Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Bôbe
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Hiện Đại - Xuất Bản] Chỉ Gọi Tên Em | Thái Trí Hằng [Hoàn]

[Lấy địa chỉ]
11#
Đăng lúc 18-6-2013 13:06:37 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 4


Ngày hôm sau tỉnh dậy, tôi nhảy một phát từ giường trên xuống, đây là thói quen hình thành từ hồi còn học đại học.

Một mặt có thể tức tốc tỉnh táo mà chạy cho kịp tiết đầu tiên, mặt khác, nhỡ may đáp xuống không thành công, cũng có đầy đủ lý do để không phải lên lớp.

Nhưng hôm nay tuy hạ cánh thành công, song hai chân lại mỏi nhừ.

Tôi gần như không đi được.

May mà đánh răng rửa mặt với ăn sáng không cần dùng đến chân, nhưng chặng đường đến giảng đường thì thật lê thê.

“Này.” Vừa bước vào giảng đường, Noãn Noãn liền đưa một lọ gì đó cho tôi.

Tôi cầm trên tay quan sát tỉ mỉ, là thuốc trắng Vân Nam dạng xịt.

“Hiệu nghiệm lắm đấy,” em lại nói.

Tôi xắn ống quần, xịt mỗi bên bắp chân ba phát, cảm giác mát lạnh, đau tê dường như cũng dần dần tan biến.

Trầm ngâm vài giây, tôi lập tức đứng dậy chạy khỏi giảng đường.

“Anh đi đâu đấy?” Tiếng Noãn Noãn với theo sau lưng. “Sắp vào giờ rồi.”

“Đùi cũng cần phải phun nữa,” tôi nói, đầu vẫn không ngoảnh lại.

“Thật là,” Noãn Noãn thấy tôi từ nhà vệ sinh quay lại bèn nói.

Thật là làm sao? Lẽ nào tôi có thể tụt quần giữa giảng đường phun thuốc lên đùi sao?

Hôm nay nghe nói người đứng lớp là một giáo sư đại học, sẽ giảng về đặc sắc ngôn ngữ của tiếng Hán.

Vốn nghĩ chắc sẽ là một học giả già nua, người như vậy thường có thể kiêm cả ảo thuật gia lẫn nhà thôi miên. Tức là vừa sẽ làm ảo thuật khiến mặt bàn có lực hấp dẫn, hút dính lấy mặt bạn; lại cũng là một nhà thôi miên dùng ngữ điệu giảng bài để ru bạn ngủ đi ngủ đi.

Thế nhưng vị giáo sư này tuy đã hơn 60 tuổi, song giảng bài lại rất hóm hỉnh thú vị, giọng điệu nhẹ nhàng không đao to búa lớn.

Bở đám sinh viên chúng tôi đến từ những khoa khác nhau, nên thầy hoàn toàn không giảng những lý luận uyên thâm.

Thầy nói từng âm từng chữ trong tiếng Trung đều có tính sắp xếp kết hợp mạnh, cách ngắt câu khác nhau, ý nghĩa cũng khác nhau. Thậm chí còn thường thấy những câu đọc xuôi cũng được, mà đọc ngược cũng xong.

Ví dụ như “Trẻ con ăn rau cải không thể hư hỏng” câu này sau khi sắp xếp tập hợp lại, có thể trở thành: “Trẻ con không thể ăn rau cải hư hỏng”, “Trẻ con hư hỏng không thể ăn rau cải” đều có nghĩa cả.

Lại có thể trở thành “Rau cải ăn trẻ con không thể hư hỏng”, tuy rằng câu này chỉ có thể xuất hiện trong mấy phim kinh dị.

Tiếng Anh phân làm các thời thì, là bởi coi trọng thời gian, vì vậy nó là ngôn ngữ mang tính khoa học; tiếng Trung không có thời thì, vì người Trung Quốc không chú trọng thời gi­an, không có quan niệm về thời gian.

“Đó là tán nhăng cuội thôi. Một động từ có ba cách viết, đúng là nhàn cư rửng mỡ. Thêm vào một từ biểu thị thời quá khứ chẳng phải là xong sao, hà tất phải khổ sở phân biệt. Đời người các thứ phải học nhiều vô vàn, đừng để động từ làm khó mình.” Thầy mỉm cười. “Đây chính là Phật.”

Tiếng Anh nói a book, a desk, a car, a tree, a man... đều chỉ có một chữ “a”, đơn giản; tiếng Trung lại có cách nói một cây, một hạt, một tờ, một cái, một quyển, một chiếc, một cỗ..., quá phức tạp.

“Đó là bởi người Trung Quốc biết vạn sự vạn vật đều có tính đặc trưng riêng, vì vậy đơn vị đo lường phải khác nhau, biểu thị sự tôn trọng.” Thầy cười lớn. “Đây chính là Đạo.”

Sức sống của tiếng Trung rất mạnh, một từ có thể có bao nhiêu nghĩa quan hệ mật thiết với từ tính của nó.

“Bạn sinh viên nào có thể lấy một ví dụ? Nếu lấy hay, tôi sẽ đích thân viết hai chữ ‘Tài tử’ tặng bạn đó.”

Thầy nói đùa: “Lên mạng bán, có lẽ cũng đáng mấy tiền đấy.”

“Chữ bút lông của vị giáo sư này cực kỳ đẹp,” Noãn Noãn thì thầm nói với tôi, “Lương Lương, thử xem?”

Tôi lắc đầu.

Tôi là người khiêm tốn, lẽ nào tài hoa của tôi cao tám đấu cũng phải để mọi người biết đến hay sao?

Cậu em khóa dưới đột nhiên giơ tay, làm tôi sợ thót tim, thầm nghĩ tên tiểu tử này điên rồi.

Chỉ thấy thầy giáo gật đầu nói: “Mời.”

“Sàng tiền minh nguyệt quang, mỹ nữ lai thưởng quang; y phục thoát quang quang, cộng độ hảo thời quang,” Cậu ta đứng dậy nói. “Bốn chữ ‘quang’ này đều có ý nghĩa khác nhau.”

“Bạn sinh viên này đến từ Đài Loan phải không?” thầy hỏi.

“Dạ.” Cậu ta gật đầu.

“Thật có dũng khí,” thầy giáo lại cười ha hả, “thiếu niên anh hùng.”

Xấu hổ quá, thật đáng xấu hổ. Tôi không ngẩng nổi đầu dậy.

“Vậy lát nữa thầy viết cho em chữ ‘tài tử’ hay ‘thiếu niên anh hùng’ nhỉ?” cậu ta nhỏ giọng hỏi tôi.

“Ngậm mồm vào,” tôi nghiến răng nói.

Thầy giáo tiếp tục để sinh viên Đài Loan cùng sinh viên Bắc Kinh thảo luận về sự khác biệt giữa cách nói hai v

Có người nói, sinh viên Đài Loan nói năng mềm mại nho nhã, ngữ điệu không quá lên bổng xuống trầm, thường dùng từ cảm thán; sinh viên Bắc Kinh nói năng hào khí, ngữ điệu cao, trầm bổng rõ ràng, dùng từ cũng khá tinh giản.

Ví dụ như sinh viên Đài Loan nói “Cậu thật là xinh ấy!”, sinh viên Bắc Kinh sẽ nói “Cậu xinh thật”.

Người ta nói cảm ơn, sinh viên Đài Loan sẽ nói “Đừng khách sáo”; người ta nói xin lỗi, sinh viên Đài Loan sẽ nói Không có gì.

Ngữ điệu luôn kéo bằng, nhỏ nhẹ chậm rãi.

Còn bất kể người ta nói cảm ơn hay xin lỗi, sinh viên Bắc Kinh đều nói “Không sao.”

Câu cuối lên giọng, ngắn gọn, khá có cảm giác hào hùng.

“Chúng ta thử làm một cuộc thử nghiệm nhỏ xem,” sau khi mọi người rào rào nói xong, thầy giáo nói.

Thầy đặt ra một tình huống: Bạn phải đi máy bay tới Bắc Kinh, muốn đi thăm Cố Cung và leo Trường Thành, trước khi ra khỏi nhà nói với mẹ xem phải ngồi máy bay mấy tiếng, mấy giờ tới Bắc Kinh, tới Bắc Kinh xong sẽ gọi về báo đã đến nơi an toàn.

Mọi người lần lượt nói xong, nội dung đều như nhau.

Kết quả phát hiện thấy một đoạn trần thuật gần 50 chữ này có vài chỗ khác nhau về cách nói.

Ví dụ, sinh viên Đài Loan sau cùng nói “Con sẽ gọi về nhà”; sinh viên Bắc Kinh lại nói “sẽ điện lại nhà”.

“Giờ dùng đầu ngón tay đếm xem các bạn vừa nói tổng cộng bao nhiêu chữ?” thầy nói.

Sau khi tính toán bình quân, sinh viên Đài Loan nói 52,4 chữ; sinh viên Bắc Kinh nói 48,

Để đánh giá khách quan, thầy giáo lại đưa ra ba tình huống nữa, kết quả cũng tương tự: trong một đoạn trần thuật gần 50 chữ, sinh viên Đài Loan bình quân dùng nhiều hơn 3 đến 4 chữ.

Tôi thấy không phục, nói với Noãn Noãn: “Mau ra bên ngoài giảng đường. Em nói thế nào?”

“Mau ra ngoài giảng đường.” Noãn Noãn nói.

Đếm ngón tay tính, em nói ít hơn tôi một chữ.

“Cái áo này không tệ,” tôi nói.

“Áo này đẹp đấy,” Noãn Noãn đáp lại.

“Cái áo này đẹp quá mất.”

“Áo này siêu đẹp.”

“Cái áo này quả thực quá tuyệt.”

“Áo này siêu siêu đẹp,” Noãn Noãn cười nói. “Em vẫn dùng ít chữ hơn anh.”

“Em cãi cố. Làm gì có ai nói siêu siêu đẹp.”

“Ở Bắc Kinh nói thế đấy.” Noãn Noãn cười he he.

Cuối cùng thầy giáo lấy tiểu thuyết kiếm hiệp ra làm ví dụ, kết thúc bài giảng buổi sáng hôm nay.

Trong tiểu thuyết kiếm hiệp, đại hiệp Bắc Kinh vừa bước vào quán trọ đã hét: Đem rượu lại đây!

Còn đại hiệp Đài Loan lại nói: Tiểu nhị, cho ta một bình rượu.

Đã thấy rõ khác biệt chưa ?

Đại hiệp Đài Loan thường không bỏ qua chủ từ và thụ từ trong câu, chính là “ta” và “tiểu nhị”; hơn nữa đơn vị đo lường cũng rất rõ ràng, một bình hay một vò, bắt buộc phải phân biệt rõ.

Đại hiệp Bắc Kinh lại đơn giản hơn nhiều, mặc ngươi có là tiểu nhị, tiểu tam hay là chủ tiệm, cứ đem rượu lại đây.

Rượu thì tay ai mang ra mà chả giống nhau.

Vì là ta nói, nên đương nhiên là mang ra cho ta, lẽ nào kêu ngươi đem đi tưới hoa?

Còn về đơn vị đo lường, bất kể dùng bình, vò, vại, chum, cốc, bát, nông hay sâu, cứ đựng được uống rượu là được.

Nếu như luyện đến cảnh giới cao nhất của võ công, đại hiệp Bắc Kinh sẽ chỉ nói: “Rượu!”

Còn đại hiệp Đài Loan dù có đạt đến cảnh giới cao nhất, có lẽ vẫn sẽ nói: “Cho bình rượu.”

Đương nhiên cũng vì vậy mà đại hiệp Đài Loan thường được các quán trọ đặc biệt chào đón.

Bởi chỉ lệnh của đại hiệp Đài Loan rõ ràng, đỡ khiến người ta nhầm lẫn.

Đại hiệp Bắc Kinh chỉ nói đem rượu, nhưng nếu tiểu nhị đem một vò rượu lớn cho đại hiệp Bắc Kinh, bạn đoán xem sẽ ra sao?

“Cái quái gì thế này!” đại hiệp Bắc Kinh tức tối gầm lên. “Ngươi định dìm chết ta đấy à?” Lúc đấy nhất định tiểu nhị sẽ lầm bầm rủa thầm trong miệng cái tên khốn nhà ngài cũng đâu có nói đem ra bao nhiêu rượu.

“Định làm phản hả?” Đại hiệp Bắc Kinh hừ một tiếng bèn rút kiếm ra.

Vì vậy trong tiểu thuyết kiếm hiệp, những trận đánh đấu trong quán trọ thông thường đều xảy ra ở miền Bắc.

Từ xưa Hà Bắc bao tráng sĩ bi ca khảng khái, thường là rượu vào mà đánh nhau, thế còn không bi sao?

“Vậy quán trọ ở Đài Loan thì sao ạ?” một sinh viên hỏi.

“Quán trọ Đài Loan đương nhiên diễn ra nhiều câu chuyện ái tình lâm ly,” thầy cười cười nói. “Các bạn không thấy bán rượu trong quán trọ Đài Loan thường là các tiểu cô nương sao.”

Thầy nói xong, cười rất mờ ám, rồi lập tức thu lại nụ cười, vỗ tay.

“Không tán nhăng cuội nữa, sáng mai chúng ta lại học tiếp phần Văn tự,” thầy nói. “Các bạn mau đi ăn trưa, ăn xong sẽ đi tham quan ngõ cổ.”

Ăn qua quýt bữa trưa trong nhà ăn trường, mọi người lên xe đến thẳng Cổ Lâu, leo lên lầu này có thể nhìn ra thành Bắc Kinh.

Đứng trên Cổ Lâu nhìn ra khu thành cổ Bắc Kinh và những ngõ cổ rối rắm phức tạp, tầm nhìn rất đẹp.

“Trước tiên chúng ta đi dạo gần Thập Sát Hải, cảm nhận một chút,” xuống khỏi Cổ Lâu, thầy Lý nói. “Lát nữa ngồi xe ba bánh dạo ngõ cổ, không cần cuốc bộ nữa.”

Thầy vừa nói dứt, tiếng hoan hô đã ầm ầm vang dội.

Tôi và Noãn Noãn tới cầu Ngân Định, cây cầu đá vòm nối liền Tiền Hải và Hậu Hải của Thập Sát Hải.

Cầu dài chưa đến mười mét, rộng gần tám mét, bên dưới còn có những con thuyền nhỏ xuôi dưới vòm cầu.

Đi từ cầu Ngân Định về phía Hậu Hải, bờ hồ cây cối sum sê, giữa vạt xanh của cây lá điểm xuyến những lầu gác đền chùa cổ kính.

Mặt hồ lặng như gương, phía xa xa, Tây Sơn như ẩn như hiện, vài con thuyền nhỏ lững lờ trôi trên mặt nước, tạo nên một bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp.

Tôi cùng Noãn Noãn đi men theo con đường phủ kín bóng cây ven hồ, tuy đang giữa mùa hạ, nhưng lại cảm thấy rất mát mẻ.

Noãn Noãn mua hai bình sữa chua, chia cho tôi một bình, chúng tôi ngồi bệt xuống đất, cùng phóng tầm mắt ngắm nhìn cảnh hồ.

Dòng thời gi­an dường như chảy chậm lại, gần như ngưng đọng.

Tôi uống một ngụm sữa chua, mùi vị rất tuyệt, cảm giác giống yagurt của Đài Loan.

“Em từng trượt băng ở đây rồi đấy,” bẵng một lúc, Noãn Noãn lên tiếng.

“Trượt băng?” Nhìn nước hồ xanh vắt màu ngọc bích trước mắt, tôi không khỏi thắc mắc: “Ở đây có sân trượt băng sao?”

“Mùa đông đến, mặt hồ kết băng, chẳng phải là sân trượt băng thiên nhiên còn gì?” Noãn Noãn cười khúc khích.

“Quả nhiên ve hè không biết đến băng,” tôi nói, “một người sống ở Đài Loan như anh rất khó tưởng tượng nổi.”

“Anh biết trượt băng không?” Noãn Noãn hỏi.

“Anh chỉ biết ăn băng thôi, không biết trượt băng.” Tôi cười hì hì, “Đến sân trượt băng anh còn chưa thấy nữa là.”

“Bao giờ có cơ hội, anh về quê em, em dạy anh trượt băng.”

“Được thôi. Em phải dạy kiểu, dắt tay anh, rồi nói anh giỏi thật, anh là thiên tài ấy.”

“Mơ đấy à. Em sẽ xuống, rồi mặc kệ anh, còn đứng bên cạnh mắng anh ngốc, làm thế anh sẽ học nhanh lắm.”

“Em mà dạy như thế, anh không học nữa.”

“Không được, anh phải học.”

“Sao chứ?”

“Em muốn nhìn anh ngã.” Noãn Noãn nói xong liền cười rũ.

“Em thật là xấu gớm,” tôi nói.

“Tính từ này thì sát thực hơn rồi đấy.” Noãn Noãn vẫn cười không dứt.

Chúng tôi lại đứng dậy tùy hứng dạo bộ, đi dạo ở đây thật là thoải mái.

“Em đã ở Bắc Kinh năm mùa đông rồi, mùa đông nào cũng đến đây trượt băng,” Noãn Noãn nói.

“Em tốt nghiệp đại học rồi á?” tôi hỏi.

“Vâng,” Noãn Noãn gật đầu, “sắp nghiên cứu sinh năm hai rồi, giờ này năm sau là em đi làm rồi.”

“Làm ở Bắc Kinh à? Hay về quê?”

“Chắc là vẫn ở lại Bắc Kinh làm việc.” Noãn Noãn như thở dài, nói: “Thời gian xa nhà càng dài, đường về nhà càng xa.”

“Nếu như em ở Bắc Kinh làm việc, anh sẽ đến Bắc Kinh tìm em,” tôi nói.

“Thật không?” Noãn Noãn mắt sáng bừng.

“Ừ.” Tôi gật đầu.

“Thế thì tốt quá, ở Bắc Kinh còn nhiều thứ hay lắm, em sẽ chỉ anh xem.” Noãn Noãn rất hứng thú. “Hay nhất là chúng ta có thể lại đi ăn món Tứ Xuyên, món Trùng Khánh, để anh cay ngất đi, chắc chắn là rất vui.”

“Nếu như vậy, anh sẽ lập tức về Đài Loan.”

“Không được, em cứ không cho anh về.”

Noãn Noãn cười rất vui vẻ, nét buồn vừa nãy phảng phất qua mắt em thoắt cái đã tiêu tan.

Trong lòng tôi lại cứ nghĩ đến lần sau gặp lại em ở Bắc Kinh, không biết sẽ thế nào?

Cũng không biết là khi nào nữa?

Và chúng tôi lúc đó, còn có thể ngây thơ đơn giản như bây giờ được không?

“He, nếu như em về quê làm việc, thì anh không tới tìm em nữa à?” Noãn Noãn đột nhiên cất lời.

“Anh không biết Hắc Long Gi­ang là nơi thế nào.” Tôi nghĩ ngợi một lúc, nói tiếp: “Có khi phải leo qua mấy ngọn núi tuyết, nhảy qua mấy con sông băng, chưa biết chừng đi đến hơn nửa tháng mới gặp một bóng người, hơn nữa người ở đó còn không biết nói tiếng phổ thông. Quan trọng là anh không biết săn bắn, không biết phải lấy gì nhét bụng đây.”

“Xem anh tưởng tượng về Hắc Long Giang thế nào kìa,” Noãn Noãn nói. “Hắc Long Giang cũng tiến bộ lắm đấy.”

Xem ra ấn tượng của tôi về Hắc Long Gi­ang e rằng đã dừng lại ở cuối đời Thanh, mà có khi còn sớm hơn nữa.

“Nếu như Hắc Long Giang thật như anh hình dung, thì anh còn đến không?”

Noãn Noãn dừng bước, quay lại đối diện tôi.

“Noãn Noãn.” Tôi cũng dừng bước.

“Ưm?”

“Anh sẽ đến.” Tôi bật cười.

Noãn Noãn cũng cười, nụ cười thật rạng rỡ, như ánh mặt trời mùa đông, tươi sáng mà ấm áp.

Tôi thành thật tin rằng, để thấy lại nụ cười rực rỡ của Noãn Noãn, đến Himalaya tôi cũng sẽ đi.

“Nhưng em phải dạy anh săn bắn trước đã,” tôi nói.

“Cứ không đấy,” Noãn Noãn nói, “tốt nhất cứ để gấu đen cắn chết anh.”

“Gặp gấu đen thì giả chết chứ sao, gì chứ giả chết thì anh có nghề lắm.”

“Còn cả hổ Đông Bắc nữa.”

“Ờm...” tôi nói, “có khi anh không đi thì hơn.”

“Không được, anh vừa hứa sẽ tới mà.”

“Hứa bừa cũng có phạm pháp đâu.”

“Này.”

“Được rồi. Anh đi,” tôi nói. “Nhỡ may gặp phải hổ Đông Bắc, anh sẽ nói lý với nó.”

“Hổ Đông Bắc không hiểu tiếng người đâu.”

“Để gặp em, anh nghìn dặm xa xôi, vượt núi băng ghềnh, chắc chắn khiến ông Trời cảm động. Ông Trời đã thấm thía cảm động rồi, huống chi là hổ Đông Bắc. Có khi nó còn ngậm ngùi xúc động chỉ đường cho anh cũng nên.”

“Đấy là vì nó đói muốn xỉu rồi, đột nhiên thấy thức ăn dâng đến miệng, nên ngậm ngùi xúc thì có,” Noãn Noãn vừa nói vừa cười. Tôi thấy thú vị, cũng cười hùa theo.

Tôi với Noãn Noãn vừa đi vừa cười nói, lại trở về cầu Ngân Định.

Thầy Lý đã tìm được hơn hai mươi chiếc xe xích lô, cứ hai sinh viên ngồi một xe.

Thầy để sinh viên lên xe trước, rồi đi dặn dò từng xe một, không biết nói những việc gì.

Thầy đến bên xe chở tôi và Noãn Noãn, chào người lái xe là bác phu, rồi dặn dò: điểm cuối cùng là Cung Vương Phủ, dọc đường đi nếu chúng tôi thích có thể tùy lúc xuống xe thăm thú, nhưng không được quá lâu.

“Cứ dạo từ tốn, thảnh thơi tản bộ.” Thầy Lý mỉm cười với chúng tôi.

Xe xích lô vừa lăn bánh, Noãn Noãn bèn nói em đến Bắc Kinh lâu vậy rồi nhưng đây là lần đầu tiên được ngồi xe ba bánh đi dạo ngõ cổ.

“Giống cô gái lớn rồi ngồi kiệu hoa ấy,” tôi nói.

“Hả?”

“Đều gọi là lần đầu tiên.”

“Anh nhạt thật đấy.” Noãn Noãn trừng mắt lườm tôi.

“Thưa ông, nghe giọng ông, chắc là người miền Nam?” Bác phu đột nhiên lên tiếng.

“Bác cứ gọi cháu bình thường thôi ạ.” Nghe bác ta gọi ông mà tôi rủn hết cả người. “Cháu từ Đài Loan tới.”

“Thảo nào,” bác phu nói, “người Đài Loan các ngài lịch sự lễ phép lắm, con người rất tốt.”

Tôi ngượng ngùng cười, rồi quay sang Noãn Noãn nói: “He, bác ấy nói anh rất lịch sự lễ phép đấy.”

“Đấy là khách sáo thôi,” Noãn Noãn dửng dưng nói.

“Cô gái ơi, hoàn toàn không khách sáo đâu.” Bác phu cười cười.

“Nghe thấy chưa, cô gái?” Tôi lấy làm đắc ý.

Không ngờ gọi tôi là ông, mà gọi Noãn Noãn chỉ là cô gái, thoắt cái đã cách tới cả hai thế hệ, điều này khiến tôi rất đắc ý.

“Tôi thấy ông đây rất vui tính,” bác phu nói.

“Vì hôm nay thời tiết đẹp quá đấy ạ!” Thấy còn chưa đã, tôi không kìm nổi dang rộng hai tay hét lớn: “Quả thực quá đẹp ấy!”

“Trẻ con,” Noãn Noãn nói.

“Cô gái, cô nói gì?” tôi hỏi.

Noãn Noãn quay đi không thèm đếm xỉa đến tôi nữa, nhưng không lâu sau lại bật cười khúc khích.

“Đúng là trẻ con,” Noãn Noãn quay sang, nhắc lại.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
Đăng lúc 18-6-2013 13:09:46 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 4
(tiếp)

Mấy trăm mét bên ngoài rợp trời nhà cao tầng chen chúc, trên đường tiếng còi xe huyên náo, đèn neon thi nhau nhấp nháy; nhưng chỉ cần rẽ vào ngõ cổ, ta liền như được trở về mấy trăm năm trước, bắt gặp cuộc sống đơn sơ, giản dị của người dân Bắc Kinh.

Bà lão ngồi nghỉ lim dim trước tứ hợp viện, ông lão ngồi kéo đàn nhị trong đại tạp viện, những con người này vẫn không hề bị cuốn đi theo dòng chảy của thời đại.

Từ đường cái rẽ vào ngõ cổ, tựa như đi qua đường hầm thời gian, chiêm ngưỡng hai thời đại khác nhau.

Ở đây không có tiếng xe, có chăng chỉ là những tiếng rao hàng trầm bổng réo rắt của những người bán rong.

Những bức tường và mái ngói phủ rêu xanh, những cánh cửa sơn đỏ loang lổ, những vòm cửa tróc lớp sơn vàng, những hốc trụ cửa sâu trũng, nét cổ xưa hiển hiện mọi nơi trong ngõ cổ.

Tôi và Noãn Noãn xuống xe, bước vào một đại tạp viện, những người sống trong đó rất thân thiện chuyện trò với chúng tôi vài câu.

Những thanh dầm mờ sơn, những bức tường sứt góc, đều khiến chúng tôi say mê nhìn ngắm.

Bác phu xe kể cho chúng tôi mọi thứ về ngõ cổ, bác nói còn có những con ngõ rộng chưa đầy nửa mét.

“Người hơi béo một chút là lách không nổi rồi,” bác cười nói.

“Vậy nếu như hai người gặp nhau trong ngõ thì phải làm thế nào?” tôi quay sang hỏi Noãn Noãn.

“Dùng khinh công vậy,” Noãn Noãn cười nói, “phóc một cái là nhảy qua luôn.”

“Nhỡ hai người đều biết khinh công thì sao?” tôi nói. “Thế chẳng phải phóc phóc hai cái rồi binh một tiếng à.”

Noãn Noãn mang vẻ mặt vừa tức vừa buồn cười; còn bác phu thì bật cười ha hả, tiếng cười vang mãi khắp con ngõ.

Trong lúc cười cười nói nói, tôi bị mùi thơm thức ăn xào nấu bên đường thu hút, Noãn Noãn cũng chăm chú nhìn.

“Em muốn ăn không?” tôi hỏi Noãn Noãn.

Noãn Noãn hơi ngượng nghịu, gật gật đầu.

Tôi bảo bác phu dừng xe, tiến lại gần bên cạnh chảo dầu có một khối bột lớn đã nhào kỹ.

Hỏi là gì, thím bán hàng mới nói đây là bánh rán sữa, rồi thím véo một ít bột, dùng tay nặn thành hình tròn, thả bột vào chảo dầu cho nở to thành hình quả bóng, đến khi quả bánh có màu vàng ươm thì vớt ra, lại cho lăn qua đường trắng.

Tôi mua một ít đem về xe, chia cho Noãn Noãn cùng ăn.

Bánh rán sữa ngoài giòn trong non, vừa mềm lại vừa mịn, cắn một miếng hương sữa tỏa ra thơm phức.

Bác phu đạp xe đều đều, thỉnh thoảng còn ngâm nga hát khẽ.

Tôi và Noãn Noãn vừa ăn vừa nói chuyện, vừa nhìn ngắm xung quanh.

Ở một góc ngõ hẻm thế này, rất khó có cảm giác thời gi­an đang trôi đi, tinh thần cũng dễ dàng tĩnh lặng lại.

“Đến Cung Vương Phủ rồi.” Bác phu dừng xe.

Thầy Lý đứng trước Cung Vương Phủ điểm lại số người, thấy vẫn thiếu hai người nữa.

Một lúc sau, một chiếc xích lô chở cậu em khóa dưới tôi và Vương Khắc được bác phu hùng hục đạp đến với tốc độ nhanh nhất.

Tôi bước lại cốc cho cậu ta một cái, cậu ta làm mặt khổ sở kêu không phải quên thời gian, mà là bị lạc đường.

Hóa ra cậu ta và Vương Khắc xuống xe đi bộ vào tham quan các ngõ, càng đi lại càng xa, càng xa lại càng rối rắm, càng rối rắm lại càng loạn, kết quả mệt lử giữa mấy con ngõ chằng chịt, Vương Khắc còn sợ quá bật khóc.

May mà về sau có một cụ già tốt bụng dẫn hai bọn họ

Cung Vương Phủ tuy nổi danh nhờ được vua Hàm Phong ban thưởng cho Cung Thân Vương Dịch Hân, nhưng thực sự khiến nơi đây trở nên nổi tiếng lại là vì đây từng là dinh cơ của vị sủng thần của vua Càn Long – Hòa Thân.

“Văn hóa Vương Phủ là sự kéo dài của văn hóa Cung đình, Cung Vương Phủ lại là tòa vương phủ được bảo tồn hoàn chỉnh nhất hiện nay. Bởi vậy còn có câu nói ‘Một tòa Cung Vương Phủ, nửa bộ sử Thanh triều’.” Thầy Lý mỉm cười nói tiếp: “Các bạn sinh viên cứ từ tốn thăm thú. Có hứng nghe chuyện thì lát nữa đi với tôi.”

Vừa nghe thầy Lý nói vậy, mọi người đều nhất loạt bám đuôi theo thầy.

Trên đường đi, cảnh vật thanh bình tuyệt đẹp, sắc xuân ngập tràn, ngoài phủ rõ ràng đang nóng oi ả, mà bên trong lại mát mẻ vô cùng. Thầy Lý kể về các kiểu kiến trúc, như cổng vòm kiểu Âu ở cửa hoa viên, vào thời đó ở Bắc Kinh chỉ có ba cánh cổng như vậy; các lầu kịch được xây toàn bằng gỗ, ngay đến một cái đinh cũng không dùng; Bát Sảnh với những mái ngói đầy họa tiết chữ Vạn 卍 của Phật giáo và hình vẽ con dơi (ý chỉ vạn phúc), ngay đến hình dáng bên ngoài cũng tựa như một con dơi đang sải cánh; Lưu Bôi Đình nơi Hòa Thân và các văn nhân nhã sĩ thưởng rượu, bên dưới đình có những rãnh hẹp uốn lượn, chén rượu trôi trên mặt nước, dừng trước mặt ai người đó phải làm thơ, không làm được liền bị phạt rượu; Yêu Nguyệt Đài trên giả sơn, lấy ý thơ “Cử yêu bôi minh nguyệt, đối ảnh thành tam nhân” của Lý Bạch; hai hành lang dốc đứng nối liền Yêu Nguyệt Đài gọi là “Thăng Quan Lộ”, Hòa Thân thường đi qua Thăng Quan Lộ, nên mới từng bước từng bước leo cao đến vậy. Cuối cùng là đến cửa Mật Vân Động, thầy Lý nói: “Tiếp theo là bia Phúc Tự. Hãy quan sát kỹ chữ Phúc trên bia, thử xem có thể nhìn ra mấy chữ.”

Đám chúng tôi từng người nối đuôi nhau bước vào động, Noãn Noãn đi trước đột nhiên vòng lại nấp sau tôi, nói: “Anh đi trước đi.”

“Vì sao?” tôi hỏi.

“Phía trước tối lắm, em sợ ngã,” Noãn Noãn cười nói.

“Anh cũng sợ chứ.”

“Đừng nhiều lời nữa.” Noãn Noãn khẽ huých nhẹ tôi. “Mau đi thôi.”

Mật Vân Động nằm dưới giả sơn, tuy có chút ánh đèn nhưng vẫn rất tối tăm.

Nơi sáng nhất trong động chính là tấm bia Phúc Tự, bởi dưới bia được lắp đèn vàng.

Tôi tiến gần lại xem, bia được che bằng một tấm kính, rất nhiều người không sờ được bia bèn sờ tấm kính cho thỏa nguyện vọng.

Tôi không sờ mà chỉ nhìn chăm chăm vào chữ Phúc một hồi, rồi đi ra.

“Em nhìn được mấy chữ?” tôi hỏi Noãn Noãn.

“Em tuệ căn mỏng, chỉ thấy một chữ thôi.” Noãn Noãn hỏi: “Thế còn anh?”

“He he.”

“Thôi đừng vờ vịt đi, anh cũng chỉ nhìn thấy một chữ Phúc thôi chứ gì,” Noãn Noãn nói.

“Bị em đoán trúng rồi.” Tôi bật cười.

Thầy Lý thấy mọi người đều đã ra đủ, kêu mọi người tập trung lại, rồi nói: Bia Phúc Tự có hơn ba trăm năm lịch sử, do đích thân vua Khang Hy chấp bút; bên trên còn có ấn tỷ của Khang Hy. Trong thành Bắc Kinh, Khang Hy chỉ đề có ba chữ, hai chữ còn lại chính là “Vô Vi” trên bức hoành trong điện Gi­ao Thái của Tử Cấm Thành, nhưng Vô Vi lại không được đóng ấn tỷ của Khang Hy. Thái hậu Hiếu Trang mẹ vua Khang Hy, trước đại thọ sáu mươi đột nhiên lâm bệnh nặng, thái y bó tay hết cách, Khang Hy bèn viết chữ Phúc này để cầu phúc cho mẹ, Thái hậu Hiếu Trang nhận được chữ Phúc, quả nhiên khỏi bệnh. Tấm bia này là quốc bảo Đại Thanh, luôn được cất giữ trong Tử Cấm Thành, nhưng đã biến mất một cách thần bí vào thời Càn Long, không ngờ sau lại xuất hiện trong hoa viên sau của Hòa Thân. Vì sao Hòa Thân lại có nó trong tay vẫn là một bí ẩn không ai biết. Nhưng khi vua Gia Khánh lục soát nhà Hòa Thân, chắc chắn đã phát hiện ra vật quốc bảo bị mất này, vì cớ gì lại không mang đi ?

Thầy Lý chỉ ngọn giả sơn, kêu mọi người quan sát tỉ mỉ hình dạng ngọn núi, rồi nói tiếp: Tương truyền kinh thành có hai dòng long mạch, một dòng nằm giữa Tử Cấm Thành, một dòng là sông Hộ Thành, Cung Vương Phủ nằm chính tại điểm gi­ao nhau của hai dòng long mạch, do đó động bia có thể gây động long mạch. Lại nhìn ngọn giả sơn này, mọi người đã nhìn ra dáng rồng chưa? Trên giả sơn có hai miệng ang, có ống dẫn nước vào trong ang, nhưng ang có lỗ thủng. Nước từ đáy ang chảy xuống giả sơn, đá núi lâu năm ẩm ướt bèn mọc đầy rêu xanh, tạo thành Thanh Long, Thanh Long lại là rồng nhà Thanh. Bia Phúc Tự đặt ở động dưới núi, tuy chỉ cao hơn một mét, nhưng dài gần tám mét, gần như xuyên suốt cả ngọn giả sơn; nếu như đem tấm bia đi, ngọn giả sơn sẽ bị sụp, Thanh Long cũng sẽ bị hủy. Gia Khánh sao có thể cắt đứt long mạch Đại Thanh cũng như hủy hoại Thanh Long chứ? Vì vậy vua Gia Khánh ôm hận dùng đá lấp kín cửa Mật Vân Động. Năm 1962, khi trùng tu Cung Vương Phủ, các nhà khảo cổ mới vô tình phát hiện tấm bia Phúc Tự thất lạc đã lâu này trong động.

“Tới Cố Cung phải tận hưởng vương khí, tới Trường Thành phải tận hưởng bá khí, tới Cung Vương Phủ phải tận hưởng phúc khí. Mong rằng các bạn đều có thể hưởng được đầy mình phúc khí,” thầy Lý cười nói. “Còn về chữ Phúc này bao gồm bao nhiêu chữ? Cứ về rồi dần dần cân nhắc. Bây giờ mọi người tự do đi thăm quan, nửa tiếng sau tập trung ở cửa lớn.”

Cả đám sinh viên lần lượt tản ra, tôi và Noãn Noãn đi về phía xa vắng lặng, tới Mẫu Đơn Viện trong Thùy Hoa Môn.

Chính giữa Mẫu Đơn Viện có một cái hồ nhỏ, chúng tôi bèn ngồi nghỉ trên mấy tảng đá ven hồ.

“Chúng ta đều chỉ nhìn ra một chữ Phúc, như thế liệu có hưởng phúc được không?” Noãn Noãn nói.

“Ờ...” tôi thoáng nghĩ ngợi, “cũng không biết nữa.”

Mà tôi còn chẳng sờ vào tấm kính, không khéo tấm kính đã hút hết phúc khí của tấm bia Phúc Tự rồi cũng nên.

“Noãn Noãn,” tôi giơ má trái lại gần em, “làm đi, anh không ngại đâu.”

“Hả?”

“Vừa nãy em chắc chắn đã sờ vào tấm kính ấy, giờ lấy tay em sờ sờ mặt anh đi.”

“Anh mơ đấy à,” Noãn Noãn nói, “hơn nữa em cũng có sờ kính đâu.”

“Anh!” Cậu em khóa dưới tiến lại, nói: “Để em đến phục vụ anh.” Nói rồi, cậu ta chu mỏ, xồ vào tôi.

“Làm cái gì đấy?” Tôi đẩy cậu ta ra.

“Ở trong động em bị vồ ếch, vừa may hôn đúng vào tấm kính. Nào để em chia sẻ cho anh ít phúc khí.” Cậu ta lại chu mỏ xông tới.

“Muốn chết à.” Tôi lách qua, giơ chân đạp cho cậu ta một cái vào mông.

Cậu ta cười ha hả, vừa cười vừa chạy lại bên Vương Khắc.

“Ít nhiều gì thì cũng được hưởng chút phúc khí mà,” Noãn Noãn nói.

“Thực ra...”

Noãn Noãn ngắt lời tôi, nói: “Anh đừng có nói mấy câu kỳ quái nữa, kẻo làm phúc khí sợ quá chạy mất dép đấy.”

“Ờ.” Tôi ngậm miệng lại.

Noãn Noãn thấy tôi không nói gì nữa, bèn nói: “Thôi anh có gì thì nói đi.”

“Anh sợ nói ra mấy câu kỳ quái.”

“Nếu như kỳ thật, thì em đành chấp nhận vậy.” Noãn Noãn bật cười.

“Vừa rồi anh muốn nói, thực ra có đến Cung Vương Phủ hay không cũng chẳng thành vấn đề, vì đến Bắc Kinh lần này quen được em, đã là một cái phúc lớn rồi.”

Noãn Noãn mỉm cười ngượng nghịu, khẽ đưa mắt nhìn ra hồ.

Tôi thấy em không nói gì, cũng không nói nữa, ánh mắt cũng dần dần hướng ra hồ.

“Dưới hồ có cá đấy,” rất lâu sau, Noãn Noãn rốt cuộc cũng lên tiếng.

Trên mặt nước có năm sáu con cá nhỏ dài chừng ba xăng ti mét đang bơi lội tung tăng ven bờ, Noãn Noãn nhúng tay phải xuống nước, đùa giỡn theo đàn cá.

Tôi cũng nhúng tay phải xuống hồ, lúc thì đùa phía sau chúng, lúc lại vượt lên chặn đầu.

“Ấy, anh đừng có làm thế, làm cá sợ bây giờ,” Noãn Noãn cười nói.

“Thế em sợ rồi à?” tôi hỏi.

Noãn Noãn không trả lời, chỉ khẽ gật đầu.

“Ừm... vậy...” tôi hơi bứt rứt không yên, “anh chỉ là nói ra chút cảm nghĩ thôi, em đừng bận tâm nhé.”

“Không sao,” Noãn Noãn nói.

Tay phải của tôi và Noãn Noãn vẫn đang ngâm trong nước, khựng lại không động đậy, như thể trong không khí có một thứ cảm giác tinh khiết, chỉ cần khẽ khuấy động mặt nước hoặc thu lại tay về sẽ có thể phá hỏng sự tinh khiết ấy.

“Sao miệng anh hôm nay nói ngọt thế?” Noãn Noãn nói. “Anh nói thật xem, có phải vì ăn

“Cũng có thể,” tôi nói.

“Ăn xong bánh rán sữa, đến giờ hương vẫn còn lưu trong miệng em đây này.” Noãn Noãn nhoẻn miệng cười.

“Anh cũng thế,” tôi nói. “Nhưng dù anh có ăn một đĩa lớn đậu phụ thối, miệng thối thì cũng vẫn sẽ nói thế. Vì đấy không phải lời đầu môi chót lưỡi, mà xuất phát từ trong lòng anh.”

Sau đó là một quãng im lặng.

Tôi nhìn đồng hồ, quyết định phá vỡ bầu không khí im lặng, nói: “Noãn Noãn, cũng gần đến giờ tập trung rồi đấy.”

Noãn Noãn thu tay phải lại, đứng lên.

Tôi cũng đứng lên, xoay xoay cổ cho đỡ mỏi vì ngồi lâu.

Tay trái Noãn Noãn đang rút khăn giấy khỏi túi, tôi đột nhiên nói: “Đợi chút.”

“Hả?” Noãn Noãn dừng tay lại, nhìn tôi.

“Em xem,” tôi chỉ xuống hồ nước, “hồ nước này giống cái gì?”

Noãn Noãn quay đầu quan sát chăm chú hồ nước, rồi khẽ kêu thầm một tiếng: “Giống con dơi.”

“Cuối cùng chúng ta cũng hưởng được phúc khí rồi.” Tôi cười hả hê. “Đừng lau tay khô đấy.”

Đi được mấy bước, Noãn Noãn bỗng lấy tay phải búng nước lên mặt tôi, cười cười nói: “Cho mặt anh cũng được hưởng chút phúc khí.”

Những giọt nước làm mắt kính tôi bị lóa, gỡ kính xuống lau khô rồi đeo lại, Noãn Noãn đã chạy đi xa tít.

Đến khi tôi tới được cửa lớn Cung Vương Phủ tìm Noãn Noãn định báo thù, tay phải cũng đã khô cong.

Thầy Lý dẫn cả đoàn đến một khu ngõ cổ vắng vẻ, bữa tối sẽ là những món ăn thường ngày của người Bắc Kinh.

Cửa tiệm không lớn lắm bị đám sinh viên chúng tôi ngồi cho chật ních.

Bác chủ tiệm biết một nửa số chúng tôi là từ Đài Loan tới, bèn đi từng bàn hỏi: “Có ăn quen không?”

“Có phải ăn không quen thì không cần trả tiền không?” tôi quay sang hỏi Noãn Noãn.

“Nói bé thôi.” Noãn Noãn lấy cùi chỏ huých huých tôi.

“Có phải ăn không quen...” tôi tăng cao âm lượng.

“Này!” Noãn Noãn hốt hoảng, kéo mạnh tay áo tôi, làm đũa trên bàn rơi hết xuống đất, phát ra tiếng kêu khô khốc.

Bác chủ bước lại, hỏi tôi và Noãn Noãn: “Ăn có quen không?”

“Quen lắm, rất quen, cực kỳ quen bác ạ,” Noãn Noãn vội vàng trả lời.

“Thực ra là không quen lắm,” tôi nói. “Cháu không quen ăn mấy đồ ngon thế này, cứ thấy có gì đó không thật, cứ như trong mơ vậy.”

Bác chủ ngây người một lúc, rồi bật cười ha hả, vỗ vai tôi nói: “Chàng trai tốt, đúng là một chàng trai tốt.”

“Anh cứ phải nói linh tinh mới ăn được cơm đấy à?” Giọng Noãn Noãn có chút bất lực.

“Quen lắm, rất quen, cực kỳ quen,” tôi cười cười nói, “em lợi hại đấy, ba kiểu quen hợp nhất, đúng là vô địch”

Noãn Noãn và một miếng cơm, cũng tự thấy buồn cười, không nhịn nổi nữa, bật cười khúc khích.

Bữa cơm rất thịnh soạn, có bắp cải luộc, đậu phụ tiêu cay, tôm rang, chân giò tỏi, thịt thái chỉ xốt xì dầu đặc sản Bắc Kinh, vân vân, món nào hương vị cũng đậm đà lại rất trôi cơm, khiến tôi ăn liền ba bát.

Thầy Lý bước đến bàn chúng tôi, mỉm cười nói: “Ông chủ tiệm vừa nói với thầy hôm nay giảm giá vịt quay, có làm chút không?” Mọi người tức khắc đặt đũa xuống, vỗ tay rào rào. Cứ thế hết bàn này đến bàn khác dậy lên tiếng vỗ tay.

Xem ra bọn sinh viên chúng tôi quả thật đã được hưởng phúc rồi.

Ăn xong, rời khỏi tiệm, bác chủ tiệm còn ra tận cửa tiễn chúng tôi.

Tôi nói với bác: “Hoan nghênh lần sau lại tới chơi Bắc Kinh.”

Bác chủ tiệm lại cười ha hả nói: “Thằng nhóc này được lắm.”

Tôi ăn quá no, vừa lên xe đã ngồi phịch xuống ghế, bị Noãn Noãn mắng: “Đồ tham ăn.”

Lúc xuống xe, cũng phải nhờ cậu em khóa dưới kéo dậy, tôi mới đứng lên được.

Mọi người dường như đã thành nếp, kết thúc một ngày hoạt động, quay về trường tắm giặt xong, lại tập trung tại giảng đường.

Cậu em khóa dưới mua một cái áo phông có in chữ Phúc, đem trải lên bàn cho mọi người rầm rộ nghiên cứu cái chữ.

“Đã ngẫm nghĩ ra chưa?” thầy Lý bước vào hỏi.

“Vẫn chưa ạ,” mọi người đồng thanh trả lời.

“Bộ bên phải là cách viết chữ ‘Thọ’ trong Lan Đình Tự của vua Khang Hy,” thầy Lý vừa chỉ vừa nói. “Bộ bên trái giống chữ ‘Tử’ và chữ ‘Tài’, góc trên bên phải nét bút giống chữ ‘Đa’, góc dưới bên phải là chữ ‘Điền’, nhưng chữ Điền này lại không đóng bộ khẩu, thầm chỉ phúc lành vô biên.”

Mọi người gật đầu lia lịa, như đã ngộ ra chân lý.

“Chữ Phúc này bao gồm chữ Tử, Tài, Đa, Điền, Phúc, Thọ, ý chỉ đa tử, đa tài, đa điền, đa phúc, đa thọ,” thầy Lý cười, “đã hiểu chưa?”

“Tâm cơ của Khang Hy thật sâu xa,” tôi nói.

“Đừng nói linh tinh đi,” Noãn Noãn nói.

“Hòa Thân mới được gọi là có tâm kế, thông minh tuyệt đỉnh. Chỉ đáng tiếc, ông ta có hướng cầu phúc, có đạo hưởng phúc, nhưng lại không biết tích phúc. Do vậy tuy vinh hoa một đời, lại là người nhiều phúc, cuối cùng vẫn rơi vào kết cục tự vẫn, nhà cửa bị tịch thu.” Thầy Lý ngừng một lúc, nói tiếp: “Ý nghĩa thực sự của phúc, thực chất là tích phúc.”

Thầy Lý nói xong, đoạn dặn dò mọi người mau về nghỉ ngơi sớm, rồi rời khỏi giảng đường.

Đám chúng tôi buôn chuyện một chập nữa, mới ai về phòng nấy.

Cậu em khóa dưới vừa về đến phòng liền mặc ngay chiếc áo phông chữ Phúc. Từ Trì còn lại gần sờ một vòng.

“Thoải mái quá,” cậu em nói, “Anh, anh cũng ra đây sờ đi.”

Tôi chẳng buồn để ý đến cậu ta.

“Anh, em còn mặc cả quần sịp chữ Phúc đây này,” cậu ta lại nói. “Không sờ thật à?”

“Đồ biến thái!” tôi túm lấy gối đập cho cậu ta mấy cái vào đầu.

Cậu ta cười ha hả, Từ Trì và Cao Lượng cũng cười phá lên.

Tôi nằm trên giường, ngẫm nghĩ về lời thầy Lý vừa nói: Ý nghĩa thực sự của phúc, thực chất là tích phúc.

Nếu như nói quen với Noãn Noãn thật sự là cái phúc của tôi, vậy lại phải tích phúc thế nào đây?


HẾT CHƯƠNG 4
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
Đăng lúc 20-6-2013 12:29:10 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 5


Sáng sớm ngủ dậy, bước tới phòng vệ sinh vẫn còn mơ mơ màng màng.

Đụng ngay phải cậu em khóa dưới, cậu ta bảo: “Anh, lêu anh cái mông.” Tôi lập tức tỉnh táo, kẹp cổ cậu ta, đe: “Vừa sáng ra đã muốn ăn đòn hả.”

“Là Từ Trì dạy em,” cậu ta thều thào trước khi đứt hơi.

Từ Trì nói đây là tiếng địa phương ở quê cậu ta, dùng để chào hỏi.

Cũng chẳng biết là thật hay giả, nhưng trông bộ dạng Từ Trì chẳng giống đùa chút nào.

Nếu gặp phải con gái mà nói câu này chắc sẽ bị kiện tội quấy rối, còn nếu phải con trai, hẳn sẽ bị tẩn cho một trận nhừ tử.

Nhưng vẫn còn hơn cậu chàng đó lại tụt quần xuống mời bạn chào hỏi thật.

Trước cửa nhà ăn, thầy Lý đứng bàn bạc với thầy Trương một lúc, rồi thông báo: “Hôm nay chúng ta ra ngoài uống nước đậu, cảm nhận chút ít văn hóa ẩm thực Bắc Kinh xưa.”

Tôi hỏi Noãn Noãn: “Nước đậu là sữa đậu nành á?”

“Đương nhiên không phải,” Noãn Noãn nói, “sữa đậu nành làm từ đậu tương, còn nước đậu làm từ đậu xanh. Nước đậu chỉ Bắc Kinh mới có, ở nơi khác không thể uống được.”

“Có ngon không?” tôi lại hỏi.

“Đảm bảo sẽ khiến anh có ấn tượng sâu sắc,” Noãn Noãn nói, thái độ rất kỳ lạ.

Tôi thấy lạ, lại hỏi Từ Trì: “Nước đậu có ngon không?”

“Sẽ khiến anh nhớ suốt đời.” Thái độ của Từ Trì cũng rất thần bí kỳ quái.

Tôi nghĩ Cao Lượng là người thật thà, lời nói có lẽ không giả, bèn hỏi tiếp Cao Lượng: “Nước đậu có ngon không?”

“Ờ...” Cao Lượng ậm ờ một hồi, nói: “Lần đầu em uống xong, ba tháng sau ngất ngưởng ngật ngưỡng.”

Ấn tượng sâu sắc, nhớ suốt đời, ba tháng ngất ngưởng ngật ngưỡng, tại sao đều là mấy loại hình dung này.

Trả lời có ngon hay không lại khó đến thế sao?

Nếu như bạn hỏi: Cô bé đó trông thế nào?

Người ta trả lời: Xinh lắm, bảo đảm khiến cậu nhớ suốt đời.

Bạn đương nhiên sẽ rõ, mình sắp được yế kiến một tuyệt thế gi­ai nhân rồi đây.

Nhưng nếu như người ta chỉ trả lời: Đảm bảo khiến cậu ấn tượng sâu sắc, nhớ suốt đời, ba tháng ngất ngưởng ngật ngưỡng.

Làm sao bạn biết cô bé đó có xinh hay không? Dẫu gặp khủng long cũng sẽ ấn tượng sâu sắc đến cả đời không quên, rồi ba tháng sau ngất ngưởng ngật ngưỡng mà.

Vừa bước vào tiệm nước đậu, đã lập tức ngửi thấy một mùi men chua nghẹt mũi, khiến người ta thấy không thoải mái cho lắm.

Bát nước đậu đặc sánh được bê lên, màu xanh tro trong vắt; ngoài ra còn có một đĩa dưa muối, một đĩa quẩy vòng.

Sợi dưa muối mỏng dài được rắc lên mấy hạt vừng với dầu cay, còn quẩy vòng được rán tới vàng ruộm.

“Cái này phải ăn nóng,” Noãn Noãn bảo tôi, ánh mắt vừa như cười lại như không cười.

Tôi lập cập bưng bát lên, cẩn trọng kề miệng vào thành bát, chậm rãi húp một ngụm nhỏ.

“Ặc!” Tôi kêu lên thảm thiết, nước đậu không chỉ chua mà còn có mùi kỳ kỳ như đậu phụ thối, khiến người ta buồn nôn.

Tôi phồng mang trợn má, bóp mũi bịt tai, nhăn nhó mặt mày, vận đủ ngũ quan mà vẫn không đuổi được cái vị kỳ quái đó đi.

Noãn Noãn cười khúc khích, vừa cười vừa nói: “Mau ăn ít dưa muối cho xuôi đi đã.” Tôi vội vàng gắp một gắp dưa muối bỏ vào miệng, nhồm nhoàm nhai vài miếng, quả nhiên có tác dụng.

“Vị nước đậu kỳ thật đấy,” tôi nói.

“Đấy là ảo giác thôi,” Noãn Noãn nói, “thử lại lần nữa xem.” Tôi lại bê bát lên, hít sâu một hơi, vũ trang lại tâm lý, rồi nín thở uống một ngụm nữa.

Đây nào phải ảo giác? Đây là mùi vị kỳ quái chân thực chứ còn gì nữa. Lúc nước đậu trôi tuột xuống cổ họng, tôi xém chút nữa thì sặc.

Xong đâu đấy, tôi đặt bát xuống, giương đôi mắt trống rỗng nhìn Noãn Noãn.

“Nước đậu này muốn uống được, nhất thiết phải đi kèm với dưa muối và quẩy vòng, không được thiếu thứ nào,” Noãn Noãn nói. “Nước đậu chua, dưa muối mặn và cay, quẩy vòng giòn, khi chua mặn cay giòn kết hợp với nhau, một hương thơm sẽ dần dần quyện mãi trong miệng.” Noãn Noãn húp một ngụm nước đậu, gắp một miếng dưa muối, một miếng quẩy vòng, mặt mày rạng rỡ, ăn rất ngon miệng.

Tôi càng nhìn càng thấy kỳ lạ, không thể tưởng tượng nổi.

“Đã quá đi mất, ăn một lại muốn ăn hai,” Noãn Noãn nói.

“Xin nhận của tiểu đệ một lạy,” tôi nói.

Cậu em khóa dưới ngồi bàn bên đột nhiên chạy lại, ngồi thụp xuống tóm lấy vạt áo tôi, nói: “Anh ơi, em không xong rồi, mau đưa em đến bệnh viện.”

“Sao thế?”

“Em uống sạch cả bát nước đậu rồi,” cậu ta nói xong liền nhắm tịt mắt.

“Phấn chấn lên đi!” Tôi vả cho cậu ta hai phát bôm bốp.

Cậu ta mở bừng hai mắt, đứng dậy xoa má, quay lại chỗ ngồi.

“Vừa rồi anh tát thật đấy à?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ.” Tôi không nhịn nổi, bật cười khì khì. “Cậu ta thích đùa, anh cũng vui vẻ phối hợp thôi.”

“À mà, vừa nãy nói đến đâu rồi nhỉ?”

“Anh bảo anh muốn lạy em.”

Tôi lập tức đứng lên khỏi chỗ ngồi, quỳ một gối xuống đất, hai tay chắp lại, đoạn nói: “Cô nương quả không phải người phàm.”

Noãn Noãn bật cười kéo tôi đứng dậy, nói: “Thực ra lần đầu tiên em uống nước đậu, cũng không chịu nổi cái vị này đâu. Về sau uống liền hơn nửa tháng, quen rồi mới nhận được mùi vị, thậm chí còn nghiện luôn.”

“Thật đúng là đại ca phong lưu,” tôi nói.

“Gì cơ?” Noãn Noãn hỏi.

“Là không hiểu.”

“Hả?”

“Vì có câu không hiểu phong lưu, vì thế đại ca phong lưu, tức là đại ca không hiểu.”

“Anh uống nước đậu đần người ra đấy à?” Noãn Noãn nói. “Em chả hiểu anh nói cái gì cả.”

“Ý anh là, anh rất rất không hiểu,” tôi nói, “muốn hỏi em chuyện này.”

“Hỏi đi.”

“Lần đầu tiên em uống nước đậu, phản ứng có phải cũng như anh không?”

“Ừ,” Noãn Noãn gật đầu, “có thể nói vậy.”

“Về sau em uống liên tục hơn nửa tháng mới quen, lại còn nghiện nữa?”

“Đúng vậy.” Noãn Noãn cười khúc khích. “Hồi đó chỉ cần nghe ngóng được chỗ nào có hàng nước đậu gia truyền, xa mấy em cũng đi bằng được.”

“Nếu như lần đầu tiên em uống nước đậu đã thấy không thể tiếp nhận nổi,” tôi nghiêng đầu ngẫm nghĩ hồi lâu, “thì sao lại uống tiếp liền hơn nửa tháng làm gì?”

Noãn Noãn trợn tròn mắt, không trả lời, rồi rơi vào trạng thái trầm tư.

“Đây thật đúng là tiểu đệ ngẫm mãi,” lâu sau, Noãn Noãn mới nói.

“Hở?” tôi nói.

“Cũng tức là không hiểu ấy,” Noãn Noãn cười cười nói.” Vì có câu ngẫm mãi không hiểu mà.”

“Sao em cũng lại nói chuyện kiểu đấy?”

“Làm thế để anh biết người nghe anh nói chuyện khổ đến mức nào.”

“Em vất vả quá,” tôi nói.

“Nói linh tinh.” Noãn Noãn bật cười khúc khích.

“Văn hóa uống nước đậu, nghe nói đã có hơn nghìn năm rồi. Vì thế vị của nước đậu có lạ thế nào đi nữa, em cũng phải kiên trì uống bằng được.” Noãn Noãn dường như đã tìm được lý do uống nước đậu. “Tóm lại, cứ cho là vì ngốc đi.”

“Em thực quá siêu đấy,” tôi xuýt xoa khen.

“Lương Lương,” Noãn Noãn chỉ cái bát trước mặt tôi nói, “thử nữa không?”

Tôi đưa tay bưng bát, nhưng trước sau vẫn không có can đảm đưa lên miệng, thở dài một tiếng, rồi lại đặt bát xuống.

Noãn Noãn bật cười, bưng bát tôi lên. Tôi vội vàng nói: “Anh đã uống rồi"

“Không sao,” Noãn Noãn nói, “làm được nước đậu vất vả lắm, đừng lãng phí.”

Từ Trì đi qua, thấy bát trước mặt tôi rỗng không, liền kinh ngạc nói: “Anh Thái, anh đã uống hết rồi á?”

“He he,” tôi chỉ cười không đáp.

“Không sao chứ?” Từ Trì nhìn mắt tôi, sờ sờ tay tôi, lại lắc lắc cả người tôi nữa.

“He he he,” tôi lại cười.

“Thật không ngờ đấy,” Từ Trì nói. “Nào! Anh em mình uống thêm bát nữa!”

“Trì huynh!” Tôi vội vàng túm cậu ta lại, “là Noãn Noãn uống hết giúp anh đấy.”

Từ Trì bật cười ha hả, Noãn Noãn cũng cười, còn tôi chỉ cười gượng gạo.

Tôi bắt đầu quan sát phản ứng của mọi người, sinh viên Đài Loan ai cũng đều có vẻ có kinh hồn bạt vía; phản ứng của sinh viên Bắc Kinh lại muôn hình muôn vẻ hơn, có những người siêu thích uống nước đậu như Noãn Noãn, Từ Trì, cũng có những người miễn cưỡng có thể uống được như Cao Lượng, đương nhiên còn có cả người nhắm mắt nhắm mũi đành phải uống.

Thầy Lý lo mọi người không quen uống nước đậu lại đói bụng, bèn gọi thêm mấy món điểm tâm như bánh đường nướng, bánh kỳ lân, bánh mật vừng, bánh nướng mặn... ăn thêm.

Trên đường về trường, Noãn Noãn xúc động nói: “Không hiểu vì nguyên nhân gì mà các tiệm nước đậu càng ngày càng ít đi.”

“Anh biết nguyên nhân đấy,” tôi nói.

“Là vì sao ? “ Noãn Noãn hỏi.

“Bây giờ lựa chọn về điểm tâm phong phú như vậy, tuy nước đậu có phong vị đặc biệt, nhưng làm gì có người trẻ nào cam chịu tập uống thứ nước thiu ấy một thời gi­an dài, cho đến khi nước thiu biến thành mật hoa cơ chứ? Ai mà chịu được cả quá trình ấy?”

“Lương Lương.” Noãn Noãn trầm ngâm nói: “Lời anh nói rất có triết lý đấy.”

“Thật à?”

“Ừm.” Noãn Noãn gật đầu, cười nói: “Thật hiếm có.”

“Nếu như nam nữ trên đời đều có thể đối với nhau chân thành thuần khiết,” tôi nhìn về xa xăm, nói: “tới lúc đó nước đậu có thể ngậm cười tỏa hương rồi.”

“Ngậm cười tỏa hương?”

“Nếu như ai ai cũng có thể thuần khiết, nước đậu sẽ không cần phải giả vờ chua, thiu để thử lòng con người nữa, mà trực tiếp đem hương thơm vốn có của nó ra đối diện với con người là được rồi.”

“Lời anh nói hệt như nước đậu ấy,” Noãn Noãn nói, “nghe lâu rồi cũng thành quen.”

“Thế quen rồi thì có nghiện không?”

“Không nghiện,” Noãn Noãn cười khúc khích, “mà sẽ miễn dịch.”

Trước khi vào giảng đường bắt đầu buổi học, rất nhiều sinh viên ra sức súc miệng cho trôi đi mùi vị quái lạ của nước đậu trong miệng.

Tôi đoán cái vị lạ ấy hẳn khó mà súc cho trôi được, bởi nó đã xộc thẳng vào não, lại bao phủ khắp toàn thân rồi.

Quả nhiên, thầy giáo vừa bước vào lớp đã hỏi: “Sao lại có mùi chua chua thế này? Các bạn vừa đi uống nước đậu về đấy à ?”

Rồi thầy kể rõ cặn kẽ về từng loại nước đậu, cảm xúc như nhớ lại tình yêu đầu ngọt ngào vậy.

“Nước đậu vừa giàu dinh dưỡng, mùi vị lại đặc biệt, đã lâu rồi không uống, tôi rất nhớ hương vị ấy.”

Thầy ơi, xin thầy đừng nói đến nước đậu nữa, mau vào bài học cho rồi.

“Bạn sinh viên ‘Sàng tiền minh nguyệt quang’ hôm qua đâu nhỉ?” Đây là lời đầu tiên thầy nói sau khi trở lại chủ đề chính.

Mọi người sững ra vài giây, rồi cậu em khóa dưới tôi mới từ từ giơ tay lên.

“Đây,” thầy cười cười, đưa ra một cuộn giấy, “cái này tặng bạn.”

Cậu em khóa dưới bước lên bục giảng, tháo cái chun buộc trên cuộn giấy, mở ra, đó là một bức thư pháp cao bằng nửa người.

Bên trên có hai chữ viết bằng bút lông, vừa đen, vừa đậm, lại vừa lớn: “Tài tử”, bên cạnh còn có cả dấu lạc khoản.

Cậu ta mặt đần thối, miệng cười hềnh hệch, mọi người đều hò reo phải chụp lại kiểu ảnh.

Cậu ta lúc thì tay trái làm chữ V, tay phải cầm bức thư pháp, lúc lại đổi tay trái cầm bức thư pháp, tay phải làm chữ V, tiếp nữa còn hai tay làm hai chữ V, mấy đầu ngón tay còn lại kẹp lấy bức thư pháp.

Đèn flash nháy liên tục, cậu ta cũng cứ miệng cười hi hi ngờ nghệch.

Đúng là đồ ngốc, có lẽ cậu ta còn chẳng biết mục tiêu của tất cả các ống kính chính là bức thư pháp nữa kìa.

Thầy giáo bắt đầu nhắc qua về quá trình phát triển của chữ Hán từ chữ Giáp cốt, chữ Kim, chữ Triện, chữ Lệ, chữ Khải, rồi đến chữ phồn thể, chữ giản thể.

Thầy nói xong bèn phát cho chúng tôi một bản đối chiếu chữ phồn thể nhỏ, để tiện cho chúng tôi về sau sử dụng, rồi nói: “Từ chữ phồn thể sang chữ giản thể dễ, nhưng từ chữ giản thể sang chữ phồn thể khó. Các bạn sinh viên Bắc Kinh phải dụng tâm hơn mới được.” Tiếp đó, thầy giảng đến lịch sử giản hóa Hán tự và mục đích giản hóa, rồi đến nguyên tắc và phương pháp giản hóa.

Tôi có thể coi là một trong những người Đài Loan đọc hiểu được chữ giản thể, bởi đã từng tiếp xúc với mấy quyển giáo trình bằng chữ giản thể khi còn trong viện nghiên cứu.

Lúc mới đầu nói thực là không hiểu lắm, nhưng lâu rồi cũng vỡ ra dần dần.

Thỉnh thoảng cũng gặp phải vài chữ không hiểu, nhưng chỉ cần liên hệ chữ ấy với mấy anh em của nó, thì vẫn có thể đoán ra được.

Chữ phồn thể giản hóa thành chữ giản thể cũng gây ra lắm chuyện bi hài, không cẩn thận rất dễ gây nhầm lẫn.

...

Tuy có vẻ phức tạp khủng khiếp là vậy, nhưng đối với những người viết tiểu thuyết bằng chữ giản thể thì đây lại là chuyện tốt.

Vì càng nhiều những từ đồng âm, đồng dạng, lại càng khiến tiểu thuyết thâm thúy, thú vị, đây là đặc quyền mà những người viết bằng chữ phồn thể không cách nào có được.

Trước khi hết giờ, thầy giáo kể trước kia thầy thường trao đổi thư điện tử với một người bạn Đài Loan, thời đó chức năng chuyển đổi chữ phồn thể - giản thể còn chưa hoàn thiện, đa phần chỉ có thể dùng tiếng Anh để giao tiếp.

“Thật không ngờ hai người đều nói tiếng Trung lại phải trao đổi với nhau bằng tiếng Anh,” thầy xúc động nói. “Kết quả là tiếng Anh của chúng tôi đều trở nên tốt hơn, còn tiếng Trung lại thành kém đi.”

Thầy nói đoạn dừng lại trầm ngâm, nhìn khắp toàn thể sinh viên một lượt, rồi nói: “Mong rằng về sau các bạn sẽ không gặp phải tình trạng đáng tiếc đó nữa.”

Tan học, thầy Lý vội vàng giục chúng tôi đến nhà ăn ăn cơm; tới nhà ăn rồi, lại giục chúng tôi ăn cho mau mau.

“Phải tận dụng thời gian,” thầy Lý nói, “đi Thiên Đàn nhất định phải đi lúc vắng người mới được.”

“Vì sao lại phải chọn lúc vắng người để đi Thiên Đàn?” tôi hỏi Noãn Noãn.

“Đừng hỏi em,” Noãn Noãn nói, “em cũng có biết đâu.”

“Thế vì sao đi Thiên Đàn lúc này lại là lúc vắng người nhất?” tôi lại hỏi.

“Hôm nay là ngày cực nóng, lại đúng giữa trưa thế này, làm gì có ai muốn ra khỏi nhà chạy lông nhông?” Noãn Noãn trả lời.

“Vì sao...”

“Đừng hỏi vì sao nữa,” Noãn Noãn ngắt lời tôi. “Còn hỏi nữa là em thu tiền đấy.”

Tôi rút ra một tệ đặt trước mặt Noãn Noãn, hỏi: “Vì sao em lại xinh đẹp thế?”

“Câu này không mất tiền,” Noãn Noãn bật cười, “vì em đẹp bẩm sinh thôi.”

Mọi người vào Thiên Đàn từ Nam Thiên Môn, quả nhiên vì thời tiết nóng nực lại đúng vào giữa trưa, gần như chẳng có bóng dáng du khách nào ở đây.

Vừa bước qua cổng đã thấy một đàn đá lộ thiên có ba tầng thượng, trung, hạ hình tròn, thầy Lý nói đây là Hoàn Khâu Đàn.

Hoàn Khâu Đàn bị hai bức tường thấp vây quanh hình vuông, bên trong hình tròn, tượng trưng cho trời tròn đất vuông.

Đây là nơi hoàng đế tới tế Trời vào ngày Đông chí.

“Chúng ta đi tiếp về hướng Bắc, lát nữa sẽ lại vòng trở lại,” thầy Lý nói.

Chúng tôi không leo lên Hoàn Khâu Đàn, mà đi vòng men theo tầng hạ của đàn đá, theo hướng chính Bắc đi thẳng về trước.

Vừa ra khỏi Hoàn Khâu Đàn, liền thấy một ngôi đền có mái cong vút lợp ngói lưu ly xanh lam.

“Đây là Hoàng Khung Vũ, là nơi đặt bài vị của Hoàng Thiên Thượng Đế và hoàng đế Tổ Tiên.” Mọi người nghe xong liền muốn đi vào điện xem thế nào, nhưng thầy Lý nói để lát nữa, giờ đi sang phía bên trước đã.

“Tuyệt quá, quả nhiên bây giờ không có ai.” Thầy Lý dừng bước bên bức tường bao hình tròn, nói: “Đây là vách hồi âm. Lát nữa hai người một nhóm, mỗi người đứng ở một đầu đường kính của hình tròn, quay mặt vào tường nói, âm lượng không cần lớn, cũng không cần kề sát vào tường. Mọi người thử xem có thể nghe thấy tiếng vọng không.”

Vách hồi âm có đường kính 61,5 mét, cao 3,7 mét, dày 0,9 mét, là tường bao quanh Hoàng Khung Vũ.

Tường được xây bằng gạch nung màu tro nhạt, từng viên gạch liền kề san sát, trơn láng, không có lấy một khe hở, đầu tường lợp mái ngói lưu ly xanh lam.

Kỳ lạ ở chỗ, lúc nãy nhiệt độ ngoài trời chắc chắn vượt quá 30 độ, nhưng đi men theo bức tường tròn, lại cảm thấy vô cùng mát mẻ.

Tôi bước đến vị trí đã định, ghé sát tai vào tường, thấp thoáng nghe thấy tiếng gió, còn cả một số âm thanh vỡ vụn nữa.

“Lương Lương.” Tôi nghe thấy rồi, là tiếng Noãn Noãn, nhưng âm thanh dường như đã bị cho qua tủ băng, lạnh hơn, lại thấp hơn giọng thật của Noãn Noãn.

“Em là người hay là ma đấy?” Tôi nói với bức tường.

Noãn Noãn bật cười, tiếng cười mỏng manh, hơi giống tiếng chim hót.

“Em nghe thấy rồi,” là tiếng Noãn Noãn.

“Anh cũng nghe thấy rồi,” tôi nói.

“Anh ăn no chưa?” là tiếng Noãn Noãn.

“Anh ăn no rồi,” tôi nói.

“Lương Lương.”

“Noãn Noãn.”

“Em chẳng biết nói cái gì nữa,” là tiếng Noãn Noãn.

“Anh cũng thế,” tôi nói.

Noãn Noãn và tôi đều rất phấn khích, phấn khích quá lại thành ra không biết nên nói gì?

Trước đây đều là nhìn nhau nói chuyện, giờ lại nhìn tường nói, từ tường nghe thấy lời đáp, thật không quen tí nào.

Chúng tôi nói bừa mấy câu chả ra đâu vào đâu, dù gì lời nói cũng không quan trọng, quan trọng chỉ là phát ra tiếng.

Tôi giả tiếng chó sủa, Noãn Noãn giả tiếng mèo kêu, tôi lại giả tiếng chó bị xe đụng, Noãn Noãn bèn giả tiếng mèo bị chó cắn.

Tôi thử nói tiếng Anh, có khi vách hồi âm linh thiêng, chưa biết chừng lại coi thường tiếng Anh, nhưng Noãn Noãn vẫn nghe ra.

“Ta là tài tử đây, giai nhân em nơi nao?” là tiếng cậu em khóa dưới.

Ngoảnh đầu sang liền thấy Vương Khắc chỉ cách tôi có năm bước chân, cô bé liếc thấy thái độ của tôi, có chút ngượng ngùng bèn nhích ra xa một chút.

“Em muốn tới Noãn Noãn!” tiếng Noãn Noãn truyền đến.

Tôi giật thót mình, quyết định giả chết.

“Chẳng nghe rõ gì cả,” tôi nói.

“Đừng có giả vờ, rõ ràng là anh nghe thấy rồi.”

“Anh có giả vờ đâu.” Tôi nói xong liền nhận ra mình bị hớ.

Quả nhiên Noãn Noãn bật cười hả hê, mà còn cười rõ lâu, như thể muốn khiến tôi phải thấy xấu hổ.

Cùng với tiếng cười của Noãn Noãn, dường như tôi còn nghe thấy một tiếng nói trong lòng, có lẽ tiếng nói ấy vẫn luôn luẩn quất trong lòng tôi, để đến tận lúc này đây, khi gặp bức vách hồi âm, mới xuất hiện rõ ràng, trọn vẹn.

“Noãn Noãn, anh...” tôi nói.

“Đoạn sau nghe không rõ,” tiếng Noãn Noãn truyền lại.

“Noãn Noãn.” Nói đến đây, tôi ngửa cổ ra sau, nén cho tiếng mình thấp nhất, nhẹ nhất: “Anh thích em.”

“Đoạn sau vẫn nghe không rõ ấy.”

“Đừng có giả vờ,” tôi nói.

“Em không giả vờ mà.” Noãn Noãn dường như đã cuống lên.

Noãn Noãn, anh biết em không nghe thấy, nhưng dù gì anh cũng nói rồi.

Đây là tiếng vọng trong lòng anh.

Tiếng vọng này không cần được trả lời, nó chỉ muốn được truyền đi thôi.

Thầy Lý để mọi người chơi 20 phút, rồi mới giải thích qua về nguyên lý của vách hồi âm.

Nguyên lý này rất dễ hiểu, sóng âm ở bên trong mặt lõm của hình tròn, nên sẽ liên tục được phản xạ và truyền đi.

Mặt tường cứng cáp lại nhẵn bóng, độ tản của sóng âm được giảm đến mức nhỏ nhất, vì vậy mới có thể nghe được tiếng vọng trong vòng mấy chục mét.

Nguyên lý nói thì đơn giản, nhưng tính toán chính xác khi xây dựng, chọn lựa vật liệu, tỉ mỉ thi công, mới là điều kỳ diệu của bức vách hồi âm được xây dựng từ mấy trăm năm trước này.

Lúc này tôi mới hiểu vì sao thầy Lý nhất định chọn lúc vắng người nhất để đến đây, bởi chỉ cần đông du khách, hàng trăm cái miệng cùng hò hét: Nhóc con, Bố ơi, Em ơi, Anh ơi, Tôi muốn đánh rắm, Ăn shit không...

Bạn còn có thể nghe ra cái gì nữa đây?

Đừng nói là tiếng vọng trong mấy chục mét, kể cả có người đứng ngay gần hét lên “Cứu tôi với”, bạn cũng chưa chắc đã nghe thấy nữa là.

Thầy Lý dẫn mọi người trở lại trước điện lớn của Hoàng Khung Vũ. Thấy chúng tôi muốn bước vào điện, thầy lại bật cười nói: “Đợi đã nào.”

Thầy Lý sải ba bước dài trên hành lang từ bắc sang nam trước Hoàng Khung Vũ, rồi dừng lại trên phiến đá thứ ba.

“Đây là đá Tam Âm. Mọi người lần lượt đến vỗ tay ở đây, thử xem có thể nghe thấy ba tiếng vọng không,” thầy nói.

Chúng tôi lần lượt đứng trên phiến đá thứ ba, lấy hết sức vỗ tay, từng người vỗ tay xong, mọi người lại quây lại hỏi han xem nghe tiếng vọng lại thế nào, rồi thảo luận đến chuyện nguyên lý.

Phiến đá thứ ba này vừa vặn nằm đúng tâm đường tròn của vách hồi âm, âm thanh phát ra từ đây sẽ truyền đi bốn phía, đụng phải vách hồi âm phản xạ ngược lại, tụ về tâm ban đầu; rồi cứ thế tiếp tục truyền đi, đụng phải vách, lại phản lại, trở về tâm.

Chỉ có điều âm thanh cuối cùng cũng sẽ mất đi, vì vậy, tiếng vọng tai người nghe thấy sẽ càng lúc càng yếu đi.

Trong điều kiện môi trường cực kỳ yên tĩnh, lực vỗ tay đủ mạnh, trong tai không có ráy tai, chưa biết chừng cũng có thể nghe thấy loáng thoáng tiếng vọng thứ tư.

“Các bạn lợi hại đấy.” Thầy Lý vỗ tay.

“Thầy nên đứng ở phiến đá thứ ba vỗ tay, như vậy bọn em sẽ thấy còn lợi hại hơn,” cậu em khóa dưới tôi nói.

Thầy Lý bật cười, đứng trên phiến đá Tam Âm, lấy hết sức vỗ tay mười mấy cái, chúng tôi đều bật cười thích thú.

Điều này thực ra cũng chẳng có gì, bởi trong đám sinh viên chúng tôi, bất kể là từ Đài Loan hay Bắc Kinh, ít nhất cũng có đến một nửa học về khoa học.

Quay lại Hoàn Khâu Đàn cao ba tầng, chúng tôi trèo thẳng lên tầng cao nhất, trên đàn tế ngoài phiến đá trung tâm là hình tròn ra, những phiến đá quây các vòng bên ngoài đều có hình cánh quạt.

“Phiến đá này gọi là đá Thiên Tâm,” thầy Lý chỉ vào phiến đá tròn trung tâm, nói. “Nghe nói đứng giữa phiến đá này dù có nói nhỏ đến đâu, tiếng vọng cũng rất âm vang, lại như thể tiếng từ trên trời vọng xuống. Về nguyên lý thì các bạn hẳn nắm vững hơn tôi, có thể nói cho được không?”

Nguyên lý này cũng tương tự như đối với đá Tam Âm, đá Thiên Âm vừa đúng nằm ở tâm vòng tròn, xung quanh lại là lan can bằng đá cẩm thạch trắng.

Sóng âm truyền đi bốn phía, sau khi va phải lan can vòng cung kiên cố, phản xạ lại tâm vòng tròn.

Điểm khác với đá Tam Âm là, bề mặt Hoàn Khâu Đàn trơn nhẵn, trong đàn không hề có bất cứ vật cản nào, lại thêm bán kính của vòng tròn khá nhỏ, do vậy sau khi âm thanh phát ra, tiếng vọng sẽ được truyền lại với tốc độ cực nhanh, khiến người nghe không sao phân biệt nổi tiếng vọng và tiếng gốc.

Tiếng vọng và tiếng gốc cùng hòa vào nhau, kết quả là âm thanh nghe được sẽ có cảm giác vang vọng và cộng hưởng hơn.

Cũng vì sóng âm được phản xạ lại từ khắp tứ phía, không thể làm rõ hướng của tiếng vọng, nên có ảo giác như tiếng vọng đó từ trời vọng xuống.

“Thời xưa, khi hoàng đế đứng đây tế trời, chỉ cần hô khẽ một tiếng, khắp bốn bề đều vọng lại tiếng vang rần, như sấm truyền từ trời xuống vậy, cộng thêm không khí trang nghiêm lúc tế lễ, mọi sự càng trở nên thần bí.”

Thầy Lý cũng nói những phiến đá hình quạt bao quanh đá Thiên Tâm là đá ngải thanh, tầng thượng, tầng trung, tầng hạ mỗi tầng có chín vòng đá, càng là những vòng bên ngoài càng có nhiều phiến đá, nhưng số lượng đều là bội số của chín.

Cầu thang nối giữa các tầng đều có chín bậc, lan can đá tầng thượng gồm 72 phiến đá, tầng trung gồm 108 phiến, tầng hạ gồm 180 phiến, không chỉ đều là bội số của chín, mà cộng lại còn vừa đúng 360 phiến, vừa vặn ứng với 360 ngày trong năm.

Sở dĩ liên tục dùng chín và các bội số của chín là để phối hợp với “ngày Trùng Cửu”, đồng thời nhấn mạnh sự tối cao của trời.

Thầy Lý kêu chúng tôi lần lượt đứng thử lên phiến đá Thiên Tâm, tiếc là giờ đã bắt đầu có một vài vị khách, trong tiếng người hơi ồn ào, hiệu quả tiếng vọng e rằng sẽ không tốt lắm.

Còn có một bé gái cứ túm lấy bố gào khóc, tôi gần như buột miệng kêu mọi người ngậm miệng hết, để cô bé đứng khóc trên đá Thiên Tâm, xem xem có thể tiếng khóc chấn động trời xanh, khiến ông trời bực mình nện sấm xuống không.

Đến lượt mình đứng lên đá Thiên Tâm, tôi ngửa cổ nhìn trời, nói: “Xin cảm ơn.” Có thể là do tác dụng tâm lý, tôi cảm thấy âm thanh quả thực lớn hơn thật, lờ mờ cũng nghe thấy cả tiếng vọng.

“Anh nói cái gì thế,” Noãn Noãn nói.

Tôi bảo với Noãn Noãn, hồi học cấp III từng học một bài văn tên “Tạ Thiên” do Trần Chi Phiên viết.

Mở đầu có câu: “Vì những người cần cảm tạ quá nhiều, nên đành cảm tạ ông trời vậy.” Hồi đó đọc xong mà xúc động bồi hồi, giờ cuối cùng cũng có thể trực tiếp bày tỏ với ông trời lòng cảm ân rồi.

“Anh còn nghe thấy cả tiếng vọng nữa đấy,” tôi nói. “Mà không chỉ một tiếng đâu.”

“Thật không?” Noãn Noãn rất tò mò.

“Ừ.” Tôi gật đầu. “Tổng cộng anh nghe thấy chín tiếng vọng, tiếng thứ nhất là: Đừng khách sáo.”

“...”

“Tiếng thứ hai là...”

“Anh đừng nói nữa,” Noãn Noãn ngắt lời tôi, “em có hỏi đâu.”

“Để anh nói đi mà.”

Noãn Noãn chẳng buồn để ý đến tôi nữa, rảo bước đi nhanh chóng.

Tôi đành ở lại đằng sau tự nói một mình, lần lượt từ câu thứ hai đến câu thứ tám: Ngươi vất vả rồi, Ngươi đúng là người khách khí, Giờ rất hiếm gặp được người nào tri ân đồ báo như ngươi, Bắc Kinh có vui không, Có quen không, Có mệt không, Có bạn mới nào chưa.

“Tiếng vọng thứ chín là quan trọng nhất, vì là thứ chín mà,” tôi nói. “Tiếng vọng thứ chín nghe rất rõ ràng, đó là: Ừ, Noãn Noãn thật là một cô gái tốt.”

Noãn Noãn dừng lại, nói: “Sao tiếng vọng thứ chín lại nhắc đến em?”

“Vì lúc tiếng vọng thứ tám hỏi có bạn mới nào chưa? Anh liền trả lời thầm: Có, cô ấy tên là Noãn Noãn, là một cô gái tốt,” tôi nói, “thành ra tiếng vọng thứ chín trả lời thế đấy.”

Noãn Noãn quay người lại đối diện với tôi, khựng lại mất mấy giây, rồi nói: “Anh nói linh tinh lâu vậy rồi, đã khát chưa?”

“Rồi.” Tôi gật gật đầu.

“Lát nữa mua chai sữa chua uống.” Noãn Noãn bật cười.

“Được thôi.” Tôi cũng cười.

Tôi và Noãn Noãn kề vai đi bên nhau, em nói: “Muốn biết vừa nãy em nói gì ở đá Thiên Tâm không?”

“Em nói gì ở đá Thiên Tâm?” tôi hỏi.

“Em muốn tới Noãn Noãn,” Noãn Noãn nói. “Mà em cũng nghe thấy tiếng vọng nữa.”

“Em đừng có nói. Anh có hỏi đâu,” tôi nói.

“He he, em cũng nghe thấy chín tiếng vọng.” Noãn Noãn cười khúc khích. “Tám tiếng đầu tiên là: Được đấy, Đi đi thôi, Nhất định phải đi, Không đi không được, Không thể không đi, Không đi không xong, Không đi là ta dội sấm, Dội sấm rồi ngươi vẫn cứ phải đi.”

Tôi chạy vọt đi, Noãn Noãn lập tức đuổi theo, tôi lách bên này lạng bên kia, Noãn Noãn vẫn theo sát bên cạnh.

“Tiếng vọng thứ chín là quan trọng nhất, đó là: Đây là lời hẹn giữa Noãn Noãn và Lương Lương,” Noãn Noãn nói với tôi.

“Cũng may là em chỉ nói linh tinh thôi,” tôi nói.

“Dù gì anh cũng nghe thấy rồi.” Noãn Noãn nhún vai.

Lại đến Hoàng Khung Vũ, lần này cuối cùng cũng có thể vào trong rồi.

Tổng cộng ba lần đi ngang qua cửa Hoàng Khung Vũ mà không bước vào lần nào, chúng tôi dường như đều đã thành Đại Vũ* rồi.

*Sự tích Đại Vũ trị thủy, Đại Vũ vì giúp dân chống lũ mà ba lần đi ngang qua cửa nhà đều không vào nhà.

Bên trong đền, thẳng hướng Bắc có một phiến đá tròn, nằm ở bài vị thờ phụng Hoàng Thiên Thượng Đế cao nhất trong gian thờ thần.

Hai chái đông tây trong đền mỗi bên xếp bốn bài vị, thờ tám vị hoàng đế đời Thanh, lần lượt là Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Hoàng Thái Cực, Thuận Trị, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, Gia Khánh, Đạo Quang.

“Anh nhớ đời Thanh có tất cả 12 vị hoàng đế,” tôi hỏi Noãn Noãn, “còn bài vị của Hàm Phong, Đồng Trị, Quang Tự, Tuyên Thống đâu?”

“Có thể bọn họ thấy mình làm Trung Quốc be bét ranh bành, nên ngại không vào ở đây,” Noãn Noãn nói.

Ra khỏi Hoàng Khung Vũ, chúng tôi tiếp tục đi về hướng Bắc, qua cầu Đan Bệ dài hun hút, hai bên bờ trồng toàn cây bách.

Thầy Lý nói trong Thiên Đàn có hơn sáu vạn cây bách, được trồng dày đặc khiến nơi nàytrở nên trang nghiêm hơn.

Cầu Đan Bệ nối từ nam sang bắc, cao dần lên, tỏa chỉa thành ba nhánh tả, trung, hữu.

Nhánh trung là Thần đạo, dành cho thần thánh; nhánh hữu là Hoàng đạo, dành cho hoàng đế; nhánh tả là Vương đạo, dành cho các vương công đại thần.

Thầy Lý vừa dứt lời, tất cả mọi người đều không hẹn mà cùng xông lên nhánh Thần đạo.

“Thần đạo vốn chẳng cần xây làm gì,” tôi nói. “Đã là thần, lẽ nào còn cần đi bộ nữa sao?”

Noãn Noãn trợn tròn mắt, lúc sau mới bật cười, nói: “Câu hỏi này của anh, thật khiến người ta không biết trả lời thế nào.”

Lại có người hỏi: Đây rõ ràng là đường, sao phải gọi là cầu?

Thầy Lý trả lời: Phía dưới có một thông đạo hướng Đông Tây, cắt ngang cầu Đan Bệ, vậy nên gọi là cầu.

“Thông đạo này để cho các loài gia súc như bò dê đi, đám gia súc sẽ đi đến một lò mổ cách đây vài trăm mét để bị giết mổ, rồi làm thành đồ tế. Vì vậy thông đạo này bị gọi là Quỷ Môn Quan, có bạn nào muốn đi thử xem không?”

Đầu óc mọi người đều rất bình thường, chẳng ai muốn thử cả.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
Đăng lúc 20-6-2013 12:44:49 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 5


(tiếp)

Cuối cùng cũng đến điện Kỳ Niên tiêu biểu cho kiến trúc của Thiên Đàn, đây là tọa điện lớn hình tròn có ba tầng mái, đỉnh ngọc thếp vàng, mái hiên màu lam thẫm, được ốp bằng ngói lưu ly xanh lam. Màu xanh và hình tròn, đều tượng trưng cho trời.

Hoàng đế cử hành nghi lễ tại đây, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

Tòa điện cao chín trượng chín (gần 32 mét), được xây toàn bằng gỗ, dùng hai mươi tám cột gỗ chống đỡ trọng lượng của mái điện.

Hai mươi tám cột gỗ này xếp thành ba vòng, vòng trong bốn cột tượng trưng cho bốn mùa; vòng giữa mười hai cột tượng trưng cho mười hai tháng; vòng ngoài mười hai cột tượng trưng cho mười hai giờ *; vòng giữa và vòng ngoài cộng vào thành hai mươi tư, tượng trưng cho hai mươi tư tiết khí một năm; tổng ba vòng là hai mươi tám, tượng trưng cho hai mươi tám vì tinh tú.

*Đơn vị đo thời gian cổ, một ngày chia làm 12 giờ.

Điện Kỳ Niên tọa lạc trên nền đài ba tầng hình tròn bằng đá cẩm thạch trắng, mỗi tầng đều có lan can cẩm thạch trắng khắc hoa.

Từ xa nhìn lại, mái đền xanh lam sẫm, đá cẩm thạch trắng tinh khiết, cửa gỗ và cột gỗ đỏ sậm, lại thêm vàng, đỏ, xanh lục, xanh trời của màu sơn ngọc tỷ, tổng thể kiến trúc mang màu sắc đối chọi mạnh mẽ mà vẫn giữ vẻ hòa hợp.

Tôi và Noãn Noãn đứng trước cửa lớn điện Kỳ Niên phóng tầm nhìn ra xa, cầu Đan Bệ như một nét mác trải dài về hướng Nam, hàng cây bách cổ hai bờ xanh biếc một màu, thấp thoáng vài mái hiên đền chùa, tầm nhìn như kéo dài vô tận.

Điều này khiến người ta có một ảo giác như đang từ trên trời chầm chậm trượt xuống.

Noãn Noãn đi mua sữa chua về, chúng tôi bèn cùng hưởng thụ cảm giác lâng lâng vừa trượt xuống từ trời vừa uống sữa chua.

Mọi người rời Thiên Đàn qua cửa Bắc Thiên Môn, thầy Lý nói muốn để chúng tôi đi thăm Đại Thạch Lạt Nhi ở Tiền Môn.

Đại Thạch Lạt Nhi cách Thiên Đàn không xa, chỉ đi một chút là tới.

“Đại Thạch Lạt Nhi là khu thương nghiệp cổ nhất, và cũng phồn hoa nhất của Bắc Kinh, nơi đây tập trung dày đặc các biển hiệu cửa tiệm cổ nhất Bắc Kinh. Đồng Nhân Đường bán thuốc bắc, Thụy Phù Tường bán vải, Mã Tụ Nguyên bán mũ, Nội Liên Thăng bán giày vải, Trương Nhất Nguyên bán lá trà, vân vân, đều là những cửa tiệm nổi tiếng có hàng trăm năm lịch sử.” Thầy Lý vừa đi vừa nói, đã đến đầu phố, trên hàng rào trạm lộng bằng sắt cao chừng một tòa nhà hai tầng, có đề ba chữ lớn thếp vàng: Đại Sách Lan.

“Đây...” Tôi có chút kích động, hỏi Noãn Noãn: “Lẽ nào đây chính là...”

“Đại Thạch Lạt Nhi.” Noãn Noãn bật cười khúc khích.

“Sách Lan nghĩa là hàng rào, có thể đọc thành Thạch Lạt à?”

“Em đã tra tự điển,” Noãn Noãn nói, “không đọc được.”

“Vậy...”

“Đừng hỏi nữa,” Noãn Noãn nói. “Cứ gọi theo thế đi.”

Nghe nói, thời Hiếu Tông, để phòng trừ nạn trộm cướp ngày càng hoành hành trong kinh thành, hàng rào này được dựng lên đầu con phố, cứ đêm xuống là đóng chặt, ở những khu rào trọng yếu còn có binh sĩ đi tuần về đêm.

Vì ở đây tập trung nhiều tiệm buôn bán, hàng rào được xây cao lớn, vững chắc, nên người ta gọi đây là “Đại Sách Lan” tức hàng rào lớn.

Đầu đời Thanh có lệnh cấm: “Trong thành gần hoàng cung, nghiêm cấm huyên náo”, vì chỗ này vừa may nằm ngoài dải cô lập, mọi người đều đổ về đây tìm niềm vui, những khu ăn chơi như Khánh Lạc Viên, Quảng Đức Lầu, Quảng Hòa Viên vẫn còn tồn tại đến bây giờ, thuở đấy đều đêm đêm vang tiếng đàn ca.

Nơi đây cũng trở thành nơi người dân thưởng trà, xem kịch, mua sắm, là một phần trong cuộc sống sinh hoạt của người dân Bắc Kinh cổ.

Tôi và Noãn Noãn đi dạo dọc con phố, ngay lập tức bị thu hút bởi một lầu quán có kiến trúc như hý viên tự, bên trên còn có cả biển hiệu “Nơi sản sinh điện ảnh Trung Quốc”.

Bên trong là kiểu kiến trúc hình vòng hai tầng, bốn bề tường có treo rất nhiều tranh ảnh lịch sử.

Vốn dĩ đây là một rạp chiếu phim, bộ phim điện ảnh đầu tiên của Trung Quốc “Núi Định Quân” năm 1905 được chiếu chính tại đây.

Nhìn các máy móc chiếu bóng cổ trưng bày, tôi kể cho Noãn Noãn nghe còn nhớ hồi nhỏ được đi xem chiếu bóng ngoài trời.

Thời đó chỉ cần có lễ kỷ niệm, là khu đất trống trước đình chùa lại được chăng một tấm vải trắng lớn, vào buổi tối sẽ chiếu phim.

Tôi luôn thích đứng cạnh anh thợ chiếu bóng, xem anh chầm chậm quay cuộn phim.

Noãn Noãn nói hồi nhỏ em cũng cực kỳ thích xem chiếu bóng ngoài trời.

Ra khỏi lầu quán, lòng tôi vương đầy những hồi ức xưa cũ, dường như thấy chính mình đã trở lại thành thằng bé nhảy nhót nghịch ngợm thuở nào.

“Đại Sách Lan” là khu phố đi bộ, không hề có xe cộ đi vào, những biển hiệu cổ của các cửa tiệm càng làm tăng thêm vẻ cổ xưa cho cảnh phố.

Noãn Noãn nói ở đây có vài nơi em dường như đã từng thấy trong những bộ phim làm về triều Thanh.

Trong khu “Đại Sách Lan” đều là các tiệm buôn bán, nhưng tôi chẳng rủng rỉnh gì, thành ra ham hố mua sắm cũng không cao.

Thái độ phục vụ ở đây cũng không tồi, mỗi khi khách mua đồ, nhân viên cửa hàng thường nói: “Đây là đồ - Ngài – mua, đây là hóa đơn – Ngài – cần, tôi để hóa đơn trong túi này, để - Ngài – tiện cầm.” Mỗi chữ Ngài đều được kéo dài ra, cũng khá thú vị.

Mỗi khi nhìn thấy giá tiền ghi trên một món đồ, phản ứng đầu tiên của tôi đều là đổi sang tiền Đài, quả nhiên rất rẻ.

“Nhân dân tệ với Đài tệ đổi thế nào ?” Noãn Noãn hỏi.

“Khoảng một đổi bốn,” tôi nói. “Một nhân dân tệ đổi được bốn Đài tệ.”

“Ừm.” Noãn Noãn gật đầu tỏ ra đã hiểu, rồi chỉ vào một bình hoa ghi giá 200 tệ. “Vì thế cái này giá 50 Đài tệ?”

“Là 800 Đài tệ chứ!” Tôi trợn tròn mắt không dám tin vào tai mình.

Noãn Noãn lè lưỡi, nói: “Em vốn không giỏi Toán mà.”

“Thế này sao gọi là không giỏi được?” Tôi nói. “Phải gọi là rất kém.”

Tôi rút trong ví ra một tờ 100 Đài tệ kể từ khi đến Bắc Kinh vẫn chưa được cho ra phơi nắng, nói: “Đổi cho em lấy 100 nhân dân tệ.”

“Anh mơ đấy à!” Noãn Noãn nói.

“Cũng được,” tôi cười cười, “môn toán của em cũng coi như chưa hết thuốc chữa.”

Noãn Noãn dường như rất tò mò về tờ tiền đỏ trong tay tôi, tôi bèn đưa cho em.

“Đây là Tôn Trung Sơn mà” Noãn Noãn xem xét xong, nói.

“Em cũng nhận ra à,” tôi nói. “Lợi hại đấy.”

“Ai mà không nhận ra chứ.” Noãn Noãn lườm tôi một cái.

Tôi thấy Noãn Noãn cực kỳ hứng thú với Đài tệ, bèn lại móc ví ra tờ 1000 Đài tệ màu xanh đưa cho em.

“Sao lại là trẻ con thế này?” Noãn Noãn tỏ vẻ nghi hoặc. “Em còn tưởng sẽ thấy Tưởng Giới Thạch chứ.”

“Hồi xưa thì đúng vậy, mấy năm trước mới đổi rồi.

“Quả nhiên em đoán không sai mà, các anh thế nào cũng in hình Tưởng Giới Thạch...” Noãn Noãn nói rồi đột nhiên ngừng bặt.

“Làm sao thế?” tôi hỏi

“Em gọi thẳng tên Tưởng Giới Thạch, anh không sao chứ?” Noãn Noãn hỏi.

“Có gì mà sao với không sao?” Tôi lấy làm tò mò.

“Tưởng – Giới – Thạch,” Noãn Noãn nói rành rọt từng chữ, “thật là không sao?”

“Đương nhiên không sao rồi,” tôi nói, “em mà gọi là anh Giới Thạch, anh mới làm sao đấy.”

“Anh bệnh đấy à.” Noãn Noãn lại trừng mắt nhìn tôi.

Tôi sực hiểu ra, mấy hôm nay tiếp xúc vui vẻ, tự nhiên, khiến chúng tôi nói đủ mọi chuyện, quên mất rằng giữa đôi bên vẫn còn tồn tại một số khác biệt, thậm chí là cấm kỵ.

“Nếu như mười năm trước em gọi thẳng tên Tưởng Giới Thạch, có lẽ anh sẽ làm sao thật. Nhưng giờ thì không rồi.”

“Vì sao?”

“Ở Đài Loan, làm gì còn Tưởng Giới Thạch nữa!”

Noãn Noãn định nói gì đó lại thôi, dường như cũng chợt nhớ ra những cấm kỵ giữa chúng tôi, bèn cười xòa vài tiếng.

Noãn Noãn hẳn không biết tâm trạng tôi lúc nói những lời này.

Đối với thế hệ sinh viên chúng tôi thời nay ở Đài Loan, chúng tôi từng ngây thơ nhưng đó là vì nhiệt tình.

Những chân lý và tín ngưỡng vẫn kiên tưởng trong một gi­ai đoạn thường chưa đến vài năm đã dễ dàng sụp đổ; mà giá trị quan mới được thiết lập cũng chẳng biết lúc nào sẽ lại rạn vỡ?

Không phải chúng tôi không tin lịch sử, chỉ là không biết nên tin ai?

Vì vậy, chúng tôi không còn tin nữa, cũng không còn nhiệt tình nữa.

Nếu như tôi nói điều này với Noãn Noãn, hẳn em sẽ chẳng thể nào hiểu nổi.

Tôi thử chuyển chủ đề nói chuyện, móc trong túi ra một tờ 100 nhân dân tệ màu đỏ, bên trên là chân dung Mao Trạch Đông.

Tôi đã đổi tiền đô Mỹ trước từ Đài Loan, tới Bắc Kinh lại lấy tiền đô đổi sang nhân dân tệ.

Tôi không muốn nói với Noãn Noãn quá trình phức tạp này, chỉ vào ba tờ tiền trong tay nói: “Giờ em thử coi, đây là tờ 1000 Đại tệ có hình Tưởng Giới Thạch, 100 nhân dân tệ in ảnh Mao Trạch Đông, 100 Đài tệ in hình Tôn Trung Sơn trên đó. Vậy một “tờ Tưởng Giới Thạch” có thể đổi được hai phẩy năm “tờ Mao Trạch Đông” và một “tờ Mao Trạch Đông” lại đổi được bốn “tờ Tôn Trung Sơn”. Em đã hiểu chưa?”

Noãn Noãn thấy thú vị, liền bật cười, gật gật đầu.

“Đúng rồi,” tôi nói, “anh vừa gọi thẳng tên Mao Trạch Đông, em không sao chứ?”

“Mao Trạch Đông vẫn luôn đứng cùng quần chúng nhân dân, gọi thẳng tên có gì sai đâu?”

“Mao – Trạch – Đông,” tôi đọc rành rọt từng chữ, “thật là không làm sao?”

“Anh nhạt toẹt quá đấy.” Noãn Noãn nói xong, liền nhớ ra vừa nãy mình cũng đã có phản ứng như thế, bèn phá lên cười.

“Từ Đài Loan bay đến Hồng Kông rồi lại bay đến Bắc Kinh, anh tiêu mất khoảng 10 tờ Tưởng Giới Thạch.” Nói đoạn tôi hỏi Noãn Noãn: “Xin hỏi như thế là bao nhiêu ông Tôn Trung Sơn?”

“Quá đơn giản,” Noãn Noãn nói, “100 tờ Tôn Trung Sơn.”

“Thế bằng bao nhiêu tờ Mao Trạch Đông?” tôi lại hỏi.

“25 tờ chứ gì” Noãn Noãn vừa cười vừa trả lời.

“Tiếp theo là một câu hỏi rất uyên thâm,” tôi nói. “Nếu anh tiêu hết hai ‘tờ Tưởng Giới Thạch’, 3 ‘’tờ Mao Trạch Đông’’, 4 ‘’tờ Tôn Trung Sơn’’, xin hỏi anh đã tiêu hết bao nhiêu ‘’tờ Mao Trạch Đông’’?”

“Hả?” Noãn Noãn sững người.

Chúng tôi bước vào thiệm Thụy Phù Tường, bên trong bày đầy các xấp vải lụa muôn hình muôn vẻ, khiến người ta hoa hết cả mắt.

Ở đây còn có một quầy cắt may, khách hàng chọn vải xong, người thợ may có thể giúp khách may y phục vừa vặn.

Cũng có thể đặt may xường xám, đo các số đo, chọn vải xong, chóng một chút là hôm sau có thể giao hàng; nếu là khách du lịch nước ngoài, cửa tiệm còn gửi xường xám đã may xong đến tận khách sạn cho khách.

“Chín ông Mao Trạch Đông!” Noãn Noãn đột nhiên nói.

Tôi giật thót người, người trong cửa tiệm dường như cũng đều giật mình, ầm ập ném tới những ánh nhìn kỳ lạ.

“Đấy là đáp án của câu hỏi vừa rồi,” Noãn Noãn có vẻ ngượng nghịu, giảm thật nhỏ âm lượng.

Ra khỏi Thụy Phù Tường, bước vào Nội Liên Thăng, liền nhìn thấy bức hoành “Tiệm giày vải số 1 Trung Quốc”

“Noãn Noãn, cho anh mượn chân em xem nào,” tôi nói.

“Định mua giày cho người yêu hả?”

“Anh không có người yêu,” tôi nói.

Noãn Noãn bật cười khúc khích, cúi xuống cởi dây giày.

“Nhưng bạn gái thì có mấy cô, phải mua vài đôi,” tôi lại nói.

Noãn Noãn khựng tay lại, rồi buộc lại dây giày, đứng lên.

“Đùa thôi mà,” tôi vội vàng cười cười, “anh định mua giày cho mẹ anh.”

Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi, rồi lại cúi xuống tháo dây giày.

“Anh có biết cỡ chân của mẹ anh không?” Noãn Noãn hỏi.

“Chắc là biết.”

“Thật không?”

“Hồi nhỏ hay bị đánh, anh toàn quỳ dưới đất ôm lấy chân mẹ gào khóc: Mẹ, con sai rồi!” Tôi cười nói: “Nhìn lâu rồi, cỡ chân mẹ cũng in sâu trong óc.”

“Toàn nói linh tinh.” Noãn Noãn cũng bật cười.

Noãn Noãn giúp tôi chọn một đôi giày vải để khâu thủ công, mặt giày màu đen có thêu vài bông hoa nhỏ màu đỏ.

Đây là hàng khuyến mại, giá 88 nhân dân tệ, tôi rút tờ 100 nhân dân tệ ra, rồi gọi Noãn Noãn lại: “Nào, chúng ta cùng tạm biệt Mao chủ tịch một tiếng,” tôi nói.

Noãn Noãn chẳng buồn để ý đến tôi, đi thẳng ra ngoài.

Nhân viên bán hàng trả lại cho tôi một tờ 10 tệ và hai đồng 1 tệ.

“Em xem,” tôi bước tới cạnh Noãn Noãn, chỉ vào chân dung Mao Trạch Đông trên tờ 10 tệ, nói: “Mao chủ tịch không nỡ xa bọn mình, thay quần áo cái lại trở về rồi này.”

“Bắc thất!” Noãn Noãn nói.

“Mắng hay lắm,” tôi nói, “câu này đúng là dùng thế đấy.”

Ra khỏi Nội Liên Thăng, Noãn Noãn nói em muốn đi mua một thứ, mười phút sau sẽ quay lại, rồi liền chạy mất tiêu.

Đợi chưa đầy năm phút, tôi đã thấy chán, bèn mua cây kẹo gậy, ngồi xổm xuống góc tường vẽ vòng tròn.

“Mua xong rồi.” Noãn Noãn chạy trở lại, hỏi: “Anh đang làm gì đấy?”

“Anh đang diễn cảnh đứa trẻ bị lạc mẹ.” Tôi đứng dậy.

“Đúng là mất mặt.” Noãn Noãn nói.

“Em mua gì thế?” tôi hỏi.

“Mấy hôm nữa rồi anh sẽ biết.” Noãn Noãn úp úp mở mở.

Phố đi bộ Đại Sách Lan kéo dài từ đông sang tây không đến 300 mét, nhưng tôi và Noãn Noãn vẫn đi bộ đến hai chân mỏi nhừ.

Vừa may trước cửa Đồng Nhân Đường có chỗ để ngồi, chúng tôi bèn ngồi xuống nghỉ giải lao.

“Chỗ này thích thật, cho mọi người được ngồi,” tôi nói. “Nếu như trời nóng quá đi bộ đến ong đầu, có thể vào luôn bên trong gặp bác sĩ bốc thuốc.”

Đúng thế.” Noãn Noãn lau mồ hôi, đưa cho tôi một bình sữa chua.

Tôi phát hiện mùa hè ở Bắc Kinh dường như không thể thiếu được sữa chua lạnh.

“Hay đọc tin trên báo về Đại Sách Lan, đến hôm nay mới có dịp đến đây dạo phố,” Noãn Noãn nói.

“Là những tin thế nào?” tôi hỏi.

“Phần lớn đều là giới thiệu về các cửa tiệm cổ hàng trăm năm, thỉnh thoảng cũng có thông tin về việc dỡ bỏ tu sửa.”

“Dỡ bỏ thật á?”

“Chắc là tu sửa. Nhưng tu sửa xong phong vị kinh kỳ có còn không thì cũng không biết được,” Noãn Noãn nói. “Tuổi này rồi, những thứ cần thuần khiết luôn rất chóng chết.”

Em nhìn ánh chiều tà, hồi lâu lại nói: “Dưới ánh chiều tà, bóng dáng người con gái ngồi nơi Đại Sách Lan uống sữa chua, có lẽ về sau cũng chẳng thể nhìn thấy nữa.”

“Nhưng tinh thần của em sẽ vẫn luôn trường tồn,” tôi nói.

“Nói cái gì thế.” Noãn Noãn bật cười thành tiếng.

Cũng gần đến giờ về, mọi người chầm chậm đến đầu phố phía đông Tiền Môn tập trung.

Tôi thấy biển hiệu “Toàn Tập Đức” phía đối diện, liền hào hứng nói với Noãn Noãn: “Toàn Tập Đức kìa!”

“Muốn ăn vịt quay à?” Noãn Noãn hỏi.

“Ừ.” Tôi gật đầu. “Hôm nay hình như có mời miễn phí.”

“Thật không?” Noãn Noãn giật thót mình. “Làm sao thế được?”

“Anh vừa mới thấy trước cửa tiệm có xếp mấy băng ghế dài, chắc là mời xem miễn phí người ta ăn vịt quay.”

“Anh...” Noãn Noãn không nói tiếp nữa, quay ngoắt đi không thèm để ý đến tôi.

Hai mắt tôi vẫn nhìn chằm chằm vào tiệm vịt quay Toàn Tự Đức phía đối diện.

“Lương Lương,” Noãn Noãn nói, “nếu anh muốn ăn, lần sau đến Bắc Kinh em sẽ mời anh.”

“Đây là lời hứa trong gió hả?”

“Hả?”

“Lúc có gió không nên hứa gì cả, làm vậy sẽ là lời hứa gió bay đấy.”

“Em có như anh đâu,” Noãn Noãn nói. “Em nói muốn tới Noãn Noãn, anh đến một lời hứa cho tử tế cũng không có.”

“Xe đến rồi,” tôi nói.

“Lại vờ vịt nữa.” Noãn Noãn khẽ hừ một tiếng.

Quay về trường ăn cơm xong, mọi người lại tập trung trong giảng đường trưng bày chiến lợi phẩm hôm nay.

Chiến lợi phẩm hôm nay vô cùng phong phú, xem ra hầu bao của rất nhiều người đều đã thất thoát không ít ở Đại Sách Lan.

Từ Trì cho tôi xem ảnh cậu ta chụp ở Đại Sách Lan, có một bức chụp bóng lưng tôi và Noãn Noãn đang kề vai uống sữa chua.

Nhớ tới lời Noãn Noãn nói lúc đó: “Tuổi này rồi, những thứ thuần khiết luôn rất chóng chết."

Không biết lần sau tới Bắc Kinh (nếu như vẫn còn có lần sau), những thứ thuần khiết nào sẽ ra đi trước đây?

Và còn thứ thuần khiết nào vẫn rất thuần khiết?

Nằm trên giường nhắm chặt mắt, tôi thấp thoáng nghe thấy vài âm thanh.

Có lẽ là do ảnh hưởng của vách hồi âm ở Thiên Đàn, tiếng cười của Noãn Noãn vẫn cứ vọng lại trong tim tôi.


HẾT CHƯƠNG 5
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
Đăng lúc 20-6-2013 13:11:18 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 6




“Hôm nay đổi gió chút, chúng ta sẽ đến Đại học Bắc Kinh nghe giảng,” thầy Lý nói.

Sinh viên Bắc Kinh trong đoàn chúng tôi không có ai học Bắc Đại *, đến đại học Bắc Kinh nghe giảng là điều rất mới mẻ đối với họ, còn đối với sinh viên Đài Loan, chuyến đi này ít nhiều mang ý nghĩa hành hương.

* Đại học Bắc Kinh được gọi tắt là Bắc Đại.

Chúng tôi vào Bắc Đại qua cổng Tây.

Không ngờ cổng vào ngôi trường này lại mang kiến trúc cửa hoàng cung cổ điển, ba cánh cổng sơn đỏ nhìn vô cùng bắt mắt.

Nếu không phải ở giữa treo tấm biển “Đại  học Bắc Kinh”, tôi còn tưởng đây hẳn phải vương phủ hay cung điện gì chứ.

Hai con sư tử đá được đẽo khắc tinh xảo, uy nghiêm trấn hai bên trái phải cổng trường, ánh mắt rực sáng long lanh rất có thần, bất nộ tự uy.

“Đây là sư tử đá trong Viên Minh Viên”, thầy Lý nói.

Cổng trường nườm nượp người qua lại không ngơi nghỉ, nhưng lại chẳng có ai để ý đến hai con sư tử đá đã trải qua hàng trăm năm thăng trầm này.

Từ cổng Tây bước vào Bắc Đại, thứ đầu tiên đập vào tầm mắt, là hai cột hoa biểu đứng sừng sững chót vót trên thảm cỏ.

Dưới sự tương phản của nền cỏ xanh rờn, cột hoa biểu đội ánh dương trở nên vô cùng khiết bạch trang nghiêm.

Tôi nhớ lại cột hoa biểu đã nhìn thấy ở Tử Cấm Thành, trong lòng dậy lên một nghi vấn: Sao trong khuôn viên trường lại dựng cột hoa biểu?

“Đôi hoa biểu này cũng là lấy từ Viên Minh Viên,” thầy Lý nói.

Lại là từ Viên Minh Viên?

Đi thẳng về hướng đông có thể thấy rất nhiều các tòa nhà xây dựng theo phong cách kiến trúc Minh – Thanh, rất điển nhã, với những vạt cây xanh bao bọc xung quanh.

Noãn Noãn kể với tôi, thầy Lý tốt nghiệp trường Bắc Đại, còn di tích Viên Minh Viên thì nằm ngay cạnh trường này.

Thầy Lý nói trường Bắc Đại nổi tiếng nhất là “nhất tháp hồ đồ”, nghe hệt như nhất loạt hồ đồ.

Cái gọi là “nhất tháp hồ đồ” chính là chỉ tháp Bác Nhã, hồ Vị Danh và đồ thư quán tức thư viện Bắc Đại.

Đi qua một dãy đồi cây cối um tùm, liền thấy hồ Vị Danh, tháp Bác Nhã đứng sừng sững trên bờ hồ tây nam.

Chúng tôi đi thành hàng một men theo bờ hồ Vị Danh, bóng tháp Bác Nhã thấp thoáng ẩn hiện trên mặt hồ, cảnh đẹp vô cùng.

Những gợn sóng li ti đuổi trên mặt nước, hàng dương liễu trên bờ duyên dáng rủ bóng, giữa hồ lại có một hòn đảo nhỏ điểm xuyết giữa sắc hồ bóng tháp.

“Ban đầu khi đặt tên cho hồ này, có rất nhiều cái tên được đưa ra nhưng đều không khiến người ta hài lòng,” thầy Lý nói, “cuối cùng Đại sư Quốc học Tiền Mục bèn đặt luôn hồ là ‘Vị Danh’ tức ‘chưa có tên’, cái tên Vị Danh cũng lưu truyền rộng rãi từ đó.”

“Sau này anh cũng muốn làm Đại sư Quốc học,” tôi nói.

“Ý, muốn quyết tâm phấn đấu hả?” Noãn Noãn cười rất dễ thương.

“Ừ.” Tôi gật đầu. “Anh dốt nhất là đặt tên, nhưng nếu làm Đại sư Quốc học rồi thì sẽ không còn khó khăn gì nữa.”

Noãn Noãn đi ra chỗ khác, không thèm nói gì với tôi nữa.

Nhưng nhỡ may lại nhiều Đại sư Quốc học quá, e rằng cũng vẫn còn khó khăn.

Ví dụ như có hai người Trung Quốc xa lạ gặp nhau trên nước Mỹ, chuyện nọ chuyện kia qua lại, uống rượu cười nói vui vẻ.

Người thứ nhất nói anh ta sống ở tòa nhà Vị Danh trên đường Vị Danh, người thứ hai liền hào hứng nói: Trùng hợp quá, tôi cũng thế đấy.

Người thứ hai nói anh ta tốt nghiệp trường cấp III Vị Danh, bờ song Vị Danh gần trường là nơi anh ta có mối tình đầu tiên.

Tôi cũng thế đấy! Người thứ nhất cực kỳ xúc động.

Hai người rưng rưng nước mắt vài giây sau bèn ôm chầm lấy nhau, hai con cháu Viêm Hoàng tương phùng nơi đất lạ xa xôi, thật đúng là tha hương gặp cố nhân! Hai người đều kêu lên hôm nay để tôi mời.

Nhưng rồi tiếp tục câu chuyện mới phát hiện ra một người ở Bắc Kinh, người kia ở Thượng Hải.

Cuối cùng người Bắc Kinh nói: Người Thượng Hải thực dụng lắm, người Thượng Hải nói: Người Bắc Kinh ngoan cố lắm, ánh dương đã dần khuất nơi triền tây mà tiền rượu vẫn chưa ai trả.

“Vẫn còn chưa xong à,” Noãn Noãn dừng lại, quay đầu trừng mắt với tôi.

“Còn xíu nữa thôi, cố kiên nhẫn một chút,” tôi nói.

“Nói mau lên.”

“Đã vô danh rồi, vậy cũng sẽ vô tranh,” tôi nói. “Hai từ Vị Danh dường như để nhắc nhở tất cả sinh viên Bắc Đại không cần màng danh lợi, rộng lượng không tranh chấp. Anh nghĩ đây mới là chủ ý của Tiền Mục tiên sinh.”

“Câu này mới còn ra hồn.” Noãn Noãn bật cười.

“Nếu học ở đây, hẳn phải dễ kiếm bạn gái lắm,” tôi nói.

“Hả?”

“Trường bọn anh cũng có một cái hồ, đi một vòng chưa hết mười phút. Nhưng đi dạo với con gái thì mười phút sao đủ được? Đành đi tiếp vòng thứ hai, vòng thứ ba, vòng thứ tư…” Tôi thở dài một tiếng, rồi nói tiếp: “Cuối cùng cô gái kia không chịu được nữa bèn nói: Đừng có dẫn tôi đi vòng vòng nữa! Chúng ta chia tay! Đừng tới tìm tôi nữa! Ba dấu chấm than kinh hoàng đã kết thúc một cuộc tình thế đấy.”

“Thế thì sao hồ Vị Danh lại giúp người ta có bạn gái?” Noãn Noãn hỏi.

“Hồ Vị Danh vừa rộng vừa đẹp, thanh niên nam nữ tan học xong đến đây dạo bộ đến cả quên cả thời gi­an. Đi mãi đi mãi, chàng trai bèn nói: Anh nguyện trở thành ngọn tháp Bác Nhã sừng sững uy nghi, còn em là nước hồ Vị Danh dịu dàng đa tình, anh một bước không đi, ngày ngày đứng đó, chỉ mong bóng mình mãi chiếu xuống lòng em. Có khi còn chưa đi hết nửa vòng hồ, một cặp tình nhân đã ra đời rồi.”

“Sao đơn giản thế được.” Noãn Noãn không tán  thành.

“Nếu như chàng trai nói: Chúng ta nhất định sẽ mãi ở bên nhau, vĩnh viễn dài lâu, không chia không lìa, không quản gió, không quản mưa, cũng không quản sấm sét. Liên quân Anh Pháp có thể đốt trụi Viên Minh Viên, cũng không sây sát được hòn đá trong lòng anh, bởi trên hòn đá trung thành ấy có khắc tên em. Thế này thì sao?” tôi hỏi.

“Quá sến,” Noãn Noãn nói, “Anh thử lại đi.”

Tôi ngoẹo đầu nghĩ ngợi hồi lâu mà chẳng nặn nổi câu nào nữa.

“Không nghĩ ra chứ gì.” Noãn Noãn cười khúc khích, “vậy em có thể rảnh tai được rồi.”

“Dù gì thì hồ cũng đủ lớn, có thể đi rất lâu” tôi nói, “đi dạo lâu trong cảnh đẹp nên thơ này, có là người sáp cũng lây thêm vài phần ý thơ.”

“Như anh thì không thể rồi, anh chỉ biết nói nhảm thêm thôi,” Noãn Noãn nói.

Đi tiếp chừng mười lăm phút nữa, tháp Bác Nhã đã gần ngay trước mặt.

Tháp Bác Nhã được xây giả theo tháp đèn cổ Thông Châu, có mười tầng, cao 37 mét.

“Các bạn thử đoán xem, tòa tháp này dùng để làm gì?” thầy Lý chỉ tòa tháp hỏi.

Mọi người bắt đầu rào rào tranh luận, có người nói tháp thường được xây trong đền thờ Phật, xây trong khuôn viên trường thế này kỳ quá; cũng có người nói chắc không phải giống tháp Lôi Phong dùng trấn áp Bạch nương tử, ở đây cũng đang trấn áp một loài yêu quái nào đó ư?

Cuối cùng thấy Lý cũng công bố đáp án: Đây là tòa thủy tháp, một tháp cung cấp nước được cải trang như một tòa bảo tháp.

Tháp Bác Nhã được xây vào những năm 20, trước sau âm thầm lặng lẽ đứng bên bờ hồ, cung cấp nước sinh hoạt cho thầy và trò trường Bắc Đại.  

Tôi ngẩng đầu ngước nhìn tòa tháp cao ngút tầng mây, tháp Bác Nhã dãi dầu sương gió, xung quanh chỉ có những tán tùng bách bầu bạn.

“Một kiến trúc mang đầy vẻ đẹp nghệ thuật văn hóa, có thể chỉ giữ một vai trò đơn giản; hoặc nói cách khác, một người công dân làm nhiệm vụ cấp thoát nước có vẻ hèn kém, nhưng có thể nội tâm anh ta lại mang đầy hơi thở nghệ thuật văn hóa,” thầy Lý nói. “Trước đây khi còn học ở Bắc Đại, tôi thường tới đây trầm ngâm suy ngẫm, lần nào cũng đều có thu nhận đáng kể.”

Rời tháp Bác Nhã, chúng tôi đi về hướng Nam, tạm biệt hồ Vị Danh, chuẩn bị đến nơi sẽ lên lớp.

“Hồ Vị Danh đẹp thật.” Tôi ngoảnh lại nhìn hồ Vị Danh lần cuối, nói: “Nhưng khi đi bên em, lại thấy hồ Vị Danh cũng chỉ thường thường thôi.”

Noãn Noãn đột nhiên dừng khựng lại.

Tôi nói xong liền thấy có điều gì bất thường cũng dừng khựng lại.

Mọi người đều dần dần đi hết, chỉ có tôi và Noãn Noãn vẫn đứng nguyên chỗ cũ.

“Anh!” Cậu em khóa dưới ngoảnh đầu lại hét lớn gọi tôi: “Đừng có chuồn đấy!”

Chẳng hiểu sao tôi lại có thể buột miệng nói ra câu đó?

Là vì trong đầu đang tưởng tượng đến đoạn đối thoại nam nữ đi dạo trên hồ Vị Danh ư?

Hay vì trong lòng tôi vẫn luôn thấy Noãn Noãn rất đẹp, nên bất giác đem so sánh với vẻ đẹp của hồ Vị Danh?

Hai cái giả thiết trên đều đúng, chỉ vì tôi đã đem mình và Noãn Noãn gán vào đôi nam nữ kia?

“Đây chính là đáp ác trước em bảo anh thử lại phải không?” Cuối cùng Noãn Noãn cũng lên tiếng.

“Cứ coi thế đi. Nhưng…ờm…” tôi trả lời, “anh cũng không chắc lắm.”

Không khí chẳng hề vì tôi và Noãn Noãn đều đã mở lời mà thay đổi.

“Anh.” Cậu em chạy lại, nói: “Bọn mình chơi trò rong biển* đi.”

*Trò rong biển: Một cách chơi Oẳn tù tì của Trung Quốc.

“Làm gì?” tôi hỏi.

“Rong biển à rong biển…” Cậu ta dang rộng hai tay như đại bàng xòe cánh, cánh tay uốn lượn như sợi rong biển.

“Nhạt vừa chứ,” tôi nói.

“Rong biển à rong biển à…” Cậu ta lại giơ cao hai tay, cánh tay đang uốn lượn lên trên, tôi liền cốc cho cậu ta một phát, nói: “Lại còn nữa!”

Cậu ta liền cười sằng sặc rồi bỏ chạy, Noãn Noãn cũng bật cười khúc khích.

“Bọn mình đi thôi.” Noãn Noãn dứt lời bèn rảo bước về phía trước.

Tôi cũng rảo bước theo, bắt kịp Noãn Noãn, rồi bắt kịp đoàn người.

Đi qua đường Ngũ Tứ, liền thấy một gian tứ hợp viện xây từ cuối đời Thanh, trên cổng có viết: Trị Bối Tử Viên.

Trước cổng còn có một bức tượng Lão Tử đẽo bằng đá, cao khoảng hai mét.

Trong sân là các đình viện nhỏ còn đậm hương sắc cổ, đâu đâu cũng toát lên một vẻ cổ kính, mộc mạc, điển nhã.

“Hôm nay lên lớp ở đây ư ?” Tôi hỏi Noãn Noãn.

“Nghe nói vậy,” Noãn Noãn nói.

“Ừ,” tôi gật đầu, “chỗ này rất hợp với phong cách của anh.”

Noãn Noãn cười gập bụng, như vừa nghe thấy một chuyện cười siêu hài hước.

Thầy giáo đứng lớp hôm nay tóc bạc trắng, nhưng trên mặt chả có đến nửa cọng râu, giảng về tư tưởng của Lão Trang.

Bài giảng bắt đầu từ chương một “Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh” trong Đạo đức kinh.

“Đạo” là thứ có thể nói, nhưng đạo có thể biểu đạt bằng ngôn từ, thì đạo ấy chẳng vĩnh hằng bất biến; miêu tả diện mạo vạn sự vạn vật – tức “danh”, cũng có thể được định nghĩa, nhưng một khi đã định nghĩa quá rõ ràng, thì diện mạo vốn có của vạn sự vạn vật hẳn không thể được miêu tả chân thực.

Ừm, uyên thâm quá.

Bình thường nếu nghe phải bài giảng uyên thâm kiểu này, tôi đều tận dụng thời gi­an nghe giảng để nạp năng lượng.

Nhưng có thể học ở nơi thế này quả là một trải nghiệm cả đời khó gặp, tính tò mò của tôi dễ dàng đánh bại cơn buồn ngủ.

Len lén quan sát bốn bề phòng học, xà trên mái, gạch dưới đất đều hiển hiện những dấu ấn lịch sử.

Mùi vị không khí cũng khác hẳn, có một hương thơm nhè nhẹ, không sao gọi được thành tên.

Tôi viết lên tờ giấy trước mặt Noãn Noãn: Có ngửi thấy một mùi hương đặc biệt không?

Noãn Noãn hít ng viết lên tờ giấy trước mặt tôi: Không. Là mùi gì?

Tôi lại viết: Mùi hương này rất giống mùi trên người anh.

Noãn Noãn viết: ?

Tôi viết: Đó gọi là hương sách.

Noãn Noãn viết: Ngậm miệng!

Tôi viết: Nhưng anh dùng tay viết mà.

Noãn Noãn viết: Thế thì dừng tay!

Trước khi hết giờ, thầy giáo nói bản tính của con người cũng như viên ngọc bị vùi sâu dưới đáy lòng, chỉ lộ ra một chút ít.

Mỗi người đều phải khai quật từng chút từng chút viên ngọc vùi giấu nơi đáy lòng ấy, đem nó ra, mài giũa nó.

Đây chính là quá trình tìm tòi tự phát huy bản thân.

“Cần nỗ lực khai quật chính mình.” Thầy lấy đây là câu kết của buổi học hôm nay.

“Anh đã khai quật được chính mình chưa?” ra khỏi Trị Bối Tử Viên, Noãn Noãn hỏi.

“Cái có thể khai quật đã chẳng phải khai quật. Thà rằng chẳng khai quật còn hơn,” tôi nói. “Đây là đạo gia đấy.”

“Còn gì nữa không?” Noãn Noãn nói.

“Khai quật chính là không, không chính là khai quật, đây là Phật gia” tôi nói.

“Tiếp theo?”

“Người chí sĩ bậc nhân nhân, không ai khai quật mà hại Đạo nhân, chỉ có kẻ không khai quật mà thành Đạo nhân. Đây là Nho gia.”

Noãn Noãn thở dài, nói: “Nói nhảm hình như chính là bản chất của anh.”

“Giờ em mới phát hiện ra à?”

Chúng tôi tới Tam Giác Địa ăn trưa. Ăn xong, tôi ra cửa hàng gần đó mua phong bì và giấy viết thư của trường Bắc Đại.

“Có ý nghĩa gì đặc biệt à?” Noãn Noãn hỏi.

“Anh định dung phong bì và giấy viết thư để viết CV tìm việc,” tôi nói. “Công ty nhận được thư chắc chắn sẽ nghĩ anh tốt nghiệp đại học Bắc Kinh, tò mò bèn đọc kỹ. Như vậy CV của anh mới không chìm nghỉm giữa cả biển thư.”

“Anh nghĩ nhiều quá rồi đấy.”

“Nghĩ nhiều vẫn cứ tốt hơn. Giờ ở Đài Loan khó tìm việc lắm.”

Mọi người dạo bộ về hướng Bắc, gần đến hồ Vị Danh, liền trông thấy thư viện Bắc Đại.

Đây là tòa nhà mới của thư viện, cửa chính nằm ở hướng Đông, vừa vặn nối liền cổng Đông của trường.

Nếu vào Bắc Đại từ cổng Đông, tầm mắt không có gì cản trở, sẽ có thể nhìn thẳng thấy thư viện Bắc Đại.

Thư viện thiết kế theo phong cách truyền thống kết hợp hiện đại, phần mái hệt như cung điện trong Tử Cấm Thành, toát lên vẻ cổ điển mà phóng khoáng.

Tổng thể kiến trúc có màu xám trắng, càng tràn đầy khí thế trang nghiêm, vững chãi.

Hai bên tường tòa nhà mới vừa khéo nối với tòa nhà cũ, tạo thành thư viện đại học có quy mô lớn nhất châu Á.

Thầy Lý nói có sinh viên trường Bắc Đại đã viết câu thơ miêu tả không khí trong thư viện thế này: Tĩnh, tĩnh một cách hừng hực sôi nổi.

Mọi người liền rộ lên muốn vào thư viện cảm nhận chút không khí.

Chúng tôi đem chứng minh thư đổi lấy một thẻ đọc tạm thời xong, bèn nhẹ chân nhỏ tiếng, lặng lẽ như cá bước vào thư viện.

Điều khiến tôi ấn tượng sâu sắc nhất là ánh mắt của những sinh viên đang đọc sách, hệt như loài mãnh hổ đang dõi sát theo con mồi.

Nếu như thế giới của sinh viên cũng có cảnh giới lý tưởng, thì đây hẳn chính là hình mẫu thế giới đại đồng.

Đáng tiếc tôi đã tốt nghiệp rồi, nếu như vẫn chưa, trở về Đài Loan rồi tôi nhất định sẽ càng dụng công học hành.

Nhưng đứng ở một góc độ khác mà nói, may là tôi đã tốt nghiệp rồi, không thì áp lực thật quá lớn.

Học khả học, phi thường học. Ừm, cứ học nhẹ nhàng là được rồi.

Chúng tôi lại đi về hướng Bắc tới ven hồ Vị Danh, tiếp tục thưởng lãm phong cảnh hai bên bờ hồ buổi sáng vẫn còn chưa dạo hết.

Phía tây hồ Vị Danh, trên mặt nước lộ ra một con cá đá đang quẫy đuôi há miệng hướng lên trời, đây cũng là một di vật của Viên Minh Viên.

“Cá đá trong hồ Vị Danh, thật là một điểm nhấn kết hợp kỳ diệu,” Noãn Noãn nói.

“Anh em bạn bè nó đều đã bị cháy trụi hết rồi, một mình nó hiu quạnh ở đây nhấn nhá nhất định rất cô đơn” tôi nói.

“Ừ! cười. “Thật không ngờ anh cũng có trái tim cảm tính đấy nhỉ.”

“Em có mang khóa ở đây không?”

“Mang khóa làm gì?”

“Anh phải khóa trái tim mình lại, không để em nhìn thấy nữa.”

“Em có mang súng đây, hay là, bắn chết nó luôn đi” Noãn Noãn nói.

Rời khỏi Bắc Đại từ cổng Tây, lên xe ngồi chưa nóng chỗ đã tới Viên Minh Viên, hai nơi này cách nhau chưa đến một cây số.

Nơi đây thực ra cũng chẳng còn lại gì nữa, sau trận cháy lớn ba ngày ba đêm liên quân Anh Pháp gây ra năm 1860, ngoài những hồ nước và bộ phận các văn vật điêu khắc đá vụn nát ra, mọi thứ đều đã bị cháy rụi.

Thế nhưng lá sen xanh biếc, hoa sen thắm sắc trong hồ, cây cối mọc lên từ những khe ngói, đống đổ nát giấu mình giữa những thảm cỏ, tổng thể cảnh sắc tự nhiên vẫn mang một vẻ đẹp và một sức sống mãnh liệt.

“Ngoài chữ viết, tranh ảnh, phim truyện có thể ghi lại lịch sử, những phế tích cũng có thể là bằng chứng cho lịch sử,” thầy Lý nói. “Ý nghĩa tồn tại của công viên di chỉ Viên Minh Viên, chính là để nhắc nhở người dân Trung Quốc chớ quên đi lịch sử.”

Hồi những tử tôn học rộng biết nhiều ham mê cái mới, nhớ tới tổ tiên từng khởi gia với mười ba bộ giáp, viết bảy đại hận cáo thiên, phát binh đánh Minh, bất khả chiến bại, tự hào biết bao.

Nếu bây giờ bị cướp sạch đốt sạch vườn hoa nhà cửa, lẽ nào các bạn lại chỉ biết cúi đầu nhận lỗi, cắt đất bồi thường, vậy thì còn mặt mũi nào gặp lại tổ tiên!?

“Em nói đúng lắm,” tôi nói với Noãn Noãn, “chẳng trách Hàm Phong không dám vào ở Hoàng Khung Vũ trong Thiên Đàn”

“Em nói bừa thôi,” Noãn Noãn nói.

“Không, em không biết nói bừa, chỉ biết nói rõ thôi. Em lúc nào cũng sắc bén, nhìn xa trông rộng,” tôi nói. “Nếu như người con gái Hàm Phong gặp không phải Từ Hy mà là Noãn Noãn, kết cục nhất định sẽ khác.”

“Khác ở đâu?”

“Gỗ làm bài vị của Hàm Phong sẽ rất cứng, tên trên bài vị cũng rất lớn, hương thắp sẽ rất dài, lúc dâng hương mọi người cũng sẽ khóc rất to.”

“Nói đủ chưa thế?”

“Đủ rồi.” Tôi cười cười.

Chúng tôi dừng ở Viên Minh Viên không được bao lâu, đã lại lên xe tới Di Hòa Viên.

Di Hòa Viên nằm ở phía tây Viên Minh Viên , cũng ngồi chưa nóng mông đã đến nơi.

Chính vì gần nhau như thế mà tiền thân của Di Hòa Viên – Thanh Y Viên, cũng đã bị cháy rụi bởi liên quân Anh Pháp.

Về sau Từ Hy trưng dụng ba mươi triệu lượng bạc trắng kinh phí hải quân xây dựng lại trong suốt mười năm, rồi đổi tên thành Di Hòa Viên.

Di Hòa Viên là khu nghỉ mát của hoàng gia cuối đời Thanh, và cũng là hành cung của Từ Hy.

Từ cửa Đông Cung bước vào, sáu tấm cửa đỏ tươi bên trên có khảm đinh vàng, phía trước cửa còn có một đôi sư tử lớn bằng đồng.

Đầu tiên chúng tôi vào thăm quan điện Nhân Thọ nơi Từ Hy xử lý chính sự, Đức Hòa Viên nơi Từ Hy nghe kịch, buồng ngủ Ngọc Lan Đường, rồi đi dạo ven hồ Côn Minh, chiêm ngưỡng cảnh hồ sắc núi.

Hồ Côn Minh gợn sóng biếc, núi Vạn Thọ dưới ánh nắng hòa vào dãy Tây Sơn, sơn thủy một màu.

Trên mặt hồ trải rộng, điểm xuyến ba hòn đảo nhỏ, quanh hồ có đủ các đình đài lầu gác điển nhã muôn hình muôn vẻ.

Di Hòa Viên vừa nguy nga tráng lệ kiểu hoàng gia, lại có linh khí thanh nhã của lâm viên Giang Nam.

“Hồ Côn Minh đẹp thật. Nhưng...”

“Này,” Noãn Noãn vội vàng ngắt lời tôi, “mấy lời quái đản ngày nói một lần là đủ rồi.”

“Hôm nay anh đã nói câu nào quái đản đâu?”

“Thì lúc ở hồ Vị Danh ấy, anh nói gì mà hồ Vị Danh đẹp thật...”

“Hồ Vị Danh đẹp thật, nhưng khi đi bên em, lại thấy hồ Vị Danh cũng chỉ thường thường thôi. Em bảo câu này hả?”

Tốc độ nói của tôi quá nhanh, vốn chẳng kịp nghĩ xem có nên nói hay không, đã liền một hơi nói hết ra rồi.

Noãn Noãn nghe xong dường như đỏ mặt, tôi cũng thấy hai vành tai mình nóng bừng lên.

“Noãn Noãn.”

“Hả?”

“Chúng ta hãy đứng trên lập trường người thứ ba để kiểm điểm đoạn đối thoại này, không mắc vào ân oán cá nhân.”

“Được.” Noãn Noãn gật đầu, rồi bật cười.

“Thanh niên nam nữ tản bộ ven hồ Vị Danh...” Tôi ngừng lại, nuốt nước bọt, rồi nói tiếp: “Nếu chàng trai nói ra một số câu quái đản, cô gái sẽ phản ứng ra sao?”

“Có thể thấy ngọt ngào, mà cũng có thể thấy nhàm chán. Có khi thấy buồn nôn,” Noãn Noãn nói.

“Giả sử, chỉ là giả sử, em là cô gái trong cặp nam nữ đang dạo hồ Vị Danh đó, khi em nghe thấy mấy lời quái đản ấy, em có cảm tưởng thế nào?”

“Cái đấy còn phải xem là ai nói đã.”

“Giả sử, là giả sử nhé, chàng trai đó là anh.”

“Ờm...” Noãn Noãn trầm ngâm một lúc, “mang tai em mềm, chắc cũng nghe lọt thôi.”

“Thật không?”

“Dù gì người như anh miệng cún chẳng mọc được ngà voi, khó lắm mới nói được câu dễ nghe, đương nhiên là phải nghe rồi.”

“Thế thì tốt.”

“Đấy là em nói, giả sử em là cái cô đó.”

“Nhưng đồng thời em cũng giả sử anh là anh chàng đó.”

“Em...” Noãn Noãn ấp úng.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “bọn mình đổi chủ đề đi.”

“Được thôi.” Noãn Noãn như trút được gánh nặng, thở phào nhẹ nhõm.

“Từ Hy quả là đã tốn nhiều tâm huyết,” tôi nói.

“Hả?”

“Nếu không phải Từ Hy trưng dụng kinh phí hải quân, làm sao có được một Di Hòa Viên đẹp thế này?”

“Nói gì thế,” Noãn Noãn nói, “lẽ nào anh không biết đạo chỉ này đã dẫn đến thất bại trong trận chiến Giáp Ngọ sau này à?”

“Nếu như Từ Hy không những không trưng dụng kinh phí hải quân, mà còn ủng hộ cả châu báu của bản thân cho hải quân, ví dụ như áo lót nạm dạ minh châu với quần lót nạm kim cương,” tôi nói, “lẽ nào trận chiến Giáp Ngọ có thể thắng được ư?”

“Cái này...”

“Số tiền đó nếu đổ vào túi người Nhật, thì chi bằng dùng để xây Di Hòa Viên còn hơn. Từ Hy biết về sau người dân Trung Quốc ngoài siêng năng làm việc, cũng cần một số danh thắng để khích lệ tinh thần, nên mới thà chịu thế nhân mắng chửi, cũng phải để lại Di Hòa Viên cho con cháu đời sau. Vì vậy mới nói, Từ Hy quả là tốn nhiều tâm huyết.”

“Nói nhảm.” Noãn Noãn trừng mắt nhìn tôi.

“Thế lại đổi chủ đề là được rồi,” tôi nói.

“OK. Nhưng không được nói mấy chuyện ngớ ngẩn kiểu chuối vấp ngã biến thành cà tím, đậu xanh từ gác rơi xuống lại thành đậu đỏ.”

“Được.” Tôi cũng gật gật đầu. “Đúng rồi, vừa rồi anh nói nhầm, Từ Hy chắc chắn cũng có thắt ruột tượng, vì vậy cái bà hiến tặng là dải ruột tượng được nạm mười chữ ‘Người phụ nữ Trung Quốc có thân hình đẹp nhất’ bằng các loại đá quý.”

“Chuyển chủ đề!”

“Từ Hy thật là tốn nhiều tâm huyết,” tôi nói.

“Này.”

“Trước khi chết, Từ Hy còn không quên gửi thuốc độc cho Quang Tự, bắt ông chết trước.”

“Thế coi là tốn nhiều tâm huyết vào việc gì?”

“Từ Hy biết Quang Tự hiếu thuận, nếu mình chết trước, Quang Tự nhất định sẽ đau khổ tột cùng. Nên thà mình mình chịu đựng nỗi thống khổ của kẻ đầu bạc tiễn người đầu xanh, chứ không muốn để Quang Tự chịu cảnh bi ai mất mẹ.”

“Quang Tự có phải do Từ Hy sinh ra đâu, mẹ Quang Tự là em gái Từ Hy.”

“Nhưng trên danh nghĩa vẫn là mẹ, mà dù gì cũng vẫn cùng huyết thống mà,” tôi nói. “Tóm lại, bàn tay Từ Hy đưa thuốc độc run rẩy lắm. Vì vậy mới nói, Từ Hy quả đã tốn nhiều tâm huyết.”

“Nói như vậy, khi liên quân tám nước đến chân thành Bắc Kinh, Từ Hy trước khi bỏ trốn còn sai người đẩy Trân Phi xuống giếng, cũng là tốn nhiều tâm huyết à?” Noãn Noãn nói.

“Trân Phi bị nhốt mãi trong lãnh cung, thân thể nhất định đã đóng băng rồi. Từ Hy phải bỏ Bắc Kinh chạy đến Tây An, một lộ trình xa xôi là thế, Trân Phi làm sao chịu đựng nổi sự giày vò ấy? Vì không muốn để Trân Phi phải chịu đựng nỗi khổ của cuộc hành trình dài đằng đẵng, Từ Hy chỉ còn cách sai thái giám đẩy nàng xuống giếng. Lúc hạ lệnh, giọng Từ Hy nghẹn ngào mãi.”

“Đổi tiếp chủ đề,” Noãn Noãn nói, “và không được liên quan đến Từ Hy nữa.”

“Thế thì hết chủ đề rồi,” tôi nói, “nhưng chủ đề đầu tiên của anh vẫn chưa nói hết.”

“Chủ đề đầu tiên?” Noãn Noãn hơi nghi hoặc. “Tự nhiên em quên mất rồi, là gì thế?”

“Hồ Côn Minh đẹp thật. Nhưng khi đi bên em, lại thấy hồ Côn Minh và em như chị em gái, hơn nữa Noãn Noãn là chị, còn hồ Côn Minh là em.” Nói liền một mạch xong, tôi vội vàng bổ sung thêm: “Nếu như mạo phạm, xin được lượng thứ. Em cứ coi như anh đang nói nhảm đi.”

“Đươc, em phá lệ,” Noãn Noãn cười nói: “một ngày nghe tận hai câu quái đản.”

Chúng tôi tới bến thuyền Thủy Mộc, khi Từ Hy đi đường thủy từ thành Bắc Kinh tới Di Hòa Viên, thuyền ngự đều neo tại đây.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
Đăng lúc 20-6-2013 13:18:43 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 6
(Tiếp)

Đi về hướng Bắc một chút, chính là điện Lạc Thọ nơi Từ Hy ở, phần lớn thời gian những năm cuối đời, Từ Hy đều trải qua ở đây.

Trong điện Lạc Thọ còn có một bức ảnh Từ Hy đóng vai Quan Âm, cảm giác khi nhìn tổng thể chỉ thấy kỳ quái.

Bạn có thể liên hệ giữa chó săn với người đẹp được không chứ?

“Từ Hy quả là tốn nhiều tâm huyết,” tôi nói.

“Anh lại nữa rồi,” Noãn Noãn nói.

“Từ Hy đóng Quan Âm, mục đích là để nhắc nhở mọi người, thế gian này có rất nhiều con sói đội lốt cừu, tuyệt đối đừng để ngoại hình che mắt,” tôi nói. “Vì vậy mới nói, Từ Hy quả là tốn nhiều tâm huyết.”

“Từ Hy rốt cuộc phải tốn tâm huyết đến tận lúc nào đây?”

“Đến đây thôi,” tôi nói.

Từ điện Lạc Thọ đi về hướng Tây qua Yêu Nguyệt Môn, liền đến hành lang dài Trường Lan nổi tiếng của Di Hòa Viên.

Trường Lang được xây dựng theo kiểu kiến trúc điển hình của Trung Quốc, là hành lang nối giữa các phòng, chỉ có nóc mà không có tường hai bên, vì vậy khi tản bộ trên Trường Lang ta vừa có thể thưởng thức cảnh đẹp, lại có thể tránh nắng tránh mưa.

Trường Lang trong Di Hòa Viên, phía nam cồ Côn Minh, phía bắc kề núi Vạn Thọ, phía đông dựng Yêu Nguyệt Môn, phía tây có Thạch Trương Đình; dài tới 728 mét, cứ bốn cột trụ làm thành một gian, tổng cộng có 273 gian.

Nửa trên mỗi gian lắp các thanh ngang, nửa dưới lại đặt băng ghế bằng gỗ dọc theo lan can.

Trên các thanh dầm của Trường Lang vẽ kín những bức tranh màu sắc tươi sáng, tổng cộng có hơn 14000 bức, không bức nào giống bức nào.

Những bức tranh này được vẽ theo phong cách hội họa Giang Tô, đại để có thể phân thành bốn loại: người vật, sơn thủy, chim hoa, kiến trúc phong cảnh.

Với kiến trúc độc đáo, hội họa phong phú, Trường Lang được công nhận là gallery tranh dài nhất thế giới.

Tản bộ trên Trường Lang, dường như ta đang bước vào một gallery hội họa trang nhã độc đáo; mỗi người như cũng tự biến thành một chú cá, bơi lội trong họa cảnh.

Những bức tranh trong Trường Lang, cùng đình đài lầu các, sông núi hoa cỏ bên ngoài san sát nối tiếp nhau, khiến mắt người không kịp nghỉ ngơi.

Nếu đi mệt rồi, ta có thể ngồi xuống những băng ghế gỗ hai bên bất cứ lúc nào. Ngồi thưởng thức tranh cũng là một kiểu nghỉ ngơi lý thú.

“Anh!” Cậu em khóa dưới chạy lại nói: “Thử vừa đi vừa ngẩng đầu ngắm tranh xem, mỗi bức đều phải nhìn cho kỹ ấy, xem anh đi được mấy bước mà không chóng mặt.”

“Từng này tuổi đầu rồi còn chơi mấy trò trẻ con ấy nữa.” Tôi tỏ vẻ khinh bỉ.

“Thử đi mà,” Noãn Noãn nói.

“Ừ,” tôi lập tức thay đổi thái độ, “giữ tâm hồn thơ trẻ cũng ha

Tôi ngửa cổ nhìn lên, đi từng bước chậm rãi, xem thật kỹ từng bức tranh trên các thanh ngang, thanh dầm.

Những bức họa đầy màu sắc, tạo hình phong phú, tôi dần cảm thấy mắt hoa lên, bèn dừng lại.

“Anh mới đi được 29 bước,” cậu em nói, “em đi được 37 bước, Vương Khắc còn đi được tận 48 bước.”

“Thế thì làm sao?” tôi nói.

“Thế chứng tỏ IQ của anh thấp hơn em với Vương Khắc.”

“Vớ vẩn!”

“Anh ấy thẹn quá nổi giận rồi,” cậu ta quay sang nói với Vương Khắc, “chúng ta mau chuồn thôi.”

Bóng cậu chàng và Vương Khắc khuất xa rồi, tôi mới quay sang Noãn Noãn nói: “Noãn Noãn, em cũng thử xem.”

“Không cần thử nữa,” Noãn Noãn nói, “IQ của em chắc chắn cao hơn anh.”

“Cái đó cũng chưa chắc.”

“Hay là thử đánh cược xem, nếu như IQ của em cao hơn anh, anh phải đưa em tới Noãn Noãn.”

“Em nói đúng đấy,” tôi gật đầu, “IQ của em chắc chắn cao hơn anh.”

Tới Bài Vân Môn, cũng vừa đúng dạo hết nửa phía đông của dãy hành lang. Chúng tôi ngoành sang hướng Bắc, đi thẳng tới núi Vạn Thọ.

Từ Bài Vân Môn đi men lên theo núi Vạn Thọ, lần lượt thấy Nhị Cung Môn, Bài Vân Điện, Đức Huy Điện và Phật Hương Các.

Những kiến trúc này trải từ nam tới bắc, từ thấp lên cao, tăng dần t tầng thế núi, cảnh sắc hùng vĩ.

Bài Vân Điện tầng tầng trùng điệp, ngói lưu ly bảy màu sặc sỡ, là nơi Từ Hy nhận lễ mỗi lần mừng thọ.

Bên trong trưng bày những món quà các vương công đại thần mừng thọ Từ Hy 70 tuổi, còn có cả một bức tranh sơn dầu vẽ Từ Hy.

Từ Bài Vân Điện tới Đức Huy Điện, leo tiếp 114 bậc cầu thang, là tới Phật Hương Các.

Cầu thang 114 bậc cao chừng 20 mét, bằng một tòa nhà sáu tầng, đội hẳn Phật Hương Các lên cao.

Từ dưới nhìn lên Phật Hương Các cheo leo nơi đỉnh núi, cảm tưởng như cao ngút chọc trời.

“Mình không leo đâu, mình sợ độ cao.” Chân Vương Khắc đã hơi bủn rủn.

“Nào,” cậu em tôi ngồi xổm xuống, quay lưng về phía Vương Khắc, “mình cõng bạn.”

“Cảm ơn.” Tôi ngồi lên lưng cậu ta. “Vất vả cho chú quá, chú thật chu đáo.”

“Mấy tuổi đầu rồi mà còn đùa nữa.” Cậu ta đứng phắt dậy.

Tôi vồ phải một con ếch, cả Noãn Noãn và Vương Khắc đều bật cười.

“Noãn Noãn,” tôi hỏi, “em sợ độ cao không?”

“Không,” Noãn Noãn trả lời, “em thích độ cao.”

“Như chơi xếp hình ấy hả?”

“Đúng thế.” Noãn Noãn bật cười.

Mọi người đều đã đi xa cả rồi, bốn chúng tôi vì bệnh sợ độ cao của Vương Khắc vẫn cắm rễ lại đây. Noãn Noãn đưa ra một sáng kiến: cậu em khóa dưới tôi sẽ đi trước dắt tay Vương Khắc, tôi và Noãn Noãn đi sau phụ trách cản tầm nhìn của cô bạn này.

Chúng tôi nhất trí làm như vậy, cậu em tôi tay phải dắt Vương Khắc, tôi và Noãn Noãn một phải một trái áp sát đằng sau, còn Vương Khắc thì cúi gằm mặt, không nhìn lên cũng chẳng nhìn xuống, bước dần từng bước lên trên.

Leo mãi leo mãi, Noãn Noãn đột nhiên nói: “Từ Hy quả là tốn nhiều tâm huyết.”

Vương Khắc dường như khá kinh ngạc, quay đầu lại nhìn một cái, rồi lập tức quay lên.

“Bậc thang dốc thế này, Từ Hy không thể tự mình leo, chắc chắn phải có người khiêng lên. Từ Hy biết nguyên nhân yếu kém của người Trung Quốc là do thể chất không kiện toàn, nên mới xây bậc thang siêu dốc, để người đỡ bà ta rèn luyện sức khỏe. Khi Từ Hy ngồi giữa kiệu nhìn mấy người đang khiêng mình, nhất định rưng rưng nước mắt.” Noãn Noãn nói: “Vì thế mới nói Từ Hy quả tốn nhiều tâm huyết.”

“Noãn Noãn,” Vương Khắc phá lên cười, “cậu nói kiểu gì thế?”

Noãn Noãn cười đắc ý, tiếng cười vừa dứt, chúng tôi đã lên tới Phật Hương Các.

Phật Hương Các được xây dựa triền núi, cao 41 mét, có tám mặt, ba tầng lầu, bốn lớp mái, vô cùng uy nghi.

Bên trong có thờ một pho tượng Quan Âm nghìn tay bằng đất, cao chừng ba mét.

Cứ đến mùng một và mười lăm hàng tháng, Từ Hy lại đến đây dâng hương cúng Phật, những ngày còn lại hẳn đều có thể tùy tiện sát sinh.

Phật Hương Các nằm ở trung tâm Di Hòa Viên, từ đây nhìn xuống, có thể thu hết cảnh đẹp của Di Hòa Viên vào tầm mắt.

Nhìn ra Tiên Đảo nằm giữa hồ Côn Minh, rồi Trường Đê, Thạch Kiều, xa xa phía tây là núi Ngọc Tuyền và dãy Tây Sơn, nước hồ trong xanh sắc núi biêng biếc, lầu gác thanh nhã, khiến lòng người cũng vui vẻ thoải mái.

Chúng tôi xuống núi theo đường cũ, vốn lo không biết Vương Khắc sẽ xuống núi thế nào, nhưng rồi hơn hai mươi bạn sinh viên quây thành ba vòng tròn, lấy Vương Khắc là tâm, cả đoàn người từ từ xuống núi.

Vương Khắc lúc đầu còn thấy ngại, về sau lại cảm thấy buồn cười, chúng tôi cũng cười cười nói nói suốt chặng đi xuống.

Quay về Bài Vân Môn, lại đi bộ men theo bờ tây Trường Lang, đi hết Trường Lang liền trông thấy một con thuyền đá.

Thuyền đá có tên là thuyền Thanh Yến, lấy ý từ câu “hà thanh hải yến”, dài 36 mét, neo bên bờ hồ Côn Minh.

Thuyền đá được đẽo dựng từ đá cẩm thạch trắng, bên trên có hai tầng lầu mang phong cách phương Tây, còn phần mái là mái hiên kiểu Trung Quốc.

Sàn thuyền được lát đá hoa, cửa sổ khảm kính màu, trên nền đá cẩm thạch trắng càng hiện ra tinh xảo hoa lệ.

Kính màu khiến người ta liên tưởng đến phong cách trang trí nhà thờ phương Tây, hơn nữa bánh lái hai bên mạn thuyền cũng mô phỏng theo thuyền hơi nước của phương Tây, vì vậy có thể nói thuyền đá chính là sản vật kết hợp giữa Đông và Tây, là một biểu tượng quan trọng của Di Hòa Viên.

Thuyền Thanh Yến là nơi Từ Hy ngắm cảnh hồ và thưởng thức yến tiệc, có lúc còn sai  cung nữ và thái giám hóa trang thành người cá.

Đáng tiếc con thuyền đá này đã không thể chạy trên mặt nước, mà cũng chẳng chở nổi gi­ang sơn nhà Thanh.

Chúng tôi ở trên thuyền Thanh Yến xử lý mấy kiểu ảnh cuối xong, bèn tới phố Tô Châu  sau núi Vạn Thọ.

Phố Tô Châu nằm hai bên bờ sông Tô Châu sau núi, xây mô phỏng theo những con phố ven sông ở vùng sông nước Giang Nam.

Cả con phố dài gần 300 mét, được sông Tô Châu chia làm hai dãy lầu ốc, nối với nhau bằng các cây cầu gỗ hoặc cầu đá.

Sông Tô Châu quanh co uốn lượn, thoắt rộng thoắt hẹp, kiến trúc hai bên bờ tuy đa dạng nhưng đều mang phong cách đơn giản thanh nhã, được xây bằng gỗ kết hợp gạch xám ngói xanh. Bờ sông kè bằng đá.

Điều này khiến tôi nhớ đến bài Nguyên khúc “Thiên tịnh sa – Thu tư” từng miêu tả: Tiểu kiều, lưu thủy, nhân gia.

Trên phố Tô Châu, biển hiệu cửa tiệm hai bên bờ đều mang dáng vẻ cổ xưa, rèm vải, màn che, cờ xướng đều được dùng làm biển hiệu.

Hoàng hậu đời Thanh thích dong thuyền du ngoạn tại đây, kẻ làm người ở trong tiệm đều do các thái giám cung nữ sắm vai.

Hàng trăm năm trước, nơi đây từng có những cửa tiệm phục vụ tốt nhất thế giới, bởi mỗi khi khách hàng bước vào nhân viên trong tiệm đều quỳ xuống nghênh tiếp.

Tôi và Noãn Noãn thả bộ dọc theo con phố, phía xa cây cối um tùm một màu xanh biếc, bờ sông liễu rủ thướt tha, trên sông thuyền nhỏ bơi qua bơi lại; nếu như không thỉnh thoảng lại thấy những biển báo nhắc nhở du khách cẩn thận kẻo ngã xuống sông, mọi thứ đều khiến người ta như thể chìm trong một thế ngoại đào viên của thế kỷ 18.

Chúng tôi nhìn thấy một lá cờ trắng viền mép đỏ bên trên có viết hai chữ “Tiền Trang*”, bèn tò mò bước vào.

*Tiền Trang: Ngân hàng tín dụng tư nhân.

Hóa ra phố Tô Châu gi­ao dịch bằng tiền đồng và nguyên bảo*, Tiền Trang chính là điểm đổi nhân dân tệ sang tiền đồng và nguyên bảo, một tệ đổi được một đồng tiền đồng.

*Nguyên bảo: Thoi vàng hoặc bạc khá lớn thời xưa. 1 nguyên bảo bạc = 50 lượng; 1 nguyên bảo vàng = 5 hoặc 10 lượng.
Tôi và Noãn Noãn đổi một ít tiền đồng và nguyên bảo, rồi bước vàorà quán bên cạnh uống trà nói chuyện.

Ngồi trên tầng hai trà quán, nhìn ra những cây cầu nhỏ vất qua mặt nước, tưởng tượng miền sông nước Gi­ang Nam thuở xưa có chăng cũng giống như cảnh đang trước mắt.

Thời gi­an cũng giống như nước sông Tô Châu, cứ chậm rãi chậm rãi, lặng lẽ chảy.

“Đồ bán ở đây nhất định rất rẻ” tôi nói.

“Sao công tử lại nói vậy?” Noãn Noãn nói.

“Ý?” tôi nói, “cách nói của em thay đổi rồi.”

“Hoàn cảnh xô đẩy” Noãn Noãn nói.

“Xin cô nương trở lại thế kỷ 21, có được chăng?”

“Được thôi,” Noãn Noãn cười khúc khích, “anh nói đi xem nào.”

“Lúc dạo phố, Từ Hy hỏi: Cái áo này bao nhiêu tiền? Cung nữ đáp: Mười lạng bạc ạ. Từ Hy nói: Đắt quá. Cung nữ lập tức quỳ xuống dập đầu khóc than: Nô tài đáng chết!” tôi nói: “Kẻ bán đắt đều bị giết sạch, tự nhiên sẽ có truyền thống bán rẻ.”

“Lời công tử hẳn là nói xằng.”

“Hở?”

“Nói nhảm!” Noãn Noãn lại bật cười.

Rời khỏi trà quán, chúng tôi đi qua một cây cầu đá sang phố đối diện, trông thấy hàng chữ đen trên lá cờ trắng: Coi chữ.

“Anh chỉ nghe qua có coi bói với đo chữ, coi chữ là cái gì?”  tôi hỏi Noãn Noãn.

Noãn Noãn lắc đầu, nói: “Vào coi thử xem”

Một ông lão râu dài đến ngực ngồi nghiêm trang trong trạm quán, bên cạnh có hàng chữ nhỏ:  Năm đồng tiền.

Tôi và Noãn Noãn quay sang nhìn nhau, cùng gật gật đầu, rồi ngồi xuống.

“Viết lên tờ giấy này, cả hàng ngang lẫn hàng dọc, mỗi hàng khoảng mười chữ.” Ông lão đưa cho chúng tôi hai tờ giấy, nói: “Viết nhiều hơn vài chữ cũng không sao, số chữ hàng ngang hàng dọc khác nhau cũng không sao.”

Tôi nghĩ một chút, rồi viết hàng dọc trước: Làm chuyện gian tà, tận tụy đốt hương chẳng ích.

Rồi viết đến hàng ngang: Có lòng chính trực, gặp ta chẳng lạy sao đành.

“Đây là cái gì thế?” Noãn Noãn hỏi.

“Là câu đối trong miếu Thành Hoàng ở Đài Nam,” tôi nói.

“Anh tỏ vẻ chứ gì?” Noãn Noãn cười rất vui vẻ.

“Đây là thói quen xấu của kẻ mọt sách, bị em nhìn thấu rồi,” tôi nói.

Noãn Noãn cũng nghĩ một lúc, rồi viết hàng ngang trước: Biết dụng tâm phản tặc tự tiêu, tự xưa hiểu binh không hiếu chiến.

Rồi viết đến hàng dọc: Không hiểu chuyện khoan nghiêm nhầm lẫn, về sau phải suy xét tỏ tường.

“Đây là câu đối trong đền Vũ Hầu ở Thành Đô,” Noãn Noãn nói.

“Em cũng có thói quen xấu của kẻ mọt sách hả?”

“Đúng thế,” Noãn Noãn cười nói. “Nhưng em mọt hơn, vì em nhiều chữ hơn anh.”

Chúng tôi đưa hai tờ giấy cho ông lão, ông ta chỉ liếc qua một cái liền hỏi tôi: “Anh đây viết chữ Phồn thể *?”

* Chữ Phồn thể: Tiếng Trung có hai kiểu chữ là chữ Giản thể và chữ Phồn thể, chữ Phồn thể nhiều nét và khó viết hơn. Người Đài Loan dùng chữ Phồn thể.

“Vâng ạ,” tôi nói, “Cháu từ Đài Loan đến.”

“Thảo nào.” Ông lão khẽ gật đầu.

“Có phải người viết chữ Phồn thể sẽ có vận mệnh khá tốt không?” tôi hỏi.

“Tôi chỉ xem tính cách, không xem mệnh,” ông lão nói.

Ông lão này bảnh thật, nói chuyện chẳng cười cợt chút nào.

“Cách sắp xếp hàng dọc và hàng ngang không giống nhau, về cơ bản sẽ có chín loại thế này ├, ┤, ┼, ┬, ┴, ┌, ┐, └, ┘đại diện cho suy nghĩ cơ bản của mỗi người.” Ông lão chấm bút xuống nghiên mực, vừa viết lên giấy vừa giảng giải: “Của anh đây là ┼ à, là cách viết duy nhất có hàng ngang xuyên qua hàng dọc, suy nghĩ khác biệt, thường bất đồng với người khác. Của cô đây là ┴, suy nghĩ cẩn trọng tỉ mỉ, không dễ mắc sai lầm.”

“Vậy còn những cái khác thì sao?” tôi hỏi.

“Hỏi nữa phải trả thêm một đồng tiền,” ông lão nói. “Câu này tạm không thu tiền, về sau là không được đâu đấy. Nói một cách đơn giản, cách viết thường thấy nhất ở người bình thường là ├  và ┤, suy nghĩ dễ thiên về một phía, không biết suy nghĩ từ một góc độ khác.”

Tôi và Noãn Noãn đều không dám mở miệng, chỉ sợ hở ra lại phải đưa thêm một đồng tiền nữa. Ông lão uống ngụm trà xong, rồi nói tiếp: “Viết hàng ngang hay hàng dọc trước thể hiện phong cách hành sự. Anh viết hàng dọc trước, cúi đầu về phía trước, hành động tích cực; lại vừa hay kết hợp với kiểu ┼, suy nghĩ độc đáo sẽ càng rõ ràng, cũng sẽ không quan tâ tới ý kiến của người khác. Cô viết hàng ngang trước, phàm chuyện gì cũng cân nhắc trước sau, lấy an định làm đầu, lại kết hợp với kiểu ┴, suy nghĩ sẽ càng bình tĩnh, thời gi­an và số lần suy nghĩ sẽ càng nhiều.”

“Loại nào thì tốt hơn?” Tôi nhỡ hỏi xong liền đưa tay bịt miệng.

Ông lão không trả lời, bưng cốc trà lên uống một ngụm. Tôi lấy ra một đồng tiền đặt lên bàn, ông ta mới nói tiếp: “Người Trung Quốc theo đạo Trung Dung, vạn sự đều không có gì là tốt xấu tuyệt đối. Hành sự quá tích cực dễ liều lĩnh; suy nghĩ quá nhiều dễ giậm chân tại chỗ. Hai người đều có khuyết điểm, điểm yếu của anh là không màng trước sau, chăm chăm làm theo ý mình; điểm yếu của cô là chần chừ do dự, hành động không dứt khoát.”

“Hai vị hãy xem.” Ông lão hai tay cầm hai tờ giấy tôi và Noãn Noãn viết, nói: “Hai vị dù viết dọc hay ngang, hàng chữ đều rất thẳng. Hàng ngang chỉ không gian, hàng dọc chỉ thời gian. Hàng dọc thẳng chứng tỏ hai vị lúc nào cũng có thể tu tỉnh bản thân, có năng lực cảnh tỉnh; hàng ngang thẳng chứng tỏ hai vị muốn cải thiện hoàn cảnh, hơn nữa còn muốn dẫn dắt người bên cạnh đi theo hướng đúng. Điều này vừa hay có thể bù đắp chút ít cho điểm yếu của hai người.”

Ông lão nói xong, thu tờ giấy lại trước mặt, đặt lên mặt bàn, vuốt thẳng, rồi nói tiếp: “Nhìn từ nét chữ, anh dùng lực viết mạnh, hành sự dũng cảm; nét chữ quá thẳng, hành sự cứng nhắc, không biết sửa đổi. Ngay như chữ ‘ta’ này...”

Ông lão dùng bút khoang tròn chữ “ta” tôi vừa viết, nói:

“Nét móc góc dưới bên trái quá sắc, nét chấm thu bút góc trên bên phải quá lớn, lực dùng lại mạnh nhất trong cả chữ, thể hiện anh có tính cách góc cạnh, dễ đắc tội với người khác mà không biết. Quan trọng nhất là, chữ của anh quá ‘vuông’, dường như mỗi chữ khi viết, xung quanh đều đóng thêm một cái khung vuông, nhưng trên giấy trắng hoàn toàn không có khung, khung được vẽ lên trong lòng anh, đấy chính là sự trói buộc trong anh.”

“Cô đây thì không có vấn đề gì.” Ánh mắt ông lão chuyển sang tờ giấy Noãn Noãn viết, ông nói:

“Lực viết vừa đủ, viết liền mạch không ngắt nét, giữa các nét bút vô cùng hài hòa, thể hiện cô là người có tính cách dễ gần, nhân duyên rất tốt. Đáng tiếc là nét bút cuối cùng vừa yếu lại không rõ ràng, khoảng cách giữa các chữ có hiện tượng càng lúc càng sát lại, do đó cái cô thiếu là dũng khí và quyết tâm hành động.”

“Vậy cô ấy nên làm thế nào?” Tôi lại lấy một đồng tiền đặt lên trước mặt ông.

“Hành sự không nên nghĩ quá nhiều, đối với người cũng không nên quá tốt” ông lão nói.

“Vậy còn cháu?” Tôi đang chuẩn bị móc tiền ra thì ông lão đã xua xua tay.

“Câu hỏi này xin miễn cho lão không trả lời, sự trói buộc trong anh chỉ có thể tự mình tháo gỡ mà thôi.”

Ông lão nói xong bèn đưa tay ra hiệu “Mời”, tôi và Noãn Noãn đành đứng dậy rời đi.

“Xin đợi đã,” ông lão gọi chúng tôi lại, “chữ viết là thứ có thể thay đổi, mấy năm nữa có lẽ sẽ không còn giống bây giờ nữa. Sau này hai người có thể so sánh với chữ trên giấy này.” Ông đưa hai tờ giấy ban nãy cho chúng tôi, Noãn Noãn giơ tay ra nhận.

Tôi chỉ đi hai bước, rồi lại quay lại đặt một đồng tiền xuống trước mặt ông lão, hỏi: “Xin hỏi cháu và cô ấy có thích hợp không?”

“Cô cậu có hai người, vì vậy tính là hai câu hỏi,” ông lão nói.

Tôi đành móc ra một đồng tiền nữa đặt lên bàn.

“Anh hỏi về tính cách?” ông lão nói.

“Phải.” Tôi nói xong, liền giơ tay phải nắm lấy một đồng tiền trên bàn

Ông lão tỏ vẻ kinh ngạc, tôi nói: “Vì ông cũng hỏi một câu.”

Ông lão lần đầu tiên khẽ nở một nụ cười, nói: “Như cá gặp nước, ý khí tương đầu.”

Tay phải tôi nắm chặt lấy đồng tiền, cả nắm tay đập lên mặt bàn, đồng tiền va vào bàn gỗ phát ra một tiếng khô đét.

“Còn nữa...” Noãn Noãn đang ở bên cạnh, tôi không dám hỏi thẳng, nhưng vẫn thu hết can đảm, nói: “Ví dụ như, một nam một nữ, ngoài ý khí tương đầu ra, còn có gì khác, cũng tương đầu không?”

Ông lão nắm lấy đồng tiền, tay phải thuận thế tung lên trời, đồng tiền vẽ lên một đường vòng cung trong không trung, rồi rơi tõm một tiếng xuống sông Tô Châu.

“Câu hỏi này phải hỏi ông trời” ông lão nói.

Rời khỏi trạm quán, tôi và Noãn Noãn đều như có tâm sự, chẳng ai nói câu nào.

“Em thấy ông lão vừa rồi thế nào?”

Tôi nói xong, bèn đưa một đồng tiền cho Noãn Noãn, em đưa tay nhận lấy.

“Rất kỳ quái.” Noãn Noãn lại đưa đồng tiền cho tôi, hỏi: “Anh thấy sao?”

“Không phải rất kỳ quái,” tôi nói, “mà là cực kỳ cực kỳ kỳ quái.”

Nói rồi chúng tôi nhìn nhau đầy hàm ý, cùng bật cười.

Mọi người tập trung trên một chiếc cầu đá hổng cao ngang tòa nhà hai tầng, sau đó rời Di Hòa Viên theo đường Bắc Cung Môn.

Bất luận là ngồi trên xe, ăn cơm trong căng tin trường, hay lúc tắm rửa, trong đầu tôi đều không ngừng hiện lên bộ râu của ông lão.

Tắm rửa xong tới giảng đường tán phét, hỏi rất nhiều người xem có coi chữ ở chỗ ông lão ấy không?

Kết quả mọi người đều chỉ đi qua chứ không vào coi chữ; duy có cậu em khóa dưới tôi là ngồi xuống coi.

“Em cứ nghĩ là coi về nhân duyên, nên mới để ông ta coi chữ” cậu ta nói.

Cậu ta kể ông lão còn chưa mở lời, cậu ta đã bô bô ra ngày tháng năm sinh, còn hỏi xem nhân duyên của mình có phải ở phương bắc không?

“Nhân duyên của cậu trên núi cao, nói là phương Bắc so với Đài Loan cũng không sai,” tôi nói chen vào.

“Sao lại là ở núi cao?” Cậu ta tò mò.

“Thiếu Lâm Tự trên núi cao,” tôi nói, “cậu có mệnh xuất gia.”

“Anh này,” cậu ta nhăn nhó mặt mày, “đừng có đùa nữa.”

“Được,” tôi cười cười, “thế ông lão nói thế nào?”

“Ông ấy nói: không coi nhân duyên, chỉ xem tính cách. Thế là em đành ngoan ngoãn viết chữ.” Cậu ta đưa mảnh giấy mình viết cho tôi, hàng dọc viết: Tôi đói bụng quá muốn về nhà ăn cơm.

Hàng ngang viết: Ông không xem nhân duyên thì ngồi đây làm gì.

Hai hàng xếp thành hình ┬, không thẳng cũng không lệch, cong cong như hình chữ S.

Dáng chữ xiêu xiêu vẹo vẹo, chữ to chữ nhỏ không đều.

Ông lão nói suy nghĩ của cậu ta không theo lý lẽ thông thường, không quy phạm, dễ tùy tiện xằng bậy; nhưng vì tính cách tốt, nên nét chữ tùy ý lại là một dạng phúc báo.

“Đúng rồi,” tôi nói, “sao cậu lại muốn hỏi nhân duyên?”

Cậu chàng ra hiệu tôi hạ âm lượng xuống, rồi mới nói khẽ: “Bước ra ngoài cái rồi nói.” Nói rồi cậu ta đi ra ngoài giảng đường, tôi cũng đứng lên đi một bước rồi dừng lại.

“Kìa anh,” cậu ta nói, “sao thế?”

“Cậu chỉ nói bước một cái thôi mà” tôi nói.

Cậu ta chạy lại, hoàn toàn mất kiên nhẫn đẩy thẳng tôi ra khỏi giảng đường.

Đã cách xa khu giảng đường, cậu em khóa dưới tìm một chỗ yên tĩnh không người, chúng tôi ngồi bệt xuống đất.

“Anh ạ,” cậu ta mở miệng, “anh có biết em thích Vương Khắc không?”

“Cũng nhìn ra” tôi nói.

“Tinh thế sao?” Cậu ta tỏ vẻ kinh ngạc.

“Có thằng đần mới không nhận ra,” tôi nói. “Thế cậu thích Vương Khắc, vậy thì sao?”

“Sáng ngày kia chúng ta phải về Đài Loan rồi, em muốn...” Thái độ cậu ta có vẻ ngại ngùng.

Tôi cũng sực nhớ ra.

Đúng rồi, sắp phải về rồi, cũng nên về rồi.

Mấy ngày nay ở Bắc Kinh, chẳng hề có ý nghĩ nhớ nhà, nhất thời quên rằng mình hoàn toàn chẳng thuộc về nơi đây

Nhưng bất kể bản thân có quen hay thích nơi này, cuối cùng cũng phải trở về thôi.

“Sắp về Đài Loan rồi, vậy nên?” tôi định thần lại, hỏi.

“Em muốn nói với Vương Khắc, là em thích cô ấy,” cậu ta nói.

“Vậy tốt quá rồi” tôi nói.

“Nhưng mà nếu cô ấy cũng thích em, thì phải làm thế nào?”

“Cậu thích cô ấy, cô ấy cũng thích cậu, vui vẻ thế còn gì?”

“Em ở Đài Loan, còn Vương Khắc ở tận Bắc Kinh đấy,” giọng cậu ta hơi kích động, “đường xá xa xôi, lại còn cách cả co biển Đài Loan, về sau sao mà tiếp tục được?”

“Vậy thì đừng nói với cô ấy nữa, cứ coi như một đoạn ký ức đẹp trong đời thôi.”

“Em sợ sau này đến già vẫn cô đơn một mình, dắt con chó già đi dạo trong công viên, lại cúi xuống lẩm bẩm với nó: Hồi trẻ tao từng thích một cô gái đấy, nhưng tao không nói với cô ấy, đây là di hận lớn nhất trong đời tao. Nói xong nước mắt còn rơi lã chã. Mà con chó già chỉ có thể ăng ẳng mấy tiếng, liếm liếm những giọt nước mắt nơi khóe mắt em. Rồi sau em lặng lẽ ngồi lên băng ghế đá tróc sơn trong công viên, nhìn ánh tà dương xuống núi nơi chân trời. Màn đêm buông xuống, bóng hình một người một chó cứ nhạt nhòa dần trong đêm đen.”

Cậu ta càng nói càng cuống, càng cuống càng nhanh, nói liền một mạch chẳng dừng lấy hơi.

“Cậu đi viết tiểu thuyết được rồi đấy” tôi nói.

“Em nghiêm túc đấy,” cậu ta nói. “Anh, anh chẳng cũng thích Noãn Noãn còn gì ?”

“Cậu nhận ra à?”

“Em cũng có phải thằng ngốc đâu,” cậu ta nói. “Anh định làm thế nào?”

Cậu em, anh lớn hơn cậu hai tuổi. Ở tuổi này của bọn anh, cứ tăng thêm một tuổi là những thuần khiết lại chết đi một ít.

Anh cũng từng khao khát một tình yêu kiểu “Dậu đông hái cúc vàng hoa, núi Nam thơ thới lòng ta cảm hoài” * như Đào Uyên Minh; nhưng hoa cúc đã khô héo trong thực tại, còn anh cũng chẳng thong dong được nữa.

* Dậu đông hái cúc vàng hoa, núi Nam thơ thới lòng ta cảm hoài
Âm Hán Việt: Thái Cúc đông ly hạ, Du nhiên kiến Nam Sơn. Hai câu thơ trong bài “Ẩm tửu” của Đào Uyên Minh, Hải Đà dịch.


Đây không phải thế giới nơi ta thích em, em thích ta là đôi mình có thể bên nhau.

Thế giới này có núi, có biển, cũng có những bức tường ngăn cách, chứ chẳng hề bằng phẳng như chúng ta tưởng tượng.

Tôi không thể nói với Noãn Noãn rằng tôi thích em, hoặc như lời ông lão coi chữ trên phố Tô Châu đã nói, đây là gút trói buộc trong tôi, là khung vuông tôi tự vẽ lên trong lòng.

Tôi không thể vượt qua cái khung ấy, nếu như vì thế mà phải dắt chó dạo bộ trong công viên, thì cũng đành nhận vậy.

“Mặc anh định thế nào,” tôi nói, “cậu cứ nói với Vương Khắc đi.”

“Ngộ nhỡ cô ấy nói thích em thì sao?” cậu em nói.

“Cậu đã tự nói là ‘ngộ nhỡ’ rồi mà.”

“Đúng vậy, em nghĩ nhiều quá rồi.” Cậu ta như bỗng ngộ ra chân lý. “Nếu như em nói với Vương Khắc là thích cô ấy, chắc cô ấy sẽ nói: chúng ta cứ là đồng bào của nhau thì tốt hơn, không nên là người yêu.”

“Anh cũng nghĩ thế đấy”

“Thoải mái hơn nhiều rồi,” cậu ta cười cười nói. “Ngày mai em sẽ tìm cơ hội nói với cô ấy, dù gì cũng nói ra, sau này sẽ không phải ôm di hận nữa.”

Cậu em dường như đã hất được tảng đá đè nặng trong tim, bắt đầu bô bô ba la kể với tôi mấy chuyện vụn vặt xảy ra trong ngày.

Cậu ta còn giữ một nguyên bảo đổi ở phố Tô Châu làm kỷ niệm.

Lúc tôi đứng dậy định quay lại giảng đường, cậu ta đột nhiên nói: “Anh này, như thế có phải đau xót lắm không?”

“Hả?”

“Em thấy mừng vì Vương Khắc sẽ từ chối em, như thế có phải xót xa lắm không?” Cậu ta cười gượng.

Tôi không sao trả lời được câu hỏi này, lại ngồi xuống bên cậu ta.

Tận đến khi quay về ký túc xá nghỉ ngơi, chúng tôi đều chẳng nói thêm câu nào.


HẾT CHƯƠNG 6
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
Đăng lúc 21-6-2013 20:32:50 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 7

“Tối qua anh chạy đi đâu đấy?” Vừa bước vào giảng đường, Noãn Noãn nhìn thấy tôi đã hỏi phủ đầu: “Em tìm mãi mà không thấy.”

“Tìm anh có việc gì không?”

“Không có việc gì thì không được tìm anh nói chuyện à?”

“Chúng ta vẫn cứ là đồng bào thì hơn” tôi nói.

“Nói cái gì thế?”

“Ừm,” tôi gật đầu, “chủ đề này uyên thâm lắm, anh phải suy nghĩ cái đã.”

Nói đoạn tôi bèn ngồi xuống, mặc cho Noãn Noãn tần ngần chẳng hiểu mô tê gì.

Tối qua cứ trằn trọc lăn qua lăn lại trên giường, trong đầu toàn là mấy câu đối thoại với cậu em khóa dưới.

Tiếp xúc với Noãn Noãn mấy ngày nay, khoảng cách giữa đôi bên ngày càng gần lại, dần dần nảy sinh một ảo giác: cảm thấy mỗi ngày nhìn thấy Noãn Noãn, nói chuyện với Noãn Noãn là một chuyện rất hiển nhiên, cũng là một thói quen; quên mất rằng đây là cuộc gặp gỡ tình cờ trong đời, sau cuộc gặp gỡ này, mỗi người vẫn lại phải tiếp tục đi theo con đường riêng của mình.

Giờ này ngày mai, chắc tôi đang trên xe lên đường ra sân bay, lúc đó tâm trạng tôi sẽ thế nào đây?

Tâm trạng Noãn Noãn sẽ thế nào đây?

“Bị nhện đột biến gen cắn rồi, sẽ biến thành người nhện bảo vệ chính nghĩa.” Tôi thở dài nói: “Nhưng bị chó dại cắn rồi chỉ có thể mắc bệnh dại.”

“Lại nói gì thế?” Noãn Noãn hỏi.

“Đạo lý trên thế gian này, người trẻ như em sao có thể hiểu nổi?” tôi nói.

“Anh vẫn mơ ngủ đấy à?” Noãn Noãn nhìn tôi.

Đúng vậy, tối qua không ngủ được, giờ lại bắt đầu nói năng lảm nhảm rồi.

Thầy giáo đứng lớp hôm nay cũng là người hôm qua đứng lớp ở Trị Bối Tự Viên trường Bắc Đại, những bài giảng hôm nay là về Khổng Mạnh.

Nghe đến đây tôi đã muốn làm một giấc mộng rồi.

Tuy rất muốn lấy lại tinh thần, nhưng mi mắt lại là thứ “đời nhẹ khôn kham *”, chỉ cần nó muốn khép lại, thì cố sức mấy nó cũng chẳng mở ra được.

* “Đời nhẹ khôn kham”: Tên một tiểu thuyết của nhà văn Czech – Milan Kudera.

Giảng đường nay đã trở nên quen thuộc với tôi, tôi không còn thấy lạ lẫm nữa, mà có một cảm giác rất yên bình, hệt như ở nhà; còn lời giảng của thầy như tiếng mẹ gọi dịu dàng: Con ơi, mệt rồi, về nhà thôi.

Thoảng nghe có tiếng văng vẳng bên tai: “Nho gia nhấn mạnh luân lý đạo đức, coi trọng tính xã hội của con người; Đạo gia lại nhấn mạnh sự thực cuối cùng, coi trọng tính tự nhiên của con người...”

Sau đó tôi chẳng màng đến nhân thế nữa.

Bất chợt tỉnh dậy, thấy tờ giấy trắng trước mặt có viền mấy chữ “bắc thất”, đếm đi đếm lại, có tất cả 17 chữ.

“Anh tỉnh rồi à?” Noãn Noãn thì thào hỏi.

“Hồi quang phản chiếu * thôi,” tôi cũng thì thào nói.

* Hồi quang phản chiếu: Nguyên là từ trong Phật giáo, chỉ hiện tượng người hấp hối đột nhiên tỉnh táo lại trước khi chết.

“Đừng ngủ nữa.”

“Anh cũng muốn lắm.”

Noãn Noãn cầm bút viết lên trước mặt tôi: Em muốn tới Noãn Noãn.

“Anh tỉnh rồi.” tôi nói.

Giờ nghỉ giải lao đi rửa mặt mũi, gắng đuổi cơn buồn ngủ.

Vào giờ, lúc nào cũng cảm thấy Noãn Noãn đang dò xét bên cạnh, tinh thần tôi căng thẳng, nên cũng không mơ màng được nữa.

Cuối cùng cũng hết tiết, tôi thở phào nhẹ nhõm.

Đột nhiên nghĩ tới đây không những là buổi học cuối cùng của tôi ở Bắc Kinh, mà còn là buổi học cuối cùng trong đời sinh viên của tôi.

Không ngờ buổi học cuối cùng lại kết thúc bằng cảnh ngủ gật thế này, tôi thật là đến cuối đời còn chẳng giữ nổi tiết tháo.

Buổi trưa, mọi người đi xe tới cố cư của Kỷ Hiểu Lam.

Vừa xuống xe đã nhìn thấy hai cây tử đằng la đan quấn lấy nhau, thân cây cong cong thế rồng, cành lá sum suê, hoa tỏa hương ngào ngạt.

Hai cây tử đằng la này do Kỷ Hiểu Lam tự tay trồng, đã hơn 200 tuổi mà vẫn tươi xanh đầy sức sống.

Tử đằng la vốn nằm trong vườn cố cư, nhưng khi làm đường khu vườn bị cắt mất một phần, thành ra cây lại nằm ngay bên đường.

Nếu như không phải dưới gốc cây có một tấm biển đá ghi rõ lai lịch, thì dù bạn có đi ngang qua cũng chưa chắc chú ý đến nó.

Chái đông cố cư Kỷ Hiểu Lam có tiệm cơm Tấn Dương, là nơi chúng tôi ăn trưa.

Tiệm cơm Tấn Dương tuy gọi là “tiệm cơm”, nhưng lại nổi tiếng với các món mì Sơn Tây.

Thầy Lý gọi mì xắt lát, mì tai mèo, mì tát cá, kêu chúng tôi ăn xả láng một bữa.

Vừa nghe thấy tai mèo còn đang thắc mắc, hóa ra đây là món mì được nặn thành từng miếng nho nhỏ như tai mèo.

Còn mì tát cá là mì nước, hơi giống như mì mụn cóc, nhưng cục mì đầu thon bụng tròn, giống như hình con cá.

Món ăn Sơn Tây vị khá nồng, cũng khá mặn, bề ngoài không bắt mắt nhưng hương vị rất độc đáo.

Nhất là hai món vịt chiên bơ và đậu phụ kén tằm đều được mọi người nắc nỏm tán thưởng.

Ăn xong chúng tôi vào thăm quan cố cư của Kỷ Hiểu Lam.

Người chủ ban đầu ở đây không phải là Kỷ Hiểu Lam, mà là một đại tướng thời Ung Chính, hậu duệ của Nhạc Phi, Nhạc Trung Kỳ.

Về sau Nhạc Trung Kỳ bị kết án giam, khi đó phụ thân của Kỷ Hiểu Lam lại vừa tới kinh thành nhậm chức, bèn mua lại ngôi nhà này.

Hơn hai trăm năm nay, ngôi nhà đã qua nhiều đời chủ, trải qua bao thăng trầm, tiệm cơm Tấn Dương cũng kinh doanh ở đây.

Năm 2001 tiệm cơm Tấn Dương chuyển đến chái phía tây cố cư, đồng thời Kỷ Hiểu Lam  cố cư cũng bắt đầu được tu sửa, một năm sau đó thì chính thức được mở cửa đón khách tham quan.

Kỷ Hiểu Lam cố cư giờ chỉ còn lại hai gian nhà chính và một mảnh sân hướng Nam Bắc, rộng không đến một phần ba diện tích ban đầu.

Phía Nam là chính sảnh, hiện đang dùng làm phòng lưu niệm, trưng bày cuộc sống thường nhật của Kỷ Hiểu Lam cùng các tài liệu lịch sử liên quan, ví dụ như tuyển tập Tứ khố toàn thư ông từng làm chủ biên và Duyệt Vi Tảo Đường Bút Ký ông sáng tác những năm cuối đời; còn có một số những vật dụng và tàng thư trước kia Kỷ Hiểu Lam từng dùng, bao gồm cả tẩu thuốc nổi tiếng của ông.

Bên trong có một bức tranh vẽ Kỷ Hiểu Lam cao bằng người thật, một ông lão có khuôn mặt xanh gầy, chòm râu dài buông trước ngự

Phản ứng của đám sinh viên chúng tôi khi lần đầu nhìn thấy bức tranh đều kinh ngạc, ông lão trước mắt tướng mạo tầm tầm, thậm chí có thể nói là xấu hoắc; còn hình tượng Kỷ Đại học sĩ trong lòng mọi người lại là bậc phong lưu tài tử.

Như vậy cũng tốt, Kỷ Hiểu Lam thông minh đa tài, hóm hỉnh hài hước, nếu như cả tướng mạo cũng hơn người, thì thật hơi quá.

Vài cậu sinh viên nở một nụ cười an ủi, có lẽ trong lòng bọn họ đang nghĩ kẻ tướng mạo chẳng ra sao cũng có thể hào hoa phong lưu.

Kẻ hào hoa phong lưu có thể tướng mạo tầm tầm, nhưng không có nghĩa kẻ tướng mạo tầm tầm là có thể dễ dàng hào hoa phong lưu.

Lưu Đức Hoa nhìn như con lợn, con lợn nhìn như Lưu Đức Hoa, ý nghĩa của hai trường hợp này hoàn toàn không giống nhau!

“Hôm nay anh sao thế?” Noãn Noãn hỏi. “Cứ lầm bầm cái gì trong miệng.”

“Thế à?” Tôi định thần lại.

Noãn Noãn săm soi mặt tôi một hồi, gật đầu nói: “Có vẻ rất kỳ quái khó tả.”

“Có thể vì tối qua không ngủ được, sáng nay lại ngủ kỹ quá.” Tôi cười cười, nói tiếp: “Em có thấy bức tranh vẽ Kỷ Hiểu Lam, rất giống với ông lão hôm qua chúng ta đã gặp trên phố Tô Châu không?”

Noãn Noãn chăm chú xem xét bức tranh, nói: “Anh nói mới thấy, đúng là có nét giống thật.”

“Em còn mang tiền đồng không,” tôi nói, “đưa cho ông ấy một đồng, hỏi xem ông ấy ở đây có vui không?”

“Nhạt phèo” Noãn Noãn nói.

Phía Bắc là thư phòng của Kỷ Hiểu Lam - Duyệt Vi Thảo Đường.

Trong thảo đường có một bức vẽ Kỷ Hiểu Lam mặc quan phục, nhìn oai nghiêm mà cũng rất tự tại.

Trên tường treo kín tranh chữ, còn có một bức chân dung của Khổng Tử.

Thảo đường được phân thành ba nơi chính, một nơi dùng để tiếp khách uống trà, một nơi để đọc sách viết lách, còn một nơi để sinh hoạt.

Nhìn tổng thể, gian thư phòng rất giản đơn, thể hiện rõ tính đạm bạc tiết kiệm của Kỷ Hiểu Lam.

Chúng tôi đi ra sân, sân rất nhỏ, bốn phía trồng cỏ lơ thơ, phía tây có một ang nước lớn.

Một cây hải đường cao chừng hai tầng nhà cô đơn đứng ở góc đông bắc, nổi bật giữa mảnh sân giản dị.

Thẳng cây hải đường có một bức tượng hình người tì nữ, tay cầm một cây quạt.

Thầy Lý dẫn mọi người đến bên cây hải đường, bắt đầu kể sự tích về cái cây này.

Cây hải đường này do chính tay Kỷ Hiểu Lam trồng, trước vốn có hai cây, một cây đã bị chặt bỏ khi cải tạo nhà.

Kỷ Hiểu Lam đã trồng hai cây này để tưởng nhớ đến mối tình đầu của ông – nàng Văn Loan.

Khi Kỷ Hiểu Lam gặp Văn Loan lần đầu, nàng mới 13 tuổi, là người trong nhà chú Tư của Kỷ Hiểu Lam.

Văn Loan tính tình đáng yêu, thông minh xinh đẹp, hai người lại trạc tuổi, thường chơi đùa cùng nhau dưới gốc cây hải đường nhà chú Tư.

Một năm sau, cha của Kỷ Hiểu Lam đem theo con rời quê lên kinh nhậm chức, Kỷ Hiểu Lam vô cùng lưu luyến, trước khi lên đường còn vội vàng chạy tới nhà chú Tư tạm biệt Văn Loan, tặng nàng một cây quạt làm kỷ niệm.

Mấy năm sau Kỷ Hiểu Lam trở về quê cũ, Văn Loan đã trở thành thiếu nữ, xinh đẹp thướt tha, rung động lòng người.

Hai người đứng dưới cây hải đường thề ước nguyện chung thân, hẹn sau khi Kỷ Hiểu Lam đạt được công danh sẽ về quê cưới nàng làm vợ.

Lần đầu ứng thí, Kỷ Hiểu Lam bị rớt, mãi đến năm 24 tuổi cuối cùng mới đỗ cao Giải Nguyên.

Ông không quên lời hẹn ước năm xưa, lập tức cử người tới nhà Văn Loan cầu thân.

Nhưng cha Văn Loan nhân cơ hội vớ được con rể vàng, thách cưới một khoản tiền rất lớn, hôn sự vì thế mà bị chậm trễ.

Văn Loan không hề biết chính cha mình là người cản trở bên trong, ngỡ rằng Kỷ Hiểu Lam đã quên sạch lời ước hẹn, từ đó buồn sầu mà lâm bệnh, ngày một héo hon, cuối cùng chết trẻ.

“Kỷ Hiểu Lam đau khổ tột cùng, bèn đích thân trồng hai cây hải đường ở đây,” thầy Lý nói: “Hai mươi năm sau, lúc Kỷ Hiểu Lam ngủ bên dưới gốc cây này, có mơ thấy một người con gái nhẹ nhàng bước lại, đứng yên không nói năng gì. Sau khi tỉnh lại, biết là Văn Loan, bèn hỏi thăm chỗ Văn Loan được chôn cất, nhưng người nhà nói mộ Văn Loan từ lâu đã bị cây dại cỏ hoang che kín, không còn nhận ra nổi nữa. Kỷ Hiểu Lam xúc động nghẹn ngào, viết nên bài thơ ‘Thu Hải Đường’. Đoạn mộng cảnh này được tả lại trong Duyệt Vi Thảo Đường Bút Ký của ông, các bạn có thể đọc qua.”

“Thầy có biết bài thơ ‘Thu Hải Đường’ không ạ?” Noãn Noãn hỏi.

Thầy Lý mỉm cười, chỉ lên tấm bia đá bên cạnh, nói: “Bài thơ đó được khắc lên ‘Hải Đường Bi Ký’ đây.”

Mọi người quây lại xem tấm bia, trên tấm bia viết cây hải đường Kỷ Hiểu Lam trồng đã hơn 200 tuổi, đến nay vẫn mỗi khi ân sang hoa nở đầy cây, mỗi khi thu đến quả sai trĩu cành. Tấm bia cũng viết lại tâm sự Kỷ Hiểu Lam lúc đó: Vạn nỗi đau buồn thương tiếc, trồng cây hải đường này, trồng cây nhớ người xưa ấy, một đời ta mãi bên nhau.

Cuối cùng còn có thêm mấy câu thơ trong bài “Thu Hải Đường”: Võ vàng u hoa cực đáng thương, tà dương sân xuống ngày thu muộn, từ nhân lão đại kém phong tình, hẵng còn buồn thương bóng hồng tàn.

Mọi người không nén nổi thở dài, lúc này cũng mới vỡ lẽ bức tượng người tỳ nữ cầm cây quạt kia chính là nàng Văn Loan.

Thầy Lý kêu chúng tôi đi dạo dưới gốc cây hải đường, thử cảm nhận một Kỷ Hiểu Lam nặng tình nặng nghĩa.

“Các giai thoại về Kỷ Hiểu Lam đều không nằm ngoài phong lưu đa tình, hôm nay coi như đã giúp Kỷ Hiểu Lam phục hồi danh dự rồi,” thầy Lý nói xong, liền đi ra chỗ khác.

Tôi và Noãn Noãn nhẹ bước thả bộ quanh sân.

Nhìn thấy trên tấm biển quảng cáo “Tiệc danh nhân Duyệt Vi Thảo Đường” được tiệm cơm Tấn Dương bày ra có một món ăn tên là “Tâm tư hải đường”.

Tôi rất băn khoăn những người biết điển cố về cây hoa hải đường này, liệu có ăn nổi món  “Tâm tư hải đường” này không?

“Noãn Noãn,” tôi nói, “bố em tính tình thế nào?”

“Hỏi bố em làm gì?” Noãn Noãn hỏi.

“Chỉ là muốn biết thôi.”

“Bố em tính tình rất tốt.”

“Thế thì tốt rồi” tôi nói.

Thầy Trương gọi mọi người cùng đứng lại dưới cây hải đường chụp kiểu ảnh, sau đó chúng tôi rời khỏi Kỷ Hiểu Lam cố cư.

Thầy Lý mua vài túi táo tàu khô là đặc sản quê Kỷ Hiểu Lam, chia cho mỗi người một ít mang lên xe.

Đi qua cây tử đằng la trước cửa, thầy Lý nói từng có mấy vị văn nhân vĩ đại như Lão Xá, đã thưởng rượu ngon ngẫm thời xưa dưới giàn tử đằng la này.

Tôi vội vàng nhón lấy quả táo tàu bỏ vào miệng, rồi lại ngẩng đầu ngắm những chùm hoa tử đằng la san sát tựa mây.

“Làm gì thế?” Noãn Noãn hỏi.

“Về sau khi người ta nhắc đến những danh nhân từng đứng đây thưởng rượu ngon ngẫm thời xưa, cũng sẽ tính cả anh nữa,” tôi nói.

Noãn Noãn không đếm xỉa đến tôi đi thẳng lên xe.

Chúng tôi ngồi trên xe vừa ăn táo vừa nghe thầy Lý kể những giai thoại về Kỷ Hiểu Lam, chẳng bao lâu đã tới Ung Hòa Cung.

Ung Hòa Cung do Khang Hy hạ lệnh xây dựng, tặng cho người con thứ tư là Ung Thân Vương làm phủ đệ, vốn gọi là Ung Thân vương phủ.

Ung Chính sau khi đăng cơ đã sửa vương phủ thành hành cung, đặt tên là Ung Hòa Cung; hoàng đế Càn Long cũng được sinh ra tại đây.

Vào thời Càn Long, Ung Hòa Cung lại được sửa thành Lạt Ma tự viện, tu viện Phật giáo Tây Tạng lớn nhất Trung Quốc.

Mỗi người chúng tôi mua một bó hương lớn, để vào tự viện thắp.

Bước vào trong cung, khói hương vấn vít xa xa, tiếng chuông du dương bên tai, khiến người ta có cảm giác u nhã tĩnh mịch, sâu lắng

“Ung Hòa Cung là nơi rất có tính Phật, khi khấn Phật hãy nghĩ thầm nguyện ước trong lòng, nếu như bạn đủ thành tâm, ước nguyện sẽ dễ dàng trở thành sự thực,” thầy Lý nói.

Nếu là mười năm trước, nguyện ước của tôi sẽ là bảng vàng ghi danh; nếu là một năm trước, nguyện ước của tôi sẽ là thuận lợi tốt nghiệp; nếu là mười ngày trước, nguyện ước của tôi sẽ là sớm tìm được một công việc vừa  ý.

Nhưng lúc này đây, nguyện ước của tôi rất đơn giản, đó chính là có thể thường xuyên nhìn thấy nụ cười của Noãn Noãn.

Thế là mỗi khi đến một điện thờ, nhìn thấy một bức tượng Phật, bất kể lớn bé, bằng đất, bằng đồng, hay bằng gỗ, tôi đều cầm nắm hương cúi đầu nghĩ tới nguyện ước hiện tại của mình.

Khóe mắt tôi liếc thấy cây hương trên tay  Noãn Noãn cứ lắc qua lắc lại, chao đảo không yên.

“Cầm hương cho chắc.” Tôi đưa tay giúp em chỉnh lại cây hương. “Dễ làm bị thương người khác đấy.”

Noãn Noãn có vẻ ngượng ngùng, lè lè lưỡi.

Bước vào đại điện của Ung Hòa Cung, thầy Lý nói nơi này tương đương với Đại Hùng Bảo Điện.

“Đại Hùng Bảo Điện bình thường thờ phụng Hoành Tam Thế Phật *, ở giữa là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trụ trì cõi Ta Bà, bên trái là Đức Phật Dược Sư trụ trì cõi Tịnh Lưu Ly ở phương Đông, bên phải là phật A Di Đà trụ trì cõi Cực Lạc Phương Tây. Đây là ba cõi Phật trong không gian, tượng trưng nơi nào cũng có Phật. Nhưng ở đây lại thờ phụng Phật cõi Thụ tam,” thầy Lý nói. “Ở giữa là Phật Thích Ca Mâu Ni của Hiện tại, bên trái là Phật Nhiên Đăng của Quá khứ, bên phải là Phật Di Lặc của Tương lai. Đây la ba cõi Phật của dòng thời gian, tượng trưng cho hiện tại, quá khứ, và tương lai, vì vậy không lúc nào là không có Phật.”

* Hoành Tam Thế Phật: Gồm đức phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật A Di Đà, đức phật Dược Sư.

Không gian cũng được, thời gian cũng xong, dù là nơi nào lúc nào, tôi đều muốn thấy nụ cười của Noãn Noãn.

Vừa nhẩm xong ước nguyện hiện tại lần thứ 27, tôi đột nhiên cảm thấy đau nhói, vội vàng rụt tay lại.

Hóa ra Noãn Noãn mải mê ngắm bức Thangka *, cây hương trên tay chọc trúng vào cánh tay trái tôi.

* Thanka: Cuộn tranh vẽ của Tây Tạng, thường vẽ về chủ đề tôn giáo.


“Á?” Noãn Noãn nói, “Em xin lỗi. Không sao chứ?”

“Không sao,” tôi nói, “nếu vừa vặn chọc trúng giữa trán, thì giờ anh đã thành Quan Âm rồi.”

“Đừng nói nhảm,” Noãn Noãn nói.

Tuy miệng nói không sao, nhưng lúc cầm cây hương cúi đầu, cánh tay trái vẫn cứ râm ran một cảm giác nhoi nhói.

Bước vào Vạn Phúc Các, đập vào mắt là pho tượng Phật cao lớn sừng sững – Phật Mại Đạt La.

“Mại Đạt La là tiếng Mông Cổ, tiếng Tạng là Champasak, tiếng Phạn là Di Lặc, tiếng Hán chính là Phật Đương Lại Hạ Sinh,” thầy Lý nói, “cũng chính là Phật Tương lai trong Tung Tam Thế Phật.”

Bức đại Phật Mại Đạt La được đẽo nguyên cây gỗ đàn hương trắng, dưới mặt đất cao 18 mét, trên mặt đất cao 8 mét, tổng cộng cao 26 mét, là bức tượng Phật đẽo bằng gỗ lớn nhất thế giới.

Đầu tượng Phật đội mũ Ngũ Phật, thân khoác áo cà sa vàng, eo buộc thắt lưng ngọc khảm đá quý, tay mang khăn ha-ta lụa vàng; toàn thân tượng thếp vàng, đeo đầy các loại châu báu ngọc ngà như dây tua trang sức, ngọc lam, hổ phách…

Hai mắt Phật lim dim, nhìn thẳng về phía trước, thần thái tuy trang nghiêm nhưng vẫn có nét hiền từ, khiến người ta bất giác trầm trồ thán phục.

Mọi người hỏi tại sao pho tượng Phật này phải lớn đến vậy?

“Trong Kinh Phật nói, ở thế giới tương lai, khi Phật Di Lặc hạ sinh nhân gian, loài người sẽ cao lớn hơn bây giờ, vậy nên Phật Tương lai càng phải cao lớn hơn người bây giờ, vì vậy mới đẽo khắc Phật Tương lai to là vậy.” Thầy Lý giải thích xong, ngừng một lát, rồi nói tiếp:

“Thế giới hỗn loạn như vậy, không tránh khỏi con người kỳ vọng vào Phật Tương lai – Phật Di Lặc có thể sớm hạ sinh cõi Ta Bà, phổ độ chúng sinh. Đây có lẽ cũng là nguyên nhân vì sao tượng Phật Tương lai lại lớn như vậy.”

“Tôi có một câu muốn hỏi các bạn,” thầy Lý nói, “pho tượng Phật này được chuyển vào Vạn Phúc Các bằng cách nào?”

Mọi người bất giác quay lại nhìn cửa miếu, lập tức sững sờ.

Tượng Phật cao lớn là thế, dù có đặt nằm ngang vác vào, cũng không thể vào nổi bên trong.

“Lương Lương,” Noãn Noãn hỏi, “làm sao có thể đem tượng Phật vào đây được?”

“Đây không phải là chuyện có thể hay không thể,” tôi nói, “mà là chuyện cần thiết hay không cần thiết.”

“Bạn Thái,” thầy Lý chỉ tôi, nói, “Thử phát biểu ý kiến xem sao.”

“Người bình thường thì không cách nào có thể chuyển bức tượng vào trong miếu được, nhưng có lẽ một người thông minh tuyệt đỉnh sẽ nghĩ ra cách. Nhưng nếu như thật sự thông minh tuyệt đỉnh, thì sao có thể không nghĩ tới cách đơn giản nhất là dựng tượng Phật trước rồi mới xây miếu chứ?” tôi nói.

“Các bạn đã hiểu ra chưa?” Thầy Lý cười cười. “Mọi người trong lòng ai cũng định sẵn rằng Vạn Phúc Các có trước, tượng Phật có sau, dù cho có cách thông minh đến đâu, thực ra lại là cách tồi nhất. Trong lòng có giới hạn, thì suy nghĩ sẽ không thể vẹn toàn được.”

Cả bọn bỗng nhiên hiểu ra, nhớ lại tình cảnh vừa nãy vắt óc suy nghĩ, không kìm được bật cười khanh khách.

“Có những lúc hoàn cảnh không tốt, bạn sẽ nghĩ đến việc cải thiện hoàn cảnh để thỏa mãn bản thân, nhưng kết quả thường khiến người ta nhụt chí nản lòng. Sao bạn không thử coi mình như Vạn Phúc Các, coi hoàn cảnh như bức tượng Phật khổng lồ, đem chính mình chuyển động phối hợp với hoàn cảnh bất động?” Thầy Lý nói xong bèn bật cười, hít một hơi dài, rồi tiếp tục:

“Đây là chuyến đi cuối cùng của chúng ta ở Bắc Kinh, nhiệm vụ của tôi đến đây cũng coi như đã hoàn thành. Trong Ung Hòa Cung vẫn còn rất nhiều thứ có thể thăm quan, các bạn có nửa tiếng tự do, sau đó cả đoàn tập trung trước cửa cung.”

Mọi người lần lượt tách ra, tôi và Noãn Noãn đi ngược trở lại, ngoài điện chính ra cũng rẽ vào các điện thờ phụ hai bên.

Noãn Noãn rất hứng thú với bức Thangka, cả đoạn đường đi, em dừng lại khá lâu trước bức tranh ấy.

Đến giờ tập trung, trước khi chuẩn bị lên xe, tôi chạy đi mua một ít hương Tây Tạng.

“Anh muốn  khấn Phật hả?” Noãn Noãn hỏi.

“Không. Anh muốn khấn anh,” tôi nói, “Trước khi thi thắp vài nén, sẽ thơm khắp cả người, y như Phật. Làm thế có khi lúc thi, gặp phải câu chưa học không biết chừng trí não lại có thể đột nhiên được khai thông.”

“Lại nói nhảm.” Giọng Noãn Noãn mang chút trách móc. “Thế này thì nguyện ước của anh sao mà thành sự thực được?”

Tôi sững sờ, gần như quên cả lên xe.

Về đến trường, tôi cảm thấy hơi mệt.

Không phải vì kiệt sức, mà vì cảm thấy chuyến đi này vậy là sắp kết thúc, có một cảm giác bất lực trống rỗng.

Mọi người dường như cũng đều chung cảm giác ấy, cả giảng đường hết sức yên tĩnh, hoàn toàn khác với không khí huyên náo mấy ngày trước.

“Tiền đã tiêu sạch rồi,” thầy Lý đùa đùa nói, “tối nay chúng ta tự nặn sủi cảo ăn.”

Mọi người cùng nhào bột, trộn nhân, nặn sủi cảo, luộc bánh, tiếng cười mới dần dần được đánh thức.

Lúc ăn cơm sao có thể thiếu tiết mục góp vui được?

Mọi người thống nhất, về nguyên tắc sẽ chia theo các nhóm, lần lượt đăng đài biểu diễn, nhưng cũng không hạn chế, ai muốn lên cứ lên.

Nhóm đầu tiên lên biểu diễn không biết kiếm đâu ra được một mảnh vải, ngăn giữa bục giảng.

Sinh viên Bắc Kinh đứng bên trái, sinh viên Đài Loan đứng bên phải.

Hai bên đứng cách nhau một tấm vải, nhìn bóng của bên còn lại, dỏng tai lắng nghe.

Bên này có động tĩnh, bên kia lập tức chụm lại thầm thì.

Mới đầu tôi không hiểu họ đang diễn gì. Về sau mới dần dần hiểu ra.

Tôi không khỏi nhớ lại lúc mới đến Bắc Kinh, sinh viên hai bên từ xa lạ đến dần dà thân thiết, thường nghe thấy sinh viên Bắc Kinh mở lời bằng: “Nghe nói bên ấy các cậu….”, nhưng không tránh khỏi úp úp mở mở.

“Nghe nói bên này các cậu…” sinh viên Đài Loan cũng mở lời, nhưng đều mơ mơ hồ hồ.

Đôi bên rất muốn thỏa mãn trí tò mò của mình nhưng lại sợ không cẩn thận dẫn đến hiểu lầm.

Hệt như cầm chiếc gậy dài đi thăng bằng trên dây cáp giữa không trung, cẩn trọng từng li từng tí duy trì thăng bằng với cây gậy trong tay, rồi lại thận trọng nhẹ nhàng từng bước từng bước nhích dần về phía trước.

Mức độ thân quen càng tăng dần, dây cáp dưới chân càng rộng dần, cuối cùng trở thành một tấm ván gỗ.

Cây gậy dài liền bị vứt ra xa, bước chân trở nên thuần thục, thậm chí còn bắt đầu nhảy nhót.

Phản ứng đầu tiên khi vừa nghe câu hỏi của đối phương luôn là kinh ngạc, sao có thể có kiểu nhầm lẫn như vậy, đến cuối cùng lại phá lên cười thoải mái, thấy sợ nhầm lẫn của đối phương là một chuyện hết sức thú vị; đồng thời cũng thấy sự nhầm lẫn của mình rất thú vị.

Hóa ra đôi bên đều chẳng hiểu gì nhau, lại cứ nghĩ rằng mình đã hiểu rõ lắm.

“Chúng ta phải giải phóng cho đồng bào Đài Loan” sinh viên Bắc Kinh bên trái đột nhiên nói.

“Tới đi tới đi, đợi lâu lắm rồi đây” sinh viên Đài Loan bên phải đáp lại.

“Đừng nói bừa!” Thầy Trương bên Bắc Kinh ngồi phía dưới rất căng thẳng.

“Mọi người thích đùa thôi, không sao đâu.” Thầy Lý ngược lại còn bật cười.

“Chúng ta phải cứu đồng bào Đại lục đang trong cảnh nước sôi lửa bỏng” sinh viên Đài Loan nói.

“Này!” Thầy Lý và thầy Ngô bên Đài Loan không chỉ đồng thanh, mà còn gần như cùng lúc đứng bật dậy.

“Sâu quá mất.”

“Nóng quá mất.”

Sinh viên Bắc Kinh hưởng ứng.

Đám sinh viên bên dưới đều cười ồ lên, còn các thầy thì mặt mày xanh lét.

Tấm vải ngăn giữa bục giảng bị tháo xuống, hai nhóm không còn chỉ thấy bóng người bên kia qua tấm vải mỏng, khi nhìn rõ mặt đối phương, biểu hiện đều vô cùng kinh ngạc.

Nhìn nhau một hồi xong, da mặt dần dần giãn ra; thử bắt đầu chuyện trò, rồi dần dần có tiếng cười.

Cuối cùng đôi bên bắt tay, lại còn khẽ ôm nhau.

Sinh viên trên bục giảng cùng cúi đầu chào, bên dưới rộ lên tiếng vỗ tay rào rào.

“Mấy bạn lên diễn đừng bày trò nữa,” thầy Trương vỗ vỗ ngực, “đừng dọa tôi lên cơn đau tim.”

Tiết mục tiếp theo là của hai sinh viên, một người phía Đài Loan, một người phái Bắc Kinh.

“Nhị Bát Đao” sinh viên Bắc Kinh nói.

“Tam Cước Mao” sinh viên Đài Loan nói.

“Đăng đài liền cúi chào,” hai người cùng đồng thanh.

Có lẽ là tấu hài, tôi nghĩ.

“Ở Đài Loan, có một bài đồng dao mà mãi tớ không hiểu, muốn thỉnh giáo cậu.”

“Thỉnh giáo thì không dám. Cùng cậu suy ngẫm chút thôi.”

“Cổng thành cổng thành bánh trứng gà, ba mươi sáu thanh đao. Cưỡi ngựa trắng, cầm thanh đao, bước vào cổng thành liền ngã nhào.”

“Bánh trứng gà là cái gì? Ba mươi sáu thanh đao là cái gì?”

“Không biết, hồi nhỏ hát thế đấy.”

“Cậu hát nhầm rồi. Cổng thành cổng thành bao trượng cao, ba mươi sáu trượng cao. Cưỡi ngựa lớn, cầm thanh đao, bước vào cổng thành vòng một vòng. Thế này mới đúng này.” “Ba mươi sáng trượng là gần một trăm mét, cao gần ba mươi tầng lầu, trên đời có tường thành nào cao đến thế sao?”

“Trẻ con nhỏ người mắt bé, nhìn tường thành thấy vô cùng cao, hợp lô gíc thế còn gì.”

“Hợp lô gíc?”

“Chắc chắn là hợp.”

“Vậy thì thêm một bài nữa?”

“Cậu nói đi.”

“Một hai ba, tới Đài Loan, Đài Loan có núi A Lý. Núi A Lý, có cây thần, năm sau nhất định về Đại lục.”

“Cái này thì tớ chưa nghe bao giờ. Về Đại lục là ý gì?”

“Ý là phản công Đại lục đó.”

Đột nhiên nghe “binh” một tiếng, thầy Chu phía Đài Loan bỗng nhiên đứng dậy, va trúng cạnh bàn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
Đăng lúc 21-6-2013 20:41:34 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 7
(tiếp)


Thầy Ngô đang ăn sủi cảo cũng sặc luôn, miệng ú a ú ớ, tay chỉ cậu sinh viên Đài Loan trên bục giảng.

“Từ nhỏ đã được chính phủ Quốc Dân Đảng ở Đài Loan truyền bá tư tưởng này hả?”

“Đúng thế, cậu thấy sao?”

“Quả là thấm thuần đấy!”

Thầy Trương phía Bắc Kinh không ngồi yên nổi nữa, đứng bật dậy nói: “Hai em diễn cho tử tế, đừng nói bừa nữa.”

“Các thầy sợ mất hồn rồi, chúng ta đổi chủ đề đi?”

“Được, đổi thì đổi.”

“Nghe nói tiếng Đài Loan các cậu dùng để chửi người là hay nhất.”

“Quả đúng thật. Cảnh giới cao nhất của chửi người là không cần dùng đến những từ bẩn thỉu, trong tiếng Đài Loan dù có là lời tốt đẹp khen ngợi người ta, cũng có thể dùng để chửi được. Ví dụ như, mẹ mày khá đấy. Câu này cũng là để chửi.”

“Mẹ mày khá đấy? Đây cũng là câu chửi?”

“Đúng thế. Tiếng Đài Loan nói là: Má mày khá nha.”

“Mạ may khá nha?”

“Gần đúng rồi đấy.”

Sinh viên Đài Loan phía dưới bị giọng trọ trọe của sinh viên Bắc Kinh trên bục giảng chọc cười ha hả.

“Câu này từ đâu mà có?”

“Sau trận chiến Giáp Ngọ, Đài Loan bị cắt cho Nhật Bản. Người dân Đài Loan dâng thư gửi Quang Tự, trong thư có câu này.”

“Sao lại dùng thế?”

“Hỏi thăm sức khỏe mẹ Quang Tự có khá không?”

“Hả?”

“Chính là thỉnh an Từ Hy ấy.”

Hai cậu cười hi hi, tiếp tục tán hươu tán vượn, đám sinh viên ngồi dưới thỉnh thoảng lại rộ lên cười như sấm.

Khó khắn lắm mới tán xong, các thầy dường như đều thở phào nhẹ nhõm.

“Mình muốn biểu diễn nghệ thuật dân gian,” cậu em khóa dưới tôi bước lên bục giảng nói.

“Rất hay,” thầy Chu,  thầy Ngô, thầy Trương cùng đồng thanh. Ngay đến thầy Lý cũng gật gật đầu.

“Mình cần một trợ thủ. Anh!” Cậu ta chỉ tay về phía tôi. “Chính là anh đấy.”

Tôi vừa lên bục giảng, cậu ta bèn đưa tôi một viên kẹo thơm miệng, nói: “Xin hãy xé lớp giấy bọc.” Tôi xé xong, hai ngón tay nhón lấy viên kẹo, cậu ta nói: “Xin hãy giơ cao.” Tôi giơ tay lên cao ngang ngực, cậu ta chùn lưng ngửa cổ ra sau, hai tay chắp sau lưng, rồi chầm chậm xích lại gần tôi, sau đó dùng môi cắp lấy viên kẹo, tôi bèn thả tay.

Đôi môi cậu ta mím chặt, duy trì tư thế chùn lưng ngửa cổ, đi một vòng trên bục giảng.

Cuối cùng cậu ta đưa tay phải móc viên kẹo trong miệng ra, đứng thẳng người, cúi chào một cái: “Cảm ơn mọi người.”

“Cậu đang làm cái gì đấy?” tôi hỏi.

“Đây là kẹo cao su Mũi tên xanh,” cậu ta chỉ vào cái vỏ bao, “vì thế tiết mục mình vừa biểu diễn chính là một tiết mục nghệ thuật dân gian vĩ đại – ‘Nuốt tên’.” Toàn thân tôi cứng đờ, chết lặng tại chỗ.

“Mình còn có thể nhai nát mũi tên nữa kìa.” Cậu ta lại bỏ viên kẹo vào mồm, rồi nhai rau ráu

Khốn kiếp! Tự mình mất mặt chưa đủ, lại còn kéo theo cả tôi cùng mất mặt.

Tôi vươn hai tay tóm lấy cổ cậu ta, nói: “Nuốt vào cho tôi!”

“Bảo vệ…” cậu ta hổn hển gọi, “bảo vệ…”

Tôi mặt đỏ phừng phừng bước xuống dưới, Noãn Noãn cười cười nói: “Tiểu đệ của anh sáng tạo thật đấy.”

Trên bục giảng lại có một nhóm sinh viên đang diễn tích Kỷ Hiểu Lam và Văn Loan.

Còn có một cậu sinh viên lấy bút mực đen viết lên áo: Văn Loan chi mộ, bởi vì cậu ra đóng vai bia mộ.

“Em Văn Loan, anh đến muộn rồi, hãy tha thứ cho anh nhé!” Kỷ Hiểu Lam vừa nói vừa gõ gõ vào “Văn Loan chi mộ”, tỏ ra đau khổ.

Rõ ràng là bi kịch đến tận cùng, mà lại diễn thành kịch siêu hài.

Điểm này giống hệt diễn viên trong phim thần tượng Đài Loan, lúc nào cũng đem bi kịch diễn thành hài kịch.

Từ diễn xuất của sinh viên Bắc Kinh trong nhóm này có thể thấy, phim thần tượng Đại lục có lẽ cũng lành ít dữ nhiều.

Năm cậu con trai quỳ bò trên mặt đất, lưng bằng san sát, chân tay giao nhau, nhìn khá giống một bức tường thành.

Một cô bạn gào khóc: “Phu quân ơi!” thế rồi năm cậu con trai ngã lăn ra đất, tường thành sụp đổ.

Đây chính là tích nàng Mạnh Khương khóc đổ Vạn Lý Trường Thành với hiệu ứng Montage * Còn có một nhóm diễn kịch lão binh Quốc Dân Đảng về quê thăm người thân.

* Montage: dựng phim


“Tôi đã đi được 40 năm rồi, vì sao con mới 38 tuổi?”

“Nó quá nhớ ba, nên quên lớn đấy mà.”

Nhóm chúng tôi cũng thảo luận xem nên biểu diễn gì?

Tôi nói để bốn người thay nhau đóng Phật Mại Đạt La, Noãn Noãn đứng trước Phật cầu nguyện: Xin mau mau hạ sinh nhân gian.

Rồi tôi đóng vai đứa bé vừa chào đời, lại để một người cầm đèn pin rọi vào trán tôi, thế là trên đầu thành có Phật quang.

“Để tớ đóng vai Phật Tương lai hạ sinh nhân gian, là có sức thuyết phục nhất,” tôi nói.

“Im miệng” Noãn Noãn và các thành viên khác nói.

Mọi người trong nhóm bàn tán sôi nổi, trước sau đều chẳng có chủ ý nào chắc chắn.

“Trở lại cái đơn giản nhất cho rồi, cứ hát một bài” Noãn Noãn nói.

“Hát bài gì?” tôi hỏi.

“Đảm bảo mọi người đều biết hát” Noãn Noãn úp úp mở mở.

Đến lượt nhóm chúng tôi lên biểu diễn, Noãn Noãn nói: “Chúng tớ sẽ hát bài “Có lẽ vào mùa đông’.”

“Không được!” đám sinh viên bên dưới nói.

“Sao lại không được?” Noãn Noãn nói.

“Muốn hát cũng nên để tất cả cùng hát!” Nói rồi mọi người bèn xông hết lên bục giảng, còn kéo luôn cả bốn thầy lên theo.

Có người hét 1, 2, 3, hát !

Hơn năm chục cái mồm bèn cùng lúc cất tiếng:

Nhẹ nhàng thôi, anh sẽ rời xa em, xin hãy lau đi giọt lệ nơi khóe mắt

Đêm dài vô tận, mai dài đằng đẵng, em yêu ơi xin chớ khóc vì anh

Con đường phía trước dù quá lạnh lùng, xin hãy mỉm cười chúc phúc cho anh

Dù gió thổi, dù mưa bay, anh vẫn nhớ em trong mưa gió

Tháng ngày không có em, anh sẽ càng thương cảm chính mình

Năm tháng không có anh, em hãy nhớ chăm sóc bản thân

Em hỏi anh khi nào trở lại nơi cũ, anh cũng thì thầm tự hỏi mình

Chẳng thể là lúc này, không biết khi nao, anh nghĩ có lẽ vào mùa đông

Chẳng thể là lúc này, không biết khi nao, anh nghĩ có lẽ vào mùa đông.


Anh nghĩ có lẽ vào mùa đông…

Tiếng hát vừa dứt, tâm trạng mọi người cũng phấn khích hơn, đứng trên bục cười đùa hò reo.

Như thể vừa vào được chung kết World Cup, mà sáng hôm sau lại đấu chung kết luôn, người nào người nấy chí khí cao ngút, nhiệt huyết tăng ngùn ngụt.

Chỉ thiếu mỗi ánh tà dương ngoài cửa sổ nữa thôi.

Dần dần, mọi người nhớ ra đây chẳng phải dạ tiệc mừng công gì, mà là bữa tiệc trước đêm chia tay.

Sáng sớm mai, 8 giờ, sinh viên Đài Loan đã phải lên xe ra sân bay, để bắt chuyến bay lúc hơn 10 giờ.

Tâm trạng thay đổi trong nháy mắt, khi mọi người ý thức được sắp phải xa nhau, tiếng cười nhỏ dần, nụ cười cũng nhạt dần.

Sau đó bắt đầu chụp ảnh chung, lưu lại điện thoại và e-mail.

Có người còn chạy về ký túc xá cầm quà ra tặng nhau, coi như kỷ niệm.

Những món quà chủ yếu nho nhỏ như thẻ điện thoại, bưu thiếp…

Không khí trở nên có phần tế nhị, mang chút bùi ngùi.

Tôi không khỏi nhớ lại thời cấp III từng tham gia hoạt động dạng trại hè.

Buổi tối trước hôm hoạt động kết thúc, thường sẽ đốt lửa trại, mọi người đều vây quanh đống lửa hát bài “Nối vòng tay lớn”.

Không khí lúc đó khiến ai ai cũng rưng rưng, rất ít người có thể bảo toàn được đôi mắt.

Như thể sắp phải chia xa với những bạn bè tốt nhất trong đời, sắp mất đi tình yêu, hận không thể biến thành Từ Chí Ma*, dùng con chữ diễn tả nội tâm dồi dào, tràn đầy cảm  xúc của mình.

* Từ Chí Ma : Từ Chí Ma (1897-1931), nhà thơ hiện đại.


Đáng tiếc không có ai là Từ Chí Ma, nên chỉ có thể mặc cho những xót xa trong lòng xâm chiếm toàn bộ cơ thể.

Thế rồi xuống núi được một tuần, nụ cười và gương mặt của những bạn bè trên núi cũng bắt đầu nhạt dần.

Một vài bạn nữa mắt đã đỏ hoe, còn có người khe khẽ lau nước mắt.

Tôi đã sớm qua cái tuổi cầm thanh huỳnh quang lắc trái lắc phải mỗi đêm văn nghệ; cũng tin rằng những xúc cảm ngập tràn chẳng thể chối bỏ chỉ là sản phẩm tạo ra từ không khí ly biệt.

Tôi tự nói với mình, đây sẽ là ký ức đẹp đẽ trong tương lai, nhưng không cần thiết phải đổi bằng nước mắt.

Nhỡ may bất cẩn không khống chế được cảm xúc của mình, tôi nhất định sẽ miệt thị cười mình ấu trĩ.

“Tớ ở Nam Đầu, nếu sau này cậu tới Đài Loan, tớ sẽ dẫn cậu tới đầm Nhật Nguyệt chơi.” Nghe một bạn nữ Đài Loan vừa quệt nước mắt vừa nói, tôi bỗng nhớ ra Noãn Noãn cũng muốn tới thăm Noãn Noãn, đột nhiên cảm thấy cay cay sống mũi.

Định thần lại, tôi lặng lẽ rời khỏi giảng đường.

Tôi đi tới một chỗ gần như đã không còn nghe thấy âm thanh gì từ phía giảng đường, ngẩng đầu lên nhìn bầu trời đêm.

Trời đêm ngày mai sẽ chẳng còn giống thế này nữa rồi, tôi thầm nghĩ.

“Lương Lương.” Tiếng Noãn Noãn vang lên sau lưng.

Tôi quay đầu lại, Noãn Noãn đưa tôi một tờ giấy.

“Anh vẫn chưa viết điện thoại và e-mail cho em đâu đấy” Noãn Noãn nói.

Tôi ngồi xổm xuống, tì giấy lên chân trái, viết điện thoại và e-mail, rồi đứng lên đưa tờ giấy cho em.

“Cả địa chỉ nữa,” Noãn Noãn không nhận lấy tờ giấy, chỉ cười, “có thể em sẽ viết thư.”

Tôi lại ngồi xuống, tờ giấy đổi sang đặt lên chân phải, viết địa chỉ, rồi lại đứng lên đưa cho em.

“Em không phải viết à?” Noãn Noãn hỏi.

“Dĩ nhiên là có rồi.” Tôi sờ khắp túi trên túi dưới, cũng không tìm ra nửa tờ giấy, đành rút trong ví ra một tờ tiền, đưa cho Noãn Noãn.

“Vinh hạnh thật,” Noãn Noãn nói, “có thể viết lên tiền.”

“Làm vậy ví của anh lúc nào cũng sẽ có tiền.”

“Hả?”

“Vì tờ tiền này lúc nào cũng sẽ nằm trong ví anh” tôi nói.

“Nếu anh đổi ví thì sao?”

“Tờ tiền này cũng sẽ chuyển nhà theo.”

“Nếu ví anh bị móc thì sao?”

Tôi vội vàng móc tờ tiền ra, tỉ mỉ ghi nhớ hàng chữ tiếng Anh và chữ số bên trên.

“Đừng lo,” tôi nói, “anh đã thuộc làu làu rồi.”

Gần bên có một chiếc ghế đá, tôi và Noãn Noãn bèn bước đến đó, ngồi xuống cạnh nhau.

“Anh biết vì sao phải hát ‘Có lẽ vào mùa đông’ không?” Noãn Noãn hỏi.

“Anh biết,” tôi nói. “Lúc ở sông Hộ Thành Tử Cấm Thành, em hỏi anh lúc nào mới đưa  em tới Noãn Noãn, anh trả lời có lẽ vào mùa đông.”

“Anh nhớ là tốt rồi.” Noãn Noãn cười rất vui vẻ.

“Noãn Noãn,” tôi hỏi, “mắt em vẫn ổn chứ?”

“Mắt em?” Noãn Noãn chớp chớp mắt. “Không sao. Mắt em làm sao cơ?”

“Phải tạm biệt bao nhiên bạn như thế, anh nghĩ chắc em sẽ buồn mà khóc.”

“Chỉ cần còn có thể gặp lại, mọi sự chia ly đều là tạm thời” Noãn Noãn nói.

Thái độ của Noãn Noãn rất ung dung, không nhận ra chút dao động nào.

“Vì sao sẽ còn gặp lại?” tôi hỏi.

“Anh quên rồi à ?” Noãn Noãn nói: “Bên bờ Thập Sát Hải, anh từng nói nếu em làm việc ở Bắc Kinh, anh sẽ đến Bắc Kinh tìm em.”

“Anh nhớ lúc đó có gió,  vậy nên có thể coi như lời hứa gió bay.”

“Lương Lương, anh…”

Noãn Noãn đột nhiên căng thẳng, mặt đỏ bừng lên,  mắt cũng hơi hoe đỏ.

“Anh đùa thôi” tôi vội vàng nói.

“Là lúc nào rồi mà còn đùa nữa ?”

“Noãn Noãn, em biết đấy, anh là người cơm có thể không ăn, nhưng đùa thì không thể dừng được.”

“Em không biết. ”

“Luận ngữ nói rồi: Quân tử vô chung thực chi i nhân, tháo thứ tất vu thi, điên bái tất vu thị*. Anh chính là loại quân tử điển hình, lúc vội vàng sẽ đùa, lúc khốn cùng cũng  vẫn đùa.”

* Quân tử vô chung thực chi i nhân, tháo thứ tất vu thi, điên bái tất vu thị: Luận ngữ/ Thiên IV: Lý nhân. Nghĩa là: Nhân cũng là đức tính quan trọng của người quân tử, người quân tử không thể xa rời nhân dù trong bất cứ hành vi nào.

“Luận ngữ mà dùng thế à?” Noãn Noãn lườm tôi một cái.

“Bất kể thế nào,” tôi cười gượng, “vừa rồi là đùa thật đấy.”

“Được,” Noãn Noãn nói, “giờ không có gió, anh nói xem, anh có đến Bắc Kinh tìm em không?”

“Lúc không gió anh không dám hứa gì” tôi nói.

“Này!”

“Em xem, anh lại đùa đấy, thời tiết này quả là không gì bằng được.”

“Anh có nói hay không?”

“Em đợi từ từ đã. Anh phải vui chơi trong tiết trời không gì bằng này mấy giây, mới nói được.”

“Rốt cuộc anh có nói không đây?”

“Sao gió vẫn chưa đến nhỉ?”

“Mau nói!”

“Nếu em làm việc ở Bắc Kinh, anh sẽ tới Bắc Kinh tìm em,” tôi nói.

“Lúc nào đến?”

“Vừa hát xong đấy, có lẽ vào mùa đông.”

Noãn Noãn cuối cùng cũng bật cười.

“Vậy nên em mới nói, chỉ cần còn gặp lại, mọi sự chia ly đều là tạm thời” Noãn Noãn nói.

Em nói xong, bèn ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm, dáng vẻ bình yên.

Tôi và Noãn Noãn có lẽ sẽ còn gặp lại nhau, nhưng khoảng thời gian ở giữa ấy sẽ là bao lâu, tôi không biết; tôi chỉ biết ngày mai một khi đã lên xe, khi bóng hình Noãn Noãn dần mất hút cuối tầm mắt, tôi sẽ bắt đầu nhớ em.

Mà cái gọi là ngày mai thực ra chẳng qua chỉ là màn đêm trước mắt chuyển từ tối sang sáng mà thôi.

“Cũng may. Giờ có mạng Internet rồi.” Giọng tôi nghe như tự an ủi chính mình.

“Đúng thế” Noãn Noãn nói.

“Đúng rồi, Đài Loan gọi là đường mạng cơ, em biết không?”

“Đương nhiên là biết” Noãn Noãn dài giọng. “Sao mà cứ toàn nói đâu đâu.”

“Anh sợ em không biết thôi. Không nhỡ anh viết thư cho em trên đường mạng, em lại chạy ra đường cái chờ nhận thư thì sao.”

“Em còn chưa ngốc thế đâu.” Noãn Noãn khẽ hứ một tiếng.

“Có mạng thì thuận tiện hơn nhiều rồi” tôi nói.

“Mạng dùng để liên lạc thông tin thì rất tiện, nhưng dùng để liên lạc tình cảm thì…” Noãn Noãn lắc lắc đầu.

“Sao nói vậy?” tôi hỏi.

“Khoảng cách giữa trái tim nếu xa xôi như thế, dù mạng có nhanh cỡ nào cũng vô dụng” Noãn Noãn nói.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “có lúc em nói chuyện mang cả triết lý vào, ngẫu nhiên cũng ra chân lý đấy.”

“Không phải ngẫu nhiên ra chân lý,” Noãn Noãn cười tôi, “mà là tất thuộc chân lý.”

“Nếu như nam nữ trên đời đều có thể đối với nhau chân thành, thuần khiết,” tôi ngẩng đầu nhìn màn đêm, “tới lúc đó mạng Internet có thể ngậm cười mà đứt rồi.”

“Đúng thế” Noãn Noãn nói.

“Sao lần này em không phản bác anh ?”

“Vì em cũng nghĩ như vậy mà.”  Noãn Noãn bật cười.

“Trước khi mạng Internet còn chưa ngậm cười mà đứt, anh sẽ viết thư cho em” tôi nói.

“Em biết rồi” Noãn Noãn nói.

Sau đó chúng tôi đều im lặng, chỉ đơn giản là cùng ngồi bên nhau.

Tôi bắt đầu nhớ lại từng chút từng chút những kỷ niệm mấy ngày nay, nghĩ mãi nghĩ mãi, bất giác mỉm cười.

“Anh nhớ đến đoạn nào rồi ?” Noãn Noãn hỏi.

“Hả?”

“Không phải anh đang nhớ lại mấy hôm nay chúng ta đã làm những gì, nói những gì à ?”

“Em biết anh đang nghĩ gì à ?”

“Em biết.” Noãn Noãn nở một nụ cười thần bí.

Vừa qua 12 giờ đêm, đúng ra mà nói, hôm nay đã phải rời Bắc Kinh rồi.

Noãn Noãn đứng dậy nói muộn rồi, tôi gật đầu, cũng đứng lên theo.

Mới đi được hai bước, đột nhiên nhận ra đây có lẽ là chút thời gian cuối cùng tôi và Noãn Noãn ở riêng bên nhau.

Tôi muốn nói gì đấy, nói gì cũng được, nhưng lời đến miệng rồi lại vẫn nuốt trở lại.

Thế này không được, trong lòng tôi nhất định có mấy lời chỉ có thể nói bây giờ, không nói về sau sẽ chẳng còn cơ hội nữa.

Tuy tôi từng nói với cậu em khóa dưới, tôi sẽ không nói với Noãn Noãn rằng tôi thích em; nhưng giờ có phần xúc động, muốn vượt ra khỏi cái khung vuông tôi tự vẽ nên trong lòng.

Tôi tự nhận mình có tâm can của một tay đua xe, dòng máu của một tay cờ bạc, nhưng lúc này đây lại chẳng thể duy trì nổi nhịp tim và nhiệt huyết bình thường được nữa.

“Noãn Noãn.” Tôi thu hết dũng khí mở lời: “Em biết đấy.”

Noãn Noãn quay lại nhìn vẻ mặt của tôi, gật đầu nói: “Ừ. Em biết.”

Noãn Noãn, anh cũng biết.

Anh biết em hiểu anh muốn nói điều gì.

Sớm mai trên đường dài, tiếc tấm lòng lúc này.” Noãn Noãn nói.

Tôi dừng bước.

“Đây là câu thơ của Tiền Chung Thư,” Noãn Noãn lại nói.

Ngày mai đã phải lên đường đi xa, đêm nay cảnh này tình này, tôi có muốn quên cũng không tài nào quên nổi.

“Noãn Noãn,” tôi nói, “Anh hứa.”

“Em biết” Noãn Noãn nói

Chúng tôi nhìn nhau cười, rồi ai về phòng nấy.

Về ký túc xá, tôi định tắm một cái rồi mới sắp xếp hành lý.

Vừa hay gặp đúng cậu em khóa dưới trước cửa nhà tắm, tôi hỏi: “Cậu nói với Vương Khắc chưa?”

“Nói rồi ạ” cậu ta trả lời. “Em tặng cho cô ấy bức thư pháp Tài tử, rồi nói: Tớ là tài tử, cậu có đồng ý làm giai nhân của tớ không?”

“Vương Khắc nói thế nào?”

“Cô ấy chẳng nói gì cả,” cậu ta nói. “Em đợi mười phút, cô ấy nửa chữ cũng chẳng nói, nét mặt cũng chẳng thay đổi gì, thế là em đi luôn.”

“Nghĩ theo chiều hướng tích cực, ít ra cô ấy còn chưa cho cậu một cái tát,” tôi nói.

“Đúng thế,” cậu ta lầm bầm nói, “nghĩ theo hướng tích cực.”

Tắm xong, vừa về phòng ký túc, Từ Trì và Cao Lượng lập tức tặng quà cho tôi.

Từ Trì tặng tôi bốn thanh đánh dấu sách bằng gỗ, bên trên có vẽ cảnh sông núi chim muông; Cao Lượng tặng tôi một bộ ba tấm phiếu Tàng thư.

Tôi vội vàng cảm ơn rồi nhận lấy, nhớ ra mình cũng nên có gì đó đáp lễ, nhưng lại chẳng có gì trong tay.

Đành rút trong ví ra hai tấm thẻ điện thoại, vừa may bên trên có in hình danh thắng ở Đài Loan.

“Đài Loan có hai loại thẻ điện thoại công cộng, hai cậu giữ làm kỷ niệm nhé.” Tôi ngại ngùng nói: “Rất xin lỗi, tôi không chuẩn bị quà gì, bỏ quá cho nhé.”

Từ Trì và Cao Lượng đều cười cười, nói không sao.

Tôi bắt đầu sắp xếp hành lý, đồ đạc tám ngày cũng kha khá.

Cao Lượng cẩn thận nhắc tôi chớ quên mang theo chứng nhận đồng bào Đài Loan và vé máy bay, Từ Trì nói: “Nhắc anh ấy làm gì? Tốt nhất là để anh ấy không đi nổi.”

Tôi sắp xếp xong, kéo dây khóa va ly, đút giấy chứng nhận và vé máy bay vào chiếc ba lô nhỏ mang theo người.

“Ngủ sớm đi, mai còn phải dậy sớm, máy bay không đợi đâu đấy” Cao Lượng nói.

Tôi định nói rồi lại thôi.

“Đừng có bày trò khóc lóc rưng rức, quyến luyến không rời, mau ngủ đi” Từ Trì nói.

Nằm trên gường, những suy nghĩ cứ ùa đến dữ dội, thật khó chìm vào giấc ngủ.

Vừa mới mơ mơ màng màng thì trời đã sáng, đánh răng rửa mặt, rồi đến nhà ăn ăn sáng.

Điều khác với mấy ngày trước đó là, trong nhà ăn im lặng như tờ.

Ăn xong bữa sáng thì quay về ký túc xá, kéo va li, đeo ba lô, xuống cổng trường đợi xe.

Sinh viên Bắc Kinh không cần lên xe cũng có mặt, dường như đều muốn tiễn các bạn Đài Loan trong chặng cuối cuộc hành trình.

Từ xa đã thấy Noãn Noãn chạy lại, em chạy tới bên tôi rồi thở hồng hộc, đưa tay ra nói: “Cho anh.”

Tôi đón lấy, là một món quà nhỏ được bọc kín, rất nặng.

“Chẳng phải cái gì quý giá đâu, anh không chê thì nhận lấy đi” Noãn Noãn

“Đây là?”

“Ba hôm trước mua ở Đại Sách Lan ấy.”

Tôi nhớ lại lúc đó Noãn Noãn đột nhiên bảo tôi đợi em mười phút, hóa ra là để chạy đi mua thứ này.

Tôi rất hối hận mình đã chẳng chuẩn bị quà gì tặng cho Noãn Noãn, trong lúc luống cuống lại rút trong ví ra một tờ tiền.

“Lại là tiền à?” Noãn Noãn nói.

“Cái này cho em.” Tôi đưa tờ 100 Đài tệ màu đỏ cho Noãn Noãn.

“Cho em tiền làm gì ?”

“Không không không,” tôi nói, “em đừng coi nó là tiền, em xem trên này có chân dung Tôn Trung Sơn, nếu sau này em nhớ đến Tôn Trung Sơn, thì không cần phải đường xá xa xôi chạy đến lăng mộ Trung Sơn ở Nam Kinh nữa.”

“Được.”  Noãn Noãn nhận lấy tờ tiền, bật cười.  “Cảm ơn anh.”

Xe đến rồi, phải lên xe thôi.

“Noãn Noãn, em phải sống cho tốt nhé. Đừng học theo Văn Loan” tôi nói.

Noãn Noãn có lẽ đến sức để trừng mắt với tôi cũng không còn nữa, vẻ mặt có chút bất lực.

“Được.” Noãn Noãn mỉm cười. “Em sẽ cố.”

Lên xe, ngắm nhìn kỹ từng khuôn mặt, từng bàn tay đang vẫy qua cửa kính xe. Tôi tin rằng mấy tháng sau, thậm chí mấy năm sau, tôi sẽ vẫn nhớ những nụ cười này.

Từ Trì cũng vẫy vẫy tay, miệng nói: “Đi đi đi đi, đừng quay lại nữa nhé.”

Đúng là tên cả ngốc.

Ánh mắt tôi cuối cùng dừng lại ở Noãn Noãn.

Noãn Noãn chỉ khẽ mỉm cười, không vẫy tay.

Xe nổ máy, bánh xe mới lăn nửa vòng, Noãn Noãn đột nhiên vẫy tay cật lực.

“Lương Lương!” Noãn Noãn hét lớn: “Tạm biệt!”

Khoảnh khắc vẫy tay ấy, Noãn Noãn đột nhiên sống động hẳn lên.

HẾT CHƯƠNG 7
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
Đăng lúc 21-6-2013 20:44:19 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 8


Trước đây trên xe luôn ngồi kín người, giờ số người chỉ còn một nửa, cảm thấy thật trống trải.

Trong xe thiếu đi tiếng cười, ngay tiếng chuyện trò cũng chẳng có, chỉ nghe thấy tiếng động cơ chạy.

Yên tĩnh quá.

Tôi mở gói quà Noãn Noãn tặng, là một ống đựng đồ hình trụ bằng kim loại, thảo nào nặng thế.

Cái ống cũng không hẳn là hình trụ, nhìn từ trên xuống, có lõm vào một ít, giống hình trăng non đầu tháng.

Ống cao khoảng 10 xăng ti mét, bên ngoài mạ vàng, nhưng sắc vàng không sáng, mà phảng phất nét xưa cũ giản dị.

Bề mặt chạm nổi họa tiết hai con rồng vờn ngọc, bên trong rỗng, nếu như để bút, có lẽ phải được khoảng mươi cái.

Tôi nghịch nghịch nó một hồi, rồi cẩn thận cất vào ba lô.

Đến sân bay Thủ Đô, xuống xe, mọi người ai nấy xách hành lý của mình.

“Tạm biệt các bạn, nhớ giữ liên lạc nhé.” Thầy Lý cười nói. “Hoạt động lần này có chỗ nào chưa chu đáo, mong các bạn bỏ quá cho.”

“Lên đường bình an” thầy Trương cũng nói.

Mấy ngày hôm nay, mỗi khi đến một điểm tham quan nào, thầy Lý lại tận tình giới thiệu, ân cần dịu dàng như một người cha; còn thầy Trương thì gần như ôm trọn mấy việc tạp vụ vào mình.

Nghe những lời khiêm nhường khách khí ấy của thầy Lý, mấy bạn gái lại đỏ hoe mắt.

Vài người tận dụng thời gian chụp hình kỷ niệm cùng hai thầy.

Tôi cũng nhân cơ hội nói tiếng cảm ơn thầy Lý từ tận đáy lòng, thầy nhẹ nhàng vỗ vai tôi.

“Tiễn bạn ngàn dặm, rồi cũng phải chia ly” thầy Lý nói.

Thầy Lý và thầy Trương cuối cùng bắt tay với thầy Chu, thầy Ngô, rồi lên xe ra về.

Làm xong thủ tục lên máy bay, va li cũng đã kiểm tra xong, lúc xếp hàng đợi kiểm tra an ninh, tôi thấy trong tay cậu em khóa dưới đang cầm một cuộn giấy, bèn hỏi: “Không phải cậu tặng cho Vương Khắc rồi à?”

“Cô ấy vừa đem trả em” cậu ta gượng cười đau khổ.

Nhìn dáng vẻ cô độc của cậu ta, tôi cũng không biết nên nói gì để an

Tôi đặt ba lô lên băng chuyền, khi ba lô đi qua máy X-quang, vẻ mặt của nhân viên an ninh có chút gì đó bất thường.

Nhân viên an ninh lôi từ ba lô tôi ra món quà Noãn Noãn tặng, hỏi: “Cái này dùng để làm gì?”

“Dùng để cho bút nghỉ ngơi” tôi trả lời.

“Hả?”

“Đây là…” Sợ lại rơi vào thảm cảnh trò cười của thìa với muỗng, tôi hơi do dự nhỏ giọng nói: “Ống cắm bút?”

“Ống cắm bút chứ gì?” Anh ta lại nhìn một lần nữa, rồi đưa trả lại cho tôi, nói: “Được rồi.”

Hóa ra các anh cũng gọi là ống cắm bút à.

Lúc sắp lại ba lô, tôi liếc thấy cuộn giấy của cậu em khóa dưới, bèn nhặt lên.

“Cậu đánh rơi này.” Tôi vỗ vỗ vai cậu ta.

Cậu em quay lại nhìn tôi một cái, nói: “Anh. Em không cần nó nữa, cho anh đấy.”

Tôi còn chưa mở miệng, cậu ta đã lại quay người đi thẳng.

Lên máy bay, ổn định chỗ ngồi xong, tôi tiện tay mở cuốn giấy ra.

Cuộn giấy vừa mở, từ trong đã rơi ra ba tờ giấy được cuộn giấu bên trong.

Tôi lần lượt mở ra từng tờ, chỉ nhìn qua đã biết là ba bức phác thảo chì.

Bức đầu tiên vẽ Trường Thành, bên trên có một đôi nam nữ, người con trai nắm tay người con gái leo lên; bức thứ hai vẽ đôi nam nữ trong khu ngõ cổ, người con gái ôm mặt khóc, người con trai nhẹ nhàng vỗ vai cô.

Bức thứ ba chắc là cầu thang dốc đứng trước Phật Hương Các, người con trai đứng trên cao nhất quay người lại kéo tay người con gái, người con gái cúi đầu, phía sau còn có một đôi nam nữ đứng hai bên trái phải cô gái cũng đang cúi đầu.

Ở phía dưới bên phải bức thư pháp “Tài tử”, còn có thêm hai chữ “Giai nhân” khá nhỏ.

Tôi không kịp nghĩ ngợi gì, lập tức đập đập vào cậu em đang ngồi phía trước, đưa bức thư pháp và ba tờ tranh cho cậu ta.

Cậu em vô cùng kinh ngạc, rồi lặng im trầm tư.

Cậu ta đột nhiên tháo dây an toàn, đứng lên, rời khỏi chỗ ngồi.

Tôi giật thót người, cũng lập tức tháo dây an toàn, đứng lên ôm chặt lấy cậu ta từ phía sau, nói: “Máy bay sắp cất cánh rồi, câu đừng có làm bừa!”

“Anh,” cậu ta quay đầu lại, “em chỉ đi vệ sinh thôi mà.”

Nói rồi cậu ta đi về phía nhà vệ sinh, hai mắt tôi vẫn dõi chặt theo sau.

Cô tiếp viên hàng không nói với cậu ta: Máy bay sắp cất cánh rồi, mời anh lát nữa hẵng dùng nhà vệ sinh.

Cậu em quay người đi về chỗ, ngồi xuống, đóng dây an toàn, rồi lại cầm cuộn giấy và bức tranh lên xem chăm chú.

Máy bay cất cánh, đèn cảnh báo dây an toàn cũng đã tắt, cuối cùng cậu ta mới chịu thu cuộn giấy và bức tranh lại.

Tôi thở phào nhẹ nhõm, nhắm hai mắt.

Noãn Noãn, anh càng lúc càng gần nhà, nhưng lại càng lúc càng xa em.

Từ Bắc Kinh đến Hồng Kông mất không đến bốn tiếng đồng hồ; thêm một tiếng ở Hồng Kông đợi chuyển máy bay; rồi từ Hồng Kông bay đến sân bay Đào Viên mất nửa tiếng; làm thủ tục thông quan, lấy hành lý mất 40 phút; ra khỏi sân bay ngồi xe về Đài Nam mất tiếng rưỡi; xuống xe đi taxi, mất 15 phút là về đến nhà.

Đoạn đường còn lại ngắn nhất mà cũng là xa nhất, tôi phải xách va ly leo lên năm tầng khu chung cư không có thang máy.

Đến nơi rồi, cũng mệt chết rồi.

Nằm trên cái giường quen thuộc lại có một cảm giác xa lạ.

Chỉ nằm được mươi phút, tôi lại ngồi dậy mở máy tính, lên mạng.

Nhận được e-mail của Từ Trì, bên trong có đính kèm rất nhiều ảnh.

Nhờ có mạng Internet, mấy tấm ảnh này còn hạ cánh sớm hơn cả tôi.

Tôi chăm chú xem từng tấm, gần như quên luôn hiện thực rằng mình đã trở về Đài Loan.

Nhìn tấm hình Noãn Noãn vô tình phì cười ở Thần Vũ Môn, tinh thần tôi chợt bị khuấy động.

Nhưng chẳng được bao lây, lại dậy lên một cảm giác trống trải mất mát.

Thở dài một tiếng, tôi lại xem tiếp, xem đến bức ảnh tôi chụp một mình trước Cửu Long Bích.

Cảm giác có chút gì quen thuộc, tôi cầm ống cắm bút Noãn Noãn tặng lên đối chiếu.

Hai con rồng vờn ngọc trên ống bút có nét duyên dáng rất giống hai con rồng trong Cửu Long Bích.

Có lẽ hình dáng hai con rồng trong tất cả các bức vẽ “ong hí châu” đều như vậy cả, nhưng tôi thà tin rằng đây là sự tỉ mỉ chu đáo của Noãn Noãn.

Lúc đó ở trước Cửu Long Bích, tôi khăng khăng muốn Tử Trì chụp cho mình một tấm hình riêng, vì vậy, em mới chọn món đồ này tặng tôi.

Noãn Noãn, em thật giống với chính tên mình, luôn khiến người ta thấy ấm áp trong lòng.

Tôi nâng niu cầm cái ống cắm bút trong tay.

Rồi đặt vào ngăn kéo tủ.

Vì không muốn nó dính chút bụi bặm nào, tôi thà cất nó trong một chỗ kín đáo.

Đây là kiểu yêu quý gì đây?

Điền e-mail của Noãn Noãn vào dòng người nhận, rồi gõ hai chữ:

Noãn Noãn.

Anh về đến nhà rồi, đi đường rất thuận lợi.

Em khỏe không?

Lương Lương ở Đài Loan.



HẾT CHƯƠNG 8
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
Đăng lúc 21-6-2013 20:46:52 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 9


Thiếp đi một giấc, tỉnh lại đã sắp trưa.

Mở máy tính lên

Thư viết:

Lương Lương.

Anh còn sống là tốt rồi. Em rất khỏe, cũng vẫn sống.

Mau đi ăn cơm đi.

Noãn Noãn ở Bắc Kinh.


Tôi đi rửa mặt, rồi xuống nhà kiếm cái ăn.

Cảnh phố phường quen thuộc, giọng mọi người nói chuyện cũng quen thuộc, quả nhiên tôi đã về đến nhà rồi.

Ở Bắc Kinh 8 ngày liên tục phải nghe quá nhiều âm uốn lưỡi, cứ nghĩ rằng âm thanh trong không trung sẽ chẳng còn truyền theo đường thẳng nữa, mà biến thành từng vòng, từng vòng như xoắn ốc khoan vào trong tai.

Tai tôi sắp thành cái xoáy nước rồi.

Bất giác sờ lên tai, nói: Lúc trước đã để mày chịu khổ rồi.

Ăn no xong, lại xem lại file ảnh Từ Trì gửi một lượt.

Mắt vẫn dừng lại trước ảnh Noãn Noãn rất lâu.

Xem xong, mắt tôi hơi cay cay, dụi dụi mấy cái chẳng hiểu vì mắt cay, hay vì buồn mà có chút rơm rớm nơi khóe mắt.

Tôi tắt máy tính, nằm soài trên giường.

Mở mắt ra lần nữa, thì trời cũng đã tối.

Bất kể ban ngày hay ban đêm, tôi lại lặp lại quá trình đi kiếm cái ăn, bật máy tính, xem ảnh, thẫn thờ, nằm xuống.

Cảm thấy ba hồn bảy vía đã thiếu mất một hồn hai vía rồi, người cũng trở nên hơi thơ thẩn.

Cứ vậy mà sống qua ngày đầu tiên hoàn toàn không được thấy Noãn Noãn.

Hai ngày tiếp theo, tôi vẫn không sao thoát khỏi trạng thái nhớ Bắc Kinh, trong đầu hỗn loạn.

Khi thấy mình thực sự không sao bình tĩnh nổi, tôi bèn viết e-mail cho Noãn Noãn.

Trong hai ngày viết bảy bức e-mail, Noãn Noãn cũng gửi cho tôi bảy bức.

Nội dung trong thư đều là những sự vật cụ thể, chứ không phải cảm xúc gì trừu tượng.

Tôi không thể viết: Gió Đài Loan, trong đêm tối không em, vẫn cứ vô tình thổi.

Noãn Noãn cũng không thể viết: Mất đi hình bóng anh, ánh mặt trời Bắc Kinh chẳng cách nào sưởi ấm lòng em.

Chúng tôi đều chỉ có thể nói với nhau: Vẫn đang nỗ lực sống, làm những việc nên làm.

Thỉnh thoảng tôi cũng có ý định gọi điện thoại cho Noãn Noãn.

Bây giờ di động rất phổ biến, có thể tìm thấy ai đó bất kỳ lúc nào, bất cứ nơi đâu; nhưng cũng vì bất kỳ lúc nào, bất cứ nơi đâu, nên đối phương đang ở đâu, làm gì, bạn hoàn toàn chẳng thể biết.

Ví dụ như, ngày thứ ba tôi ở Bắc Kinh, có nhận một cuộc gọi từ một người bạn đại học.

“Giờ cậu có rảnh không?” cậu ta nói.

“Rảnh,” tôi nói.

“Ra ngoài xem phim đi.”

“Nhưng tớ đang ở Bắc Kinh cơ.”

“…”

Vì vậy tôi luôn cố kiềm chế ý muốn gọi điện cho Noãn Noãn.

Một mặt vì phí điện thoại có thể sẽ rất đắt, mặt khác là vì cảm thấy chưa có việc gì kỳ quái đặc biệt đến mức phải gọi điện thoại.

Nếu như đi trên đường tôi nhặt được rất nhiều tiền, hoặc đột nhiên trúng loto, vậy thì đều có thể thỏa mãn cả hai điều kiện trên; vừa có tiền lại vừa là chuyện cực kỳ hiếm gặp.

Nhưng tôi mãi vẫn chẳng nhặt được tiền, loto cũng chẳng mua.

Ngày thứ tư tỉnh dậy đã khá hơn nhiều, ít nhất cũng nhớ ra mình vẫn còn phải kiếm việc làm, gửi CV.

Tôi mở máy tính ra, nhận được một e-mail lạ, của Nhạc Phong gửi tới.

Tôi không chơi cùng Nhạc Phong nhiều, không thể coi là quen thân, trước khi về Đài Loan, cô ấy cũng không xin e-mail của tôi.

Sao giờ lại viết thư cho tôi chứ?

Đọc tiêu đề bức thư: Muốn nhờ anh một việc. Nhờ tôi một việc? Làm bạn trai cô ấy ư?

Chỉ trách tôi có thế nào cũng vẫn phong độ ngời ngời, Nhạc Phong mê tôi âu cũng có thể hiểu được.

Ài, tôi đúng là gây tội rồi.

Mở bức thư, trong thư viết:

Em biết e-mail của anh qua Noãn Noãn, xin cho em biết e-mail của bạn trai học dưới khóa anh, Vương Khắc cần.

Nhạc Phong.

Ps. Tiện thể chào anh.


Có lầm không đấy?

Là thư gửi cho tôi mà lại chỉ chào tôi ở phần ps, lại còn “tiện thể” nữa chứ.

Đến reply tôi cũng chẳng buồn làm, trực tiếp gửi thẳng thư cho cậu em kia.

Sau đó tôi chỉnh đốn lại tâm tư vừa bị cái cô Nhạc Phong kia đùa cợt, bắt đầu chỉnh sửa bản CV.

Ngoài phần trình bày quá trình học tập và chuyên ngành đã chuẩn bị từ trước, tôi còn viết thêm một bức thư xin việc đơn giản.

Thư xin việc viết bằng tay, trên giấy viết thư mua từ trường Bắc Đại.

Ở thời đại máy tính phát triển này, cũng coi như một điểm đặc biệt. Có khi nhờ đó mà thu hút ánh mắt của nhà tuyển dụng.

Tổng cộng tôi tìm được năm công ty, đơn xin việc cũng viết năm cái.

Viết xong, kẹp với CV, lần lượt nhét vào năm chiếc phong bì thư của Bắc Đại, tôi xuống nhà gửi thư.

Ba ngày sau tôi nhận được điện thoại hẹn phỏng vấn.

Ngày hôm sau, tôi đóng bộ ngồi tàu hỏa lên phía Bắc đi phỏng vấn.

Quả nhiên vừa gặp người ta đã hỏi tôi: “Vì sao anh dùng giấy và phong bì thư của Bắc Đại?”

“Tôi là bạn trường Bắc Đại,” tôi nói. “Một người bạn của trường Đại học Bắc Kinh, tôi đã ở đó nửa ngày.”

Người phỏng vấn tôi sững người giây lát, rồi nói:

“Hồi học thạc sĩ tôi có làm một bài nghiên cứu: người thích kể mấy chuyện cười nhạt, khi làm việc thường rất chăm chỉ. Vì những người này có tính khí lạ lùng, giao thiệp cũng không tốt, công việc trở thành nơi gửi gắm duy nhất của họ.”

Tôi không rõ điều này là tốt hay xấu? Trong lòng thấp thỏm không yên.

“Khi nào anh có thể tới làm việc?” một lúc sau, người đó nói.

“Càng sớm càng tốt ạ” tôi nói.

“Vậy thì bắt đầu từ tuần sau đi.”

“Không vấn đề gì ạ.”

Tôi tìm được việc rồi, chẳng hề có cảm giác hào hứng gì đặc biệt, chỉ như vừa hoàn thành một việc nên làm.

Sau đó lại tiếp tục nhận được hai cuộc điện thoại nữa, tôi đều lấy lý do đã tìm được việc rồi mà từ chối.

Dù gì đối với người mới như tôi trong xã hội chuyên nghiệp này, tính chất công việc đều giống nhau cả.

Tôi tìm được một căn hộ mới, chuẩn bị Bắc tiến.

Thu xếp mọi thứ xong xuôi, cái nào đóng gói thì đóng gói, cái nào xếp vào va li thì xếp vào va li, cái nào để lại thì để lại.

Ống cắm bút Noãn Noãn tặng nằm yên ổn trong ba lô tùy thân.

Hôm qua đã hẹn với công ty chuyển nhà, một tiếng nữa người của họ sẽ đến.

Máy tính đóng gói cuối cùng, vì tôi còn định viết một bức e-mail cho Noãn Noãn.

Trong thư tôi viết:

Noãn Noãn.

Anh tìm được việc rồi

Anh phải chuyển nhà, chuyển đến Tân Trúc. (Đài Loan chỉ có Tân Trúc, không có Cựu Trúc)

Ổn định xong xuôi, rồi anh sẽ thông báo địa chỉ mới cho em.

Lương Lương ở Đài Loan.


HẾT CHƯƠNG 9
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách