Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: mozilla199
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Lãng Mạn - Xuất Bản] A Walk To Remember ( Đoạn Đường Để Nhớ ) | Nicholas Sparks

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2011 16:08:34 | Chỉ xem của tác giả
Chương 7


Đầu tháng mười hai, mới qua hai tuần tập luyện, trời mùa đông tối trước khi cô Garber cho phép chúng tôi ra về, và Jamie hỏi liệu tôi có ngại đi bộ cùng con bé về không. Tôi không biết tại sao con bé muốn tôi làm điều đó. Hồi đó Beaufort thực sự không phải là một ổ các hoạt động tội phạm, Vụ giết người duy nhất tôi từng được nghe đã xảy ra khoảng chừng sáu năm trước khi một anh chàng bị đâm bên ngoài quán rượu của Maurice, xin nói đó là nơi tụ tập của những người giống như Lew.

Trong khoảng một tiếng đồng hồ, vụ đó gây ra một sự xáo trộn và các đường dây điện thoại lan truyền khắp thị trấn trong khi những người phụ nữ lo âu băn khoăn về khả năng một kẻ mất trí đang đi lang thang trên các đường phố, rình rập các nạn nhân vô tội. Cửa nẻo được khóa chặt, súng ống được lên đạn, những người đàn ông ngồi bên cạnh cửa sổ, tìm kiếm bất kì ai có vẻ bất thường trong số người đang đi trên phố. Nhưng toàn bộ sự việc qua đi trước nửa đêm khi anh chàng đến đồn cảnh sát tự thú, giải thích đó là vụ đánh nhau ở quán bar và mọi chuyện vượt ngoài tầm kiểm soát. Rõ ràng, nạn nhân đã thoái thác một vụ cá độ. Anh ta đã bị kết tội giết người ở cấp độ hai và nhận sáu năm trong nhà tù tiểu bang. Cảnh sát trong thị trấn của chúng tôi có công việc buồn tẻ nhất thế giới, nhưng họ vẫn thích đi khệnh khạng xung quanh với một dáng diệu nghênh ngang hay ngồi trong quán cà phê khi nói về “vụ phạm tội lớn”, như thể họ phá được vụ đứa bé nhà Linbergh vậy.

Nhưng nhà Jamie cũng trên đường về nhà tôi, và tôi không thể từ chối mà không làm tổn thương con bé. Không phải tôi thích con bé hay gì, đừng hiểu nhầm, nhưng khi bạn phải ở bên ai đó vài tiếng mỗi ngày, và phải làm điều đó trong ít nhất là một tuần nữa, bạn sẽ không muốn làm bất cứ điều gì có thể khiến ngày tiếp theo trở nên buồn bã cho một trong hai người.

Vở kịch được trình diễn vào ngày thứ Sáu và thứ Bảy tuần đó, và mọi người đã bắt đầu xôn xao bàn bạc. Cô Garber có ấn tượng mạnh với Jamie và tôi đến mức liên tục nói với mọi người rằng nó sẽ là vở hay nhất trường từng được biểu diễn. Và chúng tôi phát hiện ra cô cũng có khả năng PR thực sự. Thị trấn chỉ có một đài phát thanh và họ đã phỏng vấn cô trên sóng, không chỉ một mà hay lần liền. “Vở kịch sẽ tuyệt háo”, cô tuyên bố, “cực kì tuyệt hảo”. Cô cũng kêu gọi cả tòa soạn báo, và họ đồng ý viết một bài về vở kịch, chủ yếu là vì mối liên hệ giữa Jamie và Hegbert, mặc dù tất cả mọi người trong thị trấn đều đã biết điều này. Nhưng cô Garber không hề nao núng, chỉ hôm sau cô đã bảo chúng tôi rằng nhà hát sẽ bổ sung ghế để có chỗ cho một lượng lớn khán giả nữa hẳn là sẽ tới. Cả lớp mắt chữ o, mồm chữ a, cứ như việc gì quan trọng lắm, nhưng sau đó tôi doán cũng chỉ với một vài đứa thôi. Hãy nhớ rằng, chúng tôi có những thằng con trai như Eddie trong lớp. Có thể nó nghĩ rằng đây là lần duy nhất trong đời mình được ai đó chú ý đến. Điều đáng buồn là, có lẽ nó đúng.

Có thể bạn nghĩ tôi cũng trở nên hào hứng về chuyện này, nhưng thực không phải vậy. Bọn bạn tôi vẫn châm chọc tôi ở trường, và tôi không có lấy một buổi chiều nghỉ ngơi, điều này tưởng như kéo dài mãi mãi. Điều duy nhất khiến tôi tiếp tục chính là ý nghĩ rừng tôi đang làm một “việc tốt”. Tôi biết việc này chẳng nhiều nhặn gì, nhưng đó là tất cả những gì tôi làm được. Đôi khi tôi còn cảm thấy vui vui với việc mình đang làm, mặc dù tôi chưa bao giờ thừa nhận điều này với bất kì ai. Tôi hình dung ra các thiên thần trên thiên đường đứng xung quanh chăm chú nhìn xuống tôi rưng rưng nước mắt, khen ngợi sự hy sinh của tôi.

Đêm đầu tiên đưa Jamie về nhà, khi đang suy nghĩ về những chuyện này thì con bé hỏi tôi.

“Có phải cậu và các bạn cậu thỉnh thoảng ra nghĩa địa vào ban đêm không?”

Tôi có phần ngạc nhiên vì con bé quan tâm. Mặc dù không phải là một bí mật, chuyện này không giống những điều mà con bé muốn biết.

“Ừ”, tôi nói, nhún vai “Thỉnh thoảng”

“Cậu làm gì ở đó, ngoài chuyện ăn lạc?”

Tôi đoán con bé cũng đã biết về chuyện đó.

“Mình không biết”, tôi nói. “Nói chuyện....đùa cợt. Chỉ đơn giản đó là nơi bọn mình thích tới thôi.”

“Cậu có sợ không?”

“Không”, tôi trả lời. “Tại sao? Cậu sợ à?”

“Mình không biết”, con bé nói. “Có thể”

“Tại sao?”

“Lo rằng mình sẽ làm điều gì đó sai”

“Bọn mình không làm bất cứ điều gì xấu ở đó. Ý mình là bọn mình không đánh cắp các bia mộ hoặc xả rác xung quanh,” tôi nói. Tôi không muốn nói với Jamie về các cuộc tán gẫu củ bọn tôi về Henry Preston bởi tôi biết đó không phải là con bé muốn nghe. Tuần trước Eric còn băn khoăn về vụ một anh chàng như thế có thể nằm trên giường và ...nhanh đến mức nào... bạn biết rồi đấy.

“Cậu có bao giờ chỉ ngồi đó lắng nghe những âm thanh không?” con bé hỏi. “Như tiếng dế kêu, tiếng xào xạc của lá khi gió thổi? Hoặc cậu có bao gờ chỉ nằm ngửa ngắm sao trời không?”

Mặc dù là một thiếu nữ bốn năm trời rồi, Jamie vẫn không biết gì về những đứa cùng trang lứa, và việc cố hiểu một thằng con trai tuổi mới lớn với nó cũng giống như việc cố giải mã thuyết tương đối vậy.

“Không hẳn”, tôi nói.

Con bé khẽ gật đầu. “Mình nghi đó là điều mình làm nếu mình ở đó, nếu mình đến đó, ý mình là vậy. Chỉ nhìn xung quanh để thực sự nhìn ngắm nơi ấy, hoặc ngồi yên lặng và lắng nghe.”

Cuộc nói chuyện này gây ấn tượng với tôi một cách lạ lùng, nhưng tôi không nói thêm gì, và chúng tôi rảo bước trong im lặng một lúc. Vì con bé đã hỏi một phần nào về tôi, tôi phần nào cảm thấy buộc phải hỏi về con bé. Ý tôi là, con bé đã không nói đến các kế hoạch của Chúa hay điều tương tự thì ít nhất tôi cũng phải làm được việc hỏi han chứ, phải không?

“Vậy, cậu làm gì?”, tôi hỏi. “Ý mình là bên cạnh công việc ở trại trẻ mồ côi, giúp đỡ những con vật tội nghiệp hoặc đọc Kinh Thánh ấy?” Tôi thừa nhận, ngay cả đối với tôi câu này nghe có vẻ nực cười, nhưng đó chính  là những công việc con bé vẫn làm.

Con bé mỉm cười. Tôi nghĩ nó ngạc nhiền vì câu hỏi, và thậm chí còn ngạc nhiên hơn vì sự quan tâm của tôi dành cho nó.

“Nhiều thứ lắm. Mình học bài, dành thời gian cho bố. Thỉnh thoảng hai bố con chơi bài cùng nhau. Những thứ tương tự như thế. “

“Cậu đã bao giờ tụ tập cùng bạn bè và làm những thứ linh tinh chưa?”

“Chưa,” con bé nói, và tôi có thể nói, qua cách nó trả lời, thậm chí ngay cả với con bé, rõ ràng không có ai muốn con bé bên cạnh.

“Mình cá là cậu hào hứng với việc đi học Đại học vào năm tới”, tôi nói, thay đổi chủ đề.

Mất một lúc con bé mới trả lời.

“Mình không nghĩ mình sẽ đi học đại học”, con bé nói dửng dưng, phũ phàng. Câu trả lời khiến tôi ngạc nhiên. Jamie là một trong những đứa có điểm cao nhất lớp cuối cấp, và nếu cứ như học kỳ trước, thậm chí con bé có thể là người đại diện đọc diễn văn trong lễ tốt nghiệp. Nhân tiện, chúng tôi đang tiến hành dự đoán xem con bé sẽ nói đến kế hoạch của Chúa bao nhiêu lần trong bài phát biếu. Số cá cược của tôi là mười bốn, lý do là con bé chỉ có 5 phút thôi.

“Thế còn trường MountSermon thì sao? Mình tưởng cậu dự định theo học ở đó. Cậu sẽ thích một nơi như thế,” tôi gợi ý.

Con bé nhìn tôi, nháy mắt “Ý cậu là mình hoàn toàn thích hợp ở đó, đúng không?”

Những phản ứng bất ngờ như thế thỉnh thoảng con bé đưa ra có thể đánh gục bạn ngay lập tức khiến bạn tròn mắt.

“Mình không có ý đó,” tôi nói nhanh. “Chỉ là mình nghe nói cậu thích tới đó học như thế nào vào năm tới.”

Con bé nhún vai không trả lời và thú thật, tôi không biết điều đó có nghĩa là gì. Đúng lúc đó thì đến trước cửa nhà con bé, và chúng tôi dừng lại ngay bên lề đường phía trước. Từ chỗ đang đứng, tôi có thể thấy bóng Hegbert đang đứng trong phòng khách qua rèm cửa. Đèn sáng, và ông ấy đang ngồi trên ghế sofa cạnh cửa sổ (đang đứng sao lại ngồi nhỉ?) Đầu ông cúi xuống, như đang đọc cái gì đó.  Tôi đoán đó là Kinh Thánh.

“Cảm ơn cậu đã đưa mình về nhà, Landon” con bé nói, và nó ngước lên nhìn tôi một lúc trước khi đột ngột bước đi.

Trong lúc nhìn theo con bé, tôi không thể làm được việc gì ngoài việc nghĩ đây là cuộc nói chuyện kì lạ chúng tôi từng có trong tất cả những lần tôi nói chuyện với con bé. Bất kể sự kì quặc của vài câu trả lời, thực tế con bé có vẻ bình thường.

Đêm tiếp theo, khi đưa con bé về nhà, con bé hỏi về bố tôi.

“Bố mình bình thường, mình nghĩ vậy,” tôi nói. “Nhưng ông không ở nhà nhiều.”

“Cậu có thấy thiếu vắng không? Lớn lên mà không có bố ở bên cạnh ấy”

“Thỉnh thoảng”

“Mình cũng nhớ mẹ”, con bé nói, “mặc dù mình chưa bao giờ biết bà cả”

Đó là lần đầu tiên tôi cho rằng mình và Jamie có thể có điểm gì đó chung. Tôi để chuyện đó lắng xuống một lúc.

“Hẳn với cậu phải rất khó khăn lắm nhỉ”, tôi chân thành. “Dù bố mình xa lạ với mình, ít nhất mình vẫn còn có ông ấy.”

Con bé ngước sang nhìn tôi khi chúng tôi bước đi, nhưng lại quay mặt về phía trước. Con bé kéo nhẹ mái tóc lần nữa. Tôi bắt đầu nhận thấy con bé làm điều này khi nó hồi hộp hoặc không biết chắc phải nói gì.

“Ừ, thỉnh thoảng. Đừng hiểu sai mình – mình yêu bố với tất cả trái tim, nhưng có những lúc mình tự hỏi sẽ như thế nào nếu có mẹ ở bên. Mình nghĩ bà và mình hẳn có thế nói về những điều mà theo một cách nào đó hai bố con không thể.”

Tôi đồ rằng con bé đang nói về bọn con trai. Không phải đến tận sau này tôi mới biết rằng mình đã sai như thế nào.

“Sống với bố thì như thế nào? Ông ấy có giống như khi ở nhà thờ không?”

“Không. Ông thực sự rất có năng khiếu hài hước.”

“Hegbert ư?” tôi buột miệng. Tôi thậm chí không thể tưởng tượng ra điều đó.

Tôi nghĩ con bé sốc khi nghe tôi gọi ông bằng tên riêng, nhưng nó để tôi thoát khỏi cái bẫy đó và không phản ứng với bình luận của tôi. Thay vào đó nó nói:”Đừng ngạc nhiên thế chứ. Một khi cậu hiểu ông, cậu sẽ thích ông.”

“Mình ngờ rằng mình có thể hiểu ông”

“Landon, cậu sẽ chẳng bao giờ biết”, con bé nói”kế hoạch của Chúa là gì”

Tôi ghét khi con bé nói về những thứ như thế. Với con bé, bạn chỉ cần biết nó nói về Chúa hằng ngày, và bạn chẳng bao giờ biết nhưng gì mà”Anh chàng To lớn trên lầu” nói với con bé. Thậm chí có thể con bé đã có một tấm vé trực tiếp lên thiên đường vì nó là người tốt như thế, nếu bạn hiểu ý tôi là gì.

“Làm thế nào mình có thể hiểu bố cậu được chứ?” tôi hỏi.

Con bé không trả lời, nhưng mỉm cười một mình, như thể nó biết biết một bí mật nào đó mà nó sẽ không nói với tôi. Như tôi đã nói, tôi ghét khi con bé làm thế.

Đêm tiếp theo chúng tôi nói về cuốn Kinh Thánh của con bé.

“Tại sao cậu luôn luôn mang cuốn Kinh Thánh bên cạnh thế?”, tôi hỏi

Lúc đó, tôi đoán rằng con bé luôn luôn mang cuốn Kinh Thánh bên mình chỉ vì nó là con gái mục sư. Đó không phải là dự đoán gì to tát lắm, dựa trên những cảm nhận của Hegbert về Kinh Thánh và những thứ đại loại như thế. Nhưng cuốn Kinh Thánh con bé mang theo đã cũ và bìa sách có phần rách nát, và tôi cho rằng con bé là kiểu người mua một cuốn Kinh Thánh hằng năm chỉ để giúp cho ngành xuất bản Kinh Thánh hoặc để cho thấy sự yêu mến đối với Chúa của con bé được nhắc lại hoặc đại loại thế.

Con bé bước một vài bước trước khi trả lời:

“Đó là cuốn Kinh Thánh của mẹ mình”, con bé nói đơn giản.

“Ồ,” tôi nói giống như thể tôi vừa đặt chân lên con rùa yêu quí của ai đó, giẫm bẹp dưới giày tôi.

Con bé nhìn tôi.”Landon, không sao mà. Làm sao cậu có thể biết được cơ chứ?”

“Mình xin lỗi vì đã hỏi..”

“Không sao, cậu không có ý gì hết mà.” Con bé ngừng lạ.”Bố mẹ được tặng cuốn Kinh Thánh này trong lễ cưới của hai người, nhưng mẹ là người nhận nó đầu tiên. Mẹ đọc nó suốt, đặc biệt bất cứ khi nào bà phải trải qua một thời điểm khó khăn trong cuộc sống.”

Tôi nghĩ tới những lần sảy thai. Jamie tiếp tục:

“Mẹ thích đọc Kinh vào buổi tối, trước khi đi ngủ, và mẹ có quyển Kinh thánh này trong bện viện khi mình được sinh ra. Khi bố mình biết mẹ mất, ông mang quyển Kinh Thánh cùng với mình ra bệnh viện.”

“Mình rất tiếc, ” tôi nói một lần nữa. Bất cứ khi nào ai đó nói với bạn một điều gì đó buồn, đó là điều duy nhất bạn có thể nghĩ ra để nói, thậm chí khi cả bạn đã nói điều đó rồi.

“Chỉ là một cách khiến mình...mình là một phần của mẹ. Cậu có thể hiểu điều đó không? ” Con bé không nói điều đó một cách buồn bã, chỉ thêm vào để tôi biết trả lời cho câu hỏi của mình. Theo cách nào đó, điều này khiến sự việc trở nên tồi tệ hơn.

Sau khi con bé kể câu chuyện, tôi nghĩ về chuyện con bé lớn lên cùng với Hegbert một lần nữa và thực sự không biết phải nói gì. Trong lúc nghĩ về câu trả lời của mình, tôi nghe thấy tiếng còi ô tô bấm ầm ỹ phía sau, cả tôi và Jamie đều dừng bước lại và quay lại cùng lúc khi chúng tôi nghe thấy chiếc xe tạt vào bên lề đường.

Eric và Margaret ở trong xe ô tô, Eric ở phía tay lái và Margaret ở phía gần với chúng tôi.

“Chà, xem chúng ta có ai ở đây nào”, Eric nói khi dựa vào vô lăng để tôi có thể nhìn thấy mặt nó. Tôi đã không cho nó biết chuyện tôi đưa Jamie về nhà, và cái kiểu đầu óc tò mò của bọn mới lớn, bước tiến triển này lấy đi sự quan tâm hơn bất cứ thứ gì mà tôi đang cảm thấy về câu chuyện của Jamie.

“Chào Eric. Chào Margaret” Jamie vui vẻ nói.

“Đưa bạn về nhà hả Landon?” tôi có thể thấy cái con quỉ nhỏ đằng sau câu hỏi của Eric.

“Eric” tôi nói, ước gì nó chưa bao giờ nhìn thấy tôi.

“Thật là một buổi tối tuyệt đẹp cho việc đi dạo phải không?” Eric nói. Tôi cho rằng, vì Margaret ở giữa nó và Jamie, nên nó cảm thấy một ranh giới nhỏ nhoi hơn thường lệ khi có mặt Jamie. Và chẳng đằng nó có thể để cơ hội này trôi qua mà không chọc ngoáy tôi.

Jamie nhìn quanh và mỉm cười”Ừ, đúng vậy”

Eric cũng nhìn với vẻ đăm chiêu trước khi hít một hơi thật sâu. Tôi có thể nói nó đang đóng kịch.”Chà, ngoài này thật dễ chịu” Nó thở dài rồi liếc về phía chúng tôi rồi nhún vai”Mình định cho hai cậu đi nhờ, nhưng như thế chẳng hay ho bằng một nửa việc đi dạo thực sự dưới những vì sao, và mình không muốn hai cậu bỏ lỡ điều đó.” Nó nói điều này giống như nó đang giúp đỡ cả hai chúng tôi vậy.

“Ừ, dù sao thì cũng gần tới nhà mình rồi” Jamie nói.”Mình định mời Landon rượu táo. Các cậu có muốn gặp bọn mình ở đó không? Bọn mình có rất nhiều.”

Rượu táo? Tại nhà con bé? Con bé đã không nói gì đến chuyện đó.....

Tôi cho tay vào túi, tự hỏi liệu chuyện này còn có thể khiến tình hình tồi tệ hơn thế nào nữa.

“Ồ không, không sao. Bọn mình tính tới quán Cecil's”

“Vào tối ngày thường ư?” con bé ngây thơ hỏi.

“Ồ, bọn mình không ở ngoài quá muộn đâu” thằng Eric hứa”nhưng có lẽ bọn mình nên đi. Uống rượu táo vui nhé, cả hai cậu”

“Cảm ơn vì đã dừng lại nói chuyện với bọn mình” Jamie nói, vẫy tay.

Eric khởi động lại xe, nhưng có vẻ chậm rãi. Jamie có lẽ tưởng nó là thằng lái xe cẩn thận. Thực sự thì không đâu, nhưng nó giỏi trong việc thoát khỏi rắc rối khi nó đâm thứ gì đó. Tôi nhớ một lần khi nó nói với mẹ nó rằng có một con bò đã nhảy bổ vào phía trước của chiếc xe và đó là lí do mà sao sườn xe và cái chắn bùn bị hỏng.”Chuyện xảy ra quá nhanh mẹ ạ, con bò thình lình xuất hiện. Nó cứ thế phóng ra ngay trước mặt, và con không thể dừng kịp được” Hồi đó tất cả đều biết những con bò thực sự không phóng vào bất cứ đâu, nhưng mẹ nó tin. Nhân tiện, bà ấy cũng từng là đội trưởng đội cổ vũ.

Khi bọn chúng đã đi khuất, Jamie quay sang tôi và mỉm cười.

“Landon, cậu có những người bạn thật dễ thương.”

“Chắc chắn là thế rồi. Hãy chú ý tới cái cách tôi cẩn thận diễn đạt câu trả lời của mình.

Sau khi đưa Jamie về nhà – không, tôi không ở lại vì rượu táo, tôi bắt đầu về phía nhà mình, cằn nhằn bản thân suốt dọc đường. Vào lúc đó, câu chuyện của Jamie đã hoàn toàn rời khỏi tôi, và tôi có thể nghe thấy bọn bạn tôi cười nhạo về tôi , từ quán Cecil's vọng lại.

Hãy xem điều gì xảy ra khi bạn là một anh chàng tử tế?

Sáng hôm sau, tất cả mọi người trong trường đều biết tôi đưa Jamie về nhà, và điều này bắt đàu một chu kỳ những suy đoán mới về hai chúng tôi. Tồi tệ đến mức tôi phải nghỉ trưa trong thư viện để tránh xa khỏi tất cả những chuyện đó.

Đêm ấy là buổi diễn tập ở nhà hát. Đó là buổi diễn tập cuối cùng trước hôm công diễn, và chúng tôi có rất nhiều việc phải làm. Ngay sau khi tan học, bọn con trai trong lớp kịch phải chất tất cả các đạo cụ trong lớp học lên chiếc xe tải thuê để đưa tới nhà hát. Vấn để là Eddie và tôi là hai thằng con trai duy nhất, và nó chính xác không phải là cá nhân hợp tác nhất trong lịch sử. Chúng tôi đi qua ngưỡng của, mang theo một trong những vật nặng, và cái cơ thể người Hoo của nó chống lại nó. Vào đúng lúc tôi cần sự giúp đỡ của nó để giữ món đồ cho cân, nó lại trượt chân lên một ít bụi bẩn hay một con côn trùng trên sàn, thế là khối lượng của các món đạo cụ nhanh chóng dồn xuống những ngón tay tôi, kẹp chúng về phía khung cửa một cách đau đớn.

“Xi....n lỗ....i” nó sẽ nói,”Có...oooo ddaaaaaau không?”

Tôi kìm những lời chửi rủa đang nổi lên trong cổ họng và cắn răng nói:”Đừng làm thế lần nữa”

Nhưng không thể ngăn nó đừng trượt chân cũng như làm sao ngăn mưa đừng rơi. Vào lúc chúng tôi hoàn thành việc vận chuyển, và tháo dỡ mọi thứ, các ngón tay tôi trông như ngón tay của Toby, người đàn ông lang thang làm việc vặt. Điều tồi tệ nhất là tôi thậm chí không có lấy một cơ hội để ăn trước khi buổi diễn tập bắt đầu. Vận chuyển đạo cụ mất ba tiếng, và chúng tôi chỉ sắp xếp mọi thứ xong xuôi vài phút trước khi mọi người khác đến để bắt đầu. Với tất cả những chuyện khác xảy ra ngày hôm đó, đủ để nói tôi ở trong một tâm trạng rất tồi tệ.

Tôi chạy qua lời thoại của mình mà thậm chí không thèm nghĩ, và cả tối hôm đó cô Garber không nói từ tuyệt hảo. Sau đó, có cái nhìn lo ngại trong mắt cô, nhưng Jamie đơn giản chỉ mỉm cười và bảo cô đừng lo lắng, mọi thứ sẽ ổn thôi. Tôi biết Jamie chỉ đang cố gắng làm cho mọi thứ tốt hơn đối với tôi, nhưng khi con bé đề nghị tôi đưa nó về nhà, tôi đã nói không. Nhà hát ở giữa thị trấn, và đưa con bé về nhà tôi phải cuốc bộ một quãng khá xa trên đường về nhà tôi. Bên cạnh đó, tôi không muốn bị bắt gặp làm điều đó một lần nữa. Nhưng cô Garber tình cờ nghe được yêu cầu của Jamie và cô nói, rất chắc chắn, rằng tôi sẽ rất vui được làm điều đó.”Hai em có thể nói về vở kịch,” cô nói.”Có lẽ các em có thể giải quyết mọi thứ.” Tất nhiên, ý cô mọi thứ ở đây có nghĩ là tôi.

Vậy là một lần nữa cuối cùng tôi lại đưa Jamie về nhà, nhưng con bé biết tôi thực sự không có tâm trạng để nói chuyện bởi tôi đi trước nó một chút, tay đút túi quần, thậm chí không thèm quay lại để nhìn xem con bé có đang theo sau không. Cứ nhứ thế trong mấy phút đầu, và tôi không nói với con bé một lời.

“Cậu không đựơc vui, đúng không?” cuối cùng con bé hỏi.”Tối nay cậu thậm chí không thèm cố gắng nữa.”

“Cậu không thể để yên một chuyện gì sao?” tôi cáu giận độp lại mà không hề nhìn con bé.

“Có lẽ mình có thể giúp,” con bé đề nghị. Con bé nói điều đó có phần vui vẻ, điều này thậm chí khiến tôi tức giận hơn.

“Mình nghi ngờ điều ấy,” tôi bẻ lại.

“Có thể nếu cậu nói cho mình biết có chuyện gì…”

Tôi không để cho con bé nói hết.

“Nghe này,” tôi nói, dừng bước, quay lại đối diện với con bé.”Mình mất cả ngày chuyển đồ, không ăn gì từ trưa, và bây giờ mình phải đi thêm một dặm để đưa cậu về nhà, cả hai chúng ta đều biết thậm chí cậu không cần mình phải làm điều này.”

Đó là lần đầu tiên tôi lên giọng với con bé. Nói thật với các bạn, tôi phần nào cảm thấy dễ chịu. Mọi sự đã dồn nén trong một thời gian dài. Jamie quá ngạc nhiên để có thể phản ứng lại, và tôi tiếp tục.

“Và lý do duy nhất mình làm điều này là bởi vì bố cậu, người thậm chí không ưa mình. Toàn bộ chuyện này thực ngu ngốc, và ước gì mình chưa bao giờ đồng ý làm điều đó.”

“Cậu chỉ đang nói thế bởi vì cậu hồi hộp về vở kịch…”

Tôi ngắt lời con bé bằng một cái lắc đầu. Một khi tôi đã bắt đầu, thỉnh thoảng thật khó mà dừng lại. Tôi chỉ có thể chấp nhận sự lạc quan và vui vẻ của con bé tới chừng này thôi, và hôm nay thì quá đủ rồi.

“Cậu không hiểu ư?” tôi nói, điên tiết.”Mình không hồi hộp về vở kịch, mình chỉ không muốn ở đây. Mình không muốn đưa cậu về nhà. Mình không muốn bọn bạn tiếp tục tán chuyện về mình, và mình không muốn dành thời gian với cậu. Cậu tiếp tục cư xử như chúng ta là bạn bè, nhưng đâu có phải. Chúng ta chẳng là bất cứ cái gì hết. Mình chỉ muốn tất cả chuyện này kết thúc và mình có thể quay trở lại với cuộc sống bình thường của mình.”

Con bé có vẻ bị tổn thương bởi cơn giận của tôi, và thành thật, tôi không thể đổ lỗi cho nó.

“Mình hiểu,” là tất cả những gì con bé nói. Tôi chờ con bé lên giọng với tôi, bảo vệ chính nó, nêu vấn đề của nó ra một lần nữa, nhưng không. Tất cả những gì nó là làm là nhìn xuống dưới đất. Tôi nghĩ phần nào nó muốn khóc, nhưng nó không khóc, và cuối cùng tôi bước đi, bỏ lại con bé đứng một mình. Mặc dù vậy một lúc sau, tôi cũng nghe thấy con bé bắt đầu di chuyển. Con bé đi sau tôi khỏang bốn năm mét cho hết phần đường còn lại về nhà nó, và con bé không cố nói chuyện lại với tôi cho đến khi bước vào lối vào nhà. Thật ra tôi đang đi xuống phía lề đường khi nghe thấy giọng của con bé.

“Cảm ơn cậu đã đưa mình về nhà, London,” con bé nói theo.

Tôi co rúm lại ngay khi con bé nói điều này. Thậm chí ngay cả lúc tôi xử tệ trước mặt nó và nói những điều hằn học nhất, con bé vẫn có thể tìm thấy lý do nào đó để cảm ơn tôi. Con bé chính là kiểu con gái đó, và tôi nghĩ tôi thực sự ghét con bé vì điều ấy.

Hoặc là hơn thế, tôi nghĩ, tôi ghét bản thân mình

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2011 16:10:03 | Chỉ xem của tác giả
Chương 8


Đêm công diễn vở kịch, trời mát mẻ, trong vắt, không một gợn mây. Chúng tôi phải đến trước một tiếng, và cả ngày hôm đó tôi cảm thấy thật bứt rứt vì cái kiểu tôi nói với Jamie tối hôm trước. Tôi biết mình là một thằng tồi vì con bé chẳng có lỗi gì ngoài việc tử tế với tôi. Tôi thấy con bé ngoài hành lang giờ ra chơi và muốn tới xin lỗi vì những gì đã nói, nhưng trước khi tôi có cơ hội, con bé đã lẩn vào đám đông.

Lúc tôi đến, con bé đã có mặt ở nhà hát, qua tấm màn tôi trông thấy nó nói chuyện với cô Garber và Hegbert sau cánh gà. Ai cũng đi đi lại lại, làm nọ làm kia để bớt hồi hộp, nhưng con bé có vẻ thờ ơ kỳ lạ. Con bé vẫn mặc chiếc áo len thường ngày đến trường, chưa mặc phục trang – một chiếc váy trắng mềm rủ để trông giống như thiên thần. Mặc dù run vì không biết con bé sẽ phản ứng ra sao nhưng tôi vẫn tiến đến chỗ ba ngừơi họ.

“Jamie,” tôi nói. “Chào Cha… Thưa cô Garber.”

Jamie quay sang tôi.

“Chào Landon,” con bé nói khẽ. Tôi biết con bé cũng suy nghĩ về tối hôm trước bởi nó không mỉm cười với tôi như thường lệ. Tôi hỏi liệu tôi có thể nói chuyện riêng với nó được không, và hai đứa chúng tôi xin phép đi ra. Tôi có thể thấy Hegbert và cô Gerber nhìn theo khi chúng tôi bước ra cách cánh gà một quãng để không bị nghe thấy.

Tôi bồn chồn liếc quanh sân khấu.

“Mình xin lỗi vì chuyện tối qua,” tôi bắt đầu. “Mình biết những lời mình nói làm cậu buồn, và mình đã sai khi nói vậy.”

Con bé nhìn như thể đang tự hỏi liệu có nên tin tôi không.

“Chuyện tối qua, ý cậu là sao?” cuối cùng con bé hỏi.

“Lúc đó mình không được vui, chỉ có vậy thôi. Thỉnh thoảng mình cứ như bị điên ấy.” Tôi biết mình không thực sự trả lời câu hỏi của con bé.

“Mình hiểu” con bé nói. Con bé nói y hệt như đêm hôm trước rồi quay về phía những chiếc ghế trống dành cho khán giả ở dưới. Mắt con bé lại lộ vẻ buồn bã.

“Này,” tôi nói, túm lấy tay con bé, “mình hứa sẽ đền bù cho cậu.” Đừng hỏi vì sao tôi nói thế - chỉ là vì đó có vẻ là điều đúng đắn để làm vào lúc ấy.

Lần đầu tiên trong tối hôm đó, con bé mỉm cười.

“Cảm ơn cậu,” con bé nói, quay sang đối diện với tôi.

“Jamie?”

Jamie quay lại. “Vâng, cô Garber?”

“Cô nghĩ chúng ta phải chuẩn bị cho em.” Cô Garber ra hiệu bằng tay.

“Mình phải đi,” con bé nói với tôi.

“Ừ,”

“Trộm vía may mắn nhé?”  tôi nói. Chúc một ai đó may mắn trước một vở diễn được xem là điềm xấu. Đó là lý do vì sao tất cả mọi người nói “trộm vía”.

Tôi thả tay con bé ra. “Chúng ta sẽ cùng cố gắng. Mình hứa.”

Sau đó chúng tôi đi theo hai lối riêng biệt để chuẩn bị cho vở diễn.  Tôi đi về phía phòng thay đồ của nam. So với một nơi như Beaufort, nhà hát này tương đối phức tạp với những phòng thay đồ riêng khiến chúng tôi có cảm giác mình như diễn viên thực thụ chứ không chỉ là học sinh.

Trang phục của tôi, vốn được cất giữ ở nhà hát, đã ở trong phòng thay đồ rồi. Trước đây trong các buổi tập chúng tôi đã được lấy số đo để sửa lại phục trang, và khi tôi đang mặc đồ thì Eric bước vào phòng mà không báo trước. Eddie vẫn ở trong phòng thay đồ, mặc bộ đồ dành cho nhân vật người gù câm, vẻ sợ hãi ánh lên trong mắt khi nó nhìn thấy Eric. Ít nhất mỗi tuần một lần Eric tẩn nó một trận tơi tả, vậy nên Eddi lẻn ra khỏi phòng thay đồ nhanh nhất có thể, vừa đi vừa xỏ một chân vào phục trang. Eric lờ nó đi và ngồi lên bàn trang điểm trước gương.

“Thế,” Eric nói với một nụ cười rộng ngoác tinh quái trên mặt, “mày định làm gì?”

Tôi nhìn nó tò mò. “Ý mày là sao?” tôi hỏi.

“Về vở kịch ấy, đồ ngốc. Mày sẽ nói sai thoại hay thứ gì đó tương tự chứ?

Tôi lắc đầu. “Không.”

“Mày sẽ làm hỏng đạo cụ chứ?” Tất cả mọi người đều biết về đám đạo cụ.

“Tao không định làm thế”, tôi trả lời một cách dứt khoát.

“Ý là mày sẽ làm điều này một cách tử tế hả?”

Tôi gật đầu. Những ý nghĩ khác thậm chí không hề xuất hiện.

Nó nhìn tôi một lúc lâu, như thể đang nhìn một người nào khác chưa từng gặp trước đó.

“Tao đoán là cuối cùng mày cũng đang lớn khôn, Landon ạ,” cuối cùng nó nói. Tôi không chắc đó có phải là một lời khen hay không khi mà những lời ấy phát ra từ miệng Eric.

Dù sao đi nữa, tôi biết là nó đúng.


Trong vở kịch, Tom Thornton vô cùng ngạc nhiên khi lần đầu tiên nhìn thấy thiên thần, điều này lý giải vì sao ông đi khắp nơi giúp đỡ cô chia sẻ Giáng sinh với những người kém may mắn hơn. “Cô đẹp quá” là những từ đầu tiên thốt ra khỏi miệng Tom, và tôi cũng được kỳ vọng nói những từ đó như thể xuất phát từ tận đáy lòng mình. Đây là giây phút quyết định trong toàn bộ vở kịch, nó thiết lập giọng điệu cho toàn bộ những gì xảy ra sau đó. Tuy nhiên, vấn đề là tôi vẫn chưa diễn được đoạn thoại này. Dĩ nhiên tôi đã nói những từ này rồi, nhưng chúng không vang lên một cách thuyết phục, có lẽ bởi tôi nói những từ đó giống như bất kỳ ai sẽ nói khi nhìn Jame, ngoại trừ Hegbert. Đó là cảnh duy nhất cô Garber chưa bao giờ nói từ tuyệt hảo, vì thế tôi hồi hộp về cảnh đó. Tôi cứ cố tưởng tượng ra một ai khác giống thiên thần để có thể diễn cho được, nhưng với tất cả những thứ khác tôi đang cố gắng tập trung vào, việc đó cứ trôi đi trong một mớ lộn xộn.

Cuối cùng, khi màn kéo lên, Jamie vẫn ở trong phòng thay đồ. Tôi không nhìn thấy con bé trước đó, nhưng thế cũng chẳng sao. Dù gì, vài cảnh đầu cũng không có con bé mà chủ yếu là về Tom Thornton và mối quan hệ của ông với cô con gái.

Tôi nghĩ mình sẽ không quá hồi hộp khi bước ra sân khấu vì đã tập rất nhiều, nhưng tôi vẫn sốc khi điều đó thực sự xảy ra. Nhà hát chật cứng, người ta phải kê thêm hai hàng ghế ở phía sau như cô Garber dự đoán. Bình thường nhà hát có bốn trăm chỗ, nhưng nhờ kê thêm ghế nên ít nhất thêm năm mươi người nữa có chỗ. Chưa hết, người ta còn đứng dựa vào tường, chật như nêm.

Mọi người tuyệt đối im lặng khi tôi bước ra sân khấu. Tôi nhận thấy khán giả chủ yếu là những quý bà già cả thuộc nhóm tóc bạc, những người chơi bingo và uống nước cà chua pha vodka vào bữa lửng ngày Chủ nhật, tuy nhiên tôi có thể thấy Eric với bọn bạn tôi đang ngồi hang gần cuối. Thật hết sức đáng sợ khi đứng trước ngần này người và tất cả đều đang chờ mình nói điều gì đó, nếu bạn hiểu ý tôi.

Vì thế tôi cố gắng không nghĩ về khán giả khi tôi diễn những cảnh đầu tiên của vở kịch. Sally, kỳ quan một mắt, đóng vai con gái tôi, nhân tiện nói luôn nó được nhận vai này vì khá nhỏ người, và chúng tôi diễn xong mấy cảnh như đã tập. Mặc dù không xuất sắc hay ghê gớm gì nhưng không đứa nào quên thoại. Lúc hạ màn chuẩn bị cho hồi hai, bọn tôi phải nhanh chóng sắp xếp lại đạo cụ. Lần này tất cả mọi người đều hăng hái bắt tay vào việc, và các ngón tay của tôi thoát khỏi việc bị thương do tôi tránh thằng Eddie bằng mọi giá.

Tôi vẫn chưa nhìn thấy Jamie – tôi đoán con bé được miễn di chuyển đạo cụ vì phục trang của nó được làm từ chất liệu nhẹ nên sẽ rách nếu bị mắc vào đinh – nhưng vì phải luôn chân luôn tay nên tôi cũng không có nhiều thời gian mà nghĩ về con bé. Chưa gì thì màn đã lại kéo lên và tôi lại trở lại thế giới của Hegbert Sullivan, rảo bước qua các cửa hang, nhìn vào cửa kính tìm chiếc hộp nhạc đứa con gái mong ngóng cho Giáng sinh. Tôi quay lưng về phía Jamie nhưng vẫn nghe thấy tiếng khán giả đồng loạt nín thở khi con bé xuất hiện trên sân khấu. Tôi tưởng trước đó đã là im lặng lắm rồi, nhưng lúc này nhà hát mới gọi là lặng như tờ. Ngay lúc đó, qua khóe mắt, tôi thoáng thấy hàm Hegbert run run nơi cánh gà. Tôi chuẩn bị tinh thần để quay lại, và cuối cùng khi quay lại, tôi mới hiểu điều gì gây ra sự im lặng đó.

Lần đầu tiên kể từ khi tôi biết con bé, mái tóc màu mật ong của nó không bị quấn chặt thành búi.

Thay vào đó tóc nó buông nhẹ, chạm tới phía dưới xương bả vai, dài hơn tôi tưởng tượng. Dải kim tuyến trên tóc con bé bắt ánh đèn sân khấu, lấp lánh như một quầng sáng pha lê. Cùng với chiếc đầm trắng mềm rủ được cắt may vừa khéo, cảm giác thật vô cùng kinh ngạc khi nhìn ngắm con bé. Con bé không hề giống như đứa con gái đã lớn lên cùng tôi, cũng không giống đứa con gái tôi biết mới đây. Con bé còn trang điểm nữa – không nhiều, nhưng đủ để làm nổi bật các đường nét mềm mại của nó. Con bé khẽ cười, như thể đang nắm giữ nơi trái tim một bí mật, như thể vai diễn này chỉ dành riêng cho nó.

Con bé thực sự giống một thiên thần.

Tôi biết mình cứ há hốc mồm mà đứng đó nhìn con bé một lúc lâu, sốc đến nỗi không nói lên lời, cho đến khi đột ngột nhớ ra tôi có lời thoại phải nói.Tôi hít một hơi thật sâu, rồi chậm rãi nói lời thoại của mình.

“Cô đẹp quá,” cuối cùng tôi nói với con bé, và tôi nghĩ tất cả mọi người trong nhà hát, từ các quý bà tóc bạc ngồi đằng trứoc cho tới bọn bạn ngồi phía sau, đều biết rằng tôi thực lòng.

Tôi nói lời thoại đó thành công, lần đầu tiên

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2011 16:11:09 | Chỉ xem của tác giả
Chương 9

Nói vở kịch là một thành công ác chiến tức là còn khiêm tốn. Nếu khán giả chỉ cười, khóc thôi thì cũng chỉ như những gì chúng tôi đã mong đợi. Nhưng nhờ sự có mặt của Jamie, vở kịch thực sự trở thành cái gì đó đặc biệt - và tôi nghĩ tất cả mọi người trong đội kịch đều sốc như tôi khi mọi thứ kết thúc tốt đẹp đến vậy. Tất cả đều có cái nhìn giống hệt tôi lúc trông thấy con bé lần đầu tiên, điều đó khiến cho vở kịch ấn tượng hơn nhiều khi nhưng người khác diễn phần của mình. Chúng tôi kết thúc buổi diễn đầu tiên không một khó khăn, và tin được không, thậm chí đêm hôm sau khán giả còn đến đông hơn. Ngay cả Eric sau đó cũng tìm gặp để chúc mừng tôi, sau những gì nó nói với tôi hôm trước thì điều này quả là đáng kinh ngạc.

“Hai đứa mày làm tốt lắm.” nó nói đơn giản, “Tao rất tự hào về mày, thằng bạn ạ.”

Trong lúc nó nói điều này, cô Garber đang kêu toáng lên, “Tuyệt hảo” với bất cứ kẻ nào chịu nghe cũng như những người chỉ tình cờ đi ngang qua, cô lặp đi lặp lại từ đó nhiều tới mức tôi tiếp tục nghe thấy “tuyệt hảo” rất lâu sau khi lên giường đi ngủ đêm ấy. Sau khi hạ màn lần cuối cùng, tôi tìm Jamie và thấy con bé đang ở trong cánh gà cùng với bố nó. Ông rơm rớm nước mắt – đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy ông khóc – Jamie sà vào vòng tay ông và họ ôm nhau một lúc lâu. Ông vừa vuối tóc con bé vừa thì tầm, “Thiên thần của bố,” trong lúc con bé nhắm mắt, ngay cả tôi cũng cảm thấy nghẹn ngào,

Tôi nhận ra “điều đúng đắn” cũng không đến nỗi nào.

Cuối cùng, sau khi họ rời nhau ra, Hegbert tự hào rút lui để con bé tới chào nhưng người khác trong đội kịch, và con bé nhận được vô số lời chúc mừng của tất cả mọi người ở hậu trường. Mặc dù liên tục nói không biết vì sao mọi người cứ rối rít lên, con bé biết nó đã làm rất tốt. Vẫn vui vẻ như thường lệ, nhưng với vẻ ngoài thật xinh đẹp, con bé gây ra một ấn tượng hoàn toàn khác. Tôi đứng ở phía sau, để con bé tận hưởng giây phút của mình, và phải thừa nhận tôi cảm thấy một phần trong tôi cũng giống như ông già Hegbert. Tôi không thể không thấy mừng cho con bé, và cũng có một chút tự hào nữa. Rốt cuộc, khi nhìn thấy tôi đang đứng ngoài một bên cánh gà, con bé xin phép những người khác rồi đi về phía tôi, cuối cùng dừng lại khi ở khá gần.

Ngước nhìn tôi, con bé mỉm cười. “Landon, cảm ơn vì những gì cậu đã làm. Cậu khiến bố mình rất hạnh phúc”

“Không có gì,” tôi nói, hoàn toàn thật lòng.

Điều kỳ lạ là, khi con bé nói thế, tôi nhận ra Hegber sẽ lái xe đưa con bé về, và lần đầu tiên tôi ước mình có cơ hội đi bộ cùng con bé về nhà.


Thứ hai tiếp theo là tuần học cuối cùng của chúng tôi trước kỳ nghỉ lễ Giáng sinh, và tất các lớp đều lên lịch thi cuối kỳ. Thêm vào đó tôi phải hoàn thành hồ sơ xin học vào Đại học Bắc Carolina, điều mà tôi đã có phần lơ là do các buổi tập kịch. Tuần đó tôi dự định học hành chăm chỉ, tồi buổi tối trước khi đi ngủ sẽ làm hồ sơ xin học. Ngay cả như thế, tôi cũng không thể thôi nghĩ về Jamie.

Hóa thân của Jamie trong vở kịch thật sự gây sửng sốt. Mà nói thế còn là nhẹ, và tôi đoán việc này báo hiệu một sự thay đổi của con bé. Tôi không biết tại sao mình nghĩ vậy, nhưng tôi thực sự đã chắc mẩm điều đó, vì thế tôi ngạc nhiên khi sáng hôm sau con bé xuất hiện ở trường ăn mặc như thường lên: áo len nâu, tóc búi, váy kẻ caro, vân vân.

Con bé lại trở thành người mà ta chỉ nhìn một lần rồi quên, và tôi không thể không cảm thấy tiếc. Trong suốt cuối tuần, con bé đã được xem như một người bình thường – thậm chí đặc biệt – hoặc là có vẻ là như thế, nhưng bằng cách nào đó con bé đã để điều đó trôi qua. Ồ, mọi người có tử tế với nó hơn một chút, và những người chưa bao giờ nói chuyện với con bé cũng khen nó diễn mới hay làm sao, nhưng tôi có thể nói ngay lập tức rằng điều đó sẽ chẳng kéo dài. Thái độ được hình thành từ thời thơ ấu khó lòng mà phá vỡ được, và tôi phần nào băn khoăn liệu sau chuyện này thái độ đó có tồi tệ hơn không. Giờ đây khi người ta thực sự biết rằng con bé có thể trông hoàn toàn bình thường, có lẽ họ thậm chí còn trở nên vô tình hơn.

Rất muốn nói chuyện với con bé về những ấn tượng của mình, thực sự rất muốn, nhưng tôi định làm thế nào khi tuần đó qua đi. Không chỉ bởi có rất nhiều việc cần làm, mà còn vì tôi muốn có chút thời gian nghĩ cách hay nhất để nói với con bé. Thành thật mà nói, tôi vẫn còn cảm thấy đôi chút tội lỗi vì những điều đã nói với con bé trên đường đưa nó về nhà lần trước, và không chỉ bởi vở kịch hóa ra rất hay đâu. Lý do chủ yếu là vì trong thời gian chúng tôi bên nhau, Jamie đã rất tử tế và tôi biết mình đã sai.

Thật lòng mà nói, tôi không nghĩ con bé muốn trò chuyện với tôi. Tôi biết con bé nhìn thấy tôi tụ tập với bọn bạn vào giờ ăn trưa trong lúc nó ngồi một góc đọc Kinh thánh, có điều nó không bao giờ lại gần chúng tôi. Nhưng hôm ấy lúc tan trường, tôi nghe thấy giọng con bé phía sau, hỏi xem tôi có đưa nó về nhà được không. Mặc dù chưa sẵn sàng nói những suy nghĩ của mình với con bé, tôi vẫn đồng ý. Vì tôi muốn nhớ lại những lần cùng đi về vui vẻ trước đây.

Một phút sau, Jamie đi thẳng vào vấn đề.

“Cậu còn nhớ đã nói gì lúc đưa mình về nhà lần trước không?” con bé hỏi,

Tôi gật đầu, ước gì con bé đừng nói tới chuyện này.

“Cậu đã hứa sẽ đền bù cho mình,” con bé nói.

Tôi bối rối mất một lúc. Tôi tưởng mình đã đền bù bằng cách diễn kịch rồi chứ. Jamie tiếp tục.

“Ừm, mình đã nghĩ xem cậu có thể làm gì,” con bé tiếp tục mà không để tôi chen vào lấy một lời, “và mình đã nghĩ ra việc này.”

Con bé nhờ tôi đi thu thập những vỏ lọ dưa muối và hộp cà phê nó đã đặt trong tất cả các cửa tiệm khắp thị trấn hồi đầu năm. Chúng được đặt ở quầy thu ngân, thường là cạnh máy tính tiền, để người ta có thể bỏ tiền lẻ vào. Số tiền này dành cho những đứa trẻ mồ côi, Jamie chưa bao giờ trực tiếp hỏi xin tiền, con bé muốn mọi người tự nguyện đóng góp. Nó nghĩ đó là điều những người Thiên Chúa giáo nên làm.

Tôi nhớ đã nhìn thấy đám vỏ hộp đó ở những nơi như quán Cecil’s và nhà hát Vương Miện. Bọn bạn và tôi thường quẳng kẹp giấy và mẩu kim loại vào đó khi nhân viên thu nhân không nhìn, bởi nghe giống như một đồng xu được thả vào bên trong, rồi bọn tôi cười thầm vì đã chơi xở được Jamie. Bọn tôi thường đùa cợt về việc con bé sẽ mở cái hộp như thế nào, sẽ hi vọng điều tốt đẹp khi thấy cái hộp nặng tay ra sao, và rồi dốc ra mà chẳng thấy gì hết ngoài những mẩu kim loại và kẹp giấy. Đôi lúc bạn phải cau mày khi nhớ lại việc mình từng làm, và đó chính xác là những gì mặt tôi biểu hiện lúc này.

Jamie trông thấy vẻ mặt tôi.

“Cậu không phải làm thế đâu,” con bé nói, vẻ thất vọng hiện rõ. “Mình chỉ nghĩ Giáng sinh sắp đến và đơn giản là sẽ mất rất lâu để thu thập hết tất cả số vỏ hộp vì mình không có ô tô…”

“Không”, tôi nói, cắt ngang lời con bé, “mình sẽ làm. Dù sao thì mình cũng không bận lắm.”

Vậy là bắt đầu từ ngày thứ Tư tôi đi thu vỏ hộp dù có những bài kiểm tra cần chuẩn bị, và cả hồ sơ xin học cần phải làm xong, Jamie đưa cho tôi danh sách những nơi con bé đặt vỏ hộp, ngày hôm sau tôi mượn xe của mẹ và bắt đầu từ chỗ xa nhất của thị trấn. Con bé để khoảng sáu mươi chiếc hộp tất cả, và tính chỉ mất một ngày để gom hết số đó. So với chuyện đi đặt chúng, đây là việc hết sức dễ dàng. Jamie mất gần sáu tuần để làm vì đầu tiên phải tìm được sáu mươi chiếc hộp rỗng, rồi sau đó chỉ có thể đặt hai hay ba cái một ngày vì nó không có ô tô và mỗi lần chỉ mang được chừng đó. Lúc đầu, tôi cảm thấy hơi buồn cười khi làm người đi thu gom bởi đó là dự án của Jamie, nhưng rồi tôi tự nhủ rằng Jamie đã nhờ giúp đỡ.

Tôi đi từ chỗ này tới chỗ khác, thu gom hộp và lọ, và vào cuối ngày đầu tiên tôi nhận ra sẽ mất nhiều thời gian hơn dự tính. Tôi chỉ thu được chừng hai mươi cái, bởi tôi đã quên một thực tế giản đơn về đời sống ở Beaufort. Trong một thị trấn nhỏ như thế này, không thể chỉ đơn giản chạy vào bên trong tóm lấy cái vỏ hộp mà không tán gẫu với chủ cửa hàng hoặc chào hỏi những người bạn quen. Đơn giản là không làm thế được. Vì thế tôi phải ngồi nghe một anh chàng nói về con cá kiếm câu được mùa thu trước, hoặc giả người ta sẽ hỏi tôi việc học hành ở trường thế nào rồi nói rằng họ cần phụ giúp tháo dỡ một vài chiếc hộp ở phía sau, hay có thể họ muốn nghe ý kiến của tôi về việc có nên chuyển giá để tạp chí qua phía khác của cửa hàng hay không. Tôi biết Jamie hẳn rất giỏi những việc này, và gắng cư xử như tôi nghĩ là con bé muốn tôi làm thế. Dù sao đây cũng là dự án của con bé.

Để cho nhanh, tôi không dừng lại để kiểm tra số tiền giữa các cửa hàng, Tôi chỉ đổ tất cả vào một cái lọ hoặc cái hộp tiếp theo, gom chúng lại trong lúc tiếp tục. Vào cuối ngày đầu tiên, tất cả số tiền được để trong hai chiếc lọ lớn và tôi mang chúng vào phòng mình. Tôi thấy vài tờ tiền giấy qua lớp kính- không quá nhiều – nhưng tôi không thực sự lo lắng cho đến khi dốc hết cả ra sàn nhà và nhận thấy chủ yếu là những đồng một xu. Mặc dù không có nhiều mẩu kim loại và kẹp giấy như tôi tưởng, tôi vẫn cảm thấy chán nản khi đếm số tiền. Có 20,32 đô la. Thậm chí vào năm 1958 đó cũng không phải là số tiền lớn, đặc biệt khi chia cho ba mươi đứa trẻ.

Mặc dù vậy, tôi không nản lòng. Nghĩ rằng đó chỉ là một sai lầm, ngày hôm sau tôi tiếp tục gom thêm vài tá hộp, lọ và tán gẫu với khoảng hai chục người chủ tiệm khác. Số tiền là 23,89 đô la.

Ngày thứ ba thậm chí còn tồi tệ hơn. Tôi không dám tin sau khi đếm số tiền thu được. Chỉ có 11,52 đô la. Số tiền này thu được từ những cửa hàng gần biển, nơi khách du lịch và bọn choai choai như tôi tụ tập. Tôi không ngăn được suy nghĩ rằng chúng tôi thực sự rất tệ.

Tôi cảm thấy thật khủng khiếp khi nhìn thấy toàn bộ số tiền thu được ít ỏi biết chừng nào – 55,73 đô la – nhất là khi những chiếc lọ đã ở đó cả năm trời và tôi đã nhìn thấy chúng không biết bao nhiêu lần. Tối đó, lẽ ra tôi phải gọi điện cho Jamie để con bé biết số tiền thu được, nhưng đơn giản là tôi không thể làm thế. Con bé đã nói rằng năm nay nó muốn làm điều gì đó thật đặc biệt, mà số tiền này thì chẳng thấm tháp gì – đến tôi cũng biết điều ấy. Thay vào đó, tôi nói dối và bảo con bé rằng sẽ không đếm tổng số tiến cho đến khi cả hai chúng tôi có thể đếm cùng nhau, bởi vì đây là dự án của con bé, không phải của tôi. Thật đáng thất vọng. Tôi hứa chiều hôm sau, sau khi tan trường sẽ mang số tiền tới. Hôm sau là ngày 21 tháng mười hai, ngày ngắn nhất trong năm. Chỉ còn bốn ngày nữa là tới Giáng sinh.

“Landon,” con bé nói với tôi sau khi đếm số tiền, “quả là một điều kỳ diệu!”

“Chỗ đó bao nhiêu vậy?” tôi hỏi. Tôi biết chính xác có bao nhiêu.

“Có gần hai trăm bốn mươi bảy đô la ở đây!” Con bé vui khủng khiếp khi ngước lên nhìn tôi. Bởi vì Hegbert ở nhà nên tôi được phép ngồi trong phòng khác, nơi Jamie đếm tiền. Tiền được xếp thành những đống nhỏ gọn gàng khắp sàn nhà, gần như toàn là đồng hai lăm xu và mười xu. Hegbert đang ngồi bên bàn bếp, viết bài giảng đạo, và ngay cả ông cũng quay đầu lại khi nghe thấy giọng con bé.

“Như thế có đủ không?” tôi ngây thơ hỏi.

Nước mắt lăn dài trên má con bé khi nó nhìn quanh căn phòng, vẫn còn không tin những gì ngay trước mặt. Thậm chí sau khi công diễn vở kịch, con bé cũng không hạnh phúc như thế này. Con bé nhìn thẳng vào tôi.

“Thật… tuyệt vời,” con bé nói rồi mỉm cười. Giọng nó xúc động hơn hết thẩy những lần tôi đã nghe trước đó. “Năm ngoái mình chỉ quyên góp được bảy mươi đô la.”

“Thật vui vì năm nay việc quyên góp hiệu quả hơn,” tôi nói, cổ họng nghẹn lại. “Nếu cậu không đặt những chiếc lọ này sớm như thế thì có lẽ đã không quyên góp được nhiều thế này.”

Tôi biết mình đang nói dối, nhưng chẳng sao. Thi thoảng, nói dối lại là điều đúng đắn.


Tôi không giúp Jamie chọn đồ chơi - dù sao tôi cũng cho rằng con bé biết rõ bọn trẻ muốn gì hơn tôi - nhưng nó nài nỉ tôi đi cùng tới trại trẻ mồ côi vào đêm Giáng sinh để tôi có thể ở đó khi bọn trẻ mồ côi mở quà. “Làm ơn đi mà, Landon,” con bé nói, và bởi nó quá ư hào hứng nên tôi hoàn toàn không nỡ khiến con bé thất vọng.

Vì thế ba ngày sau, trong lúc bố mẹ tôi dự tiệc tại nhà ông thị trưởng, tôi mặc áo khoác vải kẻ và thắt chiếc cà vạt đẹp nhất rồi đi tới chỗ ô tô của mẹ tới với món quà cho Jamie kẹp dưới cánh tay. Tôi đã tiêu những đồng đô la cuối cùng để mua một chiếc áo len đẹp bởi đó là món quà duy nhất tôi có thể nghĩ ra làm quà cho con bé. Chắc chắn con bé không phải là kiểu người mà ta dễ mua đồ cho.

Đáng ra tôi phải có mặt ở trại trẻ mồ côi lúc bảy giờ, nhưng cây cầu gần cảng thành phố Morrehead bị kéo lên, và tôi phải chờ một chiếc tàu chở hàng chậm rãi xuôi kênh đào. Kết quả là tôi đến muộn vài phút. Khi ấy cửa trước đã khoá, và tôi phải nện cửa ầm ầm cho đến khi ông Jenkins nghe thấy. Ông lóng ngóng với chùm chìa khoá mất một lúc mới tìm thấy đúng chìa, và một lát sau ông mở cửa cho tôi. Tôi bước vào trong, khoanh tay để bớt lạnh.

“À… cậu đây rồi,” ông vui vẻ nói. “Chúng tôi đang chờ cậu. Đi thôi, tôi sẽ đưa cậu đến chỗ mọi người.”

Ông dẫn tôi đi xuôi hàng lang tới phòng giải trí, nơi tôi đã từng đến. Tôi dừng một chút để thở ra thật sâu trước khi bước vào trong.

Căn phòng thậm chí còn đẹp hơn là tôi tưởng tượng.

Ở chính giữa phòng tôi nhìn thấy cây thông khổng lồ trang hoàng dây kim tuyến, đèn màu và nhiều đồ trang trí tự làm khác. Dưới gốc cây, trải ra mọi hướng, là những món quà được gói bọc đủ mọi kích cỡ và hình dáng. Chúng được xếp thành đống cao, và bọn trẻ ngồi cạnh nhau dưới sàn nhà thành một hình bán nguyệt lớn. Chúng mặc những bộ đồ đẹp nhất, tôi đoán vậy - bọn con trai mặc quần màu xanh hải quân và áo sơ mi trắng có cổ, trong khi bọn con gái mặc váy xanh hải quân và áo dài tay. Tất cả tưởng như đã tắm rửa sạch sẽ trước sự kiện lớn, và hầu hết bọn con trai đều được cắt tóc.

Trên chiếc bàn cạnh cửa có một hũ rượu pân và những chiếc đĩa gỗ đựng bánh quy có hình cây thông Noel rắc đường. Tôi có thể thấy vài người lớn đang ngồi với bọn trẻ; mấy đứa nhỏ hơn ngồi trên đùi người lớn, gương mặt chúng chăm chú mê mải khi lắng nghe truyện “Đó là Đêm trước Giáng sinh”.

Tuy nhiên tôi không thấy Jamie, ít nhất không phải ngay lập tức. Giọng của con bé là cái tôi nhận ra đầu tiên. Con bé chính là người đang đọc truyện, và cuối cùng tôi xác định được vị trí của nó. Con bé đang quỳ trên sàn nhà trước cây thông Noel.

Thật ngạc nhiên, tối nay tôi thấy con bé thả tóc, giống như trong đêm diễn kịch. Thay vì chiếc áo len nâu cũ kỹ tôi nhìn thấy quá nhiều lần, con bé nào đó làm nổi bật cặp mắt màu xanh nhạt của nó. Thậm chí không cần những ánh lấp lánh trên tóc và chiếc đầm trắng mềm rủ dài, hình ảnh của con bé vẫn thật bắt mắt. Tôi thậm chí không hay rằng mình đã nín thở, và từ khoé mắt tôi có thể thấy ông Jenkins đang cười với mình. Tôi thở ra và mỉm cười, cố gắng lấy lại bình tĩnh.

Jamie chỉ ngừng lại một lần để nhìn lên lúc đọc truyên. Con bé nhận thấy tôi đang đứng ở ngưỡng cửa, rồi quay lại tiếp tục đọc truyện cho bọn trẻ. Con bé mất khoảng một phút nữa để đọc xong, và khi kết thúc, nó đứng dậy vuốt phẳng váy rồi đi vòng qua lũ trẻ về phía tôi. Vì không biết con bé muốn tôi đi đâu, tôi bèn đứng nguyên một chỗ.

Lúc đó ông Jenkins đã đi chỗ khác.

“Mình xin lỗi đã bắt đầu mà không có cậu,” cuối cùng con bé nói khi đến bên tôi, “nhưng bọn trẻ quá hào hứng.”

“Không sao,” tôi vừa mỉm cười vừa nghĩ con bé trông thật xinh.

“Rất vui vì cậu đã tới.”

“Mình cũng vậy.”

Jamie mỉm cười và túm lấy tay tôi dắt đi. “Đi với mình,” con bé nói. “Hãy giúp mình phát quà.”

Chúng tôi mất một tiếng sau chỉ để chia quà và quan sát từng đứa trẻ một mở quà. Jamie mua quà khắp thị trấn, chọn cho mỗi đứa trẻ trong phòng một vài thứ, những món quà chúng chưa bao giờ được nhận trước đó. Tuy nhiên, quà Jamie mua không phải là những thứ duy nhất mà bọn trẻ con nhận được - cả trại trẻ mồ côi và những người làm việc ở đó cũng đều mua một vài thứ. Những tiếng kêu ré vui thích vang lên khắp nơi lúc giấy gói quà được xé khắp phòng trong nỗi hào hứng vô kể. Ít nhất với tôi, có vẻ như tất cả bọn trẻ đều nhận được hơn hẳn những gì chúng trông đợi, và chúng cứ cảm ơn Jamie mãi.

Cuối cùng, sự háo hức giảm bớt, tất cả các món quà đã được mở, không khí bắt đầu chùng xuống. Căn phòng được ông Jenkins và người phụ nữ tôi chưa gặp bao giờ dọn dẹp gọn gàng, vài đứa nhỏ bắt đầu ngủ gục dưới cây thông. Mấy đứa lớn hơn mang quà về phòng mình, và khi đi ra cửa bọn trẻ vặn nhỏ những chiếc đèn trên đầu. Những bóng đèn màu trên cây toả thứ ánh sáng rực rỡ thần tiên trong khi bản nhạc “Đêm an lành” cất lên khe khẽ từ chiếc máy hát đặt ở nơi góc phòng. Tôi vẫn ngồi cạnh Jamie trên sàn nhà, con bé đang ôm một bé gái ngủ trong long. Vì không khí khi nãy náo nhiệt quá nên chúng tôi chưa thực sự có cơ hội nói chuyện, nói thế không có nghĩa có ai trong hai đứa bận tâm vì điều ấy. Cả hai chúng tôi đều nhìn chằm chằm vào những chiếc bóng đèn trên cây, và tôi tự hỏi Jamie đang nghĩ gì. Thực sự mà nói, tôi không biết, nhưng con bé có cái vẻ dịu dàng mong manh. Tôi nghĩ - không, tôi biết chắc - con bé vô cùng hài lòng với buổi tối nay, đó là Giáng sinh đẹp nhất mà tôi từng trải qua.

Tôi liếc nhìn con bé. Với khuôn mặt sáng rạng rỡ, con bé trông xinh đẹp hơn bất kỳ ai tôi từng gặp.

“Mình mua cho cậu một thứ,” cuối cùng tôi nói với con bé. “Ý mình là một món quà.” Tôi nói khẽ để không làm bé gái thức giấc, và hy vọng nói nhỏ sẽ giấu được sự hồi hộp trong giọng tôi.

Con bé rồi mắt khỏi cây thông và quay lại đối diện với tôi, mìm cười dịu dàng. “Cậu không phải làm vậy đâu.” Con bé cũng nói thật khẽ, nghe gần như là nhạc vậy.

“Mình biết,” tôi biết. “Nhưng mình muốn vậy.” Tôi với lấy món quà đã để bên cạnh lúc trước và đưa món quà được gói cẩn thận cho con bé.

“Cậu mở hộ mình được không? Mình chẳng còn tay nào cả.” Cô bé nhìn xuống bé gái rồi quay lại nhìn tôi.

“Nếu không muốn, cậu không phải mở nó bây giờ đâu,” tôi nhún vai nói, “thực sự không phải là chuyện quan trọng mà.”

“Đừng ngốc nghếch thế,” con bé nói. “Mình sẽ chỉ mở nó trước mặt cậu.”

Để tâm trí mình sáng suốt, tôi nhìn món quà và bắt đầu mở, bóc băng dính để không phát ra tiếng ồn, rồi mở lớp giấy gói cho đến khi lộ ra cái hộp. Sau khi bỏ giấy gói sang một bên, tôi nhấc nắp hộp và lôi chiếc áo len ra, giờ lên cho con bé thấy. Nó màu nâu giống như những chiếc áo mà con bé thường mặc. Nhưng tôi đoán rằng con bé có thể mặc một chiếc áo mới.

So với niềm vui vừa thấy trước đó, tôi không hy vọng nhiều lắm.

“Thấy không, chỉ có vậy thôi. Mình đã nói không có gì nhiều mà,” tôi nói. Hi vọng con bé không thất vọng về món quà.

“Landon, đẹp quá,” con bé nói nghiêm túc. “Lần tới gặp cậu, mình sẽ mặc nó. Cảm ơn cậu.”

Chúng tôi ngồi im lặng một lúc, và tôi lại bắt đầu nhìn những bóng đèn màu.

“Mình cũng mang cho cậu một thứ,” cuối cùng Jamie thì thầm. Con bé nhìn về phía cái cây, và mắt tôi dõi theo ánh nhìn của nó. Món quà của con bé vẫn còn ở dưới gốc cây, một phần bị che khuất bởi thân cây, và tôi với lấy. Nó hình chữ nhật, mềm, hơi nặng. Tôi để gói quà lên đùi và giữ ở đó, thậm chí không thử mở ra.

“Mở ra đi,” con bé nhìn thẳng vào tôi và nói.

“Cậu không thể tặng mình cái này được,” tôi nín thở nói, Tôi biết cái gì ở trong rồi, và tôi không tin nổi con bé lại làm vậy. Taytôi bắt đầu run rẩy.

“Xin cậu,” con bé nói với tôi bằng giọng nói mềm mại nhất tôi từng được nghe, “hãy mở nó đi. Mình muốn cậu có nó.”

Ngại ngần, tôi chậm rãi mở gói quà. Cuối cùng khi không còn giấy gói, tôi nhẹ nhàng cầm món quà lên, sợ làm hỏng. Tôi nhìn chằm chằm như bị thôi miên rồi chậm rãi vuốt phần trên, lướt những ngón tay trên lớp da sờn rách trong lúc nước mắt dâng đầy mắt tôi, Jamie với tay sang rồi để lên tay tôi. Tay con bé ẩm và mềm.

Tôi liếc con bé, không biết nói gì.

Jamie tặng tôi cuốn Kinh thánh của mình.

“Cảm ơn vì những gì cậu đã làm, “con bé thì thầm với tôi. “Đây là Giáng sinh đẹp nhất mình từng có.”

Tôi quay đi mà không trả lời và với tay lấy ly rượu bên cạnh. Giai điệu của bài “Đêm an lành” vẫn đang ngâm nga, âm nhạc tràn đầy căn phòng. Tôi hớp một ngụm rượu, cố gắng tràn đầy căn phòng. Tôi hớp một ngụm rượu, cố gắng làm dịu sự khô khốc đột ngột trong cổ họng. Vừa uống, đầu tôi vừa tràn ngập ký ức về tất cả những lần ở bên Jamie. Tôi nghĩ về buổi vũ hội đầu năm học và những gì con bé làm cho tôi đêm đó. Tôi nghĩ về vở kịch và con bé giống một thiên thần như thế nào. Tôi nghĩ đến những lần tôi đưa con bé về nhà và giúp thu gom đám hộp lọ đầy những đồng một xu cho bọn trẻ mồ côi ra sao.

Trong lúc những hành ảnh này chạy trong đầu tôi, tôi bỗng nín thở. Tôi nhìn Jamie, rồi nhìn lên trần nhà và xung quanh phòng, cố gắng hết sức để giữ bình tĩnh, rồi quay lại nhìn Jamie. Con bé mỉm cười với tôi và tôi mỉm cười với con bé, và tất cả những gì tôi có thể làm là tự hỏi làm thế nào tôi lại phải lòng một đứa con gái như Jamie Sullivan.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2011 16:12:13 | Chỉ xem của tác giả
Chương 10

Đêm hôm đó tôi lái xe đưa Jamie từ trại trẻ mồ côi về nhà. Thoạt tiên, tôi không chắc liệu có nên giả vờ vươn vai ngáp rồi choàng tay qua vai con bé hay không, nhưng thú thật, tôi không biết chính xác con bé cảm thấy thế nào về mình. Đúng là con bé đã tặng tôi món quà tuyệt vời nhất tôi từng được nhận, mặc dù tôi có thể chẳng bao giờ mở ra đọc như con bé, tôi biết điều đó giống như cho đi một phần bản thân mình. Nhưng Jamie là kiểu người sẽ cho một người xa lạ mà con bé gặp đang đi bộ trên phố một quả thận, nếu anh ta thực sự cần nó. Vì vậy, tôi không thực sự chắc nên hiểu hành động đó thế nào.

Jamie từng nói nó không phải là đứa tối dạ, và cuối cùng tôi cũng đi đến kết luận rằng con bé không hề tối dạ. Có thể chỉ là… ừm, khác biệt… nhưng con bé biết những gì tôi đã làm cho bọn trẻ mồ côi, nghĩ lại thì có khi con bé còn biết ngay lúc chúng tôi ngồi trên sàn phòng khách nhà nó. Khi con bé thốt lên về một điều kỳ diệu, tôi đoán cụ thể là con bé đang nói về tôi.

Tôi nhớ Hegbert đã bước vào phòng lúc Jamie và tôi đang bàn về số tiền quyên góp được, nhưng ông thật sự không có nhiều điều để nói. Gần đây, ông già Hegbert không còn là chính mình nữa, ít nhất là theo những gì tôi nhận ra. Ồ, những bài giảng đạo của ông vẫn về vấn đề tiền bạc, và ông vẫn nói về những kẻ tà dâm, và thỉnh thoảng ông ngừng lại ngay giữa chừng, một vẻ kì lạ xâm chiếm lấy ông, kiểu như ông đang suy nghĩ về một điều gì khác, một điều gì đó buồn bã.

Tôi không biết phải hiểu vẻ mặt ấy như thế nào, vì tôi không biết ông rõ đến vậy. Và khi nói về ông, Jamie dường như đang miêu tả một ai đó hoàn toàn khác. Với tôi, hình dung Hegbert với khiếu hài hước còn khó hơn hình dung có hai mặt trăng trên bầu trời.

Quay lại câu chuyện, ông vào phòng trong lúc bọn tôi đang đếm tiền, Jamie đứng lên, mắt rơm rớm, và Hegbert thậm chí còn có vẻ không nhận thấy tôi ở đó. Ông nói rằng ông tự hào về con bé và rằng ông yêu nó, nhưng rồi lại quay trở lại bếp để tiếp tục viết bài giảng đạo của mình. Thậm chí ông còn chẳng chào hỏi gì. Tôi biết mình không phải là đứa trẻ sùng đạo nhất trong giáo đoàn, nhưng tôi vẫn nhận thấy hành động của ông có phần kỳ cục.

Trong lúc nghĩ về Hegbert, tôi liếc qua Jamie đang ngồi cạnh. Con bé nhìn ra ngoài cửa sổ, nét mặt bình yên, có vẻ như đang cười, nhưng đồng thời cũng rất xa xôi. Tôi mỉm cười. Có thể con bé đang nghĩ về tôi. Tôi bắt đầu nhích tay sang ghế con bé, nhưng trước khi tôi với tới, Jamie đã phá vỡ sự im lặng.

“Landon này”, cuối cùng con bé hỏi khi quay về phía tôi, “cậu có bao giờ nghĩ về Chúa không?”

Tôi rụt tay lại.

Khi nghĩ về Chúa, tôi thường hình dung Người giống như những bức tranh cũ kỹ tôi thấy trong các nhà thờ - một người khổng lồ bay lượn trên một vùng phong cảnh, mặc áo dài trắng, mái tóc dài xõa ra, ngón tay chỉ trỏ hay làm gì đó tương tự - nhưng tôi biết con bé không nói về điều đó. Con bé đang nói về kế hoạch của Chúa. Mất một lúc tôi mới trả lời.

“Có chứ”, tôi nói. “Cũng thỉnh thoảng.”

“Có bao giờ cậu hỏi tại sao mọi chuyện xảy lại xảy ra theo cách mà chúng xảy ra không?”

Tôi ngập ngừng lắc đầu.

“Gần đây mình nghĩ rất nhiều về điều đó.”

Thậm chí còn nhiều hơn thường lệ ư? Tôi rất muốn hỏi, nhưng đã không hỏi. Tôi biết con bé còn muốn nói tiếp, và tôi giữ im lặng.

“Mình biết Chúa có kế hoạch cho tất cả chúng ta, nhưng đôi lúc, mình chỉ không hiểu thông điệp có thể là gì. Điều đó đã bao giờ xảy ra với cậu chưa?”

Con bé nói như thể tôi nghĩ đến chuyện này suốt ngày vậy.

“Ừ”, tôi nói, cố gắng để giả bộ, “mình không nghĩ lúc nào chúng ta cũng phải hiểu. Mình cho rằng đôi lúc chúng ta chỉ cần có niềm tin thôi.’

Tôi thừa nhận đó là một câu trả lời rất hay. Tôi đoán tình cảm dành cho Jamie khiến não của tôi hoạt động nhanh hơn thường lệ. Tôi có thể thấy con bé đang nghĩ về câu trả lời của tôi.

“Ừ”, cuối cùng con bé nói, “cậu đúng”.

Tôi cười một mình và thay đổi chủ đề, bởi vì nói về Chúa không phải thứ khiến ai đó cảm thấy lãng mạn.

“Cậu biết đấy,” tôi nói một cách tự nhiên, “lúc trước, khi chúng ta ngồi dưới gốc cây thông, thực sự là một buổi tối rất đẹp.”

“Ừ, rất đẹp,” con bé nói. Tâm trí nó vẫn còn ở đâu đâu.

“Và trông cậu rất đẹp nữa.”

“Cám ơn cậu.”

Cách này có vẻ không hiệu quả lắm.

“Mình hỏi cậu một câu được không?” cuối cùng tôi nói, hy vọng đưa con bé trở lại với tôi.

“Được chứ,” con bé nói.

Tôi hít một hơi thật sâu.

“Sau buổi lễ ở nhà thờ ngày mai, và, ừm… sau khi cậu dành đôi chút thời gian bên bố cậu… ý mình là…” tôi ngừng lại và nhìn con bé. “Cậu có muốn qua nhà mình ăn bữa tối Giáng sinh không?”

Mặc dù con bé vẫn quay mặt về phía cửa sổ, tôi có thể thấy những dấu hiệu mong manh của một nụ cười khi tôi nói điều đó.

“Có chứ Landon, mình rất muốn.”

Tôi thở phào, không dám tin là đã thực sự mời con bé và vẫn tự hỏi toàn bộ chuyện này đã xảy ra như thế nào. Tôi lái xe dọc các con phố, nơi những khung cửa kính trưng bày được trang hoàng đèn Giáng sinh, rồi băng qua quảng trường thị trấn Beaufort. Vài phút sau tôi vươn tay qua ghế con bé, rồi cuối cùng nắm tay nó, và để buổi tối hoàn hào được trọn vẹn, con bé không rút tay ra.


Chúng tôi dừng xe trước nhà con bé, đèn trong phòng khách còn sáng và tôi có thể nhìn thấy Hegbert đằng sau tấm rèm. Tôi cho rằng ông đang thức đợi bởi muốn nghe kể về buổi tối ở trại trẻ mồ côi. Hoặc là vì thế, hoặc là bởi ông muốn đảm bảo tôi không hôn con gái ông ở bậc cửa. Tôi biết ông sẽ cau mày vì những thứ đại loại như vậy.

Tôi đang nghĩ về điều đó – ý tôi là, nên làm gì khi cuối cùng hai đứa nói tạm biệt – lúc chúng tôi ra khỏi xe và bắt đầu đi về phía cửa nhà. Jamie yên lặng và mãn nguyện, và tôi nghĩ con bé vui vì tôi mời con bé qua nhà vào ngày hôm sau. Bởi con bé đủ thông minh để đoán ra những gì tôi làm cho đám trẻ mồ côi, tôi cho rằng có thể con bé cũng đủ thông minh để hình dung ra tình huống trong dịp vũ hội đầu năm học nữa. Tôi nghĩ thậm chí con bé cũng nhận ra rằng đây là lần đầu tiên tôi thực lòng muốn mời con bé tham gia cùng.

Ngay khi chúng tôi tới bậc cửa, tôi trông thấy  Hegbert hé nhìn từ sau tấm rèm rồi rụt lại. Với một vài bậc cha mẹ, như cha mẹ Angela chẳng hạn, điều đó có nghĩa họ biết bạn đã về nhà và bạn có một phút hoặc hơn trước khi họ mở cửa. Thường thì hai bạn có đủ thời gian đại loại để nhìn vào mắt nhau trong khi một trong hai lấy hết cam đảm để hôn thật sự. Thường thì chỉ mất chừng ấy thời gian thôi.

Lúc đó tôi không biết liệu Jamie có muốn hôn tôi hay không; thực ra, tôi ngờ rằng con bé sẽ không làm như thế. Nhưng vì con bé trông thật đáng yêu như thế, với mái tóc xõa xuống và mọi thứ, và sau tất cả những gì đã xảy ra tối nay, tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội nếu nó đến. Khi tôi cảm thấy ruột gan đã bắt đầu có đôi chút nhộn nhạo thì Hegbert nở của.

“Bố nghe thấy con về,” ông nói nhanh. Nước da ông vẫn tái xám như thường lệ, nhưng ông có vẻ mệt mỏi.

“Chào Cha Sullivan,” tôi chán ngán nói.

“Chào bố,” một giây sau Jamie vui vẻ nói. “Con ước gì tối nay bố đến được. Thật là tuyệt vời.”

“Bố rất mừng cho con.” Rồi có vẻ như ông trấn tĩnh lại và hắng giọng. “Bố cho con một lúc để chào bạn. Bố để cửa cho con.”

Ông quay lại và đi vào trong phòng khách. Từ chỗ ông ngồi, tôi biết ông vẫn có thể nhìn thấy chúng tôi. Ông giả bộ đang đọc, mặc dù tôi không nhìn ra ông đang cầm cuốn gì.

“Landon à, tối nay mình rất vui,” Jamie nói.

“Mình cũng vậy,” tôi trả lời, cảm thấy mắt Hegbert đang nhìn tôi. Tôi tự hỏi liệu ông có biết tôi đã nắm tay con bé suốt quãng thời gian lái xe về nhà.

“Ngày mai mình đến lúc mấy giờ được nhỉ?” Con bé hỏi.

Lông mày Hegbert rướn lên một chút.

“Mình sẽ tới đón cậu. Năm giờ có được không?”

Con bé ngoảnh lại. “Bố, ngày mai con tới thăm Landon và bố mẹ bận ấy có được không ạ?”

Hegbert đưa tay dịu mắt. Ông thở dài.

“Nếu con thấy quan trọng thì cứ đi,” ông nói.

Không phải sự ủng hộ nhiệt tình nhất tôi từng được nghe, nhưng với tôi thế là đủ.

“Mình mang gì tới được nhỉ? Con bé hỏi. Ở miền Nam, câu hỏi đó là một truyền thống.

“Cậu không cần phải mang gì đâu,” tôi trả lời. “Năm giờ kém mười lăm mình sẽ tới đón cậu”.

Chúng tôi đứng đó một lúc mà không nói gì, và tôi biết Hegbert đang trở nên thiếu kiên nhẫn hơn một chút. Kể từ lúc chúng tôi đứng đó, ông không lật một trang sách nào.

“Hẹn mai gặp lại nhé,” cuối cùng con bé nói.

“OK,” tôi nói.

Con bé liếc xuống dưới chân một lúc, rồi ngước lên nhìn tôi. “Cám ơn cậu đã đưa mình về nhà,” con bé nói.

Nói xong, con bé quay người bước vào trong. Tôi thoáng thấy một nụ cười thoảng trên môi con bé lúc nó hé nhìn qua cánh cửa ngay khi cửa chuẩn bị khép lại. Ngày hôm sau đúng giờ hẹn, tôi đến đón con bé và vui mừng thấy tóc nó lại thả xuống. Như đã hứa, con bé mặc chiếc áo len tôi tặng.

Cả mẹ và bố tôi đều hơi ngạc nhiên khi tôi hỏi liệu tôi mời Jamie tới ăn tối có được không. Chẳng phải là chuyện gì to tát – bất cứ khi nào bố ở nhà, mẹ tôi cũng dặn Helen, chị bếp của chúng tôi, làm đủ thức ăn cho cả tá người.

Hình như tôi chưa đề cập đến chuyện này trước đây, ý tôi là chuyện về chị bếp ấy. Chúng tôi có chị giúp việc và chị bếp, không chỉ bởi vì gia đình tôi có tiền, mà còn bởi mẹ tôi không phải là người nội trợ vĩ đại nhất thế giới. Thỉnh thoảng làm bánh mỳ kẹp cho bữa trưa của tôi thì không sao, nhưng đã có rất nhiều lần mù tạt làm hỏng móng tay của bà, và bà sẽ mất ít nhất ba hay bốn ngày để trở lại bình thường. Không có Helen tôi hẳn phải lớn lên mà chỉ ăn khoai tây nghiền cháy và bít tết giòn tan. May mắn thay, bố tôi nhận ra điều này ngay khi hai người cưới nhau, và cả chị giúp việc lẫn chị bếp đều đã làm việc cho chúng tôi từ khi tôi ra đời.



Mặc dù nhà tôi lớn hơn hầu hết các nhà khác nhưng nó cũng không phải cung điện hay gì cả, chị giúp việc và chị bếp đều không sống cùng vì chúng tôi không có khu vực sinh hoạt riêng biệt hay bất cứ cái gì giống như thế. Bố tôi mua ngôi nhà này vì giá trị lịch sử của nó. Mặc dù không phải là nơi tên cướp Râu Đen từng sống, được thế thì với một ai đó giống như tôi hẳn sẽ thú vị hơn, ngôi nhà lại từng thuộc sở hữu của Richard Dobbs Spaight, người đã ký bản Hiến pháp. Trước kia Spaight cũng có một trang trại bên ngoài New Bern, khoảng bốn mươi dặm đi ngược con đường, đó cũng là nơi ông được chôn cất. Ngôi nhà của chúng tôi hẳn là không nổi tiếng như nơi Spaight an nghỉ, nhưng nó cho bố tôi quyền khoe khoang trong các hành lang Quốc hội, và mỗi lần ông đi dạo trong vườn, tôi lại thấy ông đang mơ màng về di sản ông muốn để lại.

Theo một cách nào đó, điều ấy khiến tôi buồn bởi dù có làm gì đi chăng nữa, ông cũng chẳng bao giờ vượt được Richard Dobbs Spaight già nua. Những sự kiện lịch sử như phê chuẩn Hiến pháp chỉ vài trăm năm mới xảy ra một lần, và tranh luận về trợ cấp trang trại cho những nông dân trồng thuốc lá hay bàn về “Ảnh hưởng đỏ” sẽ chẳng bao giờ làm nên chuyện, cho dù bạn miêu tả những vấn đề ấy thế nào đi chăng nữa. Thậm chí người như tôi cũng biết điều đó.

Lúc đó ngôi nhà là Di tích Lịch sử Quốc gia – và giờ vẫn còn nằm trong danh sách ấy, tôi đoán vậy – và mặc dù Jamie từng đến đó một lần, con bé vẫn có phần kinh ngạc khi bước vào trong. Bố mẹ tôi, cũng như tôi, đều ăn vận rất đẹp, và mẹ tôi hôn lên má Jamie. Khi nhìn bà làm thế, tôi không thế không nghĩ rằng bà đã ghi điểm trước cả tôi.

Chúng tôi ăn rất ngon, bữa tối tương đối trang trọng với bốn món chính, tuy nhiên không hề buồn tẻ hay bất cứ điều gì tương tự. Bố mẹ tôi và Jamie nói chuyện vô cùng hợp – nếu có cả cô Garber ở đây thì sao nhỉ - và dù tôi cố gắng xem khả năng hài hước trứ danh của mình vào nhưng không được tán thưởng cho lắm, ít nhất là với bố mẹ tôi. Tuy nhiên, Jamie cười, và tôi xem điều đó như một tín hiệu tốt.

Sau bữa tối, dù đang là mùa đông và chẳng có gì ra hoa hết, tôi mời Jamie đi dạo trong vườn. Sau khi mặc áo khoác vào, chúng tôi bước ra ngoài không khí mùa đông lạnh giá. Tôi có thể thấy hơi thở của chúng tôi phả ra thành những luồng hơi nhỏ.

“Bố mẹ cậu thật tuyệt vời,” con bé nói. Tôi đoán nó không thực sự coi trọng những bài thuyết giáo của Hegbert.

“Họ rất dễ thương,” tôi đáp lại, “theo cách riêng của họ. Mẹ mình đặc biệt ngọt ngào.” Tôi nói điều này không chỉ bởi đó là sự thật, mà còn vì đó cũng là điều mà bọn trẻ đã nói về Jamie. Tôi hy vọng con bé đoán được ẩn ý này.

Con bé dừng lại ngắm những bụi hồng. Chúng giống như những cái que xương xẩu, và tôi không hiểu ở đó có gì làm con bé thích thú.

“Có thật ông nội cậu như thế không?” con bé hỏi tôi. “Chuyện mà người ta đồn ấy?”

Tôi cho rằng con bé không hiểu những lời bóng gió của tôi.

“Ừ,” tôi nói, cố gắng không thể hiện nỗi thất vọng của mình.

“Buồn thật,” con bé nói đơn giản. “Cuộc sống có nhiều thứ quan trọng hơn là tiền bạc.”

“Mình biết.”

Con bé nhìn tôi. “Cậu biết sao?”

Tôi không nhìn vào mắt con bé khi trả lời. Đừng hỏi tôi tại sao.

“Mình biết những gì ông mình đã làm là sai.”

“Nhưng cậu không muốn trả lại, đúng không?”

“Nói thật với cậu, mình chưa bao giờ thực sự nghĩ về điều đó.”

“Nhưng cậu sẽ làm thế nào chứ?”

Tôi không trả lời ngay lập tức, và Jamie quay đi. Con bé lại nhìn chằm chằm vào những bụi hồng với những cái que xương xẩu, và tôi chợt nhận ra con bé đã muốn tôi trả lời là có. Đó chính là điều con bé hẳn sẽ làm mà không cần phải nghĩ đến lần thứ hai.

“Tại sao cậu làm thế?” máu dồn lên mặt, tôi thốt ra trước khi có thể ngăn bản thân mình lại. “Ý mình là, khiến mình cảm thấy tội lỗi. Mình không phải là người làm việc đó. Mình chỉ tình cờ được sinh ra trong gia đình này thôi.”

Con bé với tay chạm vào một nhành cây.

“Điều đó không có nghĩa cậu không thể làm lại khi cậu có cơ hội,” con bé nói nhẹ nhàng.

Thậm chí với tôi, quan điểm của con bé rất rõ ràng, và tận đáy lòng tôi biết nó đúng. Nhưng quyết định đó, nếu có đến, thì cũng còn xa lắm. Tôi cho rằng mình còn nhiều điều quan trọng hơn để bận tâm. Tôi đưa chủ đề quay lại với những gì tôi thấy gần gũi hơn.

“Bố cậu có thích mình không?” tôi hỏi. Tôi rất muốn biết liệu Hegbert có cho phép tôi gặp lại con bé không.

Mất một lúc con bé mới trả lời.

“Bố,” con bé nói chậm rãi, “lo lắng cho mình.”

“Không phải tất cả các ông bố bà mẹ đều thế sao?” tôi hỏi.

Con bé nhìn xuống chân, rồi lại nhìn sang bên trước khi quay về phía tôi.

“Mình nghĩ ông khác với hầu hết mọi người. Nhưng bố mình thực sự quý cậu, và ông biết rằng gặp cậu khiến mình vui. Vậy nên ông mới cho phép mình tới nhà cậu ăn tối nay.”

“Mình vui vì ông làm thế,” tôi nói thực lòng.

“Mình cũng vậy.”

Chúng tôi nhìn nhau dưới ánh sáng của mảnh trăng lưỡi liềm đang tròn dần, và tôi suýt hôn con bé, nhưng con bé quay đi hơi quá sớm rồi nói một câu khiến tôi giật mình.

“Bố mình cũng lo lắng về cậu nữa, Landon ạ.”

Cái cách con bé nói điều đó – vừa nhẹ nhàng vừa buồn bã – khiến tôi biết rằng không đơn giản vì bố nó nghĩ tôi là người vô trách nhiệm, từng trốn sau những cái cây mà réo tên ông ấy, hay thậm chí là người nhà Carter.

“Tại sao?” tôi hỏi.

“Cùng một lý do khiến mình lo lắng,” con bé đáp. Con bé không nói thêm nữa, và ngay lúc ấy tôi biết con bé đang giữ lại điều gì đó, điều nó không thể nói với tôi, điều khiến nó buồn. Nhưng mãi sau này tôi mới biết được bí mật của con bé.

Không nghi ngờ gì nữa, yêu một đứa con gái như Jamie Sullivan là điều lạ lùng nhất mà tôi từng trải qua. Không chỉ vì con bé là đứa con gái tôi chưa bao giờ nghĩ tới trước đó -  mặc dù chúng tôi lớn lên cùng nhau – mà còn vì cái cách tôi bộc lộ những tình cảm của mình dành cho con bé thật khác. Lần này không giống với việc hẹn hò Angela, tôi đã hôn cô nàng ngay lần đầu tiên hai đứa ở một mình với nhau. Tôi vẫn chưa hôn Jamie. Tôi còn chưa ôm hay đưa con bé đến quán Cecil’s hay thậm chí là đi xem phim. Tôi chưa làm bất cứ điều gì mà tôi thường làm với bọn con gái, tuy nhiên theo một cách nào đó, tôi đang yêu.

Vấn đề là, tôi vẫn không biết con bé cảm thấy thế nào về tôi.

Ôi chắc chắn rồi, có một vài dấu hiệu, tôi không quên đâu. Cuốn Kinh thánh là một dấu hiệu rất quan trọng, tất nhiên rồi, nhưng còn là cái cách con bé nhìn tôi khi đóng cửa vào đêm Giáng sinh, rồi cái cách con bé để tôi cầm tay trên đường từ trại trẻ mồ côi về nhà. Tôi nghĩ chắc chắn có điều gì đó – chỉ là tôi không chắc làm thế nào để tiến đến bước tiếp theo.

Cuối cùng, khi  tôi đưa con bé về nhà sau bữa tối Giáng sinh, tôi hỏi liệu thỉnh thoảng tôi ghé qua có được không, và con bé nói cũng được. Con bé đã nói y sì như thế đây – “Cũng được mà.” Tôi không suy diễn sự thiếu nhiệt tình ấy – Jamie có xu hướng nói chuyện giống như người lớn, và tôi nghĩ đó chính là lý do vì sao con bé hợp với những người lớn tuổi đến vậy.

Ngày hôm sau tôi đi bộ đến nhà con bé, và điều đầu tiên tôi nhận thấy là xe ô tô của Hegbert không có mặt trên lối vào. Khi con bé ra mở của, tôi biết tôi không cần hỏi con bé liệu mình có thể vào nhà được chăng.

“Chào Landon,” con bé nói như thường lệ, cứ như thế thật ngạc nhiên khi gặp tôi. Tóc con bé lại thả xuống, và tôi coi điều này như một dấu hiện tích cực.

“Chào Jamie,” tôi nói một cách tự nhiên.

Con bé ra hiệu về phía những chiếc ghế. “Bố mình không có nhà, nhưng chúng ta có thể ngồi ngoài hiên nếu cậu muốn…”

Thậm chí đừng hỏi tôi chuyện đó xảy ra như thế nào, bởi tôi vẫn không thể giải thích được. Một giây trước tôi vẫn đang đứng ngay trước mặt con bé, chuẩn bị đi ra mái hiên, một giây sau đã không còn thế nữa. Thay vì đi về phía những chiếc ghế, tôi bước một bước gần hơn về phía con bé và thấy mình đang tìm tay con bé. Tôi nhìn thẳng vào mắt con bé, nắm tay nó trong tay tôi, lại gần hơn một chút nữa. Con bé không hẳn lùi lại, nhưng mắt nó mở to hơn một chút, và trong một thoáng tôi nghĩ mình đã làm sai và cân nhắc xem có nên tiến xa hơn. Tôi ngừng lại, mỉm cười, hơi nghiêng đầu sang bên, rồi tôi thấy con bé nhắm mắt và cũng nghiêng đầu, mặt chúng tôi dưa sát lại nhau.

Không lâu đến vậy, và chắc chắn không phải là kiểu nụ hôn mà bạn thấy trong các bộ phim ngày nay, nhưng nó tuyệt vời theo cách rất riêng, và tất cả những gì tôi nhớ được về phút giây ấy chính là khi môi chúng tôi lần đầu chạm vào nhau, tôi biết ký ức đó sẽ còn mãi mãi

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2011 16:13:39 | Chỉ xem của tác giả

Chương 11

“Cậu là người con trai đầu tiên mình hôn,” nàng nói với tôi.

Chỉ còn vài ngày nữa là sang năm mới, Jamie và tôi đang đứng ở cầu tàu Iron Steamer trên bờ biển Pine Knoll. Để tới đó, chúng tôi phải vượt cây cầu bắc qua con nước Coastal và chạy xe một đoạn ven hòn đảo. Ngày nay, ở đó có một vài căn nhà hướng ra biển thuộc hàng đắt đỏ nhất bang, nhưng hồi ấy chủ yếu là những đụn cát náu mình vào Rừng Quốc gia Maritime.

“Mình cũng đoán vậy,” tôi nói.

“Tại sao?” nàng ngây thơ hỏi. “Mình làm sai à?”

Nàng trông có vẻ sẽ không quá buồn nếu tôi có bảo đúng đi chăng nữa, nhưng như thế sẽ là nói dối.

“Cậu hôn rất tuyệt,” tôi nói, bóp nhẹ tay nàng.

Nàng gật đầu và quay mặt về phía đại dương, mắt nàng lại mang cái vẻ xa vắng đó. Gần đây, nàng hay làm vậy. Tôi để như thế một lúc đến khi không thể chịu được sự im lặng lâu hơn nữa.

“Jamie, cậu không sao chứ?” cuối cùng tôi hỏi.

Thay vì trả lời, nàng đổi chủ đề.

“Cậu đã bao giờ yêu chưa?” nàng hỏi.

Tôi lùa tay vào trong tóc và nhìn nàng vẻ vờ vĩnh. “Ý cậu là trước đây ấy à?”

Tôi nói chẳng khác nào tài tử James Dean, Eric mách tôi trả lời vậy nếu có đứa con gái nào hỏi thế. Eric khá là khéo léo với bọn con gái.

“Landon, mình nghiêm túc đấy,” nàng nói, ném cho tôi cái liếc mắt sắc lẻm.

Tôi đoán Jamie cũng xem những bộ phim đó rồi. Tôi nhận ra, với Jamie, có vẻ như tôi luôn từ thiên đường rơi xuống đất rồi quay trở lại trong khoảng thời gian không đủ để đập một con muỗi. Tôi không chắc mình có thích khía cạnh đó trong mối quan hệ của chúng tôi, mặc dù thành thật mà nói, nó khiến tôi lâng lâng. Tôi vẫn cảm thấy mất thăng bằng trong khi nghĩ về câu hỏi của nàng.

“Thực ra, mình đã từng,” cuối cùng tôi nói.

Mắt nàng vẫn nhìn về phía đại dương. Hẳn nàng cho rằng tôi đang nói về Angela, nhưng nghĩ lại, tôi nhận ra những cảm nhận về Angela hoàn toàn khác với những gì tôi cảm thấy lúc này.

“Làm thế nào cậu biết được đó là tình yêu?” nàng hỏi.

Tôi quan sát cơn gió nhẹ làm tóc nàng bay bay, và biết rằng giờ không phải lúc để giả vờ là một con người khác với bản thân mình.

“Chà,” tôi nói nghiêm túc, “cậu biết đó là yêu khi tất cả những gì cậu muốn làm là ở bên người đó, và cậu phần nào biết rằng người kia cũng cảm thấy y như vậy.”

Jamie nghĩ về câu trả lời của tôi trước khi khẽ mỉm cười.

“Mình hiểu,” nàng nhẹ nhàng đáp. Tôi chờ nàng nói thêm, nhưng nàng không nói gì nữa, và tôi chợt nhận ra một điều khác.

Jamie có thể chưa từng có kinh nghiệm với bọn con trai, nhưng thành thật mà nói, nàng đang chơi tôi giống như một cây đàn hạc vậy.

Chẳng hạn như, trong suốt hai ngày tiếp theo, nàng lại búi tóc lên.


Đêm Giao thừa, tôi đưa Jamie ra ngoài ăn tối. Chúng tôi tới một nhà hàng nhỏ trông ra vịnh ở thành phố Morehead, một nơi gọi là Flauvin’s, và đó là buổi hẹn hò thực sự đầu tiên của nàng. Flauvin’s là kiểu nhà hàng với khăn trải bàn, nến và năm dụng cụ bằng bạc khác nhau cho mỗi thực khách. Phục vụ mặc đồ trắng và đen, giống như những quản gia, và khi nhìn ra ngoài những cửa sổ khổng lồ nối kín bức tường, bạn có thể ngắm ánh trăng phản chiếu trên mặt nước đang khẽ lay động.

Còn có người chơi piano và ca sĩ nữa, không phải tối nào cũng có, hay thậm chí mọi cuối tuần, mà chỉ vào các ngày lễ khi họ nghĩ rằng nhà hàng sẽ kín chỗ. Tôi phải đặt chỗ trước, lần đầu tiên tôi gọi, họ nói rằng người ta đã đặt hết chỗ rồi, nhưng khi nhờ mẹ tôi gọi thì bạn biết rồi đấy, xuôi chèo mát mái ngay. Tôi đoán chủ nhà hàng cần sự giúp đỡ của bố tôi hay sao đó, hoặc cũng có thể ông ta chỉ không muốn bố tôi giận dữ vì ông ta biết rằng ông nội tôi vẫn còn sống.

Thực ra đưa Jamie tới một nơi đặc biệt là ý tưởng của mẹ tôi. Vài ngày trước đó, một trong những ngày mà Jamie búi tóc, tôi nói với mẹ về những điều mình đang trải qua.

“Mẹ, con chỉ nghĩ về cô ấy thôi,” tôi thú nhận. “Ý con là, con biết cô ấy thích con, nhưng con không biết cô ấy có cảm thấy những gì con cảm thấy không.”

“Con bé có ý nghĩa với con nhiều vậy sao?” mẹ tôi hỏi.

“Vâng,” tôi nói khẽ.

“Chà, cho đến giờ thì con đã làm những gì rồi?”

“Ý mẹ là sao?”

Mẹ tôi mỉm cười. “Ý mẹ là những cô gái trẻ, kể cả Jamie nữa, đều thích được cảm thấy thật đặc biệt.”

Tôi nghĩ về điều đó một lúc, cảm thấy hơi bối rối. Đó không phải là những gì tôi đang cố gắng làm sao?

“Ừm, con tới nhà thăm cô ấy mỗi ngày,” tôi nói.

Mẹ đặt tay lên đầu gối tôi. Như tôi đã nói, mặc dù không phải bà nội trợ vĩ đại và đôi khi còn rất khắt khe với tôi nhưng mẹ tôi thực sự là một phụ nữ ngọt ngào.

“Tới nhà thăm cũng dễ thương đấy, nhưng không phải là điều lãng mạn nhất. Con nên làm gì đó thực sự giúp con bé biết con cảm thấy thế nào về con bé.”

Mẹ tôi đề nghị mua nước hoa, và mặc dù tôi biết Jamie có thể sẽ vui khi nhận, nước hoa có vẻ không phù hợp với nàng. Trước tiên là vì Hegbert không cho phép nàng trang điểm – chỉ một ngoại lệ duy nhất hồi diễn kịch Giáng sinh – tôi chắc rằng nàng không thể dùng nước hoa. Tôi nói với mẹ như thế, và đó là lúc bà gợi ý tôi nên mời Jamie ra ngoài ăn tối.

“Con không còn tiền,” tôi chán nản nói với mẹ.

Mặc dù gia đình giàu có và cho tôi tiền tiêu vặt, bố mẹ tôi không bao giờ cho thêm nếu tôi tiêu hết số tiền quá nhanh. “Làm vậy con mới có trách nhiệm,” bố tôi từng giải thích như thế.

“Chuyện gì đã xảy ra với số tiền của con trong ngân hàng?”

Tôi thở dài, và mẹ ngồi im lặng trong lúc tôi giải thích những gì đã làm. Khi tôi nói xong, mặt bà thoáng vẻ hài lòng lặng lẽ, như thể bà cũng biết cuối cùng thì tôi cũng đang trưởng thành.

“Hãy để mẹ lo chuyện đó,” bà nói nhẹ nhàng. “Con chỉ phải tìm hiểu xem con bé có muốn đi không và liệu Cha Sullivan có cho phép. Nếu con bé đi được, chúng ta sẽ tìm ra cách biến điều này thành hiện thực. Mẹ hứa.”


Hôm sau tôi tới nhà thờ. Tôi biết Hegbert sẽ có mặt trong văn phòng của ông. Tôi chưa hỏi Jamie vì biết nàng cần sự cho phép của bố, và không hiểu sao tôi muốn là người xin phép. Tôi đoán có lẽ là bởi Hegbert không hề dang tay chào đón khi tôi tới thăm. Cứ khi nào thấy tôi trên lối vào nhà – cũng như Jamie, ông có giác quan thứ sáu trong chuyện này – ông lại hé nhìn qua rèm cửa rồi nhanh chóng rụt đầu lại, cho rằng tôi không thấy ông. Khi tôi gõ cửa, phải mất khá lâu ông mới mở, như thể ông phải đi từ trong bếp ra. Ông nhìn tôi một lúc lâu, rồi thở dài thườn thượt và lắc đầu, cuối cùng mới cất tiếng chào.

Cửa văn phòng hé mở, tôi nhìn thấy ông ngồi phía sau bàn làm việc, cặp kính trễ nải trên mũi. Ông đang xem giấy tờ - có vẻ như liên quan đến tài chính – và tôi đoán ông đang cố tính toán ngân sách cho nhà thờ năm sau. Ngay cả các mục sư cũng có những hóa đơn cần chi trả.

Tôi gõ cửa, và ông háo hức ngước lên, như thể hy vọng một thành viên nào khác của giáo đoàn, rồi cau mày khi nhận ra đó là tôi.

“Chào Cha Sullivan,” tôi lịch sự nói. “Cha có rảnh không ạ? Con nói chuyện với Cha một lúc được chứ?”

Trông ông thậm chí còn mệt mỏi hơn thường lệ, và tôi nghĩ ông không được khỏe.

“Chào con Landon,” ông mệt mỏi nói.

Nhân tiện cũng nói luôn là tôi ăn mặc rất nghiêm túc cho dịp này, com lê cà vạt. “Con vào được không ạ?”

Ông khẽ gật đầu, và tôi bước vào phòng. Ông ra hiệu cho tôi ngồi vào chiếc ghế đối diện với ông.

“Ta có thể giúp gì cho con?” ông hỏi.

Tôi hồi hộp chỉnh tư thế trên ghế. “Dạ, thưa Cha, con muốn hỏi Cha một chuyện.”

Ông nhìn tôi chằm chằm đầy dò xét, cuối cùng ông cũng lên tiếng. “Có liên quan gì tới Jamie không?” ông hỏi.

Tôi hít một hơi thật sâu.

“Có, thưa Cha. Con muốn hỏi liệu Cha có cho phép con đưa cô ấy đi ăn tối vào đêm Giao thừa được không.”

Ông thở dài. “Chỉ có vậy thôi sao?” ông nói.

“Vâng, thưa Cha,” tôi nói. “Con sẽ đưa cô ấy về nhà vào bất cứ lúc nào Cha yêu cầu.”

Ông tháo cặp kính ra, lau bằng khăn tay rồi đeo lại. Tôi có thể nói ông đang câu giờ để suy nghĩ về chuyện này.

“Bố mẹ con có đi cùng không?” ông hỏi.

“Không, thưa Cha.”

“Thế thì ta nghĩ ta không cho phép được. Nhưng cảm ơn con đã hỏi xin ta trước”. Ông nhìn xuống đống giấy tờ, tỏ ý rõ ràng rằng đã đến lúc tôi phải đi. Tôi đứng lên và dợm bước về phía cửa. Ngay khi tôi sắp sửa đi, tôi đối diện với ông lần nữa.

“Cha Sullivan?”

Ông ngước lên, ngạc nhiên thấy tôi vẫn còn ở đó.

“Con xin lỗi về những điều con từng làm lúc còn nhỏ, và con xin lỗi đã không luôn đối xử với Jamie theo cách cô ấy đáng được đối xử. Nhưng từ giờ trở đi, mọi thứ sẽ thay đổi. Con xin hứa với Cha như thế.”

Ông như đang nhìn xuyên qua tôi. Vẫn chưa đủ.

“Con yêu cô ấy,” cuối cùng tôi nói, và khi tôi nói câu đó, tâm trí ông lại tập trung vào tôi.

“Ta biết con yêu con bé,” ông trả lời một cách buồn bã, “nhưng ta không muốn thấy con bé bị tổn thương.” Tôi nghĩ mình trông thấy mắt ông bắt đầu ngân ngấn, mặc dù chắc là tôi chỉ đang tưởng tượng thôi.

“Con sẽ không làm tổn thương cô ấy,” tôi nói.

Ông quay đi, nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm mặt trời mùa đông đang cố trồi ra khỏi những đám mây. Đó là một ngày xám xịt, lạnh lẽo và rét buốt.

“Hãy đưa con bé về nhà lúc mười giờ,” cuối cùng ông nói, như thể ông biết mình đã đưa ra một quyết định sai lầm.

Tôi mỉm cười và muốn cảm ơn ông, tuy nhiên tôi đã không nói. Tôi biết ông muốn được ở một mình. Khi liếc ra sau lưng trên đường ra cửa, tôi bối rối khi nhìn thấy ông úp mặt vào tay.

Một giờ sau, tôi mời Jamie. Đầu tiên nàng nói là không nghĩ mình đi được, nhưng tôi bảo rằng đã nói chuyện với bố nàng rồi. Jamie có vẻ ngạc nhiên, và tôi nghĩ điều đó tác động lên cách nhìn của nàng với tôi sau này. Tôi không kể Hegbert có vẻ như đã khóc lúc tôi bước ra cửa. Không chỉ vì tôi không hoàn toàn hiểu chuyện đó, mà còn bởi tôi không muốn nàng lo lắng. Tuy nhiên, tối đó, sau khi nói chuyện với mẹ tôi một lần nữa, bà cho tôi một cách giải thích khả dĩ, và thành thật mà nói, với tôi cách giải thích ấy hoàn toàn có lý. Hegbert hẳn đã nhận ra con gái ông đang trưởng thành, và rằng dần dần ông sẽ mất con bé. Ở một mặt nào đó, tôi hy vọng điều ấy là sự thật.

Tôi đón Jamie đúng giờ. Mặc dù tôi không yêu cầu nàng xõa tóc, nàng đã làm điều đó vì tôi. Chúng tôi lặng lẽ chạy xe qua cầu, xuôi con đường ven biển tới nhà hàng. Khi hai đứa tới chỗ lễ tân, ông chủ nhà hàng xuất hiện và đưa chúng tôi đến bàn. Đó là một trong những chiếc bàn đẹp trong nhà hàng.

Lúc chúng tôi tới, nhà hàng đã đông khách và mọi người xung quanh đều đang rất vui vẻ. Chúng tôi chỉ là hai đứa thiếu niên giữa những người ăn mặc thời trang vào dịp năm mới. Dẫu vậy, tôi không nghĩ trông chúng tôi quá lạc lõng.

Jamie chưa bao giờ đến nhà hàng Flauvin’s trước đó, vậy nên nàng mất vài phút để định thần. Nàng có vẻ vừa vui sướng vừa hồi hộp, và ngay lập tức tôi biết rằng mẹ tôi đã đưa ra một gợi ý chính xác.

“Chỗ này thật tuyệt vời,” nàng nói với tôi. “Cảm ơn cậu đã mời mình.”

“Đó là vinh hạnh của mình,” tôi thành thật nói.

“Cậu tới đây bao giờ chưa?”

“Một vài lần. Thỉnh thoảng bố mẹ mình thích đến đây khi bố từ Washington về nhà.”

Jamie đưa mắt ra ngoài cửa sổ và chăm chú nhìn con thuyền đang đi ngang qua nhà hàng, ánh sáng của chiếc thuyền tỏa ra rực rỡ. Nàng như chìm đắm trong kinh ngạc. “Ở đây đẹp quá,” nàng nói.

“Cậu cũng vậy,” tôi trả lời.

Jamie đỏ mặt. “Cậu không thật lòng.”

“Có,” tôi nói khẽ, “mình nói thật.”

Chúng tôi nắm tay trong khi chờ bữa tối, Jamie và tôi nói về vài chuyện xảy ra trong mấy tháng vừa qua. Nàng cười lớn khi tôi nhắc đến buổi khiêu vũ đầu năm học, và cuối cùng tôi thừa nhận lý do ban đầu tôi mời nàng. Nàng rất cao thượng trong chuyện này – nàng cười lớn thật vui vẻ - và tôi biết tự nàng cũng đã đoán ra lý do.

“Cậu sẽ mời mình lần nữa chứ?” nàng châm chọc

“Chắc chắn rồi.”

Bữa tối rất ngon – cả hai chúng tôi cùng gọi món cá pecca và xa lát, và cuối cùng, khi người phục vụ thu dọn đĩa, âm nhạc bắt đầu nổi lên. Chúng tôi còn một tiếng nữa trước khi tôi phải đưa Jamie về nhà, và tôi đưa tay mời nàng.

Đầu tiên, hai đứa là cặp đôi duy nhất trên sàn, tất cả mọi người ngắm nhìn chúng tôi lướt quanh. Tôi nghĩ bọn họ đều biết chúng tôi cảm thấy như thế nào về nhau, và chúng tôi cũng gợi cho họ nhớ tới thời trẻ nữa. Tôi có thể thấy họ mỉm cười với chúng tôi đầy bâng khuâng. Ánh sáng mờ mờ, và khi người ca sĩ bắt đầu một giai điệu chậm rãi, tôi ôm nàng thật gần, mắt nhắm lại, tự hỏi liệu đời mình từng có điều gì hoàn hảo đến thế này chưa, và cùng lúc ấy, tôi cũng biết câu trả lời là chưa.

Tôi đang yêu, và cảm giác này thậm chí còn tuyệt vời hơn tôi từng tưởng tượng.


Sau đêm Giao thừa, chúng tôi ở bên nhau hai tuần rưỡi, làm những thứ mà các cặp tình nhân trẻ hồi đó làm, mặc dù đôi khi nàng có vẻ mệt mỏi và lơ đãng. Chúng tôi ngồi cùng nhau bên bờ sông Neuse, vừa liệng đá xuống nước, nhìn ngắm những gợn sóng lăn tăn vừa trò chuyện, hoặc chúng tôi tới bãi biển gần Fort Macon. Mặc dù lúc ấy là mùa đông, nước biển xám xịt, nhưng ra biển vẫn là điều cả hai thích làm. Sau khoảng một tiếng Jamie thường bảo tôi đưa nàng về, và chúng tôi nắm tay nhau trong xe ô tô. Thỉnh thoảng nàng gần như ngủ gật thậm chí trước cả khi chúng tôi về tới nhà, trong khi những lần khác nàng trò chuyện huyên thuyên suốt đường về đến nỗi tôi gần như không thể xen vào lấy một lời.

Tất nhiên, ở bên Jamie cũng có nghĩa là làm những việc nàng thích nữa. Tuy nhiên tôi học lớp nghiên cứu Kinh thánh của nàng – tôi không muốn trông như một thằng ngốc trước mặt nàng – chúng tôi tới thăm trại trẻ mồ côi hai lần nữa, và mỗi lần tới đó tôi lại cảm thấy thân quen hơn. Tuy nhiên, một lần chúng tôi phải về sớm bởi vì nàng sốt nhẹ. Ngay cả với con mắt của một người không có kinh nghiệm như tôi, rõ ràng mặt nàng đỏ bừng lên.

Chúng tôi còn hôn nhau nữa, mặc dù không phải lần nào bên nhau cũng thế, và tôi thậm chí không nghĩ đến việc chuyển sang bước thứ hai. Chẳng cần phải làm như vậy. Có gì đó thật đẹp khi tôi hôn nàng, điều gì đó vừa dịu dàng vừa đúng đắn, và với tôi thế là đủ. Càng hôn nàng, tôi càng vỡ lẽ rằng trong toàn bộ cuộc đời nàng Jamie đã bị hiểu nhầm, không chỉ bởi tôi, mà còn bởi tất cả mọi người.

Jamie không đơn giản là con gái một mục sư, đọc Kinh thánh và hết mình giúp đỡ người khác. Jamie cũng là cô gái mười bảy tuổi với những hoài nghi và hy vọng như tôi. Chí ít đó là những gì tôi đoán, cho đến khi cuối cùng nàng cũng nói với tôi.


Tôi sẽ không bao giờ quên ngày hôm đó bởi nàng mới lặng lẽ làm sao, và cả ngày tôi cứ có cảm giác buồn cười rằng nàng đang ngẫm ngợi điều gì đó rất quan trọng.

Tối thứ Bảy trước khi bắt đầu đi học trở lại, tôi đi bộ cùng nàng từ quán Cecil’s về nhà, một ngày gió dữ dội và lạnh buốt. Gió lạnh đã tràn về từ sáng hôm trước, chúng tôi vừa bước đi vừa nép sát vào nhau để giữ ấm. Jamie khoác tay tôi và chúng tôi bước chậm rãi, thậm chí còn chậm hơn bình thường, và tôi có thể nói nàng lại không được khỏe. Nàng thực sự không muốn đi khi thời tiết đang thế này, nhưng tôi muốn nàng đi cùng vì bọn bạn. Tôi nhớ khi ấy mình đã nghĩ rằng cuối cùng cũng đến lúc bọn nó biết chuyện hai đứa tôi. Vấn đề duy nhất, như số phận đã định sẵn, là chẳng có bất kỳ ai khác ở quán Cecil’s. Bởi đối với nhiều cộng đồng duyên hải, mọi thứ ven vịnh thường tĩnh lặng vào giữa mùa đông.

Nàng im lặng khi chúng tôi rảo bước, và tôi biết nàng đang nghĩ cách nói với tôi điều gì đó. Tôi không ngờ nàng lại bắt đầu cuộc trò chuyện bằng câu này.

“Mọi người nghĩ mình kỳ quặc, đúng không,” cuối cùng nàng nói, phá vỡ sự im lặng.

“Ý cậu là ai cơ?” tôi hỏi, mặc dù tôi đã biết câu trả lời.

“Mọi người ở trường.”

“Không, không phải vậy đâu,” tôi nói dối.

Tôi hôn vào má nàng trong lúc siết nhẹ để tay nàng gần tôi hơn một chút. Nàng cau mày, và tôi biết tôi đã làm nàng đau.

“Cậu không sao chứ?” tôi lo lắng hỏi.

“Mình không sao,” nàng nói, lấy lại vẻ điềm tĩnh và tiếp tục chủ đề. “Nhưng cậu làm ơn giúp mình một việc được không?”

“Bất cứ việc gì,” tôi nói.

“Cậu hứa từ giờ sẽ chỉ nói thật với mình được chứ? Ý mình là luôn luôn ấy?”

“Chắc chắn rồi,” tôi nói.

Nàng đột ngột ngăn tôi lại và nhìn thẳng vào tôi. “Ngay lúc này cậu đang nói dối mình đúng không?”

“Không,” tôi nói đầy vẻ tự vệ, tự hỏi chuyện này sẽ đi tới đâu. “Mình hứa rằng từ bây giờ trở đi, mình sẽ luôn luôn nói sự thật với cậu.”

Không hiểu sao, khi nói thế, tôi biết rồi mình sẽ phải hối tiếc.

Chúng tôi lại bắt đầu rảo bước. Khi chúng tôi đi dọc con phố, liếc nhìn bàn tay nàng đang nắm lấy cánh tay tôi, tôi thấy một vết bầm tím ngay dưới ngón đeo nhẫn. Tôi không biết nó từ đâu ra, bởi ngày hôm trước nó không có ở đó. Trong một thoáng tôi nghĩ có thể mình là nguyên nhân gây ra vết bầm ấy, nhưng rồi tôi nhận ra thậm chí mình còn chưa từng chạm vào chỗ đó của nàng.

“Mọi người nghĩ mình kỳ cục phải không?” nàng hỏi lại.

Hơi thở của tôi phả ra thành những luồng hơi nhỏ.

“Ừ,” cuối cùng tôi trả lời. Nói ra điều ấy cũng làm tôi đau.

“Tại sao?” trông nàng gần như là thất vọng.

Tôi nghĩ về điều đó. “Mỗi người có một lý do khác nhau,” tôi nói chung chung, cố gắng hết sức để không đi xa hơn.

“Nhưng chính xác thì tại sao? Có phải vì bố mình không? Hay là vì mình cố gắng tử tế với mọi người?”

Tôi không muốn nói chuyện này nữa.

“Chắc vậy,” là tất cả những gì tôi có thể nói. Tôi cảm thấy hơi buồn nôn.

Jamie có vẻ chán nản, và chúng tôi đi thêm một đoạn trong im lặng.

“Cậu cũng nghĩ mình kỳ cục phải không?” nàng hỏi tôi.

Cái cách nàng hỏi khiến tôi đau đớn hơn tôi tưởng. Chúng tôi sắp tới nhà nàng thì tôi ngăn nàng lại và ôm nàng sát vào lòng. Tôi hôn nàng, và khi chúng tôi rời nhau, nàng nhìn xuống đất.

Tôi đặt ngón tay dưới cằm nàng, nâng đầu nàng lên và buộc nàng lại nhìn tôi. “Jamie, cậu là một người tuyệt vời. Cậu xinh đẹp, cậu tốt bụng, cậu dịu dàng… cậu là tất cả những gì mình muốn trở thành. Nếu người ta không thích cậu hoặc nghĩ cậu kỳ cục thì đó là vấn đề của chính họ.”

Trong ánh sáng xam xám của một ngày mùa đông lạnh giá, tôi có thể nhìn thấy môi dưới của nàng bắt đầu run rẩy. Môi tôi cũng run run, và tôi chợt nhận ra tim mình đang đập nhanh hơn. Tôi nhìn vào mắt nàng, dồn tất cả tình cảm vào nụ cười, biết rằng tôi không thể giữ những lời ấy ở trong mình lâu hơn nữa.

“Mình yêu cậu, Jamie,” tôi nói với nàng. “Cậu là điều tốt đẹp nhất từng xảy đến với mình.”

Đó là lần đầu tiên tôi nói những lời ấy với một ai khác ngoài người trong gia đình mình. Mỗi bận hình dung tôi nói điều này với một ai khác, tôi đã nghĩ hẳn sẽ khó khăn lắm, nhưng không hề. Tôi chưa bao giờ chắc chắn về bất cứ điều gì hơn thế.

Nhưng, ngay khi tôi nói những lời đó, Jamie cúi gằm và bắt đầu khóc, dựa cả người nàng vào người tôi. Tôi choàng tay quanh nàng, tự hỏi có chuyện gì không ổn. Nàng gầy quá, lần đầu tiên tôi nhận ra hai cánh tay tôi ôm trọn cả thân hình nàng. Nàng gầy đi, thậm chí chỉ trong một tuần rưỡi qua, và tôi nhớ ra ban nãy nàng gần như không đụng vào đồ ăn. Nàng tiếp tục khóc trên ngực tôi rất lâu. Tôi không biết phải nghĩ gì, thậm chí cũng chẳng biết liệu nàng có cảm thấy giống tôi không. Dù vậy, tôi cũng không hối tiếc vì đã nói lời yêu. Sự thực thì luôn luôn là sự thực, và tôi chỉ vừa mới hứa với nàng rằng tôi không bao giờ nói dối nữa.

“Đừng nói thế,” nàng nói với tôi. “Xin cậu…”

“Nhưng mình yêu cậu,” tôi nói, nghĩ rằng nàng không tin tôi.

Nàng bắt đầu khóc thậm chí còn dữ dội hơn. “Mình xin lỗi,” nàng thì thầm với tôi qua những tiếng nức nở rời rạc. “Mình thực sự, thực sự xin lỗi…”

Cổ họng tôi đột nhiên khô khốc.

“Tại sao cậu lại xin lỗi?” tôi hỏi, đột nhiên tuyệt vọng muốn hiểu chuyện gì đang làm nàng buồn.

“Có phải vì đám bạn mình và những gì bọn chúng sẽ nói không? Mình chẳng thèm quan tâm nữa – thực sự không quan tâm đấy.” Tôi đang tóm lấy bất cứ cách lý giải nào, cảm thấy vừa hoang mang vừa, đúng vậy… sợ hãi.

Phải mất một lúc lâu nữa nàng mới ngừng khóc, và rồi nàng ngước lên nhìn tôi. Nàng hôn tôi dịu dàng, tựa như hơi thở của người đi qua phố, rồi lướt ngón tay lên má tôi.

“Cậu không thể yêu mình được, Landon à,” nàng nói qua đôi mắt sưng đỏ mọng. “Chúng ta có thể là bạn, chúng ta có thể gặp nhau… nhưng cậu không thể yêu mình.”

“Tại sao không?” tôi hét lên khản cả tiếng, không hiểu được chuyện này một chút nào nữa.

“Bởi vì,” cuối cùng nàng cũng khẽ nói, “mình ốm rất nặng, Landon ạ.”

Ý tưởng ấy hoàn toàn xa lạ đến mức tôi không hiểu nổi những gì nàng muốn nói.

“Thế thì sao? Chỉ vài ngày là…”

Một nụ cười buồn lướt qua gương mặt nàng, và ngay lúc đó, tôi hiểu ra nàng muốn nói với tôi điều gì. Mắt nàng không rời mắt tôi khi cuối cùng nàng cũng nói những lời làm tâm hồn tôi chết lặng.

“Landon, mình sắp chết.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2011 16:15:50 | Chỉ xem của tác giả

Chương 12

Nàng bị bệnh máu trắng; nàng đã biết từ mùa hè vừa rồi.

Giây phút nàng nói với tôi, mặt tôi trắng bệch và vô số những hình ảnh choáng váng chấp chới lướt qua tâm trí tôi. Như thể trong khoảng khắc ngắn ngủi ấy, thời gian đột nhiên dừng lại và tôi hiểu toàn bộ những chuyện đã xảy ra giữa chúng tôi. Tôi hiểu vì sao nàng muốn tôi tham gia vở kịch; hiểu vì sao sau đêm công diễn Hegbert vừa khóc vừa thì thầm với nàng, gọi nàng là thiên thần của ông; tôi hiểu vì sao suốt thời gian qua trông ông mệt mỏi đến vậy và vì sao ông lại khó chịu khi tôi liên tục tới nhà. Tất cả trở nên hoàn toàn rõ ràng.

Vì sao nàng muốn Giáng sinh ở trại trẻ mồ côi đặc biệt đến thế…

Vì sao nàng nghĩ sẽ không học đại học…

Vì sào nàng tặng tôi cuốn Kinh thánh của mình…

Tất cả đều hợp lý đến hoàn hảo, nhưng đồng thời cũng chẳng điều gì có vẻ hợp lý hết.

Jamie Sullivan mắc bệnh máu trắng…

Jamie, Jamie ngọt ngào, đang chết dần...

Jamie của tôi...

“Không, không,” tôi thì thầm với náng, “chắc là có nhầm lẫn...”

Nhưng không có nhầm lẫn gì cả, và khi nàng nhắc lại câu đó, thế giới của tôi trở nên trống rỗng. Đầu tôi bắt đầu quay cuồng, và tôi níu chặt lấy nàng để đứng vững. Trên phố, tôi nhìn thấy một người đàn ông và một người đàn bà đang dạo bước về phía chúng tôi, đầu nghiêng nghiêng và tay giữ cho mũ khỏi bị gió thổi bay. Một con chó lon ton chạy qua đường và dừng lại chỗ đám bụi rậm để đáng hơi. Người hàng xóm bên kia đường đang đứng trên thang gỡ những bóng đèn Giáng sinh xuống. Khung cảnh bình thường của cuộc sống hằng ngày, những thứ trước kia tôi chẳng bao giờ để ý, đột nhiên khiến tôi thấy tức giận. Tôi nhắm mắt, những mong toàn bộ chuyện này biến mất.

“Landon, mình xin lỗi,” nàng cứ nói đi nói lại. Tuy nhiên, tôi mới chính là người nên nói câu đó. Giờ thì tôi biết rồi, nhưng nỗi bối rối khiến tôi không nói nổi nên lời.

Sâu thẳm trong lòng, tôi biết chuyện này sẽ không biến mất. Tôi lại ôm nàng, không biết phải làm gì khác, nước mắt tràn mi, tôi đang cố gắng để rồi thất bại trong việc trở thành điểm tựa mà tôi nghĩ nàng cần.

Chúng tôi cùng nhau khóc trên phố một lúc lâu, cách nhà nàng chỉ một đoạn ngắn. Chúng tôi khóc thêm một lúc thì Hegbert mở cửa và nhìn thấy hai đứa, ngay lập tức biết rằng bí mật đã được tiết lộ. Chúng tôi khóc lúc tôi kể với mẹ vào buổi chiều hôm đó, mẹ ôm cả hai đứa vào lòng và thổn thức tô đến nỗi cả chị giúp việc và chị bếp đều muốn gọi bác sĩ vì nghĩ có chuyện xảy ra với bố tôi. Vào ngày Chủ nhật, Hegbert thông báo với giáo đoàn, gương mặt ông phủ tấm màn của nỗi thống khổ và sự sợ hãi, và người ta phải giúp ông quay trở lại chỗ ngồi thậm chí trước cả khi ông nói xong.

Tất cả mọi người trong giáo đoàn im lặng nhìn chằm chằm, không tin nổi những gì vừa nghe thấy, như thể họ đang chờ lời cuối cùng cho câu chuyện đùa khủng khiếp mà không ai tin là đã được kể. Và rồi đồng loạt, tiếng khóc than nổi lên.

Ngày nàng nói với tôi, chúng tôi ngồi cùng Hegbert và Jamie kiên nhẫn trả lời các câu hỏi của tôi. Nàng nói không biết còn sống được bao lâu nữa. Không, các bác sĩ chẳng thể làm được gì. Họ nói, đây là dạng hiếm của căn bệnh này, trường hợp không phản ứng với phương pháp điều trị hiện có. Đúng hồi đầu năm học nàng cảm thấy khỏe. Mãi đến vài tuần trước nàng mới bắt đầu cảm thấy những tác động của căn bệnh.

“Đó chính là cách bệnh tiến triển,” nàng nói. “Cậu cảm thấy khỏe, và rồi, khi cơ thể cậu không thể tiếp tục chiến đấu, cậu không thấy khỏe nữa.” Giấu đi những giọt nước mắt, tôi không thể không nghĩ đến vở kịch.

“Nhưng tất cả những buổi tập... những ngày dài đó... có lẽ cậu không nên...”

“Có lẽ,” nàng nói, tìm tay tôi và cắt lời tôi. “Chính việc tập kịch đã giữ cho mình khỏe lâu đến vậy.”

Sau đó, nàng bảo rằng đã bảy tháng trôi qua từ khi nàng được chẩn đoán có bệnh. Các bác sĩ nói nàng còn một năm, có thể còn ít hơn.

Ngày nay chuyện đã có thể khác đi. Ngày nay người ta hẳn đã chữa trị cho nàng. Ngày nay Jamie hẳn có thể sống. Nhưng chuyện này xảy ra cách đây bốn chục năm, và tôi biết bị máu trắng có nghĩa là gì.

Chỉ một điều kỳ diệu mới cứu được nàng.

“Sao cậu không nói với mình?”

Tôi đã không hỏi nàng câu ấy, câu hỏi tôi hằng trăn trở. Đêm đó tôi không ngủ được, và hôm sau mắt vẫn còn sưng húp. Suốt đêm dài, tôi đi từ trạng thái sốc đến phủ nhận thực tại, rồi buồn bã, rồi tức giận, rồi lại sốc, chỉ ước sao đây không phải sự thật, chỉ cầu sao toàn bộ chuyện này là một cơn ác mộng khủng khiếp.

Ngày hôm sau, ngày mà Hegbert tuyên bố với giáo đoàn, chúng tôi đang ở trong phòng khách nhà nàng. Đó là ngày 10 tháng Một năm 1959.

Jamie không hề chán nản như tôi tưởng. Nhưng cũng phải thôi, nàng đã sống với thực tế này bảy tháng rồi. Nàng và Hegbert là những người duy nhất biết, và họ không tin tưởng bất kỳ ai, kể cả tôi. Tôi cảm thấy đau lòng, đồng thời cũng sợ hãi điều đó.

“Mình đã quyết định,” nàng giải thích với tôi, “sẽ tốt hơn nếu mình không nói với ai hết, và mình yêu cầu bố làm như vậy. Cậu thấy mọi người như thế nào sau buổi lễ hôm nay rồi đấy. Thậm chí rồi sẽ không có ai nhìn vào mắt mình nữa. Nếu cậu chỉ còn một vài tháng để sống thôi thì đó có phải là điều cậu muốn không?”

Tôi biết nàng đúng, nhưng như thế cũng chẳng làm mọi chuyện dễ dàng hơn. Lần đầu tiên trong đời mình, tôi hoàn toàn mất phương hướng.

Trước đó chưa có ai gần gũi với tôi qua đời, ít nhất không phải ai mà tôi còn nhớ. Bà tôi mất khi tôi mới ba tuổi, và tôi không còn nhớ một chút gì về bà hay tang lễ thậm chí những năm tháng sau khi bà mất. Tất nhiên, tôi có bố và ông nội kể lại, nhưng với tôi đó chỉ là những câu chuyện. Cũng giống như nghe những mẩu chuyện có thể đọc trên báo về một người phụ nữ nào đó tôi chưa bao giờ thực sự biết. Mặc dù bố đưa tôi đi cùng khi ông đặt hoa trên mộ bà, tôi chưa bao giờ có bất kỳ liên hệ tình cảm nào với bà. Tôi chỉ có tình cảm với những con người mà bà đã rời bỏ.

Không ai trong nhà tôi hoặc bọn bạn tôi từng phải đối mặt với chuyện gì giống như thế này. Jamie mười bảy tuổi, tuổi thiếu nữ sắp trở thành phụ nữ, đang chết dần, nhưng đồng thời cũng lại đầy sức sống. Tôi sợ, sợ hãi hơn bao giờ hết, không chỉ cho nàng mà còn cả cho bản thân tôi nữa. Tôi sống trong sợ hãi mình sẽ làm gì đó sai, làm gì đó khiến nàng tổn thương. Có được tức giận khi có mặt nàng không? Có được nói chuyện về tương lai nữa hay không? Nỗi sợ hãi khiến cho việc nói chuyện với nàng trở nên khó khăn hơn, mặc dù nàng thật nhẫn nại với tôi.

Tuy nhiên, nỗi sợ hãi còn khiến tôi nhận ra một điều khác, một điều khiến toàn bộ chuyện này còn tồi tệ hơn. Tôi nhận ra thậm chí tôi đã không biết Jamie khi nàng mạnh khỏe. Tôi chỉ mới bắt đầu ở bên nàng vài tháng trước, và tôi chỉ mới yêu nàng mười tám ngày. Mười tám ngày đó dường như là toàn bộ cuộc đời tôi, nhưng giờ đây, khi nhìn nàng, tôi chỉ có thể tự hỏi sẽ còn thêm bao nhiêu ngày nữa.

Vào thứ Hai, nàng không đến trường, và không hiểu sao tôi biết chắc nàng sẽ không bao giờ rảo bước ở hành lang nữa. Tôi sẽ không thấy nàng đọc Kinh thánh một mình trong giờ ăn trưa, sẽ không thấy chiếc áo lên nâu của nàng đi xuyên qua đám đông khi tìm đường tới lớp học kế tiếp. Nàng sẽ thôi học vĩnh viễn; nàng sẽ chẳng bao giờ nhận bằng tốt nghiệp.

Tôi không thể tập trung vào bất cứ điều gì khi ngồi trong lớp vào cái ngày đầu tiên quay lại trường ấy, nghe hết giáo viên này tới giáo viên khác nói với chúng tôi cái tin phần lớn chúng tôi đã nghe rồi. Phản ứng cũng tương tự như trong nhà thờ hôm Chủ nhật. Bọn con gái khóc, bọn con trai cúi đầu, mọi người kể những câu chuyện về nàng như thể nàng đã chết rồi. Chúng ta có thể làm gì đây? Bọn họ lên tiếng tự hỏi, và mọi người nhìn tôi tìm câu trả lời.

“Mình không biết,” là tất cả những gì tôi có thể nói.

Tôi rời trường sớm để tới nhà Jamie, bùng tất cả các tiết sau giờ ăn trưa. Khi tôi gõ cửa, Jamie mở cửa theo cách nàng vẫn luôn làm, vui vẻ như không hề vướng bận gì trên đời.

“Chào Landon,” nàng nói, “bất ngờ quá.”

Lúc nàng dựa vào để hôn tôi, tôi hôn lại nàng, mặc dù toàn bộ chuyện này làm tôi muốn khóc.

“Giờ bố mình không có nhà, nhưng nếu cậu thích thì ngồi ngoài hiên cũng được.”

“Làm sao cậu có thể làm thế hả?” tôi đột ngột hỏi. “Làm sao cậu có thể giả vờ như không có chuyện gì cả?”

“Mình không giả bộ rằng chẳng có chuyện gì hết, Landon. Hãy để mình lấy áo khoác và chúng mình sẽ ngồi bên ngoài nói chuyện được không?”

Nàng mỉm cười với tôi, chờ câu trả lời, và cuối cùng tôi gật đầu, môi mím chặt. Nàng vươn tay ra vỗ nhẹ lên cánh tay tôi.

“Mình quay ra ngay,” nàng nói.

Tôi đi về phía cái ghế và ngồi xuống, Jamie xuất hiện ngay sau đó. Nàng mặc một chiếc áo khoác dày, đeo găng tay và đội mũ để giữ ẩm. Những ngày gió rét nhất mùa đông đã qua, và ban ngày còn xa mới lạnh bằng cuối tuần trước. Dẫu vậy, trời vẫn còn quá lạnh với nàng.

“Hôm nay cậu không tới trường,” tôi nói.

Nàng nhìn xuống và gật đầu. “Mình biết.”

“Cậu sẽ đi học lại chứ?” Mặc dù đã biết câu trả lời, tôi vẫn cần phải nghe trực tiếp từ nàng.

“Không,” nàng nói khẽ, “mình sẽ không đi học nữa.”

“Tại sao? Cậu ốm đến thế rồi sao?” tôi bắt đầu bật khóc, và nàng nắm lấy tay tôi.

“Không. Thực ra hôm nay mình cảm thấy tương đối khỏe. Chỉ là vì mình muốn ở nhà mỗi sáng, trước khi bố phải tới văn phòng. Mình muốn ở bên bố nhiều nhất có thể.”

Trước khi mình chết, nàng muốn nói thế nhưng đã không nói ra. Tôi cảm thấy buồn nôn và không thể đáp lại.

“Khi các bác sĩ lần đầu nói với bố con mình,” nàng tiếp tục, “họ bảo mình nên cố gắng sống cuộc sống bình thường càng lâu càng tốt. Họ nói làm thế sẽ giúp mình khỏe mạnh.”

“Chẳng có gì bình thường trong chuyện này hết,” tôi nói một cách cay đắng.

“Mình biết.”

“Cậu không sợ sao?”

Không hiểu sao tôi chờ đợi nàng nói không, nói điều gì đó khôn ngoan như người trưởng thành, hay giải thích với tôi rằng chúng ta không thể hiểu được kế hoạch của Chúa.

Nàng quay đi chỗ khác. “Có,” cuối cùng nàng nói, “lúc nào mình cũng sợ.”

“Thế tại sao cậu lại không cư xử như là cậu sợ?”

“Có chứ. Mình chỉ làm thế khi ở một mình.”

“Bởi cậu không tin mình?”

“Không phải,” nàng nói, “vì mình biết cậu cũng sợ.”

Tôi bắt đầu cầu nguyện cho một điều kỳ diệu.

Mọi người nói những điều kỳ diệu vẫn luôn xảy ra, tôi đã đọc về chúng trên báo. Người ta lấy lại được khả năng sử dụng chân tay sau khi được chẩn đoán rằng sẽ không bao giờ có thể đi lại được nữa, hay bằng cách nào đó sống sót sau một tai nạn khủng khiếp khi mà mọi hy vọng đều đã không còn. Thi thoảng lại có một nhà truyền giáo lang thang dựng lều bên ngoài thị trấn Beaufort, và mọi người tới đó để xem chữa bệnh. Tôi cũng tới vài lần, và dù tôi cho rằng phần lớn các vụ chữa bệnh này chẳng hơn gì một trò lừa đảo – bởi tôi chưa bao giờ nhận ra những người được chữa lành – nhưng thảng hoặc có những điều mà ngay cả tôi cũng không giải thích được. Ông già Sweeney, người làm bánh trong thị trấn, từng tham gia một đơn vị pháo binh chiến đấu phía sau những đường hào quân sự trong Thế chiến thứ nhất, và nhiều tháng nã pháo vào kẻ thù đã khiến ông bị điếc một bên tai. Chẳng có gì giả dối ở đây – ông thực sự không nghe thấy gì hết, vì vậy nhiều lần bọn trẻ con chúng tôi có thể thó một chiếc bánh quế. Nhưng nhà truyền giáo lang thang bắt đầu cầu nguyện như điên và cuối cùng đặt tay lên một bên đầu Sweeney. Sweeney hét toáng lên, làm mọi người suýt nhảy ra khỏi chỗ ngồi. Mặt ông lộ vẻ kinh hoàng, như thể nhà truyền giáo kia vừa chạm vào ông bằng cây cời nung nóng vậy, nhưng rồi ông lắc đầu và nhìn xung quanh, thốt lên, “Tôi lại nghe được rồi.” Chính bản thân ông cũng không tin nổi điều đó. “Chúa,” nhà truyền giáo nói khi Sweeney tìm đường quay trở lại chỗ mình ngồi, “có thể làm bất cứ điều gì. Chúa lắng nghe những lời cầu nguyện của chúng ta.”

Vì thế đêm đó tôi mở cuốn Kinh thánh Jamie tặng vào dịp Giáng sinh ra và bắt đầu đọc. Đúng, tôi đã nghe toàn bộ Kinh thánh trong lớp học Chủ nhật hay tại nhà thờ, nhưng thành thật mà nói, tôi chỉ nhớ được những phần hay ho nhất – Chúa gửi bảy bệnh dịch tới để những người Israel có thể rời khỏi Ai Cập, Joah bị một con cá voi nuốt, Jesus đi trên mặt nước và cứu Lazarus thoát chết. Còn có những chuyện hay ho khác nữa. Tôi biết gần như ở mọi chương trong Kinh thánh, Chúa đều làm một việc ngoạn mục, nhưng tôi không biết hết những việc đó. Là tín đồ Thiên Chúa giáo, chúng tôi vô cùng coi trọng những điều răn trong Kinh Tân ước, vậy mà tôi chẳng biết lấy một điều cơ bản về những cuốn như về Joshua hay Ruth hay Joel. Đêm đầu tiên tôi đọc hết Sách Sáng thế, đêm thứ hai tôi đọc hết Sách Xuất hành. Tiếp theo là Sách Levi, Sách Dân số, rồi Sách Đệ nhị luật. Tốc độ đọc chậm hơn một chút ở những phần nhất định, đặc biệt là đoạn giải thích các điều luật, nhưng tôi không thể bỏ cuốn Kinh thánh xuống. Tôi bắt buộc phải đọc cho hết, vì sao thì chính tôi cũng không thể hiểu rõ.

Một đêm đã muộn, tôi đã rất mệt khi cuối cùng cũng đọc tới Sách Thánh vịnh, nhưng không hiểu sao tôi biết đây là những gì mình đang tìm kiếm. Ai cũng biết chương hai mươi ba của Sách Thánh vịnh, bắt đầu bằng, “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì,” nhưng tôi muốn đọc những bài Thánh vịnh khác, bởi vì không có bài nào được cho là quan trọng hơn những bài còn lại. Sau một tiếng đồng hồ, tôi bắt gặp một phần gạch chân mà tôi cho rằng Jamie đánh dấu lại bởi nó hẳn có ý nghĩa nào đó với nàng. Đoạn ấy như sau:

Lạy Chúa là núi đá cho con trú ẩn,

con kêu lên Ngài, xin đừng nỡ giả điếc làm ngơ.

Vì nếu Ngài cứ im hơi lặng tiếng,

thì con sẽ giống như kẻ đã xuống mồ.

Khi con hướng về nơi cực thánh

giơ đôi tay cầu cứu van nài,

xin Ngài nghe tiếng con khẩn nguyện.

Nước mắt dâng lên, tôi gập cuốn Kinh thánh lại, không thể đọc hết bài Thánh vịnh.

Không hiểu sao tôi biết nàng gạch dưới những dòng chữ ấy vì tôi.

“Con không biết phải làm gì nữa,” tôi thẫn thờ nói, nhìn chằm chằm vào ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn trong phòng ngủ. Mẹ và tôi đang ngồi trên giường. Gần cuối tháng Một, tháng khó khăn nhất đời tôi, và tôi biết tháng Hai mọi việc chỉ có thể tồi tệ hơn mà thôi.

“Mẹ biết chuyện này thực sự khó khăn với con,” mẹ tôi thì thầm, “nhưng con chẳng thể làm gì hết.”

“Con không có ý nói về việc Jamie bị ốm – con biết con chẳng thể làm gì để thay đổi điều đó. Ý con là về Jamie và con.”

Mẹ tôi nhìn tôi đầy cảm thông. Bà lo lắng cho Jamie, nhưng bà cũng lo cho tôi nữa. Tôi nói tiếp.

“Con cảm thấy khó mà nói chuyện với cô ấy. Cứ nhìn cô ấy là con lại nghĩ đến ngày không thể thấy cô ấy nữa. Thế là con dành tất cả thời gian ở trường nghĩ về cô ấy, ước có thể gặp cô ấy ngay, nhưng khi tới nhà cô ấy, con lại chẳng biết phải nói gì.”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2011 16:19:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12 (tiếp ...)
“Mẹ cũng không biết liệu con có thể nói gì để con bé cảm thấy khá hơn hay không.”

“Vậy con nên làm gì?”

Bà nhìn tôi buồn bã và choàng tay qua vai tôi. “Con thực sự yêu con bé, đúng không.” bà nói.

“Bằng cả trái tim.”

Trông bà buồn hơn bao giờ hết. “Vậy trái tim con mách bảo con phải làm gì?”

“Con cũng không biết nữa.”

“Có lẽ,” bà dịu dàng nói, “con đang quá gắng sức nên không nghe được điều trái tim muốn nói.”

Ngày hôm sau, tôi cảm thấy thoải mái hơn khi ở bên Jamie, mặc dù không khá hơn là bao. Trước khi tới, tôi tự nhủ sẽ không nói điều gì khiến nàng thất vọng – rằng sẽ cố gắng trò chuyện như đã trò chuyện với nàng trước đây – và mọi việc diễn ra đúng như vậy. Tôi ngồi trên ghế sofa, kể cho nàng nghe về vài đứa bạn và những gì bọn chúng đang làm; tôi cập nhật cho nàng về thành công của đội bóng rổ. Tôi bảo nàng tôi vẫn chưa nghe thấy tin tức gì từ Đại học Bắc Carolina, nhưng vẫn hy vọng sẽ biết kết quả trong một vài tuần tới. Tôi kể với nàng tôi đang chờ lễ tốt nghiệp. Tôi nói như thể tuần sau nàng sẽ quay lại trường vậy, và tôi biết trong suốt khoảng thời gian đó giọng tôi nghe rất bồn chồn. Jamie mỉm cười và gật đầu vào những lúc thích hợp, thỉnh thoảng lại đặt câu hỏi. Nhưng lúc tôi dứt lời, tôi nghĩ cả hai đứa đều biết rằng đây sẽ là lần cuối tôi làm thế này. Không ai trong chúng tôi thấy thoải mái.

Trái tim tôi cho tôi biết chính xác điều đó.

Tôi quay lại với cuốn Kinh thánh với hy vọng nó có thể chỉ dẫn cho mình.

“Cậu thấy thế nào rồi?” mấy hôm sau tôi hỏi.

Lúc này Jamie đã sút cân nhiều hơn. Da nàng đã bắt đầu tái xám, xương bàn tay bắt đầu lộ rõ dưới làn da. Một lần nữa, tôi nhìn thấy những vết bầm tím. Chúng tôi ở trong phòng khách nhà nàng; nàng không chịu nổi cơn lạnh.

Bất chấp tất cả những điều ấy, trông nàng vẫn rất đẹp.

“Mình ổn,” nàng nói, mỉm cười can đảm. “Các bác sĩ cho mình thuốc giảm đau, vậy nên cũng đỡ hơn một chút.”

Ngày nào tôi cũng đến. Thời gian vừa như chậm lại, vừa như nhanh hơn.

“Mình có thể làm gì cho cậu không?”

“Không, cảm ơn cậu, mình ổn mà.”

Tôi nhìn quanh căn phòng, rồi quay lại nhìn nàng.

“Mình đang đọc Kinh thánh,” cuối cùng tôi nói.

“Cậu đọc hả?” Mặt nàng sáng lên, gợi cho tôi nhớ về thiên thần tôi đã nhìn thấy trong vở kịch. Không thể tin nổi chỉ mới sáu tuần trôi qua.

“Mình muốn cậu biết.”

“Mình rất vui vì cậu cho mình biết.”

“Tối qua mình đọc cuốn Sách của Job,” tôi nói, “kể lại chuyện Chúa đối xử khắc nghiệt với Job để thứ đức tin của ông.”

Nàng mỉm cười và với tới vỗ nhẹ vào lòng bàn tay của tôi, tay nàng mềm mại chạm vào da tôi. Cảm giác thật dễ chịu. “Cậu nên đọc cuốn khác. Cuốn đó không kể về Chúa vào những khoảnh khắc đẹp của Người.”

“Tại sao Chúa làm thế với ông ấy?”

“Mình không biết,” nàng nói.

“Cậu có bao giờ cảm thấy giống như Job không?”

Nàng mỉm cười, mắt ánh lên một tia sáng lấp lánh. “Đôi khi.”

“Nhưng cậu không mất niềm tin?”

“Không.” Tôi biết nàng không mất niềm tin, nhưng tôi nghĩ mình đang mất niềm tin.

“Có phải vì cậu nghĩ cậu có thể khỏe hơn không?”

“Không,” nàng nói, “bởi niềm tin là thứ duy nhất mình còn.”

Sau đó, chúng tôi bắt đầu đọc Kinh thánh cùng nhau. Có vẻ như đây là điều đúng đắn để làm, dẫu vậy, trái tim tôi mách bảo rằng có thể vẫn còn điều gì hơn thế nữa.

Đêm ấy tôi nằm thao thức, băn khoắn về điều đó.

Đọc Kinh thánh cho chúng tôi điều gì đó để tập trung vào, và đột nhiên mọi thứ giữa hai đứa trở nên ổn thỏa hơn, có thể bởi tôi không còn lo lắng về chuyện làm tổn thương nàng nữa. Điều gì có thể đúng đắn hơn là đọc Kinh thánh chứ? Mặc dù tôi còn xa mới biết nhiều về Kinh thánh như nàng, tôi nghĩ nàng trân trọng hàng động ấy, và thi thoảng trong khi đọc, nàng đặt tay lên đầu gối tôi và chỉ ngồi lắng nghe giọng tôi tràn đầy căn phòng.

Những lần khác, tôi ngồi cạnh Jamie trên ghế sofa, vừa nhìn vào cuốn Kinh thánh vừa dõi theo nàng qua khóe mắt, khi chúng tôi đọc đến một đoạn hoặc một bài Thánh vịnh, thậm chí có thể là một châm ngôn, tôi hỏi nàng nghĩ gì về đoạn ấy. Nàng luôn luôn có câu trả lời và tôi gật đầu, ngẫm nghĩ. Thỉnh thoảng nàng hỏi tôi nghĩ gì, và tôi cũng trả lời hết sức, mặc dù có những lúc tôi bịa ra và tôi chắc nàng biết. “Có thật cậu nghĩ ý nghĩa của đoạn này là như vậy không?” nàng hỏi, và tôi xoa cằm ngẫm ngợi trước khi thử trả lời lần nữa. Mặc dù đôi lúc, chính bởi nàng mà tôi không thể tập trung, vì bàn tay nàng đặt trên đầu gối tôi và những cử chỉ đại loại như vậy.

Một tối thứ Sáu, tôi đưa nàng qua nhà tôi ăn tối. Mẹ tôi ngồi cùng khi ăn các món chính, rồi sau đó rời bàn đi ra phòng khách để chúng tôi có thể ở một mình.

Thật tuyệt khi ngồi bên Jamie lúc đó, và tôi biết nàng cũng cảm thấy y như vậy. Lâu rồi nàng không ra khỏi nhà, và đây là một sự thay đổi tốt với nàng.

Từ khi cho tôi biết về bệnh tình, Jamie ngừng búi tóc, và mái tóc buông xõa của nàng vẫn đẹp tuyệt như lần đầu tiên tôi nhìn thấy. Nàng đang ngắm chiếc tủ bày đĩa sứ - mẹ có một cái tủ như thế thắp đèn bên trong – thì tôi với qua bàn và cầm tay nàng.

“Cảm ơn cậu vì đã đến tối nay,” tôi nói.

Nàng hướng sự chú ý lại về phía tôi. “Cảm ơn vì đã mời mình.”

Tôi ngừng lại. “Bố cậu thế nào?”

Jamie thở dài. “Không được khỏe lắm. Mình rất lo cho bố.”

“Ông rất yêu cậu mà, cậu biết đấy.”

“Mình biết.”

“Mình cũng vậy,” tôi nói, và nàng nhìn đi chỗ khác. Nghe tôi nói lời yêu có vẻ lại khiến nàng hoảng sợ.

“Cậu sẽ vẫn đến nhà mình chứ?” nàng hỏi. “Ngay cả về sau, cậu biết rồi đấy, khi mà…?”

Tôi bóp chặt tay nàng, không mạnh, nhưng đủ để nàng biết rằng tôi nói thực lòng.

“Miễn là cậu muốn, mình sẽ tới.”

“Chúng ta không phải đọc Kinh thánh nữa, nếu cậu không muốn.”

“Có chứ,” tôi nói nhẹ nhàng, “mình nghĩ chúng ta sẽ vẫn đọc.”

Nàng bóp nhẹ tay tôi để đáp lại. Ngồi đối diện với tôi, trông nàng thật rạng rỡ.

“Mình yêu cậu, Jamie,” tôi nói một lần nữa, nhưng lần này nàng không hoảng sợ nữa. Thay vào đó, mắt chúng tôi gặp nhau qua bàn, và tôi thấy mắt nàng bắt đầu sáng lên. Nàng thở dài và nhìn đi chỗ khác, lùa tay vào trong tóc, rồi quay lại nhìn tôi. Tôi hôn tay nàng, mỉm cười đáp lại.

“Mình cũng yêu cậu,” cuối cùng nàng thì thầm.

Đó là những lời tôi đã cầu nguyện để được nghe.

Tôi không biết Jamie có kể với Hegbert về tình cảm của nàng dành cho tôi không, nhưng tôi ngờ là không, bởi lề thói hằng ngày của ông chẳng thay đổi chút nào. Ông có thói quen ra khỏi nhà mỗi khi tôi ghé qua sau giờ học, và chuyện này cứ thế tiếp diễn. Tôi gõ cửa và lắng nghe Hegbert giải thích với Jamie rằng ông phải đi và sẽ quay lại trong vòng vài giờ tới. “Vâng, thưa bố,” tôi luôn nghe nàng nói thế, rồi tôi chờ Hegbert mở cửa. Khi đã cho tôi vào nhà rồi, ông sẽ mở tủ ở hành lang, lặng lẽ lấy áo khoác và mũ, cài hết cúc áo trước khi ra khỏi nhà. Áo khoác của ông kiểu cũ, đen và dài, giống kiểu áo khoác nhà binh không khóa, loại thịnh hành đầu thế kỷ. Ông hiếm khi trực tiếp nói với tôi, kẻ cả sau khi ông biết Jamie và tôi bắt đầu đọc Kinh thánh cùng nhau.

Mặc dù ông không thích tôi ở trong nhà nếu ông không có đó, ông vẫn cho tôi vào trong. Tôi biết một phần là do ông không muốn Jamie cảm lạnh vì ngồi ngoài hiên, và cách duy nhất là ông sẽ đợi trong nhà khi tôi ở đó. Nhưng tôi nghĩ Hegbert cũng cần thời gian một mình, và đó mới là lý do thực sự của sự thay đổi này. Ông không cần nói với tôi về nội quy của ngôi nhà – tôi thấy chúng trong mắt ông khi lần đầu tiên ông nói tôi có thể ở lại. Tôi được phép ngồi trong phòng khách, tất cả chỉ có thế.

Jamie vẫn đi lại tương đối bình thường, mặc dù mùa đông làm nàng thật khổ sở. Một đợt gió lạnh tràn về suốt chín ngày cuối tháng Một, kéo theo ba ngày mưa như trút nước. Jamie không có hứng ra khỏi nhà trong thời tiết như thế, mặc dù sau khi Hegbert đi khỏi, nàng và tôi có thể đứng ngoài hiên vài phút để hít thở không khí trong lành của biển. Mỗi khi chúng tôi làm vậy, tôi lại thấy mình đang lo lắng cho nàng.

Trong khi chúng tôi đọc Kinh thánh, mọi người sẽ gõ cửa ít nhất ba lần mỗi ngày. Người ta ghé qua liên tục, vài người mang đồ ăn, những người khác chỉ hỏi thăm. Ngay cả Eric và Margaret cũng đến, và mặc dù Jamie không được phép cho hai đứa vào nhà, nàng vẫn cứ làm thế, chúng tôi ngồi trong phòng khách, trò chuyện một chút, cả hai đứa chúng nó đều không dám nhìn vào mắt nàng.

Cả hai đứa đều hồi hộp, và phải mất mấy phút chúng mới nói vào mục đích chính. Eric đến xin lỗi, nó nói không thể tưởng tượng được tại sao trong số tất cả mọi người, chuyện này lại xảy đến với nàng. Nó cũng muốn tặng nàng một thứ nữa, và nó để một cái phong bì lên bàn, tay run run. Giọng nó nghẹn lại khi nói những lời rung lên cảm xúc chân thành nhất tôi từng nghe nó bày tỏ.

“Cậu là người tốt bụng nhất mà mình từng gặp,” nó nói với Jamie, giọng vỡ vụn, “và mặc dù mình đã lợi dụng điều đó và không phải lúc nào cũng tử tế với cậu, mình muốn cậu biết mình cảm thấy thế nào. Trong đời mình, mình chưa bao giờ cảm thấy hối tiếc về bất kỳ điều gì hơn thế.” Nó ngừng lại và chùi khóe mắt. “Cậu là người tốt nhất mình từng biết.”

Trong lúc nó đang cố gắng ngăn những giọt nước mắt và tiếng sụt sịt, Margaret đã đầu hàng những giọt nước mắt của mình và ngồi khóc trên ghế sofa, không thốt nên lời. Khi Eric nói xong, Jamie chùi nước mắt trên má, chậm rãi đứng lên, và mỉm cười.

Dang rộng vòng tay theo cách chỉ có thể gọi là một cử chỉ tha thứ. Eric tự nguyện đi về phía nàng, cuối cùng bắt đầu khóc một cách công khai khi nàng nhẹ nhàng vuốt tóc nó, thì thầm với nó. Hai người ôm nhau một lúc lâu trong lúc Eric thổn thức mãi đến khi quá kiệt sức không thể khóc được nữa.

Sau đó đến lượt Margaret, và con bé với Jamie cũng làm y như vậy.

Khi Eric và Margaret chuẩn bị đi, hai đứa kéo áo khoác lên và nhìn Jamie thêm một lần nữa, như thể để ghi nhớ nàng mãi mãi. Tôi chắc chắn hai đứa muốn nhớ về nàng với hình ảnh như lúc này. Trong tâm trí tôi, nàng thật đẹp và tôi biết hai đứa bạn mình cũng cảm thấy như vậy.

“Bền chí nhé,” Eric nói trên đường ra đi ra cửa. “Mình sẽ cầu nguyện cho cậu, và tất cả mọi người cũng cầu nguyện cho cậu.” Rồi nó nhìn về phía tôi, với tay ra vỗ nhẹ lên vai tôi. “Cậu cũng thế”, nó nói, mắt nó đỏ hoe. Khi nhìn theo Eric và Margaret đi khỏi, tôi thấy tự hào về hai đứa bạn của mình hơn bao giờ hết.

Sau đó, khi mở phong bì, chúng tôi mới biết việc Eric đã làm. Không nói với chúng tôi, nó đã quyên góp được hơn bốn trăm đô la cho trại trẻ mồ côi. Tôi chờ đợi điều kỳ diệu.

Nó không đến.

Vào đầu tháng Hai, Jamie phải tăng liều thuốc để dịu bớt cơn đau ngày càng dữ dội. Liều lượng cao hơn khiến nàng hoa mắt chóng mặt, và nàng ngã hai lần khi đi vào phòng tắm, một lần đập đầu vào bồn rửa mặt. Sau đó nàng nằng nặc đòi bác sĩ cắt giảm lượng thuốc, và họ ngần ngại đồng ý. Mặc dù nàng có thể đi lại một cách bình thường, sự đau đớn mà nàng phải chịu đựng đã tăng lên, và đôi lúc thậm chí giơ tay lên cũng khiến nàng nhăn mặt. Bạch cầu là một căn bệnh của máu, một thứ chạy khắp cơ thể. Đúng là không có cách nào để thoát khỏi bệnh này chừng nào trái tim nàng còn đập.

Nhưng căn bệnh cũng làm yếu dần phần còn lại cơ thể nàng, bào mòn các cơ, khiến ngay cả những việc rất đơn giản cũng trở nên khó khăn. Trong tuần đầu tiên của tháng Hai, nàng sút gần ba cân, và việc đi lại chẳng mấy chốc trở nên khó khăn với nàng, trừ phi nàng chỉ phải đi một quãng ngắn. Tất nhiên, ấy là nếu nàng có thể chịu đựng được cơn đau, điều mà chẳng mấy nữa nàng không thể làm được. Một lần nữa, nàng quay lại với những viên thuốc, chấp nhận sự hoa mắt chóng mặt thay vì sự đau đớn.

Chúng tôi vẫn đọc Kinh thánh.

Cứ khi nào tới thăm Jamie, tôi cũng thấy nàng đang ngồi trên sofa với cuốn Kinh thánh mở sẵn, và tôi biết rồi cũng đến lúc bố nàng phải bế nàng ra ghế nếu chúng tôi muốn tiếp tục, cả hai chúng tôi đều biết chính xác điều đó có nghĩa là gì.

Tôi đang cạn dần thời gian, và trái tim vẫn đang mách bảo tôi có thể làm điều gì đó hơn thế.


Vào ngày 14 tháng Hai, ngày lễ Tình nhân, Jamie chọn một đoạn từ Thư gửi Corinto có ý nghĩa rất nhiều với nàng. Nàng bảo tôi rằng nếu có cơ hội, đó chính là đoạn nàng muốn được đọc tại lễ cưới của nàng. Đoạn thư như sau:

Tình yêu thì khoan dung, nhân hậu.

Tình yêu không ghen tuông.

Tình yêu không ba hoa, không tự mãn.

Không kiếm nhã, không ích kỷ.

Không cáu kỉnh, không chấp nhận sự giận dữ.

Không mừng trước sự bất công

Mà biết chia vui cùng lòng chân thật.

Trong muôn sự, tình yêu hết lòng bao dung,

Hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy, hết lòng kiên nhẫn.

Jamie là hiện thân chân thật nhất của những mô tả đó.


Ba ngày sau, khi trời đã ấm hơn một chút, tôi chỉ cho nàng một điều tuyệt vời, một điều tôi ngờ rằng nàng chưa từng nhìn thấy trước đó, một điều mà tôi biết nàng muốn thấy.

Đông Bắc Carolina là một vùng đặc sắc và tuyệt đẹp của đất nước, được ưu ái với thời tiết ôn hòa và địa thế tuyệt vời. Không đâu là bằng chứng sống động hơn Bogue Banks này, một hòn đảo ven bờ, gần nơi chúng tôi đã lớn lên. Dài hai mươi tư dặm và rộng gần một dặm ngoài khơi. Những người sống ở đó có thể ngắm cảnh mặt trời mọc và lặn ngoạn mục mỗi ngày trong năm, cả hai cảnh tượng đều diễn ra trên một vùng Đại Tây Dương rộng lớn.

Jamie quấn một đống áo trong áo ngoài, đứng bên cạnh tôi trên mép cầu tầu Iron Steamer trong lúc buổi tối miền Nam hoàn hảo đang dần buông xuống.

Tôi chỉ về phía xa và bảo Jamie chờ. Tôi có thể thấy hơi thở của chúng tôi phả ra, nàng thở rất gấp. Tôi phải đỡ lấy nàng khi đứng đó – nàng dường như còn nhẹ hơn cả lá rụng mùa thu – nhưng tôi chắc chắn tất cả những việc này đều đáng.

Chẳng bao lâu sau, mặt trăng sáng rực với bề mặt lồi lõm bắt đầu đi lên từ dưới biển, tỏa một quầng sáng lên mặt nước đang dần tối đen lại, chia mặt nước ra thành hàng nghìn phần khác nhau, cứ phần sau lại đẹp hơn phần trước đó. Cùng lúc, vầng dương chạm đường chân trời ở hướng đối diện, nhuộm bầu trời với những sắc đỏ, cam và vàng, như thể thiên đường ở trên bỗng mở toang cánh cổng để vẻ đẹp thoát khỏi nơi giam cầm linh thiêng. Đại dương chuyển sang màu bạc óng ánh khi phản chiếu bầu trời chuyển sắc, mặt nước gợn sóng và lấp lánh ánh sáng đang biến đổi, cảnh tượng thật huy hoàng, gần như thuở khai thiên lập địa vậy. Mặt trời tiếp tục chìm dần xuống, tỏa ánh sáng rực rỡ ngút tầm mắt trước khi dần biến mất dưới những con sóng. Mặt trăng tiếp tục chuyển thành nghìn sắc vàng khác nhau, sắc vàng sau lại nhạt hơn sắc vàng trước đó, và cuối cùng chuyển thành màu sắc của những vì sao.

Jamie nhìn ngắm quang cảnh này trong im lặng, tay tôi ôm chặt nàng, hơi thở của nàng ngắn và yếu. Cuối cùng khi bầu trời chuyển sang màu đen và những tia sáng lấp lánh đầu tiên bắt đầu xuất hiện ở bầu trời phía Nam xa xa, tôi ôm nàng trong vòng tay mình. Tôi dịu dàng hôn lên cả hai má nàng và cuối cùng hôn môi nàng.

“Đó”, tôi nói, “chính là những gì mình cảm nhận về cậu”.


Một tuần sau, những chuyến đi đến bệnh viện của Jamie trở nên thường xuyên hơn, mặc dù nàng khăng khăng không muốn ở lại đó qua đêm. “Mình muốn chết ở nhà”, là tất cả những gì nàng nói. Bởi vì các bác sĩ chẳng thể làm gì giúp nàng, họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận ước muốn của nàng.

Ít nhất là trong thời điểm hiện tại.


“Mình đã nghĩ về mấy tháng vừa qua”, tôi nói với nàng.

Chúng tôi đang ngồi trong phòng khách, nắm tay nhau đọc Kinh thánh. Gương mặt nàng đang gầy đi, tóc nàng bắt đầu mất vẻ trơn láng. Tuy nhiên mắt nàng, đôi mắt màu xanh nhạt, vẫn đẹp như thủa nào.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2011 16:28:39 | Chỉ xem của tác giả
Chương 12 (tiếp ...)

Tôi không nghĩ tôi từng biết ai có đôi mắt đẹp như thế.

“Mình cũng nghĩ về thời gian qua”, nàng nói.

“Cậu đã biết, kể từ ngày đầu tiên trong lớp cô Garber, rằng mình sẽ diễn vở kịch đúng không. Lúc cậu nhìn mình và mỉm cười ấy?”

Nàng gật đầu. “Ừ”.

“Và khi mình mời cậu tới buổi vũ hội đầu năm học, cậu bắt mình phải hứa rằng sẽ không yêu cậu, nhưng cậu cũng biết mình sẽ yêu , đúng không?”

Mắt nàng ánh lên vẻ tinh nghịch. “Ừ”.

“Làm thế nào mà cậu biết thế?”

Nàng nhún vai mà không trả lời, và chúng tôi ngồi cạnh nhau một lúc, ngắm mưa tạt vào cửa sổ.

“Khi mình bảo sẽ cầu nguyện cho cậu”, cuối cùng nàng nói với tôi, “cậu nghĩ lúc ấy mình đang nói về điều gì?”


Bệnh tình của nàng trầm trọng lên khi tháng Ba tới. Nàng uống nhiều thuốc hơn vì những cơn đau, và cảm thấy quá buồn nôn nên không ăn gì nhiều. Nàng mỗi lúc một yếu, có vẻ như sắp phải nằm viện, ngược lại với mong muốn của nàng.

Chính bố mẹ tôi là người thay đổi tất cả.

Bố tôi lái xe từ Washington về nhà, vội vã bỏ đi mặc dù Quốc hội vẫn còn đang trong phiên họp. Có vẻ như mẹ tôi đã gọi điện và nói nếu ông không về nhà ngay thì cứ ở Wasington mãi mãi.

Khi mẹ kể với bố về chuyện đang xảy ra, bố tôi nói Hegbert sẽ không đời nào chấp nhận sự giúp đỡ của ông, rằng những vết thương quá sâu sắc, rằng đã quá muộn để làm bất cứ điều gì.

“Chuyện này không phải về gia đình của anh, cũng không phải về Cha Sullivan, hay bất cứ điều gì xảy ra trong quá khứ”, mẹ nói với bố, không chịu chấp nhận câu trả lời của ông. “Đây chính là về con trai anh, tình cờ phải lòng một cô gái bé nhỏ, người cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Và anh sẽ tìm ra cách để giúp đỡ cô bé:.

Tôi không biết bố tôi đã nói gì với Hegbert hay ông phải hứa những gì hoặc mọi chuyện cuối cùng tốn kém bao nhiêu. Tất cả những gì tôi biết là Jamie nhanh chóng được vây quanh bởi những thiết bị đắt tiền, được cung cấp các loại thuốc nàng cần, và được trông nom bởi hai y tá toàn thời gian với một bác sĩ ghé thăm nàng nhiều lần trong ngày.

Jamie có thể ở lại nhà.

Đêm đó lần đầu tiên trong đời, tôi khóc trên vai bố.

“Cậu có hối tiếc điều gì không?” tôi hỏi nàng. Nàng mằn trên giường, dưới những lớp chăn, tay được nối với ống dẫn truyền loại thuốc nàng cần. Gương mặt nàng nhợt nhạt, cơ thể nàng nhẹ bỗng. Nàng gần như không thể bước đi, giờ đây nàng cần phải có người giúp mới đi lại được.

“Landon, tất cả chúng ta đều có những điều hối tiếc”, nàng nói, “nhưng mình đã sống một cuộc sống tuyệt vời”.

“Làm sao cậu có thể nói thế được?” tôi thốt lên, không giấu nổi nỗi đau đớn. “Với tất cả những gì đang xảy ra với cậu sao?”

Nàng yếu ớt bóp tay tôi, mỉm cười dịu dàng với tôi.

Mặc cho nước mắt đang lăn dài, tôi cười lớn rồi ngay lập tức cảm thấy tội lỗi vì đã làm thế. Đáng ra tôi phải động viên nàng, chứ không phải là ngược lại. Jamie tiếp tục.

“Nhưng ngoài bệnh tật ra, mình hạnh phúc, Landon ạ. Mình thực sự hạnh phúc. Mình có một người bố đặc biệt dạy mình về Chúa trời. Mình có thể nhìn lại và biết rằng mình đã cố hết sức để giúp đỡ những người khác.” Nàng ngừng lại và nhìn vào mắt tôi. “Thậm chí mình đã yêu và có một người đáp lại”.

Tôi hôn tay nàng khi nàng nói điều đó, rồi bàn giữ bàn tay ấy trên má mình.

“Thật không công bằng”, tôi nói.

Nàng không trả lời.

“Cậu vẫn sợ ư?”, tôi hỏi

“Ừ”.

“Mình cũng sợ”, tôi nói.

“Mình biết. Mình xin lỗi”

“Mình có thể làm gì?” tôi tuyệt vọng hỏi. “Mình không biết nên làm gì nữa”

“Cậu sẽ đọc cho mình chứ?”

Tôi gật đầu mặc dù chẳng biết liệu tôi có thể đọc hết trang tiếp theo mà không khóc òa lên hay không.

Chúa ơi, làm ơn hãy nói cho con biết phải làm gì!


“Mẹ này?” tôi nói chuyện với mẹ đêm hôm đó.

“Gì thế con?”

Chúng tôi đang ngồi trên sofa phòng khách, lò sưởi đang cháy trước mặt. Trước đó,Jamie đã ngủ gục trong lúc tôi đọc cho nàng, và biết nàng cần nghỉ ngơi, tôi khẽ khàng rời khỏi phòng. Nhưng trước khi đi, tôi dịu dàng hôn lên má nàng. Nụ hôn vô hại, nhưng Hegbert vào đúng lúc đó, và tôi thấy những cảm xúc trái ngược trong mắt ông. Ông nhìn tôi, biết rằng tôi yêu con gái ông, nhưng đồng thời cũng biết tôi vừa phá vỡ một trong những quy định trong nhà ông, dù là một quy định bất thành văn đi chăng nữa. Nếu nàng khỏe mạnh, tôi biết ông sẽ chẳng bao giờ cho phép tôi quay trở lại nhà. Vì thế, tôi đi ra phía cửa.

Cũng không thể trách ông được. Tôi nhận ra ở bên Jamie làm tôi cạn kiệt năng lượng đến nỗi chẳng hơi đâu mà tổn thương bởi thái độ của ông. Nếu Jamie từng dạy tôi bất kỳ điều gì trong những tháng vừa qua, nàng đã chỉ cho tôi thấy rằng hành động – chứ không phải suy nghĩ hay ý định – mới chính là cách để đánh giá người khác, và tôi biết hôm sau Hegbert vẫn sẽ cho phép tôi vào nhà. Tôi nghĩ về chuyện này lúc ngồi xuống cạnh mẹ trên sofa.

“Mẹ có nghĩ rằng chúng ta ai cũng có một mục đích trong đời không?” tôi hỏi.

Đó là lần đầu tiên tôi hỏi mẹ một câu như vậy, nhưng quãng thời gian này đâu phải những ngày bình thường.

“Mẹ không chắc mình hiểu điều con muốn hỏi” bà nói, cau mày.

“Ý con là...làm sao mẹ biết được mình phải làm gì?”

“Con đang hỏi mẹ về việc ở bên Jamie à?”

Tôi gật đầu, mặc dù tôi vẫn còn bối rối. “Gần như thế. Con biết con đang làm điều đúng đắn nhưng...vẫn còn thiếu gì đó. Con ở bên nàng, bọn con nói chuyện và đọc Kinh thánh, nhưng...”

Tôi ngừng lại, và mẹ tôi kết thúc suy nghĩ ấy hộ tôi.

“Con nghĩ mình nên làm điều gì hơn thế nữa?”

Tôi gật đầu.

“Mẹ cũng không biết con có thể làm điều gì khác hay không đâu cưng à”, mẹ nói dịu dàng.

“Vậy tại sao con lại cảm thấy như thế này?”

Bà nhích lại gần tôi hơn một chút trên ghế sofa, và chúng tôi cùng ngắm ngọn lửa.

“Mẹ nghĩ đó là bởi vì con sợ hãi và cảm thấy mình không giúp gì được, và mặc dù con đang nỗ lực, mọi thứ cứ mỗi lúc một khó khăn hơn – cho cả hai đứa con. Và con cố gắng, mọi chuyện lại càng trở lên vô vọng”.

“Có cách nào để không còn cảm thấy như vậy không?”

Mẹ choàng tay quanh người tôi và kéo tôi lại gần. “Không”, bà nói khẽ, “chẳng có cách nào hết”.


Ngày hôm sau Jamie không thể ra khỏi giường. Vì lúc này nàng quá yếu, không thể đi lại ngay cả khi được giúp đỡ, chúng tôi bèn đọc Kinh thánh trong phòng nàng.

Chỉ được vài phút là nàng thiếp đi.


Một tuần nữa trôi qua và tình trạng của Jamie trở lên tồi tệ hơn, cơ thể nàng yếu dần. Nằm liệt giường, trông nàng nhỏ bé hơn, gần giống như một bé gái vậy.

“Jamie”, tôi van nài, “mình có thể làm gì cho cậu?”

Jamie, Jamie yêu quý của tôi, đã ngủ một mạch hàng tiếng đồng hồ rồi, ngay cả khi tôi trò chuyện với nàng. Nàng không hề cử động khi nghe thấy giọng tôi; hơi thở của nàng nhanh và yếu ớt.

Tôi ngồi bên cạnh giường nhìn ngắm nàng một lúc lâu, thầm nghĩ tôi yêu nàng đến nhường nào. Tôi nắm tay nàng đưa lại gần ngực  mình, cảm nhận sự gầy guộc của những ngón tay. Tôi gần như chỉ muốn khóc ngay lúc đó, nhưng thay vì vậy, tôi đặt tay nàng xuống và quay mặt về phía cửa sổ.

Tại sao, tôi tự hỏi, thế giới của tôi đột nhiên sụp đổ như vậy? Tại sao tất cả chuyện này lại xảy ra với một người như nàng? Tôi tự hỏi có bài học lớn nào từ những chuyện đang xảy ra hay không. Có phải tất cả chỉ là một phần kế hoạch của Chúa, như Jamie vẫn nói, hay không? Phải chăng Chúa muốn tôi yêu nàng? Hay tình yêu ấy là do tôi tự nguyện? Jamie càng ngủ lâu, tôi càng cảm nhận rõ rệt sự hiện diện của nàng bên cạnh tôi, tuy nhiên đáp án cho những câu hỏi kia cũng chẳng sáng sủa hơn.

Bên ngoài, những giọt mưa cuối cùng của buổi sáng đã rơi xuông. Đó là một ngày u ám, nhưng lúc này ánh nắng buổi chiều muộn đang xuyên qua những đám mây. Trong không khí mùa xuân mát mẻ, tôi thấy những dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh. Cây cối đâm chồi nảy lộc, những chiếc lá chờ thời điểm thích hợp để vươn mình đón một mùa hè nữa.

Trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường nàng, tôi nhìn thấy bộ sưu tập những vật dụng mà Jamie rất trân trọng. Những bức ảnh của bố nàng, đang bế bé gái Jamie, rồi đang đứng ngoài cồng trường ngày đầu tiên nàng đi mẫu giáo; một chồng thiếp từ bọn trẻ trong trại mồ côi. Thở dài, tôi với lấy tấm thiệp và mở tấm trên cùng.

Tấm thiệp viết đơn giản bằng chì màu:

Mong chị sớm khỏe lên. Em nhớ chị.

Tấm thiệp được ký tên Lydia, cô bé ngủ trong lòng Jamie vào đêm Giáng sinh. Tấm thiệp thứ hai cũng thể hiện tình cảm như thế, nhưng điều thực sự thu hút sự chú ý của tôi chính là bức tranh mà đứa trẻ Roger, đã vẽ. Nó vẽ một con chim, đang bay liệng trên cầu vồng.

Nghẹn ngào, tôi gập tấm thiệp lại. Tôi không thể chịu đựng được việc nhìn lâu hơn nữa, và ngay khi tôi để chồng thiệp vào chỗ cũ, tôi để ý thấy một chồng báo được cắt ra, gần cốc nước của nàng. Tôi với lấy mẩu báo và nhận ra đó chính là bài báo về vở kịch, được đăng trên tờ báo Chủ nhật, một ngày sau khi chúng tôi hoàn thành buổi biểu diễn. Ở phía trên bài báo, tôi thấy bức ảnh chụp duy nhất từng được chụp của hai đứa.

Chuyện như thể đã lâu lắm rồi. Tôi đưa bài báo lại gần mặt hơn. Tôi nhìn chằm chằm, rồi cố nhớ lại cảm xúc cửa mình lúc thấy nàng đêm đó. Nhìn chăm chú thật gần bức ảnh của nàng, tôi tìm kiếm dấu hiệu cho thấy nàng lường trước được những điều sắp xảy đến. Tôi biết nàng đã dự cảm thấy, những biểu hiện của nàng đêm ấy không tiết lộ bất cứ thứ gì. Thay vào đó, tôi chỉ nhìn thấy niềm hạnh phúc rạng rỡ. Một lát sau tôi thở dài và đặt bài báo sang một bên.

Cuốn Kinh thánh vẫn để mở nơi tôi đặt xuống, mặc dầu Jamie đang ngủ, tôi thấy muốn đọc thêm nữa. Cuối cùng tôi đọc sang một đoạn khác. Đoạn ấy như sau:

Tôi nói thế không phải để ra lệnh cho anh em đâu,

Mà tôi chỉ nêu lên lòng nhiệt thành của người khác để xem lòng yêu mến của anh em chân tình đến mức nào.

Những lời đó khiến tôi nghẹn lại lần nữa, và đúng lúc tôi sắp khóc, ý nghĩa của đoạn Kinh thánh đột nhiên trở lên rõ ràng.

Cuối cùng Chúa đã trả lời tôi, và đột nhiên tôi biết mình phải làm gì.


Chắc là tôi không thể phi tới nhà thờ nhanh hơn lúc đây được, kể cả khi tôi đi bằng ô tô. Tôi đi đường tắt, chạy qua sân sau nhà mọi người, trèo qua tường rào, và có lúc còn đi xuyên qua gara của ai đó và ra ở lối cửa hông. Mọi điều tôi biết về thị trấn này đều được đem ra vận dụng, và mặc dù chưa bao giờ là một vận động viên giỏi đặc biệt, ngày hôm đó tôi có cảm giác bất bại, cảm giác thôi thúc bởi những gì mình phải làm.

Tôi không quan tâm trông mình trông như thế nào lúc đến, bởi tôi ngờ rằng Hegbert cũng chẳng quan tâm. Cuối cùng khi vào nhà thờ, tôi đi chậm lại, cố gắng thở đều đặn rồi bước tới phía sau nhà thờ, về văn phòng của Hegbert.

Hegbert ngước lên khi ông trông thấy tôi, và tôi biết tại sao ông ở đây. Ông không mời tôi vào ông chỉ quay lại nhìn về phía cửa sổ. Ở nhà, ông đã chống chọi với bệnh tật của nàng bằng cách lau chùi nhà cửa theo một cách gần như ám ảnh. Ở đây, báo chí nằm rải rác trên bàn, sách vở vương vãi trong phòng như thể không được ai sắp xếp lại hàng tuần rồi. Tôi biết đây là nơi ông nghĩ về Jamie, đây là nowu Hegbert đến để khóc.

“Thưa Cha?” tôi nói khẽ.

Ông không trả lời, nhưng dù gì thì tôi vẫn bước vào.

“Ta muốn ở một mình” ông rền rĩ.

Trông ông già nua, rệu rã và mệt mỏi như những người Israel được miêu tả trong các bài Thánh vịnh của David. Gương mặt ông rúm ró, và tóc ông ngày càng mỏng hơn kể từ tháng Mười hai. Thậm chí hơn cả tôi, có lẽ ông đã phải giữ vững tinh thần mình khi ở bên Jamie, và áp lực của việc này đang làm ông kiệt sức.

Tôi bước tới bên bàn làm việc của ông, ông liếc nhìn tôi rồi quay lại phía cửa sổ.

“Làm ơn”, ông nói với tôi. Giọng ông mệt mỏi, như thể ông không có sức mạnh để đối diện với bất cứ ai, ngay cả tôi.

“Con muốn nói chuyện với Cha”, tôi nói chắc nịch. “Việc này rất quan trọng, nếu không con đã không đến đây”.

Hegbert thở dài, rồi tôi ngồi trên cái ghế mình đã từng ngồi trước đây, lúc xin phép ông cho đưa Jamie đi chơi đêm giao thừa.

Ông lắng nghe tôi trình bày với ông dự định của mình.

Khi tôi dứt lời, Hegbert quay về phía tôi. Tôi không biết ông nghĩ gì lúc ấy, nhưng ơn Chúa, ông không phản đối. Thay vào đó, ông quệt mắt rồi quay về phía cửa sổ.

Ngay cả ông, tôi nghĩ, cũng quá ngỡ ngàng không nói lên lời.


Tôi lại chạy không biết mệt, quyết tâm trong tôi đã đem lại sức mạnh tôi cần để tiếp tục. Khi đến nhà Jamie, tôi ào vào trong mà không gõ cửa, cô y tá đang ở trong phòng ngủ của nàng đi ra để xem cái gì gây ra tiếng ồn. Tôi lên tiếng trước khi cô ta có thể nói.

“Cô ấy thức chứ?” tôi hỏi, vừa háo hức vừa lo sợ.

“Có”, cô y tá cảnh giác nói. “Lúc thức dậy, cô ấy hỏi cậu ở đâu”

Tôi xin lỗi vì vẻ ngoài tơi tả của mình và cảm ơn cô y tá, rồi hỏi liệu cô có thể để chúng tôi lại một mình không. Tôi đi vào phòng Jamie, nhẹ nhàng đóng cửa sau lưng. Nàng rất nhợt nhạt, xanh xao, nhưng nụ cười của nàng cho tôi biết nàng vẫn đang cố gắng.

“Chào Landon”, nàng nói, giọng yếu ớt, “cảm ơn cậu đã quay lại”

Tôi kéo một cái ghế ngồi cạnh, đặt tay nàng trong tay tôi. Nhìn nàng nằm đó, tôi cảm thấy lòng quặn lên, tôi cảm thấy gần như muốn khóc.

“Lúc trước mình có ở đây, nhưng cậu ngủ”, tôi nói.

“Mình biết...Mình xin lỗi. Mình không thể chống lại cơn buồn ngủ”.

“Không sao mà, thật đấy”

Nàng nâng nhẹ tay lên khỏi giường, tôi hôn bàn tay ấy, rồi cúi xuống và hôn vào má nàng.

“Cậu có yêu mình không?” tôi hỏi nàng.

Nàng mỉm cười “Có”

“Cậu có muốn mình hạnh phúc không?”. Khi tôi hỏi nàng câu này, tôi cảm thấy tim mình bắt đầu đập rộn rã.

“Tất nhiên là mình muốn”

“Thế thì cậu sẽ làm một điều cho mình chứ?”

Nàng quay đi, nét mặt buồn bã. “Mình không biết mình có thể làm gì được nữa”, nàng nói.

“Nhưng nếu có thể, cậu sẽ làm chứ?”

Không thể miêu tả đầy đủ sự căng thẳng tôi cảm thấy vào giây phút đó. Yêu thương, giận dữ, buồn bã, hy vọng và sự sợ hãi hòa trộn với nhau càng trở nên rõ rệt thêm bởi nỗi hồi hộp trong tôi. Jamie nhìn tôi dò hỏi, và hơi thở của tôi trở lên gấp gáp hơn. Đột nhiên tôi biết mình sẽ chẳng bao giờ yêu một ai khác mãnh liệt như lúc này. Nhận ra điều đơn giản ấy khi đáp lại cái nhìn chăm chú của nàng khiến tôi cầu mong lần thứ một triệu rằng tôi có thể khiến toàn bộ chuyện này biến mất. Nếu có thể, tôi sẵn sàng đánh đổi cuộc sống của mình cho nàng. Tôi muốn nói với nàng những điều mình đang nghĩ, nhưng giọng nàng vang lên đột ngột làm thinh lặng những cảm xúc trong tôi.

“Ừ”, cuối cùng nàng nói, giọng nàng dù yếu ớt nhưng vẫn tràn đầy hứa hẹn. “Mình sẽ làm”

Cuối cùng, khi đã lấy lại được bình tĩnh, tôi hôn nàng lần nữa, rồi đưa tay lên mặt nàng, nhẹ nhàng vuốt má nàng. Tôi sửng sốt trước sự mềm mại của làn da nàng, sự dịu dàng tôi thấy trong mắt nàng. Ngay cả lúc ốm nặng nàng vẫn hoàn hảo.

Cổ họng tôi bắt đầu nghẹn lại, nhưng khi tôi nói, tôi biết mình phải làm gì đó. Bởi tôi phải chấp nhận mình không có khả năng cứu nàng, tôi muốn mang lại cho nàng điều nàng luôn mơ ước.

Đó chính là điều trái tim mách bảo.

Lúc này tôi mới hiểu ra Jamie đã từng cho tôi câu trả lời tôi vẫn hằng tìm kiếm, câu trả lời trái tim tôi cần phải tìm ra. Nàng đã nói cho tôi biết câu trả lời khi chúng tôi ngồi bên ngoài văn phòng của ông Jenkins, vào cái đêm hai đứa xin phép ông về việc biểu diễn vở kịch.

Tôi mỉm cười dịu dàng, và nàng đáp lại tình cảm của tôi bằng cách bóp nhẹ tay tôi, như thể tin tưởng những gì tôi sắp làm. Được khuyến khích, tôi cúi xuống gần hơn và hít một hơi thật sâu. Khi tôi thở ra, đây là những từ thốt ra cùng với hơi thở.

“Em sẽ lấy anh chứ?”

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 10-10-2011 16:29:54 | Chỉ xem của tác giả
Chương 13


Năm mười bảy tuổi, cuộc đời tôi vĩnh viễn thay đổi.

Bốn mươi năm sau, dạo bước trên những con phố ở Beaufort, nghĩ về năm đó trong cuộc đời mình, tôi nhớ mọi thứ rõ ràng như thể tất cả đang được mở ra trước mắt.

Tôi nhớ Jamie nói đồng ý trước câu hỏi hụt hơi của tôi và cả hai chúng tôi bắt đầu cùng khóc như thế nào. Tôi nhớ mình đã nói chuyện với cả Hegbert và bố mẹ tôi, giải thích với họ những gì tôi cần làm. Họ nghĩ tôi làm điều đó chỉ vì Jamie, và cả ba đều cố gắng thuyết phục tôi từ bỏ ý định ấy, đặc biệt khi họ biết Jamie đã đồng ý. Họ không hiểu và tôi phải cho mọi người thấy rằng tôi cần làm điều đó vì chính mình.

Tôi yêu nàng, yêu sâu sắc đến mức tôi không quan tâm chuyện nàng ốm đau. Tôi không cần biết hai đứa sẽ không ở bên nhau được lâu. Không điều gì trong số đó quan trọng với tôi. Tất cả những gì tôi quan tâm là làm điều  đúng đắn mà trái tim tôi mách bảo. Tôi nghĩ đó là lần đầu tiên Chúa trực tiếp nói với tôi, và tôi biết chắc mình không thể không vâng lời.

Tôi biết vài người sẽ băn khoăn có phải tôi làm vậy vì lòng trắc ẩn. Vài người cay độc hơn thậm chí tự hỏi có phải tôi làm thế bởi dù gì nàng cũng sớm ra đi và tôi chẳng phải cam kết gì nhiều. Câu trả lời cho cả hai câu hỏi là không. Cho dù có chuyện gì xảy ra, tôi cũng cưới Jamie Sullivan. Nếu điều kỳ diệu tôi cầu nguyện bỗng trở thành sự thật, tôi vẫn cưới Jamie Sullivan. Tôi chắc chắn như vậy lúc cầu hôn nàng, và đến giờ tôi vẫn chắc chắn.

Jamie là người phụ nữ tôi yêu thương vô hạn. Năm đó, Jamie đã giúp tôi trở thành người đàn ông là tôi hiện tại. Với tính kiên định, nàng cho tôi thấy giúp đỡ người khác quan trọng như thế nào; với sự kiên nhẫn và lòng tốt, nàng cho tôi thấy cuộc sống này thực sự là gì. Sự vui vẻ và lạc quan của nàng, ngay cả trong thời gian đau ốm, là điều kỳ diệu nhất tôi từng chứng kiến.

Hegbert làm lễ cưới cho chúng tôi trong nhà thờ Baptist, bố tôi là phù rể, đứng cạnh tôi. Thêm một điều nàng làm được. Để bố làm phù rể là một truyền thống ở miền Nam, nhưng trước khi Jamie xuất hiện trong đời tôi, truyền thống đó không có nhiều ý nghĩa đến vậy. Jamie đưa bố và tôi lại gần nhau; bằng cách nào đó nàng cũng thành công trong việc hàn gắn vết thương giữa hai gia đình. Cuối cùng, sau những gì bố làm cho tôi và Jamie, tôi biết bố là người tôi luôn có thể trông cậy, và nhiều năm sau đó, hai bố con càng lúc càng gắn bó hơn cho đến khi ông mất.

Jamie cũng dạy tôi giá trị của sự tha thứ và sức mạnh chuyển hóa mà nó mang lại. Tôi nhận ra điều này vào ngày Eric và Margaret tới nhà hàng. Jamie không hề hằn học. Nàng sống giống như Kinh thánh đã dạy.

Jamie không chỉ là thiên thần cứu rỗi Tom Thornton mà nàng còn là thiên thần cứu rỗi tất cả chúng tôi.


Đúng như nàng mong muốn, nhà thờ chật cứng người. Khi chúng tôi làm lễ cưới vào ngày 12 tháng Ba năm 1959, trong nhà thờ có hơn hai trăm người tới dự, và ở bên ngoài còn đông hơn. Vì lễ cưới chỉ được báo trước trong một thời gian ngắn như vậy, nên không có thời giờ để chuẩn bị nhiều, và mọi người xuất hiện để khiến ngày hôm đó trở nên đặc biệt nhất có thể, chỉ bằng cách đơn giản là có mặt để ủng hộ chúng tôi. Tôi nhìn thấy tất cả những người tôi biết – cô Garber, Eric, Margaret, Eddie, Sally, Carey, Angela, thậm chí cả Lew và bà cậu ta – và không có lấy một đôi mắt nào không ướt lệ trong nhà thờ khi nhạc lễ cất lên. Mặc dù Jamie rất yếu và đã hai tuần rồi không hề ra khỏi giường, nàng vẫn khăng khăng đòi bố nàng dắt đi giữa hai hàng ghế. “Landon, điều đó rất quan trọng với em,” nàng nói. “Đó là một phần giấc mơ của em, nhớ không?” Mặc dù cho điều đó là không thể, tôi chỉ gật đầu. Tôi không thể không sửng sốt trước đức tin của nàng.

Tôi biết nàng định mặc chiếc váy mà nàng đã mặc ở Nhà hát đêm công diễn vở kịch. Đó là chiếc váy trắng duy nhất có sẵn trong thời gian ngắn ngủi đến thế, mặc dù tôi biết nàng mặc sẽ bị rộng hơn so với trước đây. Trong khi tôi đang băn khoăn không biết Jamie trông như thế nào trong chiếc vày đó thì bố đặt tay lên vai tôi khi chúng tôi đứng trước giáo đoàn.

“Bố tự hào về con, con trai.”

Tôi gật đầu. “Con cũng tự hào về bố.”

Đó là lần đầu tiên tôi nói những lời ấy với ông.

Mẹ tôi ở hàng đầu tiên, chấm khăn tay lên mắt khi bảnWedding March cất lên. Cửa mở ra và tôi nhìn thấy Jamie, ngồi trên xe lăn, cô y tá bên cạnh. Với toàn bộ sức lực còn lại, Jamie run rẩy đứng dậy khi Hegbert đỡ nàng. Rồi Jamie và Hegbert chầm chậm bước giữa hai hàng ghế, trong lúc tất cả mọi người trong nhà thời ngồi yên lặng kinh ngạc. Được nửa đường, Jamie đột nhiên có vẻ mệt mỏi, và họ ngừng lại trong lúc nàng lấy hơi. Mắt nàng nhắm lại, và trong một khoảnh khắc tôi không nghĩ nàng có thể tiếp tục. Tôi biết chỉ mới chưa đến mười hay mười hai giây trôi qua thôi, nhưng tôi có cảm giác như lâu hơn nhiều, cuối cùng nàng khẽ gật đầu. Rồi Jamie và Hegbert tiếp tục bước đi, và tôi thấy trái tim mình trào dâng niềm tự hào.

Tôi nhớ mình đã nghĩ đó là đoạn đường khó khăn nhất đối với bất cứ ai.

Đó là đoạn đường đáng nhớ, về mọi mặt.

Cô y tá đẩy chiếc xe lăn lên trước Jamie và Hegbert trong lúc hai người đi về phía tôi. Cuối cùng, khi nàng đến bên tôi, có những tiếng thở hổn hển vui mừng và tất cả mọi người bắt đầu đồng loạt vỗ tay. Cô y tá đẩy xe lăn tới, và Jamie lại ngồi xuống, kiệt sức. Mỉm cười, tôi quỳ xuống ngang tầm nàng. Bố tôi cũng làm như vậy.

Hegbert, sau khi hôn lên má Jamie, liền cầm lấy cuốn Kinh thánh để bắt đầu buổi lễ. Lúc này thì hoàn toàn là công việc, ông dường như vừa từ bỏ vai trò là cha Jamie để đóng vai một người không mấy quen thân, nơi ông có thể giữ những cảm xúc của mình trong vòng kiểm soát. Vậy nhưng tôi có thể thấy ông đang cố gắng giữ bình tĩnh khi đứng trước chúng tôi. Ông đeo kính lên, mở cuốn Kinh thánh rồi nhìn Jamie và tôi. Hegbert cao vượt lên hẳn so với chúng tôi, và tôi có thể nói rằng ông không liệu trước chúng tôi lại ở thấp đến thế. Trong một thoáng, ông đứng trước chúng tôi, hơi bối rối, rồi bất ngờ cũng quyết định quỳ xuống, Jamie mỉm cười và với lấy bàn tay không cầm Kinh thánh của ông, rồi với lấy tay tôi, liên kết chúng tôi lại với nhau.

Hegbert cử hành buổi lễ theo cách truyền thống, rồi đọc đoạn trích trong cuốn Kinh thánh mà Jamie đã có lần chỉ cho tôi. Biết nàng yếu đến thế nào, tôi nghĩ ông sẽ để chúng tôi đọc lời thề nguyện ngay lập tức, nhưng một lần nữa Hegbert lại làm tôi ngạc nhiên. Ông nhìn Jamie và tôi, rồi giáo đoàn, rồi quay lại nhìn chúng tôi, như thể tìm kiếm lời lẽ thích hợp.

Ông hắng giọng và nói cao giọng để tất cả mọi người có thể nghe thấy. Đây là những gì ông nói:

“ Với tư cách là một người cha, tôi có trách nhiệm trao gửi con gái mình, nhưng tôi không chắc có thể làm điều này.”

Giáo đoàn trở nên im lặng, và Hegbert gật đầu với tôi, muốn tôi kiên nhẫn. Jamie bóp tay tôi động viên.

“Tôi không thể trao Jamie đi cũng như chẳng thể cho đi trái tim mình. Nhưng điều tôi có thể làm là để một người khác cùng chia sẻ niềm vui mà con bé đã luôn mang đến cho tôi. Cầu Chúa ban phước lành cho hai con.”

Đó chính là lúc ông đặt cuốn Kinh thánh sang một bên. Ông với tới trước, đưa tay ông cho tôi, và tôi nắm lấy bàn tay ấy, hoàn thiện một vòng tròn.

Rồi ông để chúng tôi đọc lời thề nguyền. Bố đưa cho tôi chiếc nhẫn mẹ tôi đã chọn giúp, và Jamie cũng trao nhẫn cho tôi. Chúng tôi đeo nhẫn cho nhau. Hegbert ngắm nhìn nghi thức ấy, và cuối cùng khi hoàn tất, ông tuyên bố chúng tôi là vợ chồng. Tôi hôn Jamie nhẹ nhàng, rồi nắm tay nàng trong tay tôi, mẹ tôi bắt đầu khóc. Trước mặt Chúa và tất cả những người khác, tôi đã hứa sẽ yêu và tận tâm với nàng, khi ốm đau lẫn khi khỏe mạnh, và tôi chưa bao giờ cảm thấy tuyệt với đến thế.

Tôi nhớ đó là khoảnh khắc đẹp nhất đời mình.


Giờ đây, bốn mươi năm sau, tôi vẫn nhớ được tất cả mọi chi tiết trong ngày đó. Tôi có thể già đi và khôn ngoan hơn, tôi có thể đã sống cuộc sống khác sau ngày đó, nhưng tôi biết rằng cuối cùng, khi tôi rời xa thế giới này, những kỷ niệm về ngày ấy sẽ là những hình ảnh cuối cùng trôi qua tâm trí tôi. Tôi vẫn yêu nàng, bạn thấy đấy, và tôi sẽ chẳng bao giờ tháo bỏ chiếc nhẫn của mình. Trong chừng ấy năm, tôi chưa bao giờ muốn làm thế.

Tôi thở thật sâu, hít hà không khí trong lành của mùa xuân. Dù Beaufort thay đổi và tôi cũng thay đổi nhưng bầu không khí ở đây vẫn vậy. Vẫn là không khí của tuổi thơ tôi, không khí của năm tôi mười bảy tuổi, và cuối củng khi thở ra, tôi đã năm mươi bảy tuổi rồi. Nhưng thế cũng chẳng sao. Tôi khẽ mỉm cười, nhìn lên trời, biết rằng có một điều tôi vẫn chưa nói với bạn: xin thưa, giờ thì tôi tin rằng những điều kỳ diệu có thể xảy ra.


HẾT

Bình luận

dài quá hoa hết cả mắt @@, để từ từ rồi đọc vậy :D  Đăng lúc 11-10-2011 08:23 PM
@ All: thanks mọi người :x ; @ ss Pasta: Ôi,em có bảo ss ăn bớt giờ của nhà nước đâu mà ss kêu lên cơ quan đọc =)) ...lúc nào ss rảnh thì đọc thâu :))   Đăng lúc 10-10-2011 10:03 PM
thanks tình iêu, tình iêu vất vả tóa ^^. Ta sẽ đọc tình iêu ạ.  Đăng lúc 10-10-2011 10:01 PM
cám ơn em nhé, mai ss lên cơ quan sẽ đọc truyện này rồi nêu cảm nghĩ sau em nhé  Đăng lúc 10-10-2011 09:56 PM
^^ thế này là mắt ta tăng độ rùi nàng, thanks nàng :x  Đăng lúc 10-10-2011 09:38 PM

Rate

Số người tham gia 2Sức gió +10 Thu lại Lý do
nghia89vn + 5 Bài viết hữu ích :X
bnchip + 5 bravo em Mo iu của ss :x

Xem tất cả

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
Đăng lúc 11-10-2011 09:30:14 | Chỉ xem của tác giả
cảm ơn nàng đã chia sẻ với ta nhá
hum nào mạng nhà ta bình thường trở lại rồi thì ta sẽ đọc hết nàng ạ
yêu nàng lắm
hiện tại cap nhà ta đang hỏng
nên ta cứ phải dùng máy ở trường, máy ở net nàng ạ
chán quá đi nàng ơi

Bình luận

vậy ha, hèn chi dạo này ko hay thấy n onl tối nữa ^^ , ờ ha, đọc thong thả :D ... ta mới khám phá ra khu văn học này nhiều truyện hay lớm n à :x :x :X  Đăng lúc 11-10-2011 12:18 PM
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách