Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Spica
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Ba Người Lính Ngự Lâm | Alexandre Dumas (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
21#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 01:29:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 15
Phái quan tòa và phái quân nhân(1)


Hôm sau ngày xảy ra những biến cố ấy, Athos vẫn không thấy có mặt, ông De Treville đã được D Artagnan và Porthos báo cho biết về việc chàng mất tăm.

Còn Aramis thì đã xin nghỉ năm ngày về Ruăng, nghe nói có việc gia đình.

Ông De Treville là người cha của quân lính ông. Phàm đã mang bộ đồng phục ngự lâm quân trên người thì dù nổi tiếng hoặc vô danh nhất cũng chắc chắn được ông giúp đỡ, phù trợ như thể chính em ông.

Vậy nên ông đi ngay đến viên trợ úy hình sự. Viên sĩ quan chỉ huy đồn Hồng thập tự được gọi đến và những tin tức kế tiếp nhau cho biết Athos lúc này đang ở đồn Pho-lêvếch.

Athos đã trải qua tất cả những thử thách mà Bonacieux phải chịu.

Chúng ta đã dự cảnh đối chất giữa hai người bị giam. Cho tới lúc đó Athos vẫn không nói gì vì sợ D Artagnan chưa đủ thì giờ cần có, và bấy giờ Athos mới khai mình là Athos không phải D Artagnan.

Chàng nói thêm chàng không quen biết cả ông lẫn bà Bonacieux, chẳng bao giờ nói chuyện với họ. Lúc mười giờ chàng đến là để thăm D Artagnan, bạn chàng, nhưng trước lúc đó, chàng vẫn ở nhà ông Treville và ăn trưa ở đấy, chàng nói thêm, hai mươi nhân chứng có thể xác nhận điều ấy, và kể ra tên tuổi nhiều nhà quý tộc nổi tiếng, trong số họ có Công tước De la Trênui.

Viên đồn trưởng thứ hai cũng ngơ ngác như viên thứ nhất trước lời khai đơn giản và quả quyết của người ngự lâm quân này. Vì hắn vẫn có ý định dựa vào người ngự lâm này để nhân đó mở trận phục thù mà phái quan tòa mong thắng bọn quân nhân biết mấy. Nhưng cái tên ông De Treville và Công tước De La Trênui đáng để y suy nghĩ.

Athos cũng được chuyển đến chỗ Giáo chủ, nhưng rủi thay, Giáo chủ lại ở chỗ Nhà Vua tại điện Louvre.

Cũng chính lúc đó, ông De Treville ra khỏi chỗ viên trợ úy hình sự và viên đội trưởng của Pholêvếch, mà vẫn không thấy Athos, liền đi tới chỗ Hoàng thượng.

Ai cũng biết những việc phòng bị của Nhà Vua chống lại Hoàng hậu, nhưng việc phòng bị được Giáo chủ khéo léo điều hành, mà về mặt cơ mưu, lại phòng ngừa đàn bà hơn đàn ông nhiều. Một trong những nguyên nhân lớn nhất của sự đề phòng này là tình bạn giữa Anne d Autriche với bà De Chevreuse. Hai người đàn bà này khiến Đức ông lo lắng hơn cả những cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, những việc xích mích với Anh quốc và những bê bối về tài chính. Trong con mắt và trong thâm tâm ông, bà De Chevreuse phục vụ Hoàng hậu không những trong những âm mưu chính trị mà còn cả trong những âm mưu tình ái, điều làm ông còn quay cuồng điên đảo hơn nhiều.

Mới nghe Giáo chủ tâu lại, bà De Chevreuse bị lưu đày ở thành Tours và tưởng bà vẫn ở đó, nhưng bà đã đến Paris, đánh lạc hướng cảnh sát, lưu lại đây năm ngày, nhà Vua đã đùng đùng nổi giận. Tính khí thất thường, không chung thủy, Nhà Vua lại muốn được gọi là Louis chí công và Louis trong trắng. Hậu thế khó hiểu nổi tính cách ấy, mà sử sách lại chỉ giải thích bằng các sự kiện chứ không bao giờ bằng lý giải.

Nhưng khi Giáo chủ thêm rằng không những bà De Chevreuse đã đến Paris, mà Hoàng hậu còn nối lại với bà ta một mối quan hệ bí mật mà thời kỳ đó người ta gọi là bè đảng, và khi ông khẳng định chính ông, Giáo chủ, sắp gỡ ra nước manh mối đen tối nhất của âm mưu đó, lúc đang bắt quả tang, mật sứ của Hoàng hậu bên cạnh người đàn bà bị lưu đày, với đầy đủ chứng cứ thì một tên ngự lâm quân đã dám bạo hành chặn đứng việc thi hành công lý, vung gươm nhẩy bổ vào những con người trung thực của luật pháp được ủy nhiệm cứu xét vô tư toàn bộ vụ việc này để tâu lên đức Vua. Louis XIII nghe vậy không kiềm chế được nữa, ông bước một bước về phía phòng của Hoàng hậu, mặt tái đi vì phẫn nộ, không nói ra được thành lời mà khi nó bùng nổ sẽ dẫn Nhà Vua đến một sự tàn bạo lạnh lùng nhất.

Và tuy vậy, trong mọi chuyện đó, Giáo chủ còn chưa động một lời về Công tước De Buckingham.

Đang lúc đó thì ông De Treville đi vào, lạnh lùng, lễ phép, quần áo chỉnh tề.

Sự hiện diện của Giáo chủ, và nét mặt thất sắc của Nhà Vua, cảnh báo điều gì vừa mới xảy ra, Nhưng ông De Treville tự cảm thấy vững tâm như Xăm xơn trước bọn Philistin(2).

Louis XIII đã đặt tay lên núm cửa, nghe thấy tiếng ông De Treville đi vào, lại quay lại. Nhà Vua không biết che giấu những xúc cảm giận dữ khi nó đã dâng lên tới mức nào đó, liền nói ngay:

- Ông đến thật đúng lúc, ông Treville ạ, ta vừa được biết khối chuyện hay ho về lũ ngự lâm quân của ông.

- Và thần - Ông De Treville lạnh lùng đáp lại - thần cũng có khối chuyện hay ho để tâu lên Hoàng thượng về bọn quan tòa của Hoàng thượng.

- Ông nói cái gì vậy? - Nhà Vua ngạo nghễ nói.


Ông De Treville tiếp tục vẫn bằng giọng lạnh lùng:

- Thần có vinh dự được tâu với Hoàng thượng là cả bè đảng công tố viên, đồn trưởng và nhân viên cảnh sát, toàn những người đáng kính nhưng hình như lại rất gay gắt đối với giới quân nhân, tự cho phép mình vào nhà bắt bớ, điệu đi công khai trên đường phố rồi tống vào đồn Pholêvếch một ngự lâm quân của thần, đúng hơn là của Hoàng thượng, một ngự lâm quân đạo đức miễn chê, danh tiếng vang lừng, theo một lệnh bắt mà họ từ chối không cho thần biết, người bị bắt đó chính là Athos, người mà Hoàng thượng đã từng ưu ái.

- Athos ư? - Nhà Vua nói như thể một cái máy - Ừ, thật ra, ta có quen biết cái tên đó.

- Xin Hoàng thượng nhớ cho - Ông De Treville nói - Athos là người ngự lâm quân trong trận đấu kiếm bất đắc dĩ mà Ngài đã biết đấy, chẳng may đã làm ông De Cahuxắc bị trọng thương.

Ông De Treville chuyển sang nói với Giáo chủ:

- Thưa Đức ông, nhân tiện, xin Đức ông cho biết ông Cahuxắc đã hoàn toàn bình phục, phải không ạ?

- Cám ơn! - Giáo chủ mím môi giận dữ nói.

Ông De Treville nói tiếp:

- Hôm ấy, ông Athos đến thăm một người bạn lúc đó lại không có nhà, đó là một chàng trai người Bearn, đang là lính tập sự cận vệ của Hoàng thượng, trong đại đội ông des Essarts, nhưng ông Athos vừa mới đặt chân vào nhà bạn, vớ lấy cuốn sách chờ bạn, thì một đám những sai nha, cảnh sát lẫn lộn cùng nhau kéo đến vây nhà, phá tung cửa giả…

Giáo chủ ra hiệu cho Nhà Vua ý nói: "Chính là để làm cái công việc mà thần đã nói với Hoàng thượng".

- Chúng ta đã biết cả rồi - Nhà Vua đáp - bởi tất cả những việc đó được làm để phục vụ chúng ta.

- Thế là, - ông Treville nói - Thế là để phục vụ Hoàng thượng, người ta đã giữ mất của thần một ngự lâm quân vô tội, người ta kè kè hai bên hai tên gác như đối với một tên gian phi, và điệu đi giữa đám dân đen hỗn láo con người hào hoa phong nhã đã mười lần đổ máu đề phục vụ Hoàng thượng, và sẵn sàng đổ máu nữa.

- Chà! - Nhà Vua nao núng nói - mọi việc lại đến thế kia ư?

Giáo chủ với vẻ mặt tỉnh bơ nói:

- Ông De Treville lại không nói rằng gã ngự lâm quân vô tội ấy, rằng con người hào hoa ấy, một giờ trước đó đã vung gươm đánh bốn điều tra viên do tôi phái đến để điều tra một việc tối quan trọng.

Ông De Treville la lên với tính ngay thẳng hết sức Gátxcông và sự thô bạo rất lính tráng của mình:

- Đức ông có dám chứng minh điều đó không, bởi một giờ trước đó, ông Athos, người mà tôi sẽ tiến cử lên Hoàng thượng, là một người có phẩm chất cao quý, sau khi dùng bữa trưa tại nhà tôi, đã cho tôi vinh dự trò chuyện với Công tước De la Trênui và Bá tước De Saluy cũng có mặt ở đấy.

Nhà Vua nhìn Giáo chủ. Đáp lại câu hỏi ngầm của Hoàng thượng, Giáo chủ lớn tiếng nói:

- Có biên bản hẳn hoi đây, và những người bị ngược đãi đã lập tờ biên bản sau đây mà thần có vinh dự tâu lên Hoàng thượng.
Ông De Treville kiêu hãnh đáp lại:

- Biên bản của phái quan tòa có giá trị bằng lời thề danh dự của giới quân nhân không?

- Thôi nào, thôi nào, Treville, ông im đi - Nhà Vua nói.

- Nếu Đức ông có chút nghi ngờ nào chống lại một trong số ngự lâm quân của tôi - Ông Treville nói - công lý của Giáo chủ đã quá quen thuộc khiến chính tôi, tôi yêu cầu mở một cuộc điều tra.

Giáo chủ vẫn trơ ra tiếp tục:

- Trong ngôi nhà mà công lý đã bị tấn công, ở đó tôi tin có một người Bearn, bạn của tay ngự lâm kia thuê.

- Đức ông muốn nói về ông D Artagnan?

- Tôi muốn nói đến một chàng trai trẻ được ông che chở, ông De Treville ạ.

- Vâng, thưa Đức ông, vẫn là con người ấy.

- Thế ông không ngờ con người trẻ tuổi ấy đã có những lời khuyên láo lếu…

- Khuyên ông Athos, một người gấp đôi tuổi anh ta ư? - Ông De Treville ngắt lời - Không, thưa Đức ông. Vả lại, ông D Artagnan đã ở nhà tôi tối hôm đó.

- Thế kia ư? - Giáo chủ nói - Vậy ra tất cả mọi người tối ấy đều ở nhà ông?

Ông Treville giận tím mặt nói:

- Đức ông nghi ngờ lời nói của tôi ư?

- Không, lạy Chúa chứng giám? - Giáo chủ nói - nhưng chỉ hỏi ông anh ta ở nhà ông lúc mấy giờ?

- Ồ, chuyện đó, tôi có thể nói thẳng thừng ra với Đức ông, bởi khi anh ta vào, tôi nhìn đồng hồ và lúc đó là chín giờ rưỡi, mặc dầu tôi tưởng là muộn hơn thế.

- Và vào lúc mấy giờ anh ta ra khỏi nhà ông?

- Mười giờ rưỡi, một tiếng đồng hồ sau biến cố đó.

Không một chút nghi ngờ lòng trung thực của ông De Treville, Giáo chủ cảm thấy chiến thắng đã tuột khỏi tay mình, ông nói:
- Nhưng rốt cuộc, Athos đã bị giữ trong ngôi nhà ở phố Phu đào huyệt.

- Thế một người bạn bị cấm đến thăm bạn mình sao? Cấm một ngự lâm quân của tôi kết bạn với một lính cận vệ ở đại đội ông des Essarts ư?

- Có đấy! Khi một ngôi nhà mà anh ta tới kết bạn với người bạn kia bị tình nghi.

- Chính vì ngôi nhà đó bị tình nghi, Treville ạ! - Nhà Vua nói - có thể ông không biết chăng?

- Quả nhiên, tâu Bệ hạ, thần không biết. Thôi thì nó có thể bị tình nghi ở chỗ nào cũng được, nhưng lại bị tình nghi ở cái phần ông D Artagnan ở thì thần không công nhận bởi vì thần có thể khẳng định với Bệ hạ rằng, nếu như thần tin ở điều ông ta nói thì không có ai tận trung với Bệ hạ bằng ông ta, không có ai ngưỡng mộ Giáo chủ sâu sắc hơn ông ta.

Nhà Vua liếc nhìn Giáo chủ đang đỏ mặt lên, tức tối rồi hỏi:

- Có phải cái gã Đáctanháng một hôm đã đâm bị thương Jussac trong cuộc chạm trán khốn khổ ở gần Tu viện Cácmơ tháo giầy không?

- Và ngày hôm sau, Bécnaju nữa. Vâng, tâu Bệ hạ, đúng thế ạ, Bệ hạ nhớ tốt lắm ạ.

- Vậy bây giờ giải quyết thế nào nào? - Nhà Vua hỏi.

- Việc đó liên quan đến Bệ hạ hơn là đến thần. - Giáo chủ nói - Thần sẽ khẳng định là phạm tội.

- Còn tôi, tôi phủ nhận - Treville nói - Mà Hoàng thượng có các thẩm phán, và các thẩm phán của người sẽ quyết định.

- Phải đấy - Nhà Vua nói - hãy di lý sang các thẩm phán. Công việc của họ là xét xử và họ sẽ xét xử.

- Có điều Treville lắp lại - thật rất đáng buồn trong cái thời buổi khốn khổ mà chúng ta đang sống này, một cuộc sống trong sạch nhất, một đức hạnh không thể chối cãi được nhất vẫn không tránh được cho một con người khỏi bị nhục mạ và bị ngược đãi. Vì vậy, quân đội sẽ không mấy hài lòng khi cứ phải đương đầu với những đối xử nghiệt ngã vì những công việc của cảnh sát.

Câu nói có vẻ không thận trọng, nhưng ông De Treville đã tung ra có chủ định. Ông muốn nổ tung bởi chỉ có thế thuốc nổ mới bén lửa và lửa sẽ làm sáng tỏ mọi việc.

- Những việc của cảnh sát ư? - Nhà Vua hét lên, nêu lại lời của ông De Treville - Những việc của cảnh sát? Ông biết gì về chuyện này? Những việc của cảnh sát! Hãy lo chuyện bọn ngự lâm quân của ông ấy, và đừng làm ta đau đầu nữa. Nghe ông nói thì hình như nếu không may người ta bắt giữ một ngự lâm quân, nước Pháp sẽ lâm nguy. Hừm, om sòm lên vì một lính ngự lâm. Ta sẽ cho bắt mười tên, một trăm, mẹ kiếp, tất cả đại đội! Vì ta chẳng muốn ai hé miệng nửa lời.

- Trong lúc họ bị Hoàng thượng tình nghi - Ông Treville - ngự lâm quân đều phạm tội hết, như vậy xin Hoàng thượng xem xét cho thần xin trao lại thanh gươm, bởi vì sau khi đã cáo buộc binh lính của thần, thần tin chắc, Giáo chủ cuối cùng sẽ buộc tội cả thần nữa. Như thế, thà rằng thần xin nộp mình như là một tù nhân cùng với ông Athos đã bị bắt rồi, và ông D Artagnan chắc chắn cũng sắp bị bắt.

- Cái đồ Gátxcông cứng đầu, có thôi đi không? - Nhà Vua nói.

- Tâu - Treville không hạ giọng trả lời - xin Hoàng thượng trả lại người ngự lâm quân của thần cho thần, hoặc ông ta phải được xét xử?

- Người ta sẽ xét xử hắn - Giáo chủ nói.

- Thế thì càng tốt! Vì trong trường hợp ấy thần xin Hoàng thượng cho phép bào chữa cho ông ta.

Nhà Vua sợ chuyện vỡ ra, nên bảo Giáo chủ.

- Nếu Đức ông không có những động cơ cá nhân…

Giáo chủ thấy nhà Vua có ý muốn giải quyết thế nào, liền đi đến trước mặt nhà Vua. Ông nói:

- Xin Hoàng thượng tha lỗi, nhưng lúc nào Hoàng thượng thấy ở thần một phán quan thiên kiến, thì thần xin rút lui.

- Thôi được - Nhà Vua nói - Treville, ông thề với ta, trước cha ta rằng Athos đã ở nhà ông trong lúc xảy ra sự cố, và không hề dính dáng gì vào đấy chứ?

- Trước tiên đế vinh quang và trước Hoàng thượng là những người thần yêu và sùng kính nhất trên đời, thần xin thề như vậy!

- Tâu Hoàng thượng, xin Ngài hãy suy nghĩ - Giáo chủ nói - Nếu chúng ta thả tên tù nhân ra như thế, sẽ không thể biết được sự thật nữa.

Ông De Treville nói:

- Ông Athos vẫn luôn ở đó, sẵn sàng trả lời để làm đẹp lòng các vị phán quan thẩm vấn ông ta. Ông ta sẽ không đào tẩu đâu, thưa Giáo chủ, xin ông cứ yên tâm, tôi, chính tôi xin bảo lãnh cho ông ấy.

Nhà Vua nói:

- Thật ra, hắn sẽ không đào tẩu mất đâu, lúc nào chả tìm được ra hắn, như ông Treville nói đấy.

Rồi hạ giọng, nhìn Giáo chủ, bằng giọng cầu khẩn, nhà Vua nói tiếp:

- Ta cho họ được an toàn, thế mới là chính trị.

Thứ chính trị ấy của nhà Vua khiến Giáo chủ mỉm cười, ông ta nói:

- Xin Hoàng thượng cứ ra lệnh. Hoàng thượng có quyền ân xá mà!

Ông De Treville vẫn còn chưa chịu:

- Quyền ân xá chỉ áp dụng với những kẻ phạm tội. Còn người lính ngự lâm của thần vô tội. Vậy đây không phải là Hoàng thượng sắp làm việc ân xá mà là lập lại công bằng.

- Thế ông ta vẫn ở Pholêvếch à? - Nhà Vua hỏi.

- Vâng, tâu Hoàng thượng, mà lại bí mật, trong hầm tối như một kẻ phạm trọng tội.

- Quỷ thật! Quỷ thật? - Nhà Vua lẩm bẩm - Phải làm thế nào đây?

Giáo chủ nói:

- Ký lệnh thả tự do. Thế là xong chuyện. Thần cũng tin, như Hoàng thượng, việc ông De Treville xin bảo lãnh thế là quá đủ.

Treville kính cẩn nghiêng mình đáo lễ với một niềm vui không phải không pha lẫn lo sợ. Ông thích Giáo chủ khăng khăng chống lại hơn là sự dễ dãi bất ngờ ấy.

Nhà Vua ký lệnh phóng thích. Ông Treville mang đi không chút chậm trễ.

Đúng lúc ông sắp đi ra, Giáo chủ mỉm cười thân ái với ông và bảo Nhà Vua:

- Một sự hài hòa tuyệt vời được duy trì giữa các chỉ huy và binh lính, trong ngự lâm quân của Hoàng thượng. Thật là thuận lợi cho công việc và rất vinh dự cho tất cả.

Ông De Treville tự nhủ: "Lão ta sẽ chơi lại trò đểu ngay thôi. Chẳng bao giờ biết được cái gì sẽ xảy ra với con người như thế. Nhưng thôi mau lên, bởi nhà Vua có thể đổi ý ngay đấy, và xét cho cùng tống giam lại một con người vào ngục Bastille hay Pholêvếch khó hơn cứ giữ nguyên không thả".

Ông De Treville bước vào đồn Pholêvếch một cách đắc thắng giải thoát người lính ngự lâm vẫn còn nguyên vẻ thờ ơ bình thản.
Rồi, lần đầu tiên gặp lại D Artagnan, ông nói với chàng:

- Anh trốn cừ thật đấy? Đây là trả giá nhát gươm anh đâm Jussac đấy. Vẫn còn một nhát với Bécnaju.

Rốt cuộc, ông De Treville có lý khi không tin Giáo chủ và khi nghĩ mọi chuyện còn chưa kết thúc, bởi vì đại úy ngự lâm quân vừa khép cửa đi ra, Đức ông đã nói với Nhà Vua:

- Bây giờ thì chỉ có hai người chúng ta, chúng ta sẽ nói chuyện nghiêm túc, nếu Hoàng thượng vui lòng. Tâu Hoàng thượng, ông De Buckingham đã ở Paris được năm ngày nay và tận sáng nay mới đi.


Chú thích:

(1) Gens de robe et gens d épée - Bản tiếng Anh dịch là: Civilians and soldiers: nghĩa là phái dân sự và phái quân nhân. Trong tiếng Pháp: Noblesse de robe: Quý tộc cung đình. Noblesse dépée: quý tộc kiếm cung - De robe có nghĩa làm nghề pháp lý, nên chúng tôi tạm dịch Gens de robe = pháp quan.
(2) Xăm xơn, thẩm phán của dân Hêbrơ, có thể dùng chùy đập chết một lúc hàng nghìn bọn Philistin, sức khỏe nằm ngay trong bộ tóc, yêu Đalila, bị cô gái điếm này phản bội cắt mất bộ tóc ấy và trao nộp Xăm Xơn cho bọn Philistin. Trong một cuộc lễ tôn giáo ở Đền thờ Đagông, tại chỗ người Philistin. Ông đã lật đổ những cột đền và tự chôn vùi mình.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

22#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 01:34:58 | Chỉ xem của tác giả
Chương 16
Viên chưởng ấn Xécghiê tìm mấy lần vẫn không thấy chuông ở đâu để rung lên, như ngày trước vẫn quen làm


- Không thể nghĩ nổi việc mấy câu nói kia đã tác động lên nét mặt của vua Louis XIII thế nào. Mặt nhà Vua hết đỏ lên rồi lại tái đi và Giáo chủ thấy ngay mình chỉ bằng một đòn đã chiếm lại được địa bàn đã mất.

Nhà Vua hét lên:

- Ông Buckingham ở Paris. Và hắn đến để làm gì?

- Chắc hẳn là để âm mưu với lũ kẻ thù của Hoàng thượng, bọn giáo phái Canvanh và bọn Tây Ban Nha…

- Không, chó chết, không? Âm mưu chống lại danh dự của ta, cùng với lũ bà De Chevreuse, bà Lônggơvin và bọn Côngđê(1) ư?

- Ồ tâu Hoàng thượng, Ngài nghĩ gì vậy? Hoàng hậu quá khôn ngoan và nhất là quá yêu Hoàng thượng.

- Giống đàn bà họ mềm yếu, ngài Giáo chủ ơi, còn về việc quá yêu ta, ta cũng có ý kiến riêng của ta về mối tình đó rồi.

Giáo chủ nói:

- Thần cũng không đến mức cho rằng Huân tước De Buckingham đã đến Paris vì một dự định hoàn toàn chính trị.

- Còn ta, ta đoán chắc hắn đến vì một chuyện khác, Giáo chủ ạ. Nhưng nếu Hoàng hậu phạm tội, bà ấy hãy liệu hồn.

- Thật ra - Giáo chủ nói - Dù thấy ghê tởm khiến thần phải dừng ngay không dám nghĩ đến sự phản bội như vậy, nhưng Hoàng thượng làm thần vẫn phải nghĩ tới nó. Bà De Lanoa mà theo lệnh của Hoàng thượng thần đã hỏi nhiều lần, đã nói với thần sáng nay rằng đêm qua Hoàng hậu đã khóc rất nhiều và bà viết suốt ngày.

- Chính thế đó - nhà Vua nói - hẳn là viết cho hắn. Giáo chủ, ta muốn có những giấy tở của Hoàng hậu.

- Tâu, nhưng làm thế nào lấy được? Hình như không những chỉ thần mà cả Hoàng thượng cũng không thể đảm nhiệm một việc như thế

- Thế người ta đã làm thế nào với bà Thống chế De Ăngcrơ?

Nhà Vua hét lên giận dữ đến tột cùng:

- Người ta lục soát hòm tư của bà ta, cuối cùng lục soát cả chính người bà ta đấy thôi.

- Bà Thống chế De Ăngcrơ chỉ là bà Thống chế De Ăngcrơ, một mụ Florăng(2) phiêu bạt, có thế thôi, tâu Hoàng thượng. Còn như phu nhân tôn kính của Hoàng thượng, là Anne d Autriche, Hoàng hậu của nước Pháp, nghĩa là một trong những bà Hoàng hậu bậc nhất của thế giới.

- Bà ta chỉ tổ nặng tội thêm, Giáo chủ ạ! Càng quên địa vị cao sang mình được đặt lên bao nhiêu, bà ta càng bị hạ bệ tồi tệ bấy nhiêu. Vả lại, từ lâu ta đã quyết định thanh toán tất cả những âm mưu nhỏ nhen về chính trị và ái tình ấy. Bà ta cũng có một kẻ đồng lõa La Porte nào đó…

Giáo chủ nói:

- Thần thú thật, thần tin rằng hắn là kẻ chủ chốt trong mọi việc.

Nhà Vua hỏi:

- Vậy cũng như ta, ông nghĩ bà ta lừa dối ta chứ?

- Thần tin, và thần xin nhắc lại với Hoàng thượng rằng Hoàng hậu âm mưu chống lại quyền lực của nhà Vua, nhưng thần không nói chống lại danh dự của Hoàng thượng.

- Còn ta, ta nói với ông rằng chống lại cả hai. Ta đã nói với ông rằng Hoàng hậu không yêu ta, ta nói với ông bà ta yêu một kẻ khác, ta nói với ông bà ta yêu cái tên Buckingham bỉ ổi đó?

- Tại sao ông không cho bắt giữ hắn lúc hắn ở Paris?

- Bắt ông Công tước! Bắt giữ Thủ tướng của Nhà Vua Charles đệ nhất? Hoàng thượng có nghĩ đến điều đó không? To chuyện biết mấy! Và nếu như những ngờ vực của Hoàng thượng cái điều mà thần vẫn chưa tin đâu, lại có cơ sở nào đấy, thì thật tai tiếng khủng khiếp! Một sự bê bối thật đáng xấu hổ!

- Nhưng một khi hắn bất cần đời như một kẻ lang thang và một thằng ăn cắp, thì phải…

Louis XIII tự dừng lại, sợ ngay cả điều mình sắp nói ra, còn Richelieu thì ngỏng cổ ra ngóng đợi cái điều bị ngưng lại trên đôi môi của nhà Vua.

- Thì phải sao ạ?

- Chẳng sao cả - Nhà Vua nói - Nhưng trong suốt thời gian hắn ở Paris, ông không rời mắt khỏi hắn chứ?

- Không ạ.

- Hắn cư trú ở đâu?

- Số nhà 75 phố Đàn Thụ cầm.

- Phố ấy ở chỗ nào nhỉ?

- Cạnh vườn Luxembourg.

- Và ông chắc Hoàng hậu và hắn không gặp nhau?

- Thần nghĩ Hoàng hậu quá gắn bó với nghĩa vụ của mình.

- Nhưng họ đã liên lạc với nhau, Hoàng hậu viết suốt ngày chính là cho hắn, ông Quận công ạ, ta phải có được những bức thư đó?

- Tâu Bệ hạ, thế nhưng…

- Ông Quận công, ta muốn có những thư đó với bất cứ giá nào.

- Tuy nhiên thần xin lưu ý Bệ hạ…

- Ông cũng phản ta ư, ông Giáo chủ, mà cứ luôn chống lại những ý nguyện của ta thế? Ông cũng tán đồng với bọn Tây Ban Nha, bọn Anh, với bà De Chevreuse, với Hoàng hậu ư?

Giáo chủ thở dài:

- Tâu Bệ hạ, thần tin không đáng bị nghi ngờ như thế.

- Ông Giáo chủ, ông nghe ta nói rồi đấy, ta muốn những bức thư đó.

- Có lẽ chỉ có một cách.

- Cách nào?

- Sẽ trao nhiệm vụ ấy cho viên chưởng ấn Xécghiê. Việc ấy sẽ được hoàn toàn đặt trong chức trách của ông ta.
- Cho tìm ngay ông ta đi!

- Ông ta chắc đang ở chỗ thần, thần đã sai người yêu cầu ông ấy đến và khi thần đi đến điện Louvre, đã dặn lại, nếu ông ta đến thì cứ chờ ở đó.

- Đi tìm ông ấy đến ngay đi!

- Lệnh của Hoàng thượng sẽ được thi hành, nhưng…

- Nhưng sao?

- Nhưng có thể Hoàng hậu sẽ không chịu tuân…

- Lệnh của ta ư?

- Vâng, nếu bà không biết lệnh ấy là của Nhà Vua.

- Thôi được, để bà ấy khỏi nghi ngờ, chính ta đến báo cho bà ấy biết.

- Hoàng thượng sẽ không quên rằng thần đã làm tất cả những gì mà thần có thể làm để ngăn ngừa một sự tan vỡ.

- Phải, Quận công ạ, ta biết ông rất độ lượng với Hoàng hậu, có lẽ quá độ lượng đấy. Và ta báo cho ông biết, sau này chúng ta sẽ có chuyện để nói về việc ấy đấy.

- Khi nào việc ấy làm vui lòng Hoàng thượng. Nhưng thần sẽ luôn sung sướng và tự hào được xả thân vì sự thuận hòa mà thần ao ước được duy trì giữa Hoàng thượng và Hoàng hậu nước Pháp.

- Tốt, Giáo chủ, tốt, nhưng trong khi chờ đợi, hãy cho đi tìm chưởng ấn đến đây, còn ta, ta đến chỗ Hoàng hậu.

Và Louis XIII mở cửa bên đi vào hành lang thông từ chỗ Ngài đến phòng Anne d Autriche.

Hoàng hậu đang ở giữa đám phu nhân tùy tùng, bà De Ghitô, bà De Xablê, bà De Môngtazông và bà De Ghêmơnê.

Trong một góc là thị nữ hầu phòng Tây Ban Nha Đônha Stéphanie, đi theo Hoàng hậu từ Madris. Bà De Ghêmơnê đọc sách và mọi người đang chăm chú lắng nghe, chỉ trừ có Hoàng hậu, người đã bày vẽ ra việc đọc sách này cốt để có thể, trái lại vừa giả vờ lắng nghe vừa thả theo những suy nghĩ riêng của mình.

Những ý nghĩ ấy hết thảy đều nạm vàng bởi một ánh hồi quang tình ái, vẫn không kém phần sầu não. Anne d Autriche không được chồng tin cậy, bị lòng hận thù của Giáo chủ đeo đuổi, người không thể tha thứ cho nàng vì đã không thèm có một tình cảm, dịu dàng hơn, trước mắt nàng là tấm gương của thái hậu mà mối hằn thù đó đã làm thái hậu, Marie de Médicis(3) điên đảo suốt đời, cho dù thái hậu, nếu như tin vào những hồi ký thời đó, lúc đầu đã ban cho Giáo chủ thứ tình cảm mà Anne d Autriche rốt cuộc vẫn từ chối ông ta. Anne d Autriche đã nhìn thấy rơi rụng quanh mình những bầy tôi trung thành nhất, những người tri kỷ tâm đắc nhất, những người sủng ái thân quý nhất của mình. Giống như những kẻ khốn khổ ấy được phú cho một thiên tư bi thảm, nàng chỉ đem bất hạnh đến cho tất cả những gì nàng tiếp xúc. Tình bạn bè của nàng là một dấu hiệu định mệnh dẫn đến sự ngược đãi. Bà De Chevreuse và bà De Vécnê bị lưu đày. Cuối cùng ông La Porte cũng không giấu nữ chủ nhân của mình ông vẫn đợi trước sau gì cũng bị bắt. Chính lúc nàng đang đắm chìm trong những ý nghĩ sâu xa nhất và u ám nhất ấy thì cửa phòng mở và Nhà Vua đi vào.

Người đọc sách im ngay tức khắc, tất cả các bà đều đứng dậy, căn phòng im phăng phắc.

Còn Nhà vua, ông không hề có một biểu hiện lịch sự nào, mà chỉ dừng lại trước Hoàng hậu và lạc giọng nói:

- Thưa bà, bà sắp được ông chánh án tối cao(4) đến thăm, ông ta sẽ thông báo với bà một số công việc mà tôi đã ủy nhiệm cho ông đó.

Bà Hoàng hậu khốn khổ, mà người ta không ngừng đe dọa ly dị, lưu đầy và cả xét xử, tái mặt đi dưới lớp phấn hồng và không ngàn nổi nói ra:

- Nhưng tại sao lại có cuộc thăm viếng đó, tâu Hoàng thượng? Ông chánh án tối cao sẽ nói với tôi điều gì mà Hoàng thượng không thể tự mình nói với tôi được?

Nhà Vua quay gót không trả lời, và hầu như cùng lúc đó, đại úy quân cận vệ, ông De Ghitô thông báo cuộc viếng thăm của ông chánh án tối cao.

Khi ông ta hiện ra thì Nhà Vua đã ra khỏi bằng một cửa khác.

Viên chánh án đi vào, nửa tươi cười nửa ngượng ngùng. Vì có thể chúng ta sẽ lại thấy ông trong câu chuyện này, không có gì đáng ngại để ngay từ bây giờ làm quen với ông ta.

Viên chánh án là một con người kỳ dị. Chính ông De Rốtsơ Lơ Malơ, giáo chức ở nhà thờ Đức Bà, trước kia từng là hầu phòng cho Giáo chủ, đã tiến cử ông ta với Đức ông như một con người hết mực trung thành. Giáo chủ tin cậy ngay và thấy rất hài lòng.

Người ta kể về ông ta nhiều chuyện trong đó có những chuyện sau: Sau một thời trai trẻ phong ba, ông ta rút lui vào một tu viện để ăn năn hối lỗi, ít nhất trong một khoảng thời gian nào đó, về những thói điên rồ của tuổi thanh xuân. Nhưng vào nơi đất thánh, kẻ sám hối không thể đóng lại thật nhanh cánh cửa, khiến những đam mê mà ông ta chạy trốn lại vào cùng với ông. Ông bị chúng ám ảnh mãi không thôi, và vị bề trên được ông thổ lộ điều bất hạnh đó, rất mong bảo vệ ông tránh khỏi những đam mê đó đã khuyên ông để tống khứ được con quỷ cám dỗ, hãy cầu cứu cái dây thừng kéo chuông, và khua lên cho hết cỡ. Nghe tiếng chuông tố giác, các thày tu sẽ được báo trước sự cám dỗ đang bao vây một đạo hữu, và tất cả giáo đoàn sẽ lên tiếng cầu nguyện.

Lời khuyên có vẻ tốt đối với tương lai ông chánh án tối cao. Ông ta giải trừ tâm tính ma quái dựa vào sự hỗ trợ lớn lao của những lời nguyện của các thày tu. Nhưng con quỷ không dễ để bị tước mất cái vị trí mà nó đã dồn trú. Dần dần người ta tăng gấp đôi những lễ trừ tà, con quỷ cũng tăng gấp đôi cám dỗ, đến nỗi ngày đêm chuông cứ réo lên hết cỡ, thông báo nỗi khát khao cực điểm được hành xác mà kẻ ăn năn đang thể nghiệm.

Các thầy tu không còn nổi một phút nghỉ ngơi. Ban ngày, họ chỉ còn việc lên lên xuống xuống chiếc cầu thang dẫn đến tiểu giáo đường. Ban đêm, ngoài những lề lối và lễ sớm, họ còn buộc phải nhảy từ trên giường xuống hai chục lần quỳ xuống gạch lát nền phòng tăng để cầu nguyện.

Người ta không biết liệu con quỷ đã buông tha hay các thày tu đã mệt mỏi, nhưng khoảng ba tháng sau, kẻ ăn năn lại tái hiện trong thế tục, mang theo những tiếng tăm khủng khiếp nhất, chưa từng thấy bao giờ.

Ra khỏi tu viện, ông ta vào ngành tòa án, trở thành chánh tòa án thế chân ông chú, ôm chân đảng phái của Giáo chủ, điều đó không chứng tỏ ông ít sáng suốt, rồi trở thành chánh án tối cao nhiệt tình phục vụ Đức ông trong mối căm hận chống lại Thái hậu Marie de Médicis và mối thù chống lại Anne d Autriche, kích động các thẩm phán chống lại Hầu tước de Salê(5) nhà sản xuất túi dết lớn của nước Pháp, rồi cuối cùng chiếm được sự tin tưởng hoàn toàn của giáo chủ, nên đã đạt đến việc được nhận một nhiệm vụ kỳ quặc và ông đang có mặt ở chỗ Hoàng hậu để thực hiện nhiệm vụ đó.

Khi ông ta vào Hoàng hậu còn đang đứng, nhưng vừa thấy ông ta, nàng liền ngồi xuống chiếc ghếbành của mình và ra hiệu cho các bà cũng ngồi xuống những tấm nệm và ghế đẩu của họ, rồi bằng một giọng tối kiêu kỳ hỏi ông ta:

- Ông muốn gì và ông có mặt ở đây với mục đích gì?

- Thưa Hoàng hậu, để làm việc nhân danh Đức Vua, xin thất kính với lệnh bà, là lục soát kỹ các giấy tờ của lệnh bà.

- Sao! Ông nói lục soát các giấy tờ của ta… Với ta ư? Nhưng đó là một điều bỉ ổi!

- Mong lệnh bà thứ lỗi, nhưng trong trường hợp này, tôi chỉ là một công cụ Đức Vua sử dụng thôi. Hoàng thượng chẳng vừa ra khỏi đây sao và chẳng phải chính Ngài đã dặn lệnh bà chuẩn bị cho cuộc thăm viếng này sao?

- Vậy ông lục soát đi! Xem ra ta là một phạm nhân mất rồi! Stéphanie, đưa chùm chìa khóa bàn và tủ sách của ta ra đây.
Viên chánh án xem xét các đồ gỗ một cách chiếu lệ, nhưng ông ta biết thừa không phải trong hòm tủ, Hoàng hậu đã khóa giữ bức thư quan trọng mà nàng đã viết ngày hôm ấy.

Khi ông ta đã mở ra khóa vào đến hai chục lần các ngăn kéo của tủ sách thì dù có cảm thấy do dự đến mấy cũng cứ phải đi đến đoạn kết của công việc nghĩa là khám người chính Hoàng hậu. Thế rồi viên chánh án tiến lại chỗ Anne d Autriche và bằng một giọng rất đỗi băn khoăn và với vẻ cực kỳ lúng túng, ông ta nói:

- Và bây giờ, còn lại cuộc lục soát chính yếu.

- Cuộc lục soát nào? - Hoàng hậu hỏi, như thể không hiểu hoặc đúng hơn là không muốn hiểu.

- Hoàng thượng đinh ninh có một bức thư mà lệnh bà đã viết ngày hôm nay. Ngài biết bức thư đó chưa được gửi tới địa chỉ của nó. Bức thư đó không có trong bàn, cũng không có trong tủ sách, thế thì nó phải ở đâu đó.

- Ông dám đặt tay lên Hoàng hậu của ông ư? - Anne d Autriche đứng thẳng người lên, nhìn xoáy vào viên chánh án, bằng đôi mắt có vẻ gần như hăm dọa, hỏi ông ta.

- Thưa lệnh bà, tôi là thần tử trung thành của Hoàng thượng, và tất cả những gì Hoàng thượng ra lệnh, tôi sẽ làm.

- Thế thì đúng rồi! - Anne d Autriche nói - Và những tên gián điệp của ông Giáo chủ đã phục vụ ông ta đắc lực. Hôm nay ta đã viết một bức thư, bức thư ấy chưa hề gửi đi. Nó ở đây này.

- Và Hoàng hậu đưa bàn tay kiều diễm của mình lên chỗ nịt ngực.

- Vậy xin lệnh bà đưa cho tôi bức thư đó - viên chánh án nói.

- Ta sẽ chỉ đưa nó cho Nhà Vua - Anne nói.

- Thưa lệnh bà, nếu Đức Vua muốn bức thư đó được trao lại cho chính Người thì Ngài đã thân chinh đòi hỏi. Nhưng tôi xin nhắc lại, chính tôi đã được Đức Vua ủy thác đòi hỏi lệnh bà thư đó, và nếu lệnh bà không trao nó cho tôi…

- Thì sao?

- Cũng chính tôi, nhà Vua trao việc đoạt lấy bức thư ấy ở lệnh bà.

- Sao, ông muốn nói thế nào?

- Thưa lệnh bà, là lệnh ban cho tôi phải đi xa hơn, là tôi sẽ được phép tìm mảnh giấy khả nghi đó ngay trên thân thể của lệnh bà.

- Kinh tởm chưa? - Hoàng hậu kêu lên.

- Vậy mong lệnh bà hành động dễ dàng hơn.

- Lối xử sự này là lối bạo lực bỉ ổi, ông biết thế chứ?

- Xin lệnh bà thứ lỗi cho tôi, đây là Đức Vua chỉ dụ.

- Ta sẽ không chịu điều đó đâu, không, không, thà chết còn hơn! - Hoàng hậu thét lên, dòng máu hoàng đế Tây Ban Nha và của nước Áo nổi dậy trong người này.

Viên chánh án nghiêng mình rất kính cẩn, nhưng vẫn rành rành có ý không lùi nữa bước trong việc hoàn thành sứ mệnh ông ta được trao, và có thể làm như một tên hầu của đao phủ trong phòng xét hỏi, hắn xấn lại gần Anne d Autriche. Ngay lúc ấy, người ta thấy những giọt nước mắt ứa ra trong đôi mắt sôi lên điên giận.

Như đã nói, Hoàng hậu có một sắc đẹp tuyệt trần. Cái sứ mệnh này có thể diễn ra một cách tế nhị nhưng vì quá ghen với Buckingham, nhà Vua đi đến mức không thiết ghen với ai nữa.


Chú thích:

(1) Bọn Công đê: thuộc dòng họ Bourbon, một số là thủ lĩnh và chiến đấu trong hàng ngũ giáo phái Canvanh.
(2) Florăng: thủ phủ cũ của vùng Tốtxcan, Italia
(3) Marie de Médicis, vợ vua Henri IV, mẹ Louis XIII, khi chổng chết được nghị viện cử làm nhiếp chính, bà đã đuổi nhưng bộ trưởng thời Henri IV, tin dùng Côngcini, cưới Anne d Autriche cho Louis XIII, chiếm hết quyền lực cho đến khi thống chế De Ăngcrơ bị ám sát. Tiến hành chiến tranh với con trai từ nãm 1617 đến 1620, cuối cùng thỏa thuận với vua Louis XIII cho vị giáo sĩ tư tế của mình là Richelieu làm thủ tướng (1624). Bị đi đày và chết ở Côlônhơ năm 1642
(4) Từ đây tác giả dùng từ Chancelier có nghĩa là chánh án tối cao cho nhân vật Xécghiê, chứ không dùng từ garde dessceaux người giữ các con dấu, gọi là chưởng ấn nữa, tuy Chancelier cũng có nghĩa là giữ các con dấu nhưng ở địa vị thấp hơn
(5) Hầu tước de Salê, tức Henri De Talâyrăng - Sủng thần của Louis XIII, bị buộc tội chống lại Giáo chủ Richelieu - bị bắt ở Năngtơ và bị chặt đầu năm 1626.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

23#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 01:36:18 | Chỉ xem của tác giả
Ba người lính ngự lâm - Chương 16
-----------------------------------------------

Không còn nghi ngờ gì nữa, viên chánh án Xécghiê lúc đó đưa mắt tìm chiếc dây thừng của quả chuông trứ danh, nhưng không thấy nên đành quả quyết đưa tay tới chỗ mà Hoàng hậu đã thú nhận bức thư đang ở đó.

Anne d Autriche lùi lại một bước, tái nhợt đi như thể sắp chết và phải chống tay trái lên cái bàn ở phía sau để khỏi ngã rồi dùng bàn tay phải rút tờ giấy ra khỏi ngực mình và chìa ra cho viên chánh án, rồi bằng một giọng đứt hơi run rẩy, nói với y:

- Đây! Thư ấy đây, cầm lấy, và hãy giải thoát cho ta bộ mặt bỉ ổi của ông!

Viên chánh án, về phía mình, dễ nhận thấy y cũng đang run rẩy xúc động, cầm lấy bức thư, cúi rạp đất chào và rút lui.

Cánh cửa vừa khép lại đằng sau viên chánh án, hoàng hậu liền quỵ ngã, nửa mê nửa tỉnh trong tay đám phu nhân tùy tùng.

Viên chánh án đem thẳng bức thư đến cho nhà Vua, không hề đọc một chữ. Nhà Vua, tay run rẩy cầm bức thư, tìm địa chỉ không thấy ghi, tái nhợt đi, chậm rãi mở ra, rồi qua mấy chữ đầu, thấy ngay là gừi cho quốc vương Tây Ban Nha liền đọc rất nhanh, là cả một kế hoạch tấn công Giáo chủ. Hoàng hậu yêu cầu anh mình và Hoàng đế nước Áo, những người từng vì cái chính sách của Richelieu luôn luôn nhằm hạ uy thế hoàng tộc Áo, làm tổn thương, giả bộ tuyên chiến với nưôc Pháp và đặt điều kiện hòa bình là tống khứ Giáo chủ. Còn tình yêu, không hề có một chữ trong toàn bộ bức thư.

Nhà Vua, rất đỗi vui mừng, hỏi xem liệu Giáo chủ có còn ở điện Louvre không và được cho biết Đức ông vẫn đang chờ lệnh của nhà Vua trong phòng làm việc.

Nhà Vua trở về ngay chỗ Giáo chủ, nói với ông ta.

- Này, Quận công, ông có lý, chính ta đã nhầm. Toàn bộ âm mưu này là chính trị, không hề có vấn đề tình yêu trong bức thư, đây này. Đổi lại, vấn đề lại mạnh về ông.

Giáo chủ cầm bức thư và đọc hết sức chăm chú. Đọc xong, ông ta lại đọc lại lần nữa, rồi nói:

- Đấy nhé, tâu Hoàng thượng, Hoàng thượng thấy lũ kẻ thù của thần đi đến đâu rồi đó. Họ hăm dọa Hoàng thượng bằng hai cuộc chiến tranh nếu không tống khứ thần. Ở địa vị Hoàng thượng, thật tình, thần sẽ nhượng bộ những yêu sách mạnh mẽ đến như thế, và về phía mình, thần sẽ thật sự vui sướng được rút khỏi những công việc mình đảm nhiệm.

- Ông nói gì vậy, Quận công?

- Tâu Bệ hạ, thần nói rằng sức khỏe của thần đã suy sụp trong những cuộc đấu tranh quá căng thẳng và những công việc liên miên. Thần nói rằng, nếu có thể, thần sẽ không kham nổi những mệt mỏi trong cuộc bao vây La Rochelle, và tốt hơn hết là Bệ hạ chỉ định hoặc ông De Côngđê, hoặc ông De Bassompirre, nếu không thì một con người dũng mãnh nào đó thạo nghề chỉ đạo chiến tranh, chứ không phải thần, vốn chỉ là một kẻ tu hành không ngừng bị lái chệch ra ngoài thiên hướng của mình để đưa vào những việc mà thần không đủ sức. Như vậy, đối nội Bệ hạ sẽ được sung sướng hơn, và đối ngoại, thần tin chắc, Bệ hạ sẽ vĩ đại hơn.

- Ông Quận công - Nhà Vua nói - ta hiểu, ông hãy bình tĩnh, tất cả những kẻ được nêu trong bức thư sẽ bị trừng phạt cho xứng đáng và cả chính Hoàng hậu nữa.

- Bệ hạ nói gì vậy? Cầu Chúa giữ cho Hoàng hậu bớt xung khắc tới thần. Hoàng hậu vẫn luôn tin thần cho là kẻ thủ của bà cho dù Bệ hạ có thể chứng giám cho thần luôn nhiệt tình đứng về phía bà, ngay cả khi phải chống lại Bệ hạ. Ôi! Nếu như Hoàng hậu phản bội Bệ hạ, đúng nơi danh dự của Bệ hạ, lại là chuyện khác, và thần sẽ là người đầu tiên lên tiếng: "Không dung thứ, tâu Bệ hạ, không dung thứ đối với người đàn bà phạm tội". May sao, lại không hề có chuyện ấy, và Bệ hạ vừa thu được một bằng chứng mới như vậy.

- Đúng vậy, Giáo chủ ạ - nhà Vua nói - và ông luôn luôn có lý. Nhưng không vì thế mà Hoàng hậu không làm ta tức giận kém đi hơn đâu.

- Chính Ngài, tâu Bệ hạ, mới đáng để Hoàng hậu tức giận, và thật ra khi Hoàng hậu hờn dỗi nặng nề Bệ hạ, thì thần hiểu được điều đó, đó là vì Bệ hạ đã đối xử với bà có chiều khắc nghiệt!

- Ta luôn luôn sẽ đối xử với kẻ thù của ta và kẻ thù của ông như thế, Quận công ạ, cho dù chúng có cao sang đến đâu và cho dù hiểm nguy đến mấy ta phải chịu khi hành xử khắc nghiệt với chúng!

- Hoàng hậu là kẻ thù của thần, nhưng không phải của Bệ hạ. Trái lại bà là một người vợ chung thủy, nhu mì và không thể chê trách. Vậy Bệ hạ cho phép thần xin giùm Hoàng hậu, tâu Bệ hạ.

- Thì bà ấy cứ tự hạ mình đi và phải làm lành với ta trước.

- Trái lại, tâu Bệ hạ, Bệ hạ hãy làm gương. Bệ hạ là người phạm lỗi trước vì chính Bệ hạ đã nghi ngờ Hoàng hậu.

Nhà Vua nói:

- Ta làm lành trước ư! Không bao giờ?

- Tâu Bệ hạ, thần van xin Bệ hạ đấy.

- Hơn nữa, ta làm lành trước như thế nào đây?

- Làm một điều gì đó mà Bệ hạ biết sẽ làm Hoàng hậu hài lòng.

- Việc gì?

- Ban cho một buổi khiêu vũ. Bệ hạ biết Hoàng hậu thích khiêu vũ biết mấy. Thần cam đoan, sự hờn giận của bà sẽ không trụ nổi trước một sự quan tâm như vậy.

- Ông Giáo chủ, ông cũng biết ta không thích mọi vui thú thời lưu.

- Hoàng hậu sẽ lại càng biết ơn Bệ hạ hơn một khi bà biết Bệ hạ mất thiện cảm đối với thú vui ấy. Hơn nữa, đó sẽ là một dịp để Hoàng hậu đeo những hạt kim cương rất đẹp mà Bệ hạ ban cho Hoàng hậu nhân ngày lễ của bà và bà còn chưa có dịp đem dùng.

Nhà Vua, đang mừng thấy Hoàng hậu phạm một tội mà ông không quan tâm mấy, và vô tội đối với một lỗi lầm mà ông rất ghê sợ, đang sẵn sàng hòa giải với bà. Ngài nói:

- Để xem đã, ông Giáo chủ, để xem sao đã, nhưng ta lấy danh dự ra mà nói nhé, ông quá độ lượng đấy.

Giáo chủ nói:

- Tâu Bệ hạ, xin hãy để sự khắc nghiệt ấy cho các thượng thư. Sự khoan dung là đức tính đế vương. Xin hãy tỏ ra như vậy, Bệ hạ sẽ thấy dễ chịu.

Tới đây, nghe đồng hồ điểm mười một giờ, Giáo chủ van nài xin nhà Vua hòa giải với Hoàng hậu rồi eúi rạp mình xin phép được cáo lui.

Anne d Autriche, sau khi bị lấy mất bức thư, đang đợi sự khiển trách nào đó, bỗng hết sức ngạc nhiên thấy nhà Vua hôm sau lân la muốn đến gần nàng. Lúc đầu, nàng tỏ vẻ ghê tởm, sự kiêu ngạo của đàn bà, và phẩm giá Hoàng hậu, cả hai đều bị xúc phạm quá ư tàn nhẫn khiến nàng không thể bình tâm trở lại ngay được, nhưng rồi bị các phu nhân tùy tùng thuyết phục, cuối cùng nàng cũng có vẻ bắt đầu khuây đi. Nhà Vua lợi dụng ngay cái khoảnh khắc đầu tiên của sự bình tâm trở lại ấy để nói với nàng rằng Ngài đang tính tổ chức một dạ hội.

Dạ hội là một điều hiếm thấy đối với nàng Anne d Autriche tội nghiệp. Đúng như Giáo chủ đã nghĩ trước, nghe thông báo như vậy, dấu vết cuối cùng của những nỗi oán hờn biến mất nếu không ở trong lòng, ít ra cũng trên nét mặt. Nàng hỏi, dạ hội định tổ chức vào ngày nào, nhưng nhà Vua lại trả lời về điểm này nhà Vua cần phải thỏa thuận với Giáo chủ đã.

Quả vậy, ngày nào nhà Vua cũng hỏi Giáo chủ xem nên tổ chức dạ hội vào lúc nào, và ngày nào, Giáo chủ cũng vin vào một cớ gì đó lần khần ấn định.

Mười ngày như thế trôi đi.

Ngày thứ tám sau cái cảnh chúng tôi đã kể, Giáo chủ nhận được một bức thư dán tem London, bên trong chỉ có mấy dòng:
"Tôi đã có những vật đó. Nhưng tôi không thể rời London bởi vì thiếu tiền. Gửi cho tôi năm trăm đồng vàng. Và bốn hoặc năm ngày sau khi nhận được tiền, tôi sẽ ở Paris".

Vẫn hôm Giáo chủ nhận được thư đó, nhà Vua lại hỏi ông câu hỏi thường lệ.

Richelieu bấm đốt ngón tay và khẽ nói với mình: "Cô ta nói, bốn năm ngày sau khi nhận được tiền, cô ta sẽ đến nơi. Tiền đi phải mất bốn năm ngày, bốn năm ngày nữa để cô ta trở về, vị chi mất mười ngày. Bây giờ phải tính cả phần ngược gió, những rủi ro bất ngờ, những yếu đuối của đàn bà… cứ cho tất cả là mười hai ngày".

- Thế nào? Ông Quận công - nhà Vua nói - Ông tính toán xong rồi chứ?

- Vâng, tâu Bệ hạ, hôm nay là 20 tháng chín, các thẩm phán của thành phố tổ chức một ngày hội ngày 3 tháng mười. Như thể sẽ càng tốt, bởi Bệ hạ sẽ không phải tỏ ra làm lành với Hoàng hậu.

Rồi Giáo chủ nói thêm:

- Nhân thể, tâu Bệ hạ, xin đừng quên nói với lệnh bà đêm trước hôm dạ hội Bệ hạ muốn thấy chuỗi kim cương có hợp với lệnh bà không.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

24#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 01:39:36 | Chỉ xem của tác giả
Chương 17
Vợ chồng nhà Bonacieux


Đây là lần thứ hai Giáo chủ trở lại vấn đề những nút kim cương với nhà Vua. Louis vì thế không hiểu nổi tại sao ông ta cứ nài nỉ và nghĩ rằng sự khuyến nghị này ắt che giấu một điều bí mật.

Đã nhiều lần nhà Vua từng bị xấu hổ vì Giáo chủ lại tỏ ra thông hiểu hơn cả bản thân nhà Vua về những gì diễn ra trong cuộc sống vợ chồng riêng tư của nhà Vua, do cảnh sát của ông ta hiện đại nhưng cũng rất ưu việt. Vì vậy, nhà Vua hy vọng trong một buổi trò chuyện với Anne d Autriche sẽ làm lóe ra một tia sáng nào đó, tiếp đó đến ngay bên Giáo chủ cùng với một bí mật nào đó mà ông ta đã biết hoặc không biết, thì dù trường hợp này hay trường hợp kia, việc đó cũng sẽ tôn cao nhà Vua trước mắt viên Thủ tướng của mình.

Nhà Vua liền đi gặp Hoàng hậu và theo thói quen, bắt chuyện với Hoàng hậu bằng những đe dọa mới chống lại những người thân cận của nàng. Anne d Autriche cúi đầu mặc cho thác lũ tuôn trào, không đáp, và hy vọng cuối cùng cơn lũ cũng phải dừng. Nhưng đó không phải là điều Louis XIII muốn, Louis XIII muốn một cuộc tranh cãi từ đó lóe ra một tia sáng nào đó. Nhà Vua đinh ninh rằng Giáo chủ có một ẩn ý nào đó và trù tính đặt nhà Vua trước một sự bất ngờ ghê gớm như ông ta vẫn quen làm.

Nhà Vua tính đạt tới mục đích đó bằng sự kiên trì cáo buộc. Nhưng, Anne d Autriche mệt mỏi vì những đòn công kích vu vơ ấy kêu lên:

- Nhưng tâu Bệ hạ, Bệ hạ không nói hết ra những điều chất chứa trong lòng. Tôi đã làm cái gì cơ chứ? Tôi đã phạm tội gì nào? Bệ hạ không thể làm ầm lên như thế về bức thư viết cho anh tôi?

Nhà Vua đến lượt mình bị tấn công trực tiếp đến thế không biết trả lời sao, liền nghĩ đây là lúc đưa lời khuyến nghị mà ông chỉ được làm đêm trước hôm dạ hội.

Nhà Vua nói với vẻ uy nghiêm:

- Thưa bà, vũ hội chỉ nay mai thôi sẽ được tổ chức ở tòa thị chính. Tôi muốn rằng để tôn vinh các thẩm phán nghiêm túc của chúng ta, bà hãy mặc lễ phục và nhất là trang sức bằng những nút kim cương mà tôi đã ban tặng bà vào ngày lễ sinh nhật của bà. Đó là câu trả lời của tôi đó.

Câu trả lời thật khủng khiếp. Anne d Autriche tin rằng Louis XIII đã biết tất cả, và Giáo chủ đã thuyết phục được nhà Vua che giấu lâu đến bẩy hoặc tám ngày, vả chăng nó cũng nằm trong bản tính của nhà Vua, Hoàng hậu tái nhợt hẳn đi, bàn tay đẹp tuyệt mỹ lúc này nhợt tựa bàn tay sáp tỳ lên chiếc đôn, nhìn nhà Vua bằng đôi mắt kinh hoàng không trả lời nổi một tiếng.
Nhà Vua vui mừng ra mặt vì sự bối rối này, tuy vẫn chưa đoán ra nguyên nhân.

- Thưa bà, bà nghe rõ chứ?

- Vâng, tâu… tôi nghe rõ - Hoàng hậu ấp súng.

- Bà sẽ có mặt ở vũ hội ấy chứ?

- Vâng.

- Với những nút kim cương của bà?

- Vâng.

Sắc mặt tái nhợt của Hoàng hậu càng tăng thêm đến cùng cực Nhà Vua thấy rõ điều đó và khoái trá với vẻ tàn nhẫn lạnh lùng vốn là một trong những tật xấu của tính cách nhà Vua.

- Thế là thỏa thuận rồi đấy nhé - Nhà Vua nói - đó là tất cả những gì tôi cần nói với bà.

- Nhưng vũ hội sẽ mở vào ngày nào? - Anne d Autriche hỏi.

Bằng linh tính, nhà Vua cảm thấy không cần phải trả lời thẳng câu hỏi Hoàng hậu hỏi bằng một giọng như của người sắp chết.

- Sắp thôi mà - nhà Vua nói - nhưng tôi không nhớ chính xác ngày nào, để tôi hỏi Giáo chủ xem.

- Vậy ra chính Giáo chủ đã thông báo vũ hội đó với Bệ hạ? - Hoàng hậu kêu lên.

- Vâng, thưa bà -Nhà Vua ngạc nhiên trả lời - nhưng có chuyện gì vậy?

- Chính ông ta bảo Bệ hạ mời tôi dự hội với những nút kim cương ấy?

- Nghĩa là, bà…

- Chính ông ta, tâu Bệ hạ, chính ông ta?

- Ô hay? Do ông ta hay do tôi thì sao nào? Mời như thế thì mắc tội sao?

- Thưa không.

- Vậy bà dự chứ?

- Vâng.

- Tốt lắm! - Nhà Vua vừa nói vừa rút lui - Tốt lắm, tôi mong như thế đấy.

Hoàng hậu trịnh trọng thi lễ vì nghi thức thì ít mà hai gối nàng rời rã thì nhiều.

Nhà Vua khoái trá bỏ đi.

- Ta nguy mất! - Hoàng hậu lẩm bẩm - nguy mất, bởi Giáo chủ biết tất và chính lão ta đã thúc giục nhà Vua vốn còn chưa biết gì nhưng rồi sẽ biết ngay tất cả. Ta chết mất! Trời ơi! Trời ơi! Trời ơi!

Nàng quỳ lên trên một cái nệm và cầu nguyện, đầu gục sâu giữa hai cánh tay run rẩy.

Quả vậy, tình thế thật khủng khiếp. Buckingham đã trở về London. Bà De Chevreuse đã ở Tours bị giám sát ngặt nghèo hơn bao giờ hết, Hoàng hậu thầm cảm thấy có một người trong đám phu nhân tùy tùng của mình đã phản bội mình mà chưa biết đó là ai. La Porte không thể rời khỏi điện Louvre. Nàng không có một ai trên đời để tin cậy.

Thế là trước bất hạnh đang đe dọa, và tình cảnh bị bỏ rơi, nàng òa lên nức nở.

Bỗng nhiên vang lên một giọng nói đầy lòng thương cảm và hết sức dịu dàng:

- Em không thể có ích chút nào cho Hoàng hậu hay sao?

Hoàng hậu quay phảt lại, bởi không thể nào nhầm với giọng nói này được, chỉ là bạn mới nói được như thế.

Quả nhiên, tại một cửa đi vào phòng Hoàng hậu, hiện ra bà Bonacieux xinh đẹp. Bà ta đang bận sắp xếp khăn áo trong một căn phòng thì nhà Vua đi vào. Bà ta không thể ra được và đã nghe thấy hết.

Hoàng hậu rú lên một tiếng chói tai vì bị bất ngờ, bởi trong lúc bối rối, lúc đầu nàng không nhận ra thiếu phụ mà La Porte đã dâng cho mình.

Người đàn bà trẻ chắp hai tay lại vừa khóe vì chia sẻ những lo âu của Hoàng hậu vừa nói:

- Ồ xin lệnh bà đừng sợ gì hết. Em xin đem hết linh hồn và thể xác dâng lệnh bà, và cho dù lệnh bà có quá cao sang và thân phận em hèn mọn đến đâu, em tin rằng em đã tìm được một cách giúp lệnh bà thoát ra khỏi những khó khăn.

- Em đấy ư? Trời ơi! Em đấy ư? - Hoàng hậu reo lên - Nhưng xem nào, hãy nhìn thẳng vào mặt ta. Ta bị phản bội tứ phía. Liệu ta có thể tin cậy vào em không?

- Ôi, thưa lệnh bà! - người đàn bà trẻ vừa quỳ xuống - vừa kêu lên - Em xin thề trên linh hồn em, em xin sẵn sàng chết vì lệnh bà!

Tiếng kêu đó thốt ra từ cõi lòng sâu thăm, và cũng như lời nói ban đầu, không thể có chuyện lầm lẫn được.

- Vâng - bà Bonacieux tiếp tục - Vâng, ở đây có những tên phản bội, nhưng có đức mẹ Đồng trinh, em xin thề không có ai có thể trung thành như em với lệnh bà, những nút kim cương mà nhà Vua hỏi lại ấy, lệnh bà đã tặng cho Quận công De Buckingham, có phải không ạ? Những nút kim cương ấy được đựng trong một cái tráp nhỏ bằng gỗ hồng đào mà Quận công đã kẹp dưới cánh tay? Em có nhầm không ạ? Không phải như vậy sao?

- Ôi Chúa ơi! Chúa ơi!

Hoàng hậu thầm thì, răng va vào nhau lập cập vì sợ hãi.

- Thế thì! Bà Bonacieux tiếp tục - Những nút kim cương ấy phải được lấy lại.

- Phải, hẳn rồi, phải vậy thôi. - Hoàng hậu kêu lên - nhưng biết làm thế nào, làm thế nào để lấy lại?

- Phải cử một ai đến gặp Quận công.

- Nhưng ai?… ai?… Ta có thể tin ai đây?

- Xin lệnh bà cứ tin tưởng vào em. Hãy cho em được cái vinh dự ấy, Hoàng hậu của em ạ, và em, em sẽ tìm được sứ giả.
- Nhưng phải viết thư?

- Vâng, việc đó là cần thiết. Vài chữ từ chính tay lệnh bà viết và có đóng dấu riêng của lệnh bà.

- Nhưng vài cái chữ ấy, đó là bản án của ta, đó là sự ly dị, sự lưu đày!

- Vâng nếu nó rơi vào bàn tay lũ đê mạt. Nhưng em, em đảm bảo mấy chữ đó sẽ được trao đúng địa chỉ.

- Ôi, trời ơi! Vậy là ta phải trao tính mạng ta, danh dự ta và danh tiếng của ta vào tay em!

- Vâng, thưa bệnh bà, phải vậy thôi và chính em sẽ cứu vãn mọi cái đó!

- Nhưng như thế nào? Ít nhất em cũng nói cho ta biết chứ.

- Chồng em đã được trả tự do từ hai ba ngày nay. Em còn chưa có thì giờ về thăm ông ấy. Đó là một người đàn ông tử tế và lương thiện, không hằn thù ai, cũng chẳng yêu ai. Ông ấy sẽ làm cái gì em muốn. Ông ấy sẽ ra đi theo lệnh của em, mà không biết mình mang cái gì, và ông ấy sẽ chuyển bức thư của lệnh bà tới địa chỉ lệnh bà đã dặn.

Hoàng hậu nắm lấy hai tay người đàn bà trẻ với niềm phấn khởi dạt dào, nhìn nàng như thể đọc thấu tâm can và chỉ thấy lòng thành thực trong đôi mắt đẹp rồi ôm hôn nàng trìu mến và nói:

- Em cứ làm thế đi, em sẽ cứu được đời ta, cứu được danh dự của ta!

- Ồ xin đừng cường điệu cái công việc em vinh dự được làm cho lệnh bà. Em có cứu vớt lệnh bà chút gì đâu, chẳng qua lệnh bà chỉ là nạn nhân của những âm mưu nham hiểm.

- Đúng vậy, đúng vậy, em bé của chị - Hoàng hậu nói - Và em có lý.

- Vậy xin hãy trao cho em bức thư ấy đi, thời gian gấp lắm rồi.

Hoàng hậu chạy ngay đến chiếc bàn nhỏ, trên bàn có sẵn giấy bút mực. Nàng viết hai dòng, niêm phong bức thư bằng con dấu của mình và trao cho bà Bonacieux.

- Và bây giờ - Hoàng hậu nói - Chúng ta quên mất một điều tối cần thiết.

- Điều gì ạ?

- Tiền.

Bà Bonacieux đỏ mặt nói:

- Vâng, đúng vậy và em xin thú thực với lệnh bà rằng chồng em…

- Chồng em không có, em muốn nói thế chứ gì.

- Có chứ ạ, chồng em có, nhưng ông ấy keo kiệt lắm, đó chính là tật xấu của ông ấy. Tuy nhiên lệnh bà đừng lo, chúng ta sẽ tìm cách…

- Chính là vì ta cũng không có - Hoàng hậu ngàt lời - những ai đã đọc những tập hồi ký của bà De Mốttơvin sẽ không ngạc nhiên thấy ta trả lời như vậy, nhưng đợi đã.

Hoàng hậu chạy đến hộp đồ nữ trang của mình, và nói:

- Đây em cầm lấy, đây là chiếc nhẫn theo người ta cam đoan có giá trị rất lớn. Nó vốn của anh ta, Nhà Vua Tây Ban Nha, nó đã là của ta và ta có thể tùy ý dùng nó. Em hãy cầm chiếc nhẫn này bán lấy tiền để chồng em ra đi.

- Trong vòng một tiếng đồng hồ, lệnh của hoàng hậu sẽ được thi hành.

- Em nhìn rõ địa chỉ chứ - Hoàng hậu nói nhỏ thêm, chỉ vừa đủ nghe - Gửi Huân tước Quận công De Buckingham ở London".
- Bức thư sẽ được trao tận tay cho Huân tước.

- Em nhỏ thật là hào hiệp! - Anne d Autriche reo lên.

Bà Bonacieux hôn đôi tay của Hoàng hậu, giấu bức thư trong nịt ngực và biến mất nhẹ nhàng như một cánh chim.

Mười phút sau, nàng đã về đến nhà. Như nàng đã nói với Hoàng hậu, từ lúc chồng nàng được trả tự do nàng chưa về thăm. Nàng không biết gì về sự thay đổi đã diễn ra trong lòng ông ta đối với Giáo chủ, sự thay đổi ấy đã được củng cố vững chắc thêm sau hai hay ba lần viếng thăm của Bá tước De Rochefort và ông ta đã trở thành bạn tốt nhất của Bonacieux đã không tốn công mấy làm cho Bonacieux tin rằng việc bắt cóc vợ ông chẳng phải do một tình cảm tội lỗi nào mà chỉ là một việc phòng ngừa chính trị.

Nàng thấy ông Bonacieux chỉ có một mình. Con người khốn khổ đó đang vất vả thu dọn lại nhà cửa mà ông ta thấy đồ đạc gần như gây vỡ hết và tủ giả gần như rỗng không. Công lý không hề là một trong ba điều mà vua Salomon(1) đã chỉ ra là không để lại một vết tích gì trên đường đi của nó. Còn như cô hầu gái thì cô ta đã trốn mất từ khi chủ bị bắt giữ. Sự kinh hoàng đã tác động đến cô gái tội nghiệp đến mức cô ta cuốc bộ một mạch từ Paris đến tận Buốcgônhơ, quê hương của mình.
Ngay lúc vợ mình vừa trở về nhà, ông hàng xén đáng khen đã chia sẻ với người vợ về sự trở về may mắn của mình, còn vợ ông thì đã đáp lại để mừng cho chồng và để nói với chồng rằng, ngay khi nàng có thể dứt ra khỏi công việc là đã nghĩ tới chuyện hiến tất cả thời gian cho việc về thăm chồng.

Cái việc ngay khi ấy cũng phải đợi mất đến năm ngày. Việc đó trong mọi tình huống khác có vẻ hơi dài đối với Bonacieux nhưng trong cuộc viếng thăm Giáo chủ và những cuộc thăm viếng của Rochefort, ông đã có một chủ đề phong phú để suy tư và như người ta biết không có gì khiến thời gian trôi nhanh bằng suy nghĩ.

Hơn thế nữa những suy nghĩ của Bonacieux lại toàn màu hồng. Rochefort gọi ông là bạn mình, bạn thân mến Bonacieux và không ngừng nói với ông rằng Giáo chủ đánh giá rất cao về ông.

Ông hàng xén nhìn thấy mình đang trên con đường vinh hiển và giàu sang.

Về phần mình, phải nói rằng bà Bonacieux lại nghĩ đến tất cả những gì khác ngoài tham vọng. Những ý nghĩ của nàng, bất chấp nàng muốn hay không, chỉ một mực hướng về chàng thanh niên đẹp trai rất đỗi can trường và cũng có vẻ rất đỗi si tình.
Cưới ông Bonacieux ở tuổi mười tám, luôn sống giữa đám bạn bè của chồng mình, là một thiếu phụ mà tấm lòng lại vượt lên trên địa vị của mình, bà Bonacieux vẫn trơ trơ trước những ve vãn tầm thường. Nhưng vào thời kỳ đó, cái danh hiệu quý tộc có một ảnh hưởng lớn đến giới thị dân và D Artagnan lại là quý tộc, hơn nữa chàng mặc đồng phục quân cận vệ, là thứ được các bà ưa thích nhất chỉ sau có đồng phục ngự lâm quân. Chàng trẻ, đẹp, lại ưa mạo hiểm. Chàng nói về tình yêu như một người lớn đang yêu và đang khát được yêu. Thế là dư thừa những gì cần có để làm điên đảo một cái đầu hai mươi ba tuổi mà bà Bonacieux thì lại vừa đến cái tuổi sung sướng trần đời đó.

Chú thích:
(1) Con trai và là người kế vị vua David, vua Israel, sự thông thái của ông
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

25#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 01:41:45 | Chỉ xem của tác giả
Ba người lính ngự lâm - Chương 17
-----------------------------------------------

Hai vợ chồng, dù họ chưa được thấy nhau từ tám hôm rồi, và trong cái tuần lễ ấy, những biến cố nghiêm trọng từng xảy ra giữa họ, cho nên họ bắt chuyện với nhau mỗi người một mối bận tâm riêng. Tuy nhiên ông Bonacieux tỏ ra vui mừng thực sự và dang rộng hai tay tiến về phía vợ.

- Bà Bonacieux giơ trán cho chồng hôn, rồi nói:

- Ta nói chuyện với nhau một chút.

- Sao cơ? - Ông Bonacieux ngạc nhiên.

- Vâng - Em có một chuyện tối quan trọng muốn nói với anh.

- Thật ra, tôi cũng thế, tôi cũng có vài vấn đề khá nghiêm trọng muốn nói chuyện với mình. Mình hãy giải thích qua việc mình bị bắt cóc cho tôi nghe nào, tôi xin mình đấy.

- Lúc này không phải lúc đề cập đến chuyện đó - Bà Bonacieux nói.

- Vậy thì phải là chuyện gì nào?

- Chuyện tôi bị bắt ư? Ngay hôm ấy em đã biết chuyện rồi. Nhưng vì chẳng phạm một tội hình nào, mình chẳng dính líu đến một âm mưu nào, vì rốt cuộc mình chẳng biết chút gì ai có thể làm hại mình, không phải mình, cũng không phải bất cứ ai, mà em chỉ quan tâm đến tầm quan trọng đáng có của sự kiện ấy thôi.

- Thưa bà, bà nói dễ nghe nhỉ! - Bonacieux thấy vợ tỏ ra ít quan tâm đến mình tự ái nói - bà có biết tôi đã bị dìm một ngày một đêm trong hầm tối của ngục Bastille không?

- Một ngày một đêm ấy đã qua rồi, thôi hãy gác chuyện mình bị bắt lại, và ta trở lại cái việc khiến đưa em về đây với mình.
- Sao, cái việc khiến đưa bà về đây với tôi? Vậy chứ không phải lòng khát khao được gặp lại một người chồng mà bà đã phải xa cách tám ngày rồi sao? - Ông hàng xén tức tối hỏi.

- Chuyện đó trước, chuyện kia sau.

- Nói đi!

- Một việc quan trọng bậc nhất, có lẽ vận hội sắp tới của chúng ta tùy thuộc vào đấy.

- Vận hội của chúng ta đã thay đổi bộ mặt rất nhiều kể từ ngày tôi gặp bà, bà Bonacieux ạ, và tôi sẽ không ngạc nhiên khi chỉ mấy tháng nữa thôi, nó sẽ làm cho khối người thèm khát.

- Vâng, nhất là nếu mình muốn những chỉ dẫn mà em sắp đưa ra cho mình.

- Cho tôi?

- Vâng, cho mình. Có một việc tốt và thánh thiện cần làm, mình ạ, đồng thời lại kiếm được rất nhiều tiền.

- Bà Bonacieux biết rằng nói về tiền bạc với chồng tức là bà đã nắm lấy chỗ yếu của ông ta.

Nhưng một người, ngay cả khi là một ông hàng xén, một khi đã trò chuyện mươi phút với Giáo chủ, sẽ không còn là chính người ấy nữa.

- Kiếm được nhiều tiền ư? - Ông Bonacieux bĩu môi.

- Vâng, rất nhiều.

- Khoảng bộ bao nhiêu?

- Vậy cái việc mình yêu cầu tôi nghiêm trọng lắm sao?

- Vâng.

- Vậy phải làm gì?

- Mình sẽ phải đi ngay lập tức, em sẽ đưa cho mình một mảnh giấy mà mình sẽ không được rời khỏi nó với bất cứ lý do gì và phải trao tận tay người nhận.

- Và tôi phải đi đâu?

- Đi London.

- Tôi, đi London á? Thôi nào, mình đùa rồi, tôi chăng có việc gì ở London.

- Nhưng những người khác lại cần mình đi đến đó.

- Những người khác ấy là ai? Tôi xin báo để mình biết tôi sẽ không nhắm mắt làm bừa nữa đâu và tôi muốn biết không chỉ tôi liều đời cho cái gì mà còn liều đời vì ai nữa.

- Một nhân vật nổi tiếng cử mình đi, một nhân vật nổi tiếng khác đợi mình: phần thưởng sẽ vượt xa ước muốn của mình. Đó là tất cả những gì em có thể hứa với mình.

- Lại những âm mưu nữa rồi! Luôn luôn là những âm mưu!

- Cám ơn, bây giờ tôi không tin gì nữa, và Giáo chủ đã khai sáng cho tôi về việc đó rồi.

- Giáo chủ ư! - Bà Bonacieux kêu lên - mình đã gặp Giáo chủ?

- Ngài đã cho gọi tôi - Ông hàng xén kiêu hãnh trả lời.

- Và mình đã nhận lời mời đến đó, mình lại bất cẩn như thế?

- Tôi phải nói rằng, tôi không có sự lựa chọn là đến hay không đến, vì tôi bị kẹp giữa hai lính gác. Nói đúng hơn, vì lúc đó tôi không quen biết Đức ông, nếu như tôi có thể thoát khỏi cuộc viếng thăm đó, tôi hẳn đã cực kỳ sung sướng.

- Vậy ông ấy đã ngược đãi mình ư? Hay ông ta đã hăm dọa mình?

- Ngài chìa tay ra cho tôi bắt và gọi tôi là bạn ngài, bạn ngài, thưa bà, nghe rõ chưa? Tôi là bạn của Đại Giáo chủ!

- Của Đại Giáo chủ?

- Không chấp nhận cái tước vị ấy của ngài, tình cờ thôi đấy chứ, thưa bà!

- Em chẳng không chấp nhận cái gì cả, nhưng em nói với mình rằng sự sủng ái của một ông Thủ tướng chỉ là phù du, và chỉ có điên mới đi gắn bó với một ông Thủ tướng, còn có những quyền lực ở bên trên quyền lực của ông ta, nó không dựa trên tính bất trắc của một con người hoặc lối thoát của một biến cố, chính là những quyền lực ấy ta phải đi theo.

- Tôi thấy bực mình rồi đấy thưa bà, tôi không biết thứ quyền lực nào khác ngoài quyền lực của một bậc vĩ nhân mà tôi vinh dự được phụng sự.

- Ông phụng Giáo chủ?

- Vâng, thưa bà, và như một kẻ tôi tớ của ngài, tôi sẽ không cho phép bà lao vào những âm mưu chống lại sự an ninh của một quốc gia và bà, phải, chính bà, lại phụng sự những mưu mô của một người đàn bà không phải là phụ nữ Pháp và lòng dạ Tây Ban Nha. May thay Giáo chủ vĩ đại ở đó, con mắt cảnh giác của ngài canh chừng và xuyên thấu tận đáy lòng người khác.
Bonacieux nhắc lại nguyên si từng lời cái câu ông ta được nghe Bá tước Rochefort nói. Nhưng người vợ tội nghiệp đã trông mong vào chồng mình, và trong niềm hy vọng ấy, đã đảm bảo cho ông ta trước Hoàng hậu, không kém rùng mình về điều đó và nỗi nguy hiểm suýt nữa nàng đâm đầu vào, và cả sự bất lực nàng đang cảm thấy nữa. Tuy nhiên, biết được sự hèn yếu và nhất là lòng tham của chồng mình, nàng chưa hết hy vọng dẫn dụ ông ta tới những mục đích của mình.

- À! Thưa ông, thì ra ông thuộc phái Giáo chủ! - Nàng kêu lên - Thì ra ông phụng sự đảng phái của những kẻ đã ngược đãi vợ ông và lăng mạ Hoàng hậu!

Ông Bonacieux huyênh hoang nói chữ:

- Lợi ích riêng tư không là cái gì trước lợi ích của toàn thể. Tôi đứng về phía những người cứu quốc gia.

Đấy cũng lại là một câu nói khác của Bá tước Rochefort mà ông ta đã nhớ được. Và thấy có dịp đem dùng.

- Thế ông có biết cái quốc gia mà ông vừa nói nó là thế nào không? - Bà Bonacieux nhún vai nói - Hãy yên phận là một thị dân ít học đi, và hãy quay về phía nào cho ông nhiều lợi lộc hơn.

- Ông Bonacieux vừa nói vừa vỗ lên cái túi căng tròn cho xủng xoẻng tiếng bạc reo:

- Hà, hà! Bà nói sao về cái túi này, thưa bà thuyết sĩ?

- Ở đâu ra số bạc ấy?

- Bà không đoán ra ư?

- Của Giáo chủ?

- Của ngài và của bạn tôi, Bá tước De Rochefort.

- Bá tước De Rochefort ư? Nhưng chính ông ta đã bắt cóc tôi!

- Có thể đấy, thưa bà.

- Và ông nhận tiền từ con người ấy?

- Tôi đã chẳng bảo bà là việc bắt cóc đó hoàn toàn là chính trị sao.

- Phải, nhưng cuộc bắt cóc đó có mục đích làm cho tôi phản bội lại nữ chủ của mình, và bằng tra khảo để moi ở tôi ra những lời thú nhận có thể phương hại đến danh dự và có thể cả mạng sống của nữ chúa tôn kính của tôi.

- Thưa bà - Bonacieux nói tiếp - nữ chúa tôn kính của bà là một mụ đàn bà Tây Ban Nha điên đảo, và việc Giáo chủ làm là rất đúng.

- Thưa ông - thiếu phụ nói - tôi vẫn biết ông hèn nhát, keo bẩn và ngu xuẩn, nhưng tôi lại không biết ông còn đê tiện nữa?

- Thưa bà - Bonacieux chưa từng thấy vợ mình nối giận bao giờ, đã lùi bước trước cơn điên giận của người vợ - Thưa bà, bà bảo sao cơ?

- Tôi bảo ông là một tên khốn nạn! - Bà Bonacieux tiếp tục khi thấy mình đã lấy lại được chút ảnh hưởng nào đó với chồng mình – Chà, ông làm chính trị ư, ông hả! Và còn là thứ chính trị Giáo chủ nữa! Ôi chao, ông bán mình, cả thể xác lẫn linh hồn cho quỷ sứ vì tiền?

- Không, cho Giáo chủ chứ.

- Cũng thế cả thôi? Thiếu phụ kêu lên - Nói Richelieu là nói quỷ Satan.

- Bà im đi, im ngay đi, người ta nghe thấy đấy.

- Đúng, ông có lý, và tôi sẽ phải xấu hổ, vì sự hèn nhát của ông.

- Nhưng xem nào, bà đòi hỏi phải làm gì mới được chứ?

- Tôi đã bảo ông là ông sẽ phải đi ngay tức khắc, rằng ông phải hoàn thành một cách trung thực nhiệm vụ mà tôi đã vị nể mà trao cho ông, và với điều kiện sau, tôi sẽ quên hết, tôi tha thứ và còn thêm - nàng chìa tay ra cho ông - em sẽ trao lại mình tình thương mến của em.

Bonacieux hèn mạt và keo kiệt. Nhưng ông ta yêu vợ mình, và ông đã mềm lòng. Một người đàn ông năm mươi tuổi không giữ nổi hiềm thù lâu với một người vợ tuổi hăm ba. Bà Bonacieux thấy ông còn do dự, liền nói:

- Thôi được? Vậy thôi! Suy cho cùng, có lẽ mình có lý, một người đàn ông hiểu về chính trị nhiều hơn những người đàn bà, nhất là mình, người đã từng trò chuyện với Giáo chủ. - Tuy nhiên nàng nói thêm - Chồng tôi, người đàn ông mà tôi tưởng có thể trông cậy vào tình thương yêu lại đối xử với tôi bạc bẽo và chẳng chiều theo ý tôi chút nào, chả phải cứng rắn quá sao.

- Chính vì những ý nghĩ ngông cuồng của bà có thể dẫn đi quá xa - Bonacieux đắc thắng trả lời - nên tôi nghi ngờ những ý nghĩ ấy.

- Thì em đành từ bỏ vậy - Thiếu phụ vừa nói vừa thở dài - Thôi được, ta không nói chuyện ấy nữa.

Bonacieux bỗng thấy mình chậm nhớ ra là Rochefort đã dặn mình cố chộp lấy những bí mật của vợ, liền trả lời:

- Nói chứ, ít nhất, bà cũng cho biết tôi phải làm gì ở London chứ.

Linh tính khiến người thiếu phụ thấy nghi ngờ và đẩy nàng về tư thế phòng vệ. Nàng nói:

- Ông biết cũng vô ích thôi mà. Chỉ là một chuyện tầm phào mà đàn bà thường ao ước ấy mà, mua một món hàng vặt nhưng lời lãi lại khá nhiều.

Nhưng người vợ trẻ càng chống chế, thì Bonacieux trái lại càng nghĩ cái bí mật mà nàng không chịu thổ lộ cùng ông ta rất quan trọng. Vậy ông ta quyết định chạy ngay tới nhà Bá tước Rochefort để nói với Bá tước rằng Hoàng hậu đang tìm một sứ giả để phái tới London.

- Xin lỗi nhé nếu như tôi rời xa bà lúc này, bà Bonacieux thân mến của tôi ạ - Bonacieux nói - vì không biết bà về thăm tôi, tôi trót có cuộc hẹn với một người bạn, Tôi sẽ về ngay thôi và nếu bà có thể đợi tôi chỉ nửa phút thôi, xong việc với người bạn tôi sẽ về ngay đón bà, và vì lúc đó trời cũng đã muộn, tôi sẽ đưa bà về điện Louvre.

- Cám ơn ông - Bà Bonacieux trả lời - Ông đâu có đủ can trường để giúp ích cho tôi việc gì, và tôi thừa sức quay lạỉ Louvre một mình mà.

- Tùy bà thôi, bà Bonacieux - tay cựu hàng xén tiếp - Tôi sớm gặp lại bà chứ?

- Chắc chắn rồi, tuần sau, tôi hy vọng thế, công việc rỗi rãi, tôi sẽ nhân đó trở về sắp xếp lại việc nhà chắc vẫn còn hơi bề bộn.

- Tốt lắm, tôi sẽ đợi bà. Bà không giận tôi đấy chứ?

- Tôi ư! Không chút nào đâu.

- Vậy, sớm gặp lại chứ?

- Sớm gặp lại.

Bonacieux hôn tay vợ mình và vội vã ra đi. Khi cánh cửa ra ngoài phố đã khép lại còn lại một mình, bà Bonacieux nói:

- Thế đấy, cung cách này chắc chắn tên ngu xuẩn đó đã thuộc phái Giáo chủ rồi! Và ta, ta đã đảm bảo với Hoàng hậu, ta là người đã hứa với nữ chủ nhân tội nghiệp của ta. Ôi trời ơi! trời ơi! bà sẽ cho tôi cùng giuộc với lũ khốn nạn nhung nhúc như kiến trong cuIlg mà người ta cắt đặt bên bà để do thám bà. Ôi, ông Bonacieux! Tôi chưa bao giờ yêu ông nhiều. Bây giờ, còn tệ hơn nhiều: tôi căm ghét ông. Và tôi thề, ông sẽ phải trả giá.

Đúng lúc nàng nói ra những câu ấy, một tiếng gõ trên trần khiến nàng ngẩng đầu lên, và một giọng nói xuyên qua sàn gác đến tai nàng:

- Bà Bonacieux yêu quý, hãy mở chiếc cửa ngách ra lối đi, tôi sẽ xuống bên bà.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

26#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 01:44:58 | Chỉ xem của tác giả
Chương 18
Người tình và người chồng


- Ôi thưa bà! - D Artagnan vừa bước qua chiếc cửa mà thiếu phụ vừa mở ra cho chàng, vừa nói - cho phép tôi được nói với bà, bà có một Đức ông chồng đáng buồn đấy?

- Vậy ra ông đã nghe hết câu chuyện của chúng tôi? - Bà Bonacieux lo lắng nhìn D Artagnan và vội hỏi.

- Không sót một câu.

- Nhưng làm thế nào lại thế được, trời ơi!

- Bằng một phương sách chỉ có tôi biết, và cũng nhờ nó mà tôi cũng đã nghe được câu chuyện còn sôi nổi hơn giữa bà với bọn nha lại của Giáo chủ.

- Và ông hiểu thế nào về những điều chúng tôi nói?

- Hàng nghìn điều, nhá, trước hết chồng bà là một thằng đần, một kẻ điên khùng, may thay, rồi thì bà bối rối, việc này khiến tôi lại rất vui vì nó cho tôi cơ hội được phục vụ bà, và có trời mới biết liệu tôi có sẵn sàng lao vào lửa vì bà không, cuối cùng là Hoàng hậu cần một người can trường thông minh và tận tụy làm một cuộc hành trình đến London vì lệnh bà. Tôi có ít nhất hai trong số ba phẩm chất bà cần và tôi đây.

Bà Bonacieux không trả lời, nhưng trái tim rung động vì mừng vui, và một hy vọng thầm kín long lanh trong mắt nàng. Nàng hỏi:

- Và ông lấy gì đảm bảo với tôi, nếu tôi bằng lòng ủy thác cho ông nhiệm vụ đó?

- Tình yêu của tôi đối với bà. Thế nào, bà nói đi, ra lệnh đi: phải làm gì?

- Lạy Chúa! Lạy Chúa! - Thiếu phụ thầm thì - Tôi có nên thổ lộ với ông một bí mật như thế không? Ông hãy còn như một đứa trẻ.

- Rõ rồi, tôi thấy bà cần có một ai đó bảo đảm cho tôi với bà.

- Tôi xin thú thực là việc đó sẽ làm tôi yên tâm lắm.

- Bà có biết ông Athos không?

- Không.

- Porthos?

- Không.

- Aramis vậy?

- Không, những vị ấy là những người nào?

- Những ngự lâm quân của nhà Vua. Bà biết ông De Treville, đại úy của họ chứ?

- Ồ, vâng, ông ấy, tôi biết chứ, không phải quen riêng đâu, mà vì nhiều lần đã được nghe nói về ông ấy với Hoàng hậu như một nhà quý tộc chính trực và trung thực.

- Bà không sợ ông ấy phản bội bà vì Giáo chủ, phải không nào?

- Ồ chắc chắn không rồi.

- Vậy thì bà hãy thổ lộ bí mật của bà với ông ấy, và hãy hỏi ông ấy xem liệu có thể ký thác nó cho tôi được không, dù việc đó có quan trọng, có quý giá, có ghê gớm đến đâu.

- Nhưng bí mật đó không thuộc về tôi, tôi không thể tiết lộ như thế.

- Bà chẳng vừa thổ lộ với ông Bonacieux đấy sao! - D Artagnan giận dỗi nói.

- Với ông ta, chẳng qua như ký thác vào một hốc cây, một cánh chim câu, một vòng cổ chó ấy mà.

- Trong khi ấy, bà thấy rõ là tôi yêu bà.

- Là ông nói thôi.

- Tôi là một người hào hoa.

- Tôi tin vậy.

- Tôi can trường.

- Ồ, điều đó, tôi tin chắc.

- Vậy thì đem tôi ra thử thách đi.

Bà Bonacieux nhìn chàng trai trẻ, vẫn còn chút do dự cuối cùng. Nhưng mắt chàng ánh lên nhiệt tình, giọng chàng đầy sức thuyết phục khiến nàng cảm thấy mình bị lôi cuốn tới chỗ tin cậy chàng. Vả lại, nàng đang trong một những tình thế phải liều để được ăn cả ngã về không. Hoàng hậu cũng đã từng bị mất mát nhiều, bởi quá giữ gìn cũng như quá tin tưởng. Rồi, cũng phải thú nhận rằng, mối cảm tình không chủ tâm mà nàng nghiệm thấy đối với người bảo vệ trẻ tuổi đã khiến nàng quyết định nói ra.

- Ông chú ý nghe đây. Tôi xin đầu hàng trước những cam kết của ông, và xin thua những đảm bảo của ông. Nhưng tôi thề với ông trước Thượng đế đang nghe chúng ta, nếu ông phản bội tôi và cho dù kẻ thù có tha thứ cho tôi, tôi sẽ tự sát để lấy cái chết buộc tội ông.

- Và tôi, tôi thề với bà trước Thượng đế - D Artagnan nói - nếu như tôi bị bắt khi đang hoàn thành những mệnh lệnh của bà, tôi sẽ chết trước khi làm hoặc nói điều gì phương hại đến bất kỳ ai.

Lúc đó người đàn bà trẻ mới thổ lộ với chàng điều bí mật ghê gớm mà do tình cờ đã để lộ một phần với chàng ở trước mặt nhà thờ Samaritain.

Đó là sự tỏ tình giữa họ với nhau.

D Artagnan rạng rỡ niềm vui và kiêu hãnh. Điều bí mật chàng đang nắm, người đàn bà chàng đang yêu, sự tin tưởng và tình yêu, biến chàng thành một người khổng lồ.

- Tôi đi đây - Chàng nói - Tôi đi ngay lập tức.

- Sao! Ông đi ngay ư? - Bà Bonacieux kêu lên - Thế còn binh đoàn của ông, đại úy của ông?

- Thề trên linh hồn tôi, bà đã làm tôi quên tất những cái đó, Constance yêu quý ạ! Đúng, bà nói đúng, tôi phải xin nghỉ phép.
- Còn một trở ngại nữa - Bà Bonacieux đau đớn nói.

- Ô, cái việc đó - Sau một lúc suy nghĩ, D Artagnan nói - Tôi sẽ vượt qua. Bà cứ yên tâm.

- Vượt qua như thế nào?

- Ngay tối nay, tôi sẽ đến nhà ông Treville, tôi sẽ nhờ ông xin hộ tôi sự chiếu cố ấy với em rể ông là ông des Essarts.

- Bây giờ còn chuyện khác nữa.

- Chuyện gì? - D Artagnan hỏi vì thấy bà Bonacieux ngập ngừng không nói tiếp.

- Có lẽ ông không có tiền?

- Nói có lẽ là thừa - D Artagnan vừa nói vừa mỉm cười.

- Bà Bonacieux mở tủ lôi ra cái túi mà nửa giờ trước đấy chồng bà âu yếm vuốt ve nó, bảo chàng:

- Vậy thì, ông hãy cầm lấy cái túi này.

- Túi tiền của Giáo chủ! - D Artagnan phá lên cười và reo lên, vì chàng đã không bỏ sót một vần trong câu chuyện giữa ông hàng xén và vợ mình, nhờ bóc đi mấy viên gạch lát.

- Đúng, túi tiền của Giáo chủ - bà Bonacieux trả lời - Ông thấy nó có vẻ bề thế đấy chứ.

- Mẹ kiếp! - D Artagnan kêu lên - Sẽ khoái trá gấp đôi đem tiền của Giáo chủ đi cứu Hoàng hậu đấy?

- Ông là một chàng trai trẻ đáng yêu và duyên dáng - Bà Bonacieux nói - Ông hãy tin là Hoàng hậu sẽ không vô ơn đâu.

- Ồ, tôi đã được thưởng lớn rồi! - D Artagnan nói - Tôi yêu cầu bà, hãy cho phép tôi nói ra điều đó với bà, như thế đã hạnh phúc hơn cả điều tôi dám hy vọng rồi.

- Im nào! - Bà Bonacieux giật mình nói.

- Cái gì?

- Người ta nói ở ngoài phố.

- Chính là giọng…

- … của chồng tôi. Đúng, tôi đã nhận ra.

D Artagnan chạy ra cửa, đóng chốt lại. Chàng nói:

- Hắn sẽ không vào được khi tôi chưa đi, khi tôi đi rồi, bà hãy mở.

- Nhưng tôi, tôi cũng phải đi thôi. Túi tiền biến mất, nếu tôi còn ở đây, sẽ biện minh ra sao?

- Bà nói đúng. Phải ra thôi.

- Ra ư? Ra thế nào? Ông ta sẽ trông thấy chúng ta nếu chúng ta đi ra.

- Vậy, phải lên nhà tôi thôi.

- Ôi! - Bà Bonacieux kêu lên - Ông nói với tôi chuyện đó bằng cái giọng khiến tôi phát sợ. - Bà Bonacieux rớm nước mắt khi thốt ra những lời ấy.

D Artagnan nhìn thấy nước mắt, cảm thấy mủi lòng, bối rối, chàng liền quỳ xuống dưới chân nàng và nói:

- Ở nhà tôi, bà sẽ được an toàn như trong một ngôi đền, tôi xin thề với lời thề của một nhà quý tộc.

- Ta đi thôi - Nàng nói - tôi tin ở ông, bạn tôi ạ.

D Artagnan thận trọng mở chốt cửa, và cả hai nhẹ nhàng như hai cái bóng luồn qua cửa trong ra lối đi, rón rén lên cầu thang vào phòng của D Artagnan.

Một khi đã ở đó rồi, để an toàn hơn, chàng trai trẻ chèn cửa lại rồi hai người đến gần cửa sổ, qua khe cánh cửa, họ nhìn thấy Bonacieux đang nói chuyện với một người mặc áo choàng.

Vừa nhìn thấy người mặc áo choàng. D Artagnan đã chồm lên, nhích gươm, và lao về phía cửa.

Đó chính là người ở Măng.

- Ông định làm gì vậy? - Bà Bonacieux kêu lên - Ông làm hại chúng ta mất.

D Artagnan nói:

- Nhưng tôi đã thề phải giết con người đó?

- Lúc này sinh mạng ông đã được dâng hiến rồi, nó không còn là của ông nữa. Nhân danh Hoàng hậu, tôi cấm ông không được lao vào bất cứ mối hiểm nguy nào ngoài hiểm nguy trong chuyến đi.

- Còn nhân danh mình bà không ra lệnh gì ư?

- Nhân danh tôi, tôi xin ông thế đấy. - Bà Bonacieux hết sức xúc động nói. Nhưng nghe đã, hình như họ đang nói về tôi.
D Artagnan lại gần cửa sổ, áp tai vào.

Lão Bonacieux đã mở được cửa, thấy nhà trống không lại quay lại chỗ người mặc áo choàng, mà lão đã để đứng đấy một mình trong giây lát. Lão nói:

- Cô ta đi rồi. Cô ta quay lại điện Louvre.

- Ông có chắc vợ ông không nghi ngờ ông bỏ đi với ý đồ nào không? - Người lạ mặt hỏi.

- Chắc chứ! - Bonacieux đáp với vẻ tự mãn - đó là một người đàn bà quá ư nông nổi.

- Tên cận vệ tập sự có ở nhà không?

- Chắc là không, ông thấy đấy, cửa sổ đóng và không có chút ánh sáng nào lọt qua khe cửa.

- Mặc kệ, cứ phải chắc chắn.

- Nhưng làm thế nào?

- Đến gõ cửa phòng nó.

- Để tôi hỏi tên hầu xem.

- Đi đi!

Bonacieux trở vào nhà, đi qua cái cửa mà hai kẻ chạy trốn đã đi qua, trèo lên tận thềm nghỉ cầu thang phòng D Artagnan, chàng đã cẩn thận không để lộ ra dấu hiệu nào đang có mặt ở nhà.

- Đúng lúc ngón tay Bonacieux gõ ầm lên cánh cửa, đôi bạn trẻ cảm thấy thót tim.

- Chẳng có ai ở nhà - Bonacieux nói.

- Thôi, không cần, ta xuống dưới nhà ông đi, sẽ chắc hơn là cứ đứng ở ngưỡng cửa.

- Ôi, lạy Chúa - Bà Bonacieux thầm thì - Chúng ta không nghe thấy gì nữa rồi.

- Trái lại - D Artagnan nói - Chúng ta chỉ càng nghe rõ hơn thôi.

D Artagnan lật ba bốn viên gạch lát tạo thành ở phòng chàng một cái tai khác của Denis(1), trải một tấm thảm lên nền nhà, quỳ xuống và ra hiệu cho bà Bonacieux cúi xuống như mình, về phía lỗ nghe.

- Ông tin chắc không có ai chứ? - Người lạ mặt nói.

- Tôi đảm bảo vậy - Bonacieux trả lời.

- Và ông nghĩ vợ ông đã?…

- Đã quay lại Louvre.

- Không nói gì với người nào ngoài ông?

- Tôi chắc chắn thế.

- Một điểm quan trọng đấy, ông có hiểu không?

- Như thế tức là cái tin tôi mang đến cho ông có một giá trị…

- Rất lớn, ông Bonacieux thân mến của tôi ạ, tôi không giấu ông điều đó.

- Vậy Giáo chủ sẽ bằng lòng về tôi?

- Tôi không nghi ngờ gì điều đó.

- Giáo chủ vĩ đại!

- Ông có chắc trong khi nói chuyện với ông, vợ ông không buột miệng nói ra những cái tên riêng nào chứ?
- Hình như thế.

- Bà ấy không nhắc đến bà De Chevreuse, ông De Buckingham và cả bà De Vécne nữa chứ?

- Không, cô ta chỉ nói với tôi cô ta muốn phái tôi đi London để phục vụ lợi ích của một nhân vật danh tiếng.

- Quân phản phúc! - Bà Bonacieux thầm thì.

- Im nào! - D Artagnan vừa nói vừa nằm lấy tay nàng còn nàng lơ đãng cứ để mặc.

- Không sao - người mặc áo choàng tiếp tục - Ông thật ngớ ngẩn, không biết giả vờ chấp nhận nhiệm vụ đó, và bây giờ ông đã có bức thư, quốc gia mà họ đe dọa được cứu thoát và ông…

- Và tôi?

- Và ông ấy à! Giáo chủ sẽ ban tước hiệu quý tộc cho ông…

- Ngài nói với ông như thế?

- Phải, tôi biết ngài muốn làm ông bị bất ngờ.

- Ông yên tâm - Bonacieux nói tiếp - vợ tôi tôn thờ tôi, vẫn còn kịp mà.

- Tên đần độn! - Bà Bonacieux lẩm bẩm.

- Có im không! - D Artagnan vừa nói vừa siết chặt tay nàng hơn nữa.

- Còn kịp là thế nào? - Người mặc áo choàng hỏi lại.

- Tôi cũng quay lại Louvre, tôi yêu cầu gặp bà Bonacieux, tôi nói tôi đã nghĩ lại rồi, tôi lại nhận việc đó, và tôi sẽ lấy được bức thư rồi chạy ngay đến chỗ Giáo chủ.

- Thế thì đi mau lên! Tôi sẽ quay lại ngay để biết kết quả tiến hành thế nào.

Người lạ đi ra.

- Đồ đê mạt? - Bà Bonacieux nói.

- Im nào! - D Artagnan nhắc lại và siết mạnh tay nàng hơn trước nữa.

Một tiếng hét lên khủng khiếp làm gián đoạn những suy nghĩ của D Artagnan và bà Bonacieux. Chính là chồng nàng thấy túi tiền biến mất và đang hô hoán kêu bắt kẻ cắp.

- Ôi, lạy Chúa! - Bà Bonacieux khẽ kêu lên.

- Lão ta khuấy đảo cả khu phố lên mất. Bonacieux kêu gào mãi, nhưng vì những tiếng kêu như thế xảy ra luôn, nên chẳng thu hút được ai trong phố Phu đào huyệt, hơn nữa ngôi nhà ông hàng xén lâu nay lại khá tai tiếng. Thấy chẳng ai đến, lão vừa đi ra vừa tiếp tục kêu gào, và người ta nghe thấy tiếng kêu cứ xa dần, theo hướng phố Bến phà.

- Thôi bây giờ lão ta đã đi rồi, đến lượt ông cũng phải ra đi thôi - Bà Bonacieux nói - Hãy can đảm, nhưng cất nhất phải thận trọng, nên nhớ ông có nghĩa vụ với Hoàng hậu.

- Với Hoàng hậu và với bà! - D Artagnan nói - cứ yên tâm nàng Constance kiều diễm ạ, tôi sẽ trở về xứng đáng với sự biết ơn của Hoàng hậu, nhưng chẳng lẽ tôi lại không trở về xứng đáng với tình yêu của nàng sao.

Người đàn bà trẻ chỉ trả lời bằng đôi má đỏ hồng lên. Mấy phút sau, D Artagnan đến lượt mình cũng ra đi, mình trùm một chiếc áo choàng lớn, bao gươm dài bên trong đội lên một cách ngang tàng.

Bà Bonacieux nhìn theo không dứt với con mắt thấm đượm tình yêu mà người đàn bà đưa tiễn người đàn ông mình cảm thấy yêu thương. Nhưng khi chàng đã khi khuất khỏi góc phố, nàng liền quỳ xuống, chắp hai tay lại và kêu lên:

- Ôi lạy Chúa? Xin người che chở cho Hoàng hậu, che chở cho con!

Chú thích:
(1) Bạo chúa của Xyraquy (405-367 trước công nguyên) - rất đa nghi. luôn mặc áo giáp, không dùng thợ cắt tóc, không ngủ một nơi quá hai đêm. Đào một hầm lao dưới đất để giam tội phạm. Nấp trong một địa điểm bí mật được xây theo hình cái tai, có thể nghe thấy hết những tiếng kêu than, những ý nghĩ thầm kín của tù nhân.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

27#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 01:49:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 19
Kế hoạch tác chiến


D Artagnan đi thẳng đến nhà ông De Treville. Chàng nghĩ rằng chỉ ít phút nữa, Giáo chủ sẽ được tên lạ mặt khốn kiếp kia, hính như là mật vụ của ông ta thông báo, vì vậy chàng nghĩ không thể để chậm trễ một giây phút nào.

Lòng chàng tràn ngập niềm vui. Một cơ hội vừa giành được vinh quang, vừa kiếm được tiền đang hiện ra trước mắt chàng, và còn là sự cổ vũ ban đầu đưa chàng gần lại người phụ nữ chàng ngưỡng mộ. Sự run rủi hầu như ngay từ lần đầu tiên vậy là đã đem lại cho chàng hơn cả chàng dám cầu xin ở Chúa cứu thế.

Ông De Treville đang trong phòng khách với cuộc hội kiến thường lệ của các nhà quý tộc. D Artagnan đã như người thân trong nhà, đi thẳng đến phòng làm việc của ông và nhờ báo cho ông chàng đang chờ vì một việc quan trọng.

D Artagnan ở đó được năm phút thì ông De Treville đi vào, thoáng nhìn thấy niềm vui trải mượt trên khuôn mặt chàng ông đại úy tôn kính hiểu ngay rõ ràng có điều gì mới mẻ đã xảy ra.

Suốt dọc đường, D Artagnan đã tự hỏi liệu chàng có nên thổ lộ với ông De Treville không hay chỉ xin ông cho phép được tự do hành động vì một công việc bí mật. Nhưng vì ông De Treville đã từng quá chu toàn với chàng, ông lại quá tận tụy với nhà Vua và Hoàng hậu, ông rất đỗi căm ghét Giáo chủ nên chàng trai trẻ quyết định nói hết với ông.

- Anh bạn trẻ, anh yêu cầu gặp tôi? - Ông hỏi.

- Vâng, thưa ông và hy vọng xin ông thứ lỗi vì đã quấy rầy ông, khi\ông biết rõ vấn đề là chuyện quan trọng gì.

- Anh nói đi, ta nghe đây.

D Artagnan hạ giọng nói:

- Chuyện không kém liên quan đến danh dự và có lẽ cả tính mạng của Hoàng hậu.

- Anh nói gì vậy? - Ông De Treville vừa hỏi vừa nhìn xung quanh xem có ai không và đưa mắt nhìn D Artagnan như muốn hỏi rõ chàng.

- Thưa ông, tôi nói, tình cờ khiến tôi đang làm chủ một bí mật…

- Anh phải giữ kín, ta hy vọng thế, anh bạn trẻ ạ, bằng tính mạng của anh đấy.

- Nhưng tôi lại phải thổ lộ với ông, thưa ông, với chính ông, bởi chỉ có ông mới có thể giúp tôi trong nhiệm vụ mà tôi vừa mới nhận được của Hoàng hậu.

- Cái bí mật ấy là của anh ư?

- Không, thưa ông, của Hoàng hậu.

- Anh được phép của Hoàng hậu?

- Không, thưa ông, trái lại, bởi vì sự tuyệt mật đã được tôi đảm bảo.

- Vậy tại sao anh lại đi phản bội lại ngay trước mặt tôi?

- Bởi vì, tôi đã nói với ông rồi đó, không có ông, tôi chẳng thể làm gì, và tôi sợ rằng ông sẽ từ chối cái ân huệ mà tôi yêu cầu ông, nếu ông không biết rõ tôi yêu cầu ông điều đó với mục đích gì.

- Anh cứ giữ lấy cái bí mật ấy của anh, chàng trai trẻ ạ, và nói cho ta hay anh muốn gì ở ta.

- Tôi muốn ông dành cho tôi một kỳ nghỉ phép mười lăm ngày ở ông des Essarts.

- Khi nào?

- Ngay đêm nay.

- Anh rời Paris?

- Tôi đi làm nhiệm vụ.

- Có thể nói cho tôi ở đâu được không?

- Ở London.

- Liệu có kẻ nào quan tâm đến việc anh không đạt được mục đích không?

- Giáo chủ, tôi tin như vậy, sẽ cho hết mọi thứ trên đời để ngăn tôi thành công.

- Và anh đi một mình?

- Tôi đi một mình.

Trong trường hợp ấy, anh sẽ không qua nổi Bôngđy đâu, chính tôi là người nói với anh như vậy, lời nói của Treville đấy.

- Sao lại thế được?

- Người ta sẽ cho ám sát anh.

- Tôi sẽ chết khi làm nghĩa vụ của mình.

- Nhưng sứ mạng của anh không được làm tròn.

- Đúng vậy - D Artagnan nói.

- Tin tôi đi - Ông Treville tiếp tục - trong những cuộc phiêu lưu mạo hiểm này, phải có bốn để đến được một.

- Ôi! Thưa ông, sao ông nói đúng thế. Nhưng ông đã biết Athos, Porthos và Aramis, ông thấy liệu tôi có sừ dụng họ được không?

- Không thổ lộ với họ cái bí mật mà chính tôi cũng không muốn biết chứ?

- Chúng tôi đã thề với nhau, một lần cho mọi lần, nhắm mắt tin nhau, hết lòng vì nhau trước mọi thử thách. Vả lại, ông có thể nói với họ rằng ông hoàn toàn tin tưởng ở tôi, và họ sẽ không kém tin tôi hơn ông đâu.

- Tôi có thể cho họ mỗi người một kỳ phép mười lăm ngày, tất cả là thế này: cho Athos, vì vết thương vẫn luôn luôn nhức nhối, để đến vùng suối nóng ở Foócgiơ, cho Porthos và Aramis để đi theo bạn vì không muốn bỏ mặc bạn trong một tình cảnh đau đớn đến như vậy. Gửi cho họ giấy phép sẽ là bằng chứng tôi cho phép cuộc hành trình của họ.

- Xin cám ơn ông, ông thật muôn vàn lần tốt.

- Vậy anh hãy đi tìm họ ngay lúc này đi và tất cả phải được thi hành ngay đêm nay. À, trước hết, hãy viết cho tôi đơn xin ông des Essarts. Có thể anh đã bị một tên do thám theo dõi, và việc anh đến thăm tôi, trong trường hợp Giáo chủ đã biết sẽ được hợp pháp hóa.

D Artagnan viết đơn xin, và ông De Treville nhận đơn từ tay chàng, đảm bảo trước hai giờ sáng bốn giấy phép sẽ đến đúng địa chỉ các lữ khách.

- Làm ơn gửi giấy phép của tôi đến chỗ Athos - D Artagnan nói - Tôi sợ rằng trở về nhà tôi sẽ gặp chuyện chẳng lành.

- Anh yên tâm. Vĩnh biệt, chúc thượng lộ bình an! À mà? - Ông De Treville gọi chàng lại.

D Artagnan rảo bước quay lại.

- Anh có tiền không?

- Ba trăm đồng vàng!

- Tốt lắm, với số tiền ấy có thể đi tận cùng thế giới. Thôi đi đi.

D Artagnan chào ông De Treville đang chìa tay bắt tay chàng. Chàng siết chặt tay ông với lòng kính trọng xen lẫn sự biết ơn. Từ khi tới Paris, chàng chỉ một mực ca ngợi con người ưu tú ấy con người chàng luôn luôn thấy đáng tôn kính, trung thực và vĩ đại.

Đầu tiên chàng đến thăm Aramis. Từ cái buổi tối tuyệt diệu chàng bám theo bà Bonacieux, chàng chưa trở lại nhà bạn mình.
Còn thêm điều này nữa: Mới thoạt nhìn chàng ngự lâm trẻ ấy và mỗi lần gặp lại, chàng tưởng như nhận thấy một nỗi buồn sâu sắc in trên gương mặt bạn mình.

Tối nay nữa, Aramis vẫn thức, vẻ mặt sầm tối, mơ màng. D Artagnan hỏi bạn mình mấy câu về nỗi buồn sâu xa ấy.

Aramis phân trần chàng buộc phải viết bằng tiếng Latinh một bài bình luận về chương thứ 18 kinh Thánh Augustin cho tuần sau, khiến chàng phải bận tâm nhiều.

Đôi bạn chuyện trò được một lát thì một đầy tớ của ông De Treville bước vào cầm theo một gói kín có dấu niêm phong.
- Cái gì thế này? - Aramis hỏi.

- Giấy phép ngài yêu cầu - người hầu trả lời.

- Tôi hả, tôi có xin phép nghỉ đâu.

- Im đi và cầm lấy. - D Artagnan nói - Và anh, anh bạn, đây là nửa đồng vàng thưởng công cho anh, anh về nói với ông Treville là ông Aramis thành thật và rất đỗi cám ơn ông. Thôi về!

Người hầu cúi rạp đất chào và đi ra.

- Thế nghĩa là thế nào? - Aramis hỏi.

- Anh hãy cầm lấy cái cần thiết cho một cuộc hành trình mười lăm ngày và đi theo tôi.

- Nhưng tôi không thể rời Paris lúc này mà không biết… - Aramis dừng lại.

- Không biết bây giờ nàng ra sao, có phải không? - D Artagnan tiếp tục.

- Ai cơ?

Người đàn bà đã ở đây, người đàn bà có chiếc khăn tay thêu đó.

- Ai bảo cậu có một người đàn bà ở đây? - Aramis cãi, mặt nhợt như người chết.

- Tôi đã trông thấy.

- Và cậu có biết là ai không?

- Tôi ngờ ngợ thôi, ít ra là như vậy.

- Nghe đây - Aramis nói - một khi cậu nắm được bao nhiêu chuyện như vậy, hẳn cậu phải biết người đàn bà ấy bây giờ ra sao?

- Tôi cho là nàng đã trở về Tours.

- Về Tours? Phải, đúng thế, cậu biết nàng rồi. Nhưng làm sao nàng lại trở về Tours mà không nói gì với tôi.

- Bởi nàng sợ bị bắt.

- Làm sao nàng không viết cho tôi?

- Bởi vì nàng sợ làm hại anh.

- D Artagnan, cậu cứu sống tôi rồi! - Aramis reo lên - Tôi cứ tưởng mình bị khinh bỉ, phản bội. Tôi đã sung sướng biết mấy khi gặp lại nàng! Tôi không thể ngờ rằng nàng đã hy sinh tự dọ của mình vì tôi, tuy nhiên nàng trở lại Paris là vì nguyên cớ gì?

- Vì cái nguyên cớ mà hôm nay chúng ta phải đi sang nước Anh.

- Nhưng nó là gì mới được chứ? - Aramis hỏi.

- Rồi có ngày anh sẽ biết, Aramis ạ, nhưng còn lúc này, tôi sẽ bắt chước tính dè dặt của cháu gái ông tiến sĩ.

Aramis mỉm cười, vì chàng nhớ lại câu chuyện mình đã bịa ra tối hôm đó cho các bạn nghe.

- Thôi được, vậy một khi nàng đã rời Paris, và cậu đã chắc như vậy, D Artagnan, không có gì ngăn tôi được nữa, tôi sẵn sàng đi theo cậu. Cậu nói chúng ta đi…

- Lúc này hãy đến Athos đã, và nếu anh muốn đến cùng thì nhanh nhanh lên, bởi chúng ta đã mất khá nhiều thời gian rồi.

- À mà, anh báo cho Bazin nữa.

- Bazin đi cùng chúng ta? - Aramis hỏi.

- Có thể. Dẫu sao, lúc này Bazin đi theo chúng ta đến nhà Athos cũng tốt.

Aramis gọi Bazin, và sau khi đã ra lệnh cho y đi theo đến nhà Athos, chàng vơ áo choàng, cầm lấy gươm và ba khẩu súng ngắn, rồi mở đi mở lại ba bốn cái ngăn kéo xem có sót một đồng vàng nào không, chẳng thấy, chàng nói:

- Vậy ta đi thôi.

Sau khi đã chắc chắn việc tìm kiếm tiền còn sót lại chỉ là thừa, Aramis đi theo D Artagnan, vừa đi vừa tự hỏi làm thế nào mà cái tay tập sự trẻ ở đội cận vệ cũng biết rõ như chàng người phụ nữ đã trọ ở nhà chàng là ai, và còn biết rõ hơn chàng nàng đã ra sao.

Chỉ đến lúc ra khỏi nhà, Aramis mới đặt tay lên cánh tay D Artagnan, và nhìn thẳng vào mặt bạn và nói:

- Cậu không nói về người đàn bà ấy với ai chứ?

- Không một ai hết.

- Không cả với Athos và Porthos chứ?

- Không hé một nửa lời.

- Khá lắm!

Yên tâm về cái điều quan trọng ấy, Aramis tiếp tục lên đường cùng D Artagnan, chẳng mấy chốc cả hai đã đến nhà Athos.
Họ thấy Athos đang cầm một giấy phép trong tay và tay kia là bức thư của ông De Treville.

"Athos thân mến của tôi.

Vì sức khỏe của anh tuyệt đối đòi hỏi phải như vậy, tôi rất muốn anh phải nghỉ ngơ mười lăm ngày. Vậy hãy đến vùng suối nóng Foócgiơ hoặc chỗ nào khác hợp với anh, và hãy nhanh chóng bình phục.

Thân ái

Treville"

- Anh Athos ơi, cái giấy phép và bức thư đó có nghĩa là phải đi theo tôi đấy.

- Đến suối nóng Foócgiơ?

- Đấy hoặc chỗ khác.

- Để phục vụ nhà Vua ư?

Nhà Vua hoặc Hoàng hậu, chả phải chúng ta là bầy tôi của hai vị sao?

Đúng lúc ấy thì Porthos vào. Chàng nói:

- Mẹ kiếp! Chuyện kỳ quá đi thôi. Chả hiểu từ bao giờ trong ngự lâm quân, người ta lại cho quân nghỉ phép không cần xin xỏ gì thế này.

D Artagnan nói:

- Từ khi họ có những người bạn xin hộ họ.

- Chà chà! - Porthos nói - Hình như có chuyện gì mới ở đây chăng?

- Phải, chúng ta ra đi - Aramis nói.

- Đến nước nào? - Porthos hỏi.

- Thật tình, tôi chẳng biết gì lắm - Athos nói - hỏi D Artagnan ấy.

- Đến London, thưa các vị.

Đến London? - Porthos kêu lên - Và chúng ta sẽ làm gì ở London đây?

- Đó lại là điều tôi không thể nói với các vị được. Các vị phải tin vào tôi thôi.

- Nhưng để đi đến London - Porthos thêm - Cần phải có tiền, mà tôi thì chẳng có một xu nào cả.

- Tôi cũng vậy - Aramis nói.

- Tôi cũng thế - Athos nói.

- Tôi có - D Artagnan vừa nói vừa rút kho báu từ trong túi mình ra và đặt lên bàn - Trong túi này có ba trăm đồng vàng. Mỗi người hãy cầm lấy, thế là đủ để đi đến London và cho lúc trở về. Vả lại, cứ yên tâm, chúng ta sẽ không đến London tất cả đâu?

- Tại sao thế?

- Bởi vì rất có thể, có một vài người trong chúng ta sẽ ở lại dọc đường.

- Nhưng như vậy phải chăng chúng ta đang tiến hành một chiến dịch?

- Và nguy hiểm nhất, tôi xin báo trước như vậy.

- Ra thế! Porthos nói - Nhưng một khi nhỡ ra chúng ta bị giết chết, ít ra tôi cũng muốn biết tại sao chứ?

- Cậu vội quá đấy! - Athos nói.

- Tuy nhiên tôi đồng ý với Porthos! - Aramis nói.

- Nhà Vua phải chăng có lệ phải trình bày với cái vị? Không, Ngài chỉ nói thẳng ra thế này: "Các vị, người ta đang chiến đấu ở Gátxcônhơ, hay ở Flăngđrơ, hãy lên đường!" và các vị lên đường đến đấy. Tại sao ư? Các vị chẳng áy náy gì đâu.

- D Artagnan nói đúng - Athos nói - Đây là ba giấy phép của chúng ta do ông De Treville cấp, và đây là ba trăm đồng vàng chẳng biết từ đâu ra. Vậy ta đi thôi, và sẵn sàng chết ở nơi người ta bảo ta đi. Cuộc đời có đáng đặt ra bao nhiêu câu hỏi như vậy không? D Artagnan, tôi sẵn sàng đi theo cậu.

- Cả tôi nữa - Porthos nói.

- Tôi cũng vậy - Aramis nói - Tôi cũng chẳng buồn bực phải rời khỏi Paris đâu. Tôi đang cần tiêu khiển.

D Artagnan nói:

- Yên trí, các vị sẽ được tiêu khiển.

- Còn bây giờ, khi nào chúng ta đi đây? - Athos hỏi.

- Ngay lập tức - D Artagnan trả lời - Không còn một chút nào để mất đâu.

Bốn chàng trai trẻ hô lên gọi những người hầu của mình:

- Ê này, Grimaud, Planchet, Mousqueton, Bazin! Hãy đánh xi những đôi ủng cho chúng ta, và đem ngựa từ dinh quán đến.
Quả thật, mỗi lính ngự lâm đều để ngựa của mình và của người hầu ở tổng dinh như ở doanh trại.

Planchet, Grimaud, Mousqueton, Bazin vội vàng đi ngay.

- Bây giờ, chúng ta phải vạch kế hoạch tác chiến - Porthos nói - Chúng ta đi đâu trước nào?

- Đến Cale - D Artagnan nói - đó là con đường đi thẳng đến London.

Porthos nói:

- Tôi có ý kiến.

- Nói đi.

- Bốn người đi cùng nhau sẽ bị nghi ngờ. D Artagnan sẽ hướng dẫn riêng từng người. Tôi đi tiên phong theo đường Bulônhơ để thám thính. Hai giờ sau Athos khởi hành theo đường Amiêng. Aramis sẽ đi theo chúng ta bằng đường Noayông. Còn D Artagnan, cậu ấy sẽ đi bằng đường nào thì đi, bằng y phục của Planchet, còn Planchet sẽ đi theo chúng ta thành D Artagnan và với đồng phục quân cận vệ.

- Thưa các vị - Athos nói - tôi thấy mang theo bọn người hầu trong "một việc hệ trọng" như thế này sẽ chẳng hay ho gì. Một bí mật không may có thể bị một nhà quý tộc để lộ. Còn bọn người hầu, hầu như luôn luôn bán rẻ nó.

D Artagnan nói:

- Tôi thấy kế hoạch của Porthos hình như không thể thực hiện được ở chỗ bản thân tôi cũng không biết chỉ dẫn các anh điều gì. Tôi chỉ là người mang theo một bức thư, có thế thôi. Tôi không có và cũng không thể làm ra ba bản sao bức thư ấy, vì nó đã được niêm phong. Vậy theo ý tôi, ta cứ nên đi thành đoàn. Thư ấy ở đây, trong cái túi này (và chàng chỉ cái túi có bức thư). Nếu tôi bị giết, một trong các anh sẽ giữ lấy và các anh tiếp tục lên đường. Nếu anh ấy bị giết, sẽ đến lượt anh khác, và cứ thế tiếp theo, miễn là một người đến được. Đó là tất cả việc cần làm.

- Hoan hô D Artagnan! Ý kiến cậu cũng là ý kiến tôi! - Athos nói. Hơn nữa phải trước sau như một, tôi đi nghỉ ở suối nóng, các cậu đi cùng, đáng lẽ ở suối nóng Foócgiơ, tôi lại ra biển nghỉ, tôi được tự do cơ mà. Họ muốn bắt giữ chúng ta, chúng ta sẽ chống trả. Họ xét xử chúng ta, chúng ta cứ một mực không có ý định nào khác ngoài việc trầm mình ngày mấy lần trong nước biển. Bốn người mỗi người một phương thì sẽ rẻ mạt, còn như bốn người thống nhất lại thì thành một đội quân. Chúng ta sẽ trang bị cho bốn tên hầu cả súng ngán, lẫn súng trường. Nếu họ phái một đạo quân tới chống lại chúng ta, chúng ta sẽ giao chiến, và người nào sống sót, như D Artagnan nói sẽ mang thư đi.

- Nói hay lắm! - Aramít~ reo lên - Anh không hay nói, Athos ạ, nhưng khi anh nói, thì cứ như thánh Jean miệng vàng. Tôi tán thành kế hoạch của Athos. Còn cậu, Porthos?

- Tôi cũng vậy, nếu hợp ý D Artagnan. D Artagnan là người mang thư tất nhiên phải là chỉ huy cuộc mạo hiểm, cậu ấy quyết định và chúng ta thi hành.

- Vậy thì tôi quyết định chúng ta chấp nhận kế hoạch của Athos và nửa giờ nữa chúng ta lên đường.

- Chấp nhận! - Ba người ngự lâm đồng thanh hô lên.

- Và mỗi người vươn tay tới cái túi, lấy bẩy nhăm đồng vàng, chuẩn bị hành lý để khởi hành đủng giờ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

28#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 01:54:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 20
Du hành


- Đúng hai giờ sáng, bốn chàng phiêu lưu của chúng ta ra khỏi Paris, qua cửa ô Saint-Denis. Chừng nào vẫn còn là đêm, họ vẫn phải câm lặng. Dẫu không nói, họ vẫn chịu ảnh hưởng của bóng đêm và nhìn đâu cũng thấy ổ phục kích.

Vừa rạng sáng, lưỡi họ mới như được cởi trói. Cùng với mặt trời, niềm vui trở lại. Thật giống như đêm trước một cuộc giao chiến, tim đập mạnh, mắt long lanh, người ta cảm thấy cuộc đời mình sắp lìa bỏ suy cho cùng vẫn là một cái gì tốt đẹp.

Cảnh tượng đoàn người ngựa xem ra thật dữ dội. Những con ngựa ô của ngự lâm quân, dáng dấp hiếu chiến, rồi thói quen bước đều trong đội kỵ binh của những đồng đội cao quý ay, tất cả những cái đó có thể làm lộ một sự giả dạng chặt chẽ nhất. Những tên hầu theo sau, vũ trang đến tận răng.

Mọi việc đều ổn thỏa cho tới khi đến Sángtily vào lúc tám giờ sáng. Phải ăn sáng đã. Họ xuống ngựa trước một quán ăn trưng một biển hiệu vẽ Saint-Martin chia một nửa tấm áo khoác cho một người nghèo. Bọn người hầu được lệnh không được tháo yên cương ngựa và ở tư thế sẵn sàng đi ngay.

Bọn họ vào căn phòng công cộng và ngồi vào bàn. Một nhà quý tộc theo đường D Artagnan vừa tới cũng vào ngồi cùng bàn và điểm tâm. Hắn gợi chuyện về trời mưa và nắng ráo. Các lữ khách đáp chuyện. Hắn uống chúc họ sức khoẻ. Các lữ khách cũng đáp lễ lại.

Nhưng khi Mousqueton vào báo ngựa đã sẵn sàng, và khi mọi người đứng lên, người lạ đề nghị Porthos nâng cốc chúc sức khỏe Giáo chủ. Porthos trả lời chàng không đòi hỏi gì hơn nếu người lạ đến lượt mình cũng xuống chúc sức khỏe nhà Vua.
Người lạ hét lên hắn không biết nhà Vua nào ngoài Giáo chủ.

Porthos gọi hắn là thằng say rượu. Người lạ rút gươm.

- Cậu lại làm một chuyện dại dột rồi - Athos nói - thôi kệ vậy, lúc này có lùi cũng không được rồi, giết nó đi rồi đuổi kịp bọn mình càng nhanh càng tốt.

Và cả ba đều lên ngựa phi nước đại ra đi trong khi Porthos hứa với đối thủ sẽ đâm xuyên qua người hắn bằng tất cả các thế của thuật đấu gươm.

Đi được khoảng năm trăm bước, Athos nói:

- Thế là xong một tên?

- Nhưng tại sao tên đó lại tấn công vào Porthos thay vì mọi người khác? - Aramis hỏi.

- Tại vì - Porthos nói to hơn tất cả chúng ta, nó tưởng anh ấy là chỉ huy - D Artagnan nói.

Athos lẩm nhẩm:

- Mình luôn bảo, cái cậu tập sự Gátxcông này là một tay khôn ngoan thâm thúy mà.

Các lữ khách lại tiếp tục lên đường.

Đến Bôve, họ dừng lại hai giờ, vừa để cho ngựa thở, vừa để chờ Porthos. Không thấy Porthos đến, cũng chẳng có tin gì về chàng, họ lại lên đường.

Đi khỏi Bôve chừng một dặm, đến một chỗ đường đi thắt lại giữa hai vạt đất, họ gặp một bọn tám đến mười người, lợi dụng đoạn đường bị bong đá lát có vẻ như đang làm việc ở đó bằng việc đào hố và xẻ rãnh bùn.

Aramis sợ bẩn ủng trong lớp vữa nhân tạo ấy, quát mắng bọn họ thậm tệ. Athos muốn ngăn chàng lại, nhưng đã quá muộn. Những người thợ bèn châm chọc các lữ khách, sự cấc lấc của họ làm điên đầu cả đến chàng Athos tính lạnh, đến mức thúc ngựa xông vào một người trong bọn.

Thế là mỗi người trong bọn họ đều lùi lại đến tận cái hố, và vồ lấy một khẩu hỏa mai giấu ở đấy. Kết quả là bẩy lữ khách của chúng ta chẳng khác gì được đem ra để thử súng. Aramis nhận một viên đạn xuyên qua vai và Mousqueton bị một viên cắm vào thịt vùng dưới thận. Tuy nhiên chỉ có mỗi Mousqueton ngã ngựa không phải vì bị trọng thương, mà vì hắn không thể nhìn thấy vết thương, chắc hắn tưởng nguy hiểm chứ đâu phải thường.

- Đây là một ổ phục kích - D Artagnan nói - Đừng bắn nữa, lên đường thôi.

Aramis tuy bị thương vẫn giữ chặt bờm ngựa, đi theo những người khác. Ngựa của Mousqueton cũng đuổi kịp đoàn và phi một mình không chủ.

- Chúng ta sẽ có một con ngựa để thay đây. Athos nói.

- Giá tôi có một chiếc mũ thì tốt quá - D Artagnan nói - Mũ của tôi bị đạn làm bay mất rồi. Kể cũng may chán, vì bức thư không để ở trong mũ.

Aramis nói:

- Nhưng bọn chúng sẽ giết Porthos khi cậu ấy qua đây mất.

- Nếu Porthos còn đứng vững trên đôi chân của mình, có lẽ cậu ấy bây giờ đã đuổi kịp chúng ta - Athos nói - Tôi nghĩ lúc giao tranh, tên say sẽ tỉnh rượu.

Rồi họ lại phi ngựa trong hai tiếng nữa, cho dù ngựa đã quá mệt đến nỗi họ sợ chúng không chịu cho cưỡi nữa.

Các lữ khách đi theo lối tắt hy vọng sẽ bớt lo. Nhưng đến Crevơcơ (Crève - Vỡ tim), Aramis tuyên bố chàng không thể đi xa hơn được nữa. Quả thật, để đi được đến đây, chàng đã phải lấy hết can đảm được che giấu dưới bề ngoài trang nhã và cung cách lịch thiệp của mình. Mỗi lúc chàng càng tái nhợt đi và mọi người phải đỡ chàng ngồi vửng trên mình ngựa. Họ để chàng xuống ngựa trước cửa một tửu quán, cho Bazin ở lại với chàng, vả chăng hắn chỉ tổ vướng chân nếu xảy ra đụng độ chứ chẳng được ích lợi gì. Rồi họ lại lên đường với hy vọng đến ngủ ở Amiêng.

Rong ruổi trên đường, lúc này chỉ còn Grimaud, Planchet và hai ông chủ, Athos nói:

- Mẹ kiếp! Bọn chúng sẽ không lừa nổi mình nữa đâu, mình đảm bảo với cậu từ đây đến Cale, chúng đừng hòng cậy nổi răng mình hoặc làm mình rút gươm khỏi vỏ.

- Thôi đừng thề thốt nữa - D Artagnan nói - Hãy phi lên, nếu lũ ngựa còn chịu.

Các du khách thúc đinh vào bụng ngựa, lũ ngựa được kích thích mạnh, lấy lại được sức. Họ đến Amiêng vào lúc nửa đêm và xuống ngựa ở quán trọ Huệ vàng.

Chủ quán có vẻ là một người lương thiện nhất trên đời. Lão ta tay mang cây đèn nến, tay kia ngả mũ bông chào đón khách. Hắn muốn để hai vị khách, mỗi người ngủ một căn phòng duyên dáng, nhưng chán nỗi mỗi phòng lại ở mỗi đầu quán trọ.
D Artagnan và Athos từ chối. Chủ quán nài mãi. Lừ khách vẫn một mực như thế. Đành phải tùy lữ khách vậy.

Họ vừa xếp đặt chỗ ngủ và chặn cửa phía trong xong thì có tiếng gõ cửa sổ trông ra sân, họ hỏi xem ai thì nhận ra tiếng nói của những người hầu, và mở ra.

Quả nhiên đó là Planchet và Grimaud. Planchet nói:

- Một mình Grimaud thôi cũng đủ để canh ngựa, và nếu các ông muốn, tôi sẽ nằm chắn cửa, như thế các ông sẽ yên trí không ai lọt vào chỗ các ông được.

- Thế anh ngủ trên cái gì? - D Artagnan hỏi.

Planchet trả lời:

- Giường tôi đây. - Và anh ta chỉ một bó rơm.

- Vậy vào đi! - D Artagnan nói - Anh có lý đấy, cái bộ mặt lão chủ quán làm ta không ưa, trông thớ lợ quá.

Athos nói:

- Cả tôi nữa cũng thấy thế.

Planchet trèo qua cửa sổ, nằm chắn ngang cửa, còn Grimaud thì chui vào chồng ngựa đảm bảo năm giờ sáng anh ta và ngựa đã sẵn sàng.

Đêm khá yên tĩnh. Khoảng hai giờ sáng, có kẻ định mở cửa thật. Nhưng Planchet giật mình chồm dậy, và kêu lên: "Ai đó?". Kẻ kia trả lời mình nhầm và bỏ đi.

Lúc bốn giờ sáng, có tiếng ầm ầm ở chuồng ngựa. Grimaud muốn đánh thức bọn trai coi ngựa, và bọn chúng đã đánh hắn.
Khi mấy người mở cửa sổ, thì thấy gã hầu tội nghiệp nằm bất tỉnh, đầu bị một đòn cán chĩa đánh vỡ.

Planchet đi xuống sân và định gióng lại yên cương cho ngựa.

Chân ngựa đều bị tụ máu. Chỉ còn mỗi con của Mousqueton chạy không chủ trong năm sáu tiếng đồng hồ đêm trước có lẽ có thể tiếp tục lên đường. Nhưng do một sự nhầm lẫn không thể chấp nhận được, kẻ có vẻ là thú y giải phẫu mà người ta sai đi tìm để trích máu cho con ngựa của chủ quán, lại trích ngay con ngựa của Mousqueton.

Việc đó khiến mọi người trở nên lo lắng. Tất cả những tai họa kế tiếp nhau có thể do rủi ro, nhưng cũng rất có thể là kết quả của một âm mưu. Athos và D Artagnan ra ngoài, trong khi đó Planchet hỏi thăm xem xung quanh đây, có ba con ngựa nào muốn bán không? Ở ngoài cửa có hai con ngựa yên cương sẵn sàng, sung sức và lực lưỡng. Đúng là nắng hạn gặp mưa rào. Gã hỏi chủ ngựa đâu, người ta trả lời, họ cũng qua đêm ở đây và lúc này đang tính tiền trả chủ quán.

Athos đi xuống để trả tiền trọ. Còn D Artagnan và Planchet đứng ở cửa trông ra phố. Chủ quán ở trong một cái phòng thấp và sâu mãi vào trong. Người ta yêu cầu Athos vào trong.

Athos không nghi ngờ gì lấy ra hai đồng vàng để trả. Chủ quán chỉ có một mình và đang ngồi trước bàn làm việc mà một trong số ngăn kéo đã hé mở. Hắn cầm đồng tiền Athos đưa cho, lật đi lật lại từ tay này sang tay khác và bất ngờ kêu toáng lên là tiền giả, hắn tuyên bố sẽ bắt giữ bọn chàng như những kẻ làm tiền giả.

- Quân chó má! - Athos vừa nói vừa tiến lại - Tao sẽ cắt tai mày.

Cùng lúc đó, bốn người trang bị đến tận răng, qua cửa bèn xông vào và nhảy bổ lên Athos.

- Tôi bị bắt - Athos đồn hết sức kêu thật to - chạy đi thôi, D Artagnan phóng ngựa đi, phóng ngựa mau!

Rồi chàng nhả liền hai phát súng ngắn.

D Artagnan vì Planchet không để nhắc lại đến lần thứ hai, tháo luôn hai con ngựa chờ ở cửa, nhảy lên, thúc đinh vào bụng ngựa, phóng như bay.

D Artagnan vừa phi vừa hỏi Planchet:

- Mày có biết Athos bây giờ ra sao không?

- Ồ thưa ông - Planchet nói - tôi trông thấy hai tên ngã vì trúng hai phát đạn, và qua cửa kính, tôi thấy hình như ông đang đọ gươm với những tên khác.

- Hoan hô Athos! - D Artagnan lẩm nhẩm. Lại nghĩ đến việc mình phải bỏ rơi anh ấy - Ồ, mà có lẽ cũng lại như thế đang đợi ta cách đây mấy bước thôi. Planchet tiến lên, mày tốt lắm! Tiến lên!

- Thưa ông, tôi đã nói với ông rồi - Planchet trả lời. Dân Pica, khi dùng mới biết mà. Hơn nữa, tôi đang trên mảnh đất quê hương, tôi càng phấn khích.

- Và cả hai phi ngựa hết tốc lực, một mạch đến Saint Ômê. Ở Saint Ômê, họ xuống cho ngựa thở, cánh tay vẫn ngoắc dây cương, đề phòng bất trắc và ngồm ngoàm đứng ăn đôi chút ngay giữa phố và rồi lại khởi hành.

Cách cửa ô của Cale chừng trăm bước, ngựa của D Artagnan quỵ ngã, không có cách nào làm cho nó đứng lên được, máu trào ra mũi và hai mắt, còn lại con ngựa của Planchet, nhưng nó cũng dừng lại, không có cách nào làm nó lại đi nữa.
Cũng may chỉ còn cách thành phố trăm bước, họ bỏ ngựa lại trên đường và chạy về phía cảng. Planchet ra hiệu cho chủ mình chú ý đến một nhà quý tộc cùng với người hầu đi trước bọn họ chừng năm mươi bước.

Họ rảo bước đến gần. Gã quý tộc có vẻ đang rất bận rộn, đôi ủng của gã phủ đầy bụi đường và gã đang hỏi thăm xem có thể qua nước Anh ngay lúc này được không.

Người chủ một chiếc thuyền buồm chuẩn bị căng buồm trả lời:

- Chả có gì dễ hơn việc đó. Nhưng sáng nay có lệnh không được để người nào không được phép khẩn cấp của Giáo chủ đi qua.

- Tôi có giấy phép đó - Gã quý tộc vừa nói vừa rút mảnh giấy trong túi ra - Giấy phép đây!

- Ông hãy đem đến trấn thủ cảng xác nhận - chủ thuyền nói - và đưa cho tôi giấy ưu tiên.

- Tôi phải tìm ông trấn thủ ở đâu?

- Ở dã thự của ông ấy.

- Dã thự ấy ở đâu?

- Cách thành phố một phần tư dặm. Kia kìa, từ đây ông cũng nhìn thấy, cái mái lợp đá đen ở chân cái gò nhỏ ấy.

- Tốt lắm! - Gã quý tộc nói.

Và cùng với người hầu, gã đi theo con đường dẫn đến dã thự của viên trấn thủ.

D Artagnan và Planchet đi theo gã quý tộc với khoảng cách năm trăm bước.

Ra khỏi thành phố, D Artagnan rảo bước đuổi kịp gã, vừa lúc gã đi vào một cánh rừng nhỏ.

- Thưa ông - D Artagnan nói - Ông có vẻ rất vội vã?

- Người ta không thể vội hơn thế, thưa ông.

- Tôi lấy làm tiếc - D Artagnan nói - vì tôi cũng rất vội, nên tôi muốn nhờ ông giúp tôi một việc.

- Việc gì?

- Để tôi đi trước.

- Không được - gã quý tộc nói - tôi đã đi sáu mươi dặm và mất bốn mươi tư giờ và trưa mai tôi đã phải ở London.

- Tôi cũng đi cùng con đường ấy trong bốn mươi giờ và mười giờ sáng mai tôi phải ở London.

- Thưa ông tiếc thật. Nhưng tôi đến trước, và tôi sẽ không qua sau đâu.

- Rất tiếc thưa ông. Nhưng tôi đến sau, và tôi sẽ qua trước.

- Công việc của nhà Vua! - Gã quý tộc nói.

- Công việc của chính tôi! - D Artagnan nói.

- Tôi thấy hình như ông định cố tình gây sự với tôi.

- Mẹ kiếp! Thế ông muốn nó là thế nào?

- Ông muốn gì?

- Ông muốn biết điều đó ư?

- Hẳn rồi.

- Vậy thì thế này! Tôi muốn cái lệnh ông đang mang theo, bởi vì tôi không có nó, và tôi lại cần có một cái.

- Tôi cho là ông đang đùa.

- Tôi chả bao giờ đùa.

- Để tôi đi!

- Ông không đi được đâu.

- Anh bạn trẻ tử tế của ta ạ, ta sẽ bắn vỡ đầu anh, Lubanh đâu, súng ngắn của ta.

- Planchet! - D Artagnan nói - hãy lo tên hầu, còn ta lo thằng chủ.

Planchet hăng hái lập chiến công đầu, nhảy bổ lên Lubanh, và vì khỏe và dũng mãnh, hắn quật Lubanh ngã ngửa ra và tì gối lên ngực rồi nói với D Artagnan:

- Ông chủ, ông lo việc của ông đi, còn tôi, tôi đã làm xong việc của tôi rồi.

Thấy vậy, gã quý tộc rút gươm nhảy bổ vào D Artagnan, nhưng gã gặp phải một đối thủ khó nuốt.

Trong khoảng ba giây đồng hồ D Artagnan đã cho hắn ba nhát gươm, mỗi nhát chàng lại nói:

- Một nhát vì Athos! Một nhát vì Porthos! Một nhát vì Aramis.

Đến nhát thứ ba, gã quý tộc đổ vật xuống như một đống thịt.

D Artagnan tưởng hắn chết, hoặc ít nhất cũng bị ngất, lại gần hắn để chiếm lấy cái lệnh, nhưng đúng lúc chàng vươn cánh tay ra để lục tìm, tên bị thương vẫn chưa rời tay gươm liền xỉa luôn một mũi vào ngực chàng và nói:

- Một cho ngươi!

- Và một cho ta! Nhát cuối là nhát tốt nhất! - D Artagnan hét lên giận dữ, đâm nhát thứ tư xuyên qua bụng hắn cắm mũi gươm xuống đất.

Lần này gã quý tộc nhắm mắt lại và lịm đi. D Artagnan lục trong cái túi mà chàng thấy gã đút tờ lệnh đi đường vào đấy rồi cầm lấy. Giấy mang tên Bá tước De Wardes.

Rồi đưa mắt nhìn lần cuối con người trẻ tuổi đẹp trai suýt soát hai nhăm tuổi, bỏ mặc hắn nằm đấy không còn cảm giác, có lẽ đã chết, chàng buông một tiếng thở dài, buồn thay cho cái định mệnh trớ trêu xui khiến con người hủy hoại lẫn nhau vì lợi ích của những kẻ xa lạ với mình và thường không biết cả đến việc mình đang tồn tại nữa.

Nhưng chàng bị bứt ra khỏi những ý nghĩ ấy bởi những tiếng gào thét hết sức mình kêu cầu cứu của Lubanh.

Planchet lấy tay chẹn họng hắn, và dùng hết sức siết chặt lại rồi nói:

- Thưa ông, chừng nào tôi còn chẹn thế này, nó sẽ không kêu nữa, tôi tin chắc như vậy. Nhưng tôi chỉ vừa buông tay ra là nó lại rống lên ngay. Tôi nhận ra nó là người Noócmăng, và dân Noócmăng thì bướng lắm.

Thật vậy, bị chẹn đến thế, Lubanh vẫn cố để lọt ra tiếng kêu.

- Đợi đã! - D Artagnan nói.

Cầm chiếc khăn tay, chàng nhét vào miệng hắn và bảo Planchet:

- Bây giờ, trói nó vào một gốc cây.

Công việc được thực hiện cẩn thận, rồi họ kéo Bá tước De Wardes đến gần tên đầy tớ. Và vì đêm bắt đầu buông, kẻ bị trói và kẻ bị tử thương cả hai đều ở sâu mấy bước ở trong rừng, đương nhiên họ phải ở lại đó đến ngày hôm sau.

- Và bây giờ - D Artagnan nói - ta đến nhà trấn thủ.

- Nhưng tôi thấy hình như ông cũng bị thương? - Planchet nói.

- Không sao cả, ta hãy lo chuyện gấp nhất đã, rồi hãy nói đến vết thương của ta sau, vả chăng hình như cũng không nguy hiểm lắm đối với ta.

- Và cả hai rảo bước tới dã thự của viên trấn thủ đáng kính.

Người ta thông báo có Bá tước De Wardes.

D Artagnan được dẫn vào.

- Ông có lệnh do Giáo chủ ký? - Viên trấn thủ hỏi.

- Vâng, thưa ông - D Artagnan trả lời - lệnh đây.

- Ờ, ờ, thế này là hợp thức và bảo đảm lắm rồi - viên trấn thủ nói.

- Đơn giản thôi - D Artagnan trả lời - tôi là một trong những người thân tín của Giáo chủ mà.

- Hình như Đức ông muốn ngăn ai đó đến nước Anh.

- Phải, một thằng cha D Artagnan nào đó, một tên quý tộc người Bearn xuất phát từ Paris cùng với ba tên bạn với ý đồ đến tận London.

- Ông có biết đích thân hắn không? - Viên trấn thủ hỏi.

- Ai cơ?

- Cái tên D Artagnan ấy.

- Quá rõ.

- Vậy cho tôi biết đặc điểm của hắn đi.

- Không gì dễ hơn.

Và D Artagnan tả từng nét, từng nét đặc điểm của Wardes.

- Hắn có ai đi cùng không? - Viên trấn thủ hỏi.

- Có, một tên hầu là Lubanh.

- Người ta sẽ canh chừng bọn chúng, và nếu tóm được chúng, Đức ông có thể yên tâm, chúng sẽ được giải về Paris, và được áp giải cẩn thận.

D Artagnan nói:

- Thưa ông, nếu làm được chuyện đó, ông sẽ có công lớn với Giáo chủ.

- Khi quay về, ông lại gặp lại Giáo chủ chứ, thưa Bá tước?

- Chắc chắn thế rồi.

- Xin Bá tước nói giùm với Giáo chủ, tôi xin hết lòng phụng sự ngài.

- Tôi sẽ không quên đâu.

Vui mừng vì được bảo đảm như thế, viên trấn thủ xác nhận vào tờ giấy thông hành và trao lại cho D Artagnan.

D Artagnan không để mất thì giờ vào những việc chúc tụng vô ích, chàng chào viên trấn thủ, cám ơn và ra đi.

Khi đã ra ngoài, chàng và Planchet đi theo đường vòng để tránh khu rừng và vào thành phốbằng một cửa ô khác.

Con thuyền luôn sẵn sàng ra đi, chủ thuyền đang đợi trên boong thuyền. Thấy D Artagnan ông ta hỏi:

- Thế nào?

- Đây là giấy thông hành đã được xác nhận.

- Còn nhà quý tộc kia?

- Ông ta không đi hôm nay - D Artagnan nói - nhưng ông yên tâm, tôi sẽ trả tiền đi cho cả hai suất.

- Nếu thế thì đi thôi - chủ thuyền nói.

- Ta đi thôi! - D Artagnan lắp lại.

Rồi chàng và Planchet nhảy xuống chiếc xuồng nhỏ. Năm phút sau họ đã cặp mạn thuyền.

Ra biển được nửa dặm, D Artagnan thấy một vùng sáng lóe lên và một tiếng nổ. Thì ra đó là tiếng đại bác báo hiệu đóng cửa hải cảng.

Đã đến lúc chăm sóc vết thương của mình, may sao đúng như D Artagnan nghĩ, nó không nguy hiểm lắm, mũi gươm gặp phải một xương sườn và trượt dọc theo chiếc xương đó, thêm nữa, áo lót dính ngay vào vết thương và chỉ chảy mất mấy giọt máu.

D Artagnan mệt lả. Họ trải cho chàng một tấm nệm trên boong thuyền, chàng lăn ra và ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau, chàng thấy mình chỉ cách bờ biển nước Anh ba bốn dặm. Suốt đêm gió yếu nên đi được ít.

Khoảng mười giờ, thuyền thả neo ở cảng Đuvrơ.

- Mười giờ rưỡi, ta đã ở đây rồi!

Nhưng thế chưa đủ, còn phải đến London. Ở nước Anh, bưu trạm phục vụ khá tốt. D Artagnan và Planchet mỗi người cưỡi một con ngựa nhỏ, một phu trạm chạy trước dẫn đường họ.

Bốn giờ sau, họ đã tới cửa ô kinh thành.

D Artagnan không quen biết London, không biết một câu tiếng Anh, nhưng chàng viết lên một mẩu giấy cái tên Buckingham và ai ai cùng chỉ dinh Quận công cho chàng.

Quận công đi săn ở Uynxo với nhà Vua.

D Artagnan hỏi người hầu thân tín của Quận công, thường đi theo ông trong mọi cuộc du hành, nói tiếng Pháp thông thạo.
Chàng bảo anh ta rằng mình đến London vì một việc sinh tử, và anh ta phải nói ngay cho chủ mình tức khắc.

Giọng nói đáng tin của D Artagnan đã thuyết phục được Patrítxơ. Patrítxơ là tên người thừa hành của Thủ tướng. Anh ta đóng yên cương hai con ngựa, tự đảm nhiệm việc dẫn đường chàng cận vệ trẻ. Còn Planchet, người ta phải đỡ hắn từ trên lưng ngựa xuống, chàng trai đáng thương đã kiệt sức, ngồi cứng đờ như cây chò, không như D Artagnan vững như thép.

Mọi người đã đến lâu đài, hỏi thăm thì biết nhà Vua và Buckingham đi săn chim ở đầm lầy cách đây hai ba dặm.

Hai người đến nơi chỉ dẫn mất hai mươi phút. Patrítxơ nghe thấy ngay tiếng chủ mình đang gọi chim ưng. Patrítxơ hỏi chàng:
- Tôi phải thông báo ai muốn gặp Huân tước Quận công đây?

- Cứ nói chàng trai trẻ một buổi tối đã kiếm cớ gây sự với ngài ở cầu Mới trước mặt nhà thờ Samaritain là được rồi.

- Lối giới thiệu lạ đời nhỉ!

- Anh sẽ thấy nó gấp mấy lối khác ấy chứ.

Patrítxơ phi ngựa nước đại đến gặp Quận công và thông báo với ông đúng lời lẽ D Artagnan đã nói là có một sứ giả đang đợi ông.

Buckingham nhận ra D Artagnan ngay và ngờ rằng có chuyện gì đó xảy ra ở Pháp nên phải cho chàng mang tin đến, ông chỉ kịp hỏi người đưa tin đang ở đâu và từ xa đã nhận ra bộ đồng phục cận vệ, ông cho ngựa phi nước đại đến thẳng chỗ D Artagnan. Patrítxơ cẩn thận đứng tránh ra.

- Hoàng hậu không gặp phải chuyện chẳng lành nào chứ? - Buckingham hỏi bằng tất cả nỗi nhớ mong và tình yêu của mình.
- Tôi không nghĩ như vậy. Tuy nhiên, tôi tin bà đang gặp một mối nguy lớn mà chỉ có Đức ngài mới có thể giải thoát.

- Ta ư? - Buckingham hỏi - Thế nào nào? Ta sẽ rất sung sướng được có ích cho bà trong một việc nào đó! Nói đi nào! Nói đi?
- Ngài hãy xem bức thư này! - D Artagnan nói.

- Bức thư này ư! Của ai gửi cho ta?

- Tôi nghĩ đó là của Hoàng hậu.

- Của Hoàng hậu! - Buckingham vừa nói vừa tái nhợt đi khủng khiếp, D Artagnan tưởng ông ta sắp ngất.

Và ông ta bẻ xi niêm phong.

- Vết rách này là cái gì? - Ông ta vừa nói vừa chỉ cho D Artagnan một chỗ thư bị xuyên thủng.

- À, à, - D Artagnan nói - Tôi không để ý cái đó. Đó là vết mũi gươm của Bá tước De Wardes, rất đẹp khi đâm vào ngực tôi đấy!

- Ông bị thương à? - Buckingham vừa bẻ xi vừa hỏi.

- Ồ không sao? Một vết xước thôi.

- Trời, ta vừa đọc cái gì đây? - Công tước kêu lên - Patrítxơ hãy ở lại đây rồi xem nhà Vua ở đâu, đi theo và tâu với Hoàng thượng là ta cúi đầu van xin Ngài hãy tha thứ cho ta vì ta có việc tối quan trọng phải có mặt ở London - còn ông đi theo ta.

- Và cả hai cùng phi nước đại về kinh thành.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

29#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 01:58:10 | Chỉ xem của tác giả
Chương 21
Nữ bá tước De Winter


Suốt dọc đường, Công tước hỏi D Artagnan để biết rõ tình hình, không phải tất cả những gì đã diễn ra, mà chỉ những gì D Artagnan biết. Khớp nối những gì đã được nghe từ miệng chàng trai trẻ với những kỷ niệm của riêng ông, ông có thể có được một ý niệm khá chính xác về tình thế nghiêm trọng, hơn nữa, bức thư của Hoàng hậu dù rất ngắn, và không mấy dứt khoát, cũng cho ông thấy mức độ nghiêm trong đó. Nhưng điều khiến ông lấy làm lạ hơn cả là Giáo chủ vốn quan tâm làm sao để chàng trai trẻ này không đặt chân được trên đất Anh lại không sao bắt giữ nổi chàng ở dọc đường. Thấy ông tỏ vẻ ngạc nhiên như thế, D Artagnan liền kể hết đã phòng bị thế nào, rồi nhờ sự tận tâm của ba người bạn chàng tuy đang đẫm máu mà chàng vẫn phải bỏ mặc ở dọc đường, rồi việc chàng suýt đã lìa đời vì, mũi gươm đâm xuyên qua bì thư của Hoàng hậu, và chàng đã trả miếng Bá tước De Wardes khủng khiếp thế nào.

Chăm chú nghe câu chuyện được kể vô cùng đơn giản, thỉnh thoảng Công tước lại ngạc nhiên nhìn chàng trai trẻ như thể không tài nào hiểu nổi bấy nhiêu thận trọng, dũng cảm, tận tâm lại có thể sóng đôi với bộ mặt chưa đến hai mươi này.
Ngựa phi như gió, vài phút sau đã tới cửa ô London.

D Artagnan vẫn tưởng là vào trong thành phố, Quận công sẽ cho ngựa chạy chậm dần, nhưng không phải thế, ông tiếp tục cho ngựa phi hết cỡ, chẳng quan tâm mấy đến chuyện có thể xô ngã những người đi đường. Quả nhiên, khi đi xuyên qua khu đô thị, hai ba tai nạn như thế đã xảy ra, mà Buckingham chẳng hề ngoái đầu lại xem những người bị ông xô ngã ra sao, D Artagnan đi theo sau ông giữa những tiếng la ó nghe rất giống tiếng chửi rủa.

Vào đến sân dinh thự, ông xuống ngựa, ném dây cương lên cổ nó, để mặc nó rồi lao tới bậc thềm. D Artagnan cũng làm theo như thế tuy nhiên có đôi chút ngại ngùng hơn đối với những con vật quý mà chàng đã biết nó đáng giá thế nào, nhưng rồi lại thấy không sao vì ba bốn người hầu đã từ trong bếp và chuồng ngựa lao ra túm ngay lấy mấy con ngựa.

Công tước đi khá nhanh khiến D Artagnan khó theo kịp. Ông đi xuyên qua nhiều phòng khách kế tiếp nhau, rất sang trọng mà những đại lãnh chúa bên Pháp cũng không dám nghĩ tới cuối cùng đến một phòng ngủ, một kỳ tích cả về thẩm mỹ lẫn sự giàu sang. Sâu trong phòng có một cái cửa, phủ thảm, mà Công tước mở bằng một chìa khóa nhỏ bằng vàng ông vẫn đeo ở cổ bằng một sợi dây chuyền cũng bằng vàng. D Artagnan cẩn thận dừng lại ở phía sau, nhưng lúc Buckingham bước qua ngưỡng cửa đó, ông quay lại thấy chàng trao trẻ vẫn do dự, ông bảo chàng:

- Lại đây nào, và nếu ông có vinh dự được bệ kiến Hoàng hậu, hãy nói lại cho bà nghe những gì ông thấy.

- Được lời mời khích lệ chàng đi theo Quận công. Ông đóng cửa lại.

Thế là hai người đã ở trong một tiểu giáo đường, phủ toàn lụa Ba Tư thêu sợi vàng, rực rỡ ánh sáng của vô số ngọn nến. Bên trên một thứ giống như bàn thờ, và phía dưới một chiếc tán bằng nhung xanh lam cắm lông chim trắng và đỏ, là một bức chân dung to bằng người thật vẽ Anne d Autriche giống như đúc khiến D Artagnan phải thốt lên kinh ngạc, tưởng như Hoàng hậu sắp nói thành lời.

Trên bàn thờ, và phía dưới bức chân dung là cái tráp chứa những nút kim cương.

Công tước lại gần bàn thờ, quỳ xuống như một linh mục quỳ trước chúa Kitô, rồi mở tráp.

- Ông lấy ra một nút tết to bằng dải băng xanh lóng lánh kim cương rồi bảo chàng:

- Cầm lấy, đây là những nút kim cương quý báu mà ta đã nguyền được chôn theo ta. Hoàng hậu đã tặng ta. Hoàng hậu lại lấy lại của ta. Nguyện vọng của Hoàng hậu là ý của Chúa, phải được thực hiện trong mọi việc.

Kồi ông hôn từng hạt, từng hạt một cả chuỗi nút kim cương sắp phải xa lìa. Bỗng nhiên ông kêu lên một tiếng khủng khiếp.
- Có chuyện gì vậy? - D Artagnan hỏi vẻ lo lắng - Thưa Huân tước, có điều gì xảy ra với ngài ư?

Buckingham nhợt nhạt hẳn người đi như người đã khuất kêu lên:

- Hại to rồi - Thiếu hai hạt kim cương. Chỉ còn có mười hạt.

- Huân tước đánh mất hay bị lấy cắp?

- Họ lấy cắp của ta - Công tước nói tiếp - chính Giáo chủ đã chơi ta quả này. Đây, ông xem, dải băng giữ những nút kim cương có vết cắt bằng kéo.

- Nếu Huân tước nghi ngờ kẻ nào đó đánh cắp… có thể kẻ đó vẫn còn đang giữ nó.

- Khoan đã, khoan đã? - Công tước nói - Chỉ có mỗi một lần ta đeo chuỗi kim cương đó, đó là buổi vũ hội của nhà Vua, cách đây tám ngày ở điện Uyn-xo. Lúc khiêu vũ, nữ Bá tước De Winter, vốn có xích mích với ta đã lại gần ta, lối làm lành đó là sự trả thù của đàn bà ghen tuông. Từ hôm đó, ta không xem lại chuỗi hạt. Mụ đàn bà đó là một điệp viên của Giáo chủ.

- Nhưng ông ta có tay chân ở khắp thế giới ư! - D Artagnan kêu lên.

- Ồ, đúng đấy! - Buckingham vừa nói vừa nghiến răng giận dữ - Phải, đó một đấu thủ ghê gớm. Nhưng khi nào thì có vũ hội đó?

- Thứ hai tuần sau.

- Thứ hai tuần sau ư! Còn năm ngày nữa. Thế là thừa thì giờ chúng ta phải có rồi. Patrítxơ! - Quận công vừa mở cửa tiểu giáo đường vừa gọi to - Patrítxơ!

Người hầu thân tín của ông xuất hiện.

- Gọi ngay người thợ kim hoàn và viên thư ký của ta!

- Người hầu phòng đi ra, tức khắc và lặng lẽ chứng tỏ thói quen co mình lại vâng lệnh một cách mù quáng và không cãi lại.
Mặc dầu người thợ kim hoàn được gọi trước, nhưng viên thư ký lại hiện ra trước tiên. Ông ta thấy Buckingham ngồi trước chiếc bàn trong phòng ngủ, tự tay viết lấy mấy cái lệnh.

- Ông Jécxơn này, Công tước nói - Ông hãy đến ngay chỗ Huân tước tổng trưởng pháp lý và bảo ông ta rằng ta ủy nhiệm thi hành mấy lệnh này. Ta muốn những lệnh đó được ban bố ngay tức khắc.

- Nhưng thưa Đức ông, nếu Huân tước tổng trưởng hỏi tôi về những động cơ khiến Đức ngài đi đến một biện pháp đặc biệt đến thế, tôi sẽ trả lời thế nào?

- Rằng ta thích như thế và ta chẳng cần báo cáo với ai ý muốn của ta.

Viên thư ký vừa đáp vừa mỉm cười:

- Liệu đấy có sẽ là câu trả lời của ngài tổng trưởng phải tâu lên Hoàng thượng không, nếu tình cờ Hoàng thượng tò mò muốn biết tại sao không một chiếc tàu nào có thể ra khỏi các cảng biển của Đại Anh quốc?

- Ông có lý - Buckingham trả lời - Trong trường hợp phải tâu với nhà Vua, ông ấy cứ nói là ta quyết định chiến tranh và biện pháp đó là hành động thù địch đầu tiên của ta chống lại nước Pháp.

Viên thư ký cúi chào và đi ra.

Buckingham quay lại phía D Artagnan nói:

- Thế là chúng ta yên tâm được một bề rồi. Nếu mấy nút kim cương đó chưa hề đến Paris, nó sẽ chỉ đến đó sau ông.
- Làm sao lại thế được?

- Ta vừa ra lệnh cấm các tàu thuyền lúc này đang đậu ở các hải cảng của Hoàng thượng không được rời bến và trừ phi có giấy phép đặc biệt, không một chiếc nào dám nhổ neo.

D Artagnan vô cùng kinh ngạc nhìn con người đã đem cái quyền lực vô hạn mà nhà Vua đã tin cậy trao cho, phục vụ cho những việc tình ái của mình. Buckingham nhìn nét mặt của chàng trai trẻ, biết được điều gì đang diễn ra trong đầu, liền mỉm cười:

- Phải, chính Anne d Autriche mới là Hoàng hậu đích thực của ta. Một lời nàng nói ra, ta sẽ có thể phản bội lại đất nước ta, phản bội nhà Vua, phản bội lại Chúa trời của ta. Nàng đã yêu cầu ta đừng gửi cứu viện cho giáo phái Tin lành ở La Rochelle và ta đã làm như thế. Ta đã không giữ lời hứa, nhưng cần gì, ta vâng theo ước muốn của nàng. Ta đã chẳng được trả công lớn về sự vâng theo ấy sao, nói xem nào, bởi vì chính nhờ có sự vâng theo đó mà ta có được bức chân dung của nàng?

D Artagnan lấy làm lạ thay cho vận mệnh một dân tộc và sinh mạng những con người đôi khi lại được treo trên những sợi dây mong manh và không thấy được như thế.

Chàng đang đắm nhìn trong suy nghĩ, thì người thợ kim hoàn đi vào. Đó là một người Ireland loại có kỹ xảo nhất trong nghề, bản thân cũng thú nhận kiếm được hàng trăm nghìn đồng vàng Anh quốc mỗi năm với Quận công De Buckingham.

- Ông Ôrâyly này, - Quận công vừa nói vừa dẫn ông ta vào tiểu giáo đường - Hãy xem những nút kim cương này và nói cho ta biết mỗi nút giá bao nhiêu?

- Người thợ kim hoàn đưa mắt nhìn vẻ mỹ lệ mà chúng được gọt tỉa, lấy viên nọ bù viên kia, tính toán giá trị rồi không do dự trả lời:

- Mười lăm nghìn đồng vàng một nút, thưa Huân tước.

- Cần phải bao nhiêu ngày để làm hai nút như thế? Ông thấy đấy, nó thiếu mất hai.

- Thưa Huân tước, tám ngày.

- Ngày kia ta cần có rồi, ta sẽ trả ba nghìn đồng mỗi nút.

- Huân tước sẽ có.

- Ôi ông Ôrâyly, ông thật là quý giá. Nhưng chưa hết đâu. Những nút kim cương đó không được lộ ra với bất kỳ ai, và phải được làm trong lâu đài này.

- Thưa Huân tước, không thể được. Chỉ có tôi mới có thể làm nổi, để không ai phân biệt nổi cái mới với cái cũ.

- Vì thế, ông Ôrâyly thân mến ạ, ông mới là tù nhân của ta; Giờ đây, ông có muốn ra khỏi lâu đài của ta cũng không thề được nữa rồi. Hãy quyết định đi. Cho ta biết danh sách thợ phụ mà ông cần và ghi rõ những đồ nghề gì bọn chúng phải mang theo.
Người thợ kim hoàn đã biết rõ Quận công. Ông ta hiểu rằng mọi thăm dò ý kiến đều vô ích, nên quyết định ngay phần việc của mình. Ông ta hỏi:

- Tôi được phép báo với vợ tôi chứ?

- Ồ, ông còn được phép gặp nữa ấy chữ, ông Ôrâyly thân mến ạ Việc cầm giữ ông sẽ nhẹ nhàng thôi, ông yên tâm, và vì mọi sự đảo lộn đều đáng được đền bù, vậy ngoài giá tiền hai nút kim cương, đây là món quà một nghìn đồng vàng để ông quên đi sự phiền muộn do ta gây ra cho ông.

D Artagnan không tránh khỏi ngạc nhiên về viên Thủ tướng với đôi tay đã khuấy đảo bao nhiêu sinh mạng con người, và tiền triệu đi tong.

Còn người thợ kim hoàn gửi món quà một nghìn đồng vàng và viết thư cho vợ bảo gửi ngay cho người thợ phụ khéo nhất và một bộ hạt kim cương thích hợp mà ông đã cho biết trọng lượng, phẩm chất, rồi còn danh sách những dụng cụ cần thiết nữa.
Buckingham dẫn người thợ kim hoàn vào căn phong dành riêng cho ông ta và chỉ trong vòng nửa giờ đã biến thành một xưởng thợ. Rồi Công tước cắt lính canh ở mỗi cửa, cấm không cho bất cứ ai vào trừ người hầu phòng Patrítxơ của ông. Không cần phải nói thêm cũng tuyệt đối cấm ông thợ kim hoàn Ôrâyly và người thợ phụ không được ra khỏi phòng dưới bất cứ lý do nào.

Thu xếp xong việc đó, Công tước trở lại với D Artagnan.

- Bây giờ, anh bạn trẻ, - Ông nói - nước Anh là của hai chúng ta, ông muốn gì, ông ao ước điều gì nào?

- Một cái giường - D Artagnan trả lời - tôi thú thực, lúc này đó là thứ tôi cần nhất.

Buckingham đưa D Artagnan đến một căn phòng liền kề với phòng của ông. Ông muốn giữ chàng trai trẻ trong tay ông, không phải ông nghi ngờ gì chàng mà để ông được không ngừng nói chuyện với chàng về Hoàng hậu.

Một giờ sau lệnh không cho tàu thuyền nào đi Pháp được ra khỏi cảng ngay cả thuyền đưa thư cũng vậy được ban bố. Trước mắt mọi người thì đây là lời tuyên chiến giữa hai vương quốc.

Ngày hôm sau nữa, khoảng mười một giờ hai nút kim cương đã được làm xong, bắt chước quá đúng, hoàn toàn giống hệt khiến Buckingham không nhận ra cái nào là mới, cái nào là cũ và kể cả những người lão luyện nhất trong nghề cũng sẽ bị nhầm như ông.

Ngay lập tức ông cho gọi D Artagnan, rồi bảo chàng:

- Cầm lấy, đây là những nút kim cương mà ông đến tìm, và ông hãy là nhân chứng cho tôi rằng tất cả những gì sức con người có thể làm được tôi đã làm.

- Ngài yên tâm, thưa Huân tước, tôi sẽ nói điều gì tôi thấy nhưng Đức ngài trao cho tôi những nút kim cương mà không có tráp đựng.

- Cái tráp sẽ làm cho ông vướng víu. Vả lại đối với tôi, cái tráp còn quý hơn. Tôi chỉ còn lại mỗi thứ đó. Ông sẽ nói là tôi giữ lại.
- Thưa Huân tước, tôi sẽ nói lại đúng từng lời việc ngài giao cho tôi.

- Và bây giờ - Buckingham vừa nói tiếp vừa nhìn thẳng vào mặt chàng trai trẻ - Bao giờ tôi mới trả ơn được ông đây?
D Artagnan đỏ bừng mặt lên. Chàng thấy ông Quận công đang tìm cách để chàng nhận một thứ gi đó và cái ý nghĩ máu các đồng đội của chàng và máu chàng sắp được trả cho chàng bằng vàng của nước Anh khiến chàng ghê tởm lạ lùng. Chàng đáp:

- Thưa Huân tước, chúng ta hãy thông hiểu lẫn nhau, và cân nhắc kỹ mọi việc trước đã sao cho không có một sự hiểu lầm nào xảy ra. Tôi phục vụ đức Vua và Hoàng hậu nước Pháp, và tham gia đội cận vệ của ông des Essarts, ông này cũng như anh rể ông là ông De Treville hoàn toàn đặc biệt gắn bó với Hoàng thượng. Còn thêm nữa, có thể tôi đã chẳng làm nổi điều gì của tất cả cái đó nếu việc đó không được làm để vừa lòng một người cũng là bà chúa của tôi, giống như Hoàng hậu là của ngài vậy.

- Phải - Quận công vừa nói vừa mỉm cười - và tôi tin tôi cũng biết cái bà chúa khác ấy, có phải…

- Thưa Huân tước, tôi có nêu tên người ấy ra đâu - chàng trai trẻ vội vã ngắt lời.

- Thế là đúng - Công tước nói - vậy chính là tôi phải biết ơn người ấy về sự tận tụy của ông.

- Thưa Huân tước, ngài đã nói rồi, bởi vì đúng vào cái giờ này đã là chuyện chiến tranh rồi, tôi xin thú thực tôi chỉ thấy ở Đức ngài một tên người Anh, do đó là một kẻ thù mà tôi sẽ còn vui sướng được gặp ở chiến trường hơn là trong công viên điện Uynxo hoặc trong những hành cung của điện Louvre. Tuy nhiên điều đó không ngăn cản tôi thực hiện từng chi tiết, nhiệm vụ của tôi, nếu cần thiết, sẵn sàng chết để hoàn thành nhiệm vụ đó Nhưng tôi xin nhắc lại với Đức ngài rằng ngài sẽ không có gì phải cảm ơn tôi những việc tôi sẽ làm cho tôi trong cuộc gặp gỡ lần thứ hai hơn là những gì tôi đã làm cho ngài trong cuộc gặp gỡ lần thứ nhất đâu.

Buckingham lẩm nhẩm:

- Bên chúng tôi, chúng tôi thường nói: "Kiêu hãnh như một người Xcốt".

- Còn chúng tôi, chúng tôi nói: "Kiêu hãnh như một người Gátxcông" - D Artagnan đáp - Dân Gátxcông là dân Xcốt của nước Pháp.

D Artagnan chào Công tước và sẵn sàng ra đi.

- Khoan đã! Ông đi như thế ư? Đi lối nào? Đi thế nào?

- Vâng, quả có thế.

- Chúa ơi! Người Pháp không nghi ngại gì hết.

- Tôi quên mất nước Anh là một hòn đảo và Ngài là vua hòn đảo ấy ông hãy đi đến cảng, hỏi chiếc thuyền hai buồm tên là "Săn", đưa cho thuyền trưởng thư này. Ông ta sẽ dẫn ông đến một cảng nhỏ, chắc người ta không đợi ông đâu, và ở đó thường chỉ có thuyền đánh cá cặp bến.

- Cảng đó tên là gì?

- Saint-Valery, nhưng khoan đã, tới đó, ông sẽ vào một cái quán tồi tàn không tên, không biển hiệu, một tửu quán đích thực của thủy thủ, và không lo nhầm đâu, vì chỉ có một thôi.

- Sau đó?

- Ông hỏi chủ quán và bảo hắn ta: Forward

- Nghĩa là thế nào?

- Là "Tiến lên". Đó là khẩu lệnh. Hắn sẽ cho ông một con ngựa, yên cương sẵn sàng và sẽ chỉ dẫn đường đi cho ông. Ông cũng sẽ thấy bốn trạm tiếp sức như thế trên đường đi. Nếu ông muốn, ở mỗi trạm, hãy cho địa chỉ của ông ở Paris, bốn con ngựa sẽ đi theo ông đến đó. Ông đã biết hai trong số đó, và tôi thấy hình như ông có vẻ quý nó như một tay chơi ngựa, hai con mà chúng ta đã cưỡi ấy. Và ông hãy tin tôi, hai con kia cũng không hề kém chút nào đâu. Bốn con ngựa ấy đều là ngựa chiến đấy. Dù ông có kiêu hãnh đến đâu, ông cũng đừng từ chối nhận một con, và bảo các bạn ông nhận ba con kia. Vả lại còn để ta dùng trong chiến tranh mà. Mục đích bỏ qua cho các phương tiện như người Pháp các ông vẫn nói có phải không?

- Phải, thưa Huân tước, tôi xin nhận - D Artagnan nói - Và nếu hợp lòng trời, chúng tôi sẽ sử dụng tất những món quà của ngài.

- Bây giờ, bắt tay người bạn trẻ, có thể chúng ta sẽ sớm gặp lại nhau trên chiến trường, nay trong khi chờ đợi, chúng ta hãy chia tay nhau như những người bạn tốt, tôi hy vọng thế.

- Vâng, thưa Huân tước, nhưng với hy vọng sớm thành kẻ thù của nhau.

- Ông yên tâm, tôi hứa với ông như vậy.

- Huân tước, tôi tin lời hứa của ngài.

D Artagnan chào công tước và vội vã tiến về phía cảng.

Trước mặt tháp London, chàng thấy chiếc thuyền đã chỉ định. Chàng trao bức thư cho viên thuyền trưởng. Ông ta đưa cho trấn thủ cảng xác nhận, rồi chuẩn bị giương buồm.

Năm mươi thuyền bè muốn rời bến mà phải nằm chờ.

Khi đi qua mạn một con thuyền trong số đó, D Artagnan tin là mình đã nhận ra người đàn bà ở Măng, vẫn người đàn bà mà con người xa lạ từng gọi là Milady và chính bản thân D Artagnan cũng thấy nàng quá đẹp. Nhưng nhờ xuôi dòng, thuận gió con thuyền của chàng đi nhanh đến nỗi chỉ một lát sau đã không thấy tăm hơi của người đàn bà đó.

Hôm sau, khoảng chín giờ sáng, thuyền cập bến Saint-Valery.

D Artagnan đi ngay tới cái quán đã chỉ dẫn và nhận ra qua những tiếng ầm ĩ từ bên trong thoát ra. Người ta đang nói về chiến tranh giữa nước Anh và nước Pháp sắp xảy ra đến nơi và không phải bàn cãi nữa, và bọn thủy thủ vui vẻ thì lu bù chè chén.
D Artagnan rẽ đám đông tiến lại chủ quán và đọc Forward.

Ngay tức khắc chủ quán ra hiệu cho chàng đi theo mình qua một chiếc cửa ra sân rồi dẫn chàng đến chuồng ngựa đã có sẵn một con ngựa yên cương đầy đủ đợi chàng rồi chủ quán hỏi xem liệu chàng có cần gì nữa không.

- Tôi cần biết mình phải đi theo đường nào - D Artagnan - Từ đây đi đến Blănggy, rồi từ Blănggy đến Nớpsaten đến Nớpsaten vào quán Chiếc bừa vàng, nói khẩu lệnh với chủ quán và ông sẽ thấy ở đó một con ngựa đầy đủ yên cương.

- Tôi có phải gì không? - D Artagnan hỏi.

- Đã trả cả rồi - chủ quán nói - và trả hậu nữa. Ông cứ việc đi đi Cầu trời phù hộ cho ông!

- Amen!

Nói rồi chàng cho ngựa phi nước đại.

Bốn giờ sau chàng tới Nớpsaten. Tuân theo chặt chẽ những chỉ dẫn đã nhận được, ở Nớpsaten giống như ở Saint-Valery, chàng lại thấy một con ngựa yên cương sẵn sàng đang đợi mình.

Chàng định chuyển những khẩu súng ngắn từ yên con ngựa chàng thôi không cưỡi sang yên con ngựa mới chàng sắp cưỡi, nhưng những bao súng ở yên con ngựa này đã gài sẵn những khẩu súng ngắn tương tự.

- Địa chỉ của ông ở Paris?

- Dinh trại quân cận vệ, đại đội ông des Essarts.

- Tốt lắm - chủ quán trả lời.

- Bây giờ phải đi đường nào? - Đến lượt D Artagnan hỏi lại.

- Đường đi Ruăng, nhưng đừng có đi qua thành phố ở phía bên phải. Đến cái làng nhỏ Ecu-i, ông dừng lại, ở đó chỉ có một cái quán tên là: Đồng vàng nước Pháp. Đừng có nhìn bề ngoài mà xét đoán nó. Trong chuồng ngựa của quán, cũng sẽ có một con ngựa giá trị tương đương con ngựa này.

- Vẫn khẩu lệnh ấy.

- Đúng vậy.

- Xin chào ông chủ?

- Chúc nhà quý tộc lên đường bình an! À mà ông còn cần gì nữa không.

D Artagnan lắc đầu và lại phóng như bay. Đến Ecu-i, vẫn diễn lại cảnh ấy. Chàng lại gặp một chủ quán đã được báo trước.

Một con ngựa sung sức và được nghỉ ngơi. Chàng để lại địa chỉ như đã làm rồi lại phi nhanh đến Pôngtoa. Ở Pôngtoa chàng đổi ngựa lần cuối và vào lúc chín giờ chàng phi nước đại vào thẳng sân dinh quán ông De Treville, vậy là chàng đã đi gần sáu mươi dặm trong mười hai tiếng đồng hồ.

Ông De Treville đón chàng như thể vừa gặp chàng ban sáng.

- Có điều vừa siết tay chàng hơi mạnh hơn thường lệ, ông vừa báo cho chàng biết đại đội cận vệ của ông des Essarts đang tuần canh điện Louvre và chàng có thể trở về nhiệm sở của mình.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

30#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 11:13:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 22
Vũ khúc Merlaison(1)


Hôm sau, người ta xôn xao bàn tán khắp Paris về vũ hội mà các vị thẩm phán thành phố tổ chức để tôn vinh nhà Vua và Hoàng hậu, trong đó chắc Louis sẽ nhảy vũ điệu nổi tiếng Méeledông, là vũ điệu ưa thích của nhà Vua.

- Người ta đã chuẩn bị từ tám hôm nay mọi công việc ở tòa thị chính cho buổi dạ hội long trọng đó. Thợ mộc của thành phố đã dựng những kỳ đài làm chỗ ngồi cho các phu nhân được mời.

Chủ tạp hóa thành phố đã gắn trong các phòng hai trăm cây nến trắng, một sự xa hoa hiếm thấy thời bấy giờ. Cuối cùng là hai mươi cây vĩ cầm được báo trước và giá công được ấn định gấp đôi giá ngày thường vì họ sẽ phải chơi suốt đêm.

Khoảng mười giờ sáng, ông De la Côtx kỳ úy đội cận vệ của nhà Vua, theo sau có hai sĩ quan và nhiều xạ thủ của đội, đến yêu cầu ông lục sự thành phố tên là Clêmăng đưa tất cả chìa khóa các cửa, các phòng, và các phòng làm việc của thị sảnh.
Chìa khóa được trao ngay cho ông ta, mỗi chiếc đều mang theo một thẻ nhỏ để khỏi nhầm và từ lúc đó ông De la Côtx chịu trách nhiệm canh phòng tất cả các cửa và tất cả các lối đi trong thị sảnh.

Mười một giờ, đến lượt ông Đuyhaliê, đại úy cận vệ đến, đem theo năm mươi xạ thủ, bọn họ tản ngay đến các cửa đã được chỉ định trong tòa thị chính.

Ba giờ chiều, hai đại đội cận vệ, một người Pháp, một Thụy Sĩ đến tiếp. Đại đội cận vệ Pháp được hợp thành, một nửa từ những quân của ông Đuyhaliê, một nửa là của ông des Essarts.

Sáu giờ chiều, khách mời bắt đầu kéo đến. Vào đến đâu, khách được mời ngồi đến đấy trên kỳ đài đã được dựng trong đại sảnh đường.

Chín giờ, bà đệ nhất chủ tọa đến. Vì sau Hoàng hậu, đó là nhân vật quan trọng nhất của vũ hội, bà ta được các quan chức của thành phố đón tiếp và được mời ngồi trong khoang đối diện với khoang của Hoàng hậu.

Mười giờ, người ta bầy một tiệc mứt để đón tiếp đức Vua trong một phòng nhỏ phía nhà thờ Thánh Jăng, trước một tủ đựng các bộ đồ ăn bằng bạc, và được bốn xạ thủ bảo vệ.

- Đúng nửa đêm, người ta nghe thấy những tiếng reo lớn, và những tiếng tung hô, đó là lúc nhà Vua đang tiến qua các phố rực rỡ những đèn màu suốt từ điện Louvre đến tòa thị chính.

Ngay tức khắc, các viên thẩm phán trong những chiếc áo dài bằng da, đi trước là sáu viên đội, mỗi người một đèn lồng trong tay ra đón Nhà Vua, mà họ gặp ngay trên những bậc thềm, ở đó viên thị trưởng thành phố đang đọc diễn văn chúc mừng nhà Vua, còn nhà Vua đáp lại bằng việc cáo lỗi đã đến quá muộn nhưng lại gán cho Giáo chủ đã giữ nhà Vua lại tận mười một giờ để bàn luận công việc quốc gia.

Nhà vua mặc lễ phục, tháp tùng có Đức ông hoàng đế, Bá tước de Xoát xông, đại giáo trường, Quận công Lôngdơvin, Quận công Đenbớp, Bá tước de Hácua, Bá tước de la Rấtsơ Guyông, ông De Lăngcua, ông De Barađát, Bá tước de Cramay, và hiệp sĩ Đờxúvơray.

Mọi người đều nhận thấy nhà Vua có vẻ rầu rĩ và băn khoăn.

Một căn phòng đã được chuẩn bị riêng cho nhà Vua, và một phòng khác cho Hoàng đế. Trong mỗi phòng đó, đều để sẵn y phục giả trang. Cũng như thế cho Hoàng hậu và phu nhân chủ tọa. Các vị đại thần và các phu nhân hộ giá Hoàng thượng thì cứ hai người một thay đồ giả trang các phòng chuẩn bị cho việc đó.

Trước khi vào phòng, nhà Vua dặn khi nào Giáo chủ xuất hiện phải báo ngay cho nhà Vua biết.

Nửa giờ sau khi nhà Vua đi vào, những tiếng tung hô mới lại vang lên báo tin Hoàng hậu đến. Các thẩm phán lại ra đón như đã làm, đi trước cũng là những viên đội, họ tiến đến trước vị nữ khách lừng danh của họ.

Hoàng hậu bước vào đại sảnh. Người ta nhận thấy, giống như nhà Vua, bà có vẻ rầu rĩ và rất là mệt mỏi.

Đúng lúc bà bước vào, tấm rèm của một khán đài nhỏ cho đến lúc đó vẫn buông kín được mở ra và người ta thấy hiện ra bộ mặt xanh xao của Giáo chủ mặc theo lối kỵ sĩ Tây Ban Nha. Đôi mắt của ông ta xoáy vào đôi mắt của Hoàng hậu, và một nụ cười mừng vui khủng khiếp lướt trên đôi môi ông ta: Hoàng hậu không đeo chuỗi kim cương.

Hoàng hậu lưu lại ít phút để nhận những lời chúc tụng của quan chức thành phố và đáp lại sự chào đón của các phu nhân.
Bất thình lình nhà Vua cùng với Giáo chủ hiện ra ở một chiếc cửa của đại sảnh đường. Giáo chủ nói rất khẽ với nhà Vua, và nhà Vua tái nhợt đi.

Nhà Vua rẽ đám đông và, chưa đeo mặt nạ, những dải băng ở áo chẽn còn chưa buộc chặt, tiến lại gần Hoàng hậu, lạc hẳn giọng đi:

- Thưa bà, xin bà vui lòng, vậy chớ tại sao bà lại không đeo chuỗi hạt kim cương, khi bà biết nó sẽ làm ta vui lòng khi nhìn thấy nó?

- Tâu hoàng thượng - Hoàng hậu trả lời giọng cũng lạc đi - bởi giữa đám rất đông người này, tôi sợ có chuyện không may xảy ra với nó.

- Thế thì bà nhầm rồi, thưa bà! Nếu như tôi tặng bà món quà đó, chính là để bà đem ra trang điểm. Tôi nói cho bà biết, bà nhầm rồi.

Và giọng của nhà Vua run lên tức giận, ai nấy đều nhìn và nghe rất đỗi ngạc nhiên không hiểu đã xảy ra chuyện gì.

- Tâu Hoàng thượng - Hoàng hậu nói - Tôi có thể sai người về tìm ở điện Louvre, nó vẫn ở đấy, và như vậy những ước muốn của Hoàng thượng sẽ được hoàn tất.

- Vậy bà làm đi, thưa bà, làm đi, và nhanh nhanh lên, vì nửa giờ nữa là vũ hội bắt đầu rồi.

Hoàng hậu cúi chào tỏ vẻ phục tùng và đi theo các phu nhân có nhiệm vụ dẫn bà về phòng riêng.

Về phía mình, nhà Vua cũng trở về phòng mình.

Đại sảnh rối loạn, xôn xao mất một lúc.

Mọi người đều có thể nhận thấy có chuyện gì xảy ra giữa nhà Vua và Hoàng hậu. Nhưng cả hai đều nói rất khẽ mà mọi người do tôn kính đều đứng xa ra mấy bước, nên không ai nghe thấy gì. Vĩ cầm vang lên hết cỡ nhưng cũng chẳng ai nghe.

Nhà Vua ra khỏi phòng mình trước tiên, trong trang phục đi săn loại hào hoa nhất, Hoàng đế và các vị đại thần khác đều mặc như nhà Vua. Đó là bộ trang phục nhà Vua mặc đẹp nhất và mặc như vậy, ông hình như mới đích thực là nhà quý tộc đệ nhất của vương quốc.

Giáo chủ lại gần và chuyển cho nhà Vua một cái hộp. Nhà Vua mở ra và thấy trong đó hai nút kim cương liền hỏi Giáo chủ:

- Thế nghĩa là thế nào?

- Không thế nào cả - Giáo chủ trả lời - có điều nếu Hoàng hậu có những nút kim cương, điều thần đang ngờ đấy, tâu Hoàng thượng, Hoàng thượng hãy đếm xem, và nếu Ngài chỉ thấy có mười viên, xin hãy hỏi Hoàng hậu xem kẻ nào có thể lấy cắp mất hai nút như thế này.

Nhà Vua nhìn Giáo chủ như để hỏi. Nhưng ông còn chưa kịp hỏi một câu nào, thì tiếng kêu ngưỡng mộ đã thốt ra từ miệng tất cả mọi người. Nếu như nhà Vua là bậc quý tộc đệ nhất vương quốc, chắc chắn Hoàng hậu phải là người đàn bà đẹp nhất nước Pháp.

Đúng là bộ y phục nữ đi săn rất hợp với nàng. Nàng đội một chiếc mũ dạ với những lông chim xanh lam, một áo khoác ngoài nhung màu xám có cài những móc kim cương và một chiếc váy bằng xa tanh xanh lam toàn thêu sợi bạc, trên vai trái nàng lấp lánh những nút kim cương được đính vào một cái nơ cùng màu với lông chim và chiếc váy.

Nhà Vua sướng run người, còn Giáo chủ run lên vì giận dữ, tuy nhiên vì cả hai người cùng đứng cách xa Hoàng hậu nên không thể đếm được số nút kim cương. Hoàng hậu đã có những nút kim cương ấy, có điều là có mười hay mười hai nút.

Cũng lúc ấy, vĩ cầm vang lên tín hiệu bắt đầu vũ khúc. Nhà Vua tiến về phía phu nhân chủ tọa và phải nhảy với bà và Hoàng đế với Hoàng hậu. Mọi người đều vào chỗ và vũ khúc bắt đầu Nhà Vua nhảy đối diện với Hoàng hậu, và mỗi lần ông lướt qua gần nàng, Ngài lại hau háu nhìn những nút kim cương mà không đếm nổi. Một lớp mồ hôi lạnh toát ra tên trán Giáo chủ.

Vũ điệu kéo dài một giờ, gồm mười sáu chuyển đoạn động tác múa.

Vũ điệu kết thúc giữa những tiếng vỗ tay hoan hô của khắp mọi người trong đại sảnh, mỗi người đều đưa quý bà nhảy với mình về chỗ, nhưng nhà Vua ỷ vào đặc quyền của mình, bỏ bà chủ tọa ngay tại chỗ để tiến nhanh lại phía Hoàng hậu, và nói với nàng:

- Thưa bà, tôi xin cảm ơn bà, về sự tôn trọng mà bà đã biểu lộ trước những ý muốn của tôi, nhưng tôi tin bà thiếu mất hai nút kim cương, mà tôi đã mang đến đây.

Vừa nói, nhà Vua vừa chìa ra cho Hoàng hậu hai nút kim cương mà Giáo chủ đã đưa cho mình.

- Tâu Bệ hạ, lại thế nữa sao! - Hoàng hậu giả vờ ngạc nhiên kêu lên - Bệ hạ lại cho thêm hai hạt nữa, thế là bây giờ tôi sẽ có những mười bốn viên ư?

Nhà Vua đếm, quả nhiên mười hai nút kim cương vẫn trên vai Hoàng hậu.

Nhà Vua gọi Giáo chủ và hỏi bâng một giọng nghiêm khắc:

- Thế nào? Thế này, nghĩa là thế nào, ông Giáo chủ?

- Tâu Bệ hạ, - Giáo chủ đáp - thế nghĩa là thần muốn Hoàng hậu nhận hai viên kim cương đó, nhưng tự mình lại không dám dâng lên, thần phải dùng cách ấy.

- Thế thì tôi lại càng phải chịu ơn Đức ông hơn – Anne d Autriche trả lời bằng một nụ cười chứng tỏ cái lối nịnh đầm tiểu xảo ấy không lừa được nàng - và tôi tin chắc rằng hai nút kim cương này ông phải trả đắt bằng cả mười hai nút kim cương kia mà Hoàng thượng phải trả đấy.

Rồi chào nhà Vua và Giáo chủ, Hoàng hậu trở về căn phòng mà nàng đã mặc giả trang và là nơi nàng phải cởi bỏ.

Chúng tôi buộc phải lưu tâm tới những nhân vật danh tiếng chúng tôi đưa vào ngay từ đầu chương này nên phải tạm xa nhân vật đã giúp Anne d Autriche vừa giành được thắng lợi không ngờ đối với Giáo chủ, người này hiện đang lẫn vào, không ai biết tới và lạc lõng trong đám đông ùn lại ở một cối cửa, đang nhìn màn kịch chỉ có bốn người hiểu nổi là nhà Vua, Hoàng hậu, Giáo chủ và chính nhân vật đó.

Hoàng hậu vừa trở về phòng, và D Artagnan chuẩn bị rút lui thì chàng cảm thấy có ai đó đụng nhẹ vào vai chàng. Chàng quay lại thấy một thiếu phụ ra hiệu đi theo nàng. Thiếu phụ đeo mặt nạ chó sói bằng nhung đen, nhưng mặc dầu đã cẩn thận như vậy, vả chăng cũng là để che mắt người khác đâu phải với chàng, chàng nhận ra ngay người dẫn đường mọi khi của chàng, bà Bonacieux khôn ngoan và yêu kiều.

Đêm trước, họ mới chỉ được thoáng gặp nhau một lát tại nhà một người Thụy Sĩ tên là Germain, mà D Artagnan đã yêu cầu nàng đến gặp ở đó. Thiếu phụ quýnh lên vội mang về cho Hoàng hậu cái tin tuyệt diệu là sứ giả của bà đã trở về may mắn, khiến cho đôi tình nhân chỉ kịp trao đổi được vài lời. D Artagnan đi theo bà Bonacieux bởi hai thứ tình cảm gộp lại thúc đẩy tình yêu và sự hiếu kỳ. Suốt dọc đường, mỗi lúc những hành lang càng trở nên vắng vẻ, D Artagnan định ngăn nàng lại để ôm chặt nàng, ngắm nghía nàng dù chỉ trong giây phút, nhưng thoăn thoắt như một cánh chim, nàng luôn trườn khỏi hai tay chàng, và khi chàng định nói, nàng lại đưa ngón tay lên miệng, một điệu bộ nhẹ nhàng đầy duyên dáng ra lệnh cấm chàng không được nói, và nhắc cho chàng biết đclng dưới một uy quyền phải nhắm mắt tuân theo, và cấm chàng không được thốt ra bất cứ một lời phàn nàn nhỏ nào. Cuối cùng, sau vài phút vòng đi vòng lại, bà Bonacieux mở một chiếc cửa dẫn chàng vào một căn phòng tối om, ở đây nàng lại ra hiệu phải ngậm miệng và mở chiếc cửa thứ hai lấp sau một tấm thảm, bất ngờ một vầng sáng chói tỏa ra và nàng biến mất.

D Artagnan đứng ngây ra một lúc và tự hỏi mình đang ở đâu thế này, nhưng rồi một tia sáng từ phòng bên lọt sang, hơi ấm và thơm phức tỏa đến tận chỗ chàng, tiếng mấy người đàn bà đang trò chuyện, lời lẽ vừa trang nhã, vừa tôn kính, tiếng Đức bà được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, chỉ rõ cho chàng thấy mình đang trong căn phòng liền kề với phòng Hoàng hậu.

Chàng trai đứng yên trong bóng tối và chờ đợi.

Hoàng hậu tỏ ra vui vẻ và sung sướng, hình như khiến mọi người xung quanh nàng rất đỗi ngạc nhiên, vì trái lại mọi khi thường thấy nàng hầu như luôn luôn lo lắng. Hoàng hậu trả lại hết cái tình cảm vui mừng đó cho vẻ mỹ lệ của đêm hội, cho niềm vui mà vũ điệu đem lại cho nàng, và do không được phép trái ý một bà hoàng, dù bà ta cười hay khóc, mọi người đều cường điệu thêm sự phong nhã của các viên thẩm phán thành Paris.

Dù D Artagnan còn chưa quen biết gì Hoàng hậu, chàng phân biệt được ngay giọng nói Hoàng hậu với giọng những người khác, trước hết đó là hơi pha giọng nước ngoài, thêm nữa là cái vẻ bề trên tự nhiên in đậm trong mọi lời lẽ của bậc tối thượng.
Chàng nghe thấy tiếng lại gần rồi lại xa ra khỏi chiếc cửa mở, hai ba lần chàng trông thấy vẫn chiếc bóng của thân hình ấy che khuất ánh sáng.

Cuối cùng, bất ngờ một bàn tay và một cánh tay trắng muốt và tuyệt đẹp vén tấm thảm lên, D Artagnan hiểu đây chính là phần thưởng cho chàng. Chàng quỳ xuống, nắm lấy bàn tay ấy và kính cẩn áp môi lên, rồi bàn tay rút lại, để lại trong hai bàn tay chàng một vật chàng nhận ra là một chiếc nhẫn, lập tức cửa đóng lại và D Artagnan lại thấy mình hoàn toàn trong bóng tối.

D Artagnan đeo chiếc nhẫn vào ngón tay chàng và lại đợi.

Rõ ràng mọi chuyện chưa phải đã xong. Sau phần thưởng về lòng tận tụy của chàng phải là phần thưởng của tình yêu. Vả lại vũ điệu đã nhảy rồi, nhưng dạ hội mới chỉ bắt đầu. Người ta ăn đêm vào lúc ba giờ, mà đồng hồ nhà thờ Thánh Jăng chỉ vừa mới điểm hai giờ bốn nhăm phút.

Quả nhiên, tiếng người thưa dần trong phòng bên, và xa dần, rồi cửa phòng D Artagnan đang đứng lại mở ra và bà Bonacieux lao vào. D Artagnan kêu lên:

- Cuối cùng, nàng đây rồi!

- Im nào! - Thiếu phụ áp bàn tay lên môi chàng - Im nào! Và bây giờ chàng hãy đi đi, đi theo lối chàng đến ấy.

- Nhưng ở đâu và khi nào chúng ta lại gặp nhau?

- Một thư ngắn mà chàng sẽ thấy khi trở về nhà sẽ cho chàng biết điều đó. Đi đi! Chàng đi đi?

Nói xong, nàng mở chiếc cửa thông ra hành lang và đẩy D Artagnan ra khỏi phòng.

D Artagnan vâng lời như một đứa trẻ, không kháng cự, không cãi lại câu nào, điều đó chứng tỏ chàng thực sự đang yêu say đắm.

Chú thích:
(1) Merlaison - từ chữ Merle (con chim sáo đen) - Vũ khúc với chủ đề săn chim sáo đen do vua Louis XIII soạn năm 1635.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách