháu rất cẩu thả,  hiển nhiên là đã gắng gượng đôi nét cuối cùng trong tình thế hiểm nghèo . . . Dự Thân Vương đọc lướt qua,xem xong, lại giở lại từ đầu, đoạn mới ngâm cứu tỉ mỉ từng câu từng chữ, trầm mặc không lên tiếng, sau cùng thả bản tấu chương trở lại trên bàn.

Hoàng Đế nói:
“Quân phản loạn đã qua Bàn châu, không lâu sẽ hướng về nam, trước sẽ là sông Mân, Định Trạm . . .”

Chàng cười lạnh mấy tiếng:
“Ha ha, đến mới thật là mau đó.”

Sắc mặt u ám:
“Lão Thất, rốt cuộc trẫm đã tính sai một bước rồi. Trẫm cứ nghĩ hắn cấu kết cùng Kỷ Nhĩ Mậu, cùng lắm thì cũng tống cổ bọn giặc Hồ đó về bên ải Định Lan mà thôi, nhưng không ngờ ngay cả tổ tiên hắn cũng bất chấp, cuối cùng còn hứa hẹn sẽ cắt sáu quận phía bắc Định Lan cho quân Kỷ Nhĩ Mậu, hòng mượn binh vay lương mà tác loạn, hắn cũng chẳng sợ bêu danh cho đời.”

“Thần đệ có thỉnh cầu”
Dự Thân Vương nói:
“Thỉnh Hoàng Thượng cho Định Loan dẫn binh đi nghênh địch, san bằng quân phản loạn.”

Hoàng Đế nhíu mày.
“Quân doanh trong kinh đô ta cũng không thể giao cho ai khác, chỉ có đệ.”

Dự Thân Vương nói:
“Thần nhất định dốc hết khả năng.”

Hoàng Đế lại nói:
“Quân đội trong kinh chỉ có mười vạn, mà loạn quân thì còn gấp mấy lần đó, ấy trận này tất hung hiểm khó lường.”

Chàng thở dài,trng giọng nói dâng đầy hối hận:
“Chỉ tại trẫm đã quá khinh suất, một lần dụ rắn xuất hang này lại quá tay, để cho hắn thừa cơ tương kế tựu kế.”

Dự Thân Vương chỉ đáp:
“Hoàng Thượng không sai, hắn đã sớm ấp ủ âm mưu làm phản, vừa rồi để cho bọn giặc Hồ nhập quan ải, chính hắn cũng là một kẻ tội nhân thiên cổ của Đại Ngu. Hoàng Đế thay trời hành đạo, ắt thắng là không thể nghi ngờ.”

Hoàng Đế gật đầu, đoạn nói:
“Chủ soái Kỷ Nhĩ Mậu luôn luôn đeo mặt nạ, trong đó tất có sự kỳ quái. Mội lần trinh thám dò la trở về, cũng không nói được một câu cho đích xác. Trẫm cảm thấy nghi ngờ chồng chất, huống chi ngày nay Định Trạm cùng hắn cấu kết, việc khích lệ tinh thần chiến đầu là không cần phải nói.”

Dự Vương đáp:
“Thần đệ hiểu.”

Nguyên là tình hình nguy cấp, cho nên bộ Lễ phải nhanh chóng chọn một ngày lành gần nhất, làm lễ suất ấn(giao binh quyền), Hoàng Đế thân chinh đưa tiễn ba quân ra tận cổng Thắng Môn, mười vạn binh sĩ trong quân doanh kinh thành rầm rầm rộ rộ xuất phát, kinh đô cùng ngoại ô chật ních hầu như không còn nửa khoảng trống, Dự Thân Vương sợ trong kinh có biến, trước khi đi đã khéo léo khuyên nhủ hết lần này lượt khác, rốt cuộc Hoàng Đế cũng phải cho triệu hồi đứa em ruột Kính Thân Vương, mệnh cho hắn thống lĩnh ngự lâm quân.

Kính Thân Vương trải qua một chuyện lần trước đã trở nên lão thành rất nhiều, sau khi phụng chiếu về kinh thì hết sức cẩn trọng, tuân theo lề lối quy củ răm rắp. Lại kiêm việc lúc bấy giờ chiến tranh đã nổi dậy, lòng bách tính trong kinh thấp thỏm không yên, mội ngày chàng đều tự mình điều khiển đội tuần tra trong thành.

Ngày hôm đó là hai mươi tám tháng chạp, nha môn trong kinh thành đều đóng cửa nghỉ ngơi, trăm họ muôn dân cũng tất bật sắm sửa ăn tết. Tảng sáng hôm ấy tuyết đã rơi, đầu đường cuối phố đều chìm ngập trong bùn tuyết, Kính Thân Vương đi tuần thành trở về, đôi ủng đã sớm ướt sũng. Vừa mới tháo cương ngựa, chợt thấy Từ Trường chậm chạp tiến vào, thân vận một bộ trang phục vải dầu màu xanh, lúc hành lễ mà đã lạnh đến sắp đóng băng:
“Vương gia.”

“Sao ngươi đã trở lại rồi?”
Kính Thân Vương không kìm được hỏi.
“Hôm nay không phải là ngươi trực sao?”
Từ Trường  đáp:
“Hoàng Đế cho truyền Vương gia tiến cung.”

Lại tiếp:
“Nghe nói có quân cấp bào về, có vẻ không phải tin tốt lành.”

Kính Thân Vương đội gió tuyết mà vào cung, Hoàng Đế ucng kông ngồi trong phòng ấm điện Chính Thanh nữa mà đã đứng đợi sẵn ngoài cửa rồi, Kính Thân Vương trông thấy xa xa mưa tuyết lất phất làn bụi,tán ô phấp phới, bức tường loan giá trong mười bước đứng lặng im, nhóm nội quan đầu đội mũ đứng nghiêm nghị xung quanh, trên đầu vai đều đã đọng một tầng tuyết mỏng, cũng chẳng biết Hoàng Đế dứng đó đã bao lâu. Vì thế lập tức bước lên thi lễ, sắc mặt Hoàng Đế vẫn bình thường như cũ, nói:
“Đứng lên đi.”

Giọng điệu ôn hòa, ánh mắt vẫn đang rơi vào khoảng tuyết bạt ngàn trước cửa điện Chính Thanh, sau một hồi lâu mới nói với Kính Thân Vương:
“Bốnmới vạn loạn quân đã vào đến Phổ Lan.”

Mà Dự Thân Vương bất quá cũng chỉ suất lĩnh có mười vạn quân, Kính Thân Vương chỉ thấy trên má lành lạnh, hóa ra có một bông tuyết đã nhẹ nhàng vo thnah vô tức đậu trên mặt chàng, chàng đựa tay gạt đi, nói:
“Dự Thân Vương dụng binh như thần, tuy là địch mạnh ta yếu, song cũng sẽ không rơi vào thế hạ phong.”

***************************************

Hoàng Đế cười một tiếng:
“Khó mà nghe được ngươi khen cậu ta một câu.”
Kính Thân Vương đáp:
“Thần cũng chỉ ăn ngay nói thật.”

Hoàng Đế nói:
“Bồi trẫm đi dạo đi, đợt tuyết đẹp như vậy.”

Kính Thần Vương đành lĩnh mệnh, Hoàng Đế lệnh cho Triệu Hữu Trí cùng đám nô tì đều đứng yên chỗ cũ, chính mình lững thững đi dọc theo con đường chạy về hướng đông. Kính Thân Vương cắm đầu cắm cổ mà đi sau chàng. Tuyết rơi càng lúc càng nặng hạt, chỉ lát sau, toàn bộ cung điện xa xa đều biến thành một màn trắng xóa những lầu quỳnh điện ngọc.

Hoàng Đế đi một đôi ủng da tuần lộc, giẫm lên vũng tuyết đọng vang lên tiếng lóc tóc, đi một lát, đã đi thẳng đến trước cửa cung Song Thái, Hoàng Đế lúc bấy giơ mới dừng bước, nói:
“Định Vịnh, những năm gần đây trong lòng ngươi hẳn rất oán hận trẫm?”

Kính Thân Vương còn đang để đầu óc bay bổng đâu đâu, chợt nghe những lời ấy, chỉ thưa:
“Thần đệ không dám.”

Hoàng Đế thở dài, nói:
“Đại Ngu ta khai triều đã hơn ba trăm năm, trải qua hơn mười cuộc phản loạn lớn nhỏ, mỗi lần đều kết thúc bằng máu chảy đầu rơi, nội bộ bất hòa, anh em thanh toán lẫn nhau, ngươi không hiểu.”

Kính Thân Vương vẫn lặng thinh.
Hoàng Đế lại tiếp:
“Những năm gần đây, ta đối xử lạnh nhạt với đệ, thậm chí còn không thân thiết bằng lão Thất, kỳ thực là muốn tốt cho đệ, cũng chính là tốt cho trẫm, giữ cho cả hai một đường lui.”

Kính Thân Vương lúc này mới ngẩng đầu lên, có vẻ hoang mang nhìn Hoàng Đế.
Hoàng Đế mỉm cười, chỉ vào một dãy cửa hang bên cửa Song Thái, đoạn nói:
“Đệ còn nhớ hồi còn bé, ta vẫn thường đưa đệ tới đây bắt dế mèn không?”

Khi đó Kính Thân Vương cùng lắm mới năm tuổi, Hoàng Đế mới mười hai, mỗi ngày đều phải đi cung Cảnh Thái thỉnh an mẫu phi. Định Thuần lớn hơn, buổi chiều nếu không có giờ học, liền dẫn Định Vịnh theo ra phía ngoài cửa Song Thái chơi đùa. Khoảng thời gian ấy có lẽ là thời kỳ thân mật nhất của hai anh em, về sau tuổi càng lớn, hai người dần dần trở nên xa lạ, không thể nào còn trở lại như ngày xưa.

Lúc này đứng ngay trước cửa điện Song Thái, từng bông tuyết cứ rơi trong thầm lặng, phóng tầm mắt ra xa, những chóp ngọc lưu ly kéo dài bất tận một màu trắng xóa, ngay cả trên đỉnh hang cũng đều phủ một tầng tuyết mỏng manh. Gió thổi khẽ phất vạt áo bào khâm của hai người, một góc trời phía tây cũng nặng trĩu những đụn mây xám xịt, hơi tuyết càng nặng

“Mây đèn đè lên tường thành như thể muốn phá sập ấy.”
Sau cùng Hoàng Đế thở dài đánh thượt, nói:
“Tuyết đã rơi dày, chúng ta vào trong uống chén rượu thôi.”

Cứ ngày mồng tám tháng chạp Hoàng Đế lại ban thưởng chén rượu chống hàn cho hoàng thân quốc thích. Ngày hôm đó Kính Thân Vương cũng uống hai chén. Tửu lượng của chàng vốn không cao, lại thêm mấy ngày liên tiếp vất vả, vừa mới hồi phủ lập tức đã say ngã chỏng vó mà ngủ khì khì, chợt lại bị người hầu đánh thức, báo rằng:
“Vương gia, Lý tướng quân sai người đến, nói có việc gấp cầu kiến Vương gia.”

Bởi vì đã phong ấn, chỉ có thể là quân lệnh khẩn cấp mới có cách hành xử như thế, trong lòng Kính Thân Vương trùng xuống, chỉ sợ nơi thành Phổ Lan đã có tin chẳng lành, vội vã cho truyền gặp.

Đi đến gồm hai người, đều vận áo choàng một màu phẩm xanh, người đi trước vẫn chưa hề cởi mũ trùm đầu, lập tức khom mình thi lễ:
“Thỉnh Vương gia cho tả hữu thối lui cả đi.”
Thanh âm the thé, rõ ràng là một gã nội quan.

Kính Thân Vương tỏ ý ra hiệu, người hầu hai bên đều lặng lẽ lui ra ngoài. Người đi trước lúc bấy giờ mới lùi lại vài bước, tên còn lại thì chẳng ừ hử một câu, lúc này cởi mũ trùm ra, chỉ thấy một đôi con ngươi lấp lánh sáng quắc, trong trẻo đến rực rỡ chẳng khác nào tuyết trằng ngoài cửa sổ, mà áo choàng dài cũng không thể nào che đậy được vóc người, đích thị là một cô thiếu nữ thanh xuân.

Kính Thân Vương không kìm được hít một ngụm khí lạnh, mãi nửa ngày mới nghe cái giọng cứng ngắc của chính mình vang lên, hỏi:
“Cô rốt cuộc là người phương nào?”
“Tôi là người chốn nào cũng chẳng quan trong”

Cô gái nở một nụ cười yếu ớt mà xinh đẹp.
“Tôi biết trong lòng Vương gia vẫn luôn luôn canh cánh mối nghi ngờ, cho nên hôm nay đến xin được giải thích.”

Kính Thân Vương thoáng lặng im, bỗng nhiên ngẩng mặt lên nghiêm nghị:
“Mặc kệ cô là ai, bây giờ cô phải mau mau mà rời khỏi nơi đây đi, bản vương coi như chưa từng biết cô là được.”

Cô gái kia thản nhiên cười, xinh đẹp tựa làn gió xuân phất qua lòng người, giọng nói càng thêm hòa nhã êm tai:
“Vương gia lẽ nào thực sự không muốn biết, Hiếu Di Hoàng Thái hậu đã chết như thế nào?”

Kính Thân Vương như chấn động toàn thân, ngay cả mặt cũng đã biến sắc, quát lên:
“Ngươi thật to gan, chớ có ở đây mà tà thuyết mê hoặc kẻ khác, gây chia rẽ tình thân giữa anh em bọn ta.”

Cô gái cười nói:
“Té ra Vương gia vốn đã đoán được đôi điều, cũng không phải trước nay hoàn toàn không có nghi ngờ, chỉ là, còn chưa biết tôi định nói gì.”

Kính Thân Vương đáp:
“Bất kể cô muốn nói gì, dứt khoát đều không phải sự thật.”

Cô gái cười cười:
“Vương gia cần chi phải tự lừa mình dối người như vậy, cho dù tôi đây là nói hươu nói vượn, hẳn cũng sẽ có một điều gì đó không thể nào giả được.”

Lấy từ trong tay áo ra một cuốn lụa vàng, đưa tới trước mặt Kính Thân Vương. Chỉ thấy ngón tay nàng trắng ngần, cầm chặt cái trục bằng ngọc của cuốn sách lụa, màu da trên tay so với sắc ngọc kia dường như chỉ là một:
“Vương gia, vật này, ngài có thể thong thả mà xem, là thật là giả, chính ngài sẽ tự nhận ra.”

Sắc mặt Kính Thân Vương tái mét, dường như đã biết rõ trong tay nàng là thứ gì, chỉ là không đủ sức mà chìa tay ra tiếp, mãi nửa ngày, mứoi nghiến răng nói:
“Ta không xem!”


***************************************
Cô gái cười phì một tiếng:
“Thường nghe người ta ca ngợi Vương gia, đều nói Vương gia là bậc thiếu niên anh hùng, tài cán gan dạ đều không thua kém Dự Thân Vương. Đáng tiếc hôm nay mới gặp, cũng chỉ là như vậy mà thôi.”

Nói đến đây, trong giọng điệu đã hàm chứa sự mỉa mai:
“Ngay cả di chiếu của tiên hoàng cũng chẳng dám liếc mắt nhìn một cái, quả thực là uổng phí cái phận con cháu hoàng tộc Đại Ngu.”

Sắc mặt Kính Thân Vương càng lúc càng tái nhợt:
“Đây nhất định là giả mạo chỉ dụ Hoàng Đế, tiên hoàng bạo bệnh mà qua đời, căn bản không thể có di chiếu.”

“Đây không phải di chiếu của Mục Tông hoàng đế, mà chính là di chiếu của Hưng Tông hoàng đế.”

Hai tròng mắt của nàng loang loáng tinh anh như mặt nước, chăm chú nhìn chàng, tựa hồ là gằn lên từng tiếng:
“Đương kim Hoàng Đế không ngại bức tử mẹ đẻ của mình là Hiếu Di Hoàng Thái hậu, chẳng qua là muốn cướp đoạt một trang di chiếu này, chẳng lẽ Vương gia ngài, hiện tại ngay cả dũng khí liếc qua một cái cũng không có?”

Khóe miệng Kính Thân Vương run run, tuy là cảm thấy giận dữ cùng chê trách, song không thốt nên được một lời. Thình lình vươn tay ra, giật lấy trang chiếu thư. Cố gắng bình tâm lại, cuối cùng chậm chạp mở ra, chỉ thấy nét chữ quen thuộc cứ từng câu từng câu mà hiện ra trước mắt. Bút tích ấy chẳng quá thân quen rồi sao?

Vốn chư hoàng tử ngày còn bé đã được tập viết, Hưng Tông hoàng đế đích thân viết những tấm thiếp mẫu, để chúng hoàng tử viết theo. Lúc này một nét bút kia giống như trảm khắc vào tận xương máu, nét chữ tròn đầy phóng khoáng,  lại quen thuộc đến nhường ấy.

Giọng nói cô gái lạnh lẽo như băng:
“Vương gia cần thận mà xem xét, đây không lẽ lại chính giả mạo chỉ dụ Hoàng Đế?”

Kính Thân Vương chỉ thấy mấy con chữ trên trang chiếu thư đang nhảy nhót di động, vặn vẹo như muốn thức giấc, có lẽ đây không phải nét chữ, mà là một dòng nước xoáy vĩ đại, phăng phăng cuốn trôi hết thảy những vật cản trên đường.

Chàng chỉ thấy đầu óc quay cuồng, không kìm được hỏi:
“Rốt cuộc cô muốn cái gì?”

“Hiện thời không phải là thiếp thân muốn gì, mà chính là Vương gia pahỉ làm như thế nào. Phụng chiếu hay không phụng chiếu. Chả lẽ ngay cả di mệnh của tiên hoàng Vương gia cũng đòi kháng chỉ?”

Kính Thân Vương nghiến chặt hàm, qua hồi lâu mới nói:
“Huynh ấy là anh trai ta.”

Cô gái phì cười:
“Thời điểm Lục gia giao thứ này cho tôi, từng nói ‘Thập Nhất đệ của ta tuy là con người ngay thẳng chính trực, song cũng không thoát khỏi cái  lòng dạ nhu nhược của đàn bà’ ,quả nhiên!”

Giọng nói chậm lại:
“Vương gia mềm lòng, đáng tiếc người kia thời điểm phái người đầu độc chết mẹ đẻ của mình, chỉ e cũng chưa từng mềm lòng.”

Cơ bên mà Kính Thân Vương tựa hồ đang giật giật, hai mắt trợn ngược, vẻ mặt thoáng làm người ta khiếp hãi, sau cùng thanh âm cũng đã trở nên lạnh lẽo u ám đến đáng sợ:
“Ngươi nói bậy!”

“Nội quan, cung nữ hầu hạ Thái hậu đều đã bị chôn theo, một lế này vốn cũng hoàn hảo như áo tiên chẳng thấy vết chỉ khâu. Chỉ có mình Tiểu Triệu là người pha thuốc cho Thái Hậu, trước khi chuyện bất hạnh xảy ra thì đã mắc thương hàn, sớm đã nằm liệt giường chờ chết. Không ngờ mệnh gã còn dài, đến này thê nhưng vẫn còn sống.”

Cô quay đầu vẫy vẫy tay, nội quan kia liền chậm chạp tiến lên từng bước, khom người lĩnh mệnh.
“Vương gia nếu không tin, có thể hỏi Tiểu Triệu là biết.”

Nội quan kia có vẻ kinh hãi, cúi đầu kêu một tiếng “Thập Nhất gia”. Kính Thân Vương chỉ cảm thấy trong lồng ngực như phong ba bão táp đổ bộ, phiền muộn khôn xiết. Nhớ lại buổi chiều hôm nay trước cửa Chính Thanh, hành động lời nói của Hoàng Đế, nhất cử nhất động hình như đều có dụng ý. Anh ta thực sự cắn rứt lương tâm, hay là cố ý lợi dụng, hòng lừa gạt chính mình cả cuộc đời?

Tính chàng vốn thẳng thắn, hôm nay gặp đại sự như thế, chỉ cảm thấy máu nóng phập phồng, thực khó mà kìm nén. Đến nay ngàn cân treo sợi tóc, chính mình thân bất do kỷ đã bị cuốn vào vòng xoáy của mạch nước ngầm, dù thịt nát xương tan cũng chẳng màng, mà hết thảy đều quá đột ngột đến đáng sợ, tay siết chặt bản di chiếu, cũng không biết nên thế nào là phải.

Sắc trời dần dần ngả tối, trong phòng chỉ nghe mỗi than cháy trong lò nổ tí tách, cô gái tựa như vô tình vuốt vuốt làn tóc mây, nói:
“Thiếp thân hẳn cũng nên đi thôi, nếu mà chậm chận  e cửa cung  khóa mất.”

Kính Thân Vương rốt cuộc hạ quyết tâm:
“Có một chuyện ta muốn hỏi cô . . . ngày ấy ở ngoại thành, người trong xe là cô sao?”
Dứt lời nhìn cô gái chăm chăm, hình như là muốn tìm tòi trên khuôn mặt ấy một chút manh mối.

Cô gái chỉ cười không đáp, tiện tay rút vài cánh mai cắm trong bình, từ phía xa ném về phía chàng, hoa đáp ngay lồng ngực, trong nháy mát  làn hương thơm ngát lành lạnh ddào dạt cõi lòng. Cô gái cười xinh đẹp, thản nhiên mà quay đi, giữa căn phòng hương thơm phảng phất đưa tình, hình như có mà lại như không.

Ánh lửa than trong lò nháy sáng, phản chiếu lên mười hai tấm bình phong nhũ vàng vẽ cảnh sơn thủy họa đồ. Núi vàng ngọc bích cùng dòng thác khảm xà cừ trên tấm bình phong lấp lánh sắc màu, gió luồn qua ô cửa giấy kêu phần phật, chàng chỉ cảm giác chính mình như lạc vào cõi mộng.

Tuyết càng rơi càng nặng hạt, đợi đến khi trời tối hẳn, chỉ nghe gió bắc gào thét liên hồi, ngọn tuyết đập vào cửa sổ giấy, sàn sạt lay động. Tuy có long giường ấm áp, trong phòng vẫn phải để thêm vài chậu đồng đựng than, cho nên trong phóng hơi ấm ngập tràn.

Trục Hà chỉ khoác hờ một tấm áo cẩm bào dệt kim như ý thêu hàng trăm đóa sen, tựa vào bên lò sưởi mà chăm chú thêu một tấm hoa văn theo kiểu tân thời. Dáng vẻ cô dạo gần đây luôn luôn uể oải, khi không cũng vui tươi hớn hở, có lúc lại cáu kỉnh một cách kỳ quái. Mội lần phát tác cơn giận, mấy ngày liền ngay cả nội quan thân cận chỉ cần đụng chuyện nho nhỏ cũng đều lôi ra mà đánh, cho nên bọn cung nữ nội quan đều im thin thít không dám động đến cô.

Hoàng Đế vốn đi đôi giày tuần lộc, bước đi của chàng lại nhẹ, mãi tận lúc đến ngay bên cạnh, mới nói:
“Còn không sợ lạnh cóng hay sao?”

Trục Hà như bị giật mình, cung nữ bưng khay trà đứng một bên đã sớm quỳ xuống, cô lại lười biếng di động, chỉ nói:
“Tuyết lớn như vậy, ngày kéo lê thê, chàng còn tới chỗ thiếp làm gì. Người của thiếp tay chân không đủ linh hoạt, chàng vừa tới, bọn họ đã lập tức cuống quít cả lên, còn hơi đâu mà đi lo lắng cho thiếp.”

Hoàng  Đế đưa tay nhấc cằm cô, dưới ánh nến rực rỡ diễm lệ, càng toát lên màu da nõn nà, chàng lại nhéo cô ta một cái:
“Nàng hôm nay thật đúng là ngược đời, người trong cung đều mong ngóng trẫm, chỉ có nàng là chưa gì đã vội vội vàng vàng tống cổ ta đi.”

Trục Hà nghiêng mình dựa vào bên lò xông hương, nửa cười nửa không:
“Chàng cũng chỉ là dỗ thiếp mà thôi. Hôm nay Mộ nương còn được đi Đại Phật Tự dự lễ tạ thần, thiếp lại chẳng có cái phúc phận kia, héo hắt trong thâm cung này, có đi chơi được chỗ nào.”

Hoàng Đế cũng như cười như không:
“Nếu nàng muốn đi chơi, vậy chờ đến tết Nguyên Tiêu (><) chúng ta lén xuất cung đi xem người ta đốt đèn.”

Trục Hà than một tiếng:
“Lén lút thì có cái gì hay, người ta có thể quang minh chính đại mà đi lễ tạ thần, thiếp thì chỉ có nước vụng trộm mà đi xem cuộc vui.”

Hoàng Đế nhìn cô nắm chặt cái khung thêu, càng siết càng chặt, siết đến nỗi gần như muốn xé toạc ra, trông có vẻ đang tức giận, bèn nói:
“Nhiều ngày qua nàng cứ đeo cái bộ dạng này, không phải là thật sự ghét bỏ ta đấy chứ?”

Trục Hà cười nhạt:
“Cũng không dám.”
Lại tiếp:
“Chính chàng mới chỉ thuận miệng mà dỗ thiếp thôi, Nguyên Tiêu còn lâu mới tới, tính đợi được cho đến ngày đó, không chừng chàng lại có chuyện này chuyện kia, vứt thiếp quẳng một xó.”

Hoàng Đế bỗng nhiên bật cười:
“Cũng không cần chờ đến ngày đó, tối hôm nay chúng ta ra ngoài đi dạo là được.”

Trục Hà thoáng rùng mình, Hoàng Đế lại thúc giục:
“Mau mau đi thay quần áo, bên ngoài lạnh, tuyết còn đang rơi, phải ăn mặc ấm áp một chút mới được.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

104#
Đăng lúc 26-6-2013 13:13:40 | Chỉ xem của tác giả

CHương 24: GIÀ CẢ BIẾT ĐỜI PHÙ DU



Mặc dù còn chưa đến giờ giới nghiêm ban đêm, song trời tối, tuyết lại rơi nhiều, đầu đường cuối ngõ vắng vẻ thê lương, đã không còn một bóng người nào đi lại trên phố, chỉ có  bánh xe lăn long lóc, nghiền lên những đụn tuyết phát ra tiếng  sàn sạt.
Hoàng Đế thế mà vẫn cực kỳ hăng hái:
“Đã sớm nghe danh món cháo Tịch Bát[1] của Bạn Hương Các  tuyệt hảo, hôm nay chúng ta đi nếm thử.”


Bạn Hương Các nằm đầu con ngõ ở mé đông thành, vòng qua một con đường lớn, xa xa đã thấy trước lầu treo hai ngọn đèn lồng đỏ cực lớn, chiếu lên mặt tuyết. Khắp lầu đèn đuốc sáng trưng, tiếng nói cười xôn xao vọng đi rất xa.


Nghe thấy tiếng xe, tiểu nhị đã sớm đứng ở cừa chờ đón, buộc dây cương, đoạn bắc ghế ra hầu xuống xe. Hoàng Đế bước xuống, quay người lại vươn tay đến. Trục Hà ngược lại có vẻ ái ngai sự săn sóc của chàng, ngập ngừng chốc lát mới trao tay cho chàng, dè dặt cẩn trong xuống xe.


Gã tiểu nhị thế mà lại có mắt sắc, sớm thấy tuy chỉ là xe ngựa du hành bình thường, song con ngựa kéo xe toàn thân đen tuyền một màu,  chỉ có bốn cái vó là bạc trắng, cực kỳ đẹp đẽ duyên dáng.Lại bắt gặp lúc Hoàng Đế duỗi tay ra, bên dưới áo choàng lộ một góc tay áo cẩm bào da thuộc, sắc da chồn đen bóng như satanh, lập tức biết ngay đôi nam nữ này không phải hạng giàu có bình thường, tươi cười nịnh nọt:
“Hai vị đại gia, quả thực có lỗi, phòng tốt trên lầu đều đã đầy, nếu hai vị đây có đặt chỗ, trước xin thỉnh xem thẻ số.”


Hoàng Đế nào nghĩ sẽ còn có chuyện như vậy, không khỏi thoáng giật mình, tiểu nhị nhìn sắc mặt của chàng, vội vàng nói tiếp:
“Hai vị nếu không phái quản gia tới đặt chỗ, cũng không cần gấp làm gì, phía sau lầu hai vẫn còn một căn gác hết sức chỉnh tề, thanh tĩnh thông thoáng, hơn nữa còn đối diện với vườn mai hậu viện, uống rượu thưởng tuyết quả không còn gì hơn. Chỉ là giá so với phòng tốt bình thường nhỉnh hơn chút, năm lạng bạc.”


Hoàng Đế lại thoáng giật mình cái nữa, đoạn nói:
“Vậy thì lấy gian đó đi.”


Tiểu nhị cười rạng rỡ, “úi chà” một tiếng, cầm đèn lồng đi trươc dẫn đường. Cũng không hề bước vào lầu chính, chỉ dọc theo hành lang lát gạch đi thẳngra phía sau, vòng qua một vách giả sơn. Bước vào cửa tròn, mới thấy một cái lầu nhỏ, mái cong vểnh góc, lan can sơn màu son lúc này đã bị tuyết phủ. Dưới hành lang treo một dải bốn chùm đèn thạch anh, làm cả tòa lầu nhỏ  càng bừng sáng như lầu quỳnh điện ngọc.


Tiểu nhị dẫn tới nơi lập tức khoanh tay lui ra, lại có một người khác xuất hiện, dẫn bọn họ lên lầu. Tiểu nhị hầu phòng nhanh chóng xốc mành lên, hơi lò sưởi lập tức phả vào mặt, thoảng thoảng còn có làn hương lững lờ. Quả nhiên bên ngoài cửa sổ có vài gốc hoa mai, hoa đang đến độ nở rộ, đáng tiếc đây là buổi tối. Mông lung có ánh tuyết trong trẻo lành lạnh ánh lên, trông không được rõ ràng lắm.


Đợi hai người ngồi xuống, dùng khăn tay vắt một làn nước ấm, tẩm ướt hoa quả trên đĩa, sau đó lại đổ trà vào pha. Hoàng Đế tùy ý gọi vài món ăn, tiểu nhị thưa:
“Khách quan xin chờ chút, đồ ăn lập tức lên ngay.”


Nói xong lui ra ngoài, đóng cửa lại.
Trong phòng lập tức yên tĩnh, chỉ nghe củi đốt trong chậu than thi thoảng lách tách. Hoàng Đế thấy trong đĩa quả có hạt giẻ phơi, thuận tay nhón lất một hạt tách ra.


Trục Hà bỗng nhiên cảm thấy trong bụng khó chịu, hình như là đói, lại không hẳn đói, chỉ cảm thấy  dạ dày như sắp bị phỏng, mà trong phòng quá ấm, khiến người ta hơi khó thở. Vì vậy bèn đứng lên tiến lại bên cửa sổ, đẩy cánh cửa ra một ít, gió lập tức lùa vào, thổi cho cái chao đèn trên bàn lắc lư như muốn tắt.


Khắp phòng bóng sáng chập chờn Trục Hà thấy ngọn đèn lắc lư sắp tắt, đang định đóng cửa sổ, ai ngờ chàng lại “phù” một cái thổi tắt luôn đèn, lập tức ánh tuyết tỏa đầy phòng, tựa hồ là ánh trăng. Trời đất yên ắng không một động tĩnh, chỉ nghe ngoài cửa sổ âm thanh tuyết rơi nho nhỏ, chi chít trên tướng những cái bóng mờ mờ xiêu vẹo. Ánh tuyết phản chiếu bóng cành mai vào phòng, chạc cây chùm hoa cũng đều in rõ mồn một, hơi lạnh thấm qua da thịt, dường như khắp trời đều một sắc hoa mai.


Cô vốn khoác một tấm áo choàng màu xanh lơ bên ngoài áo trong da cáo, hoa mai đầy tường in bóng lên quần áo cô, ngỡ như những cánh hoa tối màu in trên nền trắng. Tay cô vô thức xoa xoa tấm da cáo dài mà mịn, cảm giác âm ấm lan tỏa nơi ngón tay, nhưng nháy mắt đã tan biến chẳng còn dấu vết, không cách nào mà nắm bắt nổi.


Hoàng Đế vẫn ngồi kia, cơ hồ xuất thần, cũng không nói một tiếng. Mọi âm thanh trong trời dất giống như trong phút giây đó đều ngưng đọng, chỉ còn lại gió thổi tuyết bay, hiu hiu như ai khóc.


Có lẽ đã qua cả nửa cuộc đời, mới nghe được tiếng bước chân, té ra là tiểu nhị đã bưng đồ ăn đến.
“Ai, sao đèn lại bị gió thổi tắt thế nhỉ?”


Châm lửa, thắp đèn sáng lại. Tức khắc gian phòng bừng sáng như trước, đồ ăn đều đã được bày lên, đủ loại cơm canh thịt cá trưng đầy một bàn, so với thức ăn trong cùng thường ngày khác biệt rất lớn. Trong đó có một món là dưa chuột muối giòn tươi, rất nhỏ, vẻn vẹn to bằng đầu ngón tay, độ dài thì chỉ chừng như cây trâm cài đầu của con gái. Tiểu nhị nói:


“Đây là món tủ của bản lầu đấy, Hoàng Kim Trâm, đừng trông trái dưa leo nhỏ như vậy, chứ giá trị của nó cũng chẳng thua  cây trâm báu đâu. Những ngày tuyết lớn này, dùng lò nóng mà ủ mấy tháng trời mới ra được, độc nhất vô nhị trong kinh thành, ngay cả lão Hoàng Đế ở trong cung cũng chưa từng được nếm món này đâu đấy.”


Hoàng Đế cười cười, nói với Trục Hà:
“Có nghe không kìa, ngay cả Hoàng Đế cũng chưa được ăn đâu đấy.”


Trục Hà nếm một miếng, vị chua chua ngọt ngọt giòn tươi rất ngon, không nhịn được ăn liền hai quả, lại thấy tiểu nhị bưng lên một bình rượu Thiệu Hưng vừa hâm nóng, bèn tự tay rót một chén mà uống. Nuốt xuống một ngụm, chỉ cảm thấy vừa lạt vừa cay, không kìm được mấy tiếng ho khan.


Hoàng Đế nói:
“Nàng đừng uống rượu gấp quá, không tốt cho thân thể.”


Không hiểu sao, cô chỉ cảm thấy muốn nổi nóng, buột miệng thốt lên:
“Chàng đây là thương thiếp, hay là đang thương người  nào đó  vậy?”


Câu hỏi vừa ra khỏi miệng, chính mình cũng như ngây dại, chỉ thấy Hoàng Đế chậm rãi nở nụ cười, như thể thực sự đã thấu tâm can. Cô rốt cuộc thấy chua xót trong lòng, đặt đũa xuống.


Hoàng Đế quay lại gọi tiểu nhị:
“Quách sư phụ của các ngươi không có ở đây sao? Đồ ăn này cảm giác như không đúng vị.”


Gã tiểu nhị cười nịnh đáp:
“Hóa ra quan nhân đây là khách quen, còn biết Hoàng Kim Trâm này chính là món tủ của Quách sư phụ . . . Quách sư phụ già đã bị bệnh hơn một năm, hiện thời làm đầu bếp chính là cháu của lão, “tiểu Quách sư phụ” đó.”


Nói xong lại rót một chén rượu cho Hoàng Đế, Hoàng Đế cũng không hỏi nhiều, phất tay bảo gã lui ra, bản thân nhấc chén lên mà uống.


Hai người ngồi đối diện một bàn lớn bày biện đủ đồ ăn, đều chỉ yên lặng uống rượu. Uống đến cạn, Hoàng Đế cảm thấy hơi men bốc nóng tận vành tai, chợt nói:
“Không ngờ nàng cũng sẽ biết uống rượu cơ đấy.”


Trong lòng Trục Hà khó chịu, cười cười:
“Trên đời này không có chuyện gì là sẽ không, chỉ có chuyện không thể mà thôi.”


Hoàng Đế im lặng một lát, đoạn nói:
“Suy cho cùng, đúng là trên đời này không có chuyện gì là sẽ không, chỉ có chuyện không thể.”


Lại nhấp thêm một chén, tự tay cầm cái bình, lại thấy bình rỗng không, bèn gọi to:
“Tiểu nhị, thêm rượu!”


Kêu nửa ngày, chẳng hiểu sao vẫn không nghe ai trả lời, chàng bỗng nhiên nổi hứng, cầm đũa gõ vào cái đĩa, hòa thanh cùng gió tuyết ngoài cửa sổ kia:

“Thơ vạn ý
Chung rượu ngàn
Tước hầu vương nào đáng phải màng?
Lầu ngọc gác vàng lười trở lại
Say Lạc Dương mai nở vừa sang.”
(Giá cô thiên – Chu Đôn Nho – dịch thơ: Đông Y Lâm)


Đoạn ngửa mặt cười sảng khoái, một đôi con ngươi sáng ngời, dưới bóng đèn tựa như đêm thâu chưa vãn, đen thẳm sâu hút khôn lường, lấp lánh hào quang muôn ngả, tựa hồ có vật gì chợt vỡ tan.
Trục Hà thoáng run rẩy, nhưng lập tức mỉm cười:
“Hoàng Thượng, ngài say rồi.”


Chàng chán nản nói:
“Phải, đã say.”


Ngón tay cô se sẽ mà ấm áp, nhẹ vuốt trên mặt chàng, chàng bắt lấy tay cô, hơi men ngà ngà:
“Có thai, tại sao không nói cho trẫm?”


Cô chậm rãi đáp:
“Thiếp không dám.”


Chàng cũng không hỏi tại sao, trong lòng cô chợt dâng trào một nỗi tuyệt vọng:
“Ngay cả đứa con của chính mình cô ta cũng nỡ lòng nào toan tính, thiếp không đoán được rồi cô ta sẽ còn làm được những chuyện gì.”


Đáy mắt Hoàng Đế chợt lóe, sắc mặt kia khiến cô nhìn không rõ lắm, chỉ nói:
“Hoàng Thượng, lưu lại Mộ nương thực sự quá nguy hiểm . . .”


Bất thình lình chàng vung tay cho cô ta một cái bạt tai, tiếng vang giòn giã, một cái tát khiến cho cô sững sờ kinh ngạc.
Chàng nói:
“Ta mang ngươi tới đây, ngươi lại còn dám nói ra những lời như vậy!”


Cô xoa xoa bên má mình, nửa ngồi nửa quỳ dưới sàn nhà, hình như vẫn không hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Hai mắt Hoàng Đế vằn đỏ, đang nổi cơn thịnh nộ, bỗng nhiên mành cửa có tiếng động, đã nghe một giọng nói quen thuộc vang lên:
“Ông nội con, thật khiến nô tì tìm toáng đám.”


Người bước vào đầy đầu tuyết sũng mà không buồn phủi, chính là Triệu hữu Trí. Khuôn mặt béo trắng của lão đã tái mét vì lạnh, ngay cả hành lễ cũng không được chỉnh tề nữa, run lập cập nói:
“Vạn Tuế gia, xảy ra chuyện lớn rồi, Dự Thân Vương đã rơi vào mai phục!”


Tình hình quân sự tại Phổ Lan hết sức gian nan, Dự Thân Vương lấy ít địch nhiều, chiến đấu gian khổ hơn mười ngày, đợi cho được đến lúc Hoa Lẫm ở Nhan châu và Nhạc Thế Vịnh của Bình châu suất binh đến viện trợ mới bắt đầu siết chặt vòng vây, đâu ai ngờ lúc lâm trận Hoa Lẫm thình lình lại quay mũi giáo, hợp lực cùng quân Lỷ Nhĩ Mậu mà bao vây trở lại Dự Vương. Đội quân của Nhạc Thế Vinh không kịp trở tay, lập tức đã bị tiêu diệt gần hết, mà trung quân của Dự Thân Vương thì vừa đánh vừa lui, tại bên bờ sông Mân Giang lại trúng mai phục, cho đến hôm nay tình thế  chưa rõ.


Chiến sự  chuyển biến rất xấu, Kỷ Nhĩ Mậu chỉ mấy ngày nữa sẽ vượt sông Mân Giang, mà Duệ Thân Vương tự mình dẫn ba vạn kỵ binh đã đi vòng qua sông, cứ một mạch mà kéo thẳng về kinh đô. Khai triều hơn ba trăm năm qua, ngoài trừ Thừa Càn tám năm làm loạn tứ phủ, kinh đô cũng chưa bap giờ phải chịu một mối đe dọa như thế.


Hoàng Đế lại vẫn bình tĩnh phi thường, liên tục ban chiếu cấp bách, sai khiển đội quân Phủ châu cùng Tấn châu đóng ở phía bắc. Tuy nhiên quân đóng hai châu cũng chỉ có hơn vạn người, thời gian thì đã quá gấp rút, e chẳng kịp. Quần thần trong triều cực lực khuyên Hoàng Đế nên “tuần thú phía Tây” (ý là bỏ chạy) đi thôi, song Hoàng Đế lại kiên quyết từ chối.


“Dù cho chỉ còn một binh một tốt, trẫm cũng sẽ không bao giờ chắp hai tay mà dâng kinh đô cho Định Trạm.”
Đứng đầu tả hữu là lão thần  Trình Phổ nước mắt ngang dọc, nằm phục trên mặt đất mà dập đầu:
“Vua lo thần nhục, vua nhục thần chết. Chỉ tại thần không có năng lực, cho nên mới có mối họa ngày hôm nay.”
“Đứng lên!”


Hoàng Đế đã không còn kiên nhẫn, ngửa mặt nhìn ngai vàng ngôi báu, ngầm chứa một sự khinh miệt mà điên cuồng:
“Trẫm còn chưa chết, các ông sợ cái gì?”


Cười gằn một tiếng:
“Hắn cho rằng hắn đã nắm chắc phần thắng rồi sao, hãy còn sớm lắm! Trẫm ở chỗ này mà chờ, chờ xem hắn có cái số được bước qua cửa Chính Thanh này nửa bước hay không?”


Mùa đông năm ấy rất lạnh, bởi vì tình hình quân sự khẩn cấp, trong cung ngay cả tất niên cũng đều qua quít cho xong, tuyết lớn rơi liên tục mấy ngày đã ngừng, cột trụ trong điện Chính Thanh bị băng đóng quanh một lớp dày, Trình Viễn đốc thúc tiểu thái giám cầm dùi sắt đập vỡ, chợt nghe sau lưng có người nói:
“Đừng đập.”


Trình Viễn quay nhanh lại nhìn, hóa ra là Chiêu nghi Ngô thị.


Lớp băng dày đến một thước, trong nắng sớm mùa đồng u tối khúc xạ những ánh hào quang kỳ dị, chiếu lên khuôn mặt trắng như tuyết của Trục Hà. Cô khoác chiếc áo choàng da cáo đen, lớp da cáo đen như mực bao phủ quanh mặt cô, càng làm tăng thêm vẻ tái nhợt đã không còn chút sắc hồng, cô nheo nheo con mắt, phỏng chừng là ánh tuyết chói lòa không mở nổi mắt.


Toàn bộ màu đỏ của tường hay màu xanh của ngói trong cung đều chìm trong một màu tuyết trắng bao la, một tòa thành trắng xóa một màu tuyết, dường như chỉ là một tòa thành trống.
Cô lặng lẽ đứng đó, trong ngàn tuyết trông như một khối ngọc đen nho nhỏ.
“Để cho nó đóng ở đó cũng được.”


Nghe thấy giọng Hoàng Đế, Trình Viễn và các cung nhân vội vã cung hạ thân mình, thực ra nhóm hầu hạ thân cận hằng ngày gặp vua cũng không cần hành đại lễ, Hoàng Đế xưa nay lại không kiên nhẫn với cái thứ nghi thức rườm rà này. Trình Viễn cúi đầu, đã thấy đôi giày xanh thêu những hồi hoa văn như ý bước qua mặt đường lát gạch.
“Mấy ngày nữa thì vào tiết lập xuân rồi mà tuyết còn rơi như vậy.”


Trục Hà cũng không lên tiếng, ánh mắt Hoàng Đế dừng nơi nóc đền trắng xóa. Cô bị gió lùa vào cô họng, không khỏi ho khan vài tiếng, Hoàng Đế bảo:
“Nàng đừng đứng ở đầu gió.”


Trục Hà vẫn không đáp, qua lúc lâu mới nói:
“Thật yên tĩnh.”
Hoàng Đế nhìn màn tuyết dày đặc, lạnh nhạt nói:
“Yên tĩnh được mấy ngày mà thôi.”


Tuyết vẫn rơi triền miên, còn nghe cả âm thanh tuyết bộp bộp, mà ba vạn quân kỵ binh của Duệ Thân Vương thì đã cách phủ Kỳ châu không ngoài trăm dặm, gần đến mức tựa hồ còn nghe cả tiếng vó sắt boong boong.
Đó là một ngày Canh Thân, mà đời sau thường gọi là “Canh Thân chi biến”.


Nửa đêm thì biến cố bắt đầu xảy ra, Trục Hà vốn đang ngủ, bỗng nghe xa xa mơ hồ có tiếng quát tháo. Từ ngày có chửa, cô ngủ không được sâu, lập tức liền bừng tỉnh, ngồi dậy ôm gối lẳng lặng nghe. Tiếng rống kia như gào thét cùng gió bấc, không chỉ có những tiếng gào ngắn ngủi, xen lẫn vào đó còn nghe leng keng, rõ ràng là âm thanh của binh khí giao nhau. Lòng cô trùng xuống, lập tức khoác thêm áo, cung nữ ở gian ngoài cũng đã tỉnh, vội vội vàng vàng tiến đến giúp cô thay quần áo, Ngón tay Trục Hà run run, cô biết ngày này rồi cũng sẽ tới, chỉ không ngờ nó nhanh đến như vậy.


Nơi cô ở cách cung Dục Thanh không xa, không kịp truyền kiệu, cung nữ đốt đèn bão, cô tự mình cầm ô. Tuyết rơi càng lúc càng nhiều, như một tấm mành trắng, cách ly tầm mắt với toàn bộ cảnh vật bên ngoài, mà ngọn đèn trong tay cung nữ tỏa ánh mờ mịt, chỉ có thể soi được mặt đất ngay dưới chân.


Tuyết đóng đã dày, từng dấu chân đều lún sâu, lòng dạ cô cũng ngổn ngang trăm mối, chính mình cũng không biết bản thân đang nghĩ gì, chẳng qua chỉ là bước từng bước nhanh về phía trước.


Nửa đường đã thấy có bóng đèn xa xa, trong lòng cô chợt nghĩ, nếu như loạn quân đã xông vào hậu cung, chường mặt ra mà nghênh chiến, chỉ e chết là khó thoát.
Đôi tay cung nữ đã run rẩy kịch liệt, phỏng chừng sắp cầm không nổi đèn nữa. Cô tiếp lấy ngọn đèn, hỏi:
“Ai?”


“Nô tì Trình Viễn.”
Trình Viễn gặp được cô, chừng như thở phào một hơi:
“Vạn Tuế gia phái nô tì đi gọi nương nương.”


“Loạn quân đã vào thành rồi sao?”
Trình Viễn lắc lắc đầu, chỉ giục cô ta:
“Thnhr nương nương nhanh nhanh chút.”


Vừa nói, vừa đi ngay lên trước dẫn đường.
“Nương nương cẩn thân dưới chân.”


Trọng điện Dục Thanh hoàn toàn yên tĩnh, Hoàng Đế đã thay áo giáp. Tới bây giờ Trục Hà chưa bao giờ thấy chàng mặc giáp, áo giáp hoàng kim càng tôn lên màu son cẩm bào, dệt những dải hoa văn rồng vàng, ngọc lưu ly giắt một bên, càng toát lên vẻ cao lớn vững chãi. Chính vì cao, Trục Hà lại cảm thấy quá xa, xa lạ như chưa từng quen biết.


Hoàng Đế tiếp nhận ngự cung trong tay quan Chưởng Cung, quay đầu bắt gặp cô, cũng không buông cung, lập tức bước đến trước mặt, nói:
“Ta mệnh Trình Viễn dẫn đường, hộ tống nàng đi Thượng Uyển trước.”


“Định Vịnh kia hẳn là đã muốn đòi mạng trẫm.”
Giọng Hoàng Đế bình tĩnh, như thể đang nói một chuyện chẳng liên quan đến mình:
“Binh mã kinh thành đều nằm trong tay hắn, vậy mà hắn vẫn án binh bất động. Trước mắt loạn quân đã vào thành, chỉ sợ quân doanh tinh nhuệ còn lại cũng chống đỡ không nổi hai giờ.”


Chàng cười cười:
“Anh em cùng cha cùng mẹ, bao nhiêu năm qua, trẫm đã hao tổn hết tâm trí mà lo cho hắn, không ngờ cuối cùng vẫn có một ngày hôm nay.”
“Kính Thân Vương?


Trục Hà lắp bắp:
“Làm sao có thể?” (có thể hay ko ko phải mậy biết sớm nhất à?><)
Hoàng Đế như mỉm cười:
“Trên đời này không có chuyện gì là sẽ không, chỉ có chuyện không thể mà thôi.”
Trục Hà trầm mặc một lát, mới nói:
“Thiếp không đi.”


Hoàng Đế cau mày, quay lại gọi:
“Trình Viễn!”
“Có nô tì.”
Bóng đèn tranh sáng tranh tối, chiếu trên mặt Trình Viễn, vẫn luôn luôn là vẻ mặt kính cẩn ấy.
“Đưa cô ấy đi.”


Chỉ chỉ Trục Hà.
“Nếu như nửa đường Ngô chiêu nghi có gặp bất trăc gì, ngươi cũng không cần tới gặp trẫm.”
“Nô tì tuân chỉ.”


Trình Viễn dập đầu một cái, Trục Ha ngẩng mặt lên:
“Thần thiếp không đi, thần thiếp sẽ ở trong này.”


Hoàng Đế cũng chẳng buồn để ý đến cô ta nữa, mệnh cho quan Chưởng Cung xách bao tên đoạn đi ra, ống tay áo chợt căng, thì ra Trục Hà đã bắt lấy tay chàng, nhìn chàng bằng đôi con ngươi đen thắm, không buông tay.


Hoàng Đế thấy mềm lòng, cũng nắm lấy tay cô, bỗng nhiên có dòng lệ ấm áp, rơi trên mu bàn tay. Cho tới bây giờ Hoàng Đế chưa một lần nào thấy cô khóc . . . khóe miệng chàng hình như thoáng cười, dùng sức, gỡ ngón tay cô ta ra, từng chút từng chút, dứt khoát mà gỡ ra.
“HOnagf Thượng . . .”


Cô rơi lệ đầy mặt, nghẹn ngào.
Đầu ngón tay chàng lạnh lẽo, có lẽ luôn luôn lạnh lẽo như vậy, lau nước mắt cho cô:
“Đừng nói gì nữa, đi nhanh đi.”


“Bệ Hạ!”
Hoàng Đế đã chạy ra ngoài cửa điện, từ xa chỉ ngoái nhìn cô một cái, Trình Viễn tiến lên đỡ cô ta:
“Nương nương, nô tì phải hầu nương nương ra cung, chậm chạp chỉ e không kịp mất.”
Đó là một đêm hỗn loạn không thể tả, đằng đẵng như cả một cuộc đời.


Lúc Duệ Thân Vương rốt cuộc ghìm ngựa đứng giữa cung điện, màn tuyết mông lung trải từ trên trời xuống, khí thế bao la trùm ngập khắp chốn hoàng thành, hết thảy đều chìm trong ánh tuyết lạnh lẽo.
Hơn hai mươi năm qua, cả một quãng đời đã qua, y cũng chưa giờ cảm nhận một bầu không khí tĩnh mịch đến thế nơi hoàng thành, dường như mọi người đều đã ra đi trong bóng chiều chạng vạng. Chỉ có ánh đèn nhiều như vậy, làm bừng lên bóng dáng cung đình, mà ánh sáng kia cũng thật lạnh lẽo, trong gió tuyết vẫn phêu diêu không ngừng.


*********************************
[1]Nguyên là cháo Lạp Bát(thực ra Tịch hay Lạp đều đc, tịch nghe hay hay^^) dùng nếp, đậu, và các loại quả khô như táo, hạt dẻ, hạt sen…nấu thành. Bắt nguồn từ Phật giáo, tương truyền Thích Ca Mâu Ni đắc Đạo vào ngày này(lạp bát là mồng tám tháng chạp đó^^), nên chùa chiền nấu cháo cúng Phật, về sau trong dân gian lưu truyền mãi thành tục lệ
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

105#
Đăng lúc 26-6-2013 13:21:30 | Chỉ xem của tác giả


Chương 25: KIẾM LƯỚT ĐÊM HÀN ÁNH TUYẾT BẠC



Chàng bỗng thở dài một hơi.

Dường như một mũi tên nhọn đã lao đi xuyên qua tấm màn u tịch, âm thanh hò hét dâng lên như đợt thủy triều, ngay lập tức vang vọng cả đất trời. Gió tuyết thét gào, tiếng kêu la, tiếng binh khí va chạm nhau, tiếng mũi tên bật khỏi dây cung, khiên giáp kêu loảng xoảng, tiếng mũi đao  bén ngót trảm thấu da thịt  vào xương, tiếng máu tươi bắn tung tóe. . . Sôi trào như biển cả, chôn vùi con người ta trong tiếng gầm long trời lở đất của biển cả, chôn vùi hết thảy hoàng thành trong một cuộc tàn sát này đây.


Tấm giáp bạc của quân doanh tinh nhuệ phản chiếu cả hơi lạnh của tuyết, đây là quân đội do chính Hoàng Đế thống lĩnh, ngoại trừ mỗi năm hai mùa xuân thu đều được huấn luyện trong kinh đô, chưa một lần nào được nếm qua cái cảm giác lâm trận giết địch, lại càng chưa một lần trải qua một cuộc chiến tranh quyết tử đẫm máu như vậy. Thế những mỗi một binh sĩ trong quân tinh nhuệ, ngay cả khi quân địch mấy lần giáp vào mình, vẫn cứ anh dũng mà xông lên không có gì cản nổi.
Bóng tuyết trắng  thảm đạm phản chiếu lên tia sáng lạnh lẽo của những chùm binh khí giao nhau. Lớp lớp khiên giáp bàng bạc ngã xuống, lại lớp lớp khiên giáp sáng rực từ phía sau xông lên. Đạo quân của Duệ Thân Vương khí chất nhẫn nại, vẫn cứ  quyết hạ từng lớp từng lớp giáp bạc kia mà sáp vào.


Xác chết hai quân đều chất cao như núi, quân doanh tinh nhuệ sau cùng phải bắt buộc lui về mười trượng . . . Lúc bấy giờ, mọi người ai nấy đều cố hít sâu một hơi, chợt nghe tiếng hô “Vạn Tuế”  dội lên như thủy triều .  . . thì ra Hoàng Đế thân đứng nơi bậc thềm son cao cao phía trên, dựa cung mà đứng, vẻ mặt lạnh lùng nghiêm nghị  dường như ánh lên bóng tuyết lạnh, áo khoác chồn tía bị gió thổi tung bay, để lộ hoàng bào gấm lụa bên trong.


Dường như một nguồn khích lệ cực lớn ào qua, quân doanh lập tức phấn chấn tinh thần, dũng mãnh cùng ồ lên phản công ào ạt.


Lưỡi đao bén ngót nặng nề đâm thủng áo giáp khiên sắt, thọc vào trong da thịt, âm thanh kia cơ hồ chọc thủng màng tai con người. Thế mà quân tinh nhuệ từ đầu đến cuối vẫn không hề rối loạn trận pháp, ngay cả lúc cục diện càng ngày càng mong manh, cuối cùng đã dàn thành bức tường chắn ngang giữa quân địch cùng cửa điện Chính Thanh, ngăn cản tấm cờ sắc đen đang phần phật trong gió tuyết bên người Duệ Thân Vương  không cho tiến lên nửa bước.
“Vương gia?”


Giọng nói trong trẻo của kẻ đứng bên người vang lên ý dò hỏi.
Duệ Thân Vương khe khẽ gật đầu.


Người nọ lập tức rút trong người một múi tên kêu (tên bắn ra có tiếng), chỉ nghe một tiếng vút ngắn ngủi, trong màn âm thanh chém giết rung trời, vẫn bén nhọn xuyên vào lỗ tai.


Ánh lửa phụt một tiếng bừng sáng, chói lóa như chọc mù con mắt của mọi người, hàng ngàn hàng vạn đốm lửa rơi ào ào như một trận mưa sao băng, lại giống như hằng hà sa số những con châu chấu sắc vàng chóe bay tùa cả lên. Những vệt cháy cắt xé màn đêm đen thẳm, nở rộ trên không trung vô số những đóa hoa cực lớn màu vàng, chỉ nghe ùng ùng như sấm rền vang dội quả đất, con rồng lửa vĩ đại đã uốn éo rừng rực bốc lên.


Trong thoáng chốc quân tinh nhuệ đã bị bốn năm con rồng lửa chia tách, giáp bạc trong ngọn lửa bừng bừng kia cháy bỏng biến thành một cực hình tàn khốc, rất nhiều người đã phải rống lên bi thảm. Sau đó lại càng nhiều người trong rừng lửa hùng hổ tiến vào, lặng lẽ mà xông về trước, rốt cuộc  nương vào lửa cháy mà vạch chém mở đường máu. Hơn mười kỵ binh nhanh như chớp luồn theo kẽ hở đó mà qua, quân tinh nhuệ nhanh chóng liều mạng khép lại trận thế, trận chém giết lại một lần nữa nổi dậy.


Ngày vẫn chưa rạng, đêm dài đen như mực, chỉ nghe gió bắc gào thét, Duệ Thân Vương nghĩ, tuyết lớn như vậy, chẳng lẽ chỉ vẻn vẹn trong một đêm nay?


Khắp ngoài cửa điện Chính Thanh đều đẫm máu tươi , dòng máu đỏ thẫm ngấm vào trong bãi tuyết đọng, xác chết ngổn ngang, máu ấm hòa tuyết lạnh, hóa thành một vũng nước tuyết đỏ màu máu, sau đó đông lại thành lớp váng băng. Trên bậc tam cấp dính đầy những lớp váng nhầy nhụa như thế, giẫm chân lên chẳng khác nào đạp vào một lớp keo, đóng chặt lấy đế giày.


Mùi máu tanh lợm xông thẳng vào trong họng, làm người ta chỉ muốn ói mửa. Chàng vẫn từng bước từng bước một, nhanh nhẹn tiến thẳng lên bậc thềm, mà tòa cung điện nguy nga hùng vĩ nhất chốn hoàng thành, đang từng khắc từng khắc một, bị chàng giẫm ở dưới chân.


Một mũi tên bắn lén từ sau lưng bay đến, “vút” một tiếng sượt qua bên tai chàng, cong cong giắt ngay trên cánh cửa nửa đóng nửa mở trước mặt.


Cửa chính điện, mười sáu phiến gỗ đàn hương sơn son thếp vàng với chín con rồng xoay đầu vào nhau. Có một vài phiến đã bị long ra, trông như hàm răng khuyết của một con mãnh thú hung tợn, bất kỳ lúc nào cũng có thể há miệng ngoạm lấy người ta. Trong cửa điện, nền nhà lát gạch vàng, chi chít những mũi tên lạc rơi chồng chất, như thể dùng tên vũ mà rải thành một con đường, còn chàng, cứ từng bước từng bước một đạp lên cái lối đi đầy tên ấy mà vào.


Hoàng Đế chỉ bị một vết thương nhẹ, do trúng tên, ngay trên cánh tay trái, cũng chẳng buồn băng bó, cứ để cho máu kia tùy ý giọt xuống từng giọt trên nền gạch vàng. Rất nhẹ, “tích” một tiếng, tựa như đồng hồ rỉ nước.
Triệu Hữu Trí quỳ một bên, phỏng chừng đã phát khóc lên rồi.


Nhìn thấy Duệ Thân Vương tiến đến, bọn thị vệ xông ồ lên, che chắn trước mặt Hoàng Đế, mà mười tướng đi sát bên người Duệ Thân Vương, cũng lăm lăm lá chắn, bảo hộ cho Duệ Thân Vương.


Duệ Thân Vương thản nhiên như không, đưa tay gạt máu bắn tung tóe trên mặt, cách nhiều người như thế, khóe miệng Hoàng Đế khẽ cong lên, tựa hồ nở một nụ cười.


Ngàn vạn người ở ngoài kia vẫn liều mạng chém giết, hò hét, đấu đá, gục chết, mà trong đại điện ánh nến vẫn chập chờn lay động, dường như là cả một thế giới ngăn cách hoàn toàn với cảnh máu me bên ngoài.
Hoàng Đế cười nhẹ:
“Ngươi tới quả là nhanh.”


Duệ Thân Vương đáp:
“Ta đã lỡ một lần, dĩ nhiên lần này không thể sai.”
Hai người đều thoáng trầm mặc, Hoàng Đế lạnh lùng đối mặt Duệ Thân Vương:
“Trẫm biết, ngươi chờ một ngày này đã lâu.”


“Ngươi cũng đợi một ngày này đã lâu.”
Trong giọng điệu của Duệ Thân Vương không giấu sự mỉa mai:
“Rất lâu trước kia, ngươi đã lo nghĩ làm sao một kiếm mà giết ta.”
Hoàng Đế bất ngờ cười vang, rút soạt thanh kiếm:
“Tới đi!”


Lưỡi kiếm loang loáng như nước hồ thu, phản chiếu bóng đèn giữa điện, giống như rồng cuộn lóe lửa, ánh lên giữa mù sương rét lạnh. Đường kiếm vẽ ra nửa vòng tròn, đầu lông mày thấp thoáng một vẻ ngạo nghễ. Người hầu chung quanh đều từ từ lùi tản ra sau, Duệ Thân Vương cũng chậm rãi  tuốt gươm.


Từ thời Thái tổ Hoàng Đế dùng vó ngựa cung tên mà giành được thiên hạ, các chư hoàng tử đều đã tập cười ngựa bắn cung ngay từ tuổi ấu, cùng ngồi tại điện Văn Hoa mà nghe thái phó giảng giải kinh điển, ngoài ra mỗi vị hoàng tử cũng đều có một vị sư phụ dạy cưỡi ngựa bắn cung riêng của mình.


Dựng nước hơn ba trăm năm nay, luôn luôn có hoàng tử lĩnh binh ra trận, lưu danh với sử sách, dĩ nhiên là nhờ công dũng mãnh chinh chiến giết giặc. Các triều đại đi qua trong chiến tranh liên miên không dứt, cũng bởi Đại Ngu từ trước nay trọng võ khinh văn, phàm là hoàng tử, không một ai mà không tập võ.


Sau hơn mười chiêu, hơi thở của Hoàng Đế dần trở nên nặng nề, trường kiếm trong tay cũng lỏng lẻo, dù sao thì trên tay vốn đã có thương tích. Mà đường kiếm của Duệ Thân Vương thì thư thái linh hoạt, không sốt ruột cũng chẳng nóng nảy, có vẻ như thiên về công ít mà thủ nhiều.


Triệu Hữu Trí hoảng loạn tâm thần, chỉ thấy dưới ánh nến, bóng hai người thoắt xoay thoắt chuyển, mũi kiếm đâm ra rút về, lập lòe chớp nhoáng, vạt áo bị gió cuộn tốc lên, phất phơ ánh đèn tranh sáng tranh tối.
Thình lình một tiếng quát khẽ vang lên,  đèn đuốc bị kình phong bạt mạnh, đồng loạt trở nên lù bù, mấy cây nến gần đó trong nháy mắt tắt lụi. Trong lòng Triệu Hữu Trí chợt thót lên, quả nhiên, ngực trái của Hoàng Đế đã bị Dự Thân Vương đâm một kiếm, máu tươi chậm rãi trườn theo hoa văn dệt trên cẩm bào, song rốt cuộc Hoàng Đế vẫn đứng thẳng thân mình. Bọn thị về đăm đăm nhìn chàng, chỉ sợ chàng bị thương nặng.


Duệ Thân Vương hạ kiếm xuống, môi bạc thoáng nhếch:
“Một kiếm này, là vì Lâm Nguyệt.”


Toàn thân Hoàng Đế chấn động, giọng nói chợt đượm vẻ châm biếm:
“Ngươi đừng có mà nhắc đến nàng . . . ngươi không xứng đáng được nhắc đến nàng.”
“Sao ta không thể chứ?”


Duệ Thân Vương cười khẩy:
“Ngươi có biết vì sao nàng đồng ý gả cho ngươi không?”
“Trẫm biết . . . trẫm vẫn luôn biết, là vì ngươi.”


Trong khoảnh khắc ấy, dưới ánh nến, con ngươi của chàng như bị phủ một tầng hơi mỏng, nhìn không rõ lắm.
“Nhưng đến cuối cùng, nàng cũng chưa từng phụ ta, chỉ có ta nợ nàng.”
Giọng nói của chàng bỗng trở nên thật dịu dàng:
“Nhưng hết thảy những gì giữa ta với nàng, ngươi vĩnh viễn sẽ không thể biết.”


Duệ Thần vương chưa bao giờ trông thấy vẻ mặt chàng như vậy, bất giác hơi kinh ngạc.
“Năm đó, lần đầu tiên ở Bạn Hương Các ta gặp nàng, chính là một buổi tối tuyết rơi đầy  . . .”


Chàng ngẩng đầu, nhìn lên ô cửa sổ giấy phản chiếu ánh lửa, bờ môi không kìm được khẽ mỉm cười:
“Đêm đó đêm Nguyên Tiêu, đèn đuốc sáng rực cả trời đen, người trong cả thành ai cũng kéo nhau đi xem đốt đèn, chỉ có mình nàng ngồi một mình nơi góc ấy uống rượu cùng hoa mai, tuy nàng giả nam trang, nhưng ta liếc mắt một cái cũng nhận ra nàng là con gái.


Tiểu thư khuê các, thế nhưng lại giả con trai ngồi trong quán mà nhắm rượu, vì thế ta cố tình tiến đến bắt chuyện.
Mặc dù nàng còn nhỏ, song cách ăn nói phóng khoáng, cùng ta bàn chuyện trên trời dưới đất, trong câu chữ đều trí tuệ nho nhã, không hề thua kém một đấng mày râu. Từ giây phút ấy, ta mới biết được, thì ra trên đời còn có một người con gái như vậy, có thể cùng mình tri âm tri kỷ. Mà hai canh giờ ngắn ngủi ấy được ở cùng nàng, càng làm cho ta khẳng định, cái gì là tâm đầu ý hợp, lòng thấu hiểu lòng. Ta vui, đều vì nàng mà vui,  nàng vui, ta cũng thấy vui.


Trên đời này sẽ không còn ai hiểu lòng ta như nàng đã từng, chỉ là, trên đời này cũng đã không còn có nàng.”
Trong mắt chàng vô bi vô hỉ, nhìn Duệ Thân Vương:
“Sau này ta biết nàng là con gái họ Mộ, mà Mộ đại tướng quân dĩ nhiên không muốn gả con gái cưng làm vợ lẽ cho ta. Ta đã quỳ xuống mà cầu xin phụ hoàng, nhiều năm như vậy, đó là lần đầu tiên ta vì việc riêng mà cầu phụ hoàng, chung quy cũng được toại nguyện.


Có thể lấy được nàng, chính là hạnh phúc của cả đời ta, cho dù mới đầu nàng vì ngươi mà gả cho ta, nhưng đến cuối cùng nàng vẫn đem trái tim mình trao cho ta. Mà thiên hạ giàu có của trẫm, từ ngày nàng tạ thế, mới biết cái gì gọi là mất đi, không ai có thể thay thế nàng.”


Duệ Thân Vương lại tỏ vẻ thờ ở như chẳng buồn để ý, trong điện yên ắng nghe được cả tiếng gió vù vù bên ngoài. Ô cửa sổ vốn được dùng giấy bông mà căng kín, song có một cánh bị mũi tên lạc bắn thủng vài lỗ. Trong điện thắp mấy ngọn đèn lớn, hốt nhiên có trận gió lùa qua khe thủng tràn vào, một ngọn đèn lớn chập chờn, cuối cùng tắt ngấm, làn khói xanh lừng lững tản ra.


Một nửa khuôn mặt gã  ẩn trong bóng tối, tựa như cũng đã mất hút, thấy không rõ.
Qua rất lâu sau, gã mới nói:
“Là ngươi hại chết nàng.”


Trong mắt hun hút lóe lên tia lạnh cắt người.
“Ngươi là Hoàng Đế, vạn vật trong thiên hạ với ngươi đều là “ta cần ta cứ lấy”! Ngươi luôn miệng nói cái quái gì mà tâm đầu ý hợp, ngay cả nàng ngươi cũng không tha!”
“Trẫm không thể không làm. Nếu ngươi không cấu kết với Mộ thị, nếu ngươi không buộc trẫm bất đắc dĩ phải ra tay trước một bước, Lâm Nguyệt sẽ không chết.”


Chàng cười lạnh:
“Năm đó ngươi chắp hai tay dâng Lâm Nguyệt cho ta, là có cái ý đồ gì đây?”


Mũi kiếm nhọn chợt lóe sáng, đường  kiếm của Duệ Thân Vương hung hăng đâm tới, Hoàng Đế giơ kiếm lên đỡ, “keng!” một tiếng hai mũi kiếm giao nhau. Hơi thở của Hoàng Đế bắt đầu hổn hển:
“Ngươi chưa từng mất đi, trước giờ ngươi chưa từng biết cảm giác mất mát nó như thế nào. Thế nhưng ta đã quá rõ, ta hiểu rất sâu sắc, cho nên trẫm từng thề tuyệt đối sẽ không để cho bản thân phải mất đi bất kỳ cái gì. Ngươi bức bách trẫm, trẫm tuyệt đối sẽ không bao giờ để cho ngươi toại nguyện.”


“Bởi vậy ngươi mới cướp ngôi!”
Do dùng sức, nơi mu bàn tay Dệ Thân Vương đã hằn gân xanh, song giọng nói vẫn rõ ràng bình tĩnh:
“Phụ hoàng vốn có di chiếu, nếu như tiên đế không có con nối dõi, sẽ cho ta được kế thừa ngôi vị.”


Hoàng Đế vận  sức vào cổ tay,cuối cùng đã hất văng thanh kiếm của  Duệ Thân Vương, chàng ngửa mặt cười ầm lên:
“Di chiếu ? Té ra  ngươi đúng là đã dùng cái thứ đó mà thuyết phục lão Thập Nhất mở cửa thành đây.”


Đôi lông mày của chàng khẽ nhếch:
“Hao phí công sức tìm tòi bao lâu, thì ra đúng là vẫn còn nằm trong tay ngươi. Hai năm qua, quả thực ngươi giả trang rất khéo.”


Duệ Thân Vương cười gằn:
“Ngươi không ngại đầu độc chết mẹ đẻ của chính mình, lại kê biên tài sản cả nhà họ Mộ, chính là vì một thứ này đây. Đáng tiếc người tính chẳng bằng trời tính, nó đã sớm bị Mộ đại tướng quân đưa ra vùng quan ngoại, Mộ Duẫn thoát được một mạng mà đi thu hồi di chiếu, công bố cho toàn thiên hạ ngươi là cái đồ loạn thần tặc tử cướp ngai vàng!”
“Loạn thần tặc tử?”


Hoàng Đế cười khẽ:
“Ngươi là con trai phụ hoàng, ta cũng là con trai phụ hoàng, vì sao ngươi được làm Hoàng Đế, còn trẫm đây lại cướp ngôi? Trẫm muốn giành lại toàn bộ thiên hạ này, trẫm sẽ cho ngươi sáng mắt ra,  cho phụ hoàng  trên kia cũng sáng mắt ra  - hôm nay ngươi khởi binh làm loạn, chính ngươi mới là cái đồ loạn thần tặc tử!”


Hoàng Đế nheo nheo con mắt:
“Theo luật thì tử hình lại cái chắc, nhưng trẫm còn muốn chậm rãi mà lăng trì cho ngươi dở chết dở sống.”


Duệ Thân Vương cười ha ha:
“Hôm nay giết ngươi, chính ta mới là bậc đế vương trời chọn, mà ngươi cũng chỉ là loại phản tặc cướp ngôi mà thôi!”
Đường kiếm vạch xéo, hướng thẳng phía ngực Hoàng Đế mà đâm, Hoàng Đế giơ kiếm, song Duệ Thân Vương biến chiêu cực nhanh, mũi kiếm xé gió, Hoàng Đế rốt cuộc trong mình mang thương tích, chống đỡ hơi chậm, một kiếm của Duệ Thân Vương đã trùng trùng đâm vào trên vai phải của Hoàng Đế, mọi người ai nấy đều thót một hơi. Trong hỗn loạn còn nghe cả tiếng hít vào gấp gáp của phụ nữ, Duệ Thân Vương xoay tay, “soạt” một cái đã cắt phăng dây rèm.


Cô gái mặc váy hoa đứng sau rèm phỏng chừng là bị bất ngờ không kịp đề phòng, một đôi con ngươi đen kịt nhìn gã, lại không chút sợ hãi. Con ngươi ấy trong vắt tựa đáy hồ ngàn thước, lạnh lẽo chẳng khác nào tuyết rơi  ngoài kia.


Duệ Thân Vương chỉ đơn giản một kiếm là có thể lấy được mạng nàng, thế nhưng lại bị luồng hơi lạnh trong mắt nàng áp đảo, lưỡi kiếm thoáng trì trệ một giây, mà khoảnh khắc trì hoãn ấy, nàng đã vọt nhanh đến trước mặt Hoàng Đế.


Hoàng Đế cho là nàng vì quá kinh hoàng sợ sêt, bèn chìa cánh tay còn lại chưa hề bị thương, muốn ôm lấy nàng. Mà đôi tay nàng cũng thoáng giơ lên, tựa như cánh bướm, vạt áo lông điêu thật dài lướt nền gạch sáng bóng như gương, tựa như dải ráng chiều cuồn cuộn nơi phía chân trời, nhanh nhẹn nhào vào trong ngực chàng.

. . .
“Phập!”
Một âm thanh nhỏ đến mức gần như không nghe thấy khe khẽ vang lên, Hoàng Đế như chưa hề có cảm giác gì, cánh tay vẫn choàng lấy vai nàng, sau một hồi lâu, thanh kiếm trên tay chàng mới “keng” một tiếng rơi trên mặt đất.

Nàng chậm rãi trượt xuống từ trong lòng chàng, nửa ngồi nửa quỳ trên đất. Máu ồng ộc phun ra. Nàng ngửa mặt nhìn chàng, toàn bộ thị vệ đều đã bị biến cố bất thình lình dọa cho điếng người, ngay cả Duệ Thân Vương cùng với đám thân vệ cũng đều ngây phỗng nơi đó. Hoàng Đế lảo đảo về trước, gắng sức nhổ phắt  thanh đoản kiếm nơi ngực mình, máu tươi bắn  trên quần áo nàng, trên mặt, trên tóc . . .


Chàng nhìn chuôi đoản kiếm chạm trổ hoa văn thếp vàng, máu vẫn tràn qua kẽ ngón tay . . . Chàng chỉ nhìn đăm đăm hai chữ “Ngàn xa”, dường như nhìn thấy một điều gì đáng sợ nhất trên đời, khó mà tin, nhưng lại không thể không tin.


“Sống chết ngàn xa
Cùng người thề nguyện”
Làm sao sẽ là nàng?


Chàng vét chút hơi tàn cuối cùng, mới  có thể phát ra âm thanh:
“Là nàng?”


Nàng vươn hai tay bao lấy mình, chậm rãi, cẩn trọng, dán khuôn mình lên vạt áo của chàng. Máu theo tấm áo khoác của chàng mà trườn xuống, chảy lên mặt nàng. Dòng máu nóng hổi, hình như chính là nước mắt, làm sao có thể, nàng đã không còn nước mắt. Trong giọng nói đượm một nỗi bi ai lạnh lẽo khó nói thành lời, nhưng dịu dàng tựa hồ hết thảy đều chưa từng phát sinh:


“Là ta, ta vẫn luôn luôn chờ, nhưng không chờ được chàng.”
Chàng vượn tay đến, dường như muốn chạm vào khuôn mặt nàng, vết máu vẩn  nhuốm lên hơn phân nửa hai gò má của nàng, thế nhưng dung nhan nàng vẫn thuần khiết như vậy, vẫn  như bóng hình trong trí nhớ của chàng.


Nàng nắm chặt tay chàng, tựa như sẽ không bao giờ có thể buông ra nữa. Nàng nói:
“Ngày đó ta sinh ra, ánh trăng rơi đầy mặt đất tựa thanh sương, cho nên tên của ta là Như Sương.”


Miệng chàng khẽ cong lên, hình như là muốn cười, lại tác động đến miệng vết thương, càng làm cho máu phun mạnh ra. . .
Giữ thật chặt, sẽ không bao giờ có thể buông ra nữa, thật dịu dàng mà gọi tên nàng:
“Như Sương . . .”


Chàng lại siết thanh đoản kiếm, máu loang cả lên hàng chữ trên chuôi kiếm.
“Sống chết ngàn xa“


Sống chết ngàn xa, cùng người thề nguyện . . .


Nước mắt nàng rốt cuộc cùng ào ạt tuôn rơi, hòa trong máu và nước mắt, tầm nhìn của nàng cũng mơ hồ một khoảng, lại không thể thốt nên lơi nào nữa, cho đến hôm nay, tất thảy cũng đều thành uổng phí.


Chàng tựa hồ muốn nói gì, lại không thể nói được, chỉ đơn giản là cầm lấy tay nàng, siết lấy tay nàng thật chặt, có một giọt nước mắt thật lớn, chậm rãi trào ra nơi khóe mắt. Chàng cứ ngỡ bản thân sẽ không bao giờ còn khóc, mà giọt lệ kia chảy dài, vương trên mái tóc đen của nàng. Chàng từ từ buông lỏng ngón tay, nàng muốn bắt lấy cái gì mà vô ích, chỉ kịp níu lấy góc áo chàng. Chàng nặng nề mà chậm chạp ngưởng mặt, ngưởng mặt thế rồi ngã xuống, ngã vào trong vũng máu.
Triệu Hữu Trí gầm lên một tiếng ngắn ngủi tuyệt vọng, nhặt thanh kiếm trên mặt đất của Hoàng Đế, điên cuồng hướng về sau lưng Như Sương mà đâm. Như Sương vẫn nằm sấp nơi đó, không tránh không né, mắt thấy một kiếm của lão nhất định sẽ găm xuyên qua người Như Sương, chỉ nghe “phập” một tiếng.


Chính là một gã thân vệ đứng bên Duệ Thân Vương giương cung bắn, một mũi chuẩn xác đã xuyên thấu sau lưng lão. Lão đổ phịch người trên nền gạch, co giật liên hồi, trong chốc lát thì tắt thở.
Như Sương vẫn phủ phục ở đấy, không hề nhúc nhích, trong điện im ắng như tờ, chỉ nghe bên ngoài tiếng gào thét, tiếng chém giết đan xen vang vọng.


Duệ Thân Vương nhìn Như Sương gục trên vũng máu, nàng vẫn nắm chặt góc áo của Hoàng Đế, như một con thú nhỏ, cuộn mình nơi ấy, hay chăng cũng chỉ như một bức tượng gỗ bất lực, không chút sức sống dầm mình trong vũng máu đỏ.
Trên mặt Hoàng Đế vẫn cực kỳ sạch sẽ, dường như chàng chỉ đang say ngủ mà thôi, nàng cũng chưa hề phát ra một âm thanh nào. Phía sau lưng bọn họ, chính là lớp lớp mành bạc vây quanh kim loan bảo tọa.


Cửu ngũ chí tôn, đỉnh cao huy hoàng, thềm son thắm đỏ, mà gã đang từng bước từng bước tiến lên. Chiếc ngai vàng kia giống như cực cao cực xa, còn gã thì vẫn từng bước từng bước, hướng về nó mà đi đến.


Cuối cùng đã đứng trên vạn người, bảo tọa cửu long vàng ngọc này đây, tựa như tháp thờ thần linh. Y chậm rãi quay người, hướng mặt về phía nam, hàng ngàn hàng vạn đốm lửa ngoài kia cũng đều biến ảo thành biển lửa mông lung, tràn ngập một màng sáng ấm áp. Mọi người trong điện đều đã quỳ xuống, rốt cuộc có một người hô lên:
“Vạn tuế!”


Lập tức kéo theo những tiếng tung hô nối tiếp:
“Vạn tuế, vạn vạn tuê!”


Càng lúc càng nhiều người dập đầu ở dưới, mấy tên nội quan, người hầu chưa chịu quỳ lạy tức khắc bị lôi ra chém sạch.
Từ nay về sau, thiên hạ phục tùng, ngự cực bốn bể. Trong lòng y dâng lên một sự thỏa mãn phi thường, phải nói là sảng khoái không có ngôn từ diễn đạt, cúi nhìn về đầu mút xa xa kia. Sẽ không, sẽ không còn một kẻ nào có thể nổi loạn,  không còn một kẻ nào có thể đoạt đi, hôm nay, hết thảy đều đã là của y.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

106#
Đăng lúc 26-6-2013 13:31:22 | Chỉ xem của tác giả


Chương 26: PHONG SƯƠNG TUYẾT NGUYỆT AI CÒN NHỚ


Trong điện tràn ngập mùi máu tanh lợm, mà bên ngoài cuộc chiến vẫn kịch liệt như trước, thi thoảng còn có vài ba mũi tên lạc bay vào điện, bởi vì khoảng cách quá xa, lưa thưa không đích, rơi xuống trên nền gạch.


Duệ Thân Vương chẳng buồn bận tâm, chỉ chỉ vào xác Hoàng Đế:
“Đem ném ngoài điện đi, xem bọn chúng còn liều mạng làm cái quái gì?”


Lập tức có người tiến đến lôi Như Sương ra, nàng vẫn nắm khư khư góc áo Hoàng Đế, người đó liền rút đao, đang định chém luôn một nhát, nàng đã thong thả đứng lên, giọng nói lạnh lùng như băng giá:
“Lục gia, ngài chẳng lẽ không thừa dịp này mà trốn đi hay sao?”


Duệ Thân Vương kinh ngạc, chợt cười ầm lên:
“Sao ta phải trốn cơ chứ?”


Nàng rốt cuộc xoay người nhìn thẳng vào gã, trâm cài ánh ngọc màu tím lấp lánh đong đưa, sàn sạt một bên mái tóc. Con ngươi nàng cũng loang loáng, dường như còn mang một nét xinh đẹp quyến rũ khó tả:

“Thập Nhất gia thật đúng là chẳng thông minh chút nào, Lục gia chậm chạp không công thành, chẳng phải là còn kiêng kỵ ngòi bút của sử gia gắn cho hai chữ “giết anh” hay sao?  Thập Nhất gia trở mặt một lần này, Lục gia chỉ cần thừa dịp mà tấn công vào thành, ai cũng sẽ không biết Bệ Hạ chết như thế nào, đến lúc đó chỉ có Thập Nhất gia là giơ đầu ra mà gánh tội ác “giết anh” tày trời, còn Lục gia thì cứ ngồi rung đùi mà hưởng “ngư ông đắc lợi”.


Chỉ là, Lục gia không cảm thấy, hết thảy này đây đều quá thuận lợi rồi hay sao? “Bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ rình sau lưng”, chính là một chiêu tuyệt sát xưa nay vốn có của Hoàng Thượng.”


Nàng chậm rãi gằn từng câu từng chữ:
“Dự Thân Vương giả bại mà đi, anh ta căn bản chẳng hề trúng mai phục, mà chỉ là dẫn xuất đại đội binh, chậm rãi mà dàn thành một lớp giáp sắt bao vây toàn kinh đô này. Cứ cho là Lục gia có ba vạn quân tinh nhuệ, hay là Thập Nhất gia có toàn quyền điều khiển binh mã cửu thành, rốt cuộc cũng chỉ là cá nằm trong chậu mà thôi.


Bởi vì hai vị Vương gia đều là anh em của Hoàng Thượng, nếu như không có tội lớn mưu phản gì, quả thực  chẳng có cách nào nhổ có tận gốc, trừ khử tính mạng của các người. Khả năng nhẫn nại của Hoàng Đế người thường sánh không kịp, liều lĩnh một phen, cũng chỉ chờ cho đến ngày này.”


Như Sương cười lạnh nhạt, nói:
“Hiện thời chỉ e Dự Thân Vương đã vào đến thành rồi, Lục gia nếu còn muốn giữ cái mạng, mau mau mà đào tẩu đi thôi.”


Duệ Thân Vương đột nhiên ngửa mặt cười vang, cười một hồi lâu, mới nói:
“Chỉ bằng cô sao? Ăn vã nói suông mà đòi ta tin rằng Dự Thân Vương có thể khiển binh hùng tướng hậu bao vây kinh đô? Hoàng Đế nếu đã sớm bố trí một chiêu như vậy, làm thế nào còn có ta ngồi chỗ này?”


“Lục gia có thể không tin”


Như Sương chậm rãi nói.
“Kính Thân Vương sẽ không bao giờ giết Hoàng Thượng, lòng dạ cậu ta vốn mềm yếu, dù có di chiếu của tiên hoàng trong tay, bất quá cũng chỉ muốn ép Hoàng Thượng thoái vị mà thôi. Đậy chính là một bước mạo hiểm của Hoàng Thượng, bố trí một tử địa ngầm về sau, tự lấy thân  mình làm mồi nhử, hòng dụ Lục gia ngài một thân một mình mà thuận tiện tiến lên.


Lục gia vốn giết không nổi Hoàng Thượng, bởi không đợi ngài tiến vào cung, đại quân của Dự Vương đã sớm vây siết ba vạn kỵ binh tinh nhuệ của ngài đến một giọt nước cũng không rỉ. Hoàng Thượng quả thực tính toán không sai, chỉ là bỏ sót một điểm . . . đó là em trai của ta, Mộ Duẫn.”


Đáy mắt Duệ Thân Vương lóe lên ánh nhìn khó đoán, phỏng chừng là đã chợt hiểu ra cái gì:
“Té ra cậu ta chính là thủ lĩnh quân Kỷ Nhĩ Mậu? Làm khó cho cậu ta phải mang cái mặt nạ giả thần giả quỷ rồi.”


Tiếng cười Như Sương khẽ như tiếng thở than:
“Phải, cho nên Dự Thân Vương mới bị trì trệ việc vào thành, là bởi một vạn kỵ binh Kỷ Nhĩ Mậu còn đang cuốn chân anh ta. Dự Thân Vương vốn dụng binh như thần, có lẽ lúc này đã thoát khỏi vướng víu của em tôi, chẳng mấy chốc mà vào đến cung này.”


Như thể là muốn chứng minh cho lời của nàng, ngoài cửa Chính Thanh thình lình dậy lên một trận hò hét như thủy triều tới tấp, tiếng kèn loa vang vọng chốn mù sương, ngay cả băng tuyết tựa hồ đều bị thứ âm thanh nền nã này chấn động, tiếp đó là chuỗi âm thanh nặng nề mà vang vang xa xa  . . .  chính là đại đội quân binh của Dự Thân Vương đang dùng khúc gỗ cực lớn mà phá cửa điện Chính Thanh.


Duệ Thân Vương giật nảy lên, phỏng chừng muốn bước xuống khỏi thềm son, nhưng chợt đứng khững lại. Sau cùng, gã hung tợn hỏi:
“Ngươi làm tất cả là vì cái gì chứ?”


Như Sương vẫn điềm tĩnh mà đứng nơi đó:
“Còn các người thì sao? Các người làm tất cả, lại là vì cái gì?”


Duệ Thân Vương thở phì phò, mà Như Sương  ngược lại nở nụ cười:
“Lục gia, nếu nói hôm nay hết thảy này đây đều chỉ vì Lục tỷ, hẳn ngài cũng sẽ không tin. Ngài vì ngôi vị Hoàng Đế, bán đứng Lục tỷ, bán đứng họ Mộ. Lục gia, đây là báo ứng. Trời không làm, vậy ta làm.”


“Đồ điên!”
“Các ngươi mới là đồ điên, bọn đàn ông các ngươi đấy.”


Nàng cười, chỉ về xa xa:
“Vì cái vị trí này, điều gì cũng làm được, cái gì cũng bỏ được. Ngươi đem Lục tỷ dâng cho Hoàng Đế, ngươi đem người mình yêu nhất dâng cho kẻ thù, chỉ bởi vì tham vọng đế vương. Lục tỷ chết rồi, ngươi lại đưa ta vào cung, hao tâm tốn sức, biến bọn ta thành quân cờ, biến bọn ta thành thứ đồ chơi mà tặng cho người. Được lắm, vậy ta đây thay Lục tỷ đem vị trí này tặng cho ngươi, nhưng ngươi không có cái số mà ngồi lên được nửa khắc. Hết thảy giờ này ngày này đều là báo ứng! Báo ứng!”


Tiếng cười sắc nhọn của nàng lởn vởn giữa gian điện, chợt chôn vùi trong  tiếng nổ ầm ầm đinh tai. Cửa điện Chính Thanh cuối cùng cũng đã bị phá, âm thanh như thủy triều ào ào dội vang, long trời lở đất. Nàng đứng ở ngay giữa điện chầu, dáng điệu thướt tha, mong manh yếu đuối như thể bất cứ lúc nào cũng có thể bị thứ âm thanh sóng cuộc triều dâng kia nuốt gọn.
Lần đầu tiên gã nhìn thẳng vào người con gái này, mà nàng, chỉ lẳng lặng đứng yên nơi đó, như một mỏm đá nhô lên giữa dòng chảy xiết, mặc cho sóng cả nước trào, vẫn sừng sững bất động.


Duệ Thân Vương cười lạnh một tiếng:
“Ngươi tưởng lấy đó mà nhục mạ ta sao, làm gì có dễ dàng như vậy!”


Gã ngạo nghễ nói:
“Ta là con yêu của Hưng Tông, có lẽ nào chịu  chết trong tay cái thứ con tạp Hồi Hột đó!”
Giơ kiếm cứa một nhát ngang cổ, rốt cuộc hơi thở tắc nghẹn giữa cuống họng, gã ngã ngồi trên bảo tọa, nặng nề gục đầu xuống.


Máu trườn xuống theo thềm son, nhuộm sắc son càng thêm đỏ tươi diễm lệ.
Như Sương lẳng lặng đứng đó, trời đất chỉ còn lại khoảng không yên ắng tịch mịch, như một thời hồng hoang[1] vẫn còn chưa khai. Ánh tuyết chiếu lên cửa sổ giấy, làn ban mai sáng ẩm, rốt cuộc càng ngày càng tỏ, phương đông hào quang rạng ửng, tuyết lớn rơi liên miên cả một đêm, cuối cùng  đợi hừng đông thức giấc thì cũng đã ngừng.


Dự Thân Vương sau bình minh mới tiến quân vào được thành, một hồi chiến đấu kịch liệt, máu của quân địch đã thắm ướt cả chiến bào của chàng, mà trong lòng chàng nóng như lửa đốt, chỉ thúc ngựa  chạy lồng như điên.


Cổng Vĩnh Môn, cổng Thái Thanh, cổng  Chính Thanh, cung điện nguy nga xán lạn cứ lần lượt hiển hiện trước mắt. Tiếng vó ngựa dồn dập, cả một hoàng thành trống trải tựa như một tòa không thành. Tuyết đã ngừng, chung quanh đều là một màn trắng xóa bạt ngàn, tuyết nhiều như chỉ muốn giấu vào lòng hết thảy, đỉnh ngói vàng lưu ly cũng đều đóng lớp tuyết dày.
Trước cửa điện Chính Thanh to như vậy, ngay cả khoảng tuyết đọng mênh mông trên đường cũng đều bị nhuốm một màu đỏ thẫm, vô số tử thi đều bị chôn vùi phân nửa trong tuyết, bầu không khí sặc mùi máu tanh tưởi  khiến người ta tởm lợm muốn nôn mửa. Chỉ trong vòng một đêm mà toàn bộ chốn hoàng thành phồn hoa nhất thế gian như biến thành cõi Tu La địa ngục trong kinh Phật, thậm chí còn kinh khủng tàn bạo hơn nữa. Mấy hài cốt gãy xương đông cứng vì cái lạnh băng giá, bị vó ngựa phi nước đại đạp cho vỡ vụn, kêu lên răng rắc.


Dự Thân Vương gần như  nhảy phốc xuống lưng ngựa, chạy thẳng một mạch vào bên trong điện Chính Thanh. Thềm son cẩm thạch  đóng một tầng băng mỏng đỏ hồng, ẩn hiện lồ lộ bên dưới những hoa văn vân rồng, khắp nơi đều là xác chết nội quan ngổn ngang chất đống. Cả một tòa đại điện mà chẳng khác nào dưới chín tầng địa ngục, lặng ngắt như tờ.
“Hoàng Thượng! Tứ ca!”


Chàng tựa hồ lảo đảo nhào vào cung Chính Thanh, trong điện không một bóng người, kim loan bảo tọa như cũng phủ một tầng tro bụi mỏng, ghế tựa sơn son thếp vàng đều trở nên u ám và ảm đạm, hun hút lòng điện sâu thẳm vẫn nghe vọng lại âm thanh của chàng:
“Tứ ca . . . Tứ ca . . .”


Giữa điện vẫn lởn vởn mùi máu tanh lợm, xác chết trong điện chất càng nhiều, bởi vì mặt đất khô ấm, máu thậm chí còn không đông đặc, cả một tòa cung điện như chìm trong biển máu, ngập đến tận mắt cá chân.


Chàng bắt gặp Triệu Hữu Trí há miệng ngồi xoài chỗ kia, giữa ngực cắm xuyên một mũi tên dài, đã chết cứng từ lâu. Dự Thân Vương chỉ cảm thấy trời đất quay cuồng, giống như phát điên mà tìm kiếm:
“Tứ ca!”


Phía sau lớp lớp mành bạc, hình như có bóng người, chàng thình lình khựng lại ở đó, theo phản xạ  chụp thanh trường kiếm bên hông. Bọn thị vệ đi theo cũng túm tụm vây quanh, làm tấm màng bao bọc cho chàng. Vô số thương dài tên nhọn, nhắm sẵn sàng vào bóng người chậm chạp bước ra từ sau lớp mành.


Nàng vận một bộ đồ hoa, làn váy uốn lượn, giống như đang lội qua một biển máu, sắc mặt tái nhợt đến kinh người, dường như phải gượng hết sức mới có thể nhích nổi bước chân, mà một đôi giày vải điều đen vàng đã sớm bị ngấm máu tươi  ướt rượt.
“Cảm tạ trời đất . . . “


Nàng nói se sẽ:
“Cuối cùng thì Vương gia đã tới.”
Sau đó thân thể mềm oặt, ngã xuống.
.  .  .


Nàng nằm mơ một giấc mộng thật dài. Mộng về Nguyên Tiêu năm ấy, nàng mười bốn tuổi, đàn bà con gái trong nhà đều đi ngoài phía đông thành xem đốt đèn, mà nàng vì phạm vào gia giới, bị cha phạt không cho đi xem.


Bị nhốt trong nhà như vậy rất bức bối, bên ngoài thì khói lửa đầy trời, khắp thành đều nườm nượp người đi xem đèn, nàng lập tức chịu không nổi, rốt cuộc cùng Tiểu Hoàn gạt bà vú, thay đổi trang phục con trai mà chuồn ra phủ.


Đó là lần đầu tiên nàng ra phủ một mình, tới đầu con phố thì đã bị lạc mất Tiểu Hoàn, song chẳng hề cảm thấy sợ hãi. Tình cờ  mà bước vào một quán rượu thật to, tên là Bạn Hương Các. Vốn đã không còn chỗ, nhưng nàng đưa cho hầu phòng mười lạng bạc, lập tức hầu phòng cũng tìm được cách:

“Trên lầu hai hậu viện còn có một căn gác cực chỉnh tề, vốn đã được một quý nhân trên phủ bao cả tháng, mà hôm nay vương công đại thần đều hầu Hoàng Thượng đi xem đèn, tất sẽ không đến, vậy thì cứ im ỉm tạm nhường cho cậu vậy.”
Gian các chỉnh tề kia, thực sự là một căn gác nhã nhặn yên tĩnh nhất trong Bạn Hương Các. Đối diện với sân sau trồng mấy gốc mai hồng, ở đầu gác còn ngóng ra được xa xa phía đông thành đèn hoa rực rỡ, vô số những đường cung lửa bay lả tả khắp bầu trời như sao sa, cắt xé màn đêm tịch mịch.


“Đêm đông gió thoảng ngàn hoa đưa
Bay lác đác, sao như mưa
Ngựa quý, xe trổ, phố ngát hương
Tiêu phượng thanh thanh
Ngọc Hồ lấp lánh
Đêm này cá lượn rồng bay . . .”
(Thanh ngọc án – Tân Khí Tật – dịch thơ: Đông Y Lâm)


Từ của cổ nhân, đã ngâm nga cả ngàn lần, mà thời khắc này, mới biết ý thơ kiều diễm phồn hoa kéo đến tận nơi đây, mà nàng lần đầu tiên uống rượu, trong hơi men ngà ngà không nhịn đươc gõ chiếc đũa vào bình[2], cao giọng mà ngâm.
“Mày ngài, tuyết liễu, dải tơ vàng
Cười nói hương đưa thoảng dịu dàng
Tìm nàng chốn ấy trăm nghìn độ
Quay nhìn thảng thốt
Người chỉ có một
Đèn tàn dựa bóng ngóng trông.”


Ngoài mành bỗng có giọng người cất lên tiếp lời, con tim nàng nhảy thịch một cái, hầu phòng đã vén tấm mành sổ, một công tử  anh tuấn khôi ngô, ăn vận trang nhã thong dong bước vào. Mày kiếm mắt sáng, toàn thân toát lên vẻ phong lưu văn nhã như ngọc, một đôi con ngươi đen thẳm hun hút tựa bóng đêm, khiến cho người ta đắm đuối.


Đó là lần đầu tiên trong đời nàng trò chuyện cùng một người xa lạ khác giới, không hiểu vì sao vẫn trấn tĩnh đến ngạc nhiên, có lẽ vì nàng ăn mặc đồ con trai, có lẽ vì lời nói của chàng đậm đà thú vị, có lẽ vì đôi mắt với tròng ngươi đen nhánh sáng ngời của chàng.


Ngày đó, bọn họ nói với nhau rất nhiều chuyện, nàng kể những mẩu chuyện lý thú ngày thơ ấu cho chàng, chàng lắng nghe với một tấm chân tình nồng nhiệt. Nàng đọ rượu với chàng, cuộc kẻ nào bói không ra thi từ liền bị phạt rượu, nàng chưa bao giờ gặp được một người đàn ông nào  học vẫn uyên thâm như chàng, bất luận là cố sự điển tích ra sao, chàng đều có thể thuận miệng mà giảng giải hết sức tự nhiên.


Bọn họ trò chuyện rất lâu, thình lình trong phòng tối sầm như mực, mới biết té ra đèn cầy đã cháy hết.
Tức khắc ánh tuyết lạnh thanh khiết tràn ngập căn phòng, từa tựa ánh trăng. Trời đất lúc bấy giờ yên ắng không một tiếng động, chỉ có tuyết rơi ngoài cửa sổ rất khẽ, mà khắp mảng tường chăng đầy những bóng hình đan xen, chính là tuyết trắng phản chiếu dáng mai vào phòng, chạc cây đài hoa đều in lên rõ mồn một, hương lạnh ngấm vào tận xương, dường như đầy trời một sắc hoa mai.


“Thơ vạn ý
Chung rượu ngàn
Tước hầu vương nào đáng phải màng?
Lầu ngọc gác vàng lười trở lại
Say Lạc Dương mai nở vừa sang.”


Chàng hướng xa xa mở miệng, ngay đây hoa mai đầy trời ngập đất, cúi đầu nỉ non.
Say Lạc Dương mai nở vừa sang . . . Một ngày ấy nàng mới biết được, thì ra trên đời còn có người, có thể cùng mình kết bầu tri kỷ, thì ra trên đời còn có người, cùng nàng tâm đầu ý hợp, vui cùng nàng vui, lòng thấu hiểu lòng.
Trước lúc chia tay, chàng rốt cuộc hỏi:
“Dám hỏi, quý  danh của cô nương là gì?”


Là quá đường đột, là kinh ngạc vô cùng, là khiếp đảm, hơn cả là niềm sung sướng hỗn loạn. Thì ra, chàng đã sớm biết, nàng là con gái.
Trong nháy mắt đó nàng đã hiểu, đã hiểu ý tứ của chàng.


Chàng sẽ đến hỏi cưới nàng, chàng hỏi tên nàng, bởi vì chàng muốn đến tận cửa cầu thân. Trong khúc từ sách cổ đều từng xướng như vậy, tài tử  giai nhân, vừa gặp đã yêu. Nàng mới mười bốn tuổi, trong trái tim đắn đo như một chú nai con, nện lên thình thịch. Nàng chưa từng nghĩ  sẽ có một cuộc hội ngộ với con người như vậy, tuổi nàng còn quá nhỏ, nàng chưa từng nghĩ, sẽ sớm gặp được một người như vậy.


Rốt cuộc đời mình, thì ra còn có nhân duyên gặp gỡ một người như vậy.
Giọng nàng lí nhí như muỗi, chung quy  vẫn nói cho chàng:
“Ta họ Mộ.”


Mộ thị trăm năm danh gia vọng tộc, trong họ rất nhiều người làm quan tại triều, sợ chàng đoán nhầm, lại bổ sung thêm một câu:
“Tên húy của thân sinh ta, gọi Thượng Đại Hạ Quân.”


Sau cùng xấu hổ nói ra tên tự của chính mình, bởi vì quá ngượng ngùng, cho nên thanh âm càng như muỗi, nhỏ đến nỗi gần như chẳng nghe thấy gì:
“Ngày đó ta sinh ra, ánh trăng chảy tràn trên đất tựa thanh sương, cho nên tên của ta  . . . tên của ta . . .”
Chỉ một câu nhẹ nhàng như vậy, trong mắt chàng đã bừng sáng rực, nom như vầng hào quang xán lạn phi thường:
“Ta đã biết.”


Chợt, chàng rút thanh đoản kiếm bên người tặng cho nàng. Thanh đoản kiếm này hết sức tinh xảo, trên chuôi kiếm khảm những viên ngọc minh châu, ngay chính giữa bề mặt khắc bốn chữ triện (1 kiểu viết chữ Hán) thếp vàng : “Sống chết ngàn xa”, lật qua mặt kia  lại thêm bốn chữ  ”Cùng người thề nguyện”.


Sống chết ngàn xa, cùng người thề nguyện, nắm tay trọn kiếp, bên nhau đến già.
Nàng xấu hổ đến mức đỏ bừng cả mặt, vội vàng quay đi. Qua đến đầu đường ngoảnh nhìn lại, vẫn thấy chàng đứng lặng dưới ngọn đèn Bạn Hương Các, y phục trang nhã, tuấn tú như ngọc, nhìn nàng, miệng nở nụ cười. Nàng không dám nhìn nữa, chỉ vội vã bước về đằng trước, đầy trời những hạt tuyết li ti, lả tả bay xuống tới tấp. Nàng đi rất nhanh, trái tim cũng đập cực kỳ gấp gáp, khuôn mặt nóng bừng, trong lòng cũng ấm áp.


Bởi vì biết chàng sẽ đến, nhất định sẽ đến.
Ngay mùa xuân năm ấy, Lục tỷ được gả cho Tứ hoàng tử Định Thuần làm trắc phi. Mới đầu cha rất không vừa lòng, nhưng nghe nói Tứ hoàng tử tại điện Dục Thanh quỳ trọn nửa ngày, Hoàng Đế chung quy cũng đã đáp ứng, mà cha lại không thể không chấp thuận. Cho nên cả nhà đều nói, Tứ hoàng tử một lòng si mê như thế, nhất định sẽ không bạc đãi Lục tỷ.
Năm thứ hai cũng có người tới cửa cầu hôn nàng, mà nàng trốn sau tấm bình phong lén nhìn ra, chẳng phải chàng.


Mẹ cũng từng hỏi qua ý của nàng, nàng chỉ cúi đầu quay mặt vách tường không nói, đến lúc mẹ sốt ruột, mới thưa:
“Mẹ, con còn nhỏ . . .”


Mẹ biết rõ là nàng không vừa lòng, hơn nữa nàng cũng chỉ mới mười lăm, cũng thôi, sau cố tìm một lý do mà khéo léo từ chối đám hỏi kia.
Nàng rốt cuộc vẫn không thể đợi được chàng, mãi đến sau cùng,  tru di tam tộc, một đêm ấy cửa nát nhà tan, nàng cũng không thể nào đợi được chàng.


Nàng chưa từng hỏi tên của chàng, nàng không biết tên chàng.
Nàng nào biết, Định Thuần.
Mà chàng, cũng chẳng biết tên nàng.


Chàng không biết, nàng là Như Sương, ánh trăng thanh thuần, khắp trời như sương.
Chàng chỉ cho rằng, ánh trăng chảy tràn trên đất, chính là lâm nguyệt.
Lục tỷ của nàng, tên tự là Lâm Nguyệt.


Nàng chưa bao giờ nghĩ tới, sẽ xảy ra một sự hiểu lầm như vậy, để rồi đánh mất.
Nàng luôn luôn chờ, cứ ngỡ rằng sẽ đợi được chàng, cho đến tận ngày tru di tam tộc, thời điểm ở trong ngục giam, nàng vẫn từng nghĩ, không biết cuộc đời này, có hay không cơ hội gặp lại chàng.


Nàng luôn cho rằng, chàng thực sự sẽ đến, nhất định sẽ đến, bởi vì nàng hiểu, chàng thật lòng hứa hẹn, chàng sẽ đến.
. . .
Nàng cũng không biết thì ra là chàng, mà chàng lại càng không biết thì ra chính là nàng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

107#
Đăng lúc 26-6-2013 13:34:18 | Chỉ xem của tác giả

Ngoại Truyện



“Hết thảy pháp hữu vi
Như giấc mộng hão huyền
Như sương hay chớp điện
Quán chiếu thế liền thôi  . . .”
(Bài kệ Lục Như trong kinh Kim Cương-Phật-dịch:Đông Y Lâm)


Một làn khói nhẹ chờn vờn lùa vào trong điện sâu, tiếng đọc kinh rì rầm, một vài câu chứ ngẫu nhiên vượt tấm mành mà truyền ra.

Trên mặt đất, hoa văn song cửa sổ dài hẹp in lên như những con chữ không đầu không cuối, nền gạch đen trong suốt như gương, những hoa văn góc cạnh cũng như chỉ muốn trồi lên.
Nhóm nội quan im hơi lặng tiếng đến cực điểm, chỉ nghe đàn hương thấp thoáng xa xôi, phảng phất đâu đây bóng dáng chùa am thâm tịch.

“Vương gia, thỉnh bên này.”

Vương Tùng – vị tân thái giám chấp bút ban Ti Lễ cung kính khom mình, có vẻ hết sức ân cần:
“Thái Hậu đang làm công khóa(giờ tụng niệm) trong Phật Đường, Vương gia cứ khoan thai mà ngồi đây, nô tì sẽ kêu người đi bẩm trình Thái Hậu.”


“Dự Thân Vương gật đầu, hỏi:
“Hoàng Thượng đâu?”


Hoàng Thượng vừa mới ngủ ạ. Ôi chao, vị tiểu chủ nhân này quả thực khó chiều, lăn qua quật lại mãi làm mấy bà vú cũng vật vã mồ hôi, sau cũng vẫn phải nhờ cậy đến Thái Hậu, mới dỗ được ngủ. Cái cổ họng bé xíu kia mà khóc đúng là vang dội, lão thái phó cũng đã nói, tương lại Vạn Tuế gia chúng ta nhất định sẽ là một vị đế vương uy phong lẫm liệt, kinh chấn thiên hạ.”
Mới ngồi chốc lát, đã nghe có âm thanh vang lên từ trong mành sổ, rồi tiếng áo váy lướt sàn sạt, một làn hương khí đạm nhạt quen thuộc đột ngột bay tới.


Chàng đứng dậy hành lễ:
“Thần kính gặp Thái hậu.”
“Vương gia không cần đa lễ, mời ngồi.”


Cánh tấm mành, cũng nghe có một giọng nói dịu dàng. Chàng thân là Nhiếp chính Vương, cư cách cao quý, mà vị Thái hậu trẻ tuổi này thường ngày cũng không nhân lễ của chàng, thậm chí thái độ còn vô cùng khách sáo.


Nhóm nội quan đều lui cả ra ngoài, chàng đem toàn bộ từng việc từng việc một của buổi nghị triều hôm nay mà tấu lên, cách mành, chỉ thấp thoáng thấy nàng thân vận đồ tang trắng thuần một màu, lại không khỏi cụp mắt xuống. Bơit vì tiên đế băng hà còn chưa qua một năm, cho nên cả hoàng cung đều mang tang phục. Mà cái bóng trắng thuần kia, chẳng khác nào một đóa hoa đổ quyên bên rèm, không dính chút son phấn bụi trần, nhưng lại rực rỡ nở trong tầm mắt.


Một vài sự kiện triều chính đã tấu xong, có một khoảng lặng ngắn ngủi, nàng chợt hỏi:
“Sao hôm nay ngài đến muộn thế?”


Chàng hơi chần chừ:
“Hôm nay phải cùng mấy vị nội thần bàn bạc công trình thủy lợi . . .”


Một câu còn chưa nói xong, bỗng thấy nàng tha thướt đứng dậy, vươn cánh tay trắng nõn mà vạch tấm mành lên. Chàng không nói gì, chỉ đứng lên, im lặng lùi về sau mấy bước. Nàng chầm chậm đi tới trước mặt chàng, đột nhiên nở nụ cười xinh đẹp:
“Lệ Nhi khóc cả nửa ngày, vừa mới ngủ, ngài không muốn nhìn nó một cái sao?”


Tiểu Hoàng Đế vừa mới đầy tháng ở trong noãn các phía đông, đang say giấc trong nôi, tã lót bao bọc thế nhưng lại là loại vải bố trong dân gian, chính là do Như Sương tự  mình mệnh nội quan lặng lẽ đến hỏi mấy gia đình nghèo khó xin về, sau khi đưa vào cung thì chưng qua ba lần phơi ba lần, sau đó lại tự tay thêu một cái đường mối ghép, trông chẳng khác nào mấy thứ đồ sơ sinh rẻ tiền trong thiên hạ. Chỉ khác một điều là, bên ngoài cái tã lót dân gian ấy lại được đắp một chiếc mền gấm dệt kim tuyến hoa văn rồng vàng nho nhỏ, đây là vật dụng của Hoàng Đế, trong thiên hạ nào có tôn quý được đến thế.


Ước chừng là ấm quá, khuôn mặt nhỏ nhắn của em bé đỏ bừng, chàng bất tri bất giác nở một nụ cười, vươn tay muốn kiểm tra khuôn mặt đứa bé xem thế nào, lại sợ tay mình lạnh, làm nó giật mình tỉnh giấc.


Như Sương đứng ở bên người chàng, khẽ giọng nói:
“Thật là nhẫn tâm . . . tới nông nỗi ngày hôm nay rồi, vậy mà còn không chịu lo liệu tính toán gì cho hai mẹ con ta cả.”
Bộ dạng chàng dường như là sợ hãi cả kinh, từ từ đứng dậy, nhìn nàng.


Nàng bật cười:
“Đừng nhìn ta như vậy, Ngô Chiêu Nghi ngày hôm trước hạ sinh con trai, chàng lại phái người tráo một đứa con gái sơ sinh rồi đưa ra cung, chuyện như vậy, lừa gạt kẻ khác còn được, chẳng nhẽ còn đòi giấu giếm cả ta?”


Chàn nhíu mày song có vẻ nhẫn nhịn:
“Đó là con của Tứ ca.”
“Giữ nó lại, chính là mầm họa.”
“Không được!”
Chàng chợt đột phát:
“Ta không thể!”


Giọng nói hơi to, kinh động đến thân hình sơ sinh trong nôi giật thót một cái, bỗng “oa” một tiếng khóc òa lên.
Nàng ôm lấy đứa bé, một mặt vừa vỗ về, một mặt trừng mắt nhìn chàng:
“Vì Lệ Nhi, không thể giữ lại cái mầm họa kia được.”


“Không được!”
Sắc mặt chàng đã âm u đáng sợ:
“Mộ Như Sương, nếu cô dám làm cái chuyện đó, từ đây về sau, chúng ta ân đoạn nghĩa tuyệt. Cô buông rèm chấp chính một ngày, ta liền không bước vào triều nửa bước.”


Như Sương cười phì, dần dần cũng dỗ đứa đứa bé ngủ lại, bấy giớ mới khẽ quở trách:
“Nhìn cái dáng vẻ của chàng kia, chẳng khác nào muốn ăn thịt người ta. Động tí là lại cứ cáu kỉnh giận giữ, thật nhẫn tâm. Chàng nếu mà quẳng gánh trách nhiệm, cả cái triều đình to như vậy, ngàn lời vạn chữ, bảo người ta một thân đàn bà con gái làm sao bây giờ? Lệ nhi vừa mới đầy tháng, thật sự chàng một chút cũng không thương nó sao?”


Cúi xuống hôn nhẹ lên mặt đứa bé, chợt nói:
“Kìa! Chàng xem, là Lệ Nhi đang cười đó.”


Quả thực đang cười, trẻ sơ snh vừa tròn tháng, ngủ mơ vô tư vô lự cười ngây ngô, tựa hồ có thể làm tan chảy toàn bộ băng tuyết trên đời, một nụ cười khiến cho lòng người ta mềm nhũn.
Như Sương nhu hòa nói:
“Ta biết chàng không đành lòng, nhưng đứa bé kia thực sự không thể giữ, có nó thì không có Lệ Nhi, mà có Lệ Nhi thì không thể có nó. Dù chúng ta chịu nhiều khổ sở nữa cũng được.”


Lời nàng nhỏ nhẹ như tiếng thì thầm:
“Lệ Nhi còn nhỏ, làm sao không thể vì nó mà lo liệu tính toán?”


Dự Thân Vương chỉ cảm thấy một nỗi phiền chán không hiểu nổi:
“Việc này ngày khác nói sau.”


Như Sương cũng chẳng thúc ép gì nữa, cười lại hỏi:
“Hôm nay dùng cơm trưa tại đây nhé? Ta kêu phòng bếp làm món, trời lạnh, bụng đói cưỡi ngựa về, trên triều hẳn còn một đống người chờ chàng thương nghị, tất lại không ăn cơm nổi, sau nữa lại đói cho đau dạ dày mà xem.”


Dự Thân Vương vốn chẳng muốn ở lại cung Từ Ninh này lâu quá:
“Thái Hậu nếu không có chuyện gì nữa, thần thỉnh cáo lui trước.”


Bèn đứng dậy dợm bước đi, nhưng nàng đã một tay ôm đứa nhỏ, một tay lại kéo ống tay áo chàng, chỉ nói:
“Lệ Nhi, con bảo hoàng thúc ở lại cùng hai mẹ con ta ăn bữa cơm đi. Ôi, rốt cuộc mệnh con sao khổ thế, cha con còn nhẫn tâm như vậy, vứt bỏ hai người chúng ta một xó thôi.”


Dự Thân Vương trông nàng điềm đạm đáng yêu, trong ánh mắt còn lấp lánh ngấn lệ, xem chừng đã sắp phát khóc thật rồi, Cuối cùng cũng không thể nào cưỡng lại nổi cái giọng nũng nịu êm ái của nàng, chỉ đành ở lại.


Lúc chàng ra khỏi cung, canh giờ đã tối muộn, vào động ngày ngắn, lúc trở lại trong phủ thì đã đến lúc phải thắp đèn. Ngoài phủ như thường lệ ngựa xe động nghẹt, tên tả quan Tây Qua cứ từng chiếc từng chiếc một chạy qua chạy lại sắp xếp con ngõ chật ních kiệu quan, xe ngựa, xa xa thấy đầu ngựa nghi trượng  của Nhiếp chính Vương, trong ngõ nhỏ lại không khỏi loạn bát nháo một hồi. Ngu vệ canh cửa đã nhanh chóng bước ra nghênh đón.


Dự Thân Vương xuống ngựa, nội quan đang xách đèn bên cửa thấy chàng, vội vàng khoanh tay cung kính nép một bên. Chiếc đèn lồng đan lớn vừa mới thắp, vốn đang là quốc tang, ánh nến sáng trưng chiếu rọi cả dưới đế đèn có một hàng chứ màu lam dẹt mà nhỏ “Sắc tạo phủ Nhiếp chính Vương “. Còn một cây đèn khác thì chưa đốt, trong bóng tối vừa buông, bóng đèn trắng như tuyết thoảng lay động trong gió, tựa như con ngươi của một con quái thú, lập lòe chớp tắt không rõ.
Xử lý xong xuôi mấy công vụ gấp rút, gã tổng quản ngó quanh thấy đã trống vắng mới bẩm báo:
“Vương gia, Trì quản hạt đã trở về.”


Nguyên có công trong cuộc san bằng phản loạn, một Trì Tấn Nhiên năm nay tuổi mới đôi mươi đã được phong làm quản hạt, lúc này chỉ mang thường phục, tiến vào hành lễ với Dự Thân Vương. Dự Thân Vương phất tay, a hoàn nội quan vừa đứng đầy gian đã lập tức lui sạch.


“Vú nuôi nay, là người từ nhỏ đã nuôi nấng anh em thuộc hạ lớn lên, cho nên một bên thì không dám hé môi, đảm bảo đáng tin cậy. Vấn đề là hiện thời còn chưa tìm được nơi nào tốt, chắc phải từ từ mà tìm cách.”
Trong giọng nói Dự Thân Vương còn đượm vài phần mệt mỏi:
“Không cần, cứ để đứa bé sơ sinh đó ở lại trong phủ này đi.”


Trì Tấn Nhiên lấy làm kinh hãi:
“Ở lại trong phủ . . .?”
“Ở trong phủ!”


Dự Thân Vương nhanh  chóng đưa ra quyết định:
“Ngươi đi nói cho nhóm trợ lý, thay ta viết một tờ thông cáo bẩm trình cho phủ Tông Nhân, nói là ta thu nhận một đứa con nuôi . . . để cho phủ Tông Nhân nhớ mà ghi chép vào trong gia phả.”


Trì Tấn Nhiên không ngờ chàng sẽ có ý định như thế, lưỡng lự nói:
“Chỉ sợ trong cung  . . .”
Dự Thân Vương nói:
“Cô ta không dám, chỉ cần để đứa bé ở bên người ta, cô ta sẽ không dám, cô ta hiện thời vẫn còn kiêng kỵ  địa phận của ta, nhất thời, cô ta còn chưa dám manh động.”


Trì Tấn Nhiên lo nghĩ, tuy là thấy không ổn lắm, nhưng tình thế bức bách trước mặt, qảu thực không còn thượng sách. Vì thế trầm mặc chốc lát, lại hỏi:
“Nếu muốn ghi trong phả hệ, vậy Vương gia cần đặt cho nó một cái tên, để ghi vào trong tờ trình nữa.”


Theo quy chế thì hoàng tử bấy giờ đều phải đặt tên ứng với bộ “mộc” (木), vì vậy tiểu Hoàng Đế mới  gọi “Lệ” (棣)[1], đó là thành quả dày công chọn lựa ba tháng của bộ Lễ, từ trong sách cổ mà lọc ra hơn mười con chữ, tiếp đó trình lên cho Nhiếp chính Vương cùng Thái Hậu coi qua, Thái Hậu lại tự tay khoanh vào chữ “Lệ” này. Từ đó về sau, trong thiên hạ, phàm là gặp chữ ấy đều phải khuyết bút kiêng kỵ thành kính, trong vạn dân đều không được phép gọi thẳng, bởi đây là tên tự của Hoàng Đế.


Mà đứa bé trong phủ này, tuy là sống sót qua trăm cay nghìn đắng, cho dù thân là thế tử của Nhiếp chính Vương, cũng không được đặt tên theo bộ “mộc”, bằng không, chính là vượt quá giới hạn, bởi dòng dõi hoàng thân quốc thích chỉ có thể lấy theo bộ “nhật” (日).
“Vậy gọi là “Diệu”(曜) đi.”
Dự Thân Vương nhanh chóng quyết định.
“Trong “nhật” có “diệu”.[2]
Chàng ngẩng đầu lên, nhìn đêm tối mịt mù bên ngoài cửa sổ, như thở dài một tiếng:
“Đêm dù dài, cũng luôn luôn sẽ đến thời điểm  hừng đông.”
*****************************
[1] Lệ đây là trong “cây đường lệ” chứ không phải là nước mắt đâu nha, mà vốn có một cuộc tranh cãi nảy lửa giữa phiên âm “đệ” và “lệ” nhưng mình thấy chữ lệ nghe sang hơn^^.
[2] Ý Dự Thân Vương muốn nói “trong mặt trời thì có hào quang.”



HẾT
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

108#
Đăng lúc 26-7-2013 14:36:28 | Chỉ xem của tác giả
mình mới đọc xong truyện này
vì đọc trên điện thoại nên lướt lướt thôi
chung quy là SE rồi
nhưng mình có chỗ vẫn không hiểu
Như Sương yêu anh Dự Thân VƯơng hồi nào ta???? cái lúc mà được cứu trên thuyền à
còn cái người mà đi ngắm bông thược dược gì đó là Lâm Nguyệt đúng không???
vậy ra chỉ có Định Trạm yêu Lâm Nguyệt còn Như Sương yêu Định Thuần
mà Định Thuần lại nhầm Như Sương với Lâm Nguyệt
thắc mắc vẫn là sao mà Định Loan với Như Sương lại có tình cảm nhế????

Bình luận

NS ko yêu DTV, chỉ có ngược lại thôi bạn ạ, bạn vào blog sẽ hiểu thêm mà^^  Đăng lúc 10-9-2013 06:04 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách