Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: kadaj97
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại] Trăng Lạnh Như Sương | Phỉ Ngã Tư Tồn

  [Lấy địa chỉ]
81#
Đăng lúc 8-5-2013 21:29:48 | Chỉ xem của tác giả
mẹ phỉ có truyện mới rùi.mong chờ truyện này quá
cơ mà chả biết có HE ko nữa{:313:}
thích cung đấu lắm í.lót ghế hóng truyện nhà bạn
{:298:}cố lên bạn nhé{:311:}

Bình luận

hoàn rồi bạn nhé, hôm nay bạn vào blog của bạn Lâm luôn đi, lấy link eb^^  Đăng lúc 9-5-2013 09:29 AM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

82#
Đăng lúc 9-5-2013 12:11:11 | Chỉ xem của tác giả
ui.. truyện mẹ phỉ nghe nói hay mà em chưa dám nhảy một hố nào
con bạn đọc xong khóc sướt mướt... thơ thẩn cả tuần =.=
ko biết lần này mẹ lại có bài nào để ngược để hành con của mẹ nữa {:266:}
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

83#
 Tác giả| Đăng lúc 9-5-2013 15:51:05 | Chỉ xem của tác giả
keratoconus gửi lúc 9-5-2013 12:11
ui.. truyện mẹ phỉ nghe nói hay mà em chưa dám nhảy một hố nào
con bạn đọc xong ...

ồ, hic hy vọng ta không có mời nhầm ngừi a TT
mà chưa nhảy hố nào chứ chưa nhảy hố Đông cung là tiếc lắm nha nàng^^
đây cũng là một bộ cổ đại, đau thương, nếu nàng sợ đau tim thì chịu rùi TT nhưng nó hay lắm nàng a
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

84#
Đăng lúc 11-6-2013 20:16:40 | Chỉ xem của tác giả
THÔNG BÁO


Xin chào bạn!

Trước tiên, cám ơn sự đóng góp của bạn dành cho box.

Hiện nay, box đang tiến hành sắp xếp lại để gọn gàng hơn.

Trong quá trình sắp xếp, bọn mình thấy bạn đã ngừng thread gần 2 tháng và không có bất cứ thông báo nào đến độc giả trong khi wordpress nhà biên tập đã hoàn.

Vậy nên 5 ngày sau thông báo này, nếu vẫn không có chương mới, bọn mình sẽ tiến hành các biện pháp xử lý thích hợp.

Tạm thời bọn mình sẽ tô thread sang màu đen để phân biệt, khi nào thread có chương mới thì bọn mình sẽ tô lại màu xanh.

Mong bạn hiểu và thông cảm!

Thân mến!

Mod
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

85#
 Tác giả| Đăng lúc 14-6-2013 13:08:46 | Chỉ xem của tác giả
Nhutphonglin gửi lúc 11-6-2013 20:16
THÔNG BÁO

Xin chào bạn!

xin lỗi kites, thực sự rất xin lỗi TT
hiện tại mình không thể đăng truyện được, đợi đến khi mình đăng lại đc thì quá lâu nên nếu cần thì chắc kites nên xóa bài đi thôi, minh thực sự rất rất xin lỗi
mong kites thông cảm!!!

Bình luận

Cám ơn bạn :)  Đăng lúc 14-6-2013 06:45 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

86#
Đăng lúc 16-6-2013 22:44:56 | Chỉ xem của tác giả
Cô Lyn và Cô Hố ơi cho chị nhận đăng ký post truyện này nhé.
Thik truyện của mẹ Tồn nên thấy thông báo là nhào vô luôn.
Đề nghị ưu tiên người đăng kí sớm nhé, hehe
Thanks các bé.

Bình luận

Uki Hố, ss bắt đầu từ mai ^^  Đăng lúc 16-6-2013 10:47 PM
Ok, bạn cứ tiến hành, mai tớ sẽ đặt màu và sau khi hoàn tớ sẽ chuyển $ cho bạn. Cám ơn :)  Đăng lúc 16-6-2013 10:47 PM
Cám ơn chị. Chị post nhé :)  Đăng lúc 16-6-2013 10:46 PM

Rate

Số người tham gia 1Sức gió +5 Thu lại Lý do
HappyOneday + 5 Cám ơn chị ^^!

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

87#
Đăng lúc 17-6-2013 09:55:53 | Chỉ xem của tác giả

Chương 6: Người rời, thôi đành ngắm hoa rơi


<a href="http://imgur.com/mhT8ZXq"><img src="http://i.imgur.com/mhT8ZXq.jpg" title="Hosted by imgur.com"/></a>

Yêu nghiệt!
Hoa phi tay vừa bưng chén trà, liền muốn ném thẳng xuống đất. Tay đã giơ lên cao, bỗng nhiên chậm rãi hạ xuống, nghiễm nhiên như không có việc gì, thần tình ngơ ngẩn, cuối cùng nhấp một ngụm. Buông chén trà xuống, gọi cung nữ đứng bên:
“A Tức.”
A Tức khom người về trước:
“Bẩm nương nương.”
“Bảo người chuẩn bị, ta đi đưa tiễn Hàm phi.”
Giọng điệu Hoa phi  bình tĩnh như nước.
“Dù sao cũng là chị em bao năm.”
A Tức lặng lẽ lui xuống đi bố trí, Hoa Phi thay đổi trang phục, nhìn phía ngoài cửa sổ, thấy sắc trời đã chạng vạng, hơi nước mịt mờ, vô số lầu gác Thượng Uyển đã chìm trong làn sương mù khói nước tỏa khắp không gian.
Trong cung của Hàm phi đã thu thập đâu đó xong xuôi, kỳ thực cũng chả có gì để thu xếp ngoài mấy hòm quần áo. Bởi vì sự việc xảy ra quá nhanh, trong cung “Vân dung thủy thái” (Sắc nước hương trời -ặc, tên điệu khiếp) đeo một bầu không khí ảm đạm, trên khuôn mặt các cung nữ đều hiện lên vẻ thương xót. Hoa phi nhìn thấy trên mặt Hàm phi còn đọng nước mắt, cũng không khỏi sinh lòng cảm thương mèo khóc chuột, an ủi cô ta:
“Hoàng Thương chỉ là tức giận nhất thời, cho nên mới bắt muội về. Qua hai ngày hoàng thượng nguôi giận, xét tình trưởng hoàng tử, sẽ cho em trở lại thôi mà.”
Hàm phi vốn đang vô cùng đau khổ buồn bực, thế nhưng thấy Hoa phi đến, lập tức trở nên bình thường, thản nhiên đáp lễ:
“Đa tạ những lời an ủi của chị.”
Hoa phi làm vẻ thật tình thương cảm, nói:
“Em đi nhớ bảo trọng. Từ ngày Hoàng quý phi qua đời, chỉ còn ba người chúng ta. Tình phi thì bệnh như thế, hôm trước trong cung sai người đến thăm, nói mười phần không tốt, chỉ sợ không qua nổi tháng sáu. Chị vừa nghe đến tin ấy, trong lòng không khỏi cảm thấy khổ sở. Hồi trước lúc chúng mình còn ở trong vương phủ, cả ngày nói nói cười cười, náo nhiệt biết bao nhiêu.”
Hàm phi cười lạnh, nói:
“Chị nói vậy là không đúng rồi. Trong cung này mỗi ngày còn không phải náo nhiệt quá hay sao? Theo em thấy, lúc này mới thật náo nhiệt lắm, mà có người thì đến dòm ngó, có kẻ lại vào góp vui.”
Hoa phi làm bộ như không hiểu, cười nói:
“Em nói chuyện càng ngày càng sắc bén, lần này đến Vạn Phật Đường học hỏi cùng các thái phi nhất định đạt được thành quả lớn.”
Hàm phi tức giận, song nghĩ lại, lại nở nụ cười:
“Em chỉ là một kẻ phàm phu tục tử, không có tuệ căn, e học cũng chẳng xong. Thật ra thấy chị đây mới là người trí tuệ, luôn làm việc minh bạch, chỉ sợ chị sử dụng trí thông minh không đúng, nhiều năm qua khổ tâm tính toán, ngược lại làm đồ áo cho người ta.”
Hoa phi hé miệng cười, chuyển đề tài:
“Em đi Vạn Phật Đường, nếu thiếu ăn thiếu mặc, cứ cho người đến chỗ chị, chị nhất định bố trí cho đầy đủ.”
Hàm phi cười cười:
“Chị yên tâm, đa tạ đã tới thăm em, vậy em cũng sẽ không khách khí.”
Hoa phi đứng đầu trong ba cung phi, Hàm phi theo lễ đưa hoa tiễn bước, Hoa phi thật khách sáo nói:
“Không cần tặng, sắp lên đường, nên là chị đưa cho em mới đúng.”
“Đa tạ chị ngày thường vẫn quan tâm.”
Nội quan cung nữ đều đi theo xa xa, chỉ có A Tức đỡ tay Hoa phi. Hàm phi mỉm cười, bỗng nói nhỏ:
“Em sắp đi, cũng không biết ngày nào có phúc được gặp lại chị, thỉnh mong chị càng phải bảo trọng. Có điều yêu nghiệt kia chính là em gái ruột của Hoàng quý phi, chị thấy cô ta, chả nhẽ còn không biết sợ hay sao?”
Trong lòng Hoa phi nhảy dựng, buột miệng nói:
“Bản cung vì sao mà phải sợ cô ta?”
Hàm phi cười nói:
“Chị nói cũng đúng. Chị đây hiện tại là chủ quản hậu cung, sắp tới hoàng thượng sẽ phong chị làm quý phi, rồi cũng sẽ đạt được địa vị hoàng hậu như mong muốn, chị còn phải sợ cái gì? Chị cái gì cũng chẳng phải sợ.”
Trở lại trong cung mình, Hoa phi mới biết lòng bàn tay ra đầy mồ hôi lạnh. Tâm tình cô ta  không yên, cầm một chén trà nhỏ, trầm ngâm không nói. A Tức kêu liền mấy tiếng “nương nương” , cô ta mới nhấc mắt lên:
“A Tức, câu nói kia của Hàm phi, ngươi của nghe rồi, ngươi bảo cô ấy là có ý gì?”
A Tức thái độ kính cẩn đáp:
“Nương nương, mặc kệ Hàm phi có ý gì, đều chỉ là ăn nói bậy bạ. Con bé Thù Nhi thiếu kiên nhẫn, làm hỏng đại sự của nương nương, lại còn khiến nương nương rơi vào tình thế nguy hiểm. Hàm phi đi rồi, với nương nương vừa có lợi nhưng cũng vừa có hại. Lợi là, Hàm phi nếu không trừ, một ngày sẽ là chướng ngại cho nương nương. Hại là, Hàm phi vốn tính vội vàng, có thể làm quân cờ. Cô ta  đi, nương nương không khỏi mất đi cơ hội lợi dụng. Song cái quan trọng trước mắt là nương nương nên xốc lại tinh thần, ứng phó với Mộ cô nương kia.”
Hoa phi có vẻ hiểu, lúc này mới nói:
“Không thể trách Thù Nhi, chỉ là do chúng ta xem nhẹ con yêu nghiệt kia. Hoàng Thượng xưa nay đối với tình yêu nam nữ vốn lạnh nhạt. Lúc Hoàng quý phi còn sống, dù người đối xử rất tốt, song cũng chỉ thường thôi. Thế nhưng yêu nghiệt kia lại có được ngày hôm nay, ta thực không hiểu rõ.”
A Tức nói:
“Nương nương, qua một chuyện này, đã biết ả ta là họa lớn vô cùng. Hàm phi là mẹ đẻ của hoàng trưởng tử, vậy mà còn bị Hoàng Thượng đối xử như vậy, nương nương cần phải sớm tính toán.”
Hoa phi thở  một hơi thật dài:
“Ta vốn muốn mượn tay Hàm phi trừ bỏ ả, không nghĩ tới lại khéo quá hóa vụng. Hàm phi vừa đi, Tình phi lại bệnh nặng quá – mà không bệnh cũng chẳng tích sự gì, trong cung chẳng có một trở ngại nào, chẳng lẽ sẽ để cho ả lật cả trời lên sao?”
A Tức nói:
“Nương nương yên tâm, cơ hội thay đổi còn không ngừng.”
Thanh âm cực nhẹ:
“Hoàng Thượng cơ trí anh minh, sẽ không sa vào sắc đẹp. Xem tình cảm giữa Hoàng thượng và Hoàng quý phi như thế, Vạn Tuế gia còn có thể ra tay quyết tuyệt, cô ta chỉ là một con bé mồ côi của tên tội thần, có thể giở được trò gì chăng? Dù Hoàng Thượng trước mắt bị yêu nghiệt kia mê hoặc, đó cũng chỉ là nhất thời.”
Hoa phi nhìn con bé  a hoàn một lát, chậm rãi vuốt cằm.
***************************
Vốn khẩu dụ của Hoàng Đế là phải tức khắc thi hành, dù trời đã tối muộn, cũng không thể trì hoãn. Kiệu loan của Hàm phi rời Thượng Uyển, được tùy tòng bảo hộ đi tới cửa tây đã là giờ Dậu, cửa thành đã đóng. Quân giữ thành không dám tùy ý, chỉ đành truyền nhau bẩm báo lên cấp trên. Lúc báo cáo đến được hành dinh của Dự Thân Vương, thì đã quá canh ba giờ  Tuất.
Dự Thân Vương cai quản chung tất cả các công việc, mỗi ngày tự mình tuần tra việc canh gác. Lúc này vừa từ đại doanh trại Hành Uyển trở về, nghe nói Hàm phi phụng chiếu đêm khuy về kinh, cảm thấy kỳ lạ, hỏi vì sao. Người đến bẩm báo đương nhiên không biết, Dự Thân Vương lại làm việc luôn luôn kỹ càng, sai người đang trực ban quản lý cung điện đến. Nguyên chàng kiêm cả việc lãnh đạo nội vụ đại thần, chính là lãnh đạo trực tiếp của ban quản lý cung điện. Nội quan đang trực không dám giấu giếm, đem toàn bộ sụ tình từ đầu tới cuối nói cho bằng hết. Dự Thân Vương yên lặng nghe xong, ngay đó cũng không nói gì.
Vốn còn đang là thời gian nghỉ ngơi tại Thượng Uyển, nên cũng không có thiết triều, song Dự Thân Vương cai quản  nhiều, cho nên mỗi ngày đều phải vào cung yết kiến.
Ngày hôm đó, theo thường lệ sau khi chuyển thẻ bài xin yết kiến, Dự Thân Vương liền theo tiểu thái giám bước vào cửa chính. Lúc đi qua cầu Lạc Hoa, lối nhỏ bên cạnh có hàng cây hòe, hoa hòe chớm nở, từng cụm như mây, hương hoa ngọt như mật. Rồi lại thấy hơn mười tì nữ tay cầm lưỡi hái hình móc câu, còn  xách cả giỏ đựng, đang giữ lấy một cây thang để ngắt hoa hòe. Người chỉ huy hái hoa là nội quan trong “Phương nội yến an”, tên  Ngô Thăng, trông thấy Dự Thân Vương thì vội tươi cười chào đón:
“Thỉnh an Vương gia.”
Dự Thân Vương liền hỏi:
“Ở đây đang làm cái gì vậy?”
Ngô Thăng cười cười nói:
“Hoàng Thượng bỗng nhiên muốn ăn bánh hoa hòe, nhưng sợ phòng bếp làm không tươi non, cho nên Mộ cô nương sai chúng tôi hái hoa, tự mình chưng bánh.”
Dự Thân Vương thấy trong giỏ đầy nhóc hoa hòe trắng như tuyết, hương thơm ngào ngạt, ngọt say lòng người, không khỏi nói:
“Đã hái được như vậy, còn chưa đủ hay sao?”
Ngô Thăng đáp:
“Vương gia là không hiểu, từng này hoa hòe cũng chưa có đủ dùng đâu ạ. Chỉ ngắt những bông vừa nở một nửa, chỉ cần một chút điểm đen điểm vàng đều không được. Một đóa hoa phải sạch sẽ, cho vào niêu đất chưng lên, tích lấy từng giọt, dùng vải tơ lụa sống trắng tinh mà  lọc thành từng giọt sương hòe, cũng không trộn nửa giọt nước.
Chỉ dùng sương hòe này hòa cùng mặt làm bánh, ngài nói xem phải bao nhiêu hoa hòe thì mới đủ? Chỉ sợ toàn bộ cây hòe trong cung này, cũng chẳng đủ cho một lần chưng như vậy. Thật khó cho Mộ cô nương, biện pháp khéo như vậy, không biết làm sao mà nghĩ ra được.”
Dự Thân Vương thuận miệng nói:
“Phương pháp dạy nấu ăn như vậy, chỉ có trên công trình điều chế nước xa hoa tột đỉnh mới nghĩ ra. Mộ Trung Bình làm quản đốc sông ngòi đã nhiều năm như vậy, cô ta  lại là con gái ruột của Mộ Trung Bình, có biết cũng chẳng lạ.”
Ngô Thăng cười nói:
“Dự Thân Vương nói phải.”
Dự Thân Vương quay về phía tiểu thái giám dẫn đường nói:
“Đi thôi.”
Tới ngoài điện “Phương nội yên an”, Triệu Hữu Trí đã tự mình tiến lên đón, mỉm cười thi lễ nói:
“Thỉnh an Vương gia. Vừa rồi Vạn Tuế gia còn nhớ tới năm nay trà Tuyết Sơn Ngân Nha(chồi non núi tuyết) vừa cống ngon vô cùng, muốn để Vương gia nếm thử.”
Dự Thân Vương vốn đang có việc, thuận miệng đáp ứng, lập tức đi về hướng đông. Triệu Hữu Trí lại không có xoay người đi bẩm báo như trước đây, trái lại tiến lên một bước kêu:
“Vương gia.”
Dự Thân Vương lúc này mới để ý, hỏi:
“Thế nào? Hoa phi nương nương vừa đến sao?”
Hoàng Đế thực ra cũng không ưa sắc, vị trí Hoàng Hậu mặc dù còn trống, cũng không có sắc phong cho bốn vị cung phi. Hoàng quý phi Mộ thị đã qua đời, còn lại ba người Hoa, Hàm, Tình. Hàm phi hôm qua vừa bị điều đi, Tình phi thì bệnh nặng ở lại trong kinh, còn chưa đến Thượng Uyển, cho nên Dự Thân Vương nghĩ là Hoa phi đang ở trong, có điều không tiện nói gì.
Triệu Hứu Trí cười hì hì đáp:
“Hôm nay vừa mới cống trà Tuyết Sơn Ngân Nha liền, Mộ cô nương bỗng nổi hứng tự mình mở trà, lúc này hẳn đang pha trà cho Vạn Tuế gia. Hoàng Thượng chính đang cao hứng, nói pha trà là một công việc nhã nhặn, không được có người vây quanh, nếu không hỏng mất chung trà, lệnh cho bọn nô tì chúng tôi đều lui ra. Thỉnh Vương gia đến thẳng phòng chờ ngồi, lúc nào Vạn Tuế gia uống xong chén trà nhỏ, nô tì lập tức thay Vương gia bẩm báo lại.”
Dự Thân Vương lo lắng, theo lão bước vào phòng. Triệu Hữu Trí tự mình lau ghế dựa, lại tự mình pha trà mang đến rót mời Dự Thân Vương.
Cười nói:
“Vương gia xưa nay là một nhà thưởng thức trà cao tay, nơi này mặc dù không có loại trà gì tốt, cũng không dám làm qua loa có lệ mời Vương gia. Đây không phải là loại trà nổi danh, song là năm nay hái ở trước cửa Vũ cốc, thỉnh Vương gia thưởng thức cái vị non tươi thôi vậy.”
Dự Thân Vương vừa mở nắp, chỉ cảm thấy thơm ngát mũi, loại hương thơm này thanh nhã, không hề thua kém Tuyết Sơn Ngân Nha. Lòng chàng đang không yên, chỉ thuận tiện khen một câu, liền hỏi:
“Tháng sau là lễ Vạn Thọ, ý của Hoàng Thượng là làm ở Thượng Uyển cung hay là hồi kinh?”
Triệu Hữu Trí tươi cười nói:
“Nô tì không dám phán bừa thánh chỉ,có điều . . .”
Nói tới đây, lại ngừng một lát, do dự tiếp:
“Theo ý kiến ngu muội của nô tì, có lẽ hoàng thượng sẽ ở lại Thượng Uyển qua lễ vạn thọ.”
Dự Thân Vương dùng hai ngón bàn tay trái xoay xoay cái chén, đăm chiêu “À” một tiếng. Triệu Hữu Trí lại cười nói:
“Nô tì cũng có nghe hoàng thượng ngày ấy nói chuyện với Mộ cô nương, vạn tuế gia nói rằng, trở về cung thì nhiều quy củ, sẽ không được tự do như hiện giờ nữa.”
Dự Thân Vương đang chờ những lời này của lão, ngẩng đầu lên, ánh mắt sáng ngời nhìn lão:
“Con gái của tội thần, theo tổ huấn không được phong làm phi.”
Triệu Hữu Trí đáp:
“Vương gia nói phải lắm. Nhưng là vào thời hoàng đế Cảnh Tông cũng có trường hợp đặc biệt. Con trai thứ năm của Cảnh Tông là Khang Thân Vương, chính là do con gái của tội thần Phong Dật sinh ra, Cảnh Tông từng có chiếu dụ đặc biệt, vì sinh được hoàng tử mà phong cho nàng làm Phúc phi.”
Dự Thân Vương khẽ cau mày. Hoàng đế còn trẻ, Hàm phi sinh được hoàng tử trưởng năm nay còn chưa tới ba tuổi, Tình phi cũng từng sinh một người nhưng chưa qua được kỳ trăng tròn thì đã chết non, còn Hoa phi thì chưa có động tĩnh gì. Hoàng tử trưởng tuổi nhỏ, chưa nhìn ra được tư chất thế nào, đại cục trong tương lai rất khó nói được. Triệu Hữu Trí xem vẻ mặt Dự Thân Vương khó lường, cũng không nhiều lời, nhắc tới chuyện kia cũng vừa ý, giúp Dự Thân Vương mách nước:
“Việc nay cứ cho là đã có tiền lệ, song điều quan trọng nhất chính là, Phúc phi là mẹ đẻ của hoàng tử, cho nên mới được đặc cách. Nô tì thiết nghĩ, chỉ e kẻ khác thì không có được cái phúc đó, có thể sinh cho hoàng đế một hoàng tử.”
Dự Thân Vượng nhìn Triệu Hữu Trí, chỉ thấy lão sụp đôi mi hạ đôi mắt, thái độ vô cùng kính cẩn, trong lòng đột nhiên xẹt qua một ý chán ghét không thành lời, đẩy nhẹ tách trà, nói:
“Tứ ca là một người cực kỳ có tình có nghĩa, phàm là người nào huynh ấy thật tình đối đãi, tất sẽ không dung tha cho  bất kỳ chuyện nào xảy ra. Nếu có kẻ dám tính toán sau lưng huynh ấy, chỉ sợ mất đầu thôi là vẫn còn ân huệ lắm.”
Triệu Hữu Trí vẫn kính cẩn như trước, đáp:
“Vương gia dạy phải.”
Dự Thân Vương yên lặng thở dài. Chàng vĩnh viễn sẽ không thể quên được cái giá rét của một mùa đông ấy, tuyết lớn rơi liên miên mấy ngày, thời tiết lạnh đến nỗi đầu óc cũng như bị đóng băng. Củi đốt dự trữ ngay cả phần than vụn cũng bị các nội quan gom lại. Trong điện chỉ đốt hai chậu than nho nhỏ, cả cái cung Vĩnh Thái to như vậy chẳng khác nào hầm băng. Chàng mặc thật nhiều quần áo, nhưng rốt cuộc vẫn cứ lạnh phà ra hơi trắng.
Mẫu phi bệnh càng ngày càng nặng, đến nỗi không thể rời giường, mà nhóm nội quan cung nữ hầu hạ thì luôn lười nhác né tránh, cuối cùng chỉ còn mình chàng ở bên chăm sóc. Mẫu phi có lúc ngủ mê man, có lúc cũng thanh tỉnh được đôi chút. Bên ngoài cửa sổ tuyết rơi đập vào trên cửa giấy, nghe được cả tiếng vang, mẫu phi thì thào hỏi:
“Là tuyết rơi sao?”
Mẫu phi nói ngôn ngữ của vùng đất Hồi Hột (vùng gần Mông Cổ), ở trong cung này cũng chỉ có cậu bé chưa đầy bảy tuổi là chàng hiểu được. Cậu ôm lấy tay mẫu phi, cũng dùng tiếng Hồi Hột kêu bà một tiếng “Mẹ”.
Khuôn mặt từng sáng ngời như ánh trăng của mẫu phi, nay chỉ còn lại sắc u ám tiều tụy, con ngươi từng tinh anh như minh châu lấp lánh, cũng chỉ còn đượm mãi một vẻ ưu buồn, lẩm bẩm những lời vô nghĩa:
“Nếu chúng ta trở về trên thảo nguyên mênh mông ngày trước , vào thời điểm tuyết rơi, bà ngoại con sẽ sai bọn nô lệ nấu chè lạc Dương Canh( một loại điểm tâm nấu bằng bột đậu đỏ, va-ni, đường cát), hương thơm ấy mỗi lần ta nằm mơ vẫn đều nghe thấy”.
Trong lòng cậu vô cùng đau khổ, ngoài mặt lại phải cười thật tươi:
“Mẹ muốn ăn, vậy Loan nhi sẽ bảo nhà bếp đi nấu nhé.”
Mẫu phi nhẹ nhàng lắc đầu nói:
“Ta cũng không phải muốn ăn.”
Nhưng  cậu vẫn biết, cậu biết vì sao mẹ cậu lại nói như vậy. Ở trong cung trên dưới đều là một bọn chuyên bợ đỡ nịnh hót, nhà bếp ngay cả ba bữa mỗi ngày cũng chỉ làm cho có lệ, ở đâu còn có chuyện đi nấu cho bọn họ chè Dương Canh?
Mẫu phi vươn tay, xoa xoa mặt cậu, lòng bàn tay nóng bỏng, chẳng khác nào cái bàn ủi đặt trên mặt cậu. Thanh âm của mẫu phi cũng giống như bông tuyết, nhẹ tênh không chút sức lực:
“Con trai ngoan, đừng buồn, là tại mẹ làm khổ con, đây đều là số kiếp cả mà.”
Trong khoảnh khắc dòng lệ trào ra, cậu không phải buồn, mà là phẫn nộ, một sự phẫn nộ không thể đè nén được. Cậu bỗng đứng bật dậy, lớn giọng nói:
“Mẹ, đây không phải là số kiếp, bọn họ không thể đối xử với chúng ta như vậy.”
Không để mẫu phi nói thêm nữa, đã xông thẳng ra cửa. Vô số bông tuyết cuồn cuộn lên đầy trời, gió bắc gào thét táp vào trên mặt. Cậu bé chạy một mạch như điên, hai bên là tường cung điện cao cao chạy dài như những ngọn núi liên tiếp, vĩnh viễn không dừng lại. Cậu nghe được cả tiếng nước tuyết tan bị đạp văng tung tóe, nghe được cả trái tim mình đập cuồng loạn, nghe được hơi thở gấp gáp của mình. Trong đầu cậu chỉ có duy nhất một ý niệm, cậu muốn đi phòng bếp, muốn đem cho mẫu phi một bát chè lạc Dương Canh. Cậu là hoàng tử, là con trai của đương kim hoàng đế, mẫu phi bệnh như vậy, cậu không thể để người ngay cả một bát chè lạc cũng không được ăn.
Cổng Chính Hòa, cổng Kinh Thái, cổng Vĩnh Phúc . . . từng cái từng cái đều bị cậu bỏ lại phía sau. Bỗng nhiên dưới chân trơn trượt, cả thân hình ngã ập xuống đất, đầu gối bị đau đến thấu xương, sau một lúc lâu vẫn không thể đứng lên nổi. Có tiếng bước chân lộn xộn từ từ tiến lại gần, rồi bỗng nghe một tiếng cười phì.
Cậu ngẩng đầu lên, thấy rõ đang đứng từ trên cao nhìn xuống chính là Nhị hoàng tử Định Đường. Tên đó mặc một bộ áo gấm lông cừu, trên đầu đội mũ chụp có gắn lông chim, che mất đi phân nửa cái mặt tròn tròn của nó.
Định Đường trông thấy toàn thân cậu đều dính nước tuyết bẩn thỉu thì khoái lắm, vỗ tay cười to:
“Thằng nhóc Hồi Hột, vồ ếch đẹp lắm, một cái chổng vó y như con rùa.”
Trong đầu cậu nổ đùng một tiếng, máu nóng đầy đầu ngùn ngụt bốc lên như muốn ồ ạt xông ra. Không kịp nghĩ ngợi gì, cậu chụp lấy tay Định Đường dùng hết sức kéo một cái thật mạnh. Bị bất ngờ không kịp đề phòng, Định Đường rốt cuộc bị kéo ngã từ trên xuống, dập mặt ngay tức khắc, bật khóc oe oe.
Bọn nội quan tức tốc xông tới nhưng tách sao nổi hai người. Cậu ôm ghì lấy Định Đường, còn Định Đường thì vừa khóc vừa chửi, cả hai quay cuồng trong đám bùn tuyết, cậu cứ một đấm lại tiếp một đấm, liên tiếp như mưa giáng xuống. Định Đường ra sức giãy giụa, cũng tay đấm chân đá. Mà Định Đường so với cậu còn lớn hơn vài tuổi, thế nhưng không biết sức mạnh ở đâu ra, cậu vẫn kiên quyết không chịu buông. Định Đường phát hoảng, miệng vừa gào khóc vừa mắng dọa:
“Cái thằng Hồi Hột khốn kiếp kia, có thả tao ra không, tao kêu mẫu hậu giết chết mày! Giết mày!”
Lửa giận hừng hực bốc lên, vốn là đã cháy từ rất lâu, trên đường đi gặp tất cả cành khô que củi nào đều đốt cho thành tro bụi, khí thế ào ạt như dời non lấp biển. Cậu cứ để cho ngọn lửa trong lòng bùng lên đến nỗi hai mắt đỏ ngầu, cưỡi lên người Định Đường, dùng hai bàn tay mà kẹp lấy cổ tên nhóc kia. Định Đường lập tức thở không nổi.
Bọn nội quan cũng tay chân hoảng loan, kéo ra không nổi, chỉ đành cạy từng ngón tay của cậu. Cậu thà chết cũng không buông, hai mắt Định Dường dần dần trắng dã. Bọn nội quan hoảng quá, tay cũng dùng hết sức, chỉ nghe “rắc” một tiếng, ngón trỏ tay phải của cậu bị đau đến điếng óc, đau muốn ngất xỉu tại chỗ. Bọn nội quan cuối cùng cũng lôi cậu ra được, vội đỡ Định Đường dậy.
Ngón trỏ buông thõng xuống, cậu chưa từng đau đến như vậy, cơn đau cơ hồ lan đến tận tim.
Bọn nội quan đang sốt ruột lo lắng kiểm tra xem Định Đường có bị thương ở đâu không, còn cậu bé đang ngã trong vũng nước, thì chẳng có lấy một người thèm để mắt đến.
Xương ngón tay trắng hếu bị gãy đâm ra bên ngoài da thịt, máu chảy theo từng đốt ngón tay nhỏ xuống từng giọt từng giọt rơi trên tuyết, nở ra những đóa hoa đỏ rực.
Cậu không khóc, cậu tuyệt đối không muốn khóc. Chẳng sợ hôm nay bọn chúng có đánh cho gãy tay què chân, cậu cũng không muốn khóc một tiếng.
Mẫu phi đã từng nói, hồi ấy trên vùng thảo nguyên mênh mông, binh sĩ Hồi Hột từ xưa tới nay chỉ có đổ máu chứ không rơi lệ.
Cậu cố gắng ngửa mặt lên, trong vô số bông hoa tuyết từ trên trời cao rơi xuống, mỗi một bông thanh khiết trắng trong đều như một ánh mắt dịu dàng hiền hậu của mẹ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

88#
Đăng lúc 17-6-2013 12:13:41 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7: Nếu ngày đó đừng gặp




Thình lình có một luồng mãnh lực bay nhanh về phía cậu, cậu theo phản xạ né mặt đi, tuy nhiên vẫn không thể kịp, Định Đường đã đạp một phát thật  mạnh lên mặt cậu. Mũi giày nhọn rất nặng bằng da trâu đã trúng ngay bên khóe mắt, tức khắc máu liền từ đó chảy ra. Nhìn thấy máu cũng không khiến cho Định Đường chịu dừng tay, lại tiếp tục chửi:

“Cái thằng con tạp nhà mày dám đòi giết tao hả? Tao hôm nay phải lấy cái mạng chó của mày mới xong.”

Bọn nội quan tuy mở mồm khuyên dỗ, nhưng chẳng đứa nào ra tay ngăn cản. Cậu che chở tay trái bị thương, cố gắng né tránh những cú đấm đá của Định Đường. Câu vốn nhỏ tuổi sức yếu, ngón tay bị thương làm thân hình cũng trở nên chậm chạp. Bọn nội quan làm ra vẻ như khuyên can, song thực tế lại tranh thủ nhắm vào trên hai chân cậu mà đá, cậu nhanh chóng rơi vào thế hạ phong.

Những nắm đấm rơi xuống trên đầu trên mặt liên tục như mưa, da thịt đau đớn dần dần trở thành tê dại, trong lòng rốt cuộc dâng lên một nỗi tuyệt vọng vô bờ.

Cho dù chết, cậu cũng không muốn phải uất ức mà chết.

Bỗng nhiên có một vạt ống tay áo vươn ngang đến, túm lấy cánh tay cậu bé. Cậu ngẩng đầu lên, thì ra là tứ hoàng tử Định Thuần. Huynh ấy không có ngồi kiệu, phía sau cũng chỉ có hai nội quan đi theo. Một thiếu niên mới mười hai tuổi thân hình cao gầy, nhìn chỉ giống như một chàng trai thư sinh nhã nhặn, thế nhưng cánh tay lại có lực mạnh như vậy, lập tức đã kéo được cậu đứng lên, sau đó thản nhiên khom người hành lễ với Định Đường:

“Kính găọ Nhị ca.”

Định Đường khẽ nhếch khóe môi, hừ mũi một tiếng, khinh khỉnh hỏi:

“Mày làm cái gì vậy?”

Vẻ mặt Định Thuần lạnh lùng không biểu hiện một chút gì, nhìn thẳng về phía nội quan Cận Truyền An đứng ở sau Định Đường, hỏi:

“Ý chỉ của Hoàng thái hậu được Kiều Dụ môn lập thiết bài, truyền trên cung quy hai mươi sáu điều, điều thứ mười ba là gì?”

Cận Truyền An không hề đề phòng câu hỏi này của cậu, cung quy từ thuở nhỏ đã thuộc làu làu, buột miệng đáp:

“Xúi giục chủ nhân gây bất hòa, đánh sáu mươi gậy, đuổi vào Tích Thiện đường vĩnh viễn không được trọng dụng nữa.”

Định Thuần gật đầu một cái:

“Người đâu, đi lấy gậy, ta thay Nhị ca dạy dỗ bọn nô tì xúi hại chủ nhân này!”

Cận Truyền An sợ hãi giật thót, mà Định Đường làm sao mà chịu để như thế. Nó là con trai của hoàng hậu, mà Định Thuần chỉ là con của Hạ phi vốn là thị nữ của mẹ nó, cho nên Định Đường vốn xưa nay vẫn coi khinh Định Thuần, ngạo nghễ nói:

“Mày bớt xía vào chuyện người khác đi.”
Định Thuần khẽ nhếch lông mày:
“Nhị ca, thất đệ là anh em của chúng ta, đây không phải là chuyện của người ngoài.”
Định Đường cười hì hì nói:

“Tao mới không thèm cái đồ con tạp Hồi Hột này làm em, mẹ hắn là đồ Hồi Hột mọi rợ, mẹ mày là thị nữ hầu hạ thay quần áo cho mẹ tao, hai đứa chúng bay mới thật là một đôi anh em trời sinh đó.”

Định Thuần cắn chặt đôi môi, trong con ngươi lóe lên một tia sáng. Định Đường cười nhạo một tiếng:

“Thế nào? Nhìn bộ dạng của mày, chả nhẽ còn dám cản trở tao?”

Đột nhiên vung tay, một quyền lập tức hướng về phía Định Loan. Định Thuần theo phản xạ đẩy định Loan ra, đưa tay bắt lại một đấm này của nó. Định Đường giận  dữ, bước lên tính đánh tiếp, Định Thuần che cho Định Loan ở phía sau, cả ba người nháy mắt đã lại lăn lộn một đống ở trong tuyết, không có cái gì kéo ra được nữa. Đợi đến lúc Văn Tấn tới cùng bọn nội quan ba chân bốn cẳng chạy lại tách bọn họ ra, thì cả ba sớm đã mặt mũi bầm dập.

Nhìn qua biết là đã lớn chuyện rồi, tất nhiên không thể giấu giếm được nữa.

Hoàng đế nghe báo lại đương nhiên vô cùng giận dữ, tức khắc cho triệu ba người đến.

Rất nhiều năm sau, khi thất hoàng tử Định Loan đã là một Dự Thân Vương, vẫn có thể nhớ lại rõ ràng như trước  tình cảnh ngày mới bước chân vào điện Thanh Hoa  ấy.

Điện Thanh Hoa  từ trước tới nay là nơi ở của Hoàng quý phi, quy mô cấu tạo gần như tương đương với cung điện bậc nhất của Hoàng Hậu.

Cung nữ vừa vén tấm mành bằng gấm dày nặng trịch lên, Định Loan cảm thấy một luồng gió phất qua mặt, mang theo đàn hương ( hoàng đàn 黃檀) thượng hạng nhàn nhạt ấm áp, toàn bộ trong điện nơi nào cũng ấm như mùa xuân. Cung nữ dẫn bọn họ vào trước noãn các (phòng có lò sưởi), khẽ vén rèm mỏng – loại rèm này được kết toàn bằng hạt trân châu, mỗi hạt to nhỏ đều tròn vành vạnh, ánh ngọc lấp lánh chớp nhoáng, mờ mờ như có làn khói bao phủ.

Trong noãn các rộng rãi sáng sủa, trang trí một ít hoa sơn trà. Thời gian này vốn không có hoa quý, tất cả các loại hoa  đều là lấy từ trong hầm ủ ở châu Ký Nam, sau đó bảo quản cạnh lò sưởi theo thuyền cống nạp vào kinh.

Định Loan nhìn hoa, cũng không biết loại hoa này tên gọi là gì, chỉ thấy hồng hồng trắng trắng nở rộ vô cùng đẹp mắt.

Lồng ủ trong phòng rất ấm, thậm chí còn khiến người ta hơi có cảm giác muốn đổ mồ hôi.

Trong lòng dần dần gợn lên chua xót, cậu nhớ tới mẫu phi ở trong cung Vĩnh Thái, cả cái cung giống y như một hầm băng, nghĩ đến liền cảm thấy đáy lòng có cái gì vỡ nát, âm thanh dù vi tế, lại khiến cậu cảm giác như cả cuộc đời này cũng không thể lành lại được nữa.

Một cung nữ mặt mày xinh xắn vừa đi bẩm báo đã quay lại, cung kính thưa:

“Cho truyền ba vị hoàng tử.”

Theo cung nữ dẫn đường, ba người đi qua mười tám tấm bình phong bằng gỗ đàn mạ vàng, ngay cả một kẻ suốt ngày kiêu căng như Định Đường cũng trở nên rụt rè.

Ba người gặp Hoàng Đế thì hành đại lễ, một mực dập đầu:

“Thỉnh an phụ hoàng.”
Qua một hồi lâu mà không nghe tiếng đáp lại, Định Loan xưa nay lớn mật, lặng lẽ ngẩng đầu lên, thình lình bắt gặp từ trên nhìn xuống một đôi con ngươi đen thẫm mà sáng quắc, lòng không khỏi nao nao.

Đầu kia bàn đọc sách có một ánh mắt nông mà hàm chứa sự bướng bỉnh đang cười cười, mang theo đôi chút hiếu kỳ  nhìn bọn họ.

Trong lòng Định Loan chợt thắt lại.

Tuy rằng hàng ngày ít khi gặp mặt, song cậu nhận ra được đôi mắt này, đó chính là hoàng tử thứ sáu Định Trạm lớn hơn cậu một tuổi.

Hoàng Đế lúc này đang tự mình dạy cậu ta tập viết, nắm bàn tay nho nhỏ, từng nét thảo chữ, nhàn nhạt nói:

“Tập viết như tập bắn cung, phải dốc lòng học hỏi, không chịu chuyên tâm còn ở đó mà ngó lung tung cái gì?”

Gương mặt thiếu niên tám tuổi,  ở trước mặt người cha nghiêm khắc lại  có một vẻ thong dong mà trước kia bọn họ chưa từng có, khóe miệng nở  nụ cười:

“Phụ hoàng, nhi thần là đang nhìn hai vị ca ca cùng thất đệ, không phải ngó lung tung.”

Hoàng Đế buông lỏng tay ra, cười nói:

“Chỉ được cái giỏi múa mép.”
Trong giọng điệu chan chứa một sự yêu chiều mà bọn họ cho tới bây giờ chưa từng nghe qua. Định Loan không khỏi cúi gằm mặt xuống.

Lúc này Hoàng Đế  mới quay sang phía bọn họ, bảo:

“Đều đứng lên cả đi.”
Dừng lại giây lát, lại nói:
“Đi qua chào mẫu phi.”

Hoàng quý phi Mạo thị sinh ra hoàng tử Định Trạm, vào ngày sinh nở vì bị cảm lạnh nên bây giờ còn để lại di chứng hay nhức đầu, trong một năm thì bệnh mất nửa năm, ba vị hoàng tử xưa nay khó nhìn thấy được bà, cho nên ngay sau đó liền đi qua hành lễ.

Nhan sắc Mạo quý phi cũng không phải xinh đẹp phi thường gì, nhưng lúc cười lại thắm một vẻ dịu dàng hòa ái  khiến người ta an lòng, lời nói cũng rất ôn hòa:

“Mau đứng lên nào.”

Chợp thấy bên dưới mi mắt Định Loan có thương tích, không kìm được vươn tay đến:

“Đau lắm phải không?”

Định Loan chợt quay ngoắt mặt đi, tay Mạo quý phi vẫn xấu hổ chừng hững giữa không trung.

Hoàng Đế vốn còn đang bực mình, thấy cậu như thế, sắc mặt lại càng thêm  đen :
“Định Loan, ai dạy cho ngươi vô lễ với mẫu phi như thế hả?”

Định Loan giương mặt lên:
“Bà ấy không phải mẫu phi của con, con chỉ có một người mẹ mà thôi.”

Hoàng Đế tức giận đến tột độ, nhưng ngược lại còn cười nói:
“Được, được lắm, hiện tại các ngươi đều có triển vọng cả, học đánh nhau xong giờ lại học chống đối trẫm.”

Mạo quý phi thấy ông tức giận, đã vịn vào mép bàn đứng lên, nói:
“Hoàng Thương bớt giận, cậu bé nhóc nói chuyện không đúng mực, Hoàng Thượng không cần phải chấp nó không hiểu biết.”

Vừa nói, vừa nháy nháy mắt với Định Loan, ai ngờ Định Loan đã không cảm kích gì, còn lớn tiếng nói:
“Ta không phải cậu nhóc.”

Quay sang hung hăng trừng mắt với Mạo quý phi một cái:
“Không cần bà vờ vĩnh giả bộ.”

Hoàng Đế đã giận đến mức giọng nói cũng đổi:
“Đồ nghịch tử!”

Nhìn xung quanh, thấy trên bàn sách đầy dụng cụ viết vẽ, không cần biết là cái gì, trong cơn thịnh nộ cũng chẳng nghĩ nhiều, tiện tay nhấc lên khối ngọc trắng dùng để đè giấy, hướng thẳng trên đầu cậu mà ném.

Mọi người trong phòng đều chưa hề thấy ông nổi khùng như thế bao giờ, lập tức đều cả kinh ngây người. Mạo quý phi thì sợ tới mức mặt hoa thất sắc. Bà vốn đứng cách chiếc bàn khá xa, mắt thấy mà không kịp ngăn cản, Hoàng Đế vung tay một cái đã ném xuống.

Định Thuần bỗng nhiên lao ra, cũng không dám đưa tay ngăn cản, liền nhào đến trên người Định Loan, một ném của Hoàng Đế liền nện thẳng vào trên lưng cậu. Cái đè giấy kia cực kỳ nặng, làm toàn thân cậu đau đến co rúm lại.

Lúc này Định Trạm đứng trước bàn đọc sách mới kêu lên thất thanh:
“Phụ hoàng!”

Định Thuần sau một lúc lâu mới thở nổi, trên lưng đau đến nóng bừng, thế nhưng vẫn cứ giữ chặt Định Loan sau người. Định Loan tái mét mặt mày.

Hoàng Đế vốn đang trong cơn thịnh nộ, lại bắt gặp mấy đứa con đều đang sợ tới mức hóa thành đầu gỗ, ngay cả Định Trạm cũng lo lắng không yên nhìn mình, mà Mạo quý phi thì sớm đã nước mắt lưng tròng quỳ xuống. Bà quỳ như thế, nội quan cung nữ đông nghịt trong ngoài noãn các cũng đều đồng loạt quỳ sụp xuống.

Rốt cuộc cũng là cốt nhục thân sinh, Hoàng Đế sau cùng  mềm lòng lại, nhưng sắc mặt vẫn u ám như cũ, đình chỉ chốc lát:
“Đều cút ra ngoài cho ta.”

Định Loan bình tĩnh nhìn cha, giống như cho đến bây giờ chưa từng được nhìn thấy, ánh mắt của một đứa nhỏ bảy tuổi, lại khiến cho Hoàng Đế thoáng chột dạ.

Định Thuần kéo áo Định Loan, khom mình thưa:
“Chúng con xin cáo lui.”
Rồi lôi Định Loan ra ngoài. Định Đường cũng mặt vàng như đất lui ra.

***************************

Đó là lần cuối cùng trong cuộc đời chàng gào khóc, ở trên đầu vai gầy gò của Tứ ca. Nhớ đến khuôn mặt giữ tợn kia của phụ hoàng, chàng thực sự cảm thấy hận bản thân mình. Hận bản thân tại vì sao sinh ra trên đời này, hận sao mình không chết đi, không bằng chết đi còn hơn là sống như vậy.

Sống ở thế gian như kẻ dư thừa, sống mà lại bị cha khinh thường, để cho mẹ phải đau lòng.

Đầu vai gầy của Định Thuần cơ hồ hóa thành bức tường đá, chàng liền cứ như vậy đem toàn bộ bất lực cùng tuyệt vọng mâu thuẫn đặt cả lên trên, để cho toàn bộ nước mắt nóng bỏng hòa thành nỗi bi thương tê tái cõi lòng.

Định Thuần ở bên trông chàng khóc rất lâu, sau đó ngự y giúp bọn họ kiểm tra vết thương. Ngón tay trỏ của chàng bị gãy xương, mặc dù đã đắp xong thuốc rồi, rốt cuộc vẫn không có tí sức lực nào.

Các hoàng tử đều đến năm tuổi thì được học bắn tên, năm ấy chàng  vốn đã có khả năng sử dụng một cung nhỏ nặng chừng một tạ, thế mà từ nay về sau lại bị tàn phế. Tay phải của chàng ngay cả bút đều nắm không nổi, lúc cầm đôi đũa không có tí  lực nào  khiến chàng toát cả mồ hôi lạnh.

Chàng không bao giờ còn khóc nữa.
Nhìn  trên lưng Tứ ca có một vết thâm lõm tụ máu – nếu một ném mà trúng vào trên đầu chàng, chỉ sợ bản thân đã không còn tồn tại trên đời này.


Từ đây chàng sẽ không còn cha, hoặc có thể từ trước đến nay chàng vốn chưa từng có một người cha. Một tia hy vọng cuối cùng cũng thành ảo ảnh, hiện thời từ trong mơ tỉnh dậy, còn lại bên mình cũng chỉ có mỗi Tứ ca, luôn luôn yên lặng vô thanh vô tức  nhưng sẽ không bao giờ rời bỏ chàng.

Chàng dần dần học cách sử dụng tay trái cầm bút, dùng đũa. Cứ mỗi một sáng sớm sương rơi đầy đất, cho đến mỗi buổi hoàng hôn canh gõ một tiếng vang, dây cung giắt vào trên tay, hằn vào da thịt, hằn vào xương tủy. Nỗi đau đớn này nằm tại nơi sâu trong trí nhớ, chậm rãi đóng vẩy, chỉ có mình chàng biết, rằng bên dưới vẫn đầm đìa máu tươi.

Chàng giống như điên cuồng mà luyện bắn tên, mỗi ngày cánh tay đều có cảm giác vừa  đổ cả đống sắt thép ngàn cân, đau nặng đến nỗi đôi đũa cũng không nhấc lên nổi. Nơi ngón tay cái, vĩnh viễn hằn thật sâu một vết dây cung.

Chàng không thể dừng lại đươc. Nếu dừng lại dù chỉ một chút, trong đầu luôn thoáng hiện lên cảnh tượng kia, một cảnh tượng làm cho chàng đau đớn kinh hoàng. Chỉ có liên tục bật dây cung, lắp lên một mũi tên, nín thở tập trung nhắm vào một cái đích kia, đầu chàng mới có thể trống rỗng, mới có thể tạm thời an bình.

Chàng khao khát một sự an bình như thế, tựa như một người ở giữa sa mạc lớn khao khát một giọt nước. Chàng cứ một tên lại một tên, ngày qua ngày không ngừng theo đuổi, vĩnh viễn không thể dừng lại.

“Phập” một tiếng, mũi tên đã cắm ở trên tấm bia, xuyên sâu qua vòng tâm, đầu mũi tên bằng kim loại sắc nhọn dính nước sơn màu đỏ, dưới ánh mặt trời lóe lên một tia sáng bạc lạnh lẽo.

Sau đó thì nổi lên những đợt tung hô như sấm, bọn nội quan inh ỏi hò hét:
“Thất hoàng tử đúng là đỗ đầu trạng nguyên!”


Người thiếu niên ngạo nghễ ghìm cương ngựa, trên khuôn mặt đã có vài phầm khí chất lạnh nhạt của tứ ca Định Thuần.

Võ nghệ của chàng đã được phong là đệ nhất trong đám hậu duệ quý tộc, ngay cả vị hoàng tử thứ sáu là Định Trạm được đích thân Mộ đại tướng quân dạy dỗ cũng không phải là đối thủ của chàng. Tân trạng nguyên khoa võ tỷ thí cưỡi ngựa bắn tên với chàng, cuối cùng cũng phải bại trận. Hoàng Đế còn khen là “con ngựa hoang chạy ngàn dặm của triều ta”.

Tất cả đều đã quá muộn!

Người thiếu niên mười lăm tuổi này đối với những lời khen ngợi cùng tán tụng ào ào như nước cũng lười biếng không buồn để tâm tới.

“Cả ngày lẽo đẽo theo Định Thuần, rốt cuộc cũng học một bộ dạng kỳ quái của Định Thuần.”

Nhị hoàng tử Định Đường ghen ghét nói móc:

“Nhìn cái dáng vẻ của hắn kìa, đừng nói là cho tới bây giờ chưa bao giờ cười, có lẽ ngay cả khóc hắn cũng chưa từng khóc lần nào.”

Chàng quả thực đã không còn khóc.

Rất nhiều năm sau, khi mẫu phi cuối cùng phải chết đi trong nỗi cô đơn lạnh lẽo, chàng cũng không hề nhỏ một giọt lệ. Thân thể của mẫu phi vốn đã suy sụp, có thể thoi thóp nhiều năm như vậy cũng đã là một kỳ tích. Lúc đó chàng còn đang dẫn đại quân xuất chinh đóng tại phía bắc Kỳ Đà, sa mạc cuồn cuộn bão cát tựa như đao kiếm cắt trên khuôn mặt trẻ tuổi của chàng. Cầm trên tay sắc lệnh khẩn cấp từ sáu trăm dặm, lệnh rằng phong cho mẫu phi vừa qua đời của chàng làm Kính Hiền quý phi.

Đó bất quá cũng bởi vì tình trạng chiến tranh đang cấp bách, Nhĩ Cách Khả Hãn của bộ tộc Hồi Hột là cậu ruột của chàng, triều đình một tên hai đích, không thể không lần cuối làm bộ “lá mặt lá trái” này đối với người Hồi Hột.

Một lần cuối cùng ấy, đúng một năm sau chính chàng tự mình dẫn hai mươi vạn kỵ binh giáp sắt quay trở lại chốn thảo nguyên mênh mông, nơi mẫu thân cả đời nhớ thương, nơi mười chín năm qua chàng chưa một lần đặt chân trở về . . .

Thương vàng ngựa sắt, đại quân càn quét mãnh liệt như nước đại hồng thủy, thế như chẻ tre, toàn bộ thảo nguyên Hồi Hột, cùng với ba bộ lạc quây quần đều diệt vong. Từ đây biên cương phía bắc bình định, sẽ không còn phải lo âu về điều gì nữa.

Ngày khải hoàn, Hoàng Đế lệnh cho đương kim Thái tử tự mình ra tận cổng Thắng Môn chào đón, Thái tử hân hoan vạn phần cầm tay chàng nói:
“Thất đệ vất vả rồi.”

Khiên giáp rung động kêu loảng xoảng, chàng quỳ xuống hành lễ, kính cẩn đáp:
“Vốn là nhờ hồng phúc của phụ hoàng, mà không phải là công sức của đệ vậy.”

Thái tử ban thưởng yến tiệc, khao thưởng ba quân. Trong lời hoan hô như sấm dậy, Thái tử mỉm cười, nói:
“Thất đệ thiếu niên anh hùng, bình định đất Hồi Hột làm gương cho đất nước, phụ hoàng cùng ta đều an tâm được rồi.”

Chàng chỉ kính cẩn đáp một tiếng:
“Vâng.”

Bọn họ có phải đều đã quên, trong máu chàng chảy một nửa dòng máu Hồi Hột? Ở trên thảo nguyên mênh mông ngàn dặm phía bắc Kỳ Đà, chàng được âu yếm gọi là “sơ sơ lạc tắc”, theo ý nghĩa của người Hồi Hột là ” con sói con”.

Nghe rằng, Nhĩ Cách Khả Hãn sau khi bại trận phải tuốt gươm tự vẫn, từng ngửa mặt mặt lên trời mà than:
“Sinh ra một sơ sơ lạc tắc, ai ngờ có ngày nó quay trở về cắn chết mình vậy.”

Nhị hoàng tử Định Đường cũng âm thầm nói:
“Cái đồ con tạp Hồi Hột này, sớm muộn cũng có ngày thành con sói cắn chết những kẻ dám xem nhẹ hắn.”

*************************

Đó là ngày Thiên Hữu năm thứ bốn mươi ba, Hoàng Đế bệnh tật triền miên nằm trên giường đã hơn nửa năm. Hoàng Thái tử phụng chỉ cai quản đất nước, Duệ Thân Vương lại dẫn đầu bọn quan nội thần làm chuyện mờ ám, trong triều  dần dần chia làm hai phái, một phái ủng hộ chính, một phái ủng hộ Duệ, mặc dù chàng đang ở ngoài biên giới, cũng nghe nói đôi lời ra tiếng vào.

Hôm đó, vào ngày Nghị Thân Vương Định Thần mở yến tiệc chào đón chàng trở về, hai người đều uống say túy lúy, nằm trên một cái sạp. Nửa đêm khát quá tỉnh dậy, một hơi tu hết một bình trà lạnh ngắt, đã thấy Tứ ca ngồi dưới đèn xem tấu chương. Thấy chàng tỉnh lại, Định Thuần chỉ nhàn nhạt nói:
“Sổ sách này đệ đọc rồi sửa chữa, sáng mai tiến triều đi.”

Quả nhiên là binh quyền tấu chương, ánh mắt Định Thuần vẫn lạnh nhạt như hơn mười năm trước:
“Hiện thời thế cục đại loan, chúng ta chỉ có thể trước tiên tự bảo vệ lấy mình.”

Vẻ mặt chàng dưới ánh đèn mờ mờ đã tỉnh như sáo, chỉ nói:
“Tứ ca,  việc gì đệ  cũng đều nghe huynh.”

Thỏ ranh chết, chó săn đun. Chàng dù là hoàng tử, song rốt cuộc cũng chỉ là một quân cờ trong đại cục. Hồi Hột đã diệt vong, chàng thân mang võ công cao cường, từ đây hoặc chính là cái đinh hoặc là miếng thịt trong mắt những kẻ kia.

Quả nhiên, cuối cùng vẫn là bị lọt vào trong cái bẫy đã giăng của Hoàng Thái tử.

Chàng vĩnh viễn sẽ không thể quên cái khoảng thời gian ấy, bị giam giữ  trong chốn thiên lao đen tối không hề có sự hiện diện của thiên lý, đói khát, nhục nhã, cộng vào đó là một sự phẫn uất không thể nào ức chế. Đáy lòng tựa như có một ngọn lửa rừng rực, thiêu đốt chàng, thiêu đốt tất thảy toàn bộ.

Đã nhiều năm như vậy, đã cách nhiều năm như vậy,  một lần nữa chàng  lại trở về thời thơ ấu. Bất lực đó, nhục nhã đó, rốt cuộc lại một lần nữa chàng mất đi tất cả.

Bọn họ dùng phương thức này để làm nhục chàng, dùng phương thức này để hãm hại chàng, vậy mà chàng vẫn chẳng làm được gì. Cứ để bị nhốt ở trong ngục như vậy, từ mỗi buổi sáng sớm, đến mỗi buổi hoàng hôn, mặc thời gian thỏa thê gặm nhấm từng mảnh tôn nghiêm còn sót lại của chàng.

Định Thuần dùng hết cách mới thấy được mặt chàng, cách một hàng rào đen ngòm trong thiên lao, Định Thuần một mực siết chặt lấy tay chàng, mà chàng thì mím chặt đôi môi, không nói một lời.
“Thất đệ, ta sẽ vì đệ rửa sạch oan khuất.”
Oan?

Thiên hạ đều biết chàng oan như thế nào sao? Chẳng lẽ phụ hoàng không biết là chàng bị oan uổng?

Là cha của chàng đó, thế nhưng cũng đồng một mục đích muốn tống chàng vào cái chốn này, chính câu nói đầu tiên của người kia đã gạt bỏ toàn bộ nỗ lực suốt hơn mười năm qua của chàng. Chàng phải dùng đến tận mười năm mới lại một lần nữa cất đầu dậy đươc, vậy mà người kia chỉ nhẹ nhàng đẩy một cái, liền khiến cho tất cả ngay đó sụp đổ.

Chàng đã không còn có cha nữa rồi. Cửu ngũ chí tôn trên ngôi báu kia, cũng chưa từng mang đến cho cuộc đời chàng một chút vui vẻ, chung quy  chỉ có  tận tâm tận lực vứt bỏ, tận tâm tận lực nhục mạ.

Cuối cùng là giam cầm.

Bị nhốt trong vương phủ  bao nhiêu năm, ngày qua ngày, cho đến khi toàn bộ ý chí ngút trời, từng chút từng chút hao mòn đến khi mất hẳn. Khiến cho khí phách cuồng nhiệt của tuổi trẻ, dần dần bốc hơi thành hai tấn muối khô.
Chàng cũng không phải là trở nên già cỗi, chỉ là tâm đã nguội lạnh, từ nay về sau trái tim đã như tro tàn.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

89#
Đăng lúc 18-6-2013 20:23:29 | Chỉ xem của tác giả


Chương 8: NGƯỜI CÙNG NGẮM TRĂNG HỠI CHỐN NÀO


“Vương gia.”
Triệu Hữu Trí cung kính thấp giọng gọi một tiếng, đưa chàng từ trong hồi ức xa xưa trở về thực tại.
Dự Thân Vương ngước mắt lên, Triệu Hữu trí nói:
“Hoàng Thượng cho truyền Vương gia vào.”
“Phương nội yến an” này mỗi ngày chàng đều đến, quen thuộc đi dọc theo đoạn đường lát gạch đen bóng như gương. Ngoài hành lang, hoa ngọc lan trắng vừa thay bông, một cánh rơi vào trong cái chậu cảnh có cây lựu vừa trồng, lá cây xanh mướt điểm vài nụ hoa đỏ sẫm, như ai vẩy ai hắt lên. Mặc  dù hoa chưa nở, đã làm cho người ta cảm nhận được sắc màu rực rỡ như lửa, tươi đẹp tựa  tấm vải đang được xe sợi, cơ hồ muốn đâm vào mắt.
Mới vòng qua tới cửa Tĩnh Hư Thất, đã nghe thấy giọng nói của Hoàng Đế vang lên:
“Lão Thất, đệ tới thật đúng lúc, có trà ngon uống.”
Chàng theo quy củ hành lễ trước, sau mới đáp:
“Đa tạ hoàng huynh ban cho.”
Lập tức có một cung nữ rót một chén trà đưa tới, chàng tiếp nhận xong còn muốn tạ ơn, Hoàng Đế vội nói:
“Đừng có khách sáo như thế, đệ cũng ngồi xuống đây đi.”
Giống như bình thường, nội quan lại bưng ghế lại mời chàng ngồi xuống.
Hoàng Đế xưa nay không chịu được nóng, mới đến tháng tư mà đã thay đổi xiêm y áo lụa, nửa dựa nửa ngồi ở trên tràng kỷ, dáng vẻ  rất nhàn hạ:
“Đệ nếm thử trà này đi, đây chính xác là chắt từ những giọt sương trên cánh hoa, thật sự là có hương vị cực kỳ thanh nhã.”
Dự Thân Vương chỉ khẽ nhấp một ngụm, đầu hơi cúi thấp, bỗng nhiên nhìn thấy trên chiếc bàn con bên tay Hoàng Đế, tùy tiện để một chiếc quạt lụa của con gái. Tay cầm bằng bạch ngọc kết những tua rua dài khoảng vài tấc màu mận chín rủ xuống, cực kỳ bắt mắt.
Còn chưa quá tiết Đoan Ngọ, khí trời cũng chưa đến mức phải dùng quạt. Nhưng những người con gái chốn khuê phòng, dù vào mùa đông, trên tay vẫn luôn cầm khư khư một chiếc quạt lụa dùng để che mặt. Chiếc quạt này là loại tơ lụa trắng nõn quý giá, hai mặt đều thêu hoa lan bươm bướm, đường thêu tinh xảo khéo léo, con bướm trắng kia trông như chỉ muốn tung cánh bay đi. Khoảng trắng bên dưới hoa văn đột nhiên lại có một vết hoen màu đỏ, không phải bướm cũng chẳng phải hoa, cũng không phải màu thuốc nhuộm. . .
Dự Thân Vương lén nhìn, thấy rõ không phải đường thêu, bất chợt nhận ra đó là một vết son, có lẽ trong lúc cầm che mặt đã lơ đãng quẹt qua . . . Vành tai hốt nhiên nóng bừng, trà vừa chạm vào răng đã vội vàng nuốt xuống, căn bản cũng không cảm nhận được chút mùi vị gì.
Chàng tới đây đương nhiên là vì có công việc, liền quay trở lại vần đề chính, tâu rằng:
“Sổ sách mật tấu đưa lên, quả thực là có chuyện không tốt. Quân lương từ trước tới nay đã tiêu tốn hơn phân nửa, quân ở Lưỡng châu. Công trình thủy lợi hao hụt một trăm tám mươi vạn lượng, một hai tháng nữa sẽ đúng vào mùa lũ, trước phải tìm cách chi bốn mươi vạn lương vào đó. Ngoài ra còn có Bộ công xin chỉ, ban xây lăng miếu xin thêm vật liệu đá, mà gần đây cũng tăng cường khai thác đá ngang sông, bởi vậy phí cho công vận chuyển chuyên chở cũng tăng gấp bội.”
Hoàng Đế cười khẽ:
“Ngoại trừ việc đòi tiền, còn gì nữa không?”
Dự Thân Vương thấy tâm tình chàng rất tốt, cũng cười nói:
“Còn có một công chuyện thì không đòi tiền, nhưng lại đòi người, chức vụ tổng quản thu hoạch mùa màng mà Vương Đỉnh Chi vì nhà có đại tang vừa xin nghỉ hiện giờ vẫn bỏ trống.”
Vương Đỉnh Chi là người của Duệ Thân Vương, tổng quản đốc mùa màng thu hoạch, thu cả Lưỡng châu, mà nơi đây vốn thiên hạ  giàu có sung túc.
Ánh mắt Hoàng Đế chớp động, chàng là kiểu người có khí chất bình tĩnh, không biết là đang  vui hay giận.
Dự Thân Vương đang định muốn nói gì, vừa ngẩng đầu lên đã nghẹn lại, một lúc lâu không phát ra được lời nào. Hoàng Đế lúc này mới cảm thấy bất thường, quay đầu lại.
Bởi vì trên mặt đất trải thảm dày, nàng bước đi lại cực nhẹ, lụa tơ màu mật ong mỏng manh xuyên thấu thấp thoáng một đoạn váy dài chữ phúc như làn sóng muốn gợn lên mà không thể, ngay cả một đôi ngọc linh lung buông treo bên dải đai lưng cũng im lìm không một tiếng động. Bước sen khoan thai như vậy, chỉ có thể có ở những khuê nữ xuất thân danh gia vọng tộc, thuở nhỏ đã được dạy dỗ mà thành.
Hoàng Đế không khỏi hỏi:
“Nàng ra đây làm gì?”
Dự Thân Vương sớm đã buông mắt xuống, trong vội vàng chỉ nghĩ, nàng vẫn đang là một cung nữ, hẳn không cần phải đứng dậy chào, mà trên thực tế cũng không có nghi thức thân vương gặp phi tần phải hành lễ.
Như Sương cũng chẳng trả lời, cầm lấy chiếc quạt trên bàn xoay người muốn đi. Hoàng Đế có chút dở khóc dở cười, chỉ đành gọi nàng lại:
“Chậm chút đã, Thất đệ không phải người ngoài, qua chào Dự Thân Vương đi.”
Con ngươi đen trắng rõ ràng của Như Sương rốt cuộc cũng nhìn về phía Dự Thân Vương, liền chỉnh đốn vạt áo thi lễ. Cũng không nói lời nào, không quan tâm Dự Thân Vương đang chần chừ không biết có nên đáp lễ hay không, cũng không tiến đến trước Hoàng Đế cáo lui, trong nháy mắt xoay người rời đi.
Bởi vì tránh để không có hiềm nghi phát sinh, Dự Thân Vương vẫn luôn không nhìn thẳng vào nàng. Thấy được vạt váy thướt tha chuyển động sau  tấm bình phong đã khuất, mới nhẹ nhàng thở ra một cái, ngẩng đầu lên, đã bắt gặp ý cười trên khóe môi Hoàng Đế:
“Cái kiểu tính nết như vậy, trẫm cũng đành bó tay.”
Dự Thân Vương chỉ thiếu điều khom lưng, nói:
“Thần đệ đang có một chuyện muốn bẩm tấu. Trong cung đã từng đại tu một lần vào thời điểm năm Thiên Hữu thứ mười, hiện thời cũng đã qua hơn bốn mươi năm rồi, một vài cung điện đền đài cũng đã bị mai một. Như Hiệt An điện, Trường Ninh cung, chỉ e cũng phải dọn dẹp một phen. Muốn tu sửa, có lẽ phải thỉnh các vị nương nương trong điện dời đi nơi khác một thời gian.”
Lời nói bất ngờ này, Hoàng Đế nghe đã hiểu, lời này là Dự Thân Vương bắc thang cho mình leo xuống.
Lúc trước chàng trong cơn giận trục xuất Hàm phi đi Vạn Phật Đường, Dự Thân Vương sợ rằng chàng đã hối hận, cho nên có một câu như vậy. Kỳ thực đó cũng là một lời khuyên bảo khéo léo. Tuy rằng chưa từng có chiếu chỉ phế phi, nhưng trong cung phát sinh một loại sự tình này, chung quy không thể không thành một giai thoại để đời. Lời nói vừa nãy của Dự Thân Vương, ý là đến lúc đó có thể danh chính ngôn thuận mà nói rằng, chỉ là vì muốn tu sửa Trường Ninh cung mà chuyển Hàm phi đi, đến khoảng mười ngày nửa tháng sửa xong,lại tiếp Hàm phi trở về, dàn xếp ổn thỏa.
Hoàng đế lắc đầu, nói:
“Một động chẳng bằng một tĩnh, huống chi tháng sáu này sẽ đi Đông Hoa kinh, hà tất phải nhiều chuyện như thế.”
Dự Thân Vương lại nói:
“Hoàng huynh, Hàm phi cũng không có làm sai điều gì to tát lắm, hơn nữa, cũng coi như huynh vì tình thương với hoàng trưởng tử.”
Hoàng Đế dứt khoát nói:
“Lão Thất, ta biết đệ muốn nói gì, song việc này chủ ý ta đã quyết, đừng phí công khuyên ta nữa. Năm đó phi tần của phụ hoàng cũng phải đến mười người, cả ngày tranh giành cấu xé lẫn nhau, còn không phải gây ra bao nhiêu chuyện? Đã khiến cho tuổi thơ của chúng ta nhận bấy nhiêu những nhơ nhớp bẩn thỉu còn chưa đủ hay sao? Trẫm là trẫm không đồng ý để cho nhi tử của trẫm phải trải qua những tháng ngày như thế, cho nên hậu cung mới chỉ có vài người kia. Mà mới có chừng ấy, cũng đã chẳng cho trẫm sống yên ổn một ngày rồi. Thường ngày các nàng ấy làm mấy cái chuyện gì đó, miễn là không đi quá giới hạn, trẫm cũng sẽ mắt nhắm mắt mở cho qua. Nhưng là không thể nhịn thêm một lần nữa, con giun xéo lắm cũng quằn, vừa rồi dạy cho nàng một bài học, cũng là muốn tốt cho nàng. Nếu để nàng tùy tiện làm bừa, không phải sẽ hủy hoại cả hoàng tử của trẫm hay sao?”
Đã nói đến như vậy, đồng nghĩa với việc không còn xoay chuyển được gì nữa rồi. Dự Thân Vương trong bụng rầu rĩ hiện cả lên mặt, khuyên được người này thì cũng chỉ có chàng mà thôi, bởi thái hậu thì đã qua đời, mà Hoàng Đế với đứa em trai ruột cùng mẹ là Kính Thân Vương thì đã như nước với lửa. Thân chi cận quý trung (thân cận dễ tin), không còn ai có thể bàn chuyện trong nhà với Hoàng Đế nữa. Lúc này chàng lại thay đổi xưng hô:
“Tứ ca, Hàm phi giờ cũng đã chịu đủ giáo huấn rồi mà, vả lại nàng là mẹ đẻ của  hoàng trưởng tử.”
Một phi tần đã được sắc phong đàng hoàng, lại chỉ vì phạt một cô cung nữ mà bị biếm truất, thực không hợp lễ chế tí nào.
Hoàng Đế cũng tỏ tường ý tứ của chàng, một hồi lâu sau chỉ thở dài, trong giọng nói đượm vẻ  muộn phiền  khó tả:
“Đệ không hiểu.”
Dự Thân Vương yên lặng không nói nữa, không phải không hiểu, mà là vô cùng hiểu.
Đêm ấy mưa trút xối xả, đã gần canh bốn, đột nhiên ngoài cửa thông báo có người muốn gặp. Chàng và Hoàng Đế cực kỳ gần gũi, chuyện không hay lại xảy ra nhiều, loại triệu tập khẩn cấp đêm khuya này cũng từng có, vì thế một mặt vừa thay quần áo, một mặt vừa lệnh cho kẻ đưa tin tiến vào.
Người tới cũng chẳng phải người ngoài, chính là Trình Viễn – một tên đồ đệ đắc lực của thái giám tổng quản Triệu Hữu Trí. Gã tuy chỉ mới mười sáu mười bảy tuổi, cũng chưa có phẩm hàm gì, song ở trong điện Chính Thanh của Hoàng Đế cũng là một kẻ cực kỳ được việc.
Bên ngoài trời quả thực mưa quá to, Trình Viễn cởi áo mưa, bên trong cũng đã bị ướt hơn phân nửa, ánh đèn chiếu lên khuôn mặt trắng bệch lạnh toát của gã, trông sắc mặt rất thảm hại, bước lên hành lễ, chỉ nói:
“Triệu sư phụ thỉnh mời Vương gia vào cung một chuyến ạ.”
Dự Thân Vương vốn đang tưởng gã đến truyền chiếu chỉ, lúc nghe được một câu như thế, cảm thấy bất ngờ. Nhưng chợt nghĩ, Triệu Hữu Trí đã sai người đến, chắc chắn là Hoàng Đế ở bên kia đã gặp chuyện gì. Tâm trạng trùng xuống, không chần chờ nữa, lập tức thay đổi trang phục, đi theo Trình Viễn.
Cơn mưa đã kéo dài tám ngày qua bây giờ trút xuống, kiệu muốn đi nhanh cũng chẳng được, chàng sốt ruột mấy lần vén rèm lên xem, chỉ thấy trước kiệu có một đôi đèn khẳng khiu bị gió cuốn, giữa mưa đêm chập chờn hai ánh lửa, chiếu qua làn mưa rơi xuống như tên, một màn trắng xóa.
Lúc kiệu hạ xuống ở trước cửa cung, mưa vẫn không giảm. Dự Thân Vương sớm đã định sẽ cưỡi ngựa vào cấm nội, nhưng mưa quá lớn, lại giữa đêm hôm, nếu một con ngựa chạy vào, chỉ sợ sẽ làm kinh động cả lục cung. Triệu Hữu Trí lại đã sắp đặt đâu đó, hai nội quan đứng chờ sẵn tự lúc nào bấy giờ vội tiến lên, hành lễ:
“Chỉ đành kính mời Vương gia lên xe trước.”
Đây là loại xe ngựa hằng ngày bọn cung nhân thường đi, Dự Thân Vương liền ngồi xuống, trời tối nhìn không rõ phương hướng, xe đi hồi lâu mới dừng. Màn che vừa vén, chỉ thấy trước mắt sáng ngời, thì ra là có một ngọn đèn ngọc lưu ly dát vàng tinh xảo, chiếu sáng dưới chân cho chàng, thấy được cả cơn mưa như trút nước xuống mặt đất làm nổi lên vô số bong bóng, chẳng khác gì nước sôi trong nồi.
Dự Thân Vương thấy người cầm đèn là một tên nội quan khác trong điện  Chính Thanh, im lặng giúp đỡ mình xuống xe, lại có một người đã giương ô sẵn. Chàng ngẩng đầu nhìn xung quanh, chỉ thấy mái hiên nhà nối tiếp chạy về xa, tường trổ sừng sững, mới biết đang ở trước cửa Thái Bình.
Lúc đến dưới lầu thành, mới thấy Triệu Hữu Trí tiến lên hành lễ, bởi vì lạnh, giọng nói có phần cứng ngắc lại:
“Nô tỳ tự ý mời Vương gia, thỉnh Vương gia thứ tội.”
Dự Thân Vương đáp:
“Nói những lời khách sáo đó làm gì nữa, Hoàng Thượng đâu?”
Vẻ mặt Triệu Hữu Trí trông càng khó coi:
“Thưa, đang trên lầu thành.”
Dự Thân Vương ngẩn người, hỏi:
“Xảy ra chuyện gì?”
“Là Hoàng quý phi đã qua đời.”
Bốn phía đèn vây quanh, trong lầu sáng ngời, chiếu thẳng vào khiến mặt Dự Thân Vương khẽ động, nhưng cũng không bất ngờ lắm. Chuyện cả nhà Mộ gia bị tịch thu tài sản tống vào ngục, vì Mộ phi đang mang thai rồng, cho nên luôn luôn giấu cô ấy tin tức nhà họ Mộ.
Triệu Hữu Trí cười khổ nói:
“Vương gia, ngài nghĩ xem, loại chuyện như thế làm sao mà giấu cho được. Một cung nữ vừa lỡ miệng nói ra, quý phi nương ngương lúc ấy còn đang thở không nổi, lập tức hôn mê. Chờ được ngự y và bà đỡ đến nơi, đã loang đỏ thẫm, máu chảy mãi đến tận giờ hợi, quý phi nương nương cùng hoàng tử rốt cuộc là không thể cứu được.”
Đèn lồng u ám, sắc mặt Dự Thân Vương cũng khó lường. Triệu Hữu Trí nói:
“Hoàng thượng không chịu khởi kiệu về điện Chính Thanh, trời thì mưa to như vậy. Vương gia, dù thế nào đi nữa cũng mong ngài nghĩ một biện pháp.”
Dự Thân Vương thoáng vẻ trầm ngâm, liền nói với lão:
“Có áo mưa đấy không, ta muốn hai cái, lại thêm một cái đèn không ngấm nước nữa.”
“Vâng, có, đều có cả.”
Triệu Hữu Trí liên tục đáp có, một nội quan nhanh chóng đem đến, hầu hạ Dự Thân Vương mặc áo mưa vào. Dự Thân Vương cầm lấy ngọn đèn trong tay, phân phó:
“Ta một mình đi lên, các ngươi ai cũng không được theo.”
Triệu Hữu Trí đã sớm biết chàng sẽ dặn như thế, nên chỉ lập tức thi lễ, đáp:
“Bọn nô tì tuân mệnh.”
Vừa bước lên lầu thành, gió táp mưa sa đã quất vào người làm chàng thấy hơi ê ẩm, vô số những giọt nước len lỏi theo khe hở của mũ trùm đầu ngấm vào. Trên lầu thành, những cây đèn lớn đựng trong giỏ đan bằng cành liễu đã bị mưa tạt vào tắt ngúm từ lâu, bốn phía đều đen như mực, chỉ nghe mưa gió thổi từng đợt vi vút, thổi như muốn cuốn bay cả người.
Dự Thân Vương đi về trước hơn mười bước, chỉ thấy Hoàng Đế đang đứng nơi trước tường thành thấp, mũ trùm đầu đã sớm bị thổi bay tung về phía sau vai, nước trườn theo gò mà chảy xuống. Dự Thân Vương thấy cảnh trước mắt như vậy, chỉ kêu một tiếng “Tứ ca”, rồi xông về trước phủ thêm áo mưa cho chàng. Hoàng Đế cũng để yên như thế mặc chàng làm gì thì làm, nhìn chàng mãi, sau mới hỏi:
“Sao đệ lại đến đây?”
Dự Thân Vương nói:
“Trời mưa lớn như vậy, thời tiết lại lạnh, Hoàng Thượng trước tiên phải trở về điện Chính Thanh cái đã.”
Vẻ mặt Hoàng Đế lãnh đạm, quay đầu nhìn ra bóng đêm bên ngoài thành mưa sa gió giật, bất chợt hỏi một câu:
“Định Loan, đệ còn nhớ hay không, hồi trước chúng ta ở trên lầu nầy, đã từng nói gì?”
Dự Thân Vương chỉ đành đáp:
“Làm sao có thể không nhớ, khi đó, ta đã hạ quyết tâm sẽ theo Tứ ca, bất luận Tứ ca làm gì ta cũng đều theo.”
Hoàng Đế ngẩng đầu lên, nước mưa chảy ngang dọc trên khuôn mặt, nhìn cũng không ra thái độ gì:
“Ngày ấy ta đã từng thề rằng, thiên hạ này nhất định phải là của ta! Ta muốn tất cả đều đòi về, bất kể bọn họ đã đoạt cái gì của ta, ta cũng đều từng cái từng cái một đòi lại. Ta muốn ai cũng không dám khinh thường, ai cũng không dám đoạt đi bất cứ thứ gì thuộc về ta. Trẫm hiện thời đã là Hoàng Đế, là con trời, giàu có bốn bể, vạn dân kính phục, thế nhưng tại vì sao cái gì trẫm yêu thương đều bỏ mà đi?”
“Tứ ca.”
Dự Thân Vương nắm lấy cánh tay chàng:
“Hoàng quý phi bạc phận,  huynh cũng không nên quá đau lòng.”
Hoàng Đế dùng sức cự lại, lực đạo thật lớn, làm Dự Thân Vương cơ hồ lảo đảo suýt ngã. Giọng nói của chàng hòa trong mưa gió một nỗi đau đớn vô cùng vô tận:
“Không phải nàng bạc phận, mà là ta. Thuở nhỏ phụ hoàng không thích ta, trong tất cả mười mấy đứa con, trong mắt phụ hoàng chỉ có duy nhất một Định Trạm. Nhưng sao ngay cả mẫu phi cũng không ưa ta? Bà là người mẹ thân sinh ra ta, vì sao cả bà cũng không muốn thấy ta? Định Loan, đệ tuy khổ, nhưng còn có tình yêu thương của mẫu phi, còn ta? Đã nhiều năm trôi qua, đã hơn hai mươi mấy năm qua, trong mắt cha mẹ, ta chỉ là một đứa sống cũng vậy mà không sống cũng chẳng sao.”
Dự Thân Vương lặng yên, lời nói của Hoàng Đế lại càng thê lương:
“Chỉ có nàng, cho tới bây giờ chỉ có nàng hiểu ta . . . nhưng ngay cả nàng ta cũng không giữ đươc. Thời điểm hạ chiếu trừng phạt Mộ gia, bàn tay cầm bút cũng phát run, nhưng ta không thể không làm. Giẫm lên máu của nhiều người như vậy, đạp lên tro cốt của nhiều người như vậy, một kẻ đứng trên vạn người như trẫm, không có một ai hiểu tâm tình của trẫm. Trẫm có cả thiên hạ này, nhưng trẫm bất kể cái gì cũng không có!”
“Tứ ca.”
Dự Thân Vương lại kêu một tiếng:
“Nếu huynh khổ sở trong lòng, vậy hãy khóc to một hồi cũng tốt.”
Hoàng Đế ngẩng mặt, mặc cho mưa táp vào, nước mưa trôi theo cằm, rơi xuống trên áo bào minh hoàng của chàng.
Giọng nói của chàng lạnh lẽo đến rùng mình:
“Trẫm đã nói rồi, trẫm sẽ từng cái một đòi lại, bất kể bọn họ cướp đoạt cái gì, trẫm cũng sẽ đòi về tất cả.”
Thời gian đã trôi qua lâu rồi, nhưng Dự Thân Vương vẫn nhớ như in khuôn mặt của Hoàng Đế trong khoảnh khắc ấy, lạnh lùng như đao chặt rìu chém, từng tơ máu trong mắt đều lộ ra thần sắc đáng sợ. Thật giống như chàng ngày đó bị Định Đường đè trong tuyết mà đánh đấm, chàng cũng có chính xác loại căm phẫn cùng nổi điên như vậy, mang theo tuyệt vọng dữ tợn, biến hết thảy những đau đớn trong thẳm sâu trở thành cừu hận, cuối cùng không thể đè nén mà bùng phát.
Đứa con mồ côi của Mộ thị đang ở bên Hoàng Đế lúc bấy giờ, lại càng khiến cho người ta cảm thấy có một nỗi lo lắng thầm kín. Xem tình cảnh này, nhất định là toàn toàn bộ áy náy cùng thương tiếc Hoàng Đế đều đặt trên người nàng ta. Dọc trên đường trở về từ Thượng Uyển, Dự Thân Vương ngồi trên yên ngựa mà dòng suy nghĩ dồn dập, ngay cả tên kéo ngựa cho chàng là Đa Thuận cũng nhìn ra được, gã cầm dây cương, điều khiển cho con ngựa đi vừa ổn định nhưng lại vừa nhanh.
Nghi thức dành cho thân vương cực kỳ nghiêm chỉnh, hai tên đi trước dẫn đường, tiếng ngựa của thân vệ lóc cóc hộ tống theo sau, trong tràng âm thanh của kim la mở đường vang dội ra tận phía xa xa, cũng không nghe một ai nói chuyện hoặc ho khan nửa tiếng. Bỗng nhiên có một tiếng ngựa hí, Dự Thân Vương lúc bấy giờ mới sực tỉnh, chỉ thấy đã đi qua ngã tư, lại đi quá mất một con phố, vội nhìn bao quát xung quanh.
Dự Thân Vương đột nhiên thay đổi quyết định, nói:
“Đi Nhĩ Viên.”
Vào thời tiên hoàng còn sống, các chư hoàng tử đều được ban thưởng các trang viên ở gần Thượng Uyển, mà “Nhĩ Viên” của Duệ Thân Vương chính là một trong những nơi hoành tráng đẹp đẽ nhất, không chỉ hơn hẳn chỗ của các hoàng tử khác, mà so với “Minh Uyển” của thái tử cũng chỉ có hơn chứ không có kém.
Duệ Thân Vương tính thích xa xỉ, nhiều năm thiết kế, nơi đây trồng bao cây cảnh lại càng ngày càng tinh xảo mỹ lệ đến cực điểm, tuy rằng không bằng được Thượng Uyển  lộng lẫy đồ sộ, thế nhưng lầu gác đình đài thì đẹp không sao tả xiết, vô số kỳ hoa dị thảo biến hóa, cơ hồ mỗi tấc đất đều trị giá cả lượng hoàng kim.
Lúc này tiết trời hơi nóng, Duệ Thân Vương cùng vài vị quý tử dòng dõi, ở nơi ven hồ Tri Nguyệt giữa vườn bình luận khúc “Vân Thiên thắng cảnh”. Ngồi đối diện mặt hồ sắc xanh nhàn nhạt, gió mát như ngọc, mỹ nữ ca hát giọng oanh vàng như châu, quả thực phong cảnh kiều diễm không sao tả hết. Nghe bọn tôi tớ bẩm báo Dự Thân Vương đến thăm, Duệ Thân Vương không khỏi khẽ nhíu cặp mày, khóe miệng lại ẩn chứa ý cười:
“Hắn là khách quý hiếm gặp, mau mau mời vào.”
. . .
“Chén ngọc áo tà nâng rất khẽ
  Bóng hồng năm ấy vẫn còn e.
  Mưa sa cành liễu lầu Tâm Nguyệt
  Hát đợi cánh đào theo gió the.
  Lúc biệt ly,
  Mong gặp lại.
  Mấy đêm hồn mơ thấy cùng nàng
  Đêm nay đèn tỏ ánh ngân quang
Chứ ngỡ gặp nhau là mộng . . .”  
(Giá cô thiên – Yến Kỷ Đạo  - dịch thơ: Đông Y Lâm)
Xướng đến chữ mộng, âm thanh đã cực thấp, tựa như trong mộng ảo, kỹ thuật múa cực uyển chuyển, chỉ như gió vờn cành liễu, cơn mưa hoa rơi lác đác đầy trời xa vắng, theo tiếng ngân tha thướt xoay một vòng, ống áo lụa nhẹ nhàng như mây, dàn trải bay bay, cuối cùng thì cuộn lại thành một đóa hoa thật kiều diễm, nở rộ trên chiếc áo lông dệt màu đỏ. Khuôn mặt thanh tú trong trẻo hé lộ, như nhị vàng giữa bông hoa, từ trong tà áo một đôi mắt sáng lúng liếng, ánh nhìn lưu loát, trông bên nọ ngó bên kia, trong lúc đó có vài người đã uống đến hoa cả mắt.
Dự Thân Vương bước một mạch vào, chỉ thấy được một cảnh đàn sáo ca thổi như thế, phấn son tươi đẹp, Duệ Thân Vương thì đang  hứng khởi tràn trề bắt lấy tay chàng:
“Huynh đệ khó mà tới viếng thăm được một chuyến, tới đây, nghe qua một khúc mới của Cẩm Quy. “Hát có Cẩm Quy, múa có Tử Phủ, tiêu  có Bích San, đàn có Phi Ngâm”, vốn là “Trường Kinh tứ tuyệt” *, mà hôm nay trong bản phủ đã có song tuyệt rồi, tuyệt đối không thể bỏ lỡ. Người đâu, mau gọi người mang  vò rượu ngon ủ dưới gốc mai đến đây, hôm nay hai huynh đệ ta không say không về.”
Dự Thân Vương chỉ mỉm cười:
“Thịnh tình của Lục ca, từ chối thì bất kính.”

********************************
* ”Trường kinh tứ tuyệt” là bốn tuyệt tác của kinh thành Tây Trường. Bạn “e dít tờ” đọc đến đây không khỏi nhớ đến câu ”Cẩu, hùng, dã, trư, Thanh Thành tứ thú” mà cười đau bụng. Vốn là mấy tên Hầu Nhân Anh, Hồng Nhân Hùng, Vu Nhân Hào với La Nhân Kiệt của phái Thanh Thành tự xưng  ”Anh hùng hào kiệt, Thanh Thành tứ tú”, nổi danh với chiêu võ cực kỳ bá đạo gọi là”Thí cổ hướng hậu, bình sa lạc nhạn thức”
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

90#
Đăng lúc 18-6-2013 20:26:48 | Chỉ xem của tác giả

Chương 9: VÍ CHĂNG ĐẦU NON NGỌC CHẲNG THẤY


Tửu lượng của Dự Thân Vương cực cao, một vò rượu đã cất lâu năm chôn ở dưới gốc cây mai trong phủ của Duệ Thân Vương kia, uống đi năm sáu phần rồi, vậy mà vẫn còn tỉnh táo không có đến nửa phần hơi men.
Tiệc rượu bày bên cái ao sen, gió mát thong thả, ngà ngà như cũng muốn say. Duệ Thân Vương miệng đầy hơi rượu cùng Dự Thân Vương bàn đôi chuyện gió trăng, thảo luận xem nhà ai vương công dạy dỗ ca kỹ, nhà ai dây đàn gánh hát, mà Dự Thân Vương lâu nay vốn chẳng bận tâm đến mấy cái đó, ngồi nghe chàng ta nói thao thao bất tuyệt, thỉnh thoảng cũng chỉ đáp đôi lời.
Duệ Thân Vương đưa hai con mắt đánh giá Dự Thân Vương, chợt nói:
“Lão Thất, chi bằng để ta làm mai mối giúp đệ đi.”
Vừa vặn đúng lúc Dự Thân Vương mới nuốt một ngụm rượu đến họng, nghe thế lập tức  sặc sụa, ho liên tục, mãi nửa ngày mới hoàn hồn lại. Duệ Thân Vương cười to, nói:
“Đệ đây quả nhiên là con người đứng đắn, vừa mới nghe thấy mấy chuyện này đã lập tức hồn vía lên mây.”
“Lục ca cứ đùa.”
Dự Thân Vương nhìn trên mặt ao đầy lá sen mềm mại như cuốn, hoàng hôn bóng xế, dải ráng chiều như ai hắt xuống, đọng trên phiến lá màu xanh thạch bích, chẳng khác nào vàng điểm trên ngọc, đẹp đến động hồn người. Chàng lạnh nhạt nói:
“Ta quả thực chưa hề có cái tâm tình này.”
Duệ Thân Vương gật gật đầu:
“Đệ cũng chẳng vội, có điều, trong nhà chỉ thui thủi một mình, nhìn vào cũng không thấy được hình ảnh của một gia đình, ôi, đáng tiếc tiểu thư nhà họ Nguyễn, cũng không biết lưu lạc chốn nào.”(???)
Nói một câu đã đụng đến nỗi khổ riêng trong lòng, vẻ mặt Dự Thân Vương không khỏi sầu não. Đột nhiên, Duệ Thân Vương hưng trí bừng bừng đứng bật dậy:
“Vương công đại thần trong kinh thành, trong nhà nữ nhi thích hợp cũng không thiếu, chỉ cần đệ ưa người nào, ta lập tức sẽ có người đi giúp đệ nói chuyện.”
” Lục ca.”
Trong giọng nói đã đượm vài phần lạnh lẽo:
“Ta tới đây là có chuyện muốn nói cho Lục ca.”
Duệ Thân Vương phất tay, toàn bộ ca kỹ trong gác lập tức thối lui sạch, Dự Thân Vương nâng chén lên, chợt than thở:
“Lục ca, hai chúng ta đã bốn, năm năm liền cũng chưa cùng nhau uống được một chén rượu.”
Lông mày Duệ Thân Vương bất giác nhướng lên, trong con ngươi thâm thúy cơ hồ nhìn không rõ thần thái gì, khóe môi chỉ khẽ gợn một nụ cười nhạt:
“Bốn năm.”
Lần uống rượu cùng nhau trước, là khi Dự Thân Vương chinh chiến  Hồi Hột trở về, Thái tử làm chủ trì, muốn vài vị hoàng tử bày tiệc thết đãi chàng, mà giờ đây thế sự đã đổi, cảnh tượng như thế sẽ không bao giờ còn diễn ra nữa.
Trong nháy mắt hai người đều trầm mặc.
Bọn họ tuy là anh em, nhưng cùng cha khác mẹ, thuở nhỏ trong cung cũng không thân thiết. Song một quãng thời gian tươi đẹp ngắn ngủi đó, luôn luôn cùng khắc sâu vào trong trí nhớ cả hai, hóa thành một vầng sáng lung linh nhạt màu, giống như hương sen nhè nhẹ cuộn lên dưới ánh trăng, thấm đẫm làn hơi nước  mát thơm, phút chốc không một tiếng động ngấm vào người. Tiếc thay sự ấm áp mềm mại này đây cũng chỉ như bóng trăng tản mạn vô hình, thời gian xa cách, theo những năm tháng dữ dội trôi qua cuối cùng dần dần tan rã. Chuyện xưa cũng chỉ là cát bụi phù phiếm, sóng lớn dồn dập, chỉ còn lại một mảnh sắc vụn không thể cướp đoạt, cuối cùng tường đồng vách sắt cạn khô trở lại kiên cố.
Trên mặt nước, bóng trăng lưỡi liềm vừa lên, như nửa miếng ngọc còn sót lại, giữa bầu trời màu mực lam, tỏa vầng sáng lạnh lùng trong trẻo, ẩn hiện ánh ngọc xanh thanh khiết. Một ao sen này mượn được ý trăng, bóng lá sen tựa như tấm ngọc lưu ly nhẹ mà mỏng phản chiếu trên mặt hồ bàng bạc gợn sóng, tách ra thành vô số những hạt thủy ngân bé li ti, nháy mắt biến dạng, xuôi chảy không ngừng.
Trong mắt Duệ Thân Vương dường như cũng điểm những luồng sáng bạc nho nhỏ như thế, biến hóa thất thường, giọng nói đã mang vẻ lười biếng của ngày thường:
“Đệ vừa bảo có chuyện muốn nói cho ta, chuyện gì?”
Ngón tay Dự Thân Vương mân mê chén rượu, bạch ngọc thượng hạng, trơn nhẵn như một mảng da dê ấm áp, lại phảng phất có hơi lạnh. Thanh âm của chàng như đám sương mù nhàn nhạt mới hiện trên mặt hồ, vẫn còn vấn vương  hơi nước ẩm ướt trong sạch:
“Mộ gia có một phương pháp cất rượu gia truyền, gọi là “Mật nhưỡng”, Lục ca còn nhớ chăng?”
Thứ rượu kia nghe nói là phải tìm mật ong đem chưng cất, vào miệng vị cực thanh, một khi ngấm vào cổ họng thì lại đốt người ta nóng bỏng, cứ như một thanh đao sắc bén vô song, đâm thẳng một mạch từ cổ họng vào trong ruột. Mộ thị trăm năm giàu sang phú quý, đem việc làm rượu mà nói, là bí quyết cất rượu độc nhất vô nhị, rất có tiếng tăm, bao năm qua hầm rượu cả trăm vò, phiên vương quan lại các kiểu vẫn thường được biếu tặng.
Duệ Thân Vương nhấp một ngụm rượu nhỏ, nói:
“Dĩ nhiên là nhớ. Phương pháp cất rượu bí truyền của Mộ thị, nghe đồn chỉ truyền con trai không truyền con gái, hiện tại Mộ thị đã tuyệt hậu, phỏng chừng về sau cũng chẳng còn được thưởng thức  mật nhưỡng.”
Dự Thân Vương nhàn nhạt nói:
“Mộ Duẫn còn sống, đã trốn sang biên giới Kỷ Nhĩ Mậu.”
Hoàng tử ngày xưa chú ý nhất là vẻ mặt, Duệ Thân Vương thuở nhỏ được vua cha dạy dỗ, phong độ lại càng vững vàng, tuy rằng thập phần ngoài ý muốn, nhưng vẫn chưa hề lộ ra vẻ thất kinh, chỉ làm như đăm chiêu nói:
“Cửa ải Định Lan hùng vĩ hiểm trở hơn thường, còn được gọi là thiên hạ đệ nhất, tường thành đều cao hơn mười trượng, trừ phi đó là chim, còn không thì đừng mơ vượt qua được.”
“Mộ Duẫn là có người tiếp ứng, giả vờ giết chết sau đó đào tẩu. Người tiếp ứng hắn, trên đường bảo vệ, ở Cung Châu bị người của doanh trại phía đông phát giác hành vi, chặn lại giao chiến, sáu người chết ba người bị thương. Ba kẻ này mặc dù bị thương nặng, nhưng còn chưa kịp để ép hỏi khẩu cung, đã lập tức nuốt độc tự sát. Những người này, tất cả đều là tử sĩ đã qua huấn luyện nghiêm ngặt.
Mật báo ở Cung Châu sáu ngày đến nơi, thì ngày thứ bảy lại nhận được tin, đông doanh tại sông Thụ lại có giao chiến, lần này đối phương chết năm, trong đó tử sĩ giả trang Mộ Duẫn, bị trúng ba tên, vẫn còn nằm sấp trên lưng ngựa cưỡi đi hơn hai mươi dặm, dẫn dụ truy binh.
Ngày thứ chín, đến ngày thứ mười một, mười hai đều có giao đấu, đông doanh điều một lực lượng hùng hậu vây diệt, nhưng lại không có lần nào thành công. Bên đối phương người chết là hai mươi lăm, có thể đưa Mộ Duẫn đến được tới trước ải Định Lan cũng không quá ba người. Bốn người này trên đường đổi ngựa cấp bách đến chỗ cửa ải, Mộ Duẫn cải trang làm gián điệp, dùng lệnh bài giả để mở cổng thành, vượt qua ải.
Truy binh đuổi theo ba người kia, tại núi Mật La giằng co hỗn loạn một ngày hai đêm, cuối cùng tên cũng bắn hết cả, dùng đá chọi lên. Đợi đến lúc đông doanh rốt cuộc tiến sát lên núi, té ra ba người kia đã sớm ăn độc dược, độc ngấm vào mạch máu, chém thử một kiếm, thấy máu chảy tựa như rượu mật trong chén này, từ mũi kiếm dần già ăn mòn lên thân kiếm.”
Dự Thân Vương không nhanh không chậm nói tiếp:
“Nếu không phải đối phương là mưu đồ phản nghịch, ta quả thực là bội phục những tử sĩ này.”
Duệ Thân Vương phỏng chừng bị tác động bởi khung cảnh máu me đầm đìa, hơi hơi nhíu mày, lại nhấp một ngụm rượu.
Giọng điệu của Dự Thân Vương như thấu suốt tất cả:
“Hai mươi lăm tính mạng đổi lấy một cuộc đào thoát của Mộ Duẫn, không biết vị chủ mưu kia rắp tâm làm gì. Mộ thị bao đời  thống lĩnh quân đội, binh pháp đệ nhất thiên hạ, Kỷ Nhĩ Mậu nhiễu loạn biên giới nhiều năm, Mộ Duẫn trốn thoát ra ngoài, nếu cùng nhau kéo bè kết cánh, kết cục có ngày sẽ thành mối  họa cho xã tắc.”
Duệ Thân Vương nhẹ nhàng bâng quơ nói:
“Nếu ngay cả một đông doanh quân đội tinh nhuệ do chính tay Thất đệ đào tạo ra mà cũng chẳng ngăn nổi hắn, không chừng người này mệnh là không thể chết.”
Dự Thân Vương cười nhạt, hỏi:
“Lẽ nào Lục ca lại là một người tin vào thiên mệnh?”
Duệ Thân Vương cười ha ha, nói:
“Thiên mệnh là thế, chả nhẽ không tin?”
Thờ  ơ  đưa tay nhấc  cái ấm, cao  giọng gọi người:
“Người đâu, rượu lạnh rồi, hâm nóng lại đi, đổi bát to tới đây, ta hôm nay muốn cùng Thất đệ uống một phen cho thật sảng khoải.”
Dự Thân Vương đứng dậy nói:
“Đa tạ rượu ngon của Lục ca, ngu đệ không thắng nổi sức mạnh của rượu, đã say. Chỉ đành ngày khác lại nhận ban tặng của Lục ca, hôm nay xin Lục ca thứ lỗi, ngu đệ còn chút việc vặt vãnh, muốn thỉnh Lục ca cho cáo lui.”
Duệ Thân Vương cũng không giữ lại nữa, tiễn chàng đi ra.
Sau khi quay lại Thủy các, đuổi lui mọi người, tự mình nhấc ấm lên, rót vào một ly rượu lạnh, chậm rãi uống cạn, qua thật lâu sau, mới lầm bầm lầu bầu:
“Một chiêu rút dây động rừng này của lão Thất, là có ý gì đây?”
Từ sau tấm bình phong bằng lụa khung gỗ đàn dát vàng vẽ cảnh núi non sông nước, Mạnh Hành Chi không một tiếng động thong thả bước ra, nói:
“Bốn chữ “rút dây động rừng” này của Vương gia quả là tuyệt diệu, theo như hiểu biết nông cạn của tại hạ, Dự Thân Vương quả thực đến để rút dây động rừng. Hắn rõ ràng đã nghi ngờ Vương gia phái người giải cứu Mộ Duẫn, cho nên đem toàn bộ sự việc thuật từ đầu tới cuối cho Vương gia nghe, ý là, hắn đã biết được động tĩnh của Vương gia, muốn cảnh cáo Vương gia hãy thôi làm việc thiếu suy nghĩ.”
Duệ Thân Vương im lặng trầm ngâm, Mạnh Hành Chi lại tiếp:
“Tại hạ thực muốn chúc mừng Vương gia.”
Duệ Thân Vương chớp động con mắt, Mạnh Hành Chi nói:
“Dự Thân Vương rõ là e sợ Vương gia, mới muốn Vương gia thu liễm. Hắn bỗng nhiên có một cử chỉ này, cũng liền chứng minh rằng một chiêu của Vương gia, hẳn là đã đi đúng rồi.”
Duệ Thân Vương nói:
“Con người này đối với lão Tứ một mực trung thành tận tâm, hắn tất vì có điều cố kỵ, cho nên mới tới để cảnh cáo ta, xem ra hắn đã biết rõ cái chiêu kia chính là do ta bố trí.”
Mạnh Hành Chi mỉm cười:
“Biết thì làm được cái gì? Giết chính là giết, đó là bởi đã biết trên tay có một lưỡi dao sắc bén vô song, đối phương không thể làm được gì, chỉ đành trơ mắt giơ thân đón lấy.”
Thanh âm của gã cực nhẹ, song từng chữ từng chữ lọt vào trong tai:
“Vương gia, rốt cuộc cũng không uổng công Mộ phi ra đi.”
Đêm khuyu sương nặng hạt, ánh trăng càng rõ ràng, trong trẻo như nước. Sương như tuyết vương áo người, Duệ Thân Vương uống càng nhiều, càng cảm giác say nặng nề. Bên ngoài lan can bằng ngọc có cây hoa thược dược, vào tiết tháng tư hương thơm nồng nàn, hoa ở ngoài lan can đã tàn một nửa, có một mảnh bị gió đêm cuốn bay, vừa vặn rơi ở trên ống tay áo chàng, chàng đưa tay nhặt lên.
Nàng luôn luôn thích trâm cài thược dược, có một loài hoa thược dược gọi là “Kim tuyết ngân tuyết”, trên cánh hoa trắng muốt có điểm tơ vàng, cây trâm cài lên mái tóc mây đen mượt, trông vô cùng kiều diễm.
“Lục ca.”
Thuở nhỏ nàng vẫn thường gọi chàng như thế. Trên mặt bấy giờ không có một chút huyết sắc, chỉ nói:
“Ta đi.”
Hai tiếng cực nhẹ, từ trong môi nàng phát ra, lại như nặng cả ngàn cân, trong phút chốc ép chàng muốn ngạt thở, bản năng muốn quay mặt đi, chỉ thấy một bên nàng cài  đóa hoa thược dược cánh ve.
Một câu tàn nhẫn như vậy, không đừng được hỏi:
“Muội đi? Muội có biết tương lai sẽ như thế nào hay không?”
Trên mặt nàng ý cười không rõ:
“Ta biết, nhưng vì Lục ca, ta nguyện ý. Ta biết ở bên cạnh Nghị Thân Vương vẫn chưa có một người nào đắc lực của Lục ca, hiện thời hắn đến cầu hôn, quả thực là cơ hội hiếm có.”
Nhớ hồi đó mười lăm tuổi, nàng cũng chỉ mới mười hai tuổi, chính mình dẫn nàng chuồn ra ngoài Mộ phủ, đi hội hoa mùa xuân ở Đại Minh Tự xem hoa thược dược. Nàng mặc áo xanh, buộc tóc, bộ dạng y chang một thằng nhóc sai vặt, mình đứng ở nơi cửa, trái tim trong lồng cứ đập thình thịch. Mãi đến lúc lên ngựa, nàng bỗng nhiên ngồi trên yên ngựa mà cười vang, làm bản thân lại thấy buồn bực giận dỗi, kêu tên tục của nàng, hỏi:
“Lâm Nguyệt, muội cười cái gì hả?”
Nàng thúc ngựa quay vòng trở lại, khoảng cách gần nhau như vậy, hơi thở như hương lan phả ra ngưa ngứa ngay dưới tai, giọng nói trong trẻo mới dễ nghe làm sao:
“Lục ca, té ra là huynh vẫn còn nhát gan hơn cả ta.”
Chàng hừ một tiếng, quay mặt đi, thực ra chàng không phải sợ, mà đúng ra là lo. Mộ thị danh gia vọng tộc, gia giáo cực nghiêm, bản thân mặc dù là đệ tử của Mộ đại tướng quân, nhưng thân là hoàng tử, nếu chuyện chuồn ra bị lộ, Mộ đại tướng quân cũng chẳng trách phạt mình, nhưng còn nàng thì e sẽ phải chịu hình phạt nghiêm khắc của phụ thân. Một cậu thiếu niên choai choai thuở ấy, không buồn phân bua nhiều, chỉ giương mặt lên, bày ra cái vẻ ta đây lão làng, nói:
“Ta chẳng thèm sợ.”
Mộ Lâm Nguyệt làm mặt quỷ, khuôn mặt nàng vẫn còn đậm nét trẻ con, song dường như thấp thoáng đâu đó đã có một vẻ ngọt ngào tao nhã của cô thiếu nữ, nghiêng đầu cười, sóng mắt đong đưa uyển chuyển như có thể làm say lòng người. Cậu bé buột miệng thốt lên:
“Không cho muội cười nữa.”
Một đôi hàng lông mi dài rợp như cánh bướm chớp làn, hỏi:
“Vì sao chứ?”
Cậu nói:
“Muội cười, người ta sẽ biết ngay muội là con gái.”
Nàng nói:
“Ta đây không cười nữa.”
Một câu còn chưa nói xong, lại  không nhịn được cười khanh khách, má trái mờ mờ ẩn hiện  một cái lúm đồng tiền, xinh xắn đáng yêu vô cùng. Cậu bé không biết làm sao, chỉ đành che che khuôn mặt nói:
“Người ta nếu biết muội là con gái thì sẽ liên lụy đến ta, ta chẳng đưa muội đi cùng nữa.”
Nói xong làm bộ giơ rọi lên toan thúc ngựa đi, nàng vội vàng túm lấy ống tay áo của cậu, liên tục nói:
“Lục ca, Lục ca, ta không cười nữa mà.”


Ở Đại Minh Tự khách đến hành hương nườm nượp, biển người nhộn nhịp, trẩy hội, thắp nhang, bán nhang, bán đồ ăn, mướn kiệu, đưa lư, . . . náo loạn ầm ĩ y như cái nhà bếp. Một đôi con ngươi của nàng đen tuyền như nước sơn, hiếu kỳ liếc bên nọ ngó bên kia. Cậu sợ mình và nàng sẽ bị dòng người xô đẩy thất lạc, luôn miệng dặn nàng phải giữ chặt ống tay áo của mình, bọn họ chen lên phía trước chùa, toàn thân đều ra đầy mồ hôi.
Người ở trong đền lại càng nhiều hơn, tượng Phật bằng vàng trang nghiêm quý báu, vô số người ở khắp các chốn đều đang cúi rạp người dưới đất, kính cẩn lễ bái. Trước tượng Phật hương biểu chất thành đống như núi, lửa cháy lách tách, đưa làn hương hỏa túa ra khắp các ngóc ngách,  cay nóng đến nỗi mọi người hầu như không mở mắt nổi. Trong làn khói hương bay lững lờ, nàng tò mò hỏi:
“Lục ca, bọn họ đều đang cầu xin cái gì thế?”
Thật ra thì cậu mù tịt, nhưng vẫn đáp bừa nàng:
“Cầu tài cầu phúc, hẳn là đều cầu những gì mà bọn họ chưa có.”
Đôi mắt sáng của nàng ánh lên như hai ngọn sao băng rự rỡ:
“Ta đây chẳng cần phải cầu, cái gì cũng đều có cả rồi. Ta có phụ thân thương ta, có các ca ca thương ta, còn có huynh nữa nè.”
Nghe được nàng liệt mình vào trong danh sách người thân của nàng, trong lòng dâng lên một cảm xúc khác thường, nhưng ngoài miệng lại lầm bầm:
“Nếu ta không dẫn muội tới đây, hẳn muội sẽ chẳng chịu nói được đôi lời bùi tai như thế.”
Rồi lại nói với nàng:
“Chúng ta đi ngắm hoa thược dược đi.”
Đại Minh Tự xưa nay vốn tự hào về hoa thược dược nổi danh khắp nơi, hằng năm qua thường mở hội hoa thược dược mùa xuân, lại càng chứng tỏ là đệ nhất Tây Trường kinh. Người đến kinh thành chẳng qua chỉ là mượn hoa xem tên, du ngoạn viếng chùa, kỳ thực là muốn dự hội chợ. Thậc lòng muốn thưởng thức hoa thược dược, ngoài tú tài văn nhân, cũng chỉ có loại phú hào đọc qua được vài quyển sách rồi cũng học đòi văn vẻ lòe người.
Bọn họ theo lối tắt đi ra phía sau chùa, dọc đường đi, quả nhiên là khách thưa thớt dần, ai dè đến được trước chỗ vườn hoa thược dược rồi, lại bị một hòa thượng trong chùa cản lại, nói là nữ quyến lục gia trong kinh thành thủ phủ hôm nay đều đến ngắm hoa, cho nên mấy bọn tạp dịch đều phải chờ hôm khác.
Định Trạm từ lúc mới chín tuổi đã được phong tước thân vương, thuở nhỏ lại được phụ hoàng cưng yêu vô cùng, hơn mười năm qua, cho tới bây giờ mới lần đầu tiên bị người ta gọi là “đồ tạp dịch” như thế, vừa ăn một quả bực bội vì bị cấm cửa, lại gặp phải mấy ông hòa thượng mặt mũi ton hót, thái độ thì kiêu căng hết nói, trong lòng lập tức nổi xung lên. Nhưng sau nghĩ lại, mấy tên sư cọ này đã ngu dốt thế rồi, nếu mình mà đụng đến, bản thân thì không hẳn đã chịu thiệt, nhưng Lâm Nguyệt thì khó mà yên ổn. Huống chi chính mình đã rủ nàng chuồn ra ngoài, nếu làm loạn lên, thân phận mà bị bại lộ, thì cũng phiền đã chết.
Mộ Lâm Nguyệt cũng sợ cậu cáu, giật nhè nhẹ ống tay áo cậu, nói:
“Lục ca, chúng mình tốt hơn là đừng xông vào.”
Ở trên bức tường hoa ngăn cách có cái lỗ mắt cau, ghé mắt vào là thấy được trong vườn cả một biển hoa dào dạt, như gấm như vóc. Cứ như vậy mà quay về, thật đúng là không cam lòng. Ý nghĩ của cậu vừa chuyển, lập tức trong đầu đã nảy ra một kế, thuận theo nàng đáp một tiếng, lập tức cùng nàng xoay người bỏ đi. Đi được một đoạn đủ xa, nhìn xung quanh hai bên thấy không có ai để ý, liền nói:
“Đi theo ta!”
Hai người men theo chỗ ngoặt bên tường, lẳng lặng đi một mạch đến phía sau Sơn phòng (khuôn viên) yên tĩnh. Chỗ này chính xác là ở ngay cuối vườn hoa, rất ít người lảng vảng, ngoài bờ tường có một gốc cây du đại thụ , to chừng một vòng ôm, chạc cây vươn ngang, đệm lá xanh mướt. Cậu quay đầu hỏi Mộ Lâm Nguyệt:
“Muội có biết trèo cây không? Nếu không thì  để ta cõng.”
Mộ Lâm Nguyệt đã hiểu cậu định làm gì, cảm thấy việc này thật thú vị, đã sớm nóng lòng muốn thử:
“Đừng coi thương người ta nhé. Nữ nhi của Mộ đại tướng quân, đừng nói là trèo cây, xông trận giết địch cũng thừa sức.”
Nói xong liền xắn ống tay áo lên, để lộ ra một đoạn cổ tay trắng muốt như sương, trên cổ tay còn đeo một chuỗi bạch ngọc, màu da trong suốt tạc cùng màu ngọc xanh lơ kiều diễm vô ngần, tựa hồ chẳng phải cổ tay mà cũng chẳng phải bạch ngọc. Nàng chỉnh lại nam trang, quên bẵng việc phải cất cái vòng tay đi, đến lúc vén tay áo lên mới phát hiện, “ái chà” một tiếng, nói:
“Đây là của bà ngoại tặng cho, không thể làm nó bị sứt mẻ được.”
Tháo chuỗi xuống, đem giắt vào đai lưng.
Thân hình của nàng khéo léo linh hoạt, thoáng chốc đã thuần thục leo lên cây, ngồi trên một cành ngang, vẫy tay gọi  Định Trạm:
“Lục ca!”
Động tác của Đinh Trạm lại càng lưu loát hơn, khẽ đạp một cái bên trái cây du, tay phải đã giữ chặt một nhánh cây, mượn lực vọt lên, nhẹ nhàng khoan thai  đáp xuống trên một cành du. Mộ Lâm Nguyệt không khỏi vỗ tay khen ngợi:
“Một chiêu “tiểu khởi thủ” này của Lục ca trông còn đẹp hơn cả đại ca muội nữa.”
Định Trạm giơ ngón tay đặt giữa môi, “suỵt” một tiếng. Mộ Lâm Nguyệt bấy giờ mới biết mình thất ý, may mà chưa có ai nghe thấy. Định Trạm nhảy xuống trước, lúc hai chân đã tiếp đất vững vàng thì quay lại dang hai tay về phía nàng, Mộ Lâm Nguyệt cười nói:
“Phải tiếp cho đúng, không được quẳng người ta  đi  đâu  đấy.”
Rồi như một con én nhỏ, từ trên đầu tường nhanh nhẹn nhảy xuống, ai dè nhánh cây móc vào mũ của nàng, lúc nàng nhảy xuống, mái tóc dài tung bay trong gió như thác nước. Mặc dù nàng gan lớn, nhưng nhảy xuống từ trên tường cao như vậy, vẫn có chút sợ, bất giác nhắm tịt mắt lại. Định Trạm chỉ cảm thấy có một lực va chạm rất mạnh ép xuống, ôm chặt lấy nàng, loạng choạng lùi mấy bước, cuối cùng vẫn “bịch” một cái ôm nàng ngã ngồi ở trong đám hoa thược dược, chỉ cảm thấy một hương thơm dịu mát tràn ngập cõi lòng, bốn phía đỏ, hồng,  vàng, tím, đều là cây hoa thược dược, rực rỡ như một bức gấm thêu, bao quanh một vòng. Thật nhiều hoa và lá bay tung lên, nhấn bọn họ vào trong một biển hoa.
Trong mắt hiện lên một nhan sắc chói lòa, có thể thấy được dung mạo của nàng gần trong gang tấc, tựa như một đóa hoa thược dược trắng nở rộ, trong trẻo xinh đẹp làm sao, thanh thoát tựa làn mây. Hơi thở của nàng ngọt ngào, cậu nghe được cả âm thanh quả tim mình đập mạnh, thình thịch. Con ngươi nàng sáng long lanh, chẳng khác nào hai viên thủy ngân đen nháy tròn vo, một ngày trời xanh cao thẳm, có một đám mây thong thả bay qua, ánh mắt của nàng dường như mang cả ý mây, trôi nổi khó nắm bắt, mà cậu dĩ nhiên đã quên mất chuyện phải buông tay. Tóc nàng vờn trên mặt ngưa ngứa, nhịn không được hắt xì liền hai cái.
Hai cái hắt  hơi ấy vang lên, ngay tức khắc có người quát hỏi:
“Ai ở đó?”
Hai người lập tức chột dạ. Hai đứa nhỏ vốn được sống trong an nhàn sung sướng, chưa từng phải trải qua cái hoàn cảnh như vậy. Mộ Lâm Nguyệt hoảng hốt nói:
“Đi mau! Đi mau thôi!”
Định Trạm cũng sợ bị người ta bắt được, vội nói:
“Ta cõng muội trèo tường, muội đi trước.”
Ngồi xổm xuống để cho nàng giẫm trên đầu gối mình, bước lên đầu vai, nâng nàng trèo qua tường. Mộ Lâm Nguyệt ở trên đầu tường thấy xa xa  có ba bốn vị tăng chạy về phía này, cảm thấy khẩn trương, luôn miệng giục:
“Lục ca, mau lên.”
Định Trạm trong lúc vội vàng vẫn khom người ngắt hai cành hoa thược dược, ngậm ở trong miệng, xông lên trước, dựa vào thế tường liên tiếp đạp hai bước, đã nhảy lên đầu tường. Hai người từ trên cây đại thụ nhảy xuống, Định Trạm dắt tay nàng, co cẳng chạy.
Hai người chạy một mạch ra tận cổng chùa, nhưng lại thấy trước chùa đoàn người chật ních, đẩy cũng chẳng suy suyển được nửa bước, mới dừng chân được chút, Mộ Lâm Nguyệt lại bị cậu kéo chạy như điên, đến lúc này thở hổn hà hổn hển, thắt lưng đau đến nỗi đứng thẳng lên không nổi. Định Trạm vừa mệt vừa buồn cười, giao hai đóa hoa thược dược cho nàng, nói:
“Được có hai cành hoa này, thực bõ công.”
Thấy mái tóc dài của nàng tán loạn, lại nhìn ra phía sau mấy vị tăng đuổi theo nãy giờ đang ngó nghiêng tứ phía không ngừng, sợ bị phát hiện, rút từ trong áo một cái khăn tay bằng lụa, nói:
“Muội mau buộc tóc vào đi.”
Mộ Lâm Nguyện nhận lấy cái khăn tay, buộc gọn lại tóc lần nữa, nhón lấy hai đóa hoa, ngửi ngửi nhụy hoa, buồn bã thở dài:
“Hoa đẹp như thế, lại chẳng có hương thơm, mới thấy trên đời này vạn sự chẳng như ý.”
Định Trạm nói:
“Thật đúng là nhóc con, có mùi hoa, có hương hoa hay khong, với việc đời như ý hay không như ý thì có liên quan gì?”
Mộ Lâm Nguyệt thản nhiên cười, nụ cười còn xinh đẹp hơn cả những ngón tay của nàng nữa, Định Trạm không dám nhìn tiếp, nói:
“Đi thôi.”
Rồi cùng nàng ra ngoài tìm ngựa, lên ngựa quay trở về phủ.
Lúc về đến nơi đã là hoàng hôn, nàng lặng lẽ luồn theo cửa nách đi vào, con bé a hoàn đứng đợi nàng đã sớm cuống cuồng, thấy nàng về , vội vàng chạy đến, nói:
“Phu nhân đã hỏi mấy lần rồi, em giấu giếm không được.”
Lâm Nguyệt đang muốn đi theo nàng, chợt nhớ một việc, đưa tay sờ sờ thắt lưng, kêu lên thất thanh:
“Chuỗi ngọc của ta đâu mất rồi.”
Định Trạm vốn đã đi được vài bước, nghe nàng nói vậy, quay lại thấy mặt nàng trắng bệch, đoán là đã rơi ở Đại Minh Tự, vội an ủi:
“Không sao, ta đi tìm giúp muội.”
Qua mấy ngày, rốt cuộc có cơ hội gặp được nàng, nhân dịp nàng chưa hỏi đến đã nói ngay:
“Ta tự mình ra vườn hoa tìm hai lần mà vẫn chẳng thấy, nói không chừng đã rơi ở trên đường, bị người ta nhặt mất rồi.”
Nàng khẽ đáp:
“Không tìm đươc, cũng đành thôi.”
Thế nhưng trong mắt lại hiện lên một thần sắc hiếm thấy ở các cô gái nhỏ, làm cho người ta cảm giác buồn bã vô hạn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách