Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: ^^Smile^^
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại - Xuất Bản] Duyên Kì Ngộ (Mạn Mạn Thanh La) | Trang Trang

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 17:28:07 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 14


Sau chuyến đi đó, Lưu Giác không đến tìm A La nữa. Ban ngày các phu nhân cần làm gì cũng gọi nàng, A La đành phải đợi đêm đến mới vượt tường ra ngoài, chuẩn bị cho công cuộc chạy trốn.

Trong Đường viên, thất phu nhân, A La và Tiểu Ngọc đều hồi hộp, căng thẳng chờ đợi ngày Thanh Phỉ xuất giá. Một năm trước vú Trương đã viện lý do già yếu xin xuất phủ về quê, rời khỏi Phong thành. Theo sắp đặt của A La, vú đã đến thành Lâm Nam ở biên giới nướcTrần.

Mọi người đếm từng ngày. A La nhắc thất phu nhân và Tiểu Ngọc không được lo lắng, cứ coi như cuộc dạo chơi ra khỏi phủ bình thường. Nàng nói: “Tuyệt đối không được để cho ai biết mình đang nghĩ gì. Cho dù họ đoán đúng cũng chỉ là dự đoán, chỉ cần mình không nhận, là không có chuyện gì”.

Cuối cùng cũng đến hôm trước ngày Thanh Phỉ xuất giá, A La và thất phu nhân mặt mày hớn hở mang quà cưới đến tặng Thanh Phỉ, nói một loạt những lời chúc tụng hay ho, rồi trở về Đường viên như mọi ngày. Tiểu Ngọc khóa cửa ngoài, ba người khẩn trương cải trang thành nam nhân, chỉ mang theo ngân lượng và những đồ châu báu, đi tắt qua hậu viên vào rừng trúc rồi vượt tường bao một cách thuận lợi. A La dẫn đường đưa họ đi thẳng đến ven sông, ở đó nàng đã thuê sẵn cỗ xe ngựa đứng chờ, sau khi trao bạc, cỗ xe vòng lại đi về phía cổng thành phía đông.

Ra khỏi phủ, thất phu nhân thở một hơi dài, thấy A La điều khiển xe ngựa vẻ thành thạo bèn hỏi: “Tam Nhi, con học đánh xe ngựa từ bao giờ vậy?”.

A La cười: “Sau khi biết cưỡi ngựa, con bảo Tử Ly kiếm cỗ xe dạy con đánh chơi, còn bảo huynh ấy lên xe đi dạo, bên trong để sẵn đồ đùng, đồ ăn, có thể đi đến đâu nghỉ đến đó, cứ như vậy, dần dần con biết đánh xe thôi”.

Thất phu nhân nói: “Kỳ thực Ly Thân vương cũng rất thật lòng với con”.

“Mẹ à, con chỉ coi huynh ấy là đại ca thôi. Buổi tối hôm đó, Tử Ly bảo con sau này không nên tin huynh ấy. Con cũng không biết phải làm thế nào, có lẽ từ nay chẳng còn gặp lại huynh ấy nữa”. A La thở dài, không muốn nhắc đến Tử Ly. Bây giờ chàng đang xây phủ trong sơn cung, bắt đầu vạch mưu tranh đoạt vương vị với thái tử. Lại còn Lưu Giác, chàng đã nói thật, nếu biết nàng chạy trốn, với tính cách của Lưu Giác, nếu để bị bắt lại, mình không chết cũng bị lột da. “Vút!”, A La vung roi, dẹp bỏ những suy nghĩ lan man, chuyên tâm đánh xe.

Đến khu dân cư phía đông nam Phong thành, A La nhảy xuống dùng vải dày bọc móng ngụa, lặng lẽ len lỏi trên đường ngõ. Đi lòng vòng suốt một canh giờ, họ mới đến được ngôi nhà đã mua từ trước.

Tiểu Ngọc đỡ phu nhân xuống xe, A La dẫn họ vào sân, nàng vào nhà lấy ra những thứ đã chuẩn bị sẵn, nói với thất phu nhân: “Mẹ à, con và Tiểu Ngọc đã chuẩn bị lương thực và đồ dùng đủ sống trong nửa năm, quản gia đã cho nghỉ rồi. Mẹ và Tiểu Ngọc cứ đóng chặt cổng nghỉ ngơi, Tiểu Ngọc đã đến đây cũng biết tình hình, bây giờ con phải đi làm nốt một số việc”.

Thất phu nhân nghẹn ngào: “Tam Nhi, con phải cẩn thận đấy!”.

A La nhìn trời, còn một canh giờ nữa cổng thành sẽ mở. Nàng gật đầu: “Con sẽ bình an trở về”. Nói đoạn, nhảy lên xe ngựa đi về phía cổng thành phía nam.

Nàng thận trọng đứng chờ trong một con ngõ cách cổng thành phía nam nửa dặm. Giờ Mão ba khắc bắt đầu mở cổng, đó là quy định của Phong thành, không có chiến sự, lính gác sẽ không tra xét người qua lại. A La thay một chiếc áo choàng màu bạc rất nổi bật, thầm nghĩ, như vậy mọi người đều sẽ nhìn rõ.

Bình thường vào giờ Thìn, thất phu nhân đều đến vấn an lão gia và đại phu nhân. Giờ Thìn hôm nay bà phải đến trang điểm cho Thanh Phỉ. Nếu thất phu nhân không đến, gia nhân phát hiện sẽ bẩm báo Lý tướng. Lúc đó mọi người còn mải lo hôn lễ của Thanh Phỉ, phải mở tiệc mời bá quan bằng hữu, tướng phủ sợ sẽ to chuyện, đến khi ông ta quyết định đi tìm cũng sẽ không làm ầm ĩ, cho nên không đáng sợ. Điều duy nhất khiến A La sợ đó là Lưu Giác và Tử Ly. Nhưng Tử Ly do đã cưới Cố tướng thiên kim, sợ bị mang tiếng nên sẽ không truy đuổi. Còn Lưu Giác khi được tin, sớm nhất cũng là giờ Tỵ, trong thời gian này nàng có hai canh giờ để sắp đặt mọi thứ.

A La tính thời gian, nhìn những đồ mang theo trên xe, tự tin cười. Nhìn trời đã rạng, nền trời phía đông đã rạn hình vảy cá, nàng ra roi quất ngựa nhằm hướng cổng thành phía nam.

Lúc đó lính gác đang vừa ngáp vừa mở cổng thành, trước cổng chỉ có lác đác vài nông phu chở rau quả đi qua. Chợt có tiếng vó ngựa dồn dập, một vị công tử khôi ngô vận áo choàng màu trắng bạc đánh một cỗ xe ngựa lao đến, miệng la lớn: “Nhà có người ốm, phải về quê gấp, mau tránh đường!”.

Phong tục của Phong thành, khi có người nhà bệnh nặng thấy khó qua khỏi, đều cố gắng đưa về quê trước khi tắt thở. Lính gác thông cảm nhìn theo chiếc xe ngựa lao qua cổng thành, thầm cảm kích tấm lòng hiếu thuận của vị tiểu công tử kia, cầu mong cho chàng sớm đưa người thân bình an về nhà.

A La đánh xe ngựa ra khỏi cổng thành, giảm tốc độ cho xe đi xuống cầu phao, quay đầu lấy chai dầu hỏa mang theo, tưới lên mép cầu. Vượt qua cầu, lại phóng như bay, men theo đường cái đi tiếp một canh giờ, khi đường đi dốc dần, núi hai bên càng sừng sững hiểm trở, nàng mới đánh xe đi sâu vào trong một khu rừng ven đường. Xuống xe, tháo dây cương, quất roi vào mông ngựa, thả nó đi, con ngựa đau lồng lên, chạy thẳng.

Không kịp nghỉ lấy sức, nàng lấy trong xe một cái bọc nhỏ bằng giấy dầu buộc vào người, hất quần áo và mấy thứ lặt vặt bừa bãi trên xe, dùng chai tiết lợn mang theo vẩy lên đó, vẩy cả trên mặt đất, ngụy trang thành một vụ cướp đường. Không giống cũng không sao, chỉ cần có hiện trường ít nhiều cũng có manh mối để người ta suy đoán tưởng tượng, chỉ cần có thể đánh lạc hướng để kéo dài thời gian. A La thận trọng bọc chai dầu hỏa và chai tiết lợn buộc vào con ngựa còn lại, nhảy lên ngựa phi thục mạng về phía Phong thành. Đoán là cách chỗ vứt xe ngựa chừng khá xa nàng mới đập nát mấy cái chai đó giấu đi, lại nhìn mặt trời, tính thời gian, đoán là khoảng giờ Thìn sáu khắc, nàng liền thúc ngựa phi về phía Phong thành.

Giờ Thìn một khắc, được tin người của Đường viên đã biến mất, Lý tướng tức tối, đem theo gia nhân xông đến Đường viên, khóm hải đường trong sân cành lá đung đưa, thân thẳng tắp, Đường viên vắng lặng không một bóng người. Lý tướng đạp tung cửa phòng thất phu nhân, chăn gối gọn gàng, trong rương quần áo vẫn nguyên Vẹn. Lý tướng ngẩn người nhìn gian nhà trống rỗng, miệng lẩm bẩm: “Giỏi lắm, Ngọc Đường! Mi dạy dỗ con gái thế đấy! A La, mày giỏi lắm! Không những cố tình giấu tài, còn dám lén mưu tính thoái hôn! Bọn chúng trốn khỏi phủ thế nào?”.

Gia nhân giật nảy mình bởi tiếng hét của Lý tướng, sợ hãi liếc nhìn đại phu nhân.

Đại phu nhân cất giọng nanh nọc: “Gia nhân lục tìm mới phát hiện, sâu trong rừng trúc sau hậu viên có một đống đá, có thể trèo lên vượt tường ra ngoài! Nhìn đám rêu phong, hẳn chúng đã chuẩn bị từ lâu! Đồ gái thanh lâu mạt hạng, dám học thói hạ tiện trốn ra khỏi phủ”.

Nếu bây giờ ba người kia xuất hiện trước mặt, không chừng Lý tướng sẽ bất chấp lời hứa hôn với phủ An Thanh vương giết chết bọn họ.

Mặt Lý tướng xám đen, ngồi trên ghế, ngực phập phồng, bộ râu rung rung, chứng tỏ ông ta tức giận đến mức nào.

Trong phủ trang hoàng rực rỡ, đèn lồng gấm đỏ chăng khắp nơi, chỗ nào cũng hoa tươi, tất cả đều nói lên hôm nay là ngày đại hỷ, ngày thứ nữ của Lý gia xuất giá. Nhưng không ai tỏ ra vui mừng, Thanh Phỉ sắc mặt nhợt nhạt, không biết liệu Lý tướng có vì quá phẫn nộ mà hủy bỏ hôn lễ hay không. Đại phu nhân dè dặt phá vỡ bầu không khí yên lặng: “Lão gia, mau sai người đuổi theo!”.

“Đuổi theo cái gì!”. Lý tướng đập bàn thét: “Lẽ nào định để dân chúng Phong thành đều biết thất phu nhân và tam tiểu thư của tướng phủ bỏ trốn? Lẽ nào để thiên hạ cười vào mặt bản phủ!”.

“Nhưng, chẳng lẽ để cho bọn chúng tẩu thoát? Chuyện này biết ăn nói thế nào với phủ An Thanh vương?”. Đại phu nhân than thở.

Lục phu nhân nói: “Lão gia, sớm muộn phủ An Thanh vương cũng biết, thiếp nghĩ việc này không thể chậm trễ, nên sớm báo tin cho tiểu vương gia, biết đâu người của vương phủ có thể đuổi bắt về. Nếu chậm trễ, để người đi xa mất, vương phủ e sẽ trách tội!”.

Lý tướng thở dài: “Cũng phải, mau sai người đến vương phủ báo tin! Nói là mới sáng sớm đã phát hiện thất phu nhân và tam tiểu thư bỗng dưng mất tích. A La đã hứa gả cho vương phủ, không tìm được người về, vương phủ cũng thấy mất mặt. Hai phủ hợp lực truy đuổi, bọn chúng chạy được bao xa?”.

Cả nhà nhìn nhau. Tứ phu nhân cười gượng: “Lão gia, vậy hôm nay.”.

Lý tướng dần dần bình tĩnh lại, biết là dù thế nào cũng không thể để lộ cho quan khách biết, danh tiếng của tướng phủ và mặt lão tướng không thể mất: “Hôm nay vẫn mở tiệc như thường, phải làm thật rầm rộ! Thanh Phỉ, con trang điểm cho thật đẹp, con cứ yên tâm làm tân nương. Đợi mấy ngày nữa, lão phu báo quan phủ, nói là thất phu nhân và tam tiểu thư tướng phủ đột nhiên mất tích, trong phòng có dấu vết ẩu đả, nếu giấu không được thì nói thẳng là sẽ treo giải thưởng cao. Kẻ nào lộ ra, đừng trách lão phu nhẫn tâm! Phu nhân, gọi thị vệ đến thư phòng, ta có việc sai bảo”.

Lý tướng lập tức trở về thư phòng, cẩn thận viết liền mười bức thư, đưa cho thị vệ: “Giao tận tay các vị phủ doãn đại nhân, không được sơ suất! Cầm thủ lệnh của ta, lấy ngựa đi mau’’. Lý tướng nghĩ, A La chỉ có thể đi về hai hướng tây và nam, nếu đi về tây phải qua bình nguyên, không thể chạy xa. Các phủ doãn nhận lệnh đều là môn sinh thân tín của ông, thư đã nói rõ là treo thưởng cao cho ai bí mật tìm kiếm, như vậy ba kẻ đó có thể chạy đi đâu? Điều ông ta suy nghĩ bây giờ là ăn nói ra sao với phủ An Thanh vương và trừng phạt thế nào khi bắt được bọn họ?

Lưu Giác nhận được tin cấp báo của tướng phủ, chàng giận run người. Thế nào là bỗng dưng mất tích, trong phòng có dấu vết ẩu đả? Nghĩ lại lời nói hành động của A La, chàng khẳng định mười mươi tiểu nha đầu này đã chuẩn bị từ lâu, chắc chắn là bỏ trốn!

Chàng thành tâm thành ý với A La, không ngờ nàng lại âm thầm mưu tính, nhân ngày hôn lễ của nhị tỷ dẫn mẫu thân bỏ trốn, thoái hôn! Hổ thẹn thay cho chàng còn tưởng mình đang ngày càng gần gũi với nàng, càng hiểu nàng, đang làm cho nàng dần dần yêu mình. A La thoái hôn! Nàng không cần chàng! Lòng Lưu Giác đau thắt từng cơn. Phẫn nộ, không đành, thất vọng, đau đớn, muôn nỗi quay cuồng trong đầu. Lúc này chàng vô cùng hối hận, đã rút lại người theo dõi nàng, còn một lòng muốn chiều chuộng nàng, tôn trọng nàng!

Nụ cười tươi hớn hở trước mặt chàng chỉ là đối phó! Ngoan ngoãn dựa vào lòng chàng chỉ là giả tạo! Lưu Giác nhớ lại những lời A La đã hỏi chàng, nếu có ngày nàng phụ chàng thì sẽ thế nào, chàng nghiến răng nghĩ, đợi ta bắt được, nàng khắc biết! Nàng sẽ phải hối hận vì việc làm hôm nay! Hai bàn tay đấm mạnh vào bàn, chiếc bàn rung lên, một góc bàn bị nứt toác.

Lưu Anh nhìn chủ nhân, mặt cũng nghiêm trọng: “Chúa thượng, ba tổ Ô y kỵ sẵn sàng đợi lệnh”.

Lưu Giác sầm mặt nói: “Xích tổ đi về hướng tây, Minh tổ về hướng đông, Huyền tổ theo ta về phía nam. Lưu Anh, ngươi cầm thủ lệnh của ta đến gặp đốc phủ Phong thành, bảo phái lính trấn thủ tất cả ba cổng thành, lục soát kỹ Phong thành cho ta! Cáp tổ(*) truyền báo đến đội quân ngầm ém ở tất cả các thành trì của Ninh quốc bí mật tìm kiếm”.

Cánh cổng lớn của vương phủ mở ra, đội kỵ mã áo đen tức tốc truy đuổi về hướng nam. Lưu Giác đi đến cổng thành phía nam, mặt sa sầm nghe lính gác lắp bắp trình báo, sáng sớm vừa mở cổng thành đã thấy một tiểu công tử dáng vẻ thư sinh đánh xe ngựa ra khỏi thành. Lưu Giác hét: “Đuổi theo!”.

Lúc đó A La vừa đến cầu phao châm lửa. Dầu hỏa rưới trên mặt ván gỗ gặp lửa bùng cháy, lửa gặp gió bốc cao dữ dội, cầu phao trên mặt sông biến thành con rồng lửa khổng lồ.

Từ xa Lưu Giác nhìn thấy bóng dáng A La bên bờ kia, rồi thoáng thấy bóng ngựa đi về phía nam, lòng xúc động, bất chấp ngọn lửa lao xuống cầu phao, chưa được mấy bước đã bị lửa tạc buộc phải quay lại, chàng tức tối đấm vào thành cầu, mối cầu hình đầu sư tử bị đấm nát.

Binh sĩ của Huyền tổ soàn soạt xuống ngựa, tim đập chân run, đây là lần đầu tiên họ thấy chủ nhân của mình ra tay mạnh như vậy, chỉ thấy từng luồng khí từ người chàng bốc ra, gặp không khí như ngưng kết lại. Luồng khí từ cơ thể Lưu Giác bốc mạnh khiến y phục trên người chàng phồng lên, mặt chàng xám ngắt đáng sợ.

Các binh sĩ quỳ sụp trước mặt Lưu Giác: “Tiểu vương gia, biết Lý tiểu thư đi về hướng nam, chắc chắn không thể chạy thoát, ta ngăn cản dọc đường cũng thế”.

Lưu Giác chỉ thấy lòng đau thắt, bức bối, ngón tay run run, phẫn nộ cực điểm nhưng cổ họng lại phát ra tiếng cười. Binh sĩ nhìn nhau, thầm nghĩ, tam tiểu thư kia phen này xong rồi.

Chàng ngồi trên mình ngựa nhìn sang bờ bên kia, đáy mắt đã ngưng thành lớp băng lạnh, miệng lẩm bẩm: “A La, tốt nhất đừng để bị ta tóm được!”.

Tiếp đó chàng quay người nói nhỏ: “Lập tức điều thuyền, dựng lại cầu phao!”.

(*) Cáp tổ: Đội truyền tín bằng chim bồ câu (BTV).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 21-5-2013 08:23:56 | Chỉ xem của tác giả
Trước cổng thành phía nam, người dồn lại đông nghẹt, tất cả ngơ ngác nhìn con rồng lửa trên mặt sông.

A La nhân lúc khói bụi mịt mù che lấp, lẳng lặng xuống nước, để lợi dụng lúc mọi người bận dập lửa, bắc lại cầu, tiến gần cầu phao, nàng ngậm một ống trúc dài để thở, từ từ bơi đến đoàn thuyền neo đậu phía bờ bên kia. A La mừng là mình bơi giỏi, có thể lặn dưới nước lặng lẽ chờ thuyền trong phường bơi ra. Sau khi chiếc thuyền đầu tiên chèo ra, nàng lặn dưới đáy thuyền bơi theo hướng ngược lại về phía đoàn thuyền. Khi chiếc thuyền thứ mười chèo ra, nàng đã vào bên trong đoàn thuyền, từ chỗ hở trên mặt nước giữa các thuyền neo đậu, nhô đầu ra.

Quả nhiên, người ta đã nhanh chóng lắp xong cầu mới. A La lập tức vọt lên mặt nước, cởi cái bọc bằng vải dầu trên lưng xuống, lấy quần áo mặc vào, vò rối mái tóc, bôi đen tay và mặt cho giống kẻ ăn mày, sau đó đường hoàng đi qua đoàn thuyền, lặng lẽ lọt vào trong thành.

Khi đội Ô y kỵ rầm rập xuất quân cũng là lúc Tử Ly nhận được tin báo. Tỳ nữ Tư Thi nhân lúc trong phủ rỗi việc đã đích thân chạy đến báo với chàng. Tử Ly mỉm cười, chàng cũng không tin có ai đó bí mật lẻn vào tướng phủ bắt ba người đi.

A La đâu có ngoan ngoãn bị gả đi như vậy, quả nhiên nàng có suy tính và dự định. Lúc này dường như Tử Ly mới hiểu ra, tại sao A La thích bạc như vậy. Chàng từ từ mở bức họa trong tay, nhìn đôi mắt đó, nhếch môi cười: “Tư Thi, ngươi làm rất tốt, bản vương không biết đôi mắt của vương phi lại không như thế này”.

Tư Thi quỳ phục trước chàng: “Tư Thi chỉ không hiểu vì sao tiểu vương gia phải vẽ bức khác, cho là bức cũ có ẩn ý, cho nên trong lúc mang đồ vào phủ mới bí mật đánh tráo bức họa”.

Tử Ly nói: “Chắc là tiểu vương gia lưu luyến đôi mắt này. Bức mới đâu?”.

“Nô tỳ thấy tiểu vương gia vẽ rất giống vương phi, nên nghĩ là chẳng có ích gì. Trong lúc mang đồ không tiện nên đã đốt rồi”.

“Ngươi làm rất tốt, bản vương nên hậu thưởng cho ngươi mới được”.

“Tư Thi không cầu ban thưởng, chỉ muốn được ở bên vương gia”.

“Ồ, ngươi vì ta thật lòng tình nguyện ở lại?”.

“Phải, dẫu có phải chết vì vương gia nô tì cũng cam lòng”.

Tử Ly ngoái đầu nhìn Tư Thi, quả đúng là thiếu nữ xinh đẹp trẻ trung. Chàng thở dài, nhẹ nhàng vung tay xỉa lên ngực nàng, cắt đứt huyết mạch tim. Tư Thi kinh hoàng gục xuống, môi còn mấp máy run run, như đang hỏi tại sao.

Tử Ly nói khẽ: “Ngươi tự cho là thông minh, đánh tráo bức tranh, nhưng lại không cho ta biết, đó là thứ nhất. Vô tình cảnh báo Lưu Giác ta đã bố trí tai mắt trong phủ của y, ngươi đã để lộ ý đồ của bản vương, đó là thứ hai”.

Mắt Tử Ly lộ vẻ đau đớn: “Ngươi mang bức cũ đến, lại khiến bản vương ngày đêm đau đớn phát điên, đó là thứ ba. Ngươi đi đi, ta sẽ hậu táng cho ngươi”.

Tử Ly giơ tay vuốt mắt cho nàng ta. Chàng ngơ ngẩn nhìn bức họa một lát, cuộn lại cất đi, rồi sai gia nhân: “An táng tử tế, mật báo cho cánh quân ngầm các nơi, nhất định phải tìm được tam tiểu thư trước Lưu Giác. Cẩn thận, không được làm nàng ấy bị thương”.

A La lén trở về nhà, lấy sáo thổi ám hiệu. Tiểu Ngọc vội vàng mở cửa, nàng mệt mỏi rã rời, mặt mũi nhem nhuốc, nhưng miệng cười tươi roi rói: “Xong rồi, thành công rồi, yên trí trốn ở đây, qua nửa năm sẽ dễ đi hơn”.

Ánh mặt trời gay gắt như loãng ra khi có luồng gió sông thổi đến, mồ hôi vừa vã trên người đám thủy binh lập tức bị gió thổi khô. Có binh sĩ vừa làm việc vừa tranh thủ liếc về phía mấy ngôi lều mới dựng vội bên cạnh cổng thành, lại bắt gặp đôi mắt lạnh như băng. Bất giác rùng mình, người nổi da gà. Phía trên một giọng cũng khẽ như thế hỏi: “Thế nào?”, binh sĩ cúi đầu khóa những sợi dây xích với nhau, nói nhỏ: “Làm đi! Tiểu vương gia của phủ An Thanh vương, hôm nay xem chừng muốn giết người”.

Khi dập tắt đám cháy, dựng xong cầu phao đã gần tới giờ Mùi, phía bờ kia vẫn còn hai chiếc thuyền chưa ghép hết, Lưu Giác đứng bật dậy, không nói không rằng, ra khỏi lều nhảy lên ngựa. Hai tổ khác của Ô y kỵ đã trở về phủ, Huyền tổ luôn ở bên Lưu Giác, thấy chủ nhân hành động đều nhất loạt nhảy lên ngựa đi theo. Lưu Giác một mình một ngựa dẫn đầu đi về phía bờ bên kia.

Qua cầu phao, chỉ có duy nhất một đường cái thông đến các trấn phía nam. Cách Phong thành gần nhất là trấn Thuận Hà, tiếp theo là Cốc thành. Ô y kỵ đi sát sau Lưu Giác, trên con đường cái buổi chiều vắng tanh chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa nện gấp trên mặt đường. Vừa gặp con đường nhỏ, Ô y kỵ cử một người rẽ vào tìm kiếm.

Trên đường cái cách thành mười dặm có một quán trà, chủ quán là một cặp vợ chồng già tóc bạc trắng, nắng chiếu xiên, ông lão ngủ gật trên ghế. Đột nhiên nghe tiếng tiếng vó ngựa dồn dập, ông lão mở choàng mắt, một toán kỵ sĩ mình vận áo giáp mềm màu xanh sẫm, bịt mặt lao qua như con lốc, tiếng động vọng lại ầm ầm như sấm. Ông lão sợ hãi, người mềm nhũn, từ trên ghế trượt xuống đất. Phủi bụi trên người, ông chầm chậm đứng dậy, ngoảnh đầu lại loạng choạng quỳ sụp xuống. Một kỵ sĩ bịt mặt cố nén giọng nhẹ nhàng hỏi: “Ông lão, có nhìn thấy một tiểu công tử khôi ngô đánh xe ngựa qua đây không?”.

Ông lão há mồm, nhưng không nói ra được. Kỵ sĩ có vẻ sốt ruột, giọng nói đã có phần lạnh lùng hơn lúc trước: “Lúc sáng sớm, có một công tử khôi ngô đánh xe ngựa đi qua, lão có nhìn thấy không?”.

Ông lão lúc đó mới hoàn hồn, miệng lắp bắp: “Quán của tiểu... tiểu nhân giờ Thìn mới mở, không... không nhìn thấy”.

Kỵ sĩ không hỏi thêm, ném lại chuỗi tiền, vung roi, phi ngựa về hướng trấn Thuận Hà. Khi kỵ sĩ đã đi rất xa, ông lão mới run run hai tay nhặt những đồng tiền vung vãi trên mặt đất, thầm kêu lên: “Ôi chao! Hào phóng quá!”.

Lưu Giác phi thẳng một mạch đến cổng trấn Thuận Hà. Trấn này không lớn, chỉ có hai con đường. Chàng giơ tay ra hiệu, Ô y kỵ tản ra, chia nhau đi vào trong trấn, Lưu Giác cưỡi ngựa đứng ở cổng trấn, lia mắt quan sát xung quanh. Không lâu sau, Huyền tổ bẩm báo: “Người trong trấn không ai nhìn thấy tam tiểu thư, cũng không thấy cỗ xe ngựa nào đi qua”.

Con tuấn mã dường như cảm nhận được sự nóng ruột của chủ, liên tục giậm móng xuống mặt đường một cách bất an. Lưu Giác tính thời gian, có lẽ A La đã đến trấn Thuận Hà từ sáng sớm. Trấn này kẹp giữa hai ngọn núi cao, một con đường cái từ trấn thượng xuyên qua, không còn đường nào có thể đi vòng, ít có khả năng A La đưa mọi người vượt núi. Nếu bọn họ đi về phía nam, nhất định phải qua trấn Thuận Hà. Nhưng, bây giờ họ đi đâu?

Đột nhiên phía sau chàng vang lên một tiếng nổ đanh gọn, trên bầu trời xuất hiện một đám khói màu xanh, tím đang dần tản ra. Đó là tín hiệu báo tin của các toán lính tìm kiếm. Mắt Lưu Giác lóe sáng, quay ngựa lao về phía đó.

Tiến vào khu rừng rậm, chàng nhìn thấy ngay cỗ xe ngựa. Các binh sĩ Huyền tổ quỳ sụp định bẩm báo, Lưu Giác đã đi xuyên qua bọn họ đi đến bên cỗ xe. Trong xe có mấy bộ quần áo vứt lung tung, chàng tiện tay cầm lên một chiếc, bỗng thấy có vết máu, lại nhìn xuống đất, trên đám cỏ cũng có vết máu. Chàng giật mình, đồng tử trong mắt co lại, cảm thấy có bàn tay nào đó lén bóp chặt trái tim. Mặt trắng bệch, người toát mồ hôi lạnh, y phục dính vào cơ thể.

Kỵ sĩ đầu tiên phát hiện ra cỗ xe nói: “Thật là thủ pháp cao minh, xung quanh không hề có dấu tích, tựa hồ người và ngựa biến mất từ chỗ này”.

“Quanh đây có thấy kẻ nào hành tung bất thường không?”.

“Trong ngọn núi to phía tây Thuận Hà có một ổ sơn tặc, nhưng rất ít khi cướp xe ngựa thông thường, thương nhân qua lại chỉ cần cho ít bạc, bọn họ tuyệt đối không làm hại ai”.

Lưu Giác cười gằn: “Ngay gần Phong thành như vậy mà lại có bọn sơn tặc quấy nhiễu? Chuyện này không thể được!”. Chàng linh cảm thấy toán cướp này không đơn giản.

“Đám sơn tặc này rất lạ lùng, hình như có dây dưa với thái tử, cánh quân ngầm trong trấn của Cáp tổ báo tin, chúng thỉnh thoảng mới xuống núi cướp bóc, hầu như chỉ ẩn náu trong núi. Mà những đồ cướp được hoàn toàn không đủ nuôi một toán binh mã đông như vậy, có vẻ như cướp bóc chỉ là để ngụy trang”.

Lưu Giác nhìn ra hai hướng đông tây xa xa của trấn Thuận Hà, bụng nghĩ, trấn Thuận Hà này là cửa ngõ vào Phong thành, nếu chặn đứng con đường yết hầu này, có nghĩa là bóp nghẽn huyết mạch của Phong thành và các thành trì phía nam. Nếu thái tử bố trí điểm chốt này, thật là một nước cờ hay, “Toán sơn tặc này xuất hiện từ bao giờ”.

“Sau tiết Trung thu năm ngoái”.

Sau tiết trung thu, có nghĩa là vào lúc thái tử kết thân với Vương gia. Nghe đồn thái tử phi mưu lược hơn người, lẽ nào nước cờ này là do Vương Yến Hồi sắp đặt? Chàng càng nghĩ càng kinh sợ, đột nhiên nhớ lại tiếng đàn của A La trong buổi đại yến ở Đông cung. Lẽ nào thái tử đã sớm bố trí tai mắt trong tướng phủ, bắt cóc A La? Lòng chàng như lửa đốt. Nếu phá sơn trại có nghĩa là gián tiếp giúp Tử Ly một việc lớn, đồng thời cũng phá vỡ bố trí của Đông cung, nếu không ra tay, sao chàng có thể yên tâm? Ánh mắt của Lưu Giác càng kiên định, môi hơi nhếch, nụ cười hiện ra, bọn chúng đã xưng là sơn tặc, thì ta sẽ coi bọn chúng là sơn tặc để xử lý. Nếu là ván cờ của Tử Ly, hôm nay ta cũng vẫn phá.

“Trước giờ Tý tối nay, ta muốn sơn trại biến mất. Trừ hại cho dân, chia sẻ nỗi lo với vương thượng là bổn phận của thần tử chúng ta”.

“Chúa thượng yên tâm!”.

Đám mây dần dần che lấp vầng trăng, trên ngọn núi to có những bóng đen lố nhố. Dựa vào tin của Cáp tổ thu thập, Huyền tổ đã vạch xong phương án tấn công. Vào giờ Dậu, họ im lìm như những đám mây lặng lẽ lẻn vào bao vây sơn trại.

Lưu Giác quan sát kỹ sơn trại, quả như Cáp tổ báo cáo, hoàn toàn không giống sơn trại bình thường, mà giống một quân doanh nhỏ. Chàng cười khẩy, đây có lẽ là kế hoạch của một người thông thạo binh thư, hiểu rõ cách bài binh bố trận. Đợi đến giờ Hợi, những tiếng hú vang lên giống như tiếng cú trong đêm, tất cả bắt đầu hành động.

Những bóng đen từ trong bóng tối vọt ra, Lưu Giác dẫn đầu đội quân vọt vào trước, binh sĩ Huyền tổ chia nhau vào theo. Bên trong mặc dù có bố trí thế trận, nhưng gặp phải Ô y kỵ thông thạo binh pháp, cả đội đột nhập dễ dàng. Lưu Giác lặng lẽ áp sát đại sảnh, khi chàng thản nhiên bước vào, đám người bên trong thất kinh đến mức làm rơi bát rượu trong tay.

Tên thủ lĩnh kinh hoàng đưa tay dụi mắt nhưng chỉ thấy Lưu Giác cười, nói: “Ta không phải là ma quỷ, ngươi xem, có bóng đây này”.

Lúc đó hắn mới định thần: “Ngươi là ai, lọt vào trại thế nào?”.

“Chuyện đó ngươi không cần biết, ta chỉ hỏi một câu, hôm nay có phải các ngươi đã cướp một cỗ xe ngựa?” .

“Cướp thì sao? Không cướp thì sao?”.

Lưu Giác đứng tại chỗ vung lưỡi kiếm lên như múa, lóe lên những ánh bạc dịu dàng như ánh trăng, chạm vào cơ thể đám lính trong nhà. Mọi người chỉ cảm thấy một luồng khí lạnh ập đến, trong vòm nhà những bông hoa tuyết lạnh lùng, lặng lẽ bay như mưa. Đến khi hoa tuyết chuyển thành màu đỏ, những tấm thân đổ gục, đầu vẫn đang nghĩ, vị Tu La(*) giữa đêm đen mang nụ cười này là ai?

Khi giọt máu cuối cùng từ từ chảy xuống mũi kiếm, đông đặc lại, Lưu Giác cười hỏi: “Trả lời ta!”.

Thủ lĩnh đột nhiên thét lên như xé giọng: “Không! Không có! Chúng ta chỉ phụng mệnh lập trại, không làm hại tính mệnh con người”.

Ô y kỵ âm thầm lọt vào như những con cá, đếm xong các thi thể báo cáo: “Tất cả có một trăm bảy mươi ba tên, chết một trăm bảy mươi hai tên. Không tìm thấy ba người bọn họ”.

Tên thủ lĩnh thét lên: “Ô y kỵ các ngươi là Ô y kỵ của An Thanh vương! Tiểu vương gia, ngươi là Lưu Giác! Ngươi, ngươi đã giết sạch tinh binh của thái úy phủ, giết sạch rồi, ngươi, ngươi định làm phản sao?”.

Lưu Giác cười ha hả đến đau cả bụng: “Tiểu vương truy quét sơn tặc sao lại nói là làm phản? Ha ha!”. Lưỡi kiếm vung lên, chiếc đầu đang kêu đứt phăng, chàng thôi cười ra lệnh: “Thu dọn xong, phóng hỏa, đốt!”.

Quay người ra khỏi phòng lớn, Lưu Giác nhắm mắt, nỗi đau trong lòng không hề giảm nhẹ do trận huyết chiến vừa rồi. Chàng mở mắt, ánh nhìn thâm u như bóng đêm, A La chạy đi đâu? Hay là theo con đường nhỏ đi về phía nam?

“Truyền lệnh, bắt đầu từ trấn Thuận Hà phía nam, vẽ chân dung dán cáo thị, lục soát chặt chẽ, thông báo các châu huyện, nói có người bắt cóc tiểu vương phi của phủ An Thanh vương. Người báo tin được thưởng hai ngàn lạng bạc, cứu được tiểu vương phi thưởng một vạn lạng vàng”.

(*) Tu La bắt nguồn từ tiếng Phạn, Tu La nghĩa là thiên thần. Ngoài ra còn có A Tu La là để chỉ các ác thần (BTV).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 21-5-2013 08:25:03 | Chỉ xem của tác giả
Sáng sớm bầu trời trong xanh, quang đãng. Buổi chầu sớm trong vương cung, Ninh vương mặt gầy gò, đỏ gay do phẫn nộ: “Kẻ nào dám to gan như thế, dám đốt cầu phao?”.

Lý tướng bước ra quỳ phục xuống đất, nước mắt như mưa: “Vương thượng! Không biết kẻ nào đêm qua đã lẻn vảo phủ bắt đi thê tử của thần, phủ An Thanh vương được tin tuy đuổi đến cửa thành phía nam, tặc tử lại đốt cầu phao. Lão phu làm quan nhiều năm, tu nhân tích đức, sao lại gây nên đại họa này!”. Lý tướng làm quan nhiều năm, nhưng cư xử ôn hòa, lễ độ, ngoài việc có người sau lưng gọi ông là cáo già, dĩ hòa vi quý, trong triều ông vẫn được tiếng nhân đức. Nay Lý tướng sầu thảm rơi lệ trước điện rồng, văn võ bá quan ai nấy đều thương cảm, xuýt xoa.

Lưu Giác đứng ra, vén áo choàng quỳ xuống: “Vương thượng, tam tiểu thư của Lý tướng đã hứa gả cho hạ thần. Đêm qua thần lục soát ở ngọn núi lớn phía tây trấn Thuận Hà, phát hiện một toán sơn tặc ẩn náu, cách Phong thành chưa đầy mấy chục dặm mà sơn tặc dám ngang nhiên lập trại. Thần đã đốt sơn trại, nhưng nghe tặc tử nói thất phu nhân và tam tiểu thư bị áp giải về phía nam, xin vương thượng định liệu!”.

Mắt Ninh vương lóe sáng, nụ cười nở trên khóe môi: “Tốt, khanh làm rất tốt! Doãn Chi, bọn sơn tặc này sao có thể dung thứ, để chúng ngang nhiên trước mắt hoàng thành. Quả nhân phong khanh là Bình Nam tướng quân, truy soát các trấn phía nam, vùng phía nam núi nhiều đường sá hiểm trở, gặp sơn tặc quả nhân cho phép khanh tiền trảm hậu tấu! Lý ái khanh chớ phiền lòng, Bình Nam vương nam tiến chuyến này, tất sẽ mang ái nữ bình an trở về”.

Ninh vương nói liền một tràng xong thì hơi thở dốc. Ánh mắt lướt đến Cố tướng và Tử Ly, thấy hai người tỏ vẻ quan tâm, khẽ gật đầu. Dừng một lát, Ninh vương tiếp: “Vương thái úy, Bình Nam tướng quân nam tiến chuyến này, khanh trao cho tướng quân hổ phù lục quân của cánh quân phía nam, từ nay Nam quân sẽ do Bình Nam tướng quân chỉ huy”.

Vương thái úy sững người, lòng còn đang xót xa tiếc đội tinh binh cắm trên núi trá hình sơn tặc bỗng dưng bị giết sạch, giờ Ninh vương lại thẳng thừng tước mất quyền thống lĩnh Nam quân. Nhưng giữa triều, trước bá quan, ông ta sao dám kháng chỉ, đành trình bẩm: “Năm ngoái có tin mật báo nói, Trần quốc ngu xuẩn muốn dấy binh, nay tướng quân Thiên Tường trưởng nam của Cố tướng đang thống lãnh thủy quân Nam quân, tướng quân Vương Liệt thuộc hạ của thần đang cùng Thiên Tường tướng quân vạch định kế sách toàn cục, lúc này thay đổi thống lãnh, sẽ bất lợi cho chiến sự, xin vương thượng xem xét”.

Ninh vương cười ngất: “Ta vẫn nhớ Doãn Chi và Thiên Tường từ nhỏ lớn lên bên nhau, là bằng hữu thân thiết, hai người hợp tác tất không có kẽ hở. Thái úy không cần lo lắng, cứ định như vậy đi. Doãn Chi, ngày mai ngươi khởi hành, lập tức liên hệ với Vương tướng quân. Giám sát chặt chẽ động tĩnh của Trần quốc, đừng quên nhân tiện loại bỏ bọn khấu tặc to gan làm càn”.

Lưu Giác không giấu nổi vui mừng, lớn tiếng đáp: “Thần tuân chỉ, vương thượng anh minh!”.

Ánh mắt của Tử Ly và Cố tướng gặp nhau, cùng lóe cười.

Thái tử mím môi, mặt không biểu cảm.

Sau khi thoái triều, thái tử trở về Đông cung, ngao ngán thở dài: “Phụ hoàng đã bắt đầu bố trí”.

Vương Yến Hồi đang thong thả đọc cuốn sách trong tay, liếc nhìn thái tử: “Binh lực của Ninh quốc, Hữu quân nằm trong tay An Thanh vương, Tả quân lấy Nam quân làm chủ lực. Hôm nay, nửa binh lực đã thuộc về phủ An Thanh vương, nếu cha con Lưu Giác muốn ngôi báu này, e là dễ nhất. An Thanh vương tuổi đã cao, chàng chỉ cần phái Ly Thân vương đến Biên thành phía nam thay thế ông ta, phụ hoàng nhất định chuẩn y”.

“Nhưng nếu vậy chẳng phải đem Hữu quân trao vào tay Tử Ly hay sao?”.

“Binh pháp hiểm chiêu, dùng binh quyền buộc y rời hoàng thành. Chàng là thái tử danh chính ngôn thuận, sau khi phụ hoàng băng hà, thuận theo lẽ chàng sẽ đăng cơ. An Thanh vương bao năm lao tâm khổ tứ thống lãnh Hữu quân. Lúc này để ông ta nghỉ tại gia an hưởng tuổi già, ông ta cũng đâu dễ trao Hữu quân cho Ly Thân vương. Cho dù sau này Ly Thân vương không phục, khởi binh cần vương, cũng còn phải xem ý tứ của An Thanh vương, An Thanh vương cơ mưu vô cùng, sớm đi Biên thành, thái độ mềm mỏng không rõ ràng, Long lệnh trong tay ông ta, ngay phụ hoàng cũng phải kính nể vài phần, không dễ đối phó. Hơn nữa, Cố Thiên Tường cũng chỉ là chỉ huy thủy quân của Nam quân. Nam quân đa phần là người của cha thiếp, Bình Nam tướng quân e cũng không dễ thu phục. Huống hồ, trong tay cha thiếp còn có Đông quân, tuy không bằng Nam quân, nhưng đều là quân tinh nhuệ thực sự. Mà Bắc quân lại ẩn náu trong rừng rậm Hắc sơn, điều này e là ngay cả phụ hoàng cũng không biết”.

Thái tử vừa mừng vừa kinh ngạc: “Ái phi quả nhiên là diệu kế. Ninh quốc có Bắc quân từ khi nào?”.

Vương Yến Hồi cười: “Đó là thân binh của thiếp. Từ nhỏ thiếp đã thích quân sự, cho nên hàng năm xin cha thiếp cấp cho những tinh binh lặt vặt trong quân làm đội quân riêng, lập trại trong rừng rậm Hắc sơn. Bắc quân có hai vạn binh mã, dưới sự điều khiển của thiếp, có thể một địch mười”.

Vương Yến Hồi nghiêm trang nhìn thái tử: “Nghĩa phu thê, hôm nay thiếp nói thật với chàng, từ nay phúc họa cùng chịu, điện hạ chớ phụ lòng Yến Hồi”.

Thái tử thở phào, bao nhiêu phiền não tiêu tan. Đột nhiên hỏi: “Ái phi có thích Lôi Nhi không?”.

Vương Yến Hồi cười thản nhiên: “Tả tướng thiên kim, thiếp đâu dám không thích. Thiếp chẳng qua không thích Lôi Nhi chơi đàn. Nhưng, thiếp rất thích tiểu muội Thanh La, nếu A La là tiểu muội của thiếp thì tốt, nhìn nàng ấy là thiếp thấy vui lòng. Rất muốn sớm tác thành A La với Bình Nam tướng quân, thiếp có thêm tiểu muội, điện hạ cũng có thêm đồng minh”.


A La hoàn toàn không biết triều đình đã có những thay đổi lớn như vậy. Bây giờ nàng là con ốc sên chui trong vỏ, sống thoải mái ung dung trong nhà cùng với thất phu nhân và Tiểu Ngọc. Đồ ăn, đồ dùng trong vòng nửa năm đã chuẩn bị đầy đủ, không cần phải ra khỏi cửa.

Những ngày đầu còn có lính đến gõ cửa, Tiểu Ngọc ra mở, tóc vấn cao kiểu phụ nữ có chồng, váy áo bằng vải thô màu thẫm, mặt vẽ nếp nhăn, già hơn đến chục tuổi. Lính tuần không hỏi nhiều, chỉ giở bức chân dung đối chiếu rồi bỏ đi. A La kéo thất phu nhân vào cửa ngách bí mật đi sang ngôi nhà lớn bên kia, nấp sau hòn giả sơn, đợi lính đi khỏi mới dò dẫm đi ra. Căn nhà lớn chỉ giữ lại bốn người hầu và một quản gia, từ trước A La đã nghiêm cấm những người này không được vào hậu viên. Ngôi nhà lớn không có chủ nhân, hậu viên cũng không ai quét dọn, cửa ngách ngụy trang khéo léo, rất khó nhận ra. Họ đã qua được đợt lục soát ban đầu, về sau cũng không ai đến quấy rầy nữa.

Vậy là A La làm quân bài giấy dạy thất phu nhân và Tiểu Ngọc đánh bài, hàng ngày ăn cơm xong là chơi bài, chơi xong lại ăn, ngủ dậy lại tiếp tục, ba người cứ thế sống rất thoải mái. Chơi chán thì đọc sách. A La thích đọc sách nói về phong tục tập quán các nước, cuốn dư địa chí của Ninh quốc nàng đọc đến nhàu nát. Có lúc thở dài, hồi học đại học chưa bao giờ nàng chăm chỉ như vậy.

Mỗi buổi tối không có việc gì thất phu nhân chong đèn dạy nàng thêu thùa, A La bắt đầu kể chuyện, cổ kim đông tây, phim, tiểu thuyết kịch, truyện cười, chỉ cần còn nhớ, nàng đều kể hết. Thất phu nhân và Tiểu Ngọc say sưa lắng nghe, thường hỏi nàng biết những chuyện đó từ đâu, A La nghĩ đến thế giới hiện đại của mình. Lúc này nàng chẳng có gì cần giữ gìn đối với thất phu nhân và Tiểu Ngọc, nàng hoa chân múa tay thao thao bất tuyệt, hai người tròn mắt nghe, tưởng là đang nghe kể chuyện thần thoại.

Khi ngồi một mình trong sân, A La bất giác nghĩ đến Lưu Giác, không kìm nổi thở dài, không biết chàng ta tức đến thế nào. Nghĩ đến những hồi ức thú vị mỗi khi ở bên chàng ta, lại bật cười. Nàng cũng nghĩ tới Tử Ly, cảm thấy bây giờ ở trong cung có lẽ chàng đang bắt đầu cuộc đấu lâu dài với thái tử. Nhớ đến hai người đó, lòng không khỏi bâng khuâng. Cả hai đều tài mạo xuất chúng, nếu kết hợp làm một, lại không phải là hoàng thân quốc thích, nàng có lẽ cũng thật sự động lòng. Bây giờ, nàng chỉ nghĩ đến cuộc sống tự do sau này, cuộc sống tự mình làm chủ, nên tạm để hai người sang một bên.

Cứ như vậy, năm tháng bình yên trôi qua. A La nói với thất phu nhân và Tiểu Ngọc: “Chúng ta đang ngồi trong nhà ngục do chúng ta dựng nên”.

Thất phu nhân và Tiểu Ngọc không biết có phải do sống âm thầm trong hậu thất tướng phủ đã quen nên không hề thấy buồn chán. Cuối cùng A La nôn nóng không yên, quyết định đi ra ngoài nghe ngóng.

Hôm đó nàng vẫn giả trai, nhưng mặt bôi đen hơn, sải từng bước dài đường hoàng bước vào nhà lớn. Lão quản gia ngây người, vui mừng reo lên: “Thiếu gia đã về”.

Mấy gia nhân lật đật chạy lại, dán mắt nhìn nàng với vẻ vừa lạ lẫm vừa phấn khởi. Nàng thầm nghĩ, thế giới ở đây người dân là tốt nhất, rất thật thà, không so đo tính toán. Nàng cười nói: “Chú Phúc, ta từ miền tây bán xong chuyến hàng trở về. Lâu lắm không đến, chú vất vả rồi”.

Chú Phúc phấn khởi, cười rung râu: “Thiếu gia nói gì vậy. Thiếu gia đi vắng, để cho lão nhiều ngân lượng như vậy, lại còn cho tôi đón cả gia quyến đến chung sống. Chủ nhà như vậy tìm đâu ra”.

A La vừa nói vừa cùng chú Phúc đi vào phòng lớn, khắp nơi gọn gàng sạch sẽ, xem ra ngày nào cũng quét dọn tươm tất, A La rất cảm động. Chú Phúc và người nhà vẫn rất chỉn chu, không vì chủ vắng nhà mà lơ là công việc. A La ngồi vào ghế bành, lập tức có gia nhân mang trà, thái độ cung kính. A La chợt nói: “Ta quên tên các ngươi rồi”.

Cậu bé xấu hổ nói: “Tiểu nhân là Trình Vĩnh, thiếu gia quên rồi sao?”.

Hồi đó A La mua bốn đứa trẻ ở chợ người, chúng đều không cửa không nhà, bị bắt đem bán. Nàng đặt tên cho bốn đứa là “Nhất Lao Vĩnh Dật”(*) đứa nhỏ này tuổi đứng thứ ba tên là Trình Vĩnh, nhìn dán mắt vào nàng. Chú Phúc vỗ đầu nó: “Hư nào, sao lại nhìn thiếu gia chằm chằm như vậy, đi làm đi!”.

A La ngăn chú Phúc, cười: “Nó cũng ít hơn ta hai tuổi, ta mới mười bốn tuổi rưỡi".

Chú Phúc cười híp mắt nhìn A La: “Thiếu gia có ở lại dùng bữa trưa không?”.

“Được, lâu rồi không đến, hôm nay ở lại đây ăn cơm”. A La muốn nghe chú Phúc và gia nhân kể chuyện Phong thành.

Lúc sau, vợ chú Phúc vào bếp làm một mâm cơm thịnh soạn. Chú Phúc tươi cười nhìn A La ăn rất ngon miệng. Nàng vừa ăn vừa hỏi chú Phúc: “Gần đây Phong thành có chuyện lớn gì không?”.

“Nghe nói An Thanh vương từ Biên thành trở về. Chúa thượng hạ chiếu cho ngài về nhà hưởng hậu phúc, lệnh cho Ly Thân vương đi Biên thành thay thế”.

A La gật đầu, cuối cùng Tử Ly đã nắm binh quyền. Nàng làm bộ vô tình hỏi: “Nghe đồn tam tiểu thư của Lý tướng đã hứa gả cho phủ An Thanh vương bị người ta bắt cóc, đã tìm được chưa?”.

“Ôi dào, thiếu gia, cậu không biết chứ, dạo ấy Phong thành căng thẳng lắm. Người ra vào chỉ cần là con gái hoặc tiểu công tử đều bị tra xét, chân dung, cáo thị dán khắp nơi, treo thưởng một vạn lạng vàng cho ai tìm được. Nghe nói bao nhiêu người dẫn con gái đến tướng phủ nói đó là tam tiểu thư, tất cả đều bị đuổi ra. Nghe nói tiểu vương gia của vương phủ trong cơn thịnh nộ đã lục soát hơn ba trăm ngọn núi dọc con đường cái đi về phía nam, quét sạch mấy chục toán sơn tặc lớn nhỏ”.

“Ô, xem ra tiểu vương gia này rất nặng tình với tam tiểu thư tướng phủ”. A La nghe vậy không nén nổi cảm động. Quan tâm đến nàng như vậy, trên đời được mấy người?

Ở đây chú Phúc đúng là trung tâm chuyện phiếm, những chuyện trà dư tửu hậu nghe được rất nhiều, càng nói càng hào hứng: “Nghe đồn, An Thanh vương gia cũng là người trọng tình, ngài chỉ lấy một vương phi. Tiểu vương gia này thề rằng chừng nào chưa tìm thấy tam tiểu thư, chàng quyết không lấy vợ, sống phải thấy người, chết phải thấy xác! Nghe đâu bây giờ công tử ấy đã được phong Bình Nam tướng quân, chính là bình dẹp khấu tặc phương nam, báo thù cho tam tiểu thư!”.

A La cười khanh khách, thầm nghĩ, e là vì một lý do khác, chàng ta mới làm Bình Nam tướng quân, vậy mà còn viện ra cái cớ mùi mẫn như thế. Nếu mình xuất hiện trước mặt, chưa biết chừng chàng ta xẻ thịt lột da mình cũng chưa hả hết giận. Nàng hỏi chú Phúc: “Vậy bây giờ người ta còn tìm tam tiểu thư nữa không?”.

Chú Phúc lắc đầu: “Đã nửa năm rồi, chắc chắn không cứu được rồi. Lý tướng truyền thống thư hương, tam tiểu thư rơi vào tay bọn khấu tặc, không bị giết chắc cũng tự tận”.
A La động lòng. Ăn xong nói với chú Phúc: “Ta đi loanh quanh trong thành, chú bảo Trĩnh Vĩnh đi với ta”.

Thuê một cỗ xe ngựa, A La cùng Trình Vĩnh ra khỏi nhà, đi thẳng đến cổng thành phía nam. Khi qua cổng thành, nàng vén rèm nhìn ra, thấy người qua lại bình thường, lính tuần đứng phân tán, không tra hỏi ai. Nàng bụm môi cười, lòng nở hoa, bảo Trình Vĩnh, “Ta rất tò mò đối với tam tiểu thư Lý phủ, ngươi chạy đi nhìn xem còn có bức hình nào của cô nương ấy không, để ta ngắm một chút”.

Trình Vĩnh cười: “Không còn từ lâu rồi. Nắng mưa đã làm hỏng hết, chẳng có tin tức gì, cũng không thay cái mới. Chắc tại người đến quấy rầy tướng phủ quá nhiều, làm họ chán nản”.

Trở về nhà, A La đưa cho chú Phúc một tờ ngân phiếu, nói: “Chú Phúc à, lần này ta đi phía nam một chuyến, có lẽ sẽ rất lâu, chỗ này biếu chú để chú chi tiêu trong nhà”.

Chú Phúc liếc nhìn: “Thiếu gia, đây là năm ngàn lượng. Đâu có cần nhiều như vậy”.

A La thở dài: “Chú Phúc à, chú cũng có tuổi rồi, nói thật với chú, ta đi chuyến này có lẽ sẽ không quay lại. Nếu hai năm sau không thấy ta quay về, chú cứ bán ngôi nhà đi, ngân lượng coi như ta biếu chú an dưỡng tuổi già”.

Chú Phúc đỏ mắt: “Thiếu gia, cậu tốt quá. Vợ chồng lão không con cái, ở đây cũng chẳng làm được gì cho cậu. Ngôi nhà lão giữ lại, sau này cậu trở về Phong thành thì còn có chỗ dừng chân. Chỗ ngân lượng này lão chi tiêu tằn tiện là đủ rồi. Chỉ hiềm nỗi, A Nhất, A Lao, A Vĩnh, A Dật chúng nó không có nhà, cậu đừng bán chúng đi”.

A La lại cười: “Chú Phúc à, sao ta lại bán chúng. Giữ chúng ở lại đây, nếu ta không quay lại, chú cưới vợ cho chúng, dạy chúng buôn bán làm ăn. Có lẽ sau này, ta sẽ còn trở lại thăm chúng”.

Chú Phúc nói dứt khoát: “Thiếu gia, chúng tôi chờ thiếu gia trở về. Mặc dù cậu không về nhiều, cũng không ở đây bao giờ, nhưng đây vẫn là nhà của cậu”.

A La cảm thấy chú Phúc và mấy gia nhân thực ra là người tốt, nếu Phong thành không nguy hiểm, nàng đã ở lại đây. Nàng cười nhận lời, lúc đi còn biếu chú Phúc một tờ ngân phiếu lớn, tính tiền mang theo người, vẫn còn hơn hai vạn lạng bạc. Bây giờ phải nhanh chóng đến thành Lâm Nam tìm vú Trương, sau này có cơ hội sẽ rời Ninh quốc, nấn ná ở đây cũng đủ rồi.

Ngày hôm sau, A La, thất phu nhân, Tiểu Ngọc thuê một cỗ xe ngựa rời khỏi Phong thành. Nàng biết Lưu Giác đang ở miền nam, nhưng không ngờ lúc này chàng đang ở thành Lâm Nam nơi nàng sắp đến.

Ra khỏi Phong thành, ba người thở phào nhẹ nhõm, men theo đường cái đi về phía trước. A La vẫn giả trai, ba người vận quần áo vải bố bình thường, giống một gia đình ba nhân khẩu. A La nói đùa Tiểu Ngọc: “Từ nay gọi ta là tướng công! Ngươi là tiểu nương tử của ta”.

Tiểu Ngọc ngoan ngoãn đáp: “Vâng, tiểu tướng công”. A La nghe vậy cười khanh khách.

Giữa Phong thành và Lâm Nam thành có mười đô thành, do nhiều năm không có chiến loạn, lại thêm Lưu Giác dẹp hết khấu tặc trên đường, dân chúng chất phác, trên đường không xảy ra chuyện gì.

Ba người cũng không đến thẳng thành Lâm Nam, đến mỗi thành phố đều dừng lại nghỉ mười ngày, nửa tháng, có lúc ở hẳn mấy tháng, thưởng thức phong cảnh, món ngon, vào đình chùa thắp hương, xem bơi thuyền, chưa kịp đến Lâm Nam thời gian đã mất tới hai năm.

A La đã cao hơn hẳn một cái đầu, vẫn chuyên cần luyện võ karate, do thường xuyên luyện tập, ngoài đầu óc minh mẫn, cơ thể cũng rất săn chắc dẻo dai. Nàng còn dạy thất phu nhân và Tiểu Ngọc tập Yoga, khiến họ thích ăn chay, không thích thịt cá, A La cười: “May quá, tiết kiệm khối tiền!”.

Bây giờ A La đã mười bảy tuổi, hết vẻ vụng về con trẻ. Hai năm du ngoạn bên ngoài, nước da nàng vốn trắng xanh, bây giờ trở nên khỏe mạnh sáng bóng như ngọc. Khi vận nam trang trông nàng tuấn tú khôi ngô, hào hoa khác thường, luôn khiến Tiểu Ngọc ngây người, lao đến ôm chầm kêu lên: “Tiểu tướng công của thiếp”.

A La hỏi thất phu nhân: “Mẹ à, bây giờ trông con có giống tam tiểu thư của tướng phủ không?”.

Thất phu nhân cười: “Giống, mắt không thay đổi, nhưng cao hơn nhiều, trở thành người lớn rồi”.

A La vui lắm, dự định sau khi đến thành Lâm Nam sẽ bắt đầu thể hiện các ngón võ dưới cái tên Trình công tử.

(*) “Nhất Lao Vĩnh Dật”: Thành ngữ, có nghĩa là một lần vất vả an nhàn mãi mãi (ND).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 21-5-2013 08:26:09 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 15



Từ đại lục này đi thẳng phía tây, tận cùng là những dãy núi băng tuyết trùng điệp mênh mông. Không ai biết bên kia núi tuyết là gì, cũng chưa ai đến đó. Tuyết tan thành những dòng chảy lớn, dần dần hội tụ thành sông, từ Khởi quốc phía tây, qua Hạ quốc phía tây nam, đến Trần quốc và Ninh quốc, tại vùng giáp ranh giữa Ninh quốc và Trần quốc, dòng sông trở thành biên giới tự nhiên của hai nước, lưu vực rất rộng, đến hai trăm trượng có dư. Thành Lâm Nam lưng dựa vào núi, tường thành quanh co uốn lượn trên núi, bên trên có những chốt hiểm yếu, trông giống như con rồng khổng lồ ôm ấp bảo vệ vững chắc thành trì bên dưới.

Mười lăm đô thành phía đông của thành Lâm Nam xuôi theo hướng Phong thành đều là bình nguyên, vẫn là kho lương thực của Ninh quốc, các nhánh của sông Hán Thủy chảy vào bình nguyên, bồi đắp phù sa cho nơi này trở nên màu mỡ, lại thêm khí hậu ôn hòa, sản vật phong phú, tám phần mười lương thực rau xanh của Ninh quốc đều từ nơi này mà ra. Nếu phá được thành Lâm Nam, có thể tiến thẳng đến mười lăm thành trì kia, tổn thương nghiêm trọng nguyên khí của Ninh quốc. Cho nên tầm quan trọng của thành Lâm Nam không thua kém Biên thành phía tây.

Thành Lâm Nam phía nam, Biên thành phía tây, hai thành trì này là cửa ngõ trấn giữ phía tây và nam của Ninh quốc, giữ vững hai thành này mới đảm bảo an ninh của Ninh quốc. Những vách núi phía đông của thành Lâm Nam tạo nên vịnh cảng tự nhiên, doanh trại thủy quân của Nam quân đồn trú tại đây, cách cổng thành Lâm Nam năm dặm đường thủy, tiến có thể công, lui có thể thủ, lại thêm vị trí hiểm yếu của thành Lâm Nam, đây cũng là nguyên nhân khiến ba nước dọc sông Hán Thủy xưa nay chưa bao giờ dám mạo hiểm vuốt râu hùm Ninh quốc.

Trăng non mới nhú, sao thưa thớt, mây quang đãng, dòng Hán Thủy lặng lẽ chảy về đông. Một đội lính gác bước chân đều tăm tắp, trao đổi khẩu lệnh tiến hành đổi gác. Tại trạm gác trên tường phía tây cổng thành phía nam, có một vị tướng quân trẻ tuổi đang đứng, quân phục màu đen, áo giáp mềm bó sát thân hình cao lớn thanh tú của chàng, ngũ quan như tạc, đôi mắt lạnh, sáng như sao, cặp môi rõ nét mím lại thành nụ cười nhạt. Chàng đưa mắt nhìn về phía nam sông Hán Thủy, ánh mắt như vượt qua mặt sông rộng, dừng lại ở bờ bên kia. Dưới ánh trăng, phía bờ nam có những bóng thuyền sừng sững. Tay chàng vịn vào bờ tường, gõ nhẹ, sóng ào ạt vỗ dưới chân tường, vỗ vào tâm trí chàng.

Ba năm nay Ninh vương ngày càng già yếu, tin báo cho biết người đã nghỉ triều một tháng, việc triều chính do thái tử lo liệu, cục diện Phong thành trở nên căng thẳng. Mà Trần quốc nhiều năm khổ luyện thủy binh, có lẽ là đã chờ đợi thời cơ rất lâu. Khi Ly Thân vương và thái tử bắt đầu cuộc chiến tranh giành vương vị, Ninh quốc có thể phải đối điện với nguy cơ ngoại xâm và nội chiến triền miên.

Không xa, phía sau chàng có mấy người lính hộ vệ vận áo giáp, bịt mặt khẽ bẩm: “Chúa thượng, đêm đã khuya, mời chúa thượng đi nghỉ”.

Nếu là trước đây, chàng sẽ lạnh lùng liếc mắt không thèm để ý, nhưng hai năm nay. chàng khẽ cau mày, với chàng hỉ nộ đã sớm tiêu tan không còn dấu vết, lại nhìn vì sao sáng nhất bên cạnh vầng trăng, trong đầu lại hiện lên hình ảnh một đôi mắt, ánh mắt chàng lại trở nên dịu dàng. Ba năm rồi, A La, nàng sống thế nào?

Hồi đó trong cơn thịnh nộ chàng đã ra lệnh đốt sạch sơn trại ở vùng núi phía tây của họ Vương, lại được chỉ lệnh bình dẹp phương nam, chàng nhất lộ thẳng tiến, truy lùng khắp mọi ngả đường phía nam, nhưng không hề tìm ra dấu vết A La. Tiếp đó, Ly Thân vương Lưu Phi tiếp quản Hữu quân ở Biên thành, thay thế An Thanh vương được lệnh trở về Phong thành dưỡng lão. An Thanh vương mật lệnh cho Lưu Giác, tiếp quản Nam quân, khi Ninh vương chưa băng hà tuyệt đối không được trở về Phong thành.

Lưu Giác bất lực trong tìm kiếm A La, lại không phụ kỳ vọng của phụ thân. Ba năm nay, càng kiên định, quyết đoán mạnh tay chỉnh đốn Nam quân, nửa thu phục nửa thanh trừng, dần dần loại bỏ thế lực của Vương thái úy, nắm chắc Nam quân trong tay, khiến trên dưới một lòng, vững như thép.

Nam quân lúc đầu không phục vị hoàng thân tiểu vương gia này, thoạt nhìn chàng ngoại hình tuấn lãm, vẻ chơi bời phong lưu, nghe đồn do hôn thê bị bắt cóc mới được giao quyền Bình Nam tướng quân, lòng bội phần không phục, thầm rủa xả, một đại quân tinh binh là thế nay lại trở thành sĩ tốt để báo tư thù. Đến khi Lưu Giác truy quét ba trăm ngọn núi giữa mười lăm thành trì từ trấn Thuận Hà đến Cốc thành phía nam, quét sạch mười mấy sơn trại, khiến cho miền nam Ninh quốc sạch bóng khấu tặc, kế sách chu toàn tỉ mỉ, thủ pháp quyết liệt mau lẹ, kiếm thuật tàn khốc vô tình mới khiến cho binh sĩ thần phục. Tiếp theo, thực hiện quân kỷ nghiêm minh, từ đó Nam quân mới trên dưới thuận lòng.

Lưu Giác vẫn đứng ở chốt canh, mặc cho gió sông thổi. Dạo đó, truy tìm các ngả phía nam, không tìm thấy dấu vết của A La, chàng suy đi nghĩ lại, cuối cùng khẳng định A La đã trở về Phong thành. Cáp tổ báo tin, Tử Ly phụng mệnh tây tiến, không thấy A La đi theo, phủ Ly Thân vương và phủ thái tử cũng không thấy tăm tích. Lưu Giác cười, thầm nghĩ, A La nhất định đang ẩn náu nơi nào đó ở Phong thành. Cục thế chưa rõ, tìm thấy cũng không phải là chuyện hay, nếu cưới A La, để nàng lại trong vương phủ ở Phong thành chàng sẽ rất nhớ nhung. Bèn lệnh cho Cáp tổ, khi phát hiện được A La, chỉ cần sai cao thủ bí mật bảo vệ, không cần tiếp cận, tránh khiến nàng kinh động.

Lưu Giác kỳ thực rất khâm phục A La, tuổi nhỏ như vậy mà có thể đưa mẫu thân và nữ tỳ bỏ trốn, lại còn dám phóng hỏa đốt cầu phao, kế hoạch chu toàn, che mắt được bao nhiêu người.

Nhưng ba năm nay không thấy tin tức của nàng, Lưu Giác hơi giận, Phong thành lớn đến đâu? Mỗi khi Cáp tổ bẩm báo không có tin gì, chàng lại sầu muộn vô chừng, rồi lại đắc ý A La có thế trốn lâu như vậy mà không để lộ dấu vết, chàng bỗng càng thêm yêu thích nàng. Mãi đến ba tháng trước, Cáp tổ báo về, có một đôi vợ chồng trẻ cùng bà mẹ đang đi về phía thành Lâm Nam, bà mẹ có ngoại hình rất giống thất phu nhân của tướng phủ, nghi là A La, lúc đó chàng mới cả mừng.

Lưu Anh nhớ rõ, hôm đó chúa thượng nhận được tin báo của Cáp tổ lại uống rất say, một mình uống rượu, múa kiếm trong hậu viên, cười ngất, nói to: “Tử Ly, huynh nói đúng lắm, A La đúng là bảo ngọc. Nàng ấy đến rồi, đến Lâm Nam rồi!”. Đây là lần đầu tiên trong đời, Lưu Anh thấy chủ nhân uống say. Y cố cõng chàng về, Lưu Giác nằm trên giường vẫn còn cười, nhắm mắt, kéo áo Lưu Anh, luôn miệng hỏi: “Lưu Anh, ngươi nói xem, A La gặp ta liệu có bỏ chạy không?”.

Lưu Anh mắt đỏ hoe. Lúc sáu tuổi, rét cóng suýt chết ở ngoài đường, một bát canh thịt đã khiến y tỉnh lại, mở mắt nhìn thấy Lưu Giác, khuôn mặt đẹp như tạc, tươi hồng như thoa phấn chớp mắt nhìn, tươi cười: “Ngươi tỉnh rồi à? Sau này đi theo ta nhé, nhất định không để ngươi bị đói”.

Lúc đó Lưu Giác mới năm tuổi. Từ đó Lưu Anh luôn ở bên chàng như hình với bóng, lớn lên cai quản Thanh tổ của Ô y kỵ.

Lưu Giác say dường như lại trở về thuở nhỏ, lúc đó, khi bị ốm chàng cũng thường kéo áo Lưu Anh miệng hỏi không ngừng: “Ta nằm mơ thấy mẫu thân, bao giờ phụ thân mới về?”. Lưu Anh nhìn thấy nụ cười buồn ẩn trên khuôn mặt thanh tú của chủ nhân, thầm thề với chính mình, tam tiểu thư kia nếu đã đến thì đừng nghĩ có thể bỏ chạy, mình sẽ tìm mọi cách giữ nàng ta bên cạnh chúa thượng. Lưu Anh ngẩng đầu nhìn tấm lưng thẳng tắp như thanh gươm trong gió lạnh, thử khuyên lần nữa: “Chúa thượng, gió đông rất lạnh, cẩn thận bị cảm, quay về thôi”.

Lưu Giác quay người: “Đi thôi, về uống chén rượu nóng, trời đúng là lạnh quá”.


Từ xa đã nhìn thấy mái cổng cao vút của thành Lâm Nam, Tiểu Ngọc vui sướng reo lên: “Đến rồi, đến Lâm Nam rồi, không biết vú Trương có khỏe không? Gặp thất phu nhân không biết vú sẽ mừng đến mức nào nhỉ?”.

Thất phu nhân cười dịu dàng. Từ khi rời tướng phủ, lòng bà cũng dần trở nên vui vẻ. Hai năm du ngoạn vừa rồi, được ngắm nhìn thế giới bên ngoài muôn màu như vậy, coi như bà đã sống không uổng.

“Tiểu nương tử à, nàng càng ngày càng hoạt bát đấy, ngó nghiêng như thế còn ra thể thống gì, hãy để tướng công nàng tận mắt nhìn nào!”. Rèm xe vừa vén lên, khuôn mặt như tạc bằng ngọc của A La hiện ra. Cử chỉ nàng phóng khoáng đĩnh đạc, chỉ có đôi mắt vẫn lóng lánh như thủy tinh, linh lợi khác thường.

Nhìn thấy thành Lâm Nam sừng sững nguy nga giữa lưng chừng núi, nàng buột miệng nói: “Dựa núi cận sông, địa linh nhân kiệt, thành phố du lịch hạng nhất”.

Thất phu nhân nhìn nàng vẻ trách móc: “Suốt dọc đường ăn ăn uống uống, vung tay quá trán, bây giờ chỉ còn mấy ngàn lạng bạc, còn không mau đi kiếm tiền nuôi nhà, lại chỉ mải chơi”.

A La cười, giơ tay đón bắt những bông hoa tuyết bay lất phất, kéo dài giọng than thở: “Gió ơi, tuyết ơi, Tam Nhi số khổ, phải còng lưng kiếm tiền nuôi cả nhà”.

Tiểu Ngọc và thất phu nhân đã nghe A La kể chuyện Hỷ Nhi và Dương Bạch Lao, lúc đầu chịu bao nhiêu khổ cực, về sau khổ tận cam lai, được hưởng hạnh phúc sung sướng. Khi kể chuyện đó A La bắt chước Dương Bạch Lao vừa nhảy múa vừa lấy sợi dây thừng màu hồng định quấn đầu cho Tiểu Ngọc. Bây giờ nghe nàng uốn giọng như vậy thất phu nhân lại thấy buồn cười mắng yêu A La, trong xe tiếng cười nói đùa vui ồn ào.

Xe đến gần cổng thành thì bị chặn lại, A La thoạt đầu cũng thấy kỳ lạ, nhưng nghĩ đây đã là Lâm Nam gần biên giới Trần quốc, kiểm soát người ra vào thành là đương nhiên, nên cũng thấy bình thường. Nàng đường hoàng nhảy xuống xe, chắp tay nói với lính gác: “Tướng gia, tại hạ là Trình Tinh ở Phong thành cùng hiền nội và gia mẫu về nam thăm người thân, xin cho phép”.

Lính gác vốn mặt sắt, nhưng nhìn thấy vị công tử khôi ngô, nhã nhặn lại hiểu lễ nghĩa, sắc mặt cũng dịu đi nhiều, liền đáp: “Thượng quan có lệnh, phàm là khách vào thành đều phải lưu bút vào sổ, công tử cứ làm theo quan lệ là được”.

A La vung bút, ghi quê quán danh tính, sau đó ba người thuận lợi vào thành. Lòng cười thầm, Phong thành Trình phủ, cho dù đi tra xét cũng không phải là giả mạo.

Có rất đông khách thập phương và thương nhân đi đường thủy đến thành Lâm Nam, trong thành đường sá bằng phẳng, hàng quán san sát, cư dân đông đúc, phồn thịnh náo nhiệt. A La ngồi trong xe trầm tư quan sát. Mấy năm trước nàng đã giao cho vú Trương món tiền lớn, để vú cùng người con trai đến thành Lâm Nam mua nhà, mở quán rượu nhỏ làm kế sinh nhai. Không biết ba người cùng đến thế này, quán rượu ấy liệu có đủ nuôi sống cả nhà hay không.

Rồi nàng lại cười, chuyện đó để đến nơi hẵng hay, bây giờ phải tìm được Thường Lạc tửu quán đã. Theo địa chỉ của vú Trương, xe ngựa rẽ vào một con đường nhỏ, men theo con dốc đi lên, không lâu sau đã nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, một lá phướn màu xanh cắm trên cành cây, trên có hàng chữ Thường Lạc tửu quán. Phu ngựa dừng xe, A La nhảy xuống gọi: “Vú Trương, vú Trương, chúng ta đến rồi!”.

Vú Trương ngồi sau quầy rượu, tóc đã điểm bạc, nhưng đầu óc vẫn tinh nhanh. Vú hồ nghi vểnh tai nghe, sau khi xác định, mặt vụt tươi cười mừng rỡ, từ trong quầy chạy ra. Vừa tới cửa đã thấy một vị công tử khôi ngô, dáng cao ráo đĩnh đạc, ánh mắt tinh nghịch nhìn mình mỉm cười, thất phu nhân được Tiểu Ngọc dìu xuống xe. Ngơ ngác định thần, vú Trương xúc động, mắt đỏ hoe nghẹn ngào: “Phu nhân!”.

Thường Lạc tửu quán tọa lạc giữa lưng chừng núi, lúc này trời vẫn còn sớm, trong quán chưa có khách. Vú Trương vội vàng buông mành, đóng cửa quán, lên tiếng gọi con trai và con dâu.

A La thấy con trai, con dâu vú Trương mặt mũi đều thật thà chất phác, cô con dâu tay dắt một đứa bé trai ba tuổi, mặt mũi có vẻ bướng bỉnh, nàng không nén nổi nói đùa: “Hổ Tử phải không? Sao lớn lên trông như tiểu hổ thế này?”.

Hổ Tử ba tuổi, sợ người lạ, trốn sau lưng mẹ, thò cái đầu bé nhỏ ra, nói: “Thiếu gia là tam tiểu thư thông minh mưu mẹo mà bà nội hay kể phải không? Sao chẳng giống tẹo nào?".

Mọi người cười ồ, A La cũng cười, giơ tay rút cái trâm trong búi tóc, mái tóc dài xổ tung, vẻ con gái lồ lộ. Hổ Tử mắt sáng lên: “A, tiên nữ tỷ tỷ!”.

Mọi người lại ồ lên cười, vú Trương vội đưa ba người vào hậu đường. Ngôi nhà này có ba đình viện riêng rẽ, phía trước là tửu quán, ở giữa là chỗ ở của gia đình vú Trương, xuyên qua vòm cổng hình bán nguyệt lại là một tiểu viện xinh xắn. Vú Trương cười: “Ngày đêm mong mỏi, phu nhân và tiểu thư có hài lòng không?”.

Thất phu nhân chắp tay vái vú Trương: “Mấy năm nay vất vả cho vú quá, đã chuẩn bị chu toàn cho mẹ con Ngọc Đường”.

Vú Trương hốt hoảng đỡ thất phu nhân: “Không dám, phu nhân đã cứu già. Năm xưa nếu không có phu nhân bỏ tiền cứu giúp, già đâu có con cháu nhà cửa đề huề như bây giờ.”.

A La xem xét tỉ mỉ xung quanh, nghĩ đến thằng bé Hổ Tử đáng yêu, trầm tư hồi lâu mới nói: “Vú Trương à, hôm nay chúng ta ở lại đây, ngày mai sẽ tìm chỗ khác. Vú thông thạo Lâm Nam, ngày mai đi tìm giúp ta chỗ mới”.

Vú Trương ngạc nhiên: “Tiểu thư, sao không ở cùng chúng tôi? Tiểu thư chê chỗ này hay sao?”.

A La cười: “Tìm một chỗ khác, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, sẽ không liên lụy cả nhà, ở riêng rẽ mới dễ ứng phó. Ta có rỗi đến tửu quán uống rượu cũng không gây nghi ngờ. Vú nhớ nhé, lần sau chúng tôi đến chỉ là khách bình thường”.

Tối hôm đó, thất phu nhân và vú Trương mấy năm không gặp, giờ được dịp dốc bầu tâm sự. Vú Trương nghe kể, ngậm ngùi, thở dài, lại rơi bao nhiêu nước mắt.

Lưu Giác được tin báo A La đã đến thành Lâm Nam, bề ngoài chàng tỏ ra bình thường, nhưng trong lòng dậy sóng. Lưu Anh không nén nổi, hỏi: “Có cần thuộc hạ đi bắt về không?”.

Bắt về có nghĩa lý gì? Lưu Giác nén nỗi khao khát được gặp mặt nàng, bình thản dặn dò: “Lệnh cho Minh tổ lựa ra mấy cao thủ đi theo bảo vệ nàng ấy, báo cho đội quân ngầm ở cổng thành, nếu thấy nàng ấy một mình ra khỏi thành, chỉ cần bí mật đi theo là được, nhưng không được để nàng ấy đưa cả mẹ cùng đi. Vào thành Lâm Nam nàng ấy còn có thể chạy đi đâu?”.

Lưu Giác thầm nghĩ, ta rất muốn xem rút cục nàng sẽ làm gì ở đây? Nghĩ đến sự mưu trí của A La, lòng chàng lại xao xuyến, môi thoáng nụ cười.

Đã vào giữa đông. Những bông tuyết bay lả tả trên bầu trời thành Lâm Nam, tuyết tan trên mặt đường ẩm ướt, những tầng khí lạnh ngắt trong trẻo bao phủ thành phố, hít thở một hơi, khí lạnh đã xuyên thấu phủ tạng. A La vận chiếc áo bông màu xanh nhạt, mỉm cười tự tin, chậm rãi bước từng bậc đi xuống, dạo chơi trong thành. Những hàng quán lớn nhỏ san sát, chất đầy sản vật phong phú, đồ da của Khởi quốc phía tây, đặc sản của Hạ quốc phía tây nam, đồ tơ lụa của Trần quốc phía nam đều có thể tìm được ở đây, những tửu lầu mái cong sang trọng rải rác xen lẫn những quán rượu nhỏ bình thường. A La thầm đánh giá, du lịch và giao thương đã khiến nơi đây phát triển thịnh vượng, hôm nay ra phố xem lại mới nhận thấy thành Lâm Nam chính là một thương cảng và thành phố du lịch lớn nhất của Ninh quốc.

Sự náo nhiệt của Lâm Nam có một phong vị khác so với Phong thành. Trong thành khắp nơi đều có thể gặp những thương khách và phu bốc vác nói đủ các kiểu khẩu âm. Do đây là thương cảng lớn, mặc dù đang giữa tiết đông hàn, thuyền buôn vẫn qua lại tấp nập. Chỉ có những lính tuần khoác kiếm đi lại khắp nơi mới nhắc người ta nhớ ra đây là một trấn biên ải trọng yếu.

Nàng thong thả đi dạo đến tận cổng thành phía nam, đứng trên bến cảng nhìn ngắm thuyền buôn đang neo trên bến. Thuyền lớn có hai tầng lầu, dài tới hơn hai chục trượng, đã hạ buồm, những cột buồm sừng sững như cây rừng. A La thú vị nghĩ thầm, một chiếc chuyền lớn như thế, phải bao nhiêu người mới chèo được, đi đến gần quan sát, nhìn vào khoang đáy qua những ô cửa hình vuông. Hình dung ra cảnh tượng tráng lệ khi thuyền khởi động, hàng trăm mái chèo nhất tề vung lên đều tăm tắp, bỗng bật cười khoái trá. Từ quán rượu của vú Trương đi ra phố, dạo chơi trên bến cảng cả nửa ngày, ngắm nghía phong cảnh xem chừng rất hay, nhưng kiếm tiền như thế nào nàng vẫn chưa nghĩ ra. Đây là thương cảng sầm uất, mấy nước giao thương trên sông Hán Thủy, nhưng buôn bán A La nghĩ bây giờ mình chưa làm được. Nàng không muốn mở quán ăn kiểu Tố tâm trai làm bà chủ, thực khách qua lại phức tạp, không cẩn thận có khi lại xảy ra chuyện, thậm chí mở phường ca hát vui chơi cũng không khả quan. Nàng còn nhớ, những vũ trường hiện đại đều phải có chỗ dựa, những chốn phong nguyệt của Ninh quốc đều phải lập hồ sơ đi báo quan phủ lập sổ thuế, nàng đương nhiên không thể lập hồ sơ. Huống hồ nhân khẩu ở Lâm Nam phức tạp, nhiều binh lính, có câu “tú tài gặp lính, có lý cũng bằng không”, binh lính làm gì vào những ngày nghỉ? Đương nhiên sẽ đến những tụ điểm giải trí tiêu khiển, nàng không muốn mình phục vụ chẳng may có gì sơ suất, làm phật lòng vị khách nào đó mà bị đập tiệm.

Thong thả trở về nội thành, A La chầm chậm thả bước vừa đi vừa suy nghĩ, suy tính mọi khả năng. Chợt ngẩng đầu nhìn thấy trên ngọn cây đa phía trước cắm một lá cờ phướn, trên viết “Ỷ La tửu quán”, bụng nghĩ cái tên thật là hay, nhìn thấy hai chữ tửu quán, lại thấy bụng đói cồn cào. Nàng nuốt nước bọt, thầm nghĩ mình chưa thưởng thức món ăn ngoài phố của thành Lâm Nam, vậy là rảo bước đến đó.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 21-5-2013 08:27:13 | Chỉ xem của tác giả
Tửu quán dựng bên một cây đa to, một dòng thác nhỏ từ sườn núi phía sau chảy xuống, quán dựng theo kiểu nhà sàn, tầng trệt bỏ không, chỉ gồm những cây cột chèn chắc vào vách núi, là kiểu kiến trúc nhà sàn bằng gỗ điển hình ở miền núi. Bên ngoài có hành lang, cửa sổ chạm trổ hoa văn có rèm che bằng giấy lụa, cổ kính giản dị mà trang nhã. Nơi sườn núi có ngọn thác trút xuống cây cối xanh um, lá đa non bóng như được tưới nước, che khuất một nửa quán, vừa kín đáo mà ngồi bên trong lại có thể nhìn thấy cảnh phố phường bên ngoài. A La vừa nhìn đã thấy thích chỗ này.

Những tia nước nhỏ bắn vào áo bông của nàng, nụ cười nở trên môi, A La bước vào. Vừa vén bức rèm vải chắn gió nặng trịch, một làn hơi ấm sực phả ra. Bên trong có lò sưởi, chủ nhà còn cẩn thận ném vào lửa mấy miếng vỏ quýt khô, hương thoang thoảng rất dễ chịu. Trên tường treo mấy bức tranh chữ rải rác, ở một góc lại còn đặt cây đàn, bố trí rất trang nhã, A La hơi hiếu kỳ, không biết chủ quán là người thế nào.

Có lẽ đã quá ngọ, trong quán chỉ có hai, ba bàn có khách. Nàng đi thẳng đến góc quán có cửa sổ ngồi xuống, lát sau một giọng nói thanh thanh nhẹ nhàng vang lên: “Công tử dùng trà hay dùng rượu?”.

A La ngây người ngẩng đầu, một tú nữ tuổi chừng đôi mươi đang tươi cười nhìn nàng.
“Quán này là của cô nương ư?”.

“Vâng, chính là của Doanh Tú”.

Doanh Tú? A La cười: “Quả là một cái tên đẹp”. Lòng đã thầm có cảm tình với nàng chủ quán, nụ cười tự dưng cũng mặn mà hơn: “Tại hạ lần đầu đến Lâm Nam, có thể phiền Doanh Tú cô nương giới thiệu các món ở đây? Cho vài món đặc sắc nhất, có hoàng tửu chứ? Có thể hâm nóng giúp không?”.

Tim Doanh Tú xốn xang, vị công tử ngồi đây, tuy nói năng nhỏ nhẹ nhưng ngữ khí có gì khiến người khác không thể chối từ, từ lúc nào thành Lâm Nam xuất hiện một vị công tử hào hoa như vậy? So với tảng băng bên cạnh, nụ cười của vị công tử này quả là như hoa mùa xuân, nàng bất giác liếc nhìn sang bên cạnh.

Thấy Doanh Tú thoáng ngây người, A La cũng liếc sang bên cạnh, thầm reo, sao kỳ lạ thế. Người ta nói, long phượng hội tụ hết ở năm vị công tử Phong thành, thành Lâm Nam cũng không kém, đi loanh quanh mấy tửu quán, đã gặp ngay một chàng phong lưu không kém công tử Phong thành.

Dường như cảm nhận được ánh mắt phía bên này, người đó hơi nghiêng đầu, liếc nhìn Doanh Tú, Doanh Tú hơi đỏ mặt, lại khẽ lắc đầu. Người đó lại nhìn A La, cũng hơi ngây người, một công tử có khuôn mặt như tạc bằng ngọc!

Ánh mắt A La và người đó gặp nhau, cảm thấy như có làn khí lạnh phả ra. Nàng khẽ cau mày, tươi cười nói với Doanh Tú: “Bà chủ chắc nghe chưa rõ? Cho xin ba món và một bầu rượu hâm nóng”.

Doanh Tú lại đỏ mặt, vội nói: “Xin công tử đợi chút, Doanh Tú đi chuẩn bị”.

Nàng rảo bước đi về phía quầy, miệng nhanh nhẹn sai bảo người làm. A La bất giác cảm thấy đắc ý, người đẹp kể cũng tốt thật, vừa vào quán ăn đã khiến chủ quán đích thân phục vụ, về nhà mình phải khoe với Tiểu Ngọc mới được.

Lát sau Doanh Tú đón chiếc khay từ tay người phụ việc, đích thân bê ra, nhẹ nhàng nhấc từng đĩa đặt xuống bàn, kèm một bầu rượu hâm nóng, khẽ nói: “Đây là măng đông xào, thịt thỏ hầm, cá sông rán. Đều là đặc sản địa phương, rượu do nhà hàng tự ủ, gọi là Ly nhân túy, mùa đông mới có, sau khi hâm nóng vị càng đậm, dư vị ngấm lâu, công tử chớ tham uống nhiều”.

A La rất đỗi kinh ngạc, Ỷ La tửu quán này, xem ra mình đã không vào nhầm quán, nàng bỗng càng thêm hứng thú đối với Doanh Tú, hỏi: “Bà chủ nếu không bận có thể giới thiệu với tại hạ cái hay của đặc sản bản địa không?”.

Mắt Doanh Tú ánh lên nụ cười, ánh mắt Lại vô tình đánh sang bàn bên cạnh, nàng mỉm cười: “Chỉ e quấy rầy nhã hứng của công tử”.

“Quý công tử đây đã mời, lại lần đầu tới thành Lâm Nam, nếu không chê, xin cho phép tại hạ hầu chuyện công tử”.

A La liếc nhìn, anh chàng đẹp trai lạnh như băng xen lời. Lại lướt nhìn khuôn mặt ửng hồng của Doanh Tú, thầm nghĩ, xem ra bà chủ này có tình ý với vị công tử mặt lạnh như băng kia, chỉ có điều không biết người này xen vào là có ý gi, liền cười nói: “Tốt quá, tại hạ lần đầu đến Lâm Nam, không biết, thì ra người ở đây đều nhiệt tình như vậy”.

Lời nàng vừa dứt, Doanh Tú mặt càng đỏ tợn, vội vàng nói: “Xin hai vị tự nhiên, Doanh Tú còn bận chút việc”. Nói đoạn rảo bước quay ra.

Chàng công tử có khuôn mặt lạnh như băng ngồi xuống, nói: “Tại hạ là Cố Thiên Tường, không biết đại danh của công tử là gì?”.

A La giật mình, thì ra chàng ta chính là một trong ngũ đại công tử Phong thành, con trai của tả tướng đương triều Cố Thiên Tường! A La chưa bao giờ gặp, thì ra chàng ta đã đến Lâm Nam. Nàng chuyển hướng suy nghĩ, nói: “Tại hạ là Trình Tinh, người Phong thành, đến Lâm Nam thăm người thân, lần đầu đến đây. Mấy món ăn này không biết có gì đặc sắc, xin công tử chỉ giáo”. Nói xong cầm đũa gắp ăn, lại rót rượu uống. Vị cay lan tỏa, hương thơm nồng nàn, bụng càng thêm đói, nàng ăn liền mấy miếng. Đột nhiên thấy không ổn, vội ngẩng đầu nhìn anh chàng tảng băng, cười: “Dạo chơi Lâm Nam cả ngày, đói quá, công tử cũng dùng đi? Ta vừa ăn vừa nói chuyện”.

Cố Thiên Tường cũng không từ chối, tự rót rượu cho mình, nói chậm rãi: “Loại măng đông này không dễ hái, măng mùa đông không trồi lên mặt đất, phải là người miền núi có kinh nghiệm mới tìm được, người không biết đào cả ngày cũng không được một cây. Nghe nói có một cách, đó là nhìn bóng tre, cứ từ ngọn tre chiếu thẳng xuống đất sẽ có măng, nhưng không phải ngọn nào cũng có măng. Măng mùa đông ăn vừa giòn vừa thơm, xào chay là hạng nhất”.

A La liên tục gật đầu, lại ăn thêm mấy miếng măng, quả thực vừa giòn vừa ngọt, nghe chuyện thấy thú vị quá, lòng càng hưng phấn, mời Cố Thiên Tường một chén rượu, lại tiếp cục tròn mắt nghe chàng ta nói.

Ánh mắt Cố Thiên Tường chạm mắt A La, bỗng ngẩn người, cảm thấy đôi mắt có phần quen quen, nhưng không nhớ đã gặp ở đâu. Chàng quay trở lại câu chuyện, nguyên do, thứ nhất là chàng thầm khen sự phong lưu của nhân vật A La này, hai là gần đây hai nước Ninh Trần cục diện căng thẳng, nghe người này nói lần đầu tới Lâm Nam, trong lòng có phần cảnh giác. Chàng uống một ngụm rượu lại tiếp: “Thịt thỏ chỗ nào cũng có, nhưng món thịt thỏ ở Lâm Nam đặc sắc vô cùng. Muốn bắt được thỏ hoang trên núi quả không dễ, chúng nhỏ hơn thỏ thường, tìm thấy hang của chúng cũng không dễ bắt, trước tiên phải đánh dấu rồi đốt lửa xung quanh, giăng lưới ở cửa hang trong cùng, mới bắt được. Nếu lúc bủa vây hang mà làm nó kinh động, lưới còn chưa kịp chăng, nó đã phi như tên bắn ra ngoài chạy thoát. Cho nên nhìn chung phải hai, ba người phối hợp mới được”.

A La cười: “Thì ra, con thỏ xảo quyệt có đến ba cái hang, không biết người quen luyện võ như công tử đây, liệu có dễ dàng bắt được thỏ hoang?”.

Cố Thiên Tường giật mình, thầm nghĩ, lẽ nào chàng ta nhận ra mình, biết mình luyện võ công. Chàng sinh nghi, thầm nhủ, nói năng phải cân nhắc kỹ mới được. Chàng thản nhiên nói: “Nếu Thiên Tường đi bắt thỏ, dù chúng có xảo quyệt đến mấy, cũng không thể chạy thoát”.

A La cảm thấy lời chàng ta có ẩn ý, nhưng lúc này chưa nghĩ ra, cười nói: “Cố công tử đi bắt thỏ quả thật là dùng dao mổ trâu đi giết gà rồi. Còn món cá sông rán này có gì đặc sắc?”.

Thấy lời thăm dò của mình bị A La nhẹ nhàng hóa giải, Cố Thiên Tường lại càng sinh nghi, vị công tử có khuôn mặt như ngọc tạc, phong độ hào hoa mã thượng này rút cục là người thế nào? Chàng nhiều năm sống trong quân doanh, tự thân toát ra vẻ lạnh lùng, sát khí, người bình thường bị ánh mắt lạnh băng của chàng liếc một cái đã sợ run, nói không ra lời. Vị công tử này có đôi mắt sắc long lanh, rất có hồn nhưng rõ ràng không có nội lực, chàng ta từ đâu đến, lại cơ hồ không sợ uy vũ áp chế của mình.

Cố Thiên Tường rắp tâm tìm cho ra bí mật, nói tiếp: “Loại cá sông nhỏ này còn gọi là cá trong khe đá, không thể đánh bằng lưới, phải đợi đến tối, tìm chỗ nước nông, soi đèn, nhân lúc cá chui vào khe đá nghỉ, nhanh tay chộp từng con. Thân nó rất trơn, ban ngày rất linh hoạt, lại chỉ bé bằng ngón tay, nên rất khó bắt”.

A La “ồ” một tiếng, đầy ngạc nhiên. Cố Thiên Tường này rất am hiểu thành Lâm Nam, cũng là người rất tinh tế, nếu không sao lại chú ý cả những chi tiết vụn vặt như vậy. Thấy chàng ta đã nói xong, thức ăn cũng đã ăn kha khá, nhưng Cố Thiên Tường dường như chưa có ý định đứng lên. Chàng ta nhận ra mình rồi sao? Rõ ràng không thể, trước đây hai người chưa từng gặp, hơn nữa, bức họa cũ lại không phải là ảnh, liệu có giống không? A La không biết động cơ nào khiến chàng ta muốn kéo dài câu chuyện với mình, nhưng chàng ta chỉ huy lực lượng thủy quân của Nam quân, ắt có lòng kiên nhẫn. A La cũng cảnh giác, thấy chàng ta chưa có ý muốn ra về, cũng bắt đầu kể những món ngon, toàn là tiệc măng, các cách chế biến thịt thỏ, những bữa tiệc cá, các cách chế biến phối với ba món này, nàng nói say sưa hào hứng thao thao bất tuyệt.

Cố Thiên Tường càng nghe càng kinh ngạc. Trình Tinh này tuổi chưa quá mười bảy, nhưng hình như lại hiểu biết rất rộng, nghe những yến tiệc và món ăn vừa kể, dường như không phải ai cũng được ăn. Chàng thận trọng hỏi: “Tiểu huynh đệ hình như đã đi rất nhiều nơi, hiểu biết sâu rộng, thật khiến tại hạ khâm phục!”.

A La thầm nghĩ, nếu ta kể những món ăn của “Mãn Hán toàn tịch” cho chàng ta nghe, từ đồ ăn, bát đĩa, đến nguyên liệu chế biến, chắc chàng ta sẽ nảy con ngươi ra ngoài mất. Ta chẳng phải hiểu biết sâu rộng gì, ta chỉ sống hơn anh hai mươi năm thôi. Nàng khẽ cười, nói tiếp: “Tại hạ tính có phần háu ăn, một số món cũng chỉ nghe nói, chưa được nếm, nói với huynh cho vui thế thôi”.

“Tại hạ rất thích nghe công tử kể những chuyện thú vị như vậy, không biết công tử có vui lòng ngồi thêm với tại hạ lúc nữa không? Trong khung cảnh ấm cúng thế này, được gặp công tử tài mạo tót vời, lời lời châu ngọc quả là thú vị”.

A La nghĩ, nếu không biết thân phận của anh, tôi đã bỏ đi rồi, bây giờ thì không dám. Đằng nào cũng chỉ là kể chuyện, chuyện kể ấy à, tôi có vô khối, ngàn lẻ một đêm cũng không kể hết, chưa biết chừng chuyện trò vui vẻ, lại biết thêm tình hình của Lâm Nam. Lúc này A La và Cố Thiên Tường bắt đầu thi nhau kể, trên trời dưới bể, phong tục, đặc sản các nước, không thiếu chuyện gì.

Cố Thiên Tường càng nghe mắt càng mở to, vẻ lạnh lùng trong mắt đã bớt vài phần, thay vào đó là sự hiếu kỳ và khâm phục. Bất luận chàng nói ẩn ý thế nào, A La cũng thản nhiên nhìn thẳng vào mắt chàng, chàng thầm nghĩ, Trình Tinh này hiểu rõ phong tục tập quán của Phong thành như lòng bàn tay, tiếng Phong thành nói rất thạo, Cố Thiên Tường cuối cùng tin Trình Tinh không phải là gian tế của địch quốc, cười sảng khoái: “Tiểu huynh đệ, thật là có duyên với nhau, không biết tiểu huynh đệ còn lưu lại Lâm Nam bao lâu, ta sẽ thường xuyên đến đây nói chuyện uống rượu với đệ”.

A La uống Ly nhân túy vào cũng có phần chếnh choáng, cười thầm, tùy anh thôi, từ công tử biến thành tiểu đệ. Cố Thiên Tường vừa nói vài câu đã hỏi ngay tình hình Phong thành, rõ ràng muốn thăm dò có đúng nàng là người Phong thành. A La nghĩ đến địa chỉ đã ghi sổ đăng ký lúc vào thành Lâm Nam, bụng nghĩ, chắc chàng ta không thể coi mình là gian tế . Lúc này Cố Thiên Tường đã hết nghi ngờ, hai người nói chuyện càng thoải mái tự nhiên.

Khi Cố Thiên Tường lòng đã hết nghi ngờ, ngoài chuyện quân sự tuyệt đối không đả động, càng nói lại càng thích những kiến giải mới mẻ cởi mở của A La. Nhìn trời, thấy đã hơi muộn, chàng chắp tay, nói: “Thiên Tường đang có việc, cáo từ trước, nếu có thời gian sẽ lại cùng tiểu huynh đệ uống rượu nói chuyện cho vui”.

ALa cười đáp lễ, cũng đứng lên ra về.


Trong phủ tướng quân, thành Lâm Nam, Lưu Anh khẽ bẩm báo: “Tam tiểu thư đi dạo cả ngày trong thành, lại đứng ở bến cảng phía nam nhìn ngắm rất lâu”.

Lưu Giác trầm ngâm một lát, nói: “Định đi đường thủy hay sao?”.

“Nhìn rất lâu nhưng không thấy hỏi thăm ai”.

“Sau đó?”.

Lưu Anh có vẻ chần chừ, Lưu Giác quay đầu khẽ hỏi: “Có cần ta hỏi lần thứ hai không?”.

Lưu Anh vội đáp: “Giờ Ngọ ba khắc đi vào Ỷ La tửu quán gặp Cố Thiên Tường tướng quân, ngồi cùng bàn uống rượu, nói chuyện rất vui. Giờ Dậu mới về, tướng quân Thiên Tường trở về quân doanh, tam tiểu thư trở về Thường Lạc tửu quán”.

A La quen Cố Thiên Tường từ lúc nào? Tùy tiện nói chuyện với đàn ông như thế đâu có giống khuê nữ danh gia! Lưu Giác hơi ghen, mỉm cười hỏi: "Với nhãn lực của Thiên Tường, mà lại không nhận ra nàng ấy là gái?”.

“Chuyện này...”. Lưu Anh lúng túng.

Lưu Giác hỏi: “Nàng ấy thay đổi nhiều lắm sao? Cáp tổ đã vẽ lại chân dung, thấy mặt mũi đầy đặn hơn, mắt vẫn như trước, nếu không đã không nhận ra”.

“Chúa thượng, nghe Minh tổ báo, dáng diệu của tam tiểu thư không khác đàn ông bao nhiêu, mùa đông mặc áo rộng, không để lộ cổ, lại thêm tuổi còn trẻ, người không biết cũng không dễ nhận ra”.

Lưu Giác thở dài: “Biết rồi, cứ bí mật đi theo. Nếu nàng lại gặp Cố Thiên Tường nữa, lệnh cho Minh tổ đứng xa một chút, nhớ đừng để Thiên Tường phát hiện”. Chàng đăm đăm nhìn ra cửa sổ, một cây mai đang nở hoa, bên cạnh là khóm thủy tiên đung đưa, còn có cả mấy cây hải đường rất to, do được sưởi ấm hoa nở rộ, hương thơm sực nức. Chàng nhớ năm xưa A La đang ngắm cảnh, bị chàng quấy rầy nàng đã nổi giận, có lẽ nàng rất yêu hoa. Trước khi rời Phong thành chàng đã đến thăm Đường viên, nhìn thấy khóm hải đường trước sân. Lý tướng nước mắt lã chã nói với chàng, A La sáu tuổi đã biết đọc câu thơ “Hải đường bất tích yên chi sắc, độc lập mông mông tế vũ trung”. Nàng chắc cũng yêu hoa hải đường. Chàng thẫn thờ một lát rồi sai Lưu Anh: “Ngươi đến doanh trại thủy quân tìm Thiên Tường tướng quân, nói là ta mời tướng quân xong việc đến phủ uống rượu”.

Khi Cố Thiên Tường đi vào sân, thấy trước mặt sáng rực. Trong sân treo rất nhiều đèn lồng, lại còn đốt mấy lò sưởi, những cây hoa hải đường được sưởi ấm càng thêm thắm sắc, trong ánh sáng màu hồng huyền ảo lung linh, những cánh hoa thắm rực như cháy, Lưu Giác lơ đãng đứng dựa vào thành ghế uống rượu.

Chàng bước nhanh vào, ngồi xuống bên khóm hoa, tự rót rượu cho mình. Rượu vừa vào miệng, chàng cau mày, bật hỏi: “Ly nhân túy ư? .

Lưu Giác ngạc nhiên nhướn mày: “Hiếm có! Cố công tử đến chơi, lần đầu tiên thấy công tử chủ động cất lời!”.

Cố Thiên Tường lạnh lùng liếc Lưu Giác: “Tưởng ta không biết ư? Thì ra là thuộc hạ của huynh, ta còn tưởng là người của Trình Tinh kia”.

Lưu Giác cười nhạt: “Đã biết là không giấu nổi đệ, bọn thuộc hạ này đến là ngu, nhìn thấy đệ cũng không tránh đi”. Cố Thiên Tường không nói gì, thầm nghĩ, Lưu Giác cho người theo dõi Trình Tinh là vì lẽ gì?

“Cho người tiếp cận cũng có cái hay. Bọn chúng hồi báo, chiều nay Thiên Tường tướng quân cười sáu lần cả thảy!”. Lưu Giác bỗng ngồi thẳng lưng, trợn mắt một cách khoa trương, huơ huơ tay trước mặt Cố Thiên Tường, “Thiên Tường, một năm nay chưa thấy đệ cười, một buổi chiều đã cười hết phần của cả năm. Sao ta không thể mua Ly nhân túy về thưởng thức, xem rượu ngon đến đâu? Chà chà, sáu lần! Đệ đã cười tới sáu lần”.

Cố Thiên Tường nghiêm mặt, đôi mắt nghiêm lạnh thoáng cười, Lưu Giác là thế, khoa chân múa tay khiến chàng phì cười. Chàng không trả lời, uống một hơi cạn ly. Rượu này thú vị thật, sau khi hâm nóng càng thơm phức, chàng bất giác hâm mộ Lưu Giác rất biết hưởng thụ, giữa tháng đông hàn mà vẫn ươm được hoa nở đẹp thế này.

“Giữa tiết đại hàn muốn có được những bông hoa này phải mất chút công sức. May mà nó nở, rút cục là được sưởi ấm nên nó đã nở”. Lưu Giác nheo mắt nhìn những đóa hoa nở rực, khẽ nói.

Cố Thiên Tường cũng không nói gì, lặng lẽ nhấp từng ngụm Ly nhân túy. Hồi nhỏ chàng và Lưu Giác được học hai năm cùng với các hoàng tứ, Lưu Giác hoạt bát hiếu động, chàng trầm lặng ít nói. Do thân phận khác nhau, chàng vẫn nhớ lời dặn của cha, nhưng lòng thầm ngưỡng mộ tính cách quyết liệt, muốn làm là làm của Lưu Giác, lại thêm Lưu Giác nhiệt tình, chàng tình nguyện làm bạn với chàng ta, hai người quan hệ rất tốt. Bây giờ lại cùng đồn trú ở thành Lâm Nam, thỉnh thoảng lại cùng nhau uống rượu chuyện phiếm, cũng tiêu diêu thoải mái. Thiên Tường vốn ít nói, Lưu Giác nói nói cười cười, không có ai ngồi cùng, cũng tự thấy vui. Hai người thường ngồi với nhau, cũng đã quen cảnh một người nói luôn miệng, một người lầm lì không nói.

“Chà, Ly nhân túy này quả nhiên là rượu ngon, tên cũng hay! Huynh đã hơi chếnh choáng rồi. Thiên Tường, hôm nay đệ gặp người đó, nói những chuyện gì, sao lại cười tới sáu lần?”.

Lưu Giác cuối cùng không nhịn nổi, mở miệng.

Lưu Anh đứng hầu một bên, nghe vậy thầm thở dài, chỉ cần liên quan đến tam tiểu thư là chúa thượng cơ hồ khó kìm chế, bề ngoài vẫn bình thường, trong lòng lại nôn nóng đến vậy. Quả nhiên, Cố Thiên Tường không trả lời, vẫn thong thả uống rượu, lúc lâu sau mới chậm rãi cất lời: “Huynh thích đàn ông?”.

Lưu Giác bị sặc rượu, khuôn mặt tuấn tú đỏ hồng. Chàng phải vận nội khí mới hết sặc, liếc xéo Cố Thiên Tường: “Phải, đôi mắt ấy rất giống A La”.

Cố Thiên Tường cau mày. Ba năm trước, nghe nói tiểu vương phi tương lai, tam tiểu thư tướng phủ bị bắt đến phương nam, Lưu Giác phẫn nộ đã quét sạch sơn tặc dọc đường, lại còn âm thầm ở trong quân doanh, không chịu trở về Phong thành, nơi gây ra vết thương lòng. Bây giờ xem ra tình hình càng thêm nghiêm trọng, ngay đến chàng trai có đôi mắt giống cô nương đó cũng không bỏ qua. Thảo nào, lúc chiều chàng luôn cảm thấy Trình Tinh rất quen, thì ra đôi mắt hơi giống người trong tranh. Chàng trầm ngâm một lát, cuối cùng mở miệng: “Trình Tinh đó không phải là gian tế, lại có vẻ xuất thân danh gia, nói chuyện rất hay, e là huynh chẳng làm gì người ta được đâu”.

“Đúng thế, đi theo mãi, cũng không nghĩ ra có nên ra tay không”. Lưu Giác nhìn những đóa hải đường nở rộ, rung rinh trong gió, thản nhiên nói.

Cố thiên Tường lại nghĩ tới Trình Tinh, tự dưng cảm thấy tiếc, sao vị công tử đó lại xúi quẩy có đôi mắt giống A La. Chàng bất giác khẽ thở dài.

“Đệ cũng biết thở dài ư? Đệ chịu cười với người ấy, thở dài vì ngươi ấy, mới quen đã như vậy, đệ sẽ không tranh giành với huynh chứ?”. Lưu Giác nói đùa.

Lưu Giác lại có thể quan tâm đến thế sao? Cố Thiên Tường không tin vào tai mình. Đằng nào thì chàng cũng cười rồi, thở dài rồi, sao không thể khiến Lưu Giác ngạc nhiên? Chàng lạnh mặt: “Tranh giành cũng chẳng sao, đằng nào lâu lắm chúng ta không đánh nhau”.

Lưu Giác ngớ người, bàn tay nắm lại, ly rượu trong tay sóng sánh, chàng uống một hơi cạn ly. Cố Thiên Tường cảm thấy buồn cười, lại có vài phần rầu lòng, Lưu Giác mặc dù hơn chàng một tuổi, nhưng từ nhỏ chính chàng lại chăm sóc chàng ta nhiều hơn. “Trình Tinh kia có ngũ quan như tạc bằng ngọc, thần thái tự nhiên, nói chuyện rất thoải mái, khó mà gặp một nhân vật như vậy. Người này có vẻ biết rất nhiều những chuyện ly kỳ mà đệ chưa biết, thật khiến người ta kinh ngạc”.

“Đây là lần đầu tiên huynh thấy đệ đánh giá người khác nhiều như thế, hơn nữa lại chỉ thấy khen ngợi”. Lưu Giác có vẻ khó chịu, chàng không biết vì sao, rất muốn nghe tin tức về A La từ Cố Thiên Tường, nhưng nghe xong lại thấy khó chịu.

“Đang định đi thăm cậu ta, uống rượu chuyện phiếm”. Cố Thiên Tường lạnh lùng đổ thêm dầu vào lửa.

Lưu Giác thầm “hừ” một tiếng, cười ranh mãnh: “Ồ, nhân tiện báo với đệ, người ta trú ở Thường Lạc tửu quán phía tây thành”.

Cố Thiên Tường cảm thấy có gì rất kỳ khôi, lúc này Lưu Giác bực mình mới phải, tại sao lại tựa hồ khuyến khích chàng đến gặp người đó. Chàng lẳng lặng uống nốt rượu trong ly, đứng lên nói: “Cũng muộn rồi, đệ về quân doanh đây”.

Lúc Cố Thiên Tường quay lưng trở ra, Lưu Giác mỉm cười nói nhỏ với chàng: “Giai nhân của rượu Ly nhân túy lúc này có lẽ lại đang chơi đàn. A, tuyết rơi rồi, Lưu Anh nhớ mang ô cho Thiên Tường tướng quân”.

Lưu Anh không nhịn được cười: “Cố tướng quân, xin mời!”. Cố Thiên Tường lưng chợt cứng lại, mặt thoáng sa sầm.

Lưu Giác lại cười: “Tướng quân mặt lạnh tim nóng ơi, thích thì thích, có gì mà ngại không nói”.

Thiên Tường giậm chân, tức giận lườm Lưu Giác, nghiêm mặt rời Lưu phủ.

Lưu Giác cười ngất, cảm thấy trong lòng dễ chịu đôi chút. Những bông hoa tuyết li ti mỗi lúc một dày, chàng ngồi lặng hồi lâu rồi lẩm bẩm một mình: “Ngày mai trời lạnh, không biết Thường Lạc tửu quán có rượu ngon hâm nóng hay không?”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 21-5-2013 08:28:43 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 16


Ngũ đại công tử Phong thành không ngờ đến Lâm Nam lại gặp ngay chàng công tử lọt lướt kia. Cố Thiên Tường có vẻ ngoài lạnh lùng cố hữu, trong lúc nói chuyện vui vẻ vẫn không ngừng thăm dò về mình, rất cảnh giác, nói chuyện cởi mở, nhưng không phải là người dễ nịnh. Lưu Giác được phong Bình Nam tướng quân cũng đóng ở Lâm Nam, hai người, một thống lĩnh thủy quân, một thống lĩnh lục quân, bao giờ mình gặp Lưu Giác? Ba năm nay chàng thay đổi có nhiều không? Từ lúc chia tay Cố Thiên Tường ra về, A La luôn trầm tư.

Ra khỏi Phong thành chưa lâu, trên đường đi được nghe rất nhiều lời đồn về Lưu Giác. Dân chúng bên đường nhắc đến chàng với vẻ vừa kính nể vừa sợ hãi, họ đồn chàng diệt sơn tặc trừ họa cho dân, đồn là chàng mặt sắt không nương tay, giết người không chớp mắt. Nhưng lời khen vẫn nhiều hơn, chàng chấn chỉnh Nam quân đâu vào đấy, hết sức nghiêm minh. A La nghe dân chúng bàn tán, nghĩ đến quân đội hiện đại, nàng không hiểu lắm về quân đội, chỉ có ấn tượng đó là đội quân rất tốt với nhân dân. Nhưng nghĩ đến Lưu Giác, nàng lại thở dài, lờ mờ cảm thấy từ sâu trong lòng nỗi mong ngóng muốn gặp lại chàng, nhưng lại không dám đối diện. Nàng không dám đối diện với hiện thực rủi ro nhỡ chàng vẫn chưa hết giận áp tải nàng trở về tướng phủ.

Thất phu nhân và Tiểu Ngọc từng lo lắng hỏi nàng, nếu gặp Lưu Giác liệu có bị bắt đưa về không? A La cười hì hì: “Tướng phủ lẽ nào không có ai đi tìm? Tử Ly chắc cũng thế. Lưu Giác tính khí kiêu ngạo, chàng ta muốn đưa chúng ta về, nếu ta ngoan ngoãn nghe theo, đảm bảo chàng ta sẽ cảm thấy vô vị, mà với tính cách chàng ta, nếu không thích sẽ tuyệt đối không làm. Chúng ta cứ thong thả du sơn ngoạn thủy rong ruổi đến thành Lâm Nam, bị chàng ta tóm trước khi đến đó, là do số chúng ta đen đủi, muộn một chút thì chúng ta cũng đã rong chơi đủ rồi. Chuyện này khoan nghĩ vội, gặp người rồi hẵng hay, chẳng lẽ chúng ta trốn chạy cả đời? Đến nước khác nếu xảy ra chuyện lại trốn hay sao? Đành phải đối diện thôi”.

Thất phu nhân than thở: “Tam Nhi, con đã cứng rắn trưởng thành hơn nhiều, chỉ có điều có những lúc dù có mạnh đến mấy cũng không làm gì được”.

“Sẽ có cách, chúng ta sẽ vẫn đi về phía nam, đợi kiếm đủ bạc sẽ đến Trần quốc xem sao, không biết nơi miền quê yên bình liệu có chỗ nào để chúng ta dung thân. Mẹ nói cũng phải, mạnh cũng chẳng ích gì, chúng ta có gì nào? Tiền bạc không, quyền lực không, con đánh cược, mấu chốt vẫn là ở thái độ của Lưu Giác. Chỉ cần qua cửa ải chàng ta, phía tướng phủ cũng dễ đối phó. Huống hồ, chuyện qua đã lâu, làm gì có ai cố chấp như thế, chỉ có người không bình thường”. Nói xong câu đó, A La nghẹn giọng, nghĩ đến vẻ thành tâm của Lưu Giác một lòng một dạ muốn bảo vệ nàng suốt đời suốt kiếp. Lại thở dài, gạt những ý nghĩ đó sang một bên, miệng cười thật tươi: “Đằng nào bây giờ chúng ta cũng chưa có bạc, cứ thong thả hẵng hay, mọi người đừng lo. Mẹ à, dù thế nào A La cũng hiếu thuận với mẹ, Tiểu Ngọc à, tướng công sẽ nuôi nàng”.

Với tâm thái như vậy họ sống qua hai năm trên đường đến Lâm Nam. Trong những năm này, Lưu Giác không tìm được nàng, Tử Ly và người của tướng phủ cũng không tìm được nàng, không biết là số may mắn hay là còn ẩn tình gì khác, nhưng họ đã sống những ngày thực sự vui vẻ.

A La cau mày thở dài. Suy nghĩ theo hướng tích cực là một chuyện, nếu thực sự gặp lại, e sẽ là chuyện khác. Nếu Lưu Giác nổi giận lôi đình thì sao? Nếu chàng vẫn ôm hận thì sao? Nếu chàng nhất định đưa thất phu nhân và nàng trở về tướng phủ thì sao?
Mặc dù từ ngày quen nhau đến giờ, luôn là nàng khiến chàng bực mình, nhưng cũng không thấy chàng tỏ ra thực sự muốn báo thù. Có điều, nàng thoái hôn khiến Lưu Giác mất mặt, chàng ta sẽ phản ứng ra sao, A La không dám khẳng định. Nàng hơi hối hận, hay là mình quá tự tin?

Lúc này vú Trương báo, đã tìm được một chỗ ở khác, theo yêu cầu của A La, đó là một nơi gần dãy núi phía tây thành. Thất phu nhân hiếu kỳ hỏi: “Tại sao phải ở gần núi?”.

A La không muốn để thất phu nhân lo lắng. Khó khăn lắm mới ra khỏi tướng phủ, mấy năm nay thất phu nhân lòng đã nhẹ nhõm, vui lên rất nhiều. Nếu gặp chuyện căng thẳng, nỗi lo lắng ám ảnh, bà sẽ không chịu nổi. Vậy là nàng cười, nói: “Ở đó vắng vẻ yên tĩnh”.

A La quyết định tạm thời không nghĩ đến chuyện có gặp phải Lưu Giác hay không. Đã đến đây, bây giờ chưa gặp, cứ làm theo kế hoạch đã, sau này nếu gặp hẵng hay. Nàng dự định ngày hôm sau sẽ chuyển khỏi quán rượu của vú Trương.

Sáng sớm hôm sau, tiếng cười trong vắt của Tiểu Ngọc vang khắp sân: “Tiểu thư, tuyết rơi rồi”.

A La khoác áo dài, tóc vẫn để xõa bước ra ngoài. Thật vậy, những bông tuyết bay trắng trời, phủ một lóp mỏng trắng xóa lên những mái nhà xa gần trên sườn núi. Những ngọn cây xanh thẫm và những mái cong đen sì thấp thoáng lộ ra trong biển tuyết. Cảnh sắc này trông giống gì nhỉ? Tranh thủy mặc! A La mỉm cười thốt lên, thành Lâm Nam đẹp thật.

“Tiểu thư, không sợ nhiễm lạnh sao!”. Tiểu Ngọc phủi tuyết trên vai nàng, khoác cho nàng chiếc áo gió, ân cần khẽ trách. A La nhìn Tiểu Ngọc, cười nói: “Đi lên núi dạo chơi không?”.

“Ồ, tiểu thư, tiểu thư vẫn chưa rửa mặt chải đầu”.

“Không hề gì, Tiểu Ngọc rửa mặt, chải đầu là được rồi, đi thôi!”. A La cười vung chân vung tay sải những bước dài, cải tạo Tiểu Ngọc chỉ thành công một nửa, người ở đây tư tưởng thâm căn cố đế, khó mà thay đổi.

Sáng sớm, trên con đường mòn giữa chừng núi, thỉnh thoảng họ gặp một lão tiều phu khoác bó củi hoặc sọt than hoa to đi vào thành, từ khu nhà dân thoảng hoặc vọng ra tiếng chó sủa. Qua một con đường nhỏ, đã nghe thấy tiếng thác chảy. A La dắt tay Tiểu Ngọc thận trọng vòng qua mặt thác. Đứng ở đây, có thể nhìn thấy quán rượu của vú Trương bên dưới, có thể nhìn rõ vú Trương cùng thất phu nhân đang đứng trên sân ngắm tuyết. Ở khu nhà giữa những làn khói mỏng cuộn lên, bức tranh thủy mặc vậy là có sinh khí, sinh động hẳn lên.

A La cúi người, cầm lên một phiến băng mỏng, bóp nát, giơ lên cho từng giọt nước nhỏ xuống mặt, lạnh run người, nhưng lại rất dễ chịu, cả người như được kích hoạt tỉnh táo, sảng khoái vô cùng. Nàng từ từ đứng dậy, hít căng một hơi không khí trong lành, vươn người. Tiểu Ngọc nheo mắt xuýt xoa: “Tiểu thư, tiểu thư chưa rửa mặt mà sao vẫn đẹp như thế!”.

A La lòng tràn trề vui sướng, hân hoan, cất tiếng cười giòn tan.

Trong khu rừng ở một mé sườn núi, Lưu Giác mình khoác áo choàng đen, im lặng ngồi trên lưng ngựa, mấy binh sĩ Ô y kỵ cũng im lặng như chàng. Lưu Anh nhìn về phía trước, tam tiểu thư thay đổi thật rồi, trước đây nhỏ nhắn xinh xẻo, bây giờ đã là một đại mỹ nhân đẹp rực rỡ khiến người ta hồn siêu phách lạc, y thầm thở dài, người như vậy, chẳng trách chúa thượng quyến luyến không thể nào quên.

Lén nhìn Lưu Giác, thấy chàng mím môi, không biểu cảm, toàn thân tựa hồ biến thành tảng đá im lìm. Lưu Anh lại thở dài, sáng sớm tinh mơ cưỡi ngựa lên núi, đứng đến hơn nửa canh giờ, không nói không rằng, cứ nhìn như vậy, là có ý gì, rõ ràng lòng rất muốn, lại không chịu đi gặp nàng ta.

Lưu Giác trầm mặc như một cái đầm sâu hút, ánh mắt phân vân. Sau khi A La ra đi, không chỉ một lần chàng tự hỏi, rút cục mình đang tức giận điều gì? Nghĩ đến A La không cần mình, lòng chàng hận đến muốn bóp chết nàng; nghĩ đến những lúc ở bên A La, dẫu nàng làm cho mình tức giận, lòng chàng lại tràn ngập âu yếm, vấn vương, lại buồn man mác.

Ba ngày sau khi được phong Bình Nam tướng quân, chàng liền rời kinh, đi về phương nam. Chàng phóng ngựa đến biệt uyển của Hộ Quốc công chúa, thơ thẩn trong rừng đào cả một ngày. Sơn cốc tiết cuối hạ, cỏ vẫn xanh như thế, nhưng đào đã không còn nở hoa. Ngọn lửa âm ỉ trong lòng bùng cháy, người nóng bừng, chàng nhảy xuống suối. Làn nước lạnh ngắt ôm ấp chàng, hỏa khí tiêu tan, chàng bất giác cười đau khổ, dạo đó nếu chàng không lang thang tới đây, nếu cứ để A La ngã xuống suối, thì đã không có mọi vấn vương về sau, tất cả đều là ý trời.

Chàng đến tướng phủ, Lý tướng đưa chàng đi thăm Đường viên. Khóm hải đường cành đã xum xuê, xòe ra che nửa sân, Lý tướng ngậm ngùi nói, Đường viên tất cả vẫn y nguyên, chỉ đợi chàng đưa thất phu nhân và A La trở về. Nghĩ đến lần A La ăn cơm trên thuyền hoa bữa đó, nàng hầu như chỉ ăn thịt không ăn rau, lại nhìn Đường viên lạnh lẽo tiêu sơ và khuôn mặt đẫm nước mắt của Lý tướng, người chàng bỗng run lên. Nếu Lý gia không đối xử nghiệt ngã với A La, tuổi còn nhỏ như vậy làm sao nàng dám hành động to gan đến thế! Cho dù không muốn lấy chàng, cũng không đến mức đưa mẹ và tỳ nữ bỏ trốn! Nghe nhắc đến câu thơ A La đọc lúc sáu tuổi, lòng chàng càng đau thắt, điều gì khiến một đứa trẻ sáu tuổi làm ra những vần thơ bi ai như vậy!

Năm đó, do cáo thị khắp nước thông báo A La bị bắt cóc, bản thân chàng gần như cũng tưởng thật, đem tất cả nỗi tức giận, đau đớn trong lòng trút lên đầu bọn sơn tặc, nhưng lại bất ngờ giành được sự kính trọng của tướng sĩ Nam quân, về sau, để thu phục cánh quân này, chàng ngày đêm trăn trở, suy nghĩ, muốn loại bỏ thế lực của họ Vương không phải chuyện dễ. Chàng buộc phải học cách tự kìm chế, thận trọng, suy tính trước sau. Bây giờ, A La đã đến Lâm Nam, chàng thầm nghĩ, nếu là trước đây, chàng đã chặn A La ngay từ khi nàng xuất hiện ở cổng thành. Còn bây giờ, điều chàng mong muốn là, nếu hỏi lại câu đó, có muốn cùng chàng đồng cam cộng khổ, nàng sẽ không do dự cho chàng một câu trả lời khiến chàng hài lòng.

Lưu Giác từ xa lặng lẽ đứng nhìn, A La đang đứng trên triền núi, chiếc áo choàng rộng bao bọc thân hình mảnh dẻ, mái tóc dài xõa đến eo, giữa thảm tuyết trắng xóa bên dòng thác bạc dáng phiêu diêu tự tại, tiếng cười trong vắt hồn nhiên. Ba năm nay nàng thay đổi không ít, khuôn mặt đã nở nang đầy đặn, không còn nét vụng về trẻ con ngày trước, chiếc cằm nhọn xinh, làn da như bạch ngọc phớt hồng, càng khỏe mạnh, tràn trề sức sống. Đôi mắt đó không thay đổi, vẫn trong veo như nước nguồn, lóng lánh tinh nghịch, hễ cười là sóng sánh mê ly. Mới sáng sớm chưa chải đầu A La lại vẫn đẹp đến thế!

Chàng nên xả hận, nên trừng phạt người đó mới phải, nhưng lòng chàng bây giờ tràn ngập hình ảnh người đó, chỉ muốn ngắm nhìn mãi, ngắm vẻ linh lợi như con chim yến đó. Một nỗi êm dịu từ từ dâng lên trong đáy mắt chàng, triền miên vấn vít, như những con sóng ngầm lặng lẽ từ cơ thể tỏa ra, Ô y kỵ đứng phía xa trong rừng cũng cảm nhận được, bất giác thở phào.

Tiếng cười trong vắt của A La vọng lại, như tiếng chim lảnh lót văng vẳng giữa rừng, như tiếng thác bạc đổ ào trên đá, vỡ vụn tung lên, lan tỏa trong tầng không buổi sớm tinh sương, vấn vương trên triền núi. Nàng không hề áy náy gì ư ? Không hề day dứt tí nào sao? Mất tích mấy năm liền mà vẫn ung dung sung sướng như vậy, trong khi khiến bao người khổ công tìm kiếm, người ngựa rối ren. Nỗi giận lại trào lên, Lưu Giác “hừ” một tiếng, ngồi thẳng trên mình ngựa, sát khí lại trùm lên cả khu rừng, hàn khí lại ngưng tụ trong đáy mắt. Con tuấn mã bên dưới có vẻ bồn chồn, không ngừng giậm vó một cách bất an, chàng cơ hồ lập tức thúc ngựa lao lên, bàn tay xiết chặt dây cương nổi hằn những đường gân xanh.

Đột nhiên, phía nam thành phụt lên một đám khói đen. Lưu Giác cau mày, thủy quân Trần quốc động binh ư? Chàng liếc nhanh A La lúc đó cũng đang ngẩng nhìn đám khói trên trời, lặng lẽ quay đầu ngựa phi xuống núi, Ô y kỵ lẳng lặng đi theo.

Đám khói ngưng đọng trên không mãi chưa tan, lại có tiếng chuông dồn dập nối nhau. Tiểu Ngọc kêu lên “Có chuyện rồi?”. Cùng với tiếng chuông, dân chúng đổ ra đường, ai nấy mặt mày hốt hoảng.

A La nói: “Về nhà xem sao”.

Hai người trở về tửu quán, vú Trương hốt hoảng chạy ra: “Tiểu thư, hai người đã về, không được ra khỏi nhà, hai nước khai chiến rồi”.

A La, thất phu nhân và Tiểu Ngọc nhìn nhau. Thất phu nhân luống cuống: “Chẳng phải đã mấy chục năm không đánh nhau cơ mà? Sao bây giờ nói đánh là đánh ngay?”.

A La thấy vú Trương cũng không biết gì hơn, bèn nói: “Con vào thành nghe ngóng tình hình. Tiểu Ngọc, ở nhà với mẹ và vú Trương, đóng cửa lại, không được đi đâu”.

Thất phu nhân không chịu: “Con đưa Tiểu Ngọc đi cùng. Chúng ta ở đây, không đi đâu hết, con đi một mình, sao mẹ yên lòng?”.

Tiểu Ngọc cũng đồng tình. A La bất lực, vội vào thay áo cùng Tiểu Ngọc đi ra.

Các cửa hiệu trong thành vẫn mở cửa. Trên phố có rất nhiều người tụ tập sốt ruột ngóng tin. Cổng thành đã đóng, A La kéo một người hỏi: “Bên ngoài có chuyện gì vậy?”.

“Nghe nói thủy quân Trần quốc đánh lén, Cố tướng quân đã tập hợp đội thuyền chuẩn bị nghênh chiến”.

“Ở đâu có thể nhìn thấy tình hình trên sông?”.

“Sườn dãy Tây Sơn. Bao nhiêu người đang đi đến đó”.

A La và Tiểu Ngọc hỏi đường đến dãy Tây Sơn.


Lưu Giác lên thẳng thành môn lầu, tri phủ Lâm Nam vội đi đến chắp tay bẩm báo: “Bẩm tướng quân! Cổng tây đã đóng, thủy quân nước Trần đã có chuẩn bị, sáng sớm nay đột nhiên tấn công, binh sĩ đi tuần trên bờ bên này bị trúng tên thiệt mạng, thi thể vừa mới phát hiện, khi lính gác dùng ống nhòm quan sát, quân Trần đã đến giữa sông”.

“Chém!”. Lưu Giác lạnh lùng ra lệnh.

Tri phủ sững người. Một quân sĩ được cử thi hành mệnh lệnh , nửa khắc sau đã đưa đầu tên lính gác về.

Tri phủ toát mồ hôi lạnh, Bình Nam tướng quân này sao nói chém là chém, còn không thèm liếc nhìn một lần.

Ánh mắt Lưu Giác lướt qua mặt các binh sĩ trên thành môn lầu, nói dõng dạc: “Hai nước Ninh, Trần đã ngừng chiến mười năm, biên cương yên bình, thông thương phồn thịnh. Nay Trần quốc đột nhiên xâm phạm Lâm Nam, có ý đồ xâm chiếm giang sơn chúng ta, bọn lang sói dã tâm, tất bị trời phạt! Nuôi binh ngàn ngày, chính là đợi lúc này, xả thân báo quốc, bảo vệ giang sơn, là chí hướng của nam nhi chúng ta”.

Quân sĩ rầm rầm hưởng ứng: “Nguyện cùng tướng quân bảo vệ Lâm Nam, đánh bại quân Trần!”.

Lưu Giác quyết đoán hạ lệnh cho tri phủ và quan thủ thành Lâm Nam, thực hiện triệt để quản chế quân sự, đồng thời trấn an thương khách và dân chúng. Một loạt mệnh lệnh như pháo nổ, liên tiếp từ miệng chàng ban ra, thấy chúa thượng điềm tĩnh xử trí, thái độ bình thản, quân sĩ hết lòng tin tưởng, từng người nhận lệnh răm rắp thi hành.

Lưu Giác đứng trên tường thành, nhìn về mặt sông, khi thủy binh của quân Trần cách thành Lâm Nam không quá năm chục trượng liền bị đội chiến thuyền của Ninh quốc chặn đánh, tên bắn như mưa, đã có thuyền áp sát thuyền địch, binh sĩ nhảy lên thuyền đánh giáp lá cà, tiếng hô “giết” động trời, Lưu Giác quan sát tình hình, biết thủy binh của Nam quân đã đến muộn, mặc dù vẫn còn chiến thuyền tiếp tục từ thủy trại đi đến, nhưng cục diện diễn ra vẫn không có trật tự bằng quân Trần.

Lúc đó đột nhiên trên mặt sông, một tiếng động vang như sấm, định thần nhìn ra, thấy Cố Thiên Tường mình vận áo bào trắng, chiến giáp, đứng trên lầu chiến thuyền lao vào thủy binh quân Trần, chiến thuyền phía trước và hai bên bố trí theo hình mũi tên, xông thẳng vào chiến thuyền địch. Tiếng trống dồn dập, không kịch liệt, nhưng sục sôi khiến người ta hồn bay phách lạc, sát khí hừng hực.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 21-5-2013 17:34:43 | Chỉ xem của tác giả
Cố Thiên Tường vô cùng phẫn nộ. Năm ngoái đã biết quân Trần muốn gây chiến, có dấu hiệu điều binh, chàng đã ngày đêm theo dõi, nhưng vẫn bị tập kích bất ngờ, để địch tiến gần Lâm Nam như vậy thủy quân mới triển khai thế trận nghênh chiến. Chàng phẫn nộ đích thân thúc trống cổ vũ tinh thần quân sĩ. Thấy thuyền đã vào khoảng cách có thể bắn tên, chàng giơ tay, cờ hiệu, biểu ngữ lập tức phất cao, trận mưa tên dày đặc bắn ra, hai bên bắt đầu giao chiến ở cự ly gần.

Thủy binh được cổ vũ bởi tiếng trống trận, chiến đấu rất anh dũng. Lưu Giác đứng trên tường thành nhìn rõ, lần tập kích bất ngờ này quân Trần đã có chuẩn bị, với thực lực của nước Trần, có thể huấn luyện được đội thủy quân binh lực ngang ngửa thủy quân của Ninh quốc, quân Trần tất đã âm thầm chuẩn bị từ lâu. Quân Trần tiến đánh bất ngờ, thủy quân của ta rõ ràng ở vào thế bất lợi. Chàng nhìn Cố Thiên Tường lúc này không đánh trống nữa, trực tiếp chỉ huy trận đánh, ngoài đội thuyền của chàng ta vẫn chưa rối loạn, các đội khác bắt đầu bị chọc thủng, đội hình sắp rối loạn.

Lưu Giác thét to: “Thiên Tường rút lui!”. Giọng chàng dùng hết nội lực, Cố Thiên Tường ở cách hơn trăm mét sững người, mắt sáng lên, một tay giật cờ hiệu trong tay binh sĩ, bắt đầu truyền lệnh.

Lưu Giác đứng trên tường thành, giang thẳng hai tay, tiếp ngay đó là tiếng trống “thùng thùng” dồn dập, quyết liệt hào sảng, nối nhau, dân chúng đứng trên triền núi phía xa, cảm động rơi nước mắt. A La đứng từ xa nhìn về phía thành môn lầu, thấp thoáng thấy một bóng người vận áo choàng đen, tay vung dùi trống mạnh mẽ và quyết liệt, khí thế tựa con rồng đen vùng vẫy, nàng bỗng giật mình, là Lưu Giác sao? Dáng chàng dũng mãnh kiêu hùng, mỗi động tác hừng hực toát ra khí phách nam nhi. Nghe tiếng trống hùng tráng, A La nghĩ đến lúc chàng ra tay cứu mình trong bữa tiệc ở Đông cung, nước mắt trào ra tự lúc nào.

Lúc này, dưới cờ hiệu của Cố Thiên Tường, chiến chuyền Nam quân rào rào di chuyển vào bờ, quân Trần lại tiến thêm hơn hai chục trượng về phía bờ. Trong khúc nhạc trống với sứ mệnh vĩnh hằng, hừng hực sinh khí không bao giờ cạn kiệt. Nam quân bình tĩnh nhanh chóng chấn chỉnh đội hình, tiếng hô “giết” chìm nghỉm trong tiếng trống.

Quân Trần thấy Nam quân nhanh chóng thay đổi thế trận, thấy sắp tiến đến gần thành môn lầu, vội vẫy cờ ra hiệu tiến nhanh hơn. Toán quân sĩ đứng trên thành môn lầu đang chán nản, bỗng nghe thấy một tiếng thét vang trời: “Đừng hòng chạy thoát!”.

Lưu Giác quẳng dùi trống, vung tay ra hiệu, trận mưa tên từ các cửa khẩu dưới chân tường thành bắn ra như mưa, như một con rồng đen điên cuồng vun vút xông vào đội thuyền của quân Trần. Chiến thuyền của Nam quân từ hai phía ven sông như đôi cánh khổng lồ giương lên bắt đầu phản kích. Đội tiên phong của quân Trần lại biến thành hậu ứng, lập tức rút về bờ bên kia, một số thuyền bị kẹt trong vòng vây không kịp trở tay, nhằm hướng bờ xông tới. Khi cách tường thành chỉ mười trượng, bị những tảng đá lớn trên thành lao xuống đập nát, từ phía chiến thuyền Nam quân dậy lên những tiếng hoan hô vang trời.

Trong trận này hai bên đều có tổn thất, thương vong tương đối, được cổ vũ bởi lần đầu xuất chiến thắng lợi, sĩ khí Nam quân dâng cao vạn trượng!

Lưu Giác nhìn chiến trường bên dưới, lộ vẻ mệt mỏi, nhưng lại lập tức che giấu. Chàng lấy lại tinh thần, nói to: “Tối nay tướng phủ mở tiệc khao quân!”.

Tướng sĩ phấn khởi, từ trên thành đi xuống, dân chúng tưng bừng nổi trống hoan hô, có thương hội cử người gõ trống khua chiêng mang rượu thịt đến mừng ba quân.

Vẫn còn sớm chưa đến giờ mở tiệc, Cố Thiên Tường bố trí xong thủy quân, không kịp cởi chiến giáp đi ngay đến phủ tướng quân. Lưu Giác thay chiếc áo chùng rộng màu xanh sẫm nằm trên sập, có hai lính hầu xoa bóp chân tay. Cố Thiên Tường hăm hở ngồi xuống ghế, lính hầu lập tức đưa khăn ấm, chàng đón lấy lau mặt. Lính hầu dè dặt hỏi: “Tướng quân có cần cởi giáp nghỉ ngơi một chút?”.

Cố Thiên Tường liếc nhìn chàng, sát khí trên người vẫn chưa tan, lính hầu lập tức ngậm miệng lui ra.

Lưu Giác hé mắt, lính hầu dâng trà, chàng đón lấy uống hai ngụm, chậm rãi nói: “Khó chịu hay sao?”.

Cố Thiên Tường trầm giọng hỏi: “Huynh nhận định thế nào?”.

“Nếu là huynh, huynh sẽ không ngốc đến mức chỉ dùng thủy quân tấn công chính diện, nếu như thế này đã có thể thành công, nước Trần đã khai chiến từ mấy năm trước. Để lâu như vậy, đột nhiên tập kích, họ không ngốc đến mức lại đến lần nữa, chúng ta có thể chờ thời cơ tốt hơn”.

Mắt Cố Thiên Tường dịu lại: “Huynh còn nhớ trò chơi thuở nhỏ của chúng ta không?”.

Lưu Giác tròn mắt nhìn chàng ta: “Lại đây bóp vai cho huynh, mỏi chết được!”.

Cố Thiên Tường không nói gì, đứng dậy, Lưu Giác phát hoảng: “Thôi được rồi, đệ mà bóp không khéo nát vai huynh mất”. Thiên Tường tiến đến bên Lưu Giác, chàng lại phát hoảng, nhưng thấy chàng ta đã nằm trên sập nói với lính hầu: “Thay trà, bóp chân! Đệ ngủ một lát, huynh tự thu xếp”. Đoạn nhắm mắt như ngủ.

Lưu Giác dở khóc dở cười, lát sau mỉm cười thật sự, tinh thần phấn chấn đi ra khỏi phòng.

Cố Thiên Tường nhắm mắt, ý nghĩ quay trở về nhiều năm trước, khi Lưu Giác và chàng chơi trò đánh trận. Lúc đó chàng đã dùng chiêu này để ăn quá nửa binh kỳ của Lưu Giác. Chàng hét: “Thiên Tường rút đây, mặc cho huynh liều mạng tấn công!”. Lưu Giác suy nghĩ hai ngày, khi gặp lại, chàng ta đã phá được chiêu này của chàng, chia hai cánh quân bao vây, chặn đường rút, đắc ý nói: “Huynh chặn chân đệ, để cho đệ phải lăn lộn trên đất!”. Nghĩ đến đây, nét mặt chàng đã dịu lại, nhắm mắt ngủ thiếp.


Mọi người trong Thường Lạc tửu quán cũng rất vui, thất phu nhân nói: “Nếu thành Lâm Nam dễ bị phá như thế, thì đã đánh nhau từ mười mấy năm trước rồi”. Hổ Tử líu lo: “Hổ Tử cũng muốn làm tướng quân”.

Mọi người vui vẻ cười ồ.

“Phu nhân à, già thấy mọi người không nên chuyển đi. Có chuyện gì cả nhà cùng ở một chỗ mới có thể giúp nhau”. Vú Trương nói.

A La thở dài. Hôm đi chơi quan sát bên sông, phát hiện dãy Tây Sơn địa thế hiểm trở, mà lại không ở vị trí tiền tiêu, có đường rút lui, vốn định chuyển đến đó, nhỡ xảy ra chuyện biết đâu có thể lén chạy trốn. Bây giờ chiến sự xảy ra, mặc dù đã đánh lui thủy quân của nước Trần, không biết liệu có trận thứ hai, trận thứ ba, lúc đầu ở phân tán là sợ liên lụy đến gia đình vú Trương, bây giờ ở chung mới dễ giúp nhau. Nàng mỉm cười tán thành: “Đương nhiên, chúng ta ở chung”.

Trở về phòng, lại không ngủ được, cũng không đốt đèn sợ ảnh hưởng đến thất phu nhân và Tiểu Ngọc, nàng khoác áo ngồi dậy thẫn thờ. Trước mắt lại vụt hiện bóng dáng kiêu hùng của Lưu Giác lúc đánh trống trận. Bắt đầu từ phút đó cho đến lúc rời đi, mắt nàng không hề rời khỏi Lưu Giác trên thành môn lầu. A La cảm thấy, lúc đó nàng thực sự có cảm giác sùng bái người anh hùng ấy, chợt mỉm cười, trước đây nàng còn không quan tâm Lưu Giác là người thế nào.

Ngũ đại công tử Phong thành đều ngoại hình tuấn tú, dáng vẻ quý phái: Tử Ly tuấn tú an nhiên, nụ cười bất biến trên môi, trông thân thiện dễ gần nhất, nhưng luôn phảng phất buồn; Thành Tư Duyệt trẻ tuổi đã sớm thành danh, phong lưu mã thượng; Cố Thiên Tường có vẻ đẹp lạnh lùng, thâm trầm như tảng băng, thỉnh thoảng mới thấy cười, dù có nói nhiều cũng không thay đổi được ấn tượng này.

Còn Lưu Giác, vừa gặp đã biết là người tự mãn, cao ngạo, ham hố báo thù, là kiểu công tử được nuông chiều chơi bời bạt mạng. Chính chàng ta lệnh cho người khiêng kiệu giở trò khiến nàng nôn thốc tháo, lại còn ép nàng học đàn, bắt nàng đánh khúc “Bội lan”, vậy mà trong bữa tiệc ở Đông cung, lại có gan đứng ra cứu nàng, dù không trực tiếp đối đầu với thái tử, nhưng ngữ khí cứng rắn hàm ý bất luận thế nào cũng sẽ bảo vệ nàng đến cùng. Đêm hôm đó, A La dường như nhìn nhận lại con người chàng, để cho chàng cưỡi ngựa hộ tống về phủ. Lại còn sau lần gặp sát thủ giữa đường, chàng một lòng chân tình hứa suốt đời suốt kiếp che chở bảo vệ nàng, lúc đó A La đã muốn buông mình trong vòng tay chàng. Ba năm trước, khi đốt cầu phao, từ xa nàng nhìn thấy Lưu Giác ở bờ bên kia, khoảng cách lớn như vậy, nhưng nàng vẫn cảm nhận được nỗi đau đớn phẫn nộ của chàng, khiến nàng không dám nhìn sang. Về sau lại nghe nói chàng dẹp sơn tặc, chỉnh đốn Nam quân cứng rắn, quyết đoán. Lưu Giác tựa hồ thiên biến vạn hóa, khiến nàng nhìn không thấu, đoán không ra.

A La mơ màng nghĩ, ba năm nay hình như mình chưa hề quên chàng, rồi khép áo từ từ đi vào giấc ngủ.


Ban đêm vào dịp tuyết đầu mùa và bắt đầu có sương mù, trăng thanh sao thưa thớt. Từ vách đá dãy Tây Sơn trên sông Hán Thủy gần thành Lâm Nam đột nhiên ló ra mấy bóng đen, nhìn hành động rõ ràng là cao thủ, họ lặng lẽ lần xuống chân núi, đầu nhấp nhô, sau vài động tác đã bò lên tới mặt tường thành.

Tên cầm đầu vừa vung tay, một lưỡi đoản kiếm lóe ra, cơ thể nhẹ nhàng như một con mèo bước êm ru đến sau lưng một lính gác, vừa vung tay đã kết thúc tính mệnh người lính như cắt một miếng đậu phụ. Lưỡi kiếm đen bóng, đường kiếm sắc lẹm như rạch trên giấy, binh sĩ kia đáng thương kinh hoàng chưa kịp kêu, yết hầu đã bị cắt đứt, máu chưa kịp phun, người đã đổ ập xuống.

Một tên khác nhanh chóng lột y phục trên người binh sĩ, một tên khác kéo thi thể giấu sang một bên, giây lát sau, trên tường thành đã xuất hiện một lính gác mới. Mấy bóng đen chờ thêm hai khắc, không thấy động tĩnh gì, mới thả những cái móc câu có dây đu đầu kia của tường, lính gác nhìn về bên này, hành động của những bóng đen đã bị vách đá che khuất, họ chỉ nhìn thấy tên lính giả đứng thẳng như thanh kiếm dưới trăng.

Không lâu sau, có mười tên từ vách núi Tây Sơn lọt vào thành. Tên cầm đầu làm mấy động tác tay ra hiệu, mười tên lẹ làng từ đỉnh núi bắt đầu thâm nhập xuống dưới. Gặp người, không biết chúng dùng pháp thuật gì, ngay cả chó cũng không kêu một tiếng, chúng lặng lẽ đột nhập vào khu dân cư, người dân đang ngủ bị điểm huyệt, rơi vào giấc ngủ li bì, dù tỉnh lại không có bất kỳ nghi ngờ gì.

Trên núi đã có hơn hai chục thi thể. Bọn chúng hành động mau lẹ thận trọng, lần theo đường mòn xuống núi, gặp dân thường đều nhất loạt xử lý như vậy. Không lâu sau chúng đã mò được vào trong quán rượu của vú Trương, tên cầm đầu phục ở sườn núi quan sát bên dưới, nhìn khuôn viên gồm ba dãy nhà của vú Trương, xung quanh không có nhà liền kề, sau lưng là rừng núi, rất tiện để ẩn giấu binh mã, mắt sáng lên, lẳng lặng dùng tay ra hiệu cho đồng bọn, những bóng đen bay qua tường vọt vào bên trong nhẹ nhàng như những con dơi.

Cùng lúc, trong khu rừng gần đó, ba binh sĩ Minh tổ thuộc Ô y kỵ phụng mệnh Lưu Giác bảo vệ A La. Do trời lạnh họ lần lượt nhảy lên cây, sau khi cử một người canh gác, mỗi người chọn một vị trí thích hợp tranh thủ chợp mắt. Người lính gác bỗng dỏng tai, căng mắt nhìn, kinh ngạc nhận ra những bóng đen nhảy vào trong quán, nhìn thân thủ biết không phải thuộc hạ của mình. Y nhanh chóng nhận định tình hình, đối phương có khoảng hơn mười tên, bên này chỉ có ba, nên không dám manh động, chỉ khẽ đánh thức hai người kia. Ba người cùng quan sát, hợp tác lâu ngày họ lập tức có phương án, để một người quay về tướng phủ báo tin, hai người lặng lẽ áp sát quán rượu.

Khi những bóng đen bay vào sân, A La vừa khép áo, nằm xuống, đang mơ màng chưa ngủ, đột nhiên nghe tiếng then cửa “cạch” một tiếng. A La mở mắt mơ màng liếc về phía đó, trên rèm giấy cửa sổ in hình một bóng đen, then cửa nhẹ nhàng di chuyển. Nàng hoảng sợ toát mồ hôi, theo phản xạ định nhảy xuống giường, nhưng lại nghĩ như thế không được, then cửa bị mở, chứng tỏ bên trong có người, chăn chiếu vẫn còn hơi ấm, bọn đột nhập nhất định phát hiện ra nàng. Trong lúc cấp bách, nàng vội vàng trèo qua đầu giường, nấp vào cạnh tủ, thuận tay vớ được cái kéo tỉa cành cây.

Thấy cửa bị đẩy nhè nhẹ, một bóng đen lao đến giường, A La không kịp nghĩ, tay cầm kéo xông ra đâm. Không đợi tên này kịp kêu, nàng dùng tay xỉa mạnh một nhát, đánh ngất tên đó. Tim đập thình thịch, tay nhanh nhẹn lột mạng che mặt, không phải Lưu Giác. Là một người đàn ông lạ. A La thở hổn hển, không biết người này có phải do Lưu Giác sai đến bắt mình hay không. Lại nhìn ra ngoài cửa sổ lờ mờ thấy mấy bóng đen di chuyển.

A La giật thót người, nàng ít nhiều cũng biết vài miếng võ, tuy không sánh được với cao thủ võ lâm ở đây, nhưng vẫn có thể xuất vài chiêu. Nhưng thất phu nhân, Tiểu Ngọc và vú Trương không biết gì, tay trói gà không chặt. Lòng nóng như lửa đốt, nàng lột quần áo của tên này mặc vào người, nhắm mắt, lại xỉa thêm nhát nữa. Nàng không biết rằng, tên bịt mặt dễ dàng từ trên núi lọt vào đây, cho rằng khu này chỉ toàn dân thường, nên không cảnh giác, lại thêm A La ra tay rất nhanh, vì vậy vừa rồi nàng mới dễ dàng đánh gục.

A La bịt mặt ra khỏi phòng, mấy bóng đen bên ngoài không nói gì, chỉ nhìn nàng, A La vội gật đầu, nhìn về phía phòng của thất phu nhân và Tiểu Ngọc, thấy hai bóng đen vác họ ra. Lòng đau đớn, không kìm nổi, muốn ra tay, nhưng đối phương có bốn người, nàng tuyệt đối không phải là đối thủ của chúng. Chỉ thấy tim đập dữ dội, mồ hôi túa đầy tay. Lặng lẽ theo chúng đi ra giữa sân, A La giật mình, có tới mười bóng đen bịt mặt trong sân. Chúng vứt thất phu nhân, Tiểu Ngọc và bốn nhân khẩu nhà vú Trương trên nền, lại quay vào nhà, để lại hai tên đứng trông, không đốt đèn. Trong ánh trăng mờ, một tên nói: “Còn mười canh giờ nữa mới đến giờ hành động, xử trí thế nào?”.

Tên cầm đầu nghĩ một lát, nói: “Đôi vợ chồng có lẽ là chủ quán, để lại, còn lại, giết!”.

A La hốt hoảng, lại nghe một tên nói: “Có hai đứa rất đẹp”.

Tên cầm đầu sẵng giọng: “Đừng quên thân phận và nhiệm vụ của ngươi ở đây!”.

Tên bịt mặt quỳ sụp, A La chân mềm nhũn, cũng quỳ theo. Ngay sau đó hai tên đi đến cạnh thất phu nhân và mấy người nằm ngổn ngang, vung đoản kiếm định đâm, A La không kịp nghĩ, tung chân đá chặn, miệng hô: “Cứu với!”.

Giọng nàng lanh lảnh, hai binh sĩ Ô y kỵ bên ngoài nhìn nhau, vọt tường nhảy vào. Mấy tên bịt mặt trong sân kinh ngạc tột cùng, xông vào A La, nàng vừa đánh vừa né, thầm nghĩ như thế này ít nhất bọn chúng cũng không kịp giết thất phu nhân và mọi người. Nàng chỉ đá mấy nhát, xỉa mấy nhát rồi chạy vụt ra ngoài.

Lúc đó hai binh sĩ của Minh tổ đã bắn pháo hiệu, bọn áo đen túm tụm lại một chỗ. A La nghe thấy tiếng gió đằng sau lưng, né người tránh, một binh sĩ lao đến đứng chắn bảo vệ nàng.

Bọn áo đen kinh ngạc không biết cao thủ ở đâu xuất hiện, nhìn thấy khói hoa màu xanh tím nổi bật trên bầu trời đêm, tên cầm đầu vẫy tay ra hiệu, bọn người áo đen ra tay càng mạnh.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 21-5-2013 17:35:54 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 17


Trong phủ tướng quân thành Lâm Nam, các tướng lĩnh ăn uống nói cười rôm rả. Một người nâng cốc rượu nói: “Mạt tướng kính tướng quân một chén, khúc trống trận của tướng quân hôm nay quả thực chấn động đất trời! Khiến quân Trần sợ vãi ra quần!”.

Mọi người tới tấp đứng dậy, nâng cốc, nói: “Nhờ diệu kế của tướng quân mà đánh lui kẻ địch. Mạt tướng khâm phục!”.

Lưu Giác cười, uống hết chỗ rượu trong cốc. Đột nhiên có người hỏi: “Sao không thấy Thiên Tường tướng quân? Mạt tướng đang muốn chúc rượu tướng quân”.

“Thiên Tường tướng quân hôm nay mất sức nhiều, đã đi nghỉ rồi”. Lưu Giác cười giải thích, nâng cốc rượu trong tay, nói: “Quân Trần không biết lượng sức dám đánh lén chúng ta, đến một lần chúng ta tiêu diệt một lần, để chúng biết uy danh của Nam quân! Nào, ta kính chư vị một chén!”.

Mọi người cùng cười uống cạn.

Khi tiệc tàn, Lưu Giác trở về thư phòng, đột nhiên cảm thấy tâm thần bất an. Phàm những nơi có thể tập kích chàng đều đã bố trí canh gác, định để cho quân Trần tiến vào Lâm Nam, để chúng đánh lén suôn sẻ, nhân đó dụ địch vào bẫy, đồng loạt phản công, giáng đòn chí mạng. Kế sách chàng đã nghiền ngẫm nhiều lần, lại đàm luận tỉ mỉ với Cố Thiên Tường, đảm bảo không có kẽ hở, lúc đó mới yên tâm mở tiệc. Nhưng tại sao lòng đột nhiên bồn chồn bất an, nghĩ mãi không hiểu do đâu.

Chàng bước ra sân, hải đường vẫn đang nở rộ. A La, A La! Lòng chàng đau như cắt, bất chợt nhìn về dãy Tây Sơn, lúc đó Lưu Anh vội đi vào: “Chúa thượng, tam tiểu thư xảy ra chuyện rồi!”.

Lưu Giác cảm thấy trong đầu “ầm” một tiếng. Lưu Anh nói: “Người của Minh tổ cấp báo, có mười lên bịt mặt nhảy vào quán trọ của tam tiểu thư, đoán là do thám của quân Trần, nghe nói đều là cao thủ”.

Giữa trời trên đỉnh Tây Sơn phụt lên một đám khói màu xanh tím, ngưng tụ trong đêm, giống lưỡi dao đâm nhói vào tim chàng, nếu không khẩn cấp, Minh tổ sẽ không phát tín hiệu đó. Mỗi kỵ binh của Ô y kỵ đều được trang bị pháo hiệu, tín hiệu có tin cấp báo và cứu viện khẩn cấp khác nhau. Ba binh sĩ của Minh tổ được chàng phái đi bảo vệ A La đều là những cao thủ hàng đầu. Nhìn thấy màu sắc tín hiệu, chàng thậm chí không dám nghĩ đến tình hình bên đó. Lòng như lửa thiêu, phủ tạng như bị dao đâm. Đối mặt với trận tập kích bất ngờ của địch, chàng vẫn mỉm cười, bình tĩnh chỉ huy, nhưng bây giờ, Lưu Giác cố không nghĩ, lập tức mang theo binh lính và Ô y kỵ nhằm dãy Tây Sơn lao đi.

Lúc đó, ba tử sĩ của Minh tổ đang giao đấu ác liệt với mười ba tên áo đen để bảo vệ A La, hai người đã bị thương. Bọn áo đen võ công cao cường, nhưng không ngờ, hai người mới đến lại liều chết kháng cự, giao chiến lâu như vậy mà vẫn có thể phản kích. Tên cầm đầu tính thời gian, có vẻ sốt ruột, nếu trong hoàn cảnh khác, thời điểm khác, chưa biết chừng do tiếc cho tài của họ hắn sẽ thả họ đi. Nhưng bây giờ cần tốc chiến tốc thắng. Hắn xoáy người bay vào vòng chiến, đoản kiếm nhằm tử sĩ Minh tổ vung lên, lưỡi kiếm giữa chừng lại đổi hướng, đâm xéo về phía A La.

Lưỡi kiếm đen sì, trong đêm chỉ có tiếng gió rít, không hề thấy phản quang. Sự đổi hướng đột ngột của đường kiếm khiến A La tránh không kịp, lúc đó một tử sĩ Minh tổ lấy thân chắn trước mặt A La, đoản kiếm “phật” một nhát trúng ngực anh ta, tử sĩ đó nghiến răng chịu đau, trở tay đẩy A La, thét xé họng: “Bảo vệ tam tiểu thư, chạy đi!”.

Tử sĩ kia ánh mắt phẫn nộ, không kịp nhìn huynh đệ bị thương, vội nắm tay A La bay vọt qua tường bao. Người áo đen “hừ” một tiếng, tay cầm kiếm lao theo. Hai bên giao chiến trên không, tử sĩ Minh tổ không còn sức để tránh, A La bị kéo bay lên chỉ cảm thấy mắt hoa, không thể nhận ra lưỡi kiếm phía sau phi đến. Trong thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, một mũi tên bắn trúng lưỡi kiếm đang phi tới, “choang” một tiếng, lưỡi kiếm rơi xuống nền đá.

Tử sĩ Minh tổ đưa A La nhảy xuống bên ngoài tường viện, nhìn thấy Lưu Giác và Ô y kỵ đã đến, thở phào, rồi ngất đi. A La ngơ ngác, cũng không nhìn Lưu Giác, quay người chạy vào trong sân.

Lưu Giác thấy A La bằng xương bằng thịt đứng trước mặt, lòng nhẹ nhõm, nỗi lo lắng thắt gan thắt ruột vừa rồi bỗng tiêu tan. Lại thấy A La bỏ chạy, chàng cau mày, nhún người vọt lên, đứng chắn trước mặt nàng. A La ngẩng đầu nhìn chàng, nước mắt ứa ra: “Mẹ ta và mọi người vẫn còn trong đó”.

Lưu Giác dịu dàng: “Đừng lo, nàng nghỉ đi”.

A La dừng chân, lau nước mắt, thấp thỏm nhìn vào trong tường.

Lưu Giác thầm rên, cố kìm nỗi khát khao ôm nàng vào lòng, nói to: “Những người trong kia nghe đây, ta là Lưu Giác Bình Nam tướng quân của Ninh quốc, đã đợi các người từ lâu, bỏ kiếm đầu hàng, sẽ được tha mạng!”.

“Phịch!”. Bên trong ném ra một xác chết, chính là xác tử sĩ Minh tổ trúng kiếm. A La kinh hoàng kêu lên, vội bịt miệng, binh lính và Ô y kỵ mắt vằn phẫn nộ, nhất loạt tuốt kiếm. Lưu Giác đến bên xác chết, cởi áo xem vết thương, khi đứng lên sát khí đã bừng bừng toàn thân, mắt lóe lên làn sương màu đỏ uất hận. Chàng quay đầu nói với Lưu Anh: “Hộ tống tam tiểu thư về phủ”.

A La kinh ngạc kêu lên: “Ta không đi, ta đợi mẹ và mọi người!”.

Lưu Giác không muốn nàng chứng kiến cảnh máu đổ, nói: “Nàng cùng Lưu Anh về trước, ta sẽ đưa mẹ nàng và mọi người về sau”.

A La tạm yên lòng, vẫn đứng yên giọng kiên quyết: “Hôm nay nếu chàng không để ta nhìn thấy mẹ và mọi người an toàn trở về, ta sẽ hận chàng suốt đời!”. Nàng biết đứng đây cũng chẳng làm gì, nhưng vẫn không yên lòng, đành ép Lưu Giác.

Lưu Giác đang định nói thì cổng sân bật mở, mười ba người áo đen đi ra, thất phu nhân và mọi người bị điểm huyệt đứng ngây một bên.

A La không kìm nổi kêu lên: “Mẹ!”.

Thất phu nhân đứng yên không mở miệng được, nước mắt ứa ra, A La lòng như dao cắt. Lưu Giác cười đau khổ, bọn chúng thật khéo tìm, bắt đúng thất phu nhân của tướng phủ, chàng thở dài.

Toán áo đen ra khỏi sân, thấy quán rượu đã bị bao vây, đốt đuốc sáng trưng như ban ngày, lại thấy viên tướng trẻ tuổi đứng đầu đoàn quân, nụ cười trên môi, ánh mắt lạnh hơn nước sông Hán Thủy, bất giác rùng mình, tên cầm toán áo đen mắt trừng trừng nhìn trả, bỗng cười ha hả: “Sớm nghe đại danh Bình Nam tướng quân thủ đoạn lợi hại, hôm nay diện kiến, quả nhiên khí độ phi phàm. Không biết bọn ta nên hối hận đã vào nhầm nhà hay là nên mừng vì bắt được nhân vật được Bình Nam tướng quân coi trọng”.

Lưu Giác kinh ngạc, không ngờ ánh mắt tên cầm đầu lợi hại đến thế, lại dám nhìn thẳng vào mình, nhưng miệng vẫn cười: “Đầu hàng đi! Khai kế hoạch của bọn bay, vẫn là câu đó, ta sẽ tha tội chết”.

Bọn áo đen cười sằng sặc: “Các ngươi tưởng chúng ta ham sống sợ chết ư? Chúng ta đã đến là không mong sống trở về!”.

Lưu Giác vung tay, quân sĩ xung quanh soàn soạt tra tên vào cung, chỉ chờ lệnh là bọn người trước mặt sẽ bị tên găm, trở thành những con nhím, A La kinh hãi, trợn mắt nhìn Lưu Giác, hét thất thanh: “Đừng!”.

Lưu Giác cau mày, nhìn thấy vẻ đắc ý trong mắt bọn áo đen, thầm than thở, đúng là ném chuột sợ vỡ bình quý. Chàng hít mạnh, ép ra sát khí trên người, lớn tiếng quát A La: “Nàng im ngay, thả hổ về rừng để bọn chúng phá kế hoạch của ta, thà để chúng chết ở đây! Lẽ nào vì mấy mạng sống này mà hại bách tính toàn thành rơi vào hỏa chiến? Lẽ nào nàng vì mấy người thân của mình khiến ngàn vạn tướng sĩ của ta bỏ mạng?”.

A La bị ánh mắt thúc ép của chàng, liên tục lùi về sau. Lưu Giác không nói sai, nước Trần tuyệt đối không vì bị thua một trận mà không đánh tiếp. Mấy người này chắc là kỵ binh được phái đến công phá thành Lâm Nam, giữ họ lại, làm theo mưu kế đã định, là có thể dụ quân Trần rơi vào bẫy của quân ta. Chỉ cần đại phá quân Trần, làm tổn thương nguyên khí của họ, mới có thể tránh được họa chiến tranh, A La rơi nước mắt, nhưng sao nàng đành lòng nhìn Lưu Giác hạ lệnh bắn chết thất phu nhân và mọi người, nếu để cho họ chết như vậy, suốt cả đời nàng cũng không thể tha thứ cho bản thân, làm sao nàng có thể chỉ giữ mạng sống cho mình! Nàng phải liều một phen, nếu thua thì cùng chết, nếu thắng có thể cứu được họ! A La đã quyết, nhanh tay rút thanh kiếm của binh sĩ đứng bên, kề vào cổ mình, đi giật lùi vào sân.

Lưu Giác hét lên: “A La nàng định làm gì?!”.

“Ta hiểu, là không thể thả người đi, ta đảm bảo không để cho bá tính toàn thành chịu cảnh binh đao, nhưng, ta cũng không đành nhìn người thân chết trước mặt. Ta không trách chàng, thật sự không trách chàng. Ta phải cùng chết với mọi người!”.

Lưu Giác vừa lo lắng, tức giận vừa bất lực nhìn A La chầm chậm đi giật lùi vào sân. Nàng đột nhiên nháy mắt cười với chàng, dưới ánh trăng, nụ cười như hoa nở, đẹp đến mê mẩn, tim chàng đập lỡ một nhịp, hơi thở như ngừng lại, cơ toàn thân co rúm, không dám chớp mắt, đăm đăm nhìn người chàng yêu dấu dịch chuyển từng bước.

A La từ từ đi đến trước mặt tên cầm đầu toán áo đen, nhìn thẳng mắt hắn, chĩa mũi kiếm về phía hắn, thản nhiên cất tiếng cười: “Giải huyệt cho mẹ ta và mọi người, đằng nào bọn ta và các ngươi cũng chết cùng nhau!”.

Tên này kinh ngạc nhìn con cá lọt lưới, thầm nghĩ, chính người này làm hỏng mưu kế của bọn ta, còn giết một cao thủ của ta, bây giờ lại lựa chọn cùng chết với người thân! Mắt hắn vô tình lộ vẻ tán thưởng.

Lúc này A La vươn tay cởi dải băng quấn trên đầu, mái tóc dài óng ả sổ tung, xõa đến thắt lưng, ánh mắt long lanh đăm đăm nhìn tên thủ lĩnh.

Hóa ra y là con gái! Tên áo đen lộ vẻ kinh ngạc, loại đàn bà quyết liệt như thế này, hắn chưa từng gặp. Sức chú ý của hắn bỗng chốc bị phân tán vài phần.

A La nhẹ nhàng cởi chiếc áo đen bên ngoài, làn áo mỏng bên trong lập tức tung bay. Nàng biết chỉ cần gió thổi, gió lùa vào áo, cảnh tượng sẽ đẹp đến thế nào. Nàng nhoẻn miệng cười, toàn thân giống như nữ chúa sơn thần rực rỡ tỏa hào quang, lại như một bóng ma mê hoặc trong đêm.

Tên áo đen hoàn toàn sững sờ, sao nàng ta lại đẹp đến thế! Nàng ta cười với hắn, tim hắn đột nhiên giật thót, hắn ngây ngất nhìn tấm thân mảnh dẻ thướt tha trong làn áo mỏng bay bay.

Hắn chớp chớp mắt, muốn xua đuổi sức cám dỗ trước mặt. Nhưng chính trong tích tắc hắn thất thần, Lưu Giác vận hết nội lực giương cung bắn vào tên cầm đầu, Lưu Anh và những binh sĩ khác vọt người xông lên. Tên áo đen lắc đầu tránh mũi tên, A La lập tức cầm kiếm lao đến đứng chắn trước mặt thất phu nhân và mọi người.

Lưu Giác lao đến như tia chớp, kịp thời chặn đòn của tên cầm đầu đang muốn tiếp tục khống chế A La và mấy người nhà. Tử sĩ của Minh tổ theo sát chàng, lập tức tách họ ra, vây chặt bọn áo đen. Toán lính vòng ngoài giương cung, nhằm thẳng bọn chúng.

Tên cầm đầu sững người, cười chua chát: “Thôi được, chỉ trách ta tâm trí không kiên định, lại bị mê hoặc bởi nụ cười của người đàn bà kia”. Nói đoạn, hắn liếc nhìn A La.

A La giật mình, ánh mắt tên này như dã thú hung bạo không thể thuần phục.

“Còn không mau đầu hàng?”. Lưu Giác cười khẩy.

Quán rượu nhỏ bỗng yên lặng khác thường. Tên cầm đầu đột nhiên cười sằng sặc: “Vậy ra tay đi!”. Lời chưa dứt, mười hai tên kia lập tức đứng quây lấy hắn.

Lưu Giác thở dài, với bọn liều chết này, chàng biết sẽ không moi được gì từ chúng, bèn khẽ ra lệnh: “Bắn”.

Các tử sĩ tay vừa buông, tên vun vút như mưa bay vào toán áo đen. Mười hai tên khua kiếm gạt tên, bảo vệ tên cầm đầu. Hắn đột nhiên hét một tiếng. Bốn tên nhảy lên vai những tên khác, tạo thành bức tường sống chắn làn mưa tên. Lưu Giác kinh ngạc, xúc động, tên cầm đầu sau vài động tác nhún người, vận nội công bay vọt qua bức tường ra ngoài như một bông tuyết, còn kịp quay đầu chém phăng đầu những tên vừa đứng làm bức tường sống, chạy vút về phía cánh rừng. Trên không vọng lại tiếng cười điên dại: “Sẽ còn gặp lại!”. Những kẻ khác bị trúng tên, khi thấy tên cầm đầu bỏ chạy lập tức nuốt thuốc độc tự vẫn.

Lưu Giác kinh ngạc nhìn cảnh tượng trước mắt, không biết tên áo đen võ công không thua kém mình đó lai lịch thế nào, mà đáng để mười hai cao thủ xả thân cứu. Không lâu sau, binh sĩ đuổi theo quay về bẩm báo: “Người đó nhảy xuống sông Hán Thủy ở quãng vách đá Tây Sơn”.

Lưu Giác trầm ngâm hồi lâu, rồi ra lệnh: “Về phủ! Mời Thiên Tường tướng quân tối nay tăng cường cảnh giới, cho quân chốt ở cả ba cổng thành đông, tây, nam sẵn sàng đợi lệnh”.

Binh sĩ rút khỏi quán rượu, trong sân chỉ còn Lưu Giác và Ô y kỵ.

Thất phu nhân và mọi người đã được giải huyệt, khóc như mưa, A La cảm thấy chân tay mềm nhũn, ngồi phịch xuống sân. Đột nhiên cảm thấy người ấm sực, Lưu Giác đã cởi áo bào khoác lên người nàng.

A La ngước nhìn, khuôn mặt tuấn tú của Lưu Giác thâm u như nước lạnh, mắt đăm đăm nhìn nàng. Lúc đó nàng mới cảm thấy lạnh, xốc áo bào trên vai, thầm nghĩ, ba năm không gặp chàng đã được tôi luyện trở thành một người đàn ông thực thụ. Lưu Giác cúi nhìn thân người run run của A La, bất giác nghiến răng, mắt hằn lên sự tức giận.

A La buồn bã cúi đầu, nhưng vẫn không chịu tỏ ra yếu thế, nói khẽ: “Ta chỉ lo lắng mà thôi”.

“Lo lắng? Lo lắng đến mức để cho chúng biết giá trị của mình?”.

Giọng Lưu Giác trở nên lạnh lùng vô tình như vậy từ bao giờ? A La từ từ đứng lên, nhìn thẳng chàng: “Ta không thể sai khiến thuộc hạ như chàng, cũng không thể ở trong quân doanh bàn mưu tính kế khi quân địch đến đàng hoàng ứng phó như chàng? Làm sao ta không lo lắng? Ta có bình tĩnh đến mấy cũng không phải là người máu lạnh! Đúng, chàng có dự định của chàng, nếu ta không lên tiếng, có lẽ chúng không biết người bị bắt quan trọng thế nào, nhưng nếu chàng cho rằng ta có thể giấu kín ý đồ, nước đến chân vẫn không vội, thì tiểu vương gia chàng đã đánh giá ta quá cao! Nhưng, tóm lại là ta không đủ bình tĩnh, phá hỏng kế hoạch của chàng, cho nên ta làm vậy, xấu nhất cũng chỉ là muốn phân tán sự chú ý của bọn chúng để chàng khỏi bắn chết tất cả mà thôi!”.

Lưu Giác nghe đến câu cuối cùng, lòng run run, người co rúm, đau nhói tâm can, cố hít mấy hơi dằn lại. Không phải chàng trách nàng không bình tĩnh, khi thấy nàng dùng kiếm uy hiếp, đi giật lùi về phía bọn áo đen, lòng chàng thắt lại, khen cho nàng còn nói thẳng ra, nếu không được thì để chàng ra lệnh bắn chết cả nàng! Lưu Giác đau đớn nhìn nàng, nhưng A La lại không hiểu lòng chàng, nàng không biết ba năm nay tình cảm của chàng đối với nàng đã sâu nặng thế nào, nhớ nhung điên cuồng thế nào, nàng lại còn cho rằng chàng có thể ra tay giết nàng! Hai mắt chàng bốc lửa, lúc này chàng hận là đã không thể giết nàng.

A La cảm thấy từ người chàng tỏa ra từng trận khí lạnh, ánh mắt như muốn nuốt sống nàng, tự dưng thấy sợ thần thái này của chàng. Nàng khép chặt tà áo bào, nàng không để giọng phát run: “Ta không trách chàng nửa câu, thật đấy, dù lúc đó chàng ra lệnh bắn chết ta, ta cũng không trách chàng. Nếu là ta, ta cũng sẽ làm như vậy. Chàng không sai. Nhưng cho ta làm lại, ta vẫn làm như thế”.

Lưu Giác càng thêm hận. A La không trách chàng, nhưng sao nàng không chịu hiểu lòng chàng? Nếu lúc đó nàng có mệnh hệ gì, chàng lắc lắc đầu, quả thật không dám nghĩ tiếp. Sao nàng dám dọa chàng như vậy. Chàng giơ tay điểm huyệt, bế nàng nhảy lên ngựa, nói với đám binh sĩ: “Đưa thất phu nhân và a đầu về phủ”. Nói đoạn thúc ngựa phóng đi.

A La không thể động đậy, miệng không thể nói, trợn mắt nhìn Lưu Giác, thấy mặt chàng sa sầm, không thèm nhìn mình, nàng thở dài. Đúng là nàng không trách chàng, trái lại rất cảm động, có lẽ Lưu Giác đã biết tung tích nàng ngay từ khi nàng mới đến Lâm Nam. Hai tử sĩ liều chết bảo vệ nàng, một người đã mất mạng, nếu chàng không cử người bảo vệ, chắc là nàng đã chết trong tay bọn áo đen. Nàng cũng đâu có ngốc mà không hiểu rằng, nếu Lưu Giác không có lệnh, sao hai người đó chịu xả thân cứu nàng!

Trở về phủ tướng quân, chàng ôm A La vào phòng, cũng không giải huyệt cho nàng, sai bảo hầu nữ: “Cho nàng ấy tắm, thu xếp một chút!”.

A La giương mắt nhìn chàng đặt mình xuống rồi bỏ đi, sau đó mấy hầu nữ đến cởi áo cho nàng, A La đỏ mặt, nhắm mắt, bắt đầu chửi thầm Lưu Giác, mình đã nói không trách chàng ta, còn nói rõ nguyên nhân vậy mà vẫn chơi xấu như thế! Đằng nào nàng cũng không động đậy được, cứ để bọn họ làm gì thì làm.

Nàng dần dần bĩnh tĩnh trở lại, mọi sự việc diễn ra trong đêm lần lượt diễu qua trước mắt như đèn cù. Bọn người áo đen này lén đột nhập vào thành có lẽ là chuẩn bị phối hợp với quân Trần bên ngoài, thấy địa thế quán rượu thích hợp muốn nghỉ chân, đợi đến giờ hẹn sẽ hành động. Bọn chúng đã nói còn hơn mười canh giờ là đến thời điểm hành động ngày mai, mười canh giờ! A La lo lắng, nhẩm tính thời gian, chẳng phải là giờ Hợi tối mai sao? Nếu tên cầm đầu chạy về, quyết định hành động sớm hơn, thời gian càng gấp. Nàng không biết huyệt đạo khi nào có thể giải, khi nào Lưu Giác quay lại, chỉ có thể nhắc mình phải bình tĩnh. Nàng không biết thái độ Lưu Giác thế nào, xem ra chàng rất bực. Vốn dĩ chuyện hai nước giao chiến nàng không quan tâm, nhưng khi chiến sự xảy ra, nàng không muốn Lưu Giác bại trận.

Hầu nữ thay quần áo xong đặt A La lên giường. Nàng tiếp tục thầm ôn lại quá trình sự việc, nhắm mắt, mỉm cười. Chàng quan tâm tới mình ư?

Lưu Giác nghị sự xong vội trở về phòng, thấy A La dường như không còn sức lực, yếu ớt nằm trên giường, khuôn mặt vừa tắm táp trở nên hồng hào, chàng ngây người giây lát. Ba năm không gặp, A La đã đẹp hơn nhiều, càng trở nên hấp dẫn, chàng lặng lẽ đứng nhìn, thấy miệng nàng động đậy rồi bật cười. Nỗi bực kìm nén bấy lâu lại bốc lên, không kìm được, chàng lạnh lùng cất tiếng: “Lại còn cười được?!”.

A La mở mắt, nhìn kỹ Lưu Giác. Mấy năm không gặp, ban đêm trên núi vừa rồi không kịp nhìn chàng, bây giờ nhìn kỹ, vẫn khuôn mặt với đường nét rõ ràng, có phần trầm tĩnh hơn, chỉ có điều bây giờ sắc mặt đã sắt lại sắp thành tảng băng. Nàng chớp mắt, càng thấy buồn cười.

Không cựa quậy được còn cười kiêu kỳ như thế? Lưu Giác càng phẫn nộ: “Nàng còn cười hả, võ công như mèo ba chân của nàng, không bị người ta chẻ ra thật là mệnh lớn!”.

A La lườm chàng. Thầm nghĩ, điều nàng muốn lúc đó không chỉ là để cho tên áo đen trở tay không kịp. Mãi không được động đậy, đã rất khó chịu, giờ lại chỉ có thể nằm thế này nghe chàng nói, càng thấy bực mình nên nàng dứt khoát nhắm mắt.

Thấy A La cười, lườm mình, Lưu Giác tiếc là không thể đánh cho nàng một trận. Đứng trước bọn áo đen, thần kinh chàng đã căng thẳng tột độ, đến khi thấy nàng mỉm cười, mới đột nhiên nghĩ A La dám phóng hỏa đốt cầu phao, bố trí mê trận trốn thoát mấy năm liền, tất không chịu bó tay bị bắt. Chàng chuẩn bị ra tay, đến khi nàng xõa mái tóc, lại cởi áo ngoài, lòng đã biết nàng định phân tán chú ý của đối phương, thắng thì thắng rồi, nhưng thắng một cách thót tim.

“Lại còn dám nhắm mắt tỏ ra bất cần?”. Giọng Lưu Giác trở nên nguy hiểm, tiếng nói rít qua kẽ răng, tay tóm lấy cằm A La.

Chàng định làm gì? A La giật thót mình, vội mở mắt, thấy nộ khí trong mắt Lưu Giác sục sôi như sóng. Thầm nghĩ, không cho cựa quậy, không cho nói, ta còn biết làm gì!

Thấy nàng mở mắt, Lưu Giác buông tay, tay trượt xuống chạm vào cổ nàng, chiếc cổ thon mảnh đến nỗi một tay chàng cũng bóp gẫy. Chàng dừng lại, ngón tay chạm làn da trên cổ, cảm giác mịn như ngọc khiến chàng không thể buông, nghĩ đến thân thể nàng trong làn áo mỏng manh trước gió, lại tức sôi người, nàng dám cởi xiêm y trước bao con mắt trơ tráo! Càng nghĩ chàng càng tức, vừa trở tay, thắt lưng trên eo nàng đã tuột ra, mắt A La cuối cùng lộ vẻ sợ hãi, tiếp đó là phẫn nộ, rồi đột nhiên có ánh nước.

Lưu Giác dừng tay, cơ mặt run run, chàng đứng lên, trở tay giải huyệt cho nàng.

A La không ngờ đã có thể nói được, kêu “a” một tiếng. Cảm thấy huyệt đạo được giải, liền vùng dậy, khép tà áo, tức giận mắng: “Dâm tặc!”.

Lưu Giác thấy buồn cười, nghĩ đến lần đầu gặp ở Đào hoa yến, nàng cũng mắng chàng như vậy, lòng vừa buồn vừa xót xa. Ba năm trước, khi A La bỏ trốn chàng đã hận nàng, tức nàng, nhưng nỗi nhớ và tình cảm lưu luyến ba năm qua đã khiến tim chàng mềm lại. Khó khăn lắm mới lại có được A La ở bên, vậy mà lại khiến nàng sợ gần chết.

Chàng quay người nhìn ra ngoài sân, những bông hoa hải đường chàng đã vì nàng mà đốt lửa sưởi ấm để ra hoa, đang cháy đỏ lung linh trong màn đêm xanh lam mờ ảo. Tim chàng cũng như bị hun đốt trong giá rét, khi nóng khi lạnh. Chàng đột nhiên hít một hơi thật sâu, chầm chậm thở ra, điềm tĩnh nói: “A La, lẽ nào nàng không hiểu lòng ta?”.

A La nhìn tấm lưng thẳng tắp của chàng, bắp thịt chàng co rút, toàn thân như không thể không chế nỗi tức giận đối với nàng. Lòng nàng lại thầm thở dài, há miệng, nhưng lại không thể nói ra. Lưu Giác không dám quay đầu, sợ nhìn thấy nét mặt khiến chàng thất vọng. A La cúi đầu, lòng ngổn ngang trăm mối.

Cuối cùng Lưu Giác thở dài. Lúc này A La sực nhớ có tin cần báo, không đợi Lưu Giác mở miệng, nàng nói: “Ta nghe bọn áo đen nói giờ Hợi tối mai sẽ hành động”.

Lưu Giác sửng sốt, quay người hỏi: “Sao nàng biết?”.

“Ta đánh ngất một tên, đổi y phục của hắn đi vào nhà cùng bọn chúng, nghe thấy chúng nói vậy!”. A La vội kể lại tình hình lúc đó, Lưu Giác càng nghe tim càng đập nhanh, chàng nghiến răng, nói: “Nàng to gan thật!”. Lòng thầm mừng, cũng may mình cho người đi theo, nếu không, mình còn chưa kịp đến nàng đã chết ở đâu cũng không biết.

Lúc này không phải là lúc trách móc A La, đánh bại quân Trần mới là chuyện lớn. Chàng cố nén cơn giận đang bùng phát, lạnh lùng buông một câu: “Nàng nghỉ ở đây chờ đợi”.

A La biết chàng bận đi lo công việc, nhưng vẫn không nén nổi hỏi: “Mẹ ta và mọi người đâu?”.
Lưu Giác không quay đầu, lạnh giọng nói: “Nàng vẫn còn quyền quyết định hay sao? Nếu muốn gặp mẹ thì nên thật thà cho ta nhờ”. Nói xong vội vàng bỏ đi.

Khi chàng đi khỏi, A La nghĩ, Lưu Giác đúng là quá giận. Nàng cũng thấy mệt, không muốn nghĩ chàng sẽ làm gì mẹ mình, bây giờ phải ngủ một giấc đã.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 21-5-2013 17:43:45 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 18



Nỗi mỏi mệt do căng thẳng, do đánh nhau khiến A La ngủ một mạch đến giờ Ngọ. Mở mắt ra, bên ngoài tuyết trắng long lanh dưới ánh mặt trời hắt vào trong phòng, cả phòng sáng bừng lên. Nàng xuống khỏi giường, một nữ tỳ bê nước ấm đến cho nàng rửa mặt, A La ngồi trước gương, nữ tỳ định vấn tóc cho nàng, A La ngăn lại: “Để búi kiểu nam giới”.

Nữ tỳ e dè trả lời: “Tướng quân đã ra lệnh vứt mọi đồ cải trang của tiểu thư đi rồi, sắm toàn đồ mới”.

A La bất lực, nói: “Vậy thì tết bím, không búi nữa”.

Lâu lắm không mặc đồ nữ giới, thay xong trang phục, A La ngắm nghía bản thân, quần áo Lưu Giác đem đến rất vừa vặn, chỉ có chiếc váy hơi dài tới tận mắt cá chân, đi lại không tiện bằng bộ cánh đàn ông. Nữ tỳ lại bê lên mấy món ăn và một bát cháo nóng, A La không khách sáo, ăn no căng.

Ăn uống xong xuôi, nàng hài lòng đứng dậy đi ra ngoài. Nữ tỳ ngần ngại nhắc: “Tướng quân đã dặn, nếu tiểu thư ra ngoài đừng nghĩ chuyện gặp phu nhân”.

A La ngớ người, thầm mắng Lưu Giác dùng thất phu nhân để ép nàng, nhưng không có người để xả giận, mặt lại tươi cười: “Ở mãi trong phòng buồn chết được, ta đi dạo ngoài sân, nếu ngươi không yên tâm cứ đi theo ta”.

Nữ tỳ lắc lắc đầu: “Tướng quân đã dặn, tiểu thư không được ra ngoài nửa bước. Bên ngoài còn có người của Ô y kỵ đứng gác”.

A La bất lực, nghĩ một lúc, nói: “Tìm cho ta mấy cuốn sách viết về Lâm Nam, giới thiệu phong tục tập quán hoặc dư địa chí địa phương, viết về Trần quốc cũng được”.

Nữ tỳ thấy A La không còn ý định ra ngoài, vội gật đầu lia lịa, đi ra, lúc lâu sau, ôm một đống sách đi vào, cười nói: “Tướng quân hình như cũng sợ tiểu thư buồn, đã dặn trước, chỉ cần tiểu thư không ra ngoài muốn ăn gì chơi gì cũng được”.

A La thở dài, xem chừng Lưu Giác nhất quyết giam lỏng mình, lần này quả thật chạy không nổi. Nhưng lại nghĩ, chàng ta chăm sóc mình, cho ăn cho ngủ, cần gì đáp ứng, lại đảm bảo an toàn, xem ra tạm thời sẽ không áp giải mình và mẹ quay về tướng phủ ở Phong thành. Bây giờ đang mải đánh trận, mình sẽ ở đây chờ đợi, chỉ có chiến sự kết thúc, chàng mới có thời gian để ý đến mình. Hiện nay cũng không cần hỏi thất phu nhân và mọi người ở đâu, chỉ cần biết tất cả vẫn an toàn là được. Nàng yên tâm bắt đầu đọc sách.

Ngồi dựa vào giường xem dư địa chí của năm nước, sách viết: “Vào ngày Đại Tuyết, sông Hán Thủy sương mù dày đặc. Từ tây sang đông, mặt sông sương mù cuồn cuộn như con rồng vùng vẫy, cách sông ba trượng không nhìn thấy, mấy nước ven sông thả xuống sông những đồ hiến tế”. Nàng chau mày nhìn ra ngoài trời, tuyết rơi càng dày. Lòng xao động, đi đến bên cửa sổ, kinh ngạc nhìn thấy dưới trời tuyết giá, khóm hải đường trước sân nở đầy hoa, những bông hoa thắm đỏ, cháy rực nổi bật trong tuyết trắng, lung linh chói lòa. Hải đường ở đây có thể nở vào tháng chạp hay sao?

Nữ tỳ thấy A La ngắm nhìn hải đường trước sân, mau mồm khoe: “Hai tháng trước tướng quân ra lệnh dùng giấy gấm trùm lên khóm hải đường, bên dưới đặt những lồng sưởi, do đó những bông hoa này thực ra là được sưởi ấm ngày đêm mới nở được, tiểu thư nhìn xem, những lồng sưởi bên dưới còn chưa tàn”.

“Nhưng hôm nay là ngày Đại Tuyết cơ mà?”. A La nhìn khóm hải đường, nụ cười dịu dàng nở trên khuôn mặt.

“Phải, tiểu thư nên biết từ giờ Tý, sông Hán Thủy bắt đầu có sương mù dày đặc, cao tới mười mấy trượng. Nếu ngày mai đến núi Thiên Long cách thành Lâm Nam mười dặm nhìn xuống, cả dòng sông giống như một con rồng trắng vùng vẫy trong tuyết, đẹp vô cùng. Năm nào vào thời gian này kiệu xe nườm nượp đến núi Thiên Long, náo nhiệt cực kỳ”.

“Bây giờ quân Trần tấn công, cổng thành đã đóng, có còn người lên núi Thiên Long không?”.

“Không có ai dám vượt sông vào những ngày này. Sương mù dày đặc trên sông cách ba thước đã không thấy mặt nhau, quân Trần không thể đến được”.

A La thầm nghĩ, nhất định quân Trần sẽ nghĩ ra cách nào đó, nhân lúc sương mù mà qua sông, khi binh lính áp sát chân thành, sẽ là một trận ác chiến. Mặt sông sương mù dày đặc, làm thế nào để phòng ngự? Nàng buột miệng lại hỏi: “Hán Thủy có đóng băng không?”.

“Hán Thủy không đóng băng, nhưng ven sông sẽ có lớp băng mỏng, thời tiết này cóng lắm”.

“Ngươi đi lấy giấy cứng làm một cái hộp đưa đến đây”. A La ra lệnh.

Lát sau, nữ tỳ mang đến chiếc hộp đã dán xong, A La nhìn chiếc hộp lại nói: “Ngươi hái giúp ta một bông hải đường”.

Sau đó nàng rót nước trà còn ấm vào hộp, dùng sợi chỉ buộc cuống bông hoa hải đường bỏ vào hộp, nói với hầu nữ: “Ngươi để cái hộp này ra sân, trông chừng khi nào đóng băng thì gọi ta”.

A La đọc sách đã thấm mệt, thấy trên cái bàn thấp có đặt cây đàn, chợt bật cười. Lâu lắm rồi không chơi đàn, không biết tay đã cứng chưa. Nàng lướt nhẹ phím đàn, thong thả đánh một khúc, miệng khẽ hát: “Chim bay mỏi cánh chạm chân sông, rồng quẫy chán nằm ngang lưng núi, non non nước nước muôn trùng gấm, hải đường thắm sắc nhớ chàng mà say”. Hát xong mặt hớn hở, lòng lâng lâng. Đẩy cây đàn đứng dậy, đi đến trước bàn trang điểm, ánh mắt cười sóng sánh, nàng thong thả gỡ bím tóc, nói với nữ tỳ: “Vấn tóc giúp ta, lâu rồi chưa chải đầu cho tử tế”.

Nữ tỳ nói: “Tiểu thư mà trang điểm không biết còn đẹp đến đâu”.

A La ngắm mình trong gương: “Không cần quá cầu kỳ, chỉ cần không để mái bờm là được!”.

Nữ tỳ gật đầu, khéo léo vén gọn mái bờm trước trán A La, dùng tinh dầu hoa vuốt cứng, kẹp hắt lên trên, lại dùng thoa cài gọn tóc mai, cuốn thành búi, lấy trâm cài chặt. Cái gáy tròn đầy đặn mịn màng hoàn toàn lộ ra, nàng ngắm nghía, càng ngắm càng vui, lại cười: “Ngắm nữa, có khi tự yêu mình mất thôi”.

Nữ tỳ vui sướng nhìn khuôn mặt rỡ ràng của A La, ánh mắt ngơ ngẩn giống như Tiểu Ngọc hôm nào: “Tiểu thư, đừng cười nữa, như thế này em đã không thể rời mắt được rồi”.

A La lại nổi máu đùa, đưa mắt lúng liếng, lại mỉm cười khiến nàng ta ngây người ra. A La nói nhỏ: “Ra sân xem thế nào”.

Nữ tỳ vội gật đầu.

A La cố nín cười, đi ra mở cửa phòng, mắt nhìn thẳng vào hai binh sĩ Ô y kỵ đứng ngoài cửa, hai người này cũng giật mình, tròn mắt sững sờ. A La bước ra ngoài hai bước họ mới hoàn hồn, cúi đầu nói: “Mời tiểu thư về phòng, tướng quân có lệnh không được để tiểu thư ra ngoài nửa bước!".

Nàng thở dài, thì ra nụ cười chỉ giúp nàng tiến được hai bước, vậy mà tiểu thuyết lại viết, binh sĩ nhìn thấy mỹ nhân thì gươm dao trên người rơi rào rào xuống đất. Mỹ nữ có thể khiến những người lính đứng ngây như khúc gỗ, không biết phải đẹp đến mức nào, nàng lẩm bẩm, chợt một binh sĩ giọng nhẹ nhàng nói: “Đợi tướng quân trở về, tiểu thư xin tướng quân bãi bỏ cấm lệnh là được”.

A La cười quay về phòng, lúc này nữ tỳ đã bê chiếc hộp đi vào: “Tiểu thư, đóng băng rồi!”.

Nàng đón lấy chiếc hộp, bóc lớp giấy, nhấc sợi dây, giữa một mảnh băng trong suốt long lanh nổi lên một đóa hải đường đỏ thắm đóng băng, tuyệt đẹp. Nữ tỳ tấm tắc không ngớt: “Một mảnh ngọc băng tuyệt đẹp”.

A La cười nói: “Ngươi đưa cái này cho tướng quân nhà ngươi được không? Nói là ta thấy hay hay nên làm tặng tướng quân, một tiếng đồng hồ là làm xong. Mang ngay bây giờ, không được chậm trễ”.

Nữ tỳ mặt hớn hở đón mảnh ngọc băng, thận trọng như nâng báu vật.

Lưu Giác cùng Cố Thiên Tường và tướng lĩnh nghị đàm quân sự. Bây giờ đã là giờ Dậu, nếu A La không nghe nhầm, quân Trần sẽ lợi dụng lúc sương mù để vượt sông, nhưng bọn chúng làm thế nào vượt sông trong sương mù thì hiện vẫn chưa biết. Cố Thiên Tường trầm ngâm nói: “Nếu quân Trần vượt sông an toàn, tất sẽ chia quân bao vây thủy trại, chia hai mũi tấn công vào thành”.

“Thiên Tường tướng quân nói chí phải. Hiện nay trong thành chỉ có bốn vạn binh sĩ, các châu phụ cận điều binh chi viện Lâm Nam chí ít cũng phải ba ngày, hơn nữa Yến thành gần nhất cũng chỉ có một vạn binh mã, viện binh từ các thành trì phía xa cũng phải mấy ngày sau mới đến được, trong khi quân Trần dốc toàn lực tấn công. Mặc dù hôm qua, khi bắt đầu giao chiến, chúng ta đã cử người phi ngựa về Phong thành cấp báo, nhưng cũng phải mười ngày nữa Phong thành mới nhận được tin. Sương mù trên sông dày đặc, quân Trần lại bất chấp thời tiết, quyết vượt sông tấn công, cho dù ta huy động thủy binh, triển khai trận địa trên sông, quân địch tất đã có kế ứng phó, thủy quân của ta trong sương mù ắt bị hao tổn vô ích. Cục thế như vậy không biết chư tướng có kiến giải gì?”. Lưu Giác phân tích sơ lược tình hình.

Trong quân doanh, chư tướng nhìn nhau. Quân Trần bất ngờ tấn công, giờ Tý đêm nay lại vượt sông đúng lúc có sương mù khiến họ không thể tin nổi. Sương mù dày đặc như vây, dù thuyền địch đi ngay sát chiến thuyền của ta, quân ta cũng chưa chắc phát hiện ra. Trần quốc tuy nhỏ, binh lực kém xa Ninh quốc, nhưng đã có chuẩn bị sẵn, cũng có thể huy động được hai, ba chục vạn đại quân. Như vậy, nếu quân Trần tiến sát chân thành, binh lực gấp mấy lần Lâm Nam. Không biết họ có trấn thủ được ba ngày hay không.
Cố Thiên Tường trầm ngâm hồi lâu mới trả lời: “Thủy quân sẽ bỏ trống doanh trại, mai phục trên sông trước khi có sương mù. Nếu quân Trần vượt sông an toàn trước khi sương tan, sự an nguy của thành Lâm Nam đành trông chờ vào Bình Nam tướng quân và chư tướng".

“Chỉ có thể như vậy, thủy binh của Nam quân chỉ đảm nhiệm tấn công quân địch sau khi sương mù tan, lục quân giữ trách nhiệm thủ thành, bất luận thế nào cũng phải trụ đến sau giờ Tý ngày mai là lúc sương mù tan”. Lưu Giác và Cố Thiên Tường phân công.

Cố Thiên Tường vội trở về thủy trại điều binh. Khi ra khỏi quân doanh không nén nổi, liếc nhìn Lưu Giác, ánh mắt hai người gặp nhau, đều lộ vẻ quan tâm. Lưu Giác trầm ngâm: “Quân Trần dám vượt sông trong sương mù, Thiên Tường phải cẩn thận!”.

Cố Thiên Tường không trả lời, ánh mắt kiên định tự tin nhìn Lưu Giác, quay người sải bước đi ra.

Lưu Giác bồi hồi, mỗi lần gặp tình huống thế này, luôn là chàng không kìm chế nổi đã lên tiếng trước. Chàng xua đuổi ý nghĩ, hỏi các tướng lĩnh trước mặt: “Chư vị có kế hay nào để thủ thành?”.

Một viên tướng trả lời: “Thành Lâm Nam lưng tựa vào núi, thành trì kiên cố, nếu có thủy quân hợp lực, quân Trần muốn đến được chân thành cũng không phải chuyện dễ. Nếu thủy binh trên sông không chống cự được, quân Trần người đông, e là phòng tuyến dễ bị chọc thủng”.

Một viên tướng khác tiếp lời: “Quân ta đã thu thập cung tên, con lăn và đá tảng trong toàn thành, tập hợp được hai vạn phu trai tráng trong dân chúng. Lâm Nam là nơi thương nhân qua lại, dân bản địa vốn không nhiều, hơn nữa cần đề phòng gian tế của địch đóng giả thương nhân thâm nhập vào thành, nội công ngoại kích”.

Lưu Giác ngồi yên, ngón tay lại khẽ gõ trên bàn. Toán cao thủ quân Trần phái đến tối qua, tên cầm đầu thân thủ không đơn giản. Bọn chúng thông thuộc địa hình dãy Tây Sơn, tất đã có gian tế cung cấp cho bản đồ nội thành. Lâm Nam lưng tựa vào núi, tường thành kiên cố, trận địa dàn trải trên một tuyến dài, tất phải phân tán binh lực thủ thành. Có địa thế hiểm trở để lợi dụng cũng là lợi thế, nhưng xét từ góc độ khác lại trở thành điểm khó trong thủ thành.

Lúc này Lưu Anh đón cái hộp đựng đóa hải đường đóng băng từ tay nữ tỳ, có phần dở khóc dở cười. Đây là lúc nghị đàm quân cơ, vậy mà nàng ta còn đưa đến một thứ đồ chơi trẻ con. Nếu lúc khác, chúa thượng nhất định hào hứng thưởng thức, nhưng lúc này làm thế nào đưa vào được? Lưu Anh bồn chồn đi lại, nghe nữ tỳ truyền lời của A La, lại thêm sốt ruột, tiến thoái lưỡng nan. Ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng quyết định đi vào trướng, trong soái trướng không khí căng thẳng, mấy chục năm không giao chiến, các tướng lĩnh đều không dám chắc. Ngoài ý chí quyết tử thủ thành, nhất thời cũng chưa có kế hay nào khác.

Lưu Giác thấy Lưu Anh đi vội vào, ánh mắt chợt đanh lại, lúc này tiểu tử kia vào đây làm gì? Binh sĩ Ô y kỵ đến Lâm Nam chỉ là thân binh của chàng, không được tham dự luận bàn quân sự, Lưu Anh đi vào, thầm nghĩ nếu không có chuyện khẩn cấp sẽ bị phạt đánh bốn chục roi. Các tướng lĩnh nhìn Lưu Giác có vẻ không hài lòng.

Lưu Anh đi vào trong trướng, nói dõng dạc: “Có người hiến kế, xin chúa thượng ra ngoài, tiểu nhân sẽ trình bẩm rõ”.

Nét mặt chư tướng chợt giãn ra, lộ vẻ chờ đợi. Lưu Giác lẳng lặng đứng dậy đi ra, cười khẩy: “Có chuyện gì phải dùng cớ này? Nếu không có kế thật, ngươi định để chủ ngươi giấu mặt vào đâu!”.

Lưu Anh toát mồ hôi hột, quỳ sụp xuống, hai tay nâng cái hộp: “Tam tiểu thư sai nữ tỳ đưa vật này đến, nữ tỳ nói tam tiểu thư nhắn là không được chậm trễ. Lưu Anh nghĩ, chúa thượng, chúa thượng.”.

Lưu Giác tung chân đá y, sẵng giọng: “Ngươi tưởng chúa thượng ngươi bây giờ vẫn còn tâm trạng vui chơi?”.

Lưu Anh dập đầu lia lịa: “Lưu Anh lỗ mãng, tự đi lĩnh roi phạt!”. Tay vẫn giữ khư khư cái hộp.

Đóa hoa băng lấp lánh dưới ánh nắng nhạt, màu hải đường đỏ chói. Lưu Giác động lòng: “Khoan, mang lại đây ta xem”.

Chàng cầm lên nhìn ngắm hồi lâu, đột nhiên hỏi: “Nguyên văn lời tam tiểu thư thế nào?”.

Lưu Anh đáp: “Tam tiểu thư nói, thấy hay hay, bèn làm tặng tướng quân, nói một canh giờ là làm xong, sai lập tức đưa tận tay tướng quân, không được chậm trễ!”.

Nụ cười hiện dần trên mặt, lòng chàng lâng lâng, A La đã nhìn thấy những bông hải đường chàng ủ vì nàng rồi ư? Cuối cùng đã hiểu lòng chàng rồi ư? Chàng giơ bông hải đường đóng băng lên ánh mặt trời ngắm nhìn hồi lâu, ánh mắt ngưng lại trên đóa hải đường màu đỏ, thầm lặp đi lặp lại lời A La, một ý nghĩ lóe lên trong đầu, chàng bước nhanh vào trong trướng, ngoái đầu, nghiêm giọng nói với Lưu Anh: “Không phải phạt roi, để sau sẽ tính sổ với ngươi!”.

Lưu Anh băn khoăn nhìn chủ nhân, giọng Lưu Giác tuy nghiêm khắc nhưng lại như cười. Y lau mồ hôi, bụng nghĩ, mọi người đều bị tam tiểu thư làm cho phát điên.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 21-5-2013 17:44:54 | Chỉ xem của tác giả
Lưu Giác trở vào trướng, cầm lên miếng ngọc băng nói: “Mọi người nhìn kỹ mảnh ngọc băng này, có nghĩ đến điều gì không?”.

Chư tướng ngây người, giữa mảnh băng kẹp một đóa hoa đỏ, giống đồ chơi mùa đông của trẻ con. Thời tiết thế này một lát sẽ thành băng, hơn nữa băng đóng rất chắc, không khí trong trướng ấm như vậy mảnh ngọc băng cũng không thấy tan hơi.

Lưu Giác dõng dạc: “Lệnh cho binh sĩ toàn thành huy động nồi to trong dân, đun nước sôi chuyển lên tường thành, bắt đầu từ bây giờ đổ nước lên tường thành, nhất định phải biến cả thành Lâm Nam trở thành một tòa băng thành. Như vậy ít nhất cũng kéo dài được ít thời gian”.

Các tướng lĩnh ồ lên, vui mừng ra mặt, nhận lệnh giải tán, triển khai thực thi.

Ba cổng thành mở rộng, quân sĩ cùng với dân chúng bắt đầu đổ nước lên dải đất cách chân tường thành Lâm Nam ba mươi trượng. Nước sôi được vận chuyển lên trên mặt tường thành, đến giờ Tuất, bên ngoài chân tường thành đã có một lớp băng dày, rộng hai thước. Có binh sĩ đã thử giẫm lên lớp băng, ngã oạch trượt từ đông sang tây, xung quanh dậy lên từng trận cười rộ.

Lưu Giác mỉm cười, có bức tường băng này, kéo dài thời gian được một ngày sẽ không thành vấn đề.

Tuyết vẫn không ngừng rơi, trên mặt tường thành Lâm Nam được phủ lên một lớp cỏ dày, cách ba mươi trượng lại đốt một lò than sưởi, lính gác tụ tập bên lò sưởi, lòng thầm cảm kích sự quan tâm của Bình Nam tướng quân. Lưu Giác hạ lệnh, những nhà dân ở trên núi cao không được thắp đèn, trên mặt tường thành Lâm Nam cũng không có một ngọn đèn. Dưới ánh trăng, nhìn ra xa, thành Lâm Nam phía bắc sông Hán Thủy chỉ là một vùng đen ngòm, không phân biệt đâu là núi, đâu là thành.

Vừa đến giờ Tý, mặt sông Hán Thủy bắt đầu nổi lên một lớp sương mù. Hai khắc sau, sương mù đã dày đặc, lúc đầu còn nhìn thấy ánh lửa lập lòe bên bờ kia, về sau tầm nhìn dần dần bị lớp mù trắng cuồn cuộn che khuất, trước mặt chỉ là khoảng không bao la. Lưu Giác đã bố trí xong xuôi, trở về phủ nghỉ ngơi. Nếu quân Trần vượt sông vào giờ Tý, ít nhất có thể nghỉ ngơi hai canh giờ. Chàng sẽ nghỉ một lát, nhân tiện cũng muốn thăm A La.

A La nhẩm tính thời gian, nàng không ngủ, đang tần ngần suy nghĩ quân Trần sẽ vượt sông như thế nào, ánh mắt dừng lại trên hàng chữ “các nước bên sông thả đồ hiến tế”. Thả đồ ư? Nàng lẩm bẩm”thả đồ”..., nếu dùng mảng tre, thả trên thượng nguồn, người dưới hạ lưu đứng đón, có mảng tre dẫn đường, sẽ không bị mất phương hướng. Nếu có người đốt đống lửa to ở Lâm Nam chính là ngọn đuốc dẫn đường toán người áo đen vốn định đốt lửa ở trong thành”.

Vừa lúc đó Lưu Giác đi vào phòng, nghe tiếng A La lẩm bẩm, buột miệng nói: “Chúng ta cũng có thể vượt sông bằng cách đó!”.

A La quay đầu, mắt hai người gặp nhau, Lưu Giác ngây người, tim đập rộn ràng. A La đứng dưới ánh đèn, một quầng sáng nhạt tỏa trên đầu nàng, mắt long lanh, nét mặt trong ngần dịu dàng, ánh sáng như tụ cả lên người nàng. Chàng đứng ngây hồi lâu, rồi thong thả đi đến, giơ tay khẽ chạm vào mặt A La, lại vội thu về, sợ đó chỉ là ảo ảnh.

A La bật cười. Chàng bỗng thấy tức ngực, trấn tĩnh lại, bật hỏi: “Ai bảo nàng ăn vận thế này?”.

Sao? A La hơi xấu hổ, giống như tâm địa bị vạch trần trước mặt mọi người, nàng ngoảnh mặt sang bên, nói dỗi: “Chàng không đi chỉ huy giữ thành, chạy đến đây làm gì?”.

Lưu Giác bối rối đứng ngây người ra, không biết nói gì, chỉ khẽ nhếch môi: “Đến xem nàng có thật thà hay không. Nàng đừng gây chuyện gì cho ta!”.

“Nhìn thấy rồi đó! Chàng có thể đi được rồi! Ta muốn ngủ!”. A La không dám nhìn chàng, leo lên giường nằm, tiện tay kéo rèm, xoay lưng lại.

Bị tấm rèm lụa màu vàng nhạt ngăn cách, chàng bực tức nhìn thân hình lờ mờ của nàng trên giường, nghĩ ngày mai còn phải đối phó với trận chiến quyết liệt, thầm nhủ, đánh xong trận này ta nhất định sẽ xử lý nàng! Chàng thổi đèn, quay ra.

Cố Thiên Tường nhận được tin báo của Lưu Giác liền điều động thủy binh triển khai theo kế hoạch.

Chính vào lúc cả thành Lâm Nam đang ráo riết phòng bị, trên khúc sông phía thượng nguồn Hán Thủy đoạn chảy qua Trần quốc, một đoàn chiến thuyền mang theo mảng tre dàn hàng một, từ từ chèo về phía bờ bên kia. Dòng sông chảy xiết, sương dày đặc, thống soái quân Trần đang sốt ruột chờ đợi. Ba canh giờ sau, một con bồ câu đưa tin đỗ vào tay ông ta, lúc này miệng ông ta mới nở nụ cười.

Giờ Thìn, chiến thuyền Trần quốc ba mươi vạn đại quân nối nhau xuất phát, đội thuyền hùng hậu được những mảng tre dẫn đường, từ từ tiến về phía Ninh quốc ở bờ bên kia.
Giờ Tỵ sáu khắc, quân Trần tiến đến ven sông, tốp binh sĩ đầu tiên xuống thuyền tập kết. Thành Lâm Nam im lìm như chết, trên vọng lầu chiến thuyền của thống soái quân Trần, một âm thanh trầm đục vang lên: “Thả neo công thành!”.

Một giọng khác bên cạnh, vừa mạnh mẽ vừa kiêu ngạo: “Vương huynh yên tâm, lính trong toàn thành Lâm Nam cộng thêm bá tính không quá năm, sáu vạn binh mã, không đáng một pha tấn công. Sở Nam lần này sẽ dùng máu rửa thành Lâm Nam!”. Giọng nói quen quen, đó chính là tên thủ lĩnh áo đen đột nhập vào thành đêm qua.

Hướng cổng nam thành Lâm Nam, lính gác trên tường thành bỗng phát hiện những bóng đen lố nhố nhô ra từ trong sương mù, một tiếng chuông vang lên, viên tướng thủ thành chờ đợi đã lâu, lập tức phất cờ hiệu, hàng ngàn mũi tên từ trên mặt thành bay ra, ánh chớp vun vút, lao về phía những bóng đen, tiếp đó là những tiếng kêu thảm thiết. Sau loạt tên thứ nhất, quân Trần từ các chiến chuyền tràn ra càng nhiều, tiếng hô “giết” chấn động mặt sông, thành Lâm Nam vẫn im lìm như chết.

Quân Trần giương cao lá chắn dàn thế trận, không lâu sau các chiến thuyền ngoài cổng thành phía nam đã triển khai thế trận. Chiến thuyền ẩn hiện trong sương mù, cách sông mấy chục trượng lại là ánh mặt trời rạng rỡ, ánh nắng chiếu lên bức tường băng bao bọc thành Lâm Nam, phản ra những tia sáng lóng lánh ngũ sắc. Lưu Giác đứng trên tường thành, trầm ngâm nhìn đại quân Trần cách thành hai dặm.

Sở Nam nhìn bóng đen trên tường thành, ánh mắt hận thù lóe lên, ra lệnh vẫy cờ hiệu, binh sĩ ào lên như thủy triều, giẫm lên lớp băng cách chân tường thành ba mươi trượng, trượt ngã dồn thành đống, ngay lập tức trận mưa tên trên tường thành nã vào, cứ như vậy hết loạt này đến loạt khác. Sở Nam cau mày, dùng ốc biển thổi tín hiệu thoái binh, quân Trần nhanh chóng lui binh.

Lưu Giác thấy vậy hô to: “Chuẩn bị con lăn!”.

Mấy khắc sau, quân Trần dùng lá chắn đỡ tên, nhanh chóng trải lên mặt băng lớp cỏ dày, lại bị đá tảng từ mặt thành hất xuống tiêu diệt.

Cứ như vậy, đến giờ Mùi quân Trần mới tiến được sát chân thành. Sở Nam lòng như lửa đốt, hai canh giờ mới tiến được đến chân thành, đã tiêu hao mất mấy ngàn quân, trên tường thành Lâm Nam đóng một lớp băng dày, bò lên được đâu có dễ. Hắn dần hiểu ra Ninh quốc đang kéo dài thời gian, đợi sương mù tan, thủy quân sẽ đến, quân Trần lưng bụng đều có địch, vội vàng ra lệnh bắn đá.

Dưới thành Lâm Nam những cỗ máy bắn đá xếp thành hàng, những tảng đá lớn với xung lực cực mạnh bắn về phía tường thành. Một lớp băng vừa bị phá, trên thành lập tức dội nước sôi xuống. Nhân lúc nước chưa kịp đóng băng, đội tiên phong quân Trần quăng móc câu, bắc thang dây trên tường. Một tốp binh sĩ địch ngã xuống, tốp khác lại xông lên.

Lưu Giác lo lắng, bức tường băng chỉ có thể ngăn cản nhất thời, nhưng đối phương người đông, sớm muộn cũng trèo lên được tường thành.

Sở Nam cười sằng sặc: “Truyền lệnh, ai trèo lên được tường thành bất luận sống chết mỗi người thưởng mười lạng vàng”.

Tình hình vô cùng căng thẳng, quân Trần trùng trùng dâng lên, mặt tường băng đã nhuộm máu đỏ, dưới chân thành xác chết ngổn ngang, dưới ánh chiều tà, bức tường băng thấm máu lóe lên những tia sáng kỳ dị, cả chiến trường ảm đạm như địa ngục.

Nam quân cũng tổn thất nghiêm trọng. Sau bốn canh giờ giao chiến, tên không còn nhiều, con lăn và đá tảng cũng gần hết, đá được từ trên núi xuống, gỗ dỡ từ nhà dân gần như sắp không đủ tiếp tế được nữa, quân sĩ đã tỏ ra mệt mỏi.

Mặt trời đã lặn, trăng đã lên cao. Quân Trần ỷ thế quân đông, luân phiên tấn công, không nghỉ ngơi. Lưu Giác nhìn về phía tây, ánh mắt xuyên qua mặt sông phủ kín sướng mù. Cuối cùng đã có những lính Trần đầu tiên trèo lên được tường, chém chết lính thủ thành. Lưu Giác mắt vằn đỏ, xông lên phía trước, kiếm vung lên như chớp, nhanh chóng bịt lỗ hổng vừa bị chọc thủng.

Sở Nam nhìn Lưu Giác vung kiếm ngang dọc, lòng bừng bừng phẫn uất, miệng gầm lên, lao ra khỏi đội quân, giang tay vận khí, tung thân vọt lên mặt tường như một chiếc cầu vồng, quyết đấu với Lưu Giác.

Võ công hai bên ngang ngửa, nhưng Lưu Giác đã bị tiêu hao không ít sức lực, trong khi Sở Nam khí thế như thủy triều, thanh đoản kiếm như con trăn bám riết Lưu Giác, miệng thét to: “Hôm nay ta quyết rửa nhục!”.

Lưu Giác nhìn trời, nói dõng dạc: “Không kịp nữa rồi! Thủy quân của ta đã vượt Hán Thủy, phá thủy trại của ngươi!”.

Sở Nam kinh ngạc, lưỡi kiếm trong tay càng khát máu, một nhát đâm trúng ngực phải đối phương. Lưu Giác lập tức cùng Ô y kỵ xông tới, lưỡi gươm của Sở Nam vung đúng lúc, hai cao thủ đổ xuống, nhưng Ô y kỵ vẫn bám riết Sở Nam. Lưu Giác nhổ ra một ngụm máu, cười lớn: “Ngươi nhìn xem, sương mù đã tan!”.

Gần tới giờ Tý, sương mù trên sông Hán Thủy bắt đầu tan, lộ ra những bóng thuyền dày đặc. Trên mặt sông đột nhiên dậy lên tiếng trống trận, tiếng hô “giết” vang trời.

Sở Nam nhìn chòng chọc vào mặt Lưu Giác, mặt chàng vẫn tươi cười, dường như không phải vừa trúng nhát gươm. Sở Nam lo ngại tình hình trên sông, không muốn đánh tiếp liền bay người nhảy xuống .

Không lâu sau, thế tấn công của quân Trần giảm dần. Lưu Giác đẩy Lưu Anh ra, đứng thẳng người, lớn tiếng hạ lệnh: “Chư vị tướng sĩ, thủy quân của ta đã đột nhập vào đại bản doanh của đối phương, hãy mở cổng thành, hai mũi tiền, hậu phối hợp giáp công!”.
Một vạn binh mã đã chờ sẵn ở cổng thành, thấy trên tường thành cảnh giao chiến khốc liệt, nhưng vẫn phải đợi trong thành, không được manh động, ai nấy đều nóng lòng không yên, giờ đã được lệnh, lập tức hò nhau xông vào đánh quân Trần.


Sử Ninh quốc ghi: Niên hiệu Khánh Nguyên năm thứ ba mươi ba, Trần quốc tập kích, vào Ngày Đại Tuyết, bốn vạn lục quân Ninh quốc thủ thành, ba vạn thủy quân, nhân lúc sương mù vượt sông, phá tan thủy trại của thủy binh Trần quốc kéo dài ba mươi dặm, mười vạn binh mã đại bại dưới chân thành Lâm Nam. Thủy quân Trần quốc tổn thất nghiêm trọng. Trần vương cầu hòa, bồi thường bốn mươi vạn lạng bạc, hàng năm triều cống.

Ánh trăng trải trên thành Lâm Nam ngập máu, tiếng kêu rên thảm thiết vang vọng trong đêm. Cố Thiên Tường vội vã vào thành, Lưu Giác nhìn thấy chàng mỉm cười. Chàng xúc động chạy đến ôm chầm Lưu Giác.

Một tiếng kêu thất thanh, chàng đẩy Lưu Giác ra nhìn, thấy áo giáp của mình thấm đầy máu tươi, cau mày hỏi: “Huynh bị thương sao?”.

Lưu Anh và binh sĩ Ô y kỵ quỳ sụp cầu khẩn: “Xin chúa thượng trở về phủ!”.

Lưu Giác mỉm cười, khuôn mặt tuyệt đẹp lúc đó mới giãn ra, chàng nháy mắt với Cố Thiên Tường: “Huynh ghét nhất thu dọn tàn cuộc, đệ hãy giúp huynh rửa sạch thành!”. Nói xong ngã nhào vào lòng Cố Thiên Tường.

“Khốn kiếp! Các ngươi bảo vệ chủ nhân thế nào vậy?”. Cố Thiên Tường tức giận quát.

Lưu Anh không dám nói gì, ôm Lưu Giác chạy về hướng tướng phủ, binh sĩ Ô y kỵ lên ngựa đi theo. Cố Thiên Tường vẫn chưa hết giận: “Bọn khốn mắt mọc trên đầu!”. Nói đoạn hạ lệnh thu dọn chiến trường.

Trong phủ tướng quân, thấy Lưu Anh ôm Lưu Giác đi vào, mọi người hoảng sợ chân tay mềm nhũn. Đại phu đã chờ sẵn trong phủ, Lưu Anh cởi áo giáp của chủ nhân, phát hiện chiếc áo bên trong đầm đìa máu, nửa thân người như ngâm trong máu, mắt bỗng đỏ hoe.
Đại phu thận trọng cắt lần áo trong, ngực phải lộ ra vết thương mảnh sắc lẹm, máu vẫn đang chảy. Lưu Anh hét lên: “Cầm máu ngay! Chảy thế này hết máu bây giờ!”.

Đại phu giật nảy người, đã quen nhìn thấy máu, lại thêm người bị thương là Bình Nam tướng quân, cho nên đại phu đã dùng những loại thuốc tốt nhất. Cầm máu, băng bó xong, ông ta mới nói: “Vết kiếm không vào chỗ hiểm, cũng không nghiêm trọng lắm, chỉ là mất máu quá nhiều”.

Lưu Anh nói như rên: “Thế là thế nào? Rút cục là sao?”.

“Chẳng thế nào hết, với thể lực của tướng quân, nằm mười ngày nửa tháng là lại khỏe như voi. Bây giờ tướng quân hôn mê là do mất máu nhiều, bồi bổ là không sao”.

Lúc này Lưu Anh mới thở phào, quay đầu thấy sự lo âu căng thẳng trong mắt binh lính và Ô y kỵ đã dịu đi, mọi người lục tục tản ra, ai làm việc nấy.

Cố Thiên Tường xử lý xong công việc cũng đến tướng phủ. Nghe Lưu Anh nói lại tình hình, liếc nhìn Lưu Giác nằm trên giường, mới tạm yên tâm: “Thì ra không chết được!”.

Lưu Anh đã quen thái độ của Cố Thiên Tường, nói: “Chúa thượng sao có thể chết được, còn phải uống Ly nhân túy với Cố tướng quân chứ”.

Ánh mắt Cố Thiên Tường lướt trên mặt Lưu Anh: “Học gì không học, lại đi học cái lối bông phèng của chủ nhân ngươi!”.

Lưu Anh mỉm cười: “Đa tạ tướng quân quá khen, có thể học chủ nhân ít nhiều là phúc của tiểu nhân!”.

Cố Thiên Tường ngoảnh lại, thầm nghĩ, có lẽ cũng phải tìm ngày lành tháng tốt cưới Doanh Tú thôi, để khỏi bị chủ tớ nhà này suốt ngày trêu chọc.

Lúc đó, một mỹ nhân tóc xõa từ ngoài cửa lao vào, tay nâng chiếc váy quét đất, vẻ cuống cuồng hốt hoảng càng đáng yêu, Cố Thiên Tường sững người, phủ tướng quân giấu tuyệt thế mỹ nhân này từ bao giờ vậy?

Lưu Anh bước lên thưa: “Tam tiểu thư, ngực chúa thượng bị thương, mất nhiều máu...”.

A La cũng lo lắng tình hình chiến sự, nàng không hề ngủ, đang mệt mỏi thiu thiu thì nghe tiếng ồn ào, tiếng bước chân gấp gáp bên ngoài, lập tức tỉnh ngủ. Chạy ra cửa hỏi mới biết Lưu Giác bị thương đã được đưa về phủ, nàng thất kinh, chạy vội ra ngoài. Hai kỵ binh Ô y kỵ ngoài cửa cũng không ngăn cản, cùng theo nàng đến phòng của Lưu Giác.

Nàng ngắt lời Lưu Anh: “Liệu có chết không?”. Thấy Lưu Giác nằm trên giường, mặt trắng nhợt, hôn mê bất tỉnh, như không biết gì nữa. Nàng bỗng nói to: “Rút cục vương gia thế nào?”.

Từ lúc A La chạy vào, Cố Thiên Tường vẫn sửng sốt đứng ngây, thì ra Trình Tinh chính là tam tiểu thư tướng phủ! Chàng công tử phong lưu mã thượng có khuôn mặt đẹp như ngọc tạc, hiểu nhiều biết rộng, chính là tam tiểu thư tướng phủ mà thiên hạ đồn là bị bắt cóc. Chàng nhớ lại lần đầu gặp tam tiểu thư này, dáng vẻ quý phái, đôi mắt lóng lánh, hồn nhiên ứng đối những câu hỏi thăm dò, xóa tan nghi ngờ của chàng, lại nhìn A La, rồi nhìn Lưu Giác, vừa giận vừa buồn cười.

Thảo nào Lưu Giác phái binh mã đi theo nàng ta, thảo nào chàng vừa ra khỏi tửu quán đã bị Lưu Giác mời đến phủ, thảo nào chàng tiểu vương gia kiêu ngạo này ba năm nay lưu luyến không quên, thú vị thật! Cố Thiên Tường thấy A La vừa hốt hoảng lo âu vừa nôn nóng, hình như không kiên nhẫn được nữa, lời nói đã có phần bực bội, chàng nhìn sang chỗ khác, giọng đau buồn: “Mất máu quá nhiều!”.

Lòng A La đột nhiên trống rỗng, ngồi phịch xuống giường. Nàng chậm rãi quay đầu, nhìn nét mặt đau đớn của Cố Thiên Tường, nhìn xung quanh, lính hầu, nữ tỳ mắt đều đỏ hoe, như vừa khóc. Lại quay nhìn đại phu, thấy ông ta cúi mặt dường như đang lắc đầu, Lưu Anh đã quay mặt đi, người run run, hình như đang khóc. Mất máu quá nhiều? Cô hét lên: “Vậy mau truyền máu!”.

Mọi người ngớ ra, đại phu hỏi: “Truyền máu thế nào?”.

A La há miệng, lập tức định thần, ở đây làm gì có thiết bị truyền máu, không thể truyền máu cho Lưu Giác được. Mắt nóng ran, nàng hận mình sao không học ngành y, đầu óc trống rỗng, nghĩ mãi không biết làm gì cứu chàng. Không cứu được sao? Lòng nàng đau thắt từng cơn.

Không nhìn mọi người trong phòng, nàng ngơ ngẩn nhìn khuôn mặt tuấn tú của Lưu Giác, khuôn mặt không sắc máu, đờ đẫn bất động. Bàn tay run run giơ ra chạm vào mặt chàng, cảm giác lạnh ngắt khiến nàng giật mình, quay đầu nói gắt: “Sao không đốt thêm mấy lò sưởi?!”.

Mọi người giật mình, nữ tỳ vội chạy ra ngoài bê thêm lò sưởi đi vào. Lưu Anh hình như đã hiểu ý của Cố Thiên Tường, dụi mắt nghẹn ngào nói: “Tam tiểu thư, tiểu thư ở đây với chúa thượng một lát”. Nói xong đưa mắt ra hiệu, mọi người cúi đầu lui ra ngoài.

Ra khỏi phòng, Lưu Anh cúi chào Cố Thiên Tường. Chàng khẽ lắc đầu thấy trời đã rạng, tuyết vẫn đang rơi, bèn nói với Lưu Anh: “Lấy cho ta cái ô, ta muốn đi uống chén rượu nóng”.


Trong phòng yên tĩnh, A La nhìn Lưu Giác không chớp, rồi không nén nổi, vỗ nhẹ mặt chàng: “Chàng tỉnh lại đi? Chàng đừng như thế này nữa được không?”. Cổ họng nghẹn đắng, nàng bật khóc: “Mất máu quá nhiều sẽ bị chết, chàng biết không! Thiếp rất sợ người chết! Chàng đừng chết trước mặt thiếp được không?”.

Lưu Giác không động đậy, chàng đã rơi vào trạng thái hôn mê do mất nhiều máu. Chàng không nghe được mình nói nữa sao? Chàng không thể đứng dậy nói chuyện với mình, đấu lý với mình ư? A La cảm thấy trong lòng có một lỗ thủng đang lớn dần, nước mắt chảy thành dòng xuống má, những chuyện cũ lần lượt hiện ra trước mắt. Vì sao mình lại quan tâm thế này? Vì sao chỉ mới nghĩ chàng không thể dậy được nữa mình lại buồn thế này?

Nàng vuốt nhẹ mặt chàng, lẩm bẩm: “Thực ra chàng rất tuấn tú!”. Ngón tay xuống sống mũi, “Thực ra chàng rất ghê gớm!”. Lại lướt đến môi chàng, “Chàng mới là người khẩu xà tâm Phật!”. Đột nhiên nghĩ mình đến nơi này một cách lạ lùng, suốt ngày lo lắng, nàng bỗng tủi thân òa khóc.

Mi mắt Lưu Giác bỗng động đậy, đầu chàng u u mê mê, trong lúc mê sảng chàng nhìn thấy A La, thấy khuôn mặt như hoa lê dầm mưa trước mắt. Chàng mê sảng nói: “Có phải ta đang mơ không?”.

A La giật mình, không để ý đến chàng, hét to: “Người đâu, bác sĩ! Đại phu! Lưu Anh!”.

Nghe tiếng gọi thất thanh, Lưu Anh và mọi người chạy vào, luống cuống hỏi: “Sao thế?”.

A La không nói được gì, tay chỉ Lưu Giác: “Tiểu vương gia...”.

Lưu Anh bước hai bước đến cạnh chủ nhân, ngoái lại hỏi: “Thuốc đâu?”.

Nữ tỳ vội chạy đi lấy thuốc, Lưu Anh bê bát thuốc bón từng thìa vào miệng Lưu Giác. A La nhìn vậy sốt ruột, hỏi: “Có tác dụng không? Thuốc này có tác dụng không? Có phải tiểu vương gia đang hấp hối”.

Một ngụm thuốc trôi vào cổ họng, hơi đắng, nước làm trơn cổ họng, lại thấy dễ chịu, cuối cùng Lưu Giác nhìn rõ người trước mặt. Giọng chàng yếu ớt nhưng rõ ràng: “Ta chết thì nàng sẽ được tự do!”.

A La ngớ người, quay nhìn Lưu Anh: “Tiếu vương gia sẽ không chết chứ?”.

Lưu Anh ngần ngại cúi đầu: “Mất quá nhiều máu mê sảng thôi!”.

Lưu Giác bỗng giơ tay nắm tay A La, mắt vẫn nhắm, miệng lẩm bẩm: “Không được đi đâu!”.

A La cảm thấy tay chàng khá mạnh, lòng bỗng nhẹ bẫng, mừng quýnh, nghĩ ngay là Cố Thiên Tường cố ý lừa mình, nói giọng giận dỗi: “Không đi!”. Nàng nhìn Lưu Anh: “Thì ra vừa rồi là ngươi cười phải không?”.

Lưu Anh đỏ mặt: “Là... là mừng quá phát khóc đấy mà! Tiểu nhân... tiểu nhân xuống bếp xem sao!”.

“Khoan, bảo nhà bếp, bắt đầu từ hôm nay, mỗi bữa đều cho tướng quân ăn gan lợn, nấu cháo hay hầm canh đều được, dùng táo đỏ, cẩu khởi hãm nước mang đến đây”. Những thứ bổ máu cô biết chỉ có ngần ấy, vội dặn dò Lưu Anh.

Lưu Giác đầu vẫn choáng váng u mê, nghe thấy tiếng nói nhưng không thể mở miệng. Môi chàng nở nụ cười nhợt nhạt.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách