Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Spica
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Ba Người Lính Ngự Lâm | Alexandre Dumas (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
31#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 11:17:52 | Chỉ xem của tác giả
Chương 23
Cuộc hẹn hò


D Artagnan tức tốc chạy về nhà, và cho dù hơn ba giờ sáng lại phải đi xuyên qua những khu phố dữ tợn nhất của Paris, chàng cũng không gặp phải chuyện rủi ro nào. Người ta nói có một vị thần cho những kẻ yêu đương.

Chàng thấy cửa lối đi để ngỏ, liền leo thẳng lên cầu thang và gõ nhẹ và đúng lối theo quy ước giữa chàng và người hầu của mình. Planchet, hai giờ trước ở tòa thị chính, chàng đã cho về trước và dặn đợi mình, ra mở cửa. Chàng vội hỏi:

- Có ai mang thư đến cho ta không?

- Chả có ai mang thư đến cả - Planchet trả lời - nhưng có một thư tự nó đến một mình thôi.

- Mi muốn nói gì, đồ ngốc?

- Tôi muốn nói, lúc trở về, mặc dù chìa khóa phòng ông vẫn trong túi tôi, và không rời khỏi tôi lúc nào, tôi vẫn thấy một bức thư trên tấm thảm xanh trên bàn trong phòng ngủ của ông.

- Bức thư ấy đâu rồi?

- Thưa ông đâu vẫn đó. Những bức thư vào nhà người ta như thế không phải chuyện bình thường đâu. Nếu cửa sổ vẫn mở hoặc chỉ khép, tôi không nói làm gì. Nhưng không, tất cả đều đóng im ỉm cơ mà thưa ông, hãy đề phòng thôi, bởi chắc có phù chú gì đó.

Trong khi đó, chàng trai lao vội vào buồng ngủ và bóc thư xem. Đó là thư của bà Bonacieux vắn tắt như sau:

"Xin gửi tới những lời cảm ơn nồng nhiệt!"

"Muốn được thể hiện và chuyển cho chàng những lời cám ơn nồng nhiệt. Tối nay khoảng mười giờ chàng hãy đến Saint-Clu, đối diện với Nhà hứng gió nhô lên ở góc nhà ông De Etxtrê".
CB"

Đọc bức thư, D Artagnan cảm thấy tim mình hồi hộp một sự đê mê dịu dàng vừa hành hạ vừa mơn man trái tim của những cặp tình nhân.

Đó là bức thư vắn đầu tiên chàng nhận được, đó cũng là cuộc hò hẹn đầu tiên dành cho chàng. Trái tim chàng, nở tung ra vì say sưa vui sướng, tự cảm thấy sắp lịm đi ở ngưỡng cửa cái thiên đàng hạ giới mà người ta gọi là tình yêu này.

- Ơ kìa! Thưa ông - Planchet nói khi thấy chủ mình mặt cứ đỏ lên rồi lại tái đi liên tiếp - Ơ kìa! Chẳng phải tôi đã đoán đúng có chuyện dữ hay sao?

- Planchet ơi, mi nhầm rồi - D Artagnan trả lời - Và bằng chứng đây, đây là một đồng vàng để mi uống chúc mừng ta.

- Tôi xin cảm ơn ông chủ về đồng vàng ông thưởng tôi, và tôi xin hứa làm theo đúng những lời chỉ bảo của ông. Nhưng chẳng lẽ lại không đúng, rằng những bức thư lại vào được như thế trong những ngôi nhà đóng kín…

- Rơi từ trên trời xuống, anh bạn của ta ạ, rơi từ trên trời xuống đấy.

- Nhưng ông bằng lòng chứ? - Planchet hỏi.

- Planchet thân mến của ta ơi, ta là người sung sướng nhất trong mọi người.

- Và tôi có thể nhân việc ông được sung sướng mà đi ngủ chứ?

- Được, đi ngủ đi.

- Cầu cho mọi phúc lành trên đời đều rơi xuống ông chủ, nhưng chẳng lẽ lại không đúng là bức thư ấy… và Planchet vừa rút lui vừa lắc đầu với vẻ hoài nghi mà sự hào phòng của D Artagnan không thể hoàn toàn xóa đi nổi.

Còn lại một mình, D Artagnan đọc đi đọc lại bức thư vắn rồi hôn đi hôn lại đến hai chục lần những dòng chữ do tay người tình của mình viết. Cuối cùng chàng đi nằm, ngủ thiếp đi và mơ những giấc mơ vàng.

Bẩy giờ sáng, chàng dậy và gọi Planchet, ngay sau tiếng gọi lần thứ hai, đã mở cửa, mặt còn chưa gột hết những nỗi lo đêm trước.

- Planchet! - D Artagnan nói - có thể ta đi cả ngày hôm nay vậy mi được tự do đến bẩy giờ tối. Nhưng đúng bẩy giờ mi phải chuẩn bị sẵn hai con ngựa.

- Nghĩa là - Planchet nói - hình như chúng ta sắp làm cho mình được thủng da ở nhiều chỗ nữa thì phải!

- Mi sẽ mang theo súng trường và mấy khẩu súng ngắn của mày.

- Thấy chưa? Tôi đã nói gì nào? - Planchet kêu lên. - Đến đây, thì tôi chắc chắn, bức thư gở rồi?

- Nhưng mày cứ yên trí, đồ ngu ạ - Đây chỉ hoàn toàn đơn giản là một trò đùa vui thôi.

- Ồ, cũng như cuộc du hành thỏa thích ngày nào mà đạn bắn như mưa, và cạm bẫy mọc như nấm chứ gì.

- Thôi được, thưa ngài Planchet, nếu ngài sợ - D Artagnan nói tiếp - tôi sẽ đi một mình. Tôi thích du hành một mình hơn là có một bạn đồng hành run sợ.

- Ông chủ lại chửi tôi rồi - Planchet nói - tuy nhiên, hình như ông cũng đã thấy tôi lúc tâm sự.

- Phải, nhưng tao lại tưởng mi đã sử dụng hết lòng can đảm của mi trong một lần rồi.

- Ông chủ sẽ thấy khi có cơ hội, nó còn lại thế nào, có điều tôi xin ông chủ đừng hoang phí nó, nếu ông muốn nó còn được lâu bền.

- Mày có tin là vẫn còn một số nào đấy để chi tối nay không?

- Tôi hy vọng là còn.

- Thôi được! Ta tin ở mi?

- Đúng giờ, tôi sẽ sẵn sàng. Có điều, tôi tưởng ông chủ chỉ có một con ngựa ở chuồng ngựa cận vệ.

- Có lẽ ngay lúc này đã có một con nữa ở đấy rồi. Nhưng tối nay, sẽ có bốn con.

- Hình như chuyến du hành vừa qua của chúng ta là một cuộc du hành để thay ngựa?

- Đúng thế. - D Artagnan nói.

Rồi bằng cử chỉ cuối cùng để căn dặn Planchet, chàng ra ngoài.

Ông Bonacieux đang đứng trước cửa nhà mình. D Artagnan định lờ đi không thèm nói gì với lão hàng xén làm bộ làm tịch.
Nhưng lão ta lại chào chàng đến là dịu dàng và nhã nhặn khiến người thuê nhà khó xử, không những phải chào lại mà còn phải bắt chuyện với lão.

Vả lại làm sao lại không có được một chút vị nể một ông chồng mà người vợ lại hẹn mình ngay tối nay ở Saint-Clu, trước mặt Nhà hứng gió của ông De Etxtrê! D Artagnan lại gần với vẻ dễ mến nhất mà chàng có thể tạo được.

Câu chuyện rơi vào chuyện con người tội nghiệp này bị bắt giam hoàn toàn tự nhiên. Ông Bonacieux không biết D Artagnan từng được nghe cuộc chuyện trò của ông ta với con người lạ mặt ở Măng, lại đi kể cho chàng thuê nhà trẻ tuổi những sự ngược đãi của con quỷ De Lafêmát mà ông ta gán cái danh hiệu ấy cho tên đao phủ của Giáo chủ suốt cả câu chuyện, và dài dòng sang cả chuyện ngục Bastille, những chốt cửa, những ô trổ những lỗ thông hơi, những song sắt, những dụng cụ tra tấn.
D Artagnan lắng nghe với một thái độ vui vẻ mẫu mực rồi khi lão kết thúc, liền hỏi:

- Còn bà Bonacieux, ông có biết ai bắt cóc bà ấy không? Bởi vì tôi không quên chính trong cái hoàn cảnh bức bối đó mà tôi có được cái diễm phúc làm quen với ông.

- À! Ông Bonacieux nói - họ giữ không nói ra với tôi, còn vợ tôi cũng thề độc với tôi là không biết. Nhưng còn ông - Bonacieux tiếp tục với một giọng hoàn toàn bộc tuệch - mấy ngày qua, ông ra sao? Tôi chẳng thấy ông, cũng chẳng thấy các bạn ông, và tôi nghĩ không phải trên vỉa hè của Paris mà ông đã gom tất cả lớp bụi mà Planchet đã phủi hôm qua trên đôi ủng của ông đấy chứ?

- Ông nói đúng đấy ông Bonacieux thân mến của tôi ạ, tôi và các bạn tôi vừa tổ chức một cuộc du hành nho nhỏ.

- Xa đây không?

- Ồ không, lạy Chúa, chỉ độ bốn mươi dặn thôi. Chúng tôi đưa ông Athos đến vùng suối nóng Foócgiơ, các bạn tôi đều ở lại đó.
- Và ông trở về, có phải không ông? - Bonacieux nói tiếp, nét mặt lộ ra một tên trùm láu cá - Một chàng đẹp trai như ông không thể vắng mặt lâu đối với tình nhân của mình được và chúng ta lại được sốt ruột mong đợi ở Paris, có phải không?
- Thật tình - chàng trai trẻ vừa cười vừa nói - tôi xin thú nhận với ông, còn hơn thế ấy, ông Bonacieux thân mến ạ, tôi thấy không thể giấu nổi ông điều gì. Vâng, tôi đã được mong đợi, và khá sốt ruột, tôi xin đảm bảo với ông như vậy.

Một lớp mây mỏng lướt trên trán ông Bonacieux, nhưng quá mỏng khiến D Artagnan không nhận thấy.

- Và chúng ta sẽ được thưởng về sự chu đáo của chúng ta chứ? - Lão hàng xén tiếp tục, hơi biến giọng, một sự biến giọng mà D Artagnan không nhận thấy, chẳng hơn gì lớp mây mỏng trước đấy một lát chốc chốc lại làm sầm tối bộ mặt con người.
D Artagnan vừa cười, vừa nói:

- Kìa, ông cứ tiếp việc giả bộ ngây ngô đi mà.

- Đâu có, tôi nói vậy là chỉ để biết liệu ông có về muộn không thôi.

- Tại sao ông lại hỏi thế, ông chủ nhà thân mến của tôi, - D Artagnan hỏi - Thế ông định đợi tôi thật à?

- Không, kể từ ngày tôi bị bắt và xảy ra vụ trộm ở nhà tôi, mỗi lần tôi nghe thấy tiếng cửa mở nhất là ban đêm là tôi lại sợ run lên. Mẹ kiếp! Biết làm thế nào! Tôi đâu phải người biết múa gươm!

- Ồ nếu vậy ông chớ có sợ nếu tôi về vào lúc một giờ, hai giờ hay ba giờ sáng. Mà đến sáng tôi vẫn không về, thì ông đừng lo gì nữa.

Lần này thì mặt Bonacieux tái quá khiến D Artagnan có không muốn cũng không thể không nhận ra, liền hỏi ông ta có chuyện gì vậy.

- Có chuyện gì đâu - Bonacieux trả lời - không có chuyện gì đâu. Chỉ có từ khi gặp vận hạn, bất thình lình tôi lại cứ bị hơi choáng váng như thế, tôi vừa cảm thấy bị rùng người. Ông là người chỉ bận sao cho được sung sướng thì để tâm đến chuyện đó làm gì.

- Thế thì tôi đang bận, vì tôi là người như thế.

- Khoan đã, đã tới lúc đâu, ông bảo tối nay cơ mà.

- Yên trí, rồi sẽ tối! Ơn Chúa? Và có thể ông sốt ruột đợi tối chẳng kém gì tôi đâu. Có thể tối nay bà Bonacieux sẽ về thăm gia đình cũng nên đấy!

- Bà Bonacieux không được tự do tối nay đâu - Bonacieux đáp với vẻ nghiêm trọng - bà ấy bị giữ lại ở điện Louvre vì công việc.
- Thôi kệ ông vậy, ông chủ thân mến của tôi ạ, kệ ông. Khi mà tôi hạnh phúc, tôi những muốn tất cả mọi người được hạnh phúc theo nhưng hình như không thể được.

Và chàng trai trẻ vừa đi vừa phá lên cười khoái trí, mà chàng nghĩ chỉ mình chàng mới có thể hiểu được.

- Cứ việc vui thích đi! - Bonacieux đáp với một giọng như từ dưới đáy mộ vọng lên.

Nhưng D Artagnan đã đi quá xa không nghe được, mà dù có nghe được, trong tâm trí hiện thời, chắc chắn chàng cũng chẳng để ý.

Chàng đi về phía dinh quán ông De Treville. Cuộc viếng thăm ông đêm trước quá ngắn ngủi, và chưa giải thích được điều gì mấy.

Chàng thấy ông De Treville đang vui. Nhà Vua và Hoàng hậu đã tỏ ra niềm nở với ông trong vũ hội. Còn Giáo chủ thì đúng là mặt khó đăm đăm.

Một giờ sáng Giáo chủ đã rút lui, mượn cớ thấy trong người khó ở. Còn Đức Vua và Hoàng hậu mãi sáu giờ sáng mới trở về điện Louvre.

Ông De Treville đưa mắt nhìn khắp quanh nhà để xem có ai khác không rồi hạ giọng hỏi chàng.

- Bây giờ anh bạn trẻ, ta nói về anh nào, bởi rõ ràng cuộc trở về may mắn của anh đã phần nào là niềm vui của nhà Vua, sự đắc thắng của Hoàng hậu và sự hổ nhục của Đức ông Giáo chủ.

- Anh phải cẩn thận đấy.

D Artagnan trả lời:

- Chừng nào, tôi còn có diễm phúc được hưởng ân sủng của Đức Vua và Hoàng hậu thì tôi phải sợ cái gì nào?

- Phải sợ tất, tin ta đi. Giáo chủ không phải là người quên chuyện mắc lừa chừng nào còn chưa tính sổ với kẻ đánh lừa đâu, và kẻ đi lừa có vẻ là một gã Gátxcông nào đó ta từng quen biết.

- Ông tin rằng Giáo chủ cũng phòng xa như ông và biết chính tôi đã có mặt ở London ư?

- Quỷ thật! Anh đã ở London! Có phải anh đã mang từ London về cái viên kim cương xinh đẹp đang lấp lánh ở ngón tay anh không? Coi chừng đấy, anh D Artagnan thân mến của ta, món quà của kẻ thù không phải là một điều tốt đẹp đâu. Chẳng phải đã có một câu thơ Latinh về điều đó… khoan đã…

- Vâng hẳn vậy - D Artagnan trả lời, mặc dầu chàng chưa bao giờ có thể nhồi nổi vào đầu cái nguyên tắc đầu tiên của cuốn sách vỡ lòng, và vì do tối dạ, đã làm vị gia sư của mình thất vọng - Vâng hẳn vậy, chắc phải có một câu.

- Chắc thì chắc rồi - Ông De Treville có vẻ văn chương nói - Ông De Băngxơrát mới đọc cho ta hôm nào… Khoan đã… À, đây rồi! "Timeo Danaos et dona ferente(1), có nghĩa là: "Hãy coi chừng kẻ thù tặng quà cho anh".

- Nhưng chiếc nhẫn kim cương này đâu phải của kẻ thù, thưa ông - D Artagnan đáp - là của Hoàng hậu đấy chứ.

- Của Hoàng hậu? Ồ, ồ? - Ông De Treville nói - Quả vậy, đích thực là đồ nữ trang của hoàng gia đáng giá nghìn vàng. Thế Hoàng hậu sai ai chuyển món quà này cho anh?

- Đích thân Hoàng hậu trao cho tôi.

- Ở đâu?

- Trong căn phòng liền kề với căn phòng Hoàng hậu thay trang phục.

- Trao thế nào?

- Đưa tay cho tôi hôn.

- Anh được hôn tay Hoàng hậu? - Ông De Treville vừa nhìn D Artagnan vừa kêu lên.

- Hoàng hậu đã ban cho tôi đặc ân đó.

- Và trước mặt những người khác? Bất cẩn! Ba lần bất cẩn! Ba lần bất cẩn!

- Không, thưa ông, xin ông yên tâm, chắng ai trông thấy đâu.

Và D Artagnan kể cho ông Treville mọi việc diễn ra như thế nao.

- Ôi! Đàn bà! Đàn bà! - Người lính già kêu lên - Ta nhận ra ngay cái trí tưởng tượng lãng mạn của họ mà. Tất cả những gì cảm thấy bí ẩn là họ mê say ngay. Như thế là anh đã nhìn thấy cánh tay, chỉ có thế, anh được gặp Hoàng hậu, nhưng không thấy mặt Hoàng hậu, bà gặp anh nhưng không biết anh là ai.

- Không, nhưng nhờ chiếc nhẫn kim cương này…- Chàng trai trẻ tiếp tục.

- Nghe đây - Ông De Treville nói - anh có muốn tôi cho anh một lời khuyên, một lời khuyên tốt, một lời khuyên chí tình không?

- Rất hân hạnh, thưa ông. - D Artagnan nói.

- Được! Anh hãy đến ngay một chủ hiệu kim hoàn đầu tiên nào cũng được, bán cho hắn chiếc nhẫn kim cương này đi với giá hắn trả cho anh thế nào cũng bán, dù hắn có Do Thái đến đâu anh cũng sẽ được tám trăm đồng vàng. Tiền nó không có tên, anh bạn trẻ ạ, còn chiếc nhẫn này có một cái tên khủng khiếp và có thể phản bội lại kẻ đeo nó.

- Bán chiếc nhẫn ư! Chiếc nhẫn do bà chúa của tôi cho!

- Không bao giờ!- D Artagnan nói.

- Thì xoay mặt nó vào trong vậy, kẻ điên rồ tội nghiệp ạ, bởi người ta thừa biết một gã thiếu sinh quân Gátxcông không thể moi đâu ra thứ trang sức như thế trong bộ đồ tư trang của mẹ mình.

- Vâng, ông tin là tôi có điều gì cần e ngại ư? - D Artagnan hỏi.

- Nghĩa là, chàng trai trẻ ạ, kẻ nào đang ngủ thiếp đi trên một quả mìn đã bén ngòi, phải tự coi là an toàn so với anh đấy.
Giọng nói hoàn toàn đáng tin cậy của ông De Treville bắt đầu làm cho chàng lo lắng:

- Quỷ thật! Tôi phải làm gì nào?

- Luôn cảnh giác, và coi đó là trên tất cả. Giáo chủ có trí nhớ rất dai và bàn tay rất dài. Tin ta đi, thế nào ông ta cũng chơi lại anh một vố.

- Vố gì nào?

- Ồ, ta biết được vố gì! Chẳng phải dưới trướng ông ta không có đủ mọi mưu ma chước quỷ ư? Bét nhất cũng có thể là cho bắt anh?

- Thế nào? Dám bắt một người dưới trướng của Hoàng thượng?

- Mẹ kiếp! Dễ thường họ chùn tay với Athos đấy! Dẫu sao đi nữa, chàng trai ạ, hãy tin một người đã ba mươi năm nay ở triều đình, đừng có tự ru ngủ là mình an toàn, mà toi đấy. Hoàn toàn ngược lại, ta nói để anh hay, phải thấy đâu đâu cũng có kẻ thù cả. Nếu người ta kiếm cớ gây sự với anh, hãy tránh đi dù kẻ gây sự là đứa trẻ mười tuổi. Nếu người ta tấn công anh bất kể ngày hay đêm, hãy vừa đánh vừa lùi và đừng xấu hổ. Nếu anh đi qua một chiếc cầu, hãy thăm dò ván cầu, xem có tấm nào bị sụt dưới chân anh không. Nếu anh đi qua một ngôi nhà đang xây, hãy ngước nhìn lên tránh để một hòn đá nào choang đúng đầu anh. Nếu anh về nhà muộn, hãy cho người hầu đi theo và người hầu phải mang theo vũ khí, tuy nhiên anh phải hoàn toàn tin tưởng người hầu. Coi chừng tất cả mọi người, cả bạn bè, anh em, tình thân, nhất là tình nhân của anh.
D Artagnan đỏ mặt, lắp lại một cách máy móc.

- Cả tình nhân của tôi, nhưng tại sao đối với cô ta hơn người khác?

- Là vì tình nhân là một trong những biện pháp ưa thích của Giáo chủ, không có gì nhanh gọn hơn; một mụ đàn bà có thể bán anh lấy mười đồng vàng, bằng chứng là Đalila(2) đó. Anh biết Kinh thánh chứ?

D Artagnan bỗng nghĩ đến cuộc hẹn hò mà bà Bonacieux đã hẹn chàng tối nay. Nhưng chúng ta phải khen chàng là cái quan niệm lỗi thời về đàn bà nói chung của ông De Treville không làm chàng mảy may nghi ngờ bà chủ nhà xinh đẹp của mình.
- Nhưng tiện thể - Ông De Treville nói tiếp - Ba người đồng đội của anh ra sao rồi?

- Tôi cũng đang định hỏi ông xem ông có biết chút tin tức gì về họ không?

- Không một tin tức nào.

- Thế ạ! Còn tôi, tôi đã bỏ họ lại ở dọc đường. Porthos ở Săngtily đang sắp quyết đấu. Aramis ở Vỡ Rim với một viên đạn vào vai, và Athos ở Amiêng, bị buộc tội có tiền giả trong người.

- Anh thấy chưa? - Ông De Treville nói - Và anh làm thế nào thoát được?

- Tôi phải nói như có phép mầu ấy, thưa ông, bị đâm một mũi gươm vào ngực, tôi đóng đinh trả lại tay Bá tước De Wardes xuống con đường đi Cale như ghim một con bướm trên một tấm thảm.

- Thấy nữa chưa! De Wardes là một người của Giáo chủ, em họ của Rochefort. Này, anh bạn, ta nảy ra một ý.

- Xin cứ nói, thưa ông.

- Ở địa vị anh, ta sẽ làm một điều.

- Điều gì ạ?

- Trong khi Đức ông cho người đi lùng anh ở Paris, anh, phải chính anh, sẽ không kèn, không trống đi Picađy, tìm hiểu tin tức ba người bạn đồng đội của mình. Mẹ kiếp, họ đáng để anh quan tâm như thế lắm chứ.

- Lời khuyên quý giá, thưa ông, ngày mai tôi sẽ đi.

- Ngày mai? Tại sao không tối nay?

- Thưa tối nay tôi mắc ở Paris một công việc rất cần thiết.

- A, chàng trai? Chàng trai! Một mối tình nho nhỏ chứ gì? Cẩn thận đấy, ta xin nhắc lại với anh; chính đàn bà đã làm hại chúng ta, tất cả, chừng nào chúng ta còn tồn tại, và sẽ còn làm hại chúng ta, tất cả, chừng nào chúng ta còn sống sót. Tin ta đi. Đi ngay tối nay đi.

- Không thể được, thưa ông.

- Anh trót hứa rồi ư?

- Vâng, thưa ông.

- Ồ, thế thì lại là chuyện khác. Nhưng hứa với ta đi, nếu tối nay anh không bị giết, ngày mai anh sẽ đi.

- Tôi xin hứa.

- Có cần tiền không?

- Tôi còn năm mươi đồng vàng. Tôi nghĩ thế là tạm đủ.

- Nhưng còn các đồng đội của mình?

- Tôi nghĩ họ chắc cũng không thiếu. Chúng tôi ra khỏi Paris, mỗi người có bảy nhăm đồng vàng trong túi.

- Ta không cần gặp anh trước khi anh khởi hành chứ?

- Không, tôi nghĩ thế, thưa ông, trừ phi có tin gì mới.

- Thôi được, chúc lên đường may mắn.

- Xin cảm ơn ông.

Và D Artagnan xin phép cáo lui, cảm động hơn bao giờ hết về sự quan tâm đầy tình cha con với các ngự lâm quân của ông.
Chàng lần lượt qua nhà Athos, Porthos và Aramis chưa có ai trở về. Bọn người hầu của họ cũng vắng mặt, và chả có tin tức gì về người này hay người khác.

- Chắc sẽ biết tin tức của họ qua tình nhân của họ, nhưng chàng lại không biết của Porthos là ai, cũng chẳng biết của Aramis(3) còn Athos thì không có rồi.

Khi đi qua trước mặt dinh trại cận vệ, chàng liếc mắt nhìn vào chuồng ngựa: ba trong số bốn con ngựa đã trở về đấy rồi.
Planchet đang trải lông ngựa, và đã xong hai con, vô cùng sừng sốt khi thấy D Artagnan.

- A, ông đây rồi, tôi đang mong gặp ông!

- Tại sao vậy, Planchet?

- Ông có tin cái lão Bonacieux chủ nhà của chúng ta không?

- Tao hả? Không chút nào.

- Ồ! Thế là đúng, thưa ông.

- Nhưng tại sao mày lại hỏi thế?

- Là tại vì, trong khi ông chuyện trò với lão, tôi quan sát ông mà không nghe ông nói đâu, mặt lão biến sắc đến hai ba lần.
- Thế à!

- Ông chủ không nhận thấy vì ông còn bận nghĩ đến bức thư vừa nhận được, nhưng tôi, trái lại, vì cái cung cách lạ lùng bức thư đã vào tới nhà mình khiến tôi luôn cảnh giác, tôi không để sót một nét cử động nào trên mặt lão.
- Vì mi thấy mặt lão thế nào?
- Bộ mặt tráo trở, thưa ông.

- Đúng thế.

- Thêm nữa, ngay khi ông chủ vừa đi và khuất ở góc phố, lão Bonacieux cũng cầm mũ, đóng cửa và chạy về phía phố đối diện.

- Mi nói đúng, Planchet ạ, quả thật, ta thấy mọi cái đó hình như đều ám muội lắm. Nhưng yên tâm, chúng ta sẽ chỉ trả tiền thuê nhà cho lão khi nào chuyện này được giải thích rành mạch cho chúng ta.

- Ông chủ đùa rồi, nhưng rồi ông chủ sẽ thấy.

- Mi còn muốn gì, Planchet, cái gì phải đến sẽ đến.

- Ông chủ không bỏ cuộc dạo mát tối nay chứ?

- Hoàn toàn trái lại Planchet ạ, càng giận lão Bonacieux bao nhiêu, ta lại càng sẽ đến nơi bức thư khiến mi khá lo lắng ấy hẹn ta.
- Ờ, nếu đó đã là quyết định của ông chủ…

- Thì không gì lay chuyển được, anh bạn ạ. Cứ như thế nhé, đúng chín giờ mi sẵn sàng ở dinh trại, tao sẽ đến đón mày.
Planchet thấy không còn chút hy vọng nào làm cho ông chủ của mình từ bỏ dự định, liền thở dài và lại tiếp tục trải lông con ngựa thứ ba.

Còn D Artagnan về cơ bản vốn là một chàng Gátxcông rất cẩn trọng, đáng lẽ trở về nhà, chàng đến ăn trưa tại nhà ông linh mục người Gátxcông đã từng thết bữa điểm tâm cho cả bốn người bạn lúc họ đang trong lúc túng quẫn.

Chú thích:
(1) Trích dẫn từ vở kịch của Virgile, nghĩa là ta sợ bọn Hy Lạp đến mang theo quà biếu. Điển tích con ngựa thành Tơron.
(2) Cô gái điếm bán Xămxơn cho bọn Philistin trong Kinh thánh đã chú thích.
(3) Đây có sự nhầm quên của tác giả, Ở phần trên D Artagnan đã bắt bọn Aramis và cuối cùng Aramis cũng đã thú nhận là De Chevreuse là người tình của mình. Nhưng bà De Chevreuse đã trở về nhà Tours - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

32#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 11:20:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 24
Nhà hóng gió


Lúc chín giờ D Artagnan đã có mặt ở dinh trại quân cận vệ.

Chàng thấy Planchet đã trang bị đầy đủ vũ khí, con ngựa thứ tư đã tới Planchet vũ trang bằng một súng trường và một súng ngắn.

D Artagnan đeo gươm và giắt hai khẩu súng ngắn ở đai lưng rồi cả hai lên ngựa, và lặng lB xa dần. Trời tối như bưng, không ai trông thấy họ đi ra, Planchet đi theo sau chủ mình cách xa chừng mười bước.

D Artagnan đi xuyên qua phố bờ sông, qua cửa ô Hội nghị ra khỏi thành phố rồi đi theo con đường thuở đó đẹp hơn bây giờ nhiều dẫn tới Saint-Clu.

- Còn trong thành phố, Planchet giữ nghiêm khoảng cách đã thiết lập, nhưng từ lúc con đường bắt đầu trở nên vắng vẻ và tối tăm hơn, hắn im lặng nhích lại gần. Bắt đầu vào rừng Bulônhơ, hắn đàng hoàng đi song song sát bên chủ. Quả thật những cây to rung rinh và ánh trăng rọi trong những lùm cây tối sẫm khiến hắn lo sợ. D Artagnan thấy ở người hầu có điều gì đó lạ thường, liền hỏi:

- Thế nào, ngài Planchet, chúng ta có chuyện gì vậy?

- Ông không thấy rừng cây giống như những nhà thờ ư?

- Sao lại thế, Planchet?

- Bởi vì người ta không dám nói to trong chỗ này cũng như trong những chỗ kia.

- Tại sao mi không dám nói to, Planchet mi sợ à?

- Vâng, sợ bị nghe thấy, thưa ông!

- Sợ bị nghe thấy! Nhưng Planchet thân mến, chuyện của chúng ta là chuyện đạo đức, có gì đáng chê đâu.

Planchet trở lại với ý nghĩ chủ chốt của mình, đáp:

- À, thưa ông, sao cái lão Bonacieux nó có đôi lông mày trông đến quỷ quyệt, còn đôi môi thì múa may phát tởm.

- Vì cái quỷ gì mà mi cứ nghĩ về lão Bonacieux như thế?

- Thưa ông, người ta nghĩ đến cái người ta có thể, chứ không nghĩ tới cái người ta muốn.

- Bởi vì mi là một thằng nhát, Planchet ạ.

- Thưa ông, đừng nhầm lẫn sự thận trọng với sự nhút nhát, sự thận trọng là một đức tính tốt.

- Và mi có đức tính tốt phải không Planchet?

- Thưa ông, chẳng phải cái nòng súng hỏa mai lấp lánh ở đâu đó chút nào sao? Chúng ta cúi thấp đầu xuống chăng?

D Artagnan chợt nhớ đến những lời dặn dò của ông De Treville liền lẩm nhẩm:

- Thực ra, cái quân súc sinh này cuối cùng cũng làm mình phát sợ.

Nghĩ vậy chàng liền cho ngựa phi nước kiệu.

Planchet cũng phi nước kiệu theo, đúng như một cái bóng của chàng.

- Chúng ta cứ đi như thế này suốt đêm ư, thưa ông?

- Không, Planchet ạ, vì riêng mi, mi đã tới nơi rồi.

- Sao cơ? Tôi tới nơi rồi? Còn ông chủ?

- Ta còn đi thêm ít bước nữa.

- Và ông chủ bỏ lại mình tôi ở đây?

- Mi sợ ư, Planchet?

- Không, nhưng tôi chỉ xin ông chủ lưu ý đêm sẽ rất lạnh và khí lạnh gây bệnh thấp khớp, và một tên hầu mắc bệnh thấp khởp sẽ là một tên đầy tớ đáng buồn, nhất là đối với một ông chủ hiếu động như ông?

- Ồ, nếu mi thấy lạnh, Planchet hãy ghé vào một cái quán nào đó ở kia kìa, và sáu giờ sáng mai đợi ta ở ngoài cửa.

- Thưa ông, tôi đã uống và ăn một cách thành kính hết cả đồng vàng sáng nay ông cho tôi, đến nỗi chẳng còn một xu chết tiệt nào trong trường hợp tôi thấy lạnh.

- Một đồng vàng nữa nữa đây. Mai nhé!

D Artagnan xuống ngựa, quàng dây cương vào cánh tay Planchet, và vừa khoác áo choàng vừa nhanh chóng rời xa.

- Trời ơi! Tôi rét quá! - Khi bóng chủ mình đã khuất, Planchet la lên, cuống quít mong được sưởi ấm, rồi vội vã đến gõ cửa một ngôi nhà, được bày biện theo đúng kiểu cách một tiểu quán ngoại ô.

Trong khi ấy D Artagnan rẽ vào một đường tắt tiếp tục đi đến Saint-Clu. Nhưng đáng lẽ đi theo phố lớn, chàng lại rẽ vào đằng sau một tòa lâu đài, đi vào một phố hẻm rất rộng và đã ở ngay trước mặt ngôi nhà hóng gió đã ấn định. Ngôi nhà ở một nơi hoàn toàn vắng vẻ. Một bức tường lớn, mà góc tường là ngôi nhà đó, chiếm hẳn một bên của phố hẻm, mặt phố bên kia, là một hàng rào ngăn người qua lại vào một khu vườn nhỏ, cuối vườn một túp lều xơ xác.

Chàng đã tới chỗ hẹn, và vì nàng không nói trong thư đến nơi thì báo bằng tín hiệu nào, nên đành chờ.

- Không nghe thấy một tiếng động nhỏ, tưởng như đang ở cách xa kinh thành đến trăm dặm rồi. D Artagnan dựa lưng vào bờ rào sau khi đã đưa mắt nhìn phía sau. Ra khỏi hàng rào, khu vườn và túp lều ấy, một mà sương mù ảm đạm từng lớp, từng lớp bao phủ cả một vùng bao la, trong đó Paris trống rỗng, há hốc mồm ra ngủ, cái bao la trong đó nhấp nháy vài điểm sáng, mấy ngôi sao thê lương của địa ngục này.

Nhưng đối với D Artagnan, mọi cảnh tượng đều khoác một dáng vẻ vui tươi, mọi ý nghĩ đều mang một nụ cười, mọi bóng đêm đều trong suốt. Giờ hẹn sắp điểm rồi.

Quả vậy, chỉ trong vòng mấy giây, cái mõm rộng của tháp chuông nhà thờ Saint-Clu đã gầm lên và từ từ buông ra mười tiếng.
- Có một cái gì đó nghe đượm màu tang tóc trong cái giọng đồng thau đang than thở như thế giữa đêm trường.

Nhưng mỗi tiếng buông ra hợp thành cái giờ hẹn đó lại rung lên êm ái trong trái tim chàng trai trẻ.

Đôi mắt chàng đăm đàm nhìn lên ngôi nhà nhỏ hóng gió ở góc tường bao mà các cửa sổ đều đóng kín, trừ chiếc cửa sổ duy nhất trên tầng một.

Qua chiếc cửa sổ đó, một vùng ánh sáng dịu dàng như trăng bạc lên những vòm lá run rẩy của vài ba cây thanh quất nhô lên thành từng cụm ở ngoài vườn. Hiển nhiên là đằng sau chiếc cửa sổ nhỏ, được chiếu sáng rất duyên dáng ấy, bà Bonacieux xinh đẹp đang đợi chàng.

Như được ru trong ý nghĩ dịu ngọt ấy, D Artagnan vẫn đứng đợi tại chỗ nửa giờ đồng hồ không chút sốt ruột, mắt vẫn đăm đăm nhìn lên cái lầu ngắm cảnh nhỏ bé mê hồn đó mà chàng cũng thấy được một mảng trần nhà có những gờ chỉ mạ nhũ vàng, chứng tỏ vẻ hào hoa của phần còn lại của căn phòng.

Gác chuông nhà thờ Saint-Clu điểm mười giờ rưỡi. Lần này không hiểu vì sao, chàng bất giác rùng mình. Cũng có thể chàng bắt đầu thấm lạnh, và thật ra chỉ là một cảm giác hoàn toàn thể chất và chàng lại xem là ấn tượng tinh thần.

Rồi chàng lại nghĩ hay mình đã đọc sai, chứ giờ hẹn là mười một giờ kia.

Chàng lại gần cửa sổ, đứng vào chỗ có ánh sáng chiếu ra, rút bức thư của nàng ra đọc lại thấy mình không hề nhầm, giờ hẹn rõ ràng là mười giờ.

Chàng trở lại chỗ cũ, bắt đầu hơi lo lắng về sự im ắng và quạnh quẽ này.

Chuông điểm mười một giờ.

D Artagnan bắt đầu lo sợ thực sự đã xảy ra điều gì với bà Bonacieux.

Chàng vỗ tay ba tiếng, tín hiệu thông thường của các cặp tình nhân, nhưng không có ai đáp lại, không cả tiếng vọng.
Thế là chàng giận dỗi nghĩ rằng có thể thiếu phụ đã ngủ quên trong khi đợi chàng.

Chàng lại gần bức tường và cố treo lên, nhưng bức tường mới trát, trơn quá. D Artagnan không bám móng tay được.
Lúc ấy chàng liền ngắm mấy cái cây mà ánh sáng tiếp tục dát bạc lên các khóm lá và một trong những cây ấy lại ngả ra đường, chàng nghĩ nếu ở giữa đám cành cây ấy chàng có thể nhìn xuyên thấu vào trong ngôi nhà hóng gió.

Cái cây dễ trèo. Hơn nữa, D Artagnan chưa đầy hai mươi tuổi, do đó chưa quên thói học trò. Thoát một cái, chàng đã ở giữa đám cành lá, và qua những ô kính cửa sổ trong suốt, chàng phóng mắt sâu vào tận bên trong ngôi nhà.

Một chuyện lạ lùng khiến D Artagnan rợn người từ gan bàn chân lên đến tận chân tóc. Cái ánh sáng dịu dàng kia, cái cây đèn vô tình kia đang chiếu rõ một cảnh tượng hỗn độn hãi hùng, một ô kính cửa bị vỡ, cửa phòng bị đạp tung, gần gẫy, treo trên bản lề, một cái bàn chắc đã được bày một bữa tối sang trọng nằm lăn ra đất, bình lọ vỡ tan, quả cây bị giẫm nát vung vãi trên sàn nhà, mọi cái đều chứng tỏ một cuộc vật lộn quyết liệt và tuyệt vọng trong căn phòng này. D Artagnan còn tin rằng đã nhận ra giữa cái đống hổ lốn lạ lùng ấy những mảnh quần áo và mấy vết máu hoen trên khăn trải bàn và rèm cửa nữa.

Chàng vội vàng trèo xuống đường phố, tim đập khủng khiếp, muốn tìm xem có dấu vết bạo lực nào khác không.

Ánh sáng yếu ớt, êm dịu kia vẫn luôn nhấp nháy trong sự tĩnh lặng của ban đêm. Lúc bấy giờ D Artagnan mới nhận thấy điều mà thoạt đầu chàng không để ý, bởi chẳng có gì đáng khiến chàng để ý, là nền đất nện bằng ở đây, chỗ kia lại lỗ chỗ, in dấu chân người và ngựa. Ngoài ra, vết bánh xe, hình như từ Paris đến cũng đã cầy đấy nhão lên một vết hằn sâu, dài không quá tầm cao của ngôi nhà hóng gió và quay hướng về Paris.

Cuối cùng, trong khi tiếp tục tìm kiếm, D Artagnan thấy gần bức tường một chiếc găng tay phụ nữ bị rách. Tuy nhiên chiếc găng đó, ở những phần chưa dính bùn, trông vẫn mới không chê vào đâu được. Đó là một chiếc găng sức nước hoa thơm phức mà các tình lang thích rút ra khỏi một bàn tay xinh đẹp.

D Artagnan càng tiếp tục dò tìm, mồ hôi càng vã ra, càng giá lạnh, long lanh trên trán, tim chàng càng thắt lại bởi một nỗi lo âu khủng khiếp, hơi thở càng hổn hển, tuy nhiên để tự an tủi, chàng tự nhủ, cái nhà hóng gió này có lẽ chả liên quan gì với bà Bonacieux, vì người đàn bà ấy, hẹn chàng ở trước mặt ngôi nhà, chứ đâu phải trong ngôi nhà đó, có khi nàng bị giữ lại ở Paris vì công việc, cũng có thể vì chồng ghen.

Nhưng mọi lý lẽ ấy đều bị công kích dữ dội, bị hủy diệt, bị lật nhào bởi cái cảm giác đau đớn trong nội tâm, trong một số trường hợp nó xâm chiếm toàn bộ con người chúng ta, và gào lên với chúng ta, bởi tất cả những gì trời phú cho chúng ta thấu hiểu, rằng một tai họa lớn đang lượn lờ trên đầu chúng ta.

Thế là, D Artagnan trở nên như điên dại, chàng chạy phứa ra con đường lớn, rồi theo lối đã đi lúc trước, tiến về phía bến đò hỏi người chở đò.

Người chở đò nói khoảng bẩy giờ tối có chở qua sông một người đàn bà mặc áo choàng đen có vẻ hết sức giữ gìn tránh không để ai nhận ra mình, nhưng cũng chính do quá giữ gìn nên người chở đò lại càng để ý và nhận ra người đàn bà ấy rất đẹp và đẹp.

Thời đó, cũng như ngày nay, có hàng đống đàn bà trẻ và đẹp đi đến Saint-Clu và cũng giữ không để bị lộ diện. Tuy nhiên D Artagnan không còn hồ nghi gì nữa rằng đó chính là bà Bonacieux.

Nhân có ánh đèn trong lều người lái đò, D Artagnan đọc lại bức thư của bà Bonacieux yên tâm rằng mình đã không nhầm, nơi hẹn đúng là ở Saint-Clu chứ không ở đâu khác, và trước ngôi nhà hóng gió của ông De Etxtrê chứ không phải ở phố khác.
Tất cả đều quy tụ lại để chứng minh cho D Artagnan thấy những dự cảm của chàng đã không lừa chàng và một bất hạnh lớn đã xảy đến.

Chàng vừa đi vừa chạy trên con đường trở về ngôi nhà hóng gió. Chàng thấy hình như trong lúc chàng vắng mặt, đã có thêm điều gì mới có thể đã xảy ra ở ngôi nhà hóng gió và những tin tức đang đợi chàng ở đó.

Phố hẻm vẫn vắng tanh và vẫn thứ ánh sáng mờ mờ êm dịu vô tình tỏa ra ngoài cửa sổ.

D Artagnan bỗng nghĩ đến căn lều tuy lụp xụp im lìm và tối tăm kia nhưng biết dâu lại thấy hết và có thể nói ra hết mọi điều chăng.

Cửa hàng rào đóng kín, chàng đành nhảy qua và mặc cho con chó bị xích sủa vang, chàng vẫn cứ đến gần túp lều.

Chàng gõ cửa, lúc đầu không ai trả lời. Một sự im lặng chết chóc ngự trự trong căn lều cũng như trong ngôi nhà hóng gió.
- Tuy nhiên, túp lều là nguồn thông tin cuối cùng rồi, chàng đành cứ gõ.

Rồi hình như có tiếng động nhẹ bên trong, một thứ tiếng động sợ sệt như thể run rẩy do sợ bị nghe thấy.

Thế là D Artagnan thôi không gố nữa và nãn nỉ, van nài, giọng đầy lo âu và hứa hẹn, đầy hãi hùng và ve vãn, khiến cho tiếng nói của chàng tự nhiên lại làm yên tâm được kẻ dễ sợ sệt nhất. Cuối cùng thì một cánh cửa sổ cũ mọt cũng mở ra, đúng hơn là chỉ hé mở rồi lại đóng lại ngay khi ánh sáng của một chiếc đèn tồi tàn đang cháy ở góc lều chiếu lên dải đeo gươm, chuôi gươm và chuôi súng ngắn của D Artagnan, Trong khi đó D Artagnan vẫn kịp nhận ra mặt một ông lão, dù cho cửa đập lại rất nhanh.

- Có Chúa chứng giám! - Chàng nói - Xin hãy nghe cháu. Cháu đợi một người mà không thấy tới, cháu đang lo đến chết đây.
Đã có chuyện gì không may xảy ra ở quanh đây ư? Cụ nói đi!

Chiếc cửa sổ lại từ từ mở ra, và vẫn bộ mặt ấy hiện ra, chỉ có điều nó còn nhợt nhạt hơn cả lần trước.

D Artagnan hồn nhiên kể lại chuyện của mình, thay đổi tên người đôi chút. Chàng nói có một cuộc hẹn hò với một thiếu phụ trước ngôi nhà hóng gió như thế nào, và không thấy nàng đến ra sao, chàng trèo lên cây thanh quất và qua ánh đèn nhợt nhạt đã thấy sự rối loạn trong căn phòng thế nào.

Ông lão chám chú lắng nghe, chốc chốc lại tỏ ý đúng như vậy Rồi khi D Artagnan đã nói xong, ông lão lắc đầu tỏ ý ái ngại.
- Cụ muốn nói sao? - D Artagnan kêu lên - Trời ơi, cụ nói rõ ra cho cháu nghe nào.

- Ồ, ông ơi! - Cụ già nói - Đừng hỏi gì tôi cả, bởi vì nếu tôi nói với ông những gì tôi đã thấy chắc chắn sẽ xảy ra những điều không hay cho tôi.

- Vậy chắc cụ đã trông thấy chuyện gì đó rồi? - D Artagnan vừa nói tiếp vừa ném cho ông cụ một đồng vàng - Trong trường hợp ấy, có Chúa nhìn thấy gì, và cháu xin lấy danh dự của một nhà quý tộc ra thề không một lời nào của cụ hé ra khỏi miệng cháu.

Ông cụ đọc thấy trên mặt D Artagnan biết bao vẻ thực thà và đau đớn, liền ra hiệu cho chàng hãy chú ý nghe rồi nói khẽ:

"Lúc đó khoảng gần chín giờ, tôi nghe thấy có tiếng động gì đó ở ngoài phố và tôi định ra xem xảy ra chuyện gì thì ra gần đến cửa, tôi thấy người ta đang tìm cách vào nhà tôi. Tôi vốn nghèo chả sợ ai trộm cắp đang định mở cổng thì thấy ba người cách đó mấy bước. Trong bóng tối có một cỗ xe thắng ngựa và mấy con ngựa dắt. Mấy con ngựa dắt hiển nhiên là của ba người đàn ông ăn mặc theo lối kỵ sĩ rồi. Tôi kêu lên:

- A! Các quý ông? Các quý ông muốn hỏi gì?

- Ngươi hẳn có một cái thang chứ? - Người có vẻ đứng đầu nhóm hộ tống hỏi tôi.

- Vâng, thưa ông, có một chiếc tôi vẫn trèo để hái quả.

- Đưa đây cho chúng ta, rồi lui vào trong nhà, đây là một đồng vàng vì chúng ta đã quấy quả ngươi. Và nhớ nếu ngươi chỉ nói ra một câu thôi những gì ngươi sắp trông thấy và nghe thấy bởi ngươi sẽ nhìn và sẽ chú ý nghe, ta tin chắc là như thế, dù chúng ta đã hăm dọa ngươi, ngươi sẽ toi mạng.

Nói rồi, hắn ta vứt cho tôi đồng tiền, tôi nhặt lấy và hắn mang thang đi!

Quả nhiên, sau khi đã đóng cổng hàng rào, tôi làm như trở vào nhà nhưng tôi lại ra ngay bằng lối cửa sau, luồn trong bóng tối tới tận lùm cây mộc hương, ở giữa lùm cây ấy, tôi có thể nhìn thấy hết mà không ai biết.

Ba người đó cho cỗ xe tiến về phía trước không một tiếng động, và lôi ra khỏi xe một người đàn ông lùn tịt, to ngang, tóc hoa râm, ăn mặc xuềnh xoàng, quần áo màu tối sẫm, người này thận trọng trèo lên thang, nham hiểm nhìn vào trong căn phòng rồi lại lén lút tụt xuống và nói nhỏ:

- Đúng ả ta!

Người đã nói chuyện với tôi lập tức đến gần cửa ngôi nhà hóng gió, dùng chiếc chìa khóa mang theo mở ra, đóng lại rồi biến mất. Cùng lúc đó hai người kia trèo lên thang. Lão già thấp bé đứng ở cửa xe, người đánh xe vẫn kìm mấy con ngựa thắng vào xe, và một tên hầu giữ mấy con ngựa cưỡi.

Bất thình lình những tiếng kêu thét vang lên trong ngôi nhà hóng gió, một người đàn bà chạy tới định mở cửa sổ nhào xuống.
Nhưng vừa thấy hai người đàn ông, bà ta nhảy lùi lại đằng sau, hai người đàn ông kia lao qua cửa sổ đuổi theo bà ta trong căn phòng.

Thế rồi chẳng nhìn thấy gì nữa. Nhưng tôi nghe thấy tiếng đồ đạc bị đập gãy. Người đàn bà kêu cứu. Nhưng những tiếng kêu bị dập tắt ngay, ba người đàn ông lại gần cửa sổ, khênh bà ta trên cánh tay, hai người xuống thang và chuyển bà ta vào trong xe, và lão già sau đó cũng chui vào. Tên còn lại trong ngôi nhà hóng gió đóng cửa sổ lại, một lát sau theo lối cửa ra khỏi nhà, kiểm tra xem người đàn bà đã chắc chắn ở trong xe chưa.

Hai tên đồng bọn đã lên ngựa đợi hắn, đến lượt hắn cũng nhảy lên yên, tên hầu lên ngồi cạnh người đánh xe, cỗ xe được ba kỵ sĩ hộ tống xa dần theo bước ngựa phi nước đại, và thế là hết. Từ lúc đó, tôi không còn trông thấy, nghe thấy gì hết".
D Artagnan điếng người vì cái tin khủng khiếp đó, đứng lặng câm đi, trong khi đó tất cả những con quỷ giận dữ và ghen tuông gào thét trong lòng chàng. Nỗi thất vọng lặng câm đó hẳn đã tác dụng đến ông lão nhiều hơn nước tiếng kêu rên và nước mắt, khiến ông bảo chàng:

- Nhưng ông quý tộc này, thôi đi, đừng buồn phiền, chúng không giết mất người đàn bà của ông, đấy mới là điều cốt yếu.
D Artagnan liền hỏi:

- Cụ có biết tí chút nào cái kẻ đã điều khiển cái cuộc viễn chinh âm ty địa ngục này không?

- Tôi chả biết gì về hắn.

- Nhưng một khi hắn đã nói với cụ thì cụ cũng nhìn thấy hắn chứ?

- À, ông muốn hỏi lão về đặc điểm của hắn chứ gì?

- Vâng.

- Một kẻ rắn sắt lại, da ngăm nâu, ria mép đen, mắt đen, dáng vẻ một nhà quý tộc.

- Đúng nó rồi? - D Artagnan kêu lên - Vẫn lại nó! Luôn luôn nó. Hình như nó là con quỷ ám của tôi! Còn tên kia?

- Tên nào?

- Tên lùn tịt ấy.

- Ồ, tôi đảm bảo hắn không thuộc loại quyền quý. Vả lại, hắn không đeo gươm, những kẻ khác đối xử với hắn có vẻ khinh thường lắm.

- Chắc một tên hầu nào đó - D Artagnan lẩm nhẩm - Ôi người phụ nữ tội nghiệp! Tội nghiệp cho nàng. Chúng nó đã làm gì nàng?

- Ông đã hứa giữ kín cho tôi đấy nhé - Ông già nói.

- Và cháu xin hứa lại với cụ lần nữa. Cụ yên tâm. Cháu là một nhà quý tộc. Một nhà quý tộc chỉ có một lời hứa và cháu đã hứa với cụ rồi.

D Artagnan, lòng sầu não, trở lại con đường ra bến đò, lúc thì chàng không thể tin nổi đấy là bà Bonacieux và hy vọng hôm sau sẽ gặp lại nàng ở điện Louvre, lúc chàng lại e ngại nàng có chuyện dan díu với một người nào khác và tên ghen tuông ấy đã bắt quả tang và đem nàng đi(1), chàng phân vân, chàng rầu rĩ, chàng tuyệt vọng.

- Ôi, giá ta có các bạn ta ở đấy! chàng kêu lên - Ít nhất ta cũng sẽ có hy vọng tìm lại được nàng nhưng ai biết được bây giờ chính họ ra sao?

Đã gần nửa đêm. Phải tìm gặp lại Planchet thôi. D Artagnan lần lượt gõ cửa tất cả các quán rượu mà chàng thấy còn ánh đèn le lói ở bên trong nhưng chẳng quán nào thấy Planchet cả.

Đến quán thứ sáu, chàng bắt đầu nghĩ tìm kiếm thế này chẳng qua cũng chỉ cầu may thôi. D Artagnan chỉ hẹn với người hầu đến sáu giờ sáng mai, thì dù lúc này nó ở đâu đi nữa vẫn là quyền của nó.

Hơn nữa, chàng chợt nảy ra ý nghĩ, cứ nán lại quanh quẩn nơi sự cố xảy ra, có khi lại thu thêm được một điều gì đó làm sáng tỏ thêm cái vụ bí ẩn này. Thế là chàng dừng lại ở quán thứ sáu, gọi một chai vang thượng hạng, dựa tay trong góc tối nhất và quyết định ngồi đợi như thế đến sáng hôm sau, nhưng lần này nữa chàng lại hy vọng hão huyền và cho dù có hết sức lắng tai, chàng cũng chỉ nghe thấy giữa những tiếng nguyền rủa là những lời nhạo báng, chửi bới, lời qua tiếng lại giữa đám thợ chuyển, người hầu và phu xe hợp thành cái xã hội đáng kính mà chàng đang tham gia này, chứ chẳng có gì có thể giúp chàng lần ra dấu vết người đàn bà tội nghiệp bị bắt cóc.

Sau khi đã nốc hết chai vang do chẳng có việc gì làm và để khỏi dấy lên những nghi ngờ, chàng đành miễn cưỡng tìm trong góc mình ngồi, một tư thế thuận lợi nhất để ngủ thiếp đi đã, muốn ra sao thì ra.

D Artagnan mới hai mươi tuổi, và ở cái tuổi ấy, giấc ngủ có những quyền vĩnh cửu để đòi hỏi một cách khẩn thiết cả đối với những con tim tuyệt vọng nhất.

Khoảng sáu giờ sáng, D Artagnan thức dậy với một nỗi khó chịu thường thấy lúc sáng sớm sau một đêm tồi tệ. Chàng rửa ráy qua loa, kiểm tra xem người ta có lợi dụng chàng ngủ lấy cắp mất gì không, và thấy chiếc nhẫn kim cương vẫn trên ngón tay, ví tiền vẫn nguyên trong túi, súng ngắn vẫn ở đai lưng, liền đứng lên trả tiền chai rượu rồi đi ra để xem sáng nay việc tìm kiếm tên hầu của mình có may mắn hơn đêm qua không. Quả nhiên, thứ đầu tiên chàng trông thấy trong màu sương ẩm ướt và nhờ xám chính là tên Planchet thật thà, tay dắt hai con ngựa, đang đợi chàng ở ngoài cửa một quán rượu nhỏ tồi tàn mà giá D Artagnan có đi qua trước cửa cũng không ngờ nó đang tồn tại.

Chú thích:
(1) Ở đây, tác giả lại tự mâu thuẫn với mình, vì khi nghe cụ già kể, D Artagnan đã kêu lên "lại đúng vẫn nó" tức kẻ ở Măng, tức là Bá tước Rochefort, kẻ đã bắt cóc bà Bonacieux lần trước.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

33#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 11:26:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 25
Porthos


Đáng lẽ về thẳng nhà D Artagnan lại xuống ngựa trước cửa nhà ông De Treville, leo vội lên cầu thang, lần này, chàng quyết định kể cho ông nghe tất cả những gì vừa diễn ra. Chắc chắn, ông sẽ cho chàng những lời khuyên tốt trong toàn bộ vụ này.

Rồi, vì ông De Treville hầu như gặp Hoàng hậu hàng ngày, biết đâu ông lại chẳng thể moi được ở Hoàng hậu tin tức nào đấy về người đàn bà tội nghiệp mà nữ chúa của nàng hẳn phải đền đáp lòng tận tụy của nàng với mình.

Ông De Treville lắng nghe câu chuyện chàng trai kể với mức độ nghiêm trọng chứng tỏ ông nhìn thấy một cái gì khác với chuyện dan díu yêu đương, trong toàn bộ cuộc phiêu lưu này.

Rồi khi, D Artagnan đã kể xong, ông nói:

- Hừm, tất cả chuyện này, cách xa một dặm cũng đã ngửi thấy mùi của Giáo chủ.

- Nhưng phải làm gì? - D Artagnan hỏi.

- Không làm gì hết, tuyệt đối không, lúc này, chỉ có rời khỏi Paris như ta đã bảo anh đó, càng sớm càng tốt. Ta sẽ gặp Hoàng hậu, ta sẽ kể lại mọi tình tiết về sự biến mất của người phụ nữ tội nghiêp, chắc bà còn chưa biết gì, những tình tiết ấy sẽ dẫn dắt bà phải làm gì về phía bà, và khi anh trở về, có thể ta sẽ có một tin tốt lành nào đó để nói với anh. Cứ yên tâm ở ta.

D Artagnan biết rằng, dù là dân Gátxcông, ông De Treville không có thói quen hứa hẹn và khi tình cờ ông đã hứa, thì ông còn giữ lời hứa hơn đã ngỏ. Chàng liền chào ông, đầy lòng biết ơn cả trong quá khứ lẫn với tương lai, và ông đại úy đáng kính về phần mình cũng cảm thấy một mối thiện cảm mãnh liệt đối với chàng trai đến là can trường và kiên định, và trìu mến bắt tay chúc chàng lên đường may mắn.

D Artagnan quyết định thực hiện ngay lúc này những lời khuyên của ông De Treville, rẽ về đường Phu đào huyệt, lo việc gói ghém quần áo. Về tới gần nhà, chàng nhận ra lão Bonacieux trong quần áo buổi sáng, đang đứng ở ngưỡng cửa. Tất cả những gì mà gã Planchet cẩn tắc đã nói với chàng đêm trước về tính tình nham hiểm của lão chủ nhà lúc này lại hiện ra trong đầu. D Artagnan đang nhìn lão chăm chú hơn bao giờ hết. Thật quả, ngoài cái màu nhợt nhạt vàng nhờ bệnh hoạn chỉ rõ mật thấm tràn trong máu, mà cũng có thể chỉ là ngẫu nhiên, D Artagnan còn nhận ra một cái gì đó tráo trở nham hiển nơi những nếp nhăn trên mặt lão. Một tên bịp bợm không cười giống như một người thật thà, một kẻ đạo đức giả không khóc bằng những giọt nước mắt của người trung thực. Mọi giả tạo đều là một cái mặt nạ, và cho dù cái mặt nạ có làm khéo đến đâu, chỉ cần hơi chú ý, người ta vẫn phân biệt được với mặt thật.

Với D Artagnan, hình như lão có đeo một cái mặt nạ thật và lại là cái mặt nạ khó coi nhất. Do đó, không thoát ra khỏi sự ghê tởm đối với con người đó, chàng đang định đi qua trước mặt mà không nói gì, thì giống như đêm trước, lão Bonacieux gọi chàng:

- Ê này, chàng trai trẻ - lão nói với chàng - Hình như đêm qua chúng ta ngủ mòng mắt? Bẩy giờ sáng rồi, khỉ thật! Tôi thấy hình như ông hơi đảo lộn những thói quen cũ, ông trở về nhà vào lúc người khác ra đi.

- Ngài Bonacieux ạ, người ta sẽ không thể trách ngài như vậy - chàng trai nói - vì ngài là mẫu mực cho những con người nền nếp mà. Đúng là khi người ta có một cô vợ trẻ đẹp, người ta cần gì phải tìm hạnh phúc ở đâu. Chính hạnh phúc tự khắc nó tìm đến mình có phải không ngài Bonacieux?

Bonacieux tái người đi như một xác chết, nhăn nhó cười:

- Chà, chà! Ông là một tay vui tính đấy. Nhưng đêm vừa rồi ông chạy nhông đi đâu thế, hở chú mình? Hình như đi ngang về tắt là không hay đâu đấy.

D Artagnan cúi xuống nhìn đôi ủng đầy bùn của mình, nhưng đồng thời cũng nhìn luôn giầy tất lão hàng xén. Có thể nói chúng cùng chung một giuộc, của chàng và của lão đều vấy bẩn cùng một thứ bùn.

Thế là đột nhiên một ý nghĩ đi xuyên qua đầu chàng. Cái lão tóc hoa râm lùn tịt, to bè, một loại người hầu, mặc sẫm màu, bị bọn đeo gươm đi hộ tống đối xử miệt thị đích thực là Bonacieux chứ còn ai nữa. Tên chồng đã chủ mưu việc bắt cóc vợ mình.
D Artagnan tự nhiên thèm muốn khủng khiếp nhảy chồm lên cổ họng lão hàng xén bóp hắn chết ngay, nhưng, như đã nói, chàng là một chàng trai rất thận trọng nên kìm giữ được. Tuy nhiên sự đảo lộn diễn ra trên mặt chàng vẫn cứ lồ lộ khiến Bonacieux hoảng và định thử lùi lại, nhưng lão lại ở ngay trước cửa mà cánh cửa lại đóng, khiến lão buộc phải đứng nguyên tại chỗ.

- Ra thế đấy. Nhưng con người tử tế ạ, ông lại đùa rồi - D Artagnan nói - Tôi thấy hình như nếu đôi ủng của tôi cần phải lau chùi thì giầy, tất của ông cũng đòi bàn chải giúp đấy. Về phần mình, chắc ngài cũng lang thang phải không ngài Bonacieux? Chà, Mẹ kiếp! Như thế thì không thể nào tha thứ cho một người ở vào lứa tuổi ông, thêm nữa lại có một người vợ trẻ đẹp như vợ ông.

- Ôi, lạy Chúa, không phải thế - Bonacieux nói - mà hôm qua tôi đã ở Thánh Măngđê để nắm được tin tức về một con ở, không có nó tuyệt đối không được, và vì đường sá quá tồi, nên tôi đã tha cả đám bùn này về mà chưa có thì giờ làm sạch.
Địa điểm mà Bonacieux chỉ ra là lão đã đi đến đấy, lại là bằng chứng mới làm cho những nghi ngờ của D Artagnan thêm vững vàng. Bonacieux nói đến Thánh Măngđê, bởi vì Thánh Măngđê ngược lại hoàn toàn phía Saint-Clu.

Khả năng xảy ra như thế làm chàng vơi dịu đi một phần. Nếu Bonacieux biết vợ mình hiện đang ở đâu vẫn có thể dùng những biện pháp cực đoan cậy răng lão hàng xén để tìm ra bí mật. Chỉ còn việc biến khả năng đó thành tất yếu.

- Xin lỗi, ông Bonacieux thân mến, nếu tôi xử sự với ông hơi khiếm nhã - D Artagnan nói - nhưng không gì khát bằng đêm không được ngủ, tôi đang khát phát điên đây, vậy cho phép tôi vào uống cốc nước trong nhà ông nhé, ông cũng rõ, giữa hàng xóm với nhau, việc đó cũng tự nhiên thôi.

Và chẳng đợi chủ nhà cho phép, D Artagnan cứ vào và liếc mắt nhanh nhìn cái giường, cái giường vẫn phẳng phiu.

Bonacieux không nằm ngủ, vậy là lão chỉ vừa mới về nhà được một hai giờ thôi. Lão đã bám theo vợ lão đến tận nơi người ta dẫn vợ lão đến, hoặc ít nhất cũng đến trạm đầu tiên.

D Artagnan vừa uống cạn cốc nước vừa nói:

- Cám ơn ngài Bonacieux nhé. Tôi chỉ cần ở ông có thế thôi. Bây giờ tôi về nhà tôi đây. Tôi sẽ bảo Planchet đánh ủng cho tôi, khi nào nó làm xong, nếu ông muốn, tôi sẽ sai nó sang đánh giầy cho ông.

Và chàng rời nhà tay hàng xén còn đang hết sức ngỡ ngàng về sự chia tay kỳ lạ đó và tự hỏi có phải đã đâm đầu vào bẫy của chính mình không.

Lên đến trên thang gác, chàng thấy Planchet đang hốt hoảng. Thoạt trông thấy chủ mình, gã đã kêu lên:

- Ôi, ông chủ, lại có chuyện rồi, mà tôi thấy ông về muộn quá đấy?

- Có chuyện gì vậy - D Artagnan hỏi.

- Ồ, tôi cho ông chủ đoán một trăm, không, cho hẳn một nghìn lần đấy xem tôi đã thay ông khi vắng mặt tiếp ai đến thăm nào?

- Khi nào?

Nửa giờ trước đây, khi ông còn ở nhà ông De Treville ấy.

- Vậy là ai đến, thôi nói đi nào.

- Ông De Cavoa.

- Ông De Cavoa ư?

- Đích thân ông ấy.

- Ông đại úy cận vệ của Đức ông?

- Chính ông ấy.

- Đến bắt ta?

- Tôi nghĩ vậy, thưa ông, mặc dầu vẻ mềm mỏng của ông ta.

- Mi bảo lão ta mềm mỏng?

- Nghĩa là như mật ong luôn, thưa ông.

- Đúng thế chứ?

- Ông ta nói mình đến là do Đức Giáo chủ phái đến, có nhã ý mời ông theo ông ta đến Hoàng cung.

- Thế mi trả lời thế nào?

- Là việc ấy không thể được, vì ông có ở nhà đâu, ông ta có thể thấy đấy.

- Thế lão ta bảo sao?

- Rằng, nội nhật hôm nay, ông đừng quên đến nhà ông ấy, rồi còn ghé tai nói thêm: "Bảo với chủ anh là Đức ông hoàn toàn biệt đãi chủ anh, tương lai tốt đẹp của chủ anh có lẽ phụ thuộc vào cuộc tiếp kiến này".

- Cái bẫy của Giáo chủ hơi vụng về. - Chàng mỉm cười nói.

- Thì tôi cũng thấy đó là cái bẫy chứ, và tôi trả lời khi ông trở về chắc ông sẽ tiếc lắm. "Thế ông ấy đi đâu?" ông De Cavoa hỏi tôi. Tôi trả lời: "Đi Troa vùng Sămpanhơ", "Ông ấy đi bao giờ? " "Tối hôm qua".

- Planchet, anh bạn của ta - D Artagnan ngắt lời - mi thực sự là của quý của ta đấy.

- Ông biết không, tôi nghĩ nếu ông muốn gặp ông De Cavoa ông cứ việc bảo rằng ông chẳng đi đâu cả, rằng tôi nói dối đấy thôi, vẫn còn kịp chán, vì tôi không phải là nhà quý tộc, tôi có thể nói dối mà.

- Yên tâm đi, Planchet, mi sẽ giữ được danh tiếng một con người chính trực. Mười lăm phút nữa chúng ta sẽ đi.

- Tôi cũng đang định khuyên ông chủ như vậy. Nhưng ta đi đâu tôi không quá tò mò đấy chứ?

- Mẹ kiếp! Cứ đi ngược lại phía mi nói ta đã đi ấy. Vả lại, chắc mi không kém sốt ruột biết tin về Mousqueton, Grimaud và Bazin như ta muốn biết xem Athos, Porthos và Aramis ra sao chứ?

- Muốn quá chứ - Planchet nói. - Ông muốn lúc nào là tôi đi ngay. Không khí ở tỉnh nhỏ tôi tin là tốt hơn cho chúng ta ở Paris. Vậy nên…

- Vậy thì, gói ghém áo quần đi, Planchet và ta đi. Ta sẽ đi trước, hai tay đút túi, để đừng ai nghi ngờ. Mi sẽ đuổi kịp ta ở dinh trại cận vệ. À, Planchet này, ta tin mi nói đúng về lão chủ nhà đấy, chắc hẳn lão là một tên vô lại kinh tởm rồi.

- Ồ, xin ông chủ cứ tin tôi, khi tôi nói với ông điều gì, tôi là thầy tướng đấy.

D Artagnan xuống trước như đã thỏa thuận, và để khỏi phải băn khoăn điều gì, chàng rẽ tới nhà ba bạn mình lần cuối nhưng cũng chẳng nhận được tin gì. Chỉ có mỗi một bức thư thơm nức và chữ viết rất nhỏ và bay bướm gửi cho Aramis. D Artagnan nhận chuyển thư bộ. Mười phút sau, Planchet đuổi kịp chàng ở chuồng ngựa dinh trại cận vệ. Để khỏi mất thì giờ, D Artagnan tự đóng lấy yên cương.

- Tốt lắm - chàng bảo Planchet, khi gã đã buộc gói quần áo vào túi hành trang - Bây giờ đóng yên cương cho ba con ngựa rồi ta đi.

- Ông tin mỗi người hai ngựa, ta sẽ đi nhanh hơn ư? - Planchet hỏi, sẽ tinh quái.

- Không, thưa ông đùa tồi - D Artagnan trả lời - nhưng với bốn con ngựa, chúng ta có thể đem ba ông bạn của ta về, nếu ta tìm thấy họ còn sống.

- Nếu như thế sẽ là quá may đấy - Planchet trả lời - nhưng rất cuộc không nên thất vọng ở sự nhân từ của Thượng đế.

- Amen! - D Artagnan nói và phốc lên ngựa.

Và cả hai ra khỏi dinh trại cận vệ, đến đầu phố, tách nhau ra, người đi trước, qua trạm Vi-lét, và người kia qua trạm Mông Mac ra khỏi Paris rồi ra ngoài gặp lại nhau ở Saint-Denis, một phương sách chiến lược được thực hiện cùng độ chính xác, đáng được khen thưởng vì kết quả tốt đẹp. D Artagnan và Planchet cùng vào Piefit một lúc.

Phải nói Planchet ban ngày can đảm hơn ban đêm. Tuy nhiên tính thận trọng tự nhiên chẳng rời gã một phút. Gã không quên bất kỳ sự cố nào trong cuộc du hành lần trước, và luôn coi tất cả những ai gã chạm trán ở trên đường là kẻ thù. Việc đó dẫn đến gã không rời chiếc mũ trong tay khiến cho D Artagnan sợ do sự lễ phép thái quá của người hầu, người ta coi mình là người tầm thường, nên đã quở trách Planchet thậm tệ.

Tuy nhiên, quả thật hoặc những người qua đường cảm động vì sự nhã nhặn của Planchet, hoặc lần này chẳng có ai rình rập trên đường, hai người tới Săngtily không gặp bất trắc gì và xuống ngựa ở lữ quán Saint-Martin lớn, vẫn cái lữ quán họ đã dừng chân chuyến đi trước.

Chủ quán thấy một chàng trai, theo sau có một tên hầu tay dắt hai ngựa, liền trịnh trọng tiến ra ngưỡng cửa. Mà vì đã đi được mười một dặm, nên D Artagnan cho là nên nghỉ, dù Porthos có còn trong quán hay không còn đấy nữa. Rồi có thể sẽ là thiếu thận trọng nếu chưa chi đã hỏi xem chàng ngự lâm kia ra sao, nghĩ vậy, D Artagnan xuống ngựa, giao ngựa cho người hầu rồi vào một phòng dành cho những ai muốn ngồi riêng, gọi một chai vang loại thượng hạng và một bữa điểm tâm càng ngon càng tốt, làm tăng thêm thiện cảm của chủ quán vốn là đã có từ lúc mới gặp lữ khách.

Vì thế, D Artagnan được phục vụ nhanh chóng lạ kỳ.

Binh đoàn cận vệ tuyển mộ trong số đệ nhất quý tộc của vương quốc, và D Artagnan với một người hầu theo sau, lại đi du hành với bốn người ngựa đẹp, mặc dầu bộ đồng phục giản dị vẫn không khỏi khiến người ta trọng nể. Chủ quán muốn đích thân phục vụ. Thấy thế D Artagnan bảo mang ra hai chiếc cốc và gợi chuyện.

- Thật tình, ông chủ thân mến ạ - D Artagnan rót đầy hai cốc và nói - tôi đã gọi loại vang hảo hạng của ông, và nếu ông lừa tôi, ông sẽ bị trừng phạt ở chỗ ông mắc tội, vì tôi ghét uống một mình, ông sẽ uống cùng tôi. Ông hãy nâng cốc và ta cùng uống. Ta uống chúc cái gì nhỉ, ở cái gì không phật lòng ai được nhỉ? À ta uống cho sự thịnh vượng của lữ quán ông.

- Quý ông làm cho tôi vinh dự quá - chủ quán nói - tôi xin thành thực cảm ơn lời chúc của ông.

- Nhưng xin ông đừng nhầm đấy - D Artagnan nói - trong lời chúc của tôi, nó nhuốm màu ích kỷ nhiều hơn là ông nghĩ đấy.
- Có những quán làm ăn thịnh vượng, khách hàng được tiếp đón chu đáo, trong những lữ quán đang sa sút, tất cả đều rối tinh lên, và khách trọ thành nạn nhân của sự lúng túng của người chủ. Mà tôi lại đi du hành nhiều, nhất là trên con đường này, tôi muốn thấy tất cả các ông chủ quán đều làm ăn phát đạt.

- Quả thật - chủ quán nói - hình như đây không phải lần đầu tiên tôi có vinh dự được gặp ngài.

- Ồ, tôi qua Săngtily có lẽ tới chục lần rồi ấy chứ và trong số chục lần ấy, ít ra tôi cũng dừng lại ở quán ông ba bốn lần. Ông nhớ chứ, tôi vừa ở quán này cách đây mười hai ngày gì đó. Tôi dẫn đường cho mấy người bạn tôi, mấy ông ngự lâm quân, rồi một ông cậy mình là ngự lâm quân cãi lộn với một người lạ, người này chẳng biết kiếm cớ gì gây sự với ông ấy.

- À, thôi đúng rồi! - Chủ quán nói - Tôi nhớ hết chuyện đó.

- Có phải là ông Porthos quý ngài muốn nói với tôi không?

- Đúng, đấy là tên người bạn đồng hành của tôi. Lạy Chúa, ông chủ thân mến, nói cho tôi biết nào, bạn tôi có gặp chuyện không may gì không?

- Nhưng quý ngài chắc đã rõ ông ấy không thể tiếp tục lên đường.

- Quả vậy, ông ấy có hứa đuổi kịp chúng tôi, nhưng chúng tôi không gặp lại.

- Ông ấy đã cho chúng tôi cái vinh dự là ở lại đây.

- Sao? Ông ấy đã cho ông vinh dự ở lại đây?

- Vâng, thưa ông, trong lữ quán này. Chúng tôi còn rất lo ngại nữa.

- Về chuyện gì?

- Về các khoản chi dùng của ông ấy.

- Nhưng ông ấy dùng gì thì ông ấy sẽ trả chứ.

- Ôi, thưa ông, ông đúng là bôi cao xoa vào máu tôi rồi! Chúng tôi đã ứng trước những khoản lớn, và sáng nay nữa, nhà phẫu thuật tuyên bố với chúng tôi, nếu ông Porthos không trả tiền ông ấy, chính tôi phải chịu phạt, bởi vì chính tôi cho người đi tìm ông ấy.

- Nhưng Porthos bị thương ư?

- Thưa ông, tôi không thể nói ra với ông.

- Sao, ông không thể nói với tôi? Ông chắc phải biết rõ hơn ai hết chứ.

- Vâng, nhưng trong tình trạng hiện thời của chúng tôi, chúng tôi không nói tất cả những gì mình biết được thưa ông, nhất là khi người ta đã báo trước tai của chúng tôi đảm bảo cho lưỡi của chúng tôi.

- Vậy tôi có thể gặp Porthos không?

- Được chứ, thưa ông. Ông hãy theo cầu thang lên tầng một gõ cửa phòng số 1. Có điều ông phải báo trước là chính ông.

- Sao, tôi báo trước là chính tôi?

- Vâng, bởi ông có thể gặp chuyện rủi.

- Chuyện rủi nào xảy đến với tôi?

- Ông Porthos có thể tưởng lầm ông là người nhà này, và trong lúc tức giận, có thể đâm cho ông một mũi gươm xuyên qua người hoặc bắn vỡ sọ ông.

- Thế ông đã làm gì ông ấy?

- Chúng tôi chỉ đòi tiền ông ấy thôi.

- Ôi đồ quỷ! Tôi hiểu chuyện rồi. Đòi tiền trong khi không còn nữa thì Porthos luôn bậy bả rồi. Nhưng tôi biết chắc là ông ấy còn nhiều tiền kia mà.

- Thì tôi cũng nghĩ như thế, thưa ông. Nhà hàng chúng tôi vốn rất quy củ, tính toán hàng tuần, được khoảng tám ngày chúng tôi đưa ông ấy hóa đơn, nhưng hình như chúng tôi đưa không đúng lúc, vừa mới nói được câu đầu về chuyện thanh toán, ông ấy đã chửi vang lên, đúng là đêm trước ông ấy đánh bạc thật.

- Thế nào, đánh bạc đêm trước. Với ai?

- Ôi, Chúa ơi, ai biết được? Với một quý ông đi qua, và ông Porthos ngỏ ý chơi bạc với ông kia.

- Thế là kẻ khốn khổ nhẵn túi?

- Luôn cả con ngựa nữa thưa ông, vì khi người lạ mặt sắp ra đi, tôi thấy người hầu của ông ta đóng yên vào con ngựa của ông Porthos. Lúc đó chúng tôi cũng đưa ra nhận xét với người khách lạ, nhưng người này trả lời chúng tôi đừng dây vào chuyện không liên quan đến mình, và con ngựa đó là của ông ta. Chúng tôi cũng đã báo ngay cho ông Porthos điều gì vừa xảy ra, nhưng ông ấy bảo chúng tôi là đồ xấc láo mới đi nghi ngờ lời nói của một nhà quý tộc và rằng một khi ông ta đã nói con ngựa ấy là của ông ta, ắt nó là của ông ta.

- Tôi thừa biết điều đó rồi! - D Artagnan lẩm nhẩm.

Ông chủ quán tiếp tục:

- Thế là tôi cho người đến nói với ông ấy rằng vì hình như chúng tôi không thể đi đến một thỏa thuận nào về việc thanh toán, tôi hy vọng ít nhất ông cũng tỏ ra biết điều, bạn cho đồng nghiệp của tôi ở lữ quán Chim Phượng hoàng cái ân huệ đón ông sang bên đó. Nhưng ông Porthos đáp lại rằng, vì quán của tôi tốt nhất, ông muốn lưu lại đây. Câu trả lời quá tâng bốc ấy khiến tôi không dám vật nài ông đi nữa. Tôi chỉ dám giới hạn xin ông trả lại căn phòng là phòng đẹp nhất lữ quán, vui lòng lên căn phòng xinh xắn ở tầng ba. Nhưng ông Porthos nói lúc nào ông cũng ngóng đợi người tình của ông là một trong những phu nhân quyền quý nhất triều đình, tôi đành phải hiểu rằng căn phòng mà ông đem lại cho tôi vinh dự là đã cư trú ở đấy chắc còn tồi tàn hơn nhiều đối với một nhân vật như thế. Tuy nhiên, dù nhận ra điều ông nói là hoàn toàn có thật tôi vẫn cứ vật nài ông, nhưng rồi chẳng thèm bàn cãi gì với tôi ông vớ luôn khẩu súng ngắn đặt lên bàn ngủ và tuyên bố chỉ cần nói ướm một câu về việc chuyển phòng dù sang phòng khác hay quán khác, ông sẽ bắn vỡ sọ kẻ nào dại dột đi xen vào chuyện chỉ liên quan đến ông, vì thế, từ lúc đó, không ai dám vào phòng ông, nếu không phải tên đầy tớ của ông.

- Vậy Mousqueton cũng ở đây?

- Vâng thưa ông, hắn đi đâu đó năm ngày rồi trở về mặt mũi cau có. Hình như trong chuyến đi hắn cũng gặp những chuyện bực bội. Khốn thay, hắn nhanh nhẹn tháo vát hơn chủ hắn cho nên cái gì cần cho chủ là hắn lục tung lên bằng được, vì nghĩ nếu hỏi có thể lại bị từ chối, hắn cứ lấy phứa mà chẳng hỏi ai.

- Thật ra - D Artagnan trả lời - tôi luôn nhận thấy ở Mousqueton một lòng tận tụy và trí thông minh rất cao.

- Có thể đúng đấy, thưa ông, nhưng giả thử mà mỗi năm hắn đến tìm tôi bốn lần thì sau khi tiếp xúc với trí thông minh và lòng tận tâm ấy, chắc chắn tôi sẽ khuynh gia bại sản.

- Không, Porthos sẽ trả ông.

- Hừm! - Chủ quán tỏ vẻ nghi ngờ.

- Porthos là người được một vị đại phu nhân yêu quý, bà ta sẽ không để ông ấy trong tình trạng lúng túng và khốn khó đang mắc với ông đâu.

- Nếu như tôi dám nói ra điều tôi tin trong chuyện này…

- Ông tin thế nào?

- Còn hơn là tin, mà là biết.

- Điều mà ông biết?

- Mà còn biết chắc chắn nữa.

- Nhưng ông biết chắc chắn điều gì?

- Tôi nói là tôi biết cái bà đại phu nhân ấy.

- Ông?

- Vâng, tôi.

- Thế làm thế nào ông biết được?

- Ồ, thưa ông, liệu tôi có thể tin được tính kín đáo của ông không?

- Ông nói đi, xin thề danh dự của người quý tộc, ông sẽ không phải hối tiếc về sự tin cậy của ông đâu.

- Đó, ông xem, sự lo lắng cũng làm được khối việc đấy chứ.

- Ông đã làm được những việc gì?

- Ồ, chẳng có gì ngoài việc một chủ nợ có quyền làm.

- Rốt cuộc là cái gì?

- Ông Porthos trao cho chúng tôi một bức thư cho bà nữ Công tước đó, và dặn chúng tôi bỏ vào hòm thư. Gã đầy tớ của ông ấy chưa về. Vì ông ấy không thể rời khỏi phòng mình, ông ấy phải nhờ chúng tôi.

- Rồi sao?

- Đáng lẽ bỏ thư vào hòm thư, việc ấy không bao giờ chắc chắn cả, nhân một tên hầu bàn của tôi có việc phải đi Paris, tôi ra lệnh cho nó mang thẳng bức thư đến tận tay bà Công tước.

- Như thế là làm tròn ý định của ông Porthos đã hết sức tin cậy trao cho chúng tôi bức thư, có phải không?

- Gần như thế.

- Thế ông có biết cái bà đại phu nhân ấy là thế nào không?

- Không, tôi có được nghe Porthos nhắc đến, có thế thôi.

- Ông có biết cái bà tự nhận là nữ Công tước ấy là người thế nào không?

- Tôi xin nhắc lại, tôi không quen biết bà ta.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

34#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 11:30:56 | Chỉ xem của tác giả
Ba người lính ngự lâm - Chương 25
-----------------------------------------------

Đó là bà biện lý(1) già ở Satơlê, tên là bà Coquenard, bà ta ít nhất cũng năm mươi tuổi và vẫn có vẻ còn ghen tuông ghê lắm.

- Tôi thấy điều đó khá lạ lùng, một nữ Quận chúa mà lại cư trú ở phố Lũ gấu.

- Làm sao ông biết chuyện đó?

Bởi vì bà ta nổi cơn tam bành khi nhận bức thư, và nói rằng ông Porthos là một kẻ thay lòng đổi dạ, rằng lại vì một con mụ nào nữa mà xơi nhát gươm kia.

Nhưng ông ấy bị xơi một nhát gươm thật à?

- Ôi, lạy Chúa! Tôi vừa nói gì đấy nhỉ?

- Ông nói là Porthos bị xơi một nhát gươm.

- Vâng, nhưng ông ấy cấm ngặt tôi không được nói.

- Tại sao vậy?

- Sao ư? Thưa ông, tại vì ông ấy đã huênh hoang sẽ đâm xiên qua cái người lạ mặt mà ông để mặc cho tranh cãi nhau ấy, và rồi chính cái người lạ mặt kia, trái lại, đã cho ông Porthos lăn kềnh ra đất, bất chấp mọi thói anh hùng rơm(2) của ông ấy. Mà vì ông Porthos là một người quá tự phụ, nên trừ đối với bà nữ Công tước mà ông tưởng làm bà ta thích thú bằng việc kể những chuyện phiêu lưu của mình, ông không muốn thú nhận với bất kỳ ai rằng ông đã xơi một nhát gươm.

- Như thế, tức là một nhát gươm khiến ông ta nằm liệt giường?

- Và một nhát gươm bậc thầy, tôi xin cam đoan với ông như vậy. Chắc linh hồn bạn ông phải đóng chốt trong thể xác ông ấy.

- Ông có mặt ở đây à?

- Thưa ông, tôi đi theo họ là do hiếu kỳ, thành thử tôi được nhìn thấy trận đấu, còn các đấu sĩ lại không nhìn thấy tôi.

- Thế trận đấu diễn ra thế nào?

- Ồ! Không lâu đâu, tôi đảm bảo như thế. Họ đều giữ thế thủ, người lạ mặt làm một đòn nhử, rồi doãi chân, tất cả quá nhanh đến nỗi ông Porthos mới định đỡ thì gần một gang tay sắt đã găm vào ngực ông rồi. Ông ngã ngửa ra đằng sau. Người lạ mặt gí ngay mũi gươm vào họng ông. Ông Porthos thấy mạng mình đã trong tay địch thủ, liền xin thua. Người lạ hỏi tên ông và khi biết tên ông là Porthos chứ không phải D Artagnan, liền đỡ ông ấy dậy dìu về lữ quán, rồi lên ngựa và biến mất.

- Như thế tức là D Artagnan mới là người hắn ta thù hận?

- Hình như thế.

- Và ông có biết hắn ta thế nào rồi không?

- Không, cho đến khi ấy, tôi chưa bao giờ thấy ông ta, và từ bấy, tôi chưa hề gặp lại.

- Tốt lắm, tôi đã biết được điều tôi muốn biết. Ông bảo hiện thời ông Porthos đang ở phòng số 1 tầng một?

- Vâng, phòng đẹp nhất quán trọ, đáng lẽ tôi đã cho thuê chục lần rồi ấy chứ.

- Thôi được, ông cứ yên tâm - D Artagnan vừa cười vừa nói - Porthos sẽ trả ông bằng tiền của nữ Công tước Coquenard.
- Ôi thưa ông, bà biện lý hay bà công tước cũng được, miễn là bà ta nới dải buộc túi tiền. Nhưng bà ấy đã trả lời dứt khoát là bà ấy chán những đòi hỏi và sự không chung thủy của ông Porthos lắm rồi, và sẽ không gửi cho ông ta một xu nào nữa.

- Và ông nói lại với vị khách trọ của mình chứ?

- Chúng tôi phải giữ chứ, nếu không ông ấy sẽ biết chúng tôi chuyển thư bằng cách nào.

- Và ông ấy cứ thoải mái đợi tiền?

- Ồ, lạy Chúa, vâng! Mới hôm qua, ông ta lại viết, nhưng lần này là tên đầy tớ bỏ vào thùng thư.

- Và ông nói bà biện lý già và xấu ư!

- Ít nhất năm mươi tuổi, và chẳng đẹp chút nào, theo như Patô nói.

- Nếu thế, thì ông yên tâm đi, bà ta chả thoát khỏi mềm lòng, vả lại, Porthos không thể nợ ông nhiều lắm.

- Sao, không nhiều lắm ư? Hai chục đồng vàng rồi đấy, chưa tính tiền thuốc. Ôi, ông ấy chẳng chịu từ bỏ thứ gì, quen sống thoải mái rồi mà.

- Không sao đâu! Nếu tình nhân của ông ta bỏ rơi ông ta, ông ta sẽ tìm, được các bạn bè, tôi đảm bảo như vậy. Như thế, ông chủ quán thân mến ạ, đừng lo ngại gì cả, ông cứ tiếp tục cung ứng cho ông ấy tất cả những gì đang cần thiết đi.

- Ông đã hứa với tôi là không nói gì về bà biện lý và không nói ra một câu nào về vết thương rồi đấy nhé.

- Đã thỏa thuận thế rồi, tôi đã hứa mà.

- Ông phải biết, ông ấy sẽ giết tôi đấy!

- Ông đừng sợ, ông ấy không đến nỗi hung dữ như bộ dạng ông ấy đâu.

Vừa nói, D Artagnan vừa leo lên cầu thang, để lại ông chủ quán đã hơi yên tâm về hai điều ông ta hình như hết sức quan tâm: món nợ và mạng sống của ông ta.

Phía trên cầu thang, chiếc cửa dễ nhận ra nhất ở hành lang, trên cửa kẻ chữ số 1 khổng lồ bằng sơn đen, D Artagnan gõ một tiếng, bên trong có tiếng mời cứ vào, và chàng bước vào.

Porthos đang nằm và đang chơi bài với Mousqueton để luyện tay chơi, trong khi đó một xiên gà gô đang quay trên lửa và ở mỗi góc của một lò sưởi lớn, là hai cái chảo trên hai bếp lò đang sôi sùng sục tỏa ra thơm lừng mùi thỏ nấu sốt vang và cá om. Ngoài ra, trên bàn và trên mặt đá hoa chiếc tủ ngăn kéo, đầy vỏ chai.

Nhìn thấy bạn, Porthos reo lên mừng rỡ và Mousqueton kính cẩn đứng lên nhường chỗ cho chàng, lui ra kiểm tra hai cái chảo.

- Ôi, Mẹ kiếp! Là cậu ư - Porthos nói với D Artagnan - Rất mừng là cậu đã đến, nhưng xin lỗi nếu như mình không ra đón cậu được. Nhưng Porthos vừa nhìn D Artagnan vừa nói tiếp - cậu biết chuyện gì xảy với mình chứ?

- Không.

- Chủ quán không nói gì với cậu à?

- Tôi hỏi thăm anh rồi lên thẳng đây thôi.

Porthos thở phào nhẹ nhõm. D Artagnan tiếp tục hỏi:

- Thế có chuyện gì xảy ra với anh ư, Porthos thân mến?

- Xảy ra với mình khi mình nhoài người về phía địch thủ mà mình đã xỉa cho hắn ba nhát rồi đấy chứ, mình định kết liễu hắn bằng nhát thứ tư, thế là chân mình giẫm lên một hòn đá, và mình bị trẹo gối.

- Thật thế ư?

- Thề danh dự mà! Cũng may cho thằng đểu ấy, chứ không mình đã cho nó chết toi tại chỗ rồi, mình đảm bảo với cậu như vậy.

- Và rồi nó ra sao?

- Ồ, mình cũng chẳng biết gì hết. Nó bị thế là đủ lắm rồi. Nó chuồn mất mà không dám đòi những gì còn lại.

- Bị trẹo gối - D Artagnan tiếp tục - đến nỗi không ra được khỏi giường ư?

- Ờ Lạy Chúa, thế thôi. Mấy lại chỉ mấy ngày nữa là mình lại đi được mà.

- Tại sao lúc đó anh không để người ta khênh mình về Paris? Ở đây chắc anh phải buồn dữ dội.

- Đấy là ý định của mình. Nhưng, bạn thân mến ạ, mình phải thú nhận với cậu một chuyện.

- Chuyện gì?

- Chính vì mình buồn dữ dội như cậu nói và lại có trong túi bẩy nhăm đồng vàng mà cậu chia cho, để giải sầu, mình đã cho mời một tay quý tộc đi qua đây và đã đề nghị chơi xúc xắc với hắn, hắn nhận lời và không thể ngờ được cả chỗ bẩy nhăm đồng vàng trong túi mình chuyển hết sang túi hắn không kể con ngựa của mình, hắn cũng dắt mất. Còn cậu, D Artagnan thân mến?

- Anh Porthos thân mến, anh muốn gì nữa, người ta không thể cái gì cũng gặp may được - D Artagnan nói - Anh hẳn biết câu châm ngôn: "Đen bạc, đỏ tình". Anh quá may trong tình trường không tránh được canh bạc nó trả thù, nhưng cần cóc gì cái vận rủi! Chẳng phải một tay bợm gái may mắn như anh không có một nữ Công tước không thể quên được việc đến giúp anh sao?

Porthos trả lời, vẻ thoải mái nhất đời:

- Ấy đấy, D Artagnan thân mến ạ, chẳng qua mình gặp vận đen nên mới phải viết thư bảo gửi cho mình khoảng năm mươi đồng vàng mình tuyệt đối cần trong tình cảnh hiện thời.

- Rồi sao?

Rồi thì, chắc mụ ta tịch rồi hay sao không thấy trả lời.

- Thật thế ư?

- Không, vì thế, hôm qua mình lại tống cho một thư nữa thúc ép hơn thư trước. Nhưng còn cậu, bạn rất thân của mình, nói về cậu đi nào. Mình xin thú thực với cậu mình bắt đầu thấy lo lo cho cậu rồi đấy.

- Nhưng mà chủ quán có vẻ đối xử tốt với anh ghê nhỉ, anh Porthos? - D Artagnan vừa nói vừa chỉ cho người ốm, những chảo đầy và những vỏ chai rỗng.

- Cũng được được? - Porthos trả lời - Cách đây ba bốn ngày cái tên xấc xược đó đưa bảng thanh toán cho mình, thế là mình tống hết ra khỏi cửa, cả tên chủ lẫn bảng thanh toán, thành thử mình ở đây với tư cách người chiến thắng, kẻ chinh phục. Vì vậy, cậu thấy đấy, mình phải vũ trang đến tận răng, vì luôn sợ bị buộc phải rời khỏi cương vị chiến thắng ấy.

- Tuy nhiên - D Artagnan vừa nói vừa cười, chỉ mấy cái chảo và những vỏ chai - Thỉnh thoảng hình như anh vẫn xuất ngoại đấy chứ.

- Khốn nạn thay, không phải mình! - Porthos nói - cái trò trẹo xương khốn nạn đó giữ chặt mình ở giường, nhưng Mousqueton đi lang thang khắp nơi và mang thực phẩm về.

- Mousqueton, anh bạn của ta - Porthos tiếp - Mi xem, chúng ta có viện trợ rồi, phải bổ sung thức nhắm thôi.

- Mousqueton - D Artagnan nói - Ta cần anh gíúp một việc.

- Việc gì thưa ông.

- Là truyền cho Planchet cái bảo bối của anh. Đến lượt ta, cũng có thể bị bao vây lắm chứ, lúc đó ta ắt sẽ không bực mình vì hắn cũng làm cho ta được hưởng từng này lợi ích giống như anh bạn thưởng cho chủ anh ấy.

- Ôi, trời ơi, thưa ông - Mousqueton nói vẻ khiêm tốn - không gì dễ hơn. Chỉ cần khéo léo một chút, thế thôi. Tôi lớn lên ở thôn quê, và cha tôi, những lúc nhàn rỗi, đôi khi cũng săn bắn trái phép.

- Thời gian còn lại ông ấy làm nghề gì?

- Thưa ông, cha tôi thực hành một công nghệ mà tôi thấy cũng tươm lắm.

- Nghề gì?

- Vì đó là thời chiến tranh giữa người Cơ đốc giáo và giáo phái Canvanh, và ông thấy những người Cơ đốc giáo tàn sát những người phái Canvanh, và những người phái Canvanh lại tàn sát người Cơ đốc giáo, bên nào cũng nhân danh tôn giáo, ông cụ liền tự cho phép mình tín ngưỡng cả hai, lúc thì Cơ đốc giáo, lúc lại Canvanh. Ông cụ thường súng khoác vai, lang thang sau nước rào giậu bờ đường và khi thấy một người Cơ đốc đi một mình liền nổi máu Tin lành ngay tức khắc. Ông hạ súng hướng về phía lữ khách, rồi khi chỉ còn cách mươi bước chân, ông vào đề đối thoại và hầu như luôn kết thúc bằng việc người kia bỏ lại túi tiền để thoát lấy mạng mình. Ông đi không nói một lời khi thấy một người Canvanh đang tới, ông lại nổi máu Cơ đốc rất dữ dội đến nỗi chẳng hiểu tại sao mới mười lăm phút trước đây ông lại có thể có những nghi ngờ về sự siêu đẳng của tôn giáo thần thánh chúng ta. Bởi vì tôi, thưa ông, tôi theo Cơ đốc giáo, cha tôi, trung thành với những nguyên tắc của ông, bắt anh cả tôi là dân Canvanh.

- Cuối cùng con người đáng kính ấy thế nào? - D Artagnan hỏi.

- Ôi, thưa ông, một cách khốn nạn nhất. Một hôm ông cụ bị túm trên một con đường trống vắng giữa một người Canvanh và một người Cơ đốc giáo đã từng mắc chuyện với ông cụ, cả hai đều nhận ra ông, thế là họ họp lại với nhau chống lại và treo cổ ông cụ lên một cái cây, rồi họ lại đến huyênh hoang về cái việc quá ư liều lĩnh họ đã làm, trong một tửu quán ở ngôi làng chợt đến mà anh tôi và tôi cũng đang uống ở đó.

- Rồi các anh làm gì? - D Artagnan hỏi.

- Chúng tôi để mặc cho chúng nói - Mousqueton tiếp - Thế rồi, ra khỏi cái quán đó, mỗi tên đi về một phía trái ngược nhau, anh tôi đi phục ở con đường gã Cơ đốc đi, và tôi phía gã Tin lành. Hai giờ sau, thế là xong, chúng tôi ai nấy tính sổ xong với chúng, và hết sức khâm phục tính lo xa của ông bố đáng thương của chúng tôi đã đề phòng nuôi dạy chúng tôi mỗi người một tôn giáo khác nhau.

- Quả thật, như anh nói ấy, Mousqueton, bố anh hình như từng là một người rất thông mình. Và anh nói, lúc nhàn rỗi, con người tử tế ấy lại là tay săn bắn trộm?

- Vâng, thưa ông, chính ông cụ đã dạy tôi cách buộc bẫy chim muông và đặt dây câu ngầm. Kết quả là khi thấy lão chủ quán ty tiện nuôi chúng tôi bằng đống thịt bạc nhạc chỉ hợp với bọn quê mùa và không thích hợp chút nào với hai cái dạ dày yếu ớt như của chúng tôi, tôi đành xoay xở đôi chút với cái nghề cũ của mình. Lang thang trong khu rừng nhỏ của vị Hoàng thân, tôi giăng bẫy trên các lối đi, ngủ bên bờ nước của Điện hạ, tôi luồn dây câu xuống dưới ao hồ. Thành thử nhờ trời, giờ đây chúng tôi chẳng thiếu những gà gô, thỏ, cá chép, lươn, tất cả các loại thức ăn lành và dễ tiêu, thích hợp với người bệnh, ông có thể coi xem có đúng không.

- Nhưng còn rượu vang - D Artagnan nói - ai cung cấp rượu vang? - chủ quán chứ?

- Nghĩa là đúng và không.

- Đúng và không là thế nào?

- Đúng là ông ta cung cấp, nhưng ông ta không biết mình có cái vinh dự ấy.

- Giải thích xem nào, Mousqueton, câu chuyện của anh đầy những điều bổ ích đấy.

- Thế này, thưa ông. Tình cờ xui khiến tôi gặp được một người Tây Ban Nha, trong những cuộc đi chơi xa, anh ta từng thăm nhiều nước trong đó có cả Tân thế giới.

- Tân thế giới thì có liên quan gì đến những chai vang trên bàn giấy và trên cái tủ ngăn kia?

- Bình tĩnh nào, thưa ông, đâu sẽ có đấy mà.

- Đúng vậy, Mousqueton. Ta tin và vẫn nghe anh đây.

- Người Tây Ban Nha ấy có một người hầu đi theo sang Mêhicô. Người hầu ấy lại là đồng hương của tôi, thành thử chúng tôi liên kết với nhau rất nhanh vì giữa chúng tôi còn rất hợp nhau về tính cách nữa. Cả hai chúng tôi đều yêu săn bắn trên hết mọi thứ, thành thử hắn kể cho tôi nghe những thổ dân đã săn hổ và bò tót trong những đồng cỏ ở Nam Kỳ với những thòng lọng quăng vào cổ những con vật kinh khủng ấy như thế nào. Lúc đầu, tôi không muốn tin người ta lại có thể đạt tới trình độ khéo léo, cách xa hai ba mươi bước quăng đầu thòng lọng đúng nơi mình nhằm. Bạn tôi đặt một cái chai cách ba mươi bước và lần nào cậu ấy quăng cũng giật được chai trong thòng lòng. Trước bằng chứng ấy, phải nhận câu chuyện là có thật thôi. Tôi cũng lao vào luyện tập, và vì trời phú cho chút ít nàng khiếu, bây giờ tôi quăng thòng lọng giỏi ngang với bất kỳ ai. Thế là, ông có hiểu không? Chủ quán có một hầm chứa đầy rượu và lão ta không bao giờ rời chìa khóa. Có điều hầm rượu có lỗ thông hơi. Thế là, qua lỗ thông hơi đó tôi quăng thòng lọng và giờ đây thì tôi đã biết được góc nào lấy tốt rồi, và cứ nơi ấy tôi kéo. Đó, thưa ông. Tân thế giới có liên quan đến những chai vang trên bàn giấy và tủ ngăn như thế đấy. Bây giờ ông hẳn muốn nếm thử rượu vang của chúng tôi và đừng có thành kiến, ông cho biết uống thấy thế nào.

- Cám ơn, anh bạn của ta, cám ơn, nhưng thật không may ta vừa ăn điểm tâm xong.

- Dào ôi! - Porthos nói - Bày bàn đi, Mousqueton và trong khi chúng ta ăn điểm tâm, D Artagnan sẽ kể cho chúng ta nghe mười ngày xa chúng ta, cậu ấy ra sao.

- Xin sẵn sàng - D Artagnan nói.

Trong khi Porthos và Mousqueton ăn điểm tâm với vẻ ngon lành của người ốm ăn giả bữa, và của tinh thần huynh đệ của những con người xích lại gần nhau trong cơn hoạn nạn, D Artagnan kể Aramis bị thương và buộc phải nằm ở lại Vỡ Tim thế nào, rồi D Artagnan phải bỏ Athos lại ở Amiêng mặc Athos chống chọi giữa bốn tên buộc tội chàng là tên làm bạc giả ra sao, và chính D Artagnan đã buộc phải đâm xuyên qua bụng Bá tước De Wardes để sang được nước Anh thế nào.

Nhưng đến đây, việc tâm sự của D Artagnan dừng lại, chàng chỉ thông báo ở nước Anh về, chàng mang theo bốn con ngựa đẹp lộng lẫy, một con cho chàng, và đồng đội mỗi người một con. Rồi chàng kết thúc bằng việc báo cho Porthos biết con ngựa dành cho Porthos đã được đưa vào chuồng ngựa của lữ quán.

Đúng lúc đó, Planchet vào và báo cho chủ biết rằng lũ ngựa đã được nghỉ ngơi đầy đủ và có thể đến ngủ ở Clécmông.
Vì D Artagnan đã gần yên tâm về Porthos và chàng thấy nóng lòng muốn có tin tức của hai người bạn kia, chàng đưa tay cho người bệnh và báo cho biết chàng sắp lên đường tiếp tục tìm kiếm. Vả lại, vì chàng dự tính sẽ trở về theo con đường này, nếu trong vòng bảy tám ngày nữa, Porthos vẫn còn ở lữ quán lớn Saint-Martin, chàng sẽ ghé qua đón bạn.

Porthos trả lời, cái chỗ xương bị trẹo hoàn toàn có thể không cho phép chàng rời khỏi lữ quán. Vả lại chàng phải ở lại ở Săngtily để đợi nữ Công tước của chàng trả lời.

D Artagnan chúc Porthos mau nhận được sự trả lời và một sự trả lời tốt đẹp. Và sau khi đã nhờ Mousqueton lần nữa trông nom Porthos, trả tiền các khoản cho chủ quán, chàng lại cùng Planchet lên đường, giảm bớt được một con ngựa dắt theo.

Chú thích:
(1) Nguyên văn: Procureuse: bà biện lý. cũng có nghĩa trùm nhà thổ tú bà nữa. Tác giả có ý chơi chữ ở đây với anh chàng Porthos bạt tử chăng?
(2)Nguyên văn: bất chấp thói Rodomontades của ông ấy - Rút từ tính cách huênh hoang khoác lác của vua Rodomont nước Algérie, một nhân vật trong Orlando Furioso của Tasso.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

35#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 11:36:04 | Chỉ xem của tác giả
Chương 26

Luận văn của Aramis


D Artagnan không nói gì với Porthos về vết thương, cũng chẳng nói đến bà biện lý. Chàng Bearn dù còn rất trẻ nhưng lại rất khôn ngoan, để giả bộ tin hết mọi điều mà anh chàng ngự lâm quân hão huyền kể cho mình, vì tin chắc không có tình bạn nào trụ vững trước một bí mật bị lật tẩy, nhất là bí mật ấy lại quan thiết đến lòng kiêu hãnh, rồi thêm nữa người ta thường luôn nhìn xuống đối với những người mình biết rõ đời tư. Mà trong những dự định mưu toan sắp tới, D Artagnan đã quyết định sẽ biến ba người đồng đội thành công cụ cho hạnh vận của mình, và vui vẻ túm trước lấy những sợi dây vô hình mà nhờ chúng chàng tính chuyện điều khiển họ.

Tuy nhiên, suốt dọc đường, một nỗi buồn sâu sắc xiết lấy trái tim chàng, chàng nghĩ tới bà Bonacieux trẻ và xinh đẹp thật xứng đáng với lòng tận tụy của chàng. Nhưng phải nói ngay rằng nỗi buồn đó xuất phát từ niềm tiếc nuối hạnh phúc đã mất ở chàng ít hơn là nỗi sợ hãi chàng cảm thấy tai họa giáng xuống người phụ nữ đáng thương. Với chàng, không còn nghi ngờ gì nữa nàng là nạn nhân của sự báo thù của Giáo chủ và như đã biết, sự báo thù của Đức ông thì thật là khủng khiếp. Làm sao chàng có thể tin được sự tha thứ trước mắt ngài Thủ tướng, đó là điều chính bản thân chàng cũng không biết được, họa chăng chỉ có ông De Cavoa mới có thể tiết lộ cho chàng nếu viên đại úy cận vệ đó tìm thấy chàng ở nhà.

Không có gì khiến thời gian trôi mau, và rút ngắn bớt con đường bằng một ý nghĩ hút hết mọi khả năng suy nghĩ của người ta. Sự tồn tại bề ngoài lúc đó giống như một giấc ngủ mà ý nghĩ đó như là một cơn mơ. Do ảnh hưởng của nó, thời gian không đo được nữa, không gian không còn khoảng cách. Người ta đi từ một nơi và đến ở một nơi, có thế thôi. Từ chặng đường đi qua, chẳng còn gì hiện rõ trong ký ức ta ngoài một lớp sương mù mờ ảo, trong sương, hàng nghìn hình ảnh mơ hồ của cỏ cây, sông núi, cảnh vật tự xóa đi. Bị đàm chìm trong cái ảo giác đó mà D Artagnan cứ mặc cho ngựa chạy, chả mấy chốc đã vượt qua bẩy tám dặm đường từ Săngtily đến Vỡ Tim, và khi đến làng này chàng chẳng còn nhớ được điều gì mình đã gặp trên dọc đường.

Chỉ đến đây, trí nhớ mới trở lại, chàng làc đầu nhận ra cái quán mà chàng đã để lại Aramis, và thúc ngựa đi nước kiệu tới dừng ở trước cửa.

Lần này không phải ông chủ mà là bà chủ quán ra đón chàng. D Artagnan biết xem tướng nên chỉ nhìn qua bộ mặt đầy đặn tươi tỉnh của nữ chủ nhân, chàng đã hiểu không cần phải giấu giếm bà ta, và chả có gì đáng sợ đối với bộ mặt vui tươi đến thế.

- Bà chủ phúc hậu ơi - D Artagnan hỏi - bà có thể nói cho tôi biết một người bạn mà tôi buộc phải bỏ lại ở đây, cách đây khoảng mười hai ngày ra sao rồi không?

- Một người đàn ông trẻ đẹp, chừng hăm ba, hăm bốn tuổi, hiền lành, dễ mến, chững chạc?

- Đúng thế.

- Còn thêm bị thương ở vai?

- Đúng vậy.

- Ồ, thưa ông, ông ấy vẫn ở đây.

D Artagnan nhảy ngay xuống, ném dây cương vào tay Planchet nói:

- Chết thật! Bà chủ thân mến, bà cứu sống tôi rồi. Anh ấy ở đâu, anh Aramis yêu quý của tôi ấy, để tôi ôm hôn anh ấy, bởi vì tôi thú thực với bà, tôi phát sốt vì muốn gặp anh ấy đây.

- Nhưng tôi xin lỗi, thưa ông, tôi không tin ông ấy có thể gặp ông lúc này.

- Tại sao thế? Ông ấy đang ở với một người đàn bà ư?

- Jêsuma! Ông nói gì vậy, chàng trai tội nghiệp! Không, thưa ông, ông ấy không ở với một phụ nữ.

- Vậy thì với ai?

- Với ông mục sư Môđiđiê và ông giáo trưởng dòng Tên của Amiêng.

- Lạy Chúa? D Artagnan kêu lên - Bệnh tình anh ấy nậng hơn ư?

- Không đâu, trái lại ông ạ, nhưng sau trận ốm, được Chúa ban phúc, ông ấy đã quyết định thụ giới.

- Đúng thế - D Artagnan nói - tôi quên kuấy anh ấy chỉ là ngự lâm quân tạm thời.

- Vâng, ông vẫn muốn gặp ông ấy ư?

- Hơn bao giờ hết.

- Được thôi! ông cứ việc theo cầu thang bên phải ở ngoài sân, lên tầng hai, phòng số 5.

D Artagnan lao theo hướng đã chỉ, tìm thấy một chiếc cầu thang ngoài mà ngày nay ta còn thấy ngoài sân những quán trọ cổ lỗ. Nhưng không thể đi như thế đến chỗ ông tu viện trưởng tương lai, những lối đi ngoắt ngoéo đến phòng Aramis được canh giữ không hơn không kém những khu vườn của Aramis(1).

Bazin đóng chốt ở hành lang ngăn không cho chàng đi qua, càng táo tợn hơn sau những năm thử thách cuối cùng Bazin thấy mình sắp đi đến cái kết quả vẫn hằng hy vọng.

Thật vậy, mơ ước của Bazin tội nghiệp vẫn luôn là được phục vụ một nhà tu hành, và gã vẫn sốt ruột đợi chờ cái khoảnh khắc không ngừng hé mở trong tương lai Aramis, cuối cùng vứt bỏ chiếc áo đồng phục ra bụi rậm thay bằng chiếc áo thày tu. Lời hứa ông chủ trẻ tuổi hằng ngày nhắc lại rằng cái khoảnh khắc đó cũng không lâu nữa đâu là điều duy nhất đã giữ gã lại phục vụ một ngự lâm quân, thứ công việc theo như gã bảo nhỡ ra có thể làm gã mất linh hồn.

Vì vậy Bazin tràn trề vui sướng. Lần này, hoàn toàn có khả năng chủ gã không sai lời. Sự kết nối đau đớn thể xác với đau đớn tinh thần đã tạo ra hiệu quả vẫn hằng khao khát từ lâu Aramis vừa đau đớn thể xác lẫn tinh thần, cuối cùng đã dừng đôi mắt và ý nghĩ của mình lại ở nơi tôn giáo và chàng coi cái tai họa kép đã xảy đến với chàng, nghĩa là sự biến mất đột ngột của người lính và vết thương trên vai, như một sự cảnh tỉnh của trời cao.

Có thể hiểu được, trong tình thế hiện nay, không gì khó chịu cho Bazin bằng việc D Artagnan đã đến và lại có thể ném chủ gã vào trong xoáy lốc của những ý tưởng phàm thế đã từng lôi cuốn chủ gã quá lâu rồi. Vì vậy gã quyết định bảo vệ can trường chiếc cửa, và vì đã bị bà chủ quán phản bội rồi, gã không thể nói rằng Aramis đi vắng, gã cố tỏ ra cho kẻ mới đến biết thật là vô cùng bất nhã định đến quấy rầy chủ gã đang trong một cuộc hội thảo thành kính bắt đầu từ buổi sáng và theo Bazin nói không thể kết thúc trước buổi tối.

Nhưng D Artagnan chẳng buồn chú ý đến bài diễn văn hùng biện của thầy Bazin, và cũng chẳng hơi đâu đi lý sự với người hầu của bạn mình, chàng chỉ đơn giản lấy tay gạt gã ra và tay kia vận núm cửa phòng số 5.

Cửa mở, và D Artagnan vào trong phòng.

Aramis mặc áo ngoài đen, đầu đội một loại mũ tròn và bẹt khá giống loại mũ chỏm đầu, đang ngồi trước một cái bàn hình bầu dục phủ đầy những cuộn giấy và những cuốn sách khổ đôi khổng lồ, bên phải là ông giáo trưởng dòng Tên, và bên trái là ông mục sư Môngđiđiê. Những tấm rèm cửa chỉ vén ra một nửa để lọt vào một thứ ánh sáng huyền bí thích hợp với sự mơ màng mộ đạo. Mọi vật dụng thời lưu có thể đập vào mắt khi bưôc vào phòng chàng trai trẻ và nhất là chàng trai lại là ngự lâm quân đều biến mất như có phép mầu, và chắc sợ nhìn thấy những thứ ấy chủ mình lại hướng đến những ý nghĩ của thế giới trần tục, Bazin đã dọn sạch gươm súng, mũ cài lông, các đồ thêu, ren các kiểu các loại.

Nhưng thay vì thấy những thứ đó, D Artagnan tưởng như nhìn thấy ở một góc tối một thứ gì đó giống như chiếc roi hành xác treo trên một cái đinh ở trên tường.

Nghe tiếng D Artagnan mở cửa Aramis ngẩng đầu lên và nhận ra bạn mình. Nhưng điều làm D Artagnan hết sức ngạc nhiên là việc chàng xuất hiện hình như chẳng tạo nên một ấn tượng lớn nào đối với chàng lính ngự lâm này, chừng như đầu óc anh ta đã tách rời khỏi mọi vật nơi trần thế.

- Xin chào D Artagnan thân mến - Aramis nói - xin anh tin là tôi vui sướng được gặp anh.

- Tôi cũng vậy - D Artagnan nói - cho dù tôi còn chưa tin có phải tôi đang nói với anh Aramis không.

- Với hắn ta đấy, bạn ạ, với chính hắn đấy! Nhưng ai có thể làm cho anh nghi ngờ?…

- Tôi đã sợ là tôi nhầm phòng và lúc đầu tôi cứ tưởng là tôi vào phòng của một vị tu hành nào đó, rồi tôi lại mắc thêm một cái nhầm nữa khi thấy anh đang cùng với các vị đây.

Hai người mặc đồ đen kia hiểu rõ ý đồ của D Artagnan, liếc nhìn chàng có vẻ như hăm dọa, nhưng chàng không hề tỏ ra sợ.

- Có thể tôi làm phiền anh, anh Aramis - D Artagnan tiếp tục - Bởi vì theo những gì tôi thấy, tôi đành phải tin rằng anh đang xưng tội với các vị đây.

Aramis thoáng đỏ mặt:

- Anh mà làm phiền tôi ư? Ồ, hoàn toàn trái lại, bạn thân mến ạ, tôi xin thề với anh đấy, và coi như bằng chứng điều tôi vừa nói là anh hãy cho phép tôi được vui mừng thấy anh được bình an vô sự.

"A, thế mới phải chứ?" D Artagnan nghĩ thầm "chưa đến nỗi nào?".

- Bởi vì ông đây là bạn tôi, vừa mới thoát khỏi một mối nguy khốc liệt - Aramis vừa tiếp tục nói giọng cảm động vừa trỏ D Artagnan giới thiệu với hai vị giáo chức kia.

- Xin ông hãy tạ ơn Chúa đi? - Hai người đồng thanh đáp và nghiêng mình.

D Artagnan về phần mình cũng nghiêng mình đáp lễ.

- Thưa các vị đáng kính, tôi đã không quên đâu.

- D Artagnan thân mến - Aramis nói - Anh đến thật đúng lúc, anh tham gia vào cuộc tranh luận đi, góp ý kiến làm sáng tỏ vấn đề. Ngài giáo trưởng xứ Amiêng, ngài mục sư Môngđiđiê và tôi, chúng tôi đang tranh luận một số vấn đề thần học mà chúng tôi đã quan tâm từ lâu, tôi sẽ rất vui được biết ý kiến của anh.

D Artagnan bắt đầu lo ngại trước sự đổi hướng của mọi chuyện, chàng trả lời:

- Ý kiến của một kẻ võ biền thì còn đâu ra trọng lượng, xin hãy tin tôi, anh có thể yên tâm về trình độ khoa học của các vị đây.
Hai người mặc áo đen lại đáp lễ.

- Trái lại - Aramis lại tiếp - ý kiến của anh sẽ rất quý với chúng tôi. Vấn đề là thế này, ông giáo trưởng tin rằng bản luận văn nhất thiết phải có tính giáo lý và giáo huấn.

- Bản luận văn! Vậy ra anh làm một luận văn?

- Hẳn rồi, - vị giáo sĩ dòng Tên trả lời - với kỳ sát hạch trước khi thụ phong, bản luận văn là nhất thiết phải có.

- Thụ phong? - D Artagnan kêu lên, chàng không thể tin nổi vào cái điều mà bà chủ quán và Bazin kế tiếp nhau nói với chàng –  Lễ thụ phong.

Và chàng đưa mắt hoang mang nhìn ba nhân vật đang ngồi trước mặt chàng. Còn Aramis thì chễm chệ trên chiếc ghế bành ở tư thế duyên dáng như thể vẫn trong phố hẻm, ngắm nghía thỏa thích bàn tay trắng trẻo và mũm mĩm như bàn tay đàn bà của chàng rồi giơ tay lên cho khỏi bị dồn máu và nói:

- D Artagnan này, như anh đã nghe thấy đấy, ông giáo trưởng muốn bản luận văn của tôi có tính giáo lý, trong khi tôi lại muốn nó duy lý. Chính vì vậy mà tại sao ông giáo trưởng lại đề nghị với tôi cái chủ đề còn chưa hề được lý giải trong đó tôi nhận thấy có vấn đề cho những sự phát triển rực rỡ: Utraque manus in benedicendo clerieis inferioribus necessaria est.

D Artagnan mà chúng ta đã biết rõ sự uyên bác của chàng đến đâu, chả buồn chau mày trước câu trích dẫn này hơn câu ông Treville đã trích dẫn về các món quà mà ông cho là chàng đã nhận của ông De Buckingham.

Để D Artagnan hoàn toàn dễ hiểu, Aramis lại tiếp:

- Câu ấy có nghĩa: Hai bàn tay rất cần thiết cho các tu sĩ cấp thấp, khi họ ban phúc lành.

- Đề tài tuyệt vời! - vị tu sĩ dòng Tên kêu lên.

- Tuyệt vời và giáo lý nữa! - Ông mục sư nhắc lại, tiếng Latinh của ông ta chắc cũng đại khái như D Artagnan, cho nên ông theo dõi chăm chú ông giáo sĩ dòng Tên để bắt chước và lặp lại những lời ông này nói như một loại tiếng vọng mà thôi.
- Còn D Artagnan chàng hoàn toàn thờ ơ trước nhiệt tình của hai ông áo đen.

- Vâng tuyệt vời! Prorsù admirabile!(2) - Aramis tiếp tục - nhưng đòi hỏi một sự nghiên cứu uyên thâm của cha và Kinh thánh. Tôi đã thú nhận với các vị giáo sĩ thông thái này với tất cả sự kém cỏi của tôi rằng những đêm tuần canh của bộ đội vệ binh và việc phục vụ nhà Vua khiến tôi lơ là việc nghiên cứu: Vì vậy tôi thấy thoải mái hơn facilius natans(3) trong một đề tài do tôi lựa chọn, và sẽ là những vấn đề thần học hóc búa, giống như vấn đề đạo lý đối với siêu hình học trong triết học ấy.
D Artagnan chỉ thấy vô cùng chán ngán và ông mục sư cũng vậy.

- Đã thấy nhập đề tuyệt chưa! - Ông dòng Tên kêu lên.

- Exordium(4) ông mục sư lặp lại cho ra vẻ.

- Quem ad… modum inter coelorum imnrensitatem(5).

Aramis liếc nhìn D Artagnan và thấy bạn mình đang ngáp đến sái quai hàm, liền nói với ông giáo trưởng dòng Tên:

- Thưa cha, ta nói tiếng Pháp thôi, ông D Artagnan sẽ thưởng thức những ý kiến của chúng ta nhiệt tình hơn.

- Vâng tôi mệt mỏi khi đi đường - D Artagnan nói - và mọi thứ tiếng Latinh ấy tuột đi hết.

- Đồng ý - Ông dòng Tên hơi khó chịu nói, trong khi đó ông mục sư thấy dễ chịu hẳn lên, quay lại nhìn D Artagnan với đầy lòng biết ơn. - Đồng ý để xem cách giải thích ấy đi đến điều gì.

- Môixe(6) kể tôi đòi của Chúa… Ông ta chỉ là kẻ tôi đòi, các vị hiểu chứ? Môixe ban phúc bằng hai bàn tay, để mặc mọi người đỡ hai tay, trong khi người Hêbrơ đánh đuổi quân thù, vậy là ông ban phước bằng hai bàn tay. Vả lại kinh Phúc âm nói thế này, Imponite manus chứ không manum: Đánh lên hai bàn tay chứ không phải bàn tay.

- Với thánh Pie, mà kế vị ngài là các giáo hoàng, thì trái lại - ông giáo sĩ dòng Tên tiếp - Porrige digitas. Hãy chìa các ngón tay ra, bây giờ các vị đã hiểu chưa?

Aramis rất thoải mái trả lời:

- Nhất định thế rồi, nhưng vấn đề rất tinh tế.

- Những ngón tay! - Ông giáo sĩ tiếp - Thánh Pie ban phúc bằng những ngón tay. Vì vậy giáo hoàng cũng ban phúc bằng những ngón tay. Và ngài ban phúc bằng bao nhiêu ngón tay?

- Với ba ngón, một vị Cha, một vị con, một vị Thánh thần.

Mọi người đều làm dấu. D Artagnan cho là phải bắt chước theo.

Giáo hoàng là người kế vị Thánh Pie và đại diện cho ba quyền lực của cõi thiêng, còn lại ordines inferiores (những chức danh cấp thấp - ND) của đẳng cấp giáo chức, ban phúc nhân danh các thánh đại thiên sứ và thiên sứ. Những giáo chức tầm thường nhất, như các trợ tế, các người coi đồ thánh thì ban phúc bằng những vòi phun giả vờ như vô tận những ngón tay ban phúc. Thế là đề tài đã được đơn giản hóa Argumentum ommi denu datum ornamento(7)- Ông giáo sĩ dòng Tên tiếp - Tôi sẽ triển khai thành hai tập khổ như tập này.

Và trong lúc đang hứng khởi ông ta đấm tay lên cuốn Thánh Crixếtxtôn khổ to, làm võng cả mặt bàn dưới sức nặng của nó.
D Artagnan rùng người.

- Đúng vậy rồi, Aramis nói - Tôi xin trả lại sự đúng đắn cho những vẻ đẹp của luận thuyết đó, nhưng đồng thời tôi cũng nhận ra nó nặng nề đối với tôi. D Artagnan thân mến, tôi đã chọn cái tên bài này, anh cho biết liệu anh có thích không: Non inutile est desiderium in oblatone hoặc thế này thì hay hơn. Còn hơi luyến tiếc thì không hợp với lễ vật dâng lên Chúa.

- Dừng lại đi? - Giáo sĩ dòng Tên to tiếng - bởi cái luận đề ấy sa vào tà giáo. Có một đề thuyết gần giống như vậy trong cuốn Ôgúttinutx của tên dị giáo Jăngxêniuytx, mà sớm muộn gì cuốn sách đó cũng bị đốt bởi bàn tay đao phủ. Coi chừng, ông bạn trẻ, ông đang ngả về những tà thuyết đấy, ông có nguy cơ đấy!

- Ông có cơ nguy đấy! - Ông mục sư vừa nói vừa lắc đầu đau đớn. Ông đang đến sát cái quan điểm trứ danh của tự do ý chí nó là một mỏm đá ngầm đó. Ông đang đến gần kề những lối bóng gió của bọn Pêlagiêng và nửa Pêlagiêng(8).

- Nhưng thưa đức cha… - Aramis nói sau loạt lý sự đổ lên đầu mình như mưa đá.

Vị thầy tu dòng Tên không để chàng kịp nói tiếp:

- Làm sao ông có thể chứng minh được người ta lại luyến tiếc trần gian khi hiến thân dâng Chúa? Hãy nghe cái quan điểm hai mặt này: Chúa là chúa và trần gian là quỷ dữ, luyến tiếc trần gian là luyến tiếc quỷ dữ; đó là kết luận của tôi.

- Cũng là của tôi nữa - Ông mục sư nói.

- Nhưng làm ơn… - Aramis nói tiếp.

- Desideras diabolum(9) hơi con người bất hạnh! - Giáo sĩ dòng Tên kêu lên.

- Ông ta luyến tiếc quỹ dữ! Chà, ông bạn trẻ - Ông mục sư rên rỉ nói - đừng luyến tiếc quỷ dữ làm gì, tôi van ông đấy.
D Artagnan không buồn nghe thứ tiếng nhố nhăng ấy nữa. Chàng cảm thấy như đang trong một ngôi nhà của lũ điên, và chàng cũng sắp phát điên như họ. Có điều chàng buộc phải im miệng, vì chẳng hiểu gì về cái thứ tiếng đang nói trước mặt mình.

- Nhưng các vị hãy nghe tôi đã nào - Aramis nói tiếp với vẻ lễ độ nhưng đã bắt đầu lộ ra đôi chút bực bội. - Tôi không nói là tôi luyến tiếc - Không, tôi không bao giờ đọc lên cái câu không chính giáo ấy…

Giáo sĩ dòng Tên giơ hai tay lên trời, ông mục sư cũng làm theo:

- Không, nhưng ít nhất ông cũng phải công nhận rằng thật chẳng ra gì khi chỉ đem hiến dâng cho Chúa những gì mà mình đã hoàn toàn phát ngán. Tôi nói có đúng không, D Artagnan?

- Ừ, thì đúng! - D Artagnan nói to.

Ông mục sư và ông giáo sĩ bật người lên. Aramis nói:

- Tam đoạn luận là xuất phát điểm của tôi, thế gian không thiếu sức cám dỗ, tôi rời bỏ thế gian, vậy là tôi đã hy sinh. Thánh kinh nói một cách tích cực hơn: Hãy hy sinh cho Chúa.

- Điều đó đúng! - Những người đối lập nói.

- Và rồi - Aramis vừa tiếp tục - vừa bấm vào tai cho đỏ lên và vung vẩy hai tay cho trắng lên - Và rồi tôi đã làm một đoản khúc về vấn đề đó, năm ngoái tôi đã đưa cho ông Voatuya xem và ông ta đã hết lời khen ngợi.

- Một đoản khúc! - ông mục sư lắp lại như cái máy.

- Đọc đi! Đọc đi! D Artagnan nói to - May ra nó thay đổi không khí một chút.

- Không thay đổi gì đâu, bởi nó vẫn là tôn giáo - Aramis trả lời - Đó là thần học viết thành thơ.

- Chết cha người ta! - D Artagnan nói.

- Nó đây - Aramis nói với vẻ hơi khiêm tốn không ngoại trừ đượm màu đạo đức giả.

Anh khóc thương quá khứ đầy mê hoặc
Và gánh chịu những người bất hạnh kia
Mọi nỗi đau rồi cũng sẽ xa lìa
Khi dâng hiến lệ mình riêng cho Thượng đế
Ôi anh đang khóc thương như thế.

Chú thích:
(1) Rút từ "Jêrudalem giải phóng" anh hùng ca của nhà thơ Ý Torquato Tasso (1544-1595). Một nhân vật có sắc đẹp quyến rũ nhất của Jêrudalem đã giữ chân người anh hùng Rinaldo lạỉ trong khu vườn được phù phép. Thường dùng vườn Aramis để chỉ việc dùng sắc đẹp quyến rũ và làm điên đảo các tu mi nam tử.
(2) Tiếng Latinh có nghĩa: hoàn toàn tuyệt vời.
(3) Bơi dễ dàng hơn.
(4) Nhập đề, vào đề
(5) Đúng như sự bao la của thượng giới.
(6) Môixe, theo Cựu ước. một chiến binh một chính khách. ngưới giải phóng, nhà đạo đức, nhà lập pháp của dân tộc Hêbrơ, vốn chỉ là một đứa bé do một người đàn bà ở bộ tộc Lévi bỏ rơi trên sông Nile.
(7) Tiếng Latinh có nghĩa: Lời tranh cãi được chuyển hoàn toàn thành lời hoa mỹ hoặc lời giải thích cặn kẽ
(8) Giáo phái xuất xứ thời Brơtông, thế kỷ 5, phủ nhận tác dụng của sự cứu rỗi và tội truyền kiếp.
(9) Tiếng Latinh: Sự thèm muốn quỷ dữ

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

36#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 11:41:53 | Chỉ xem của tác giả
Ba người lính ngự lâm - Chương 26
-----------------------------------------------

D Artagnan và ông mục sư tỏ vẻ khoái lỗ tai lắm. Còn giáo sĩ dòng Tên vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình.

- Ông hãy cẩn thận với các sở thích phàm tục trong văn phong thần học. Thật quả, thánh Augustin đã nói thế nào nhỉ? Severussti Clericsorum sermo.

- Vâng, phải để lời thuyết giáo được rõ ràng. - Ông mục sư nói.

Thấy người phụ tá của mình lạc đề, giáo sĩ dòng Tên vội ngắt lời:

- Những luận đề của ông sẽ làm đẹp lòng các quý bà, có thế thôi. Nó sẽ có được thành tích như một bài biện hộ của thầy cãi - Patru(10).

- Cầu trời, phù hộ! - Aramis tràn trề vui sướng reo lên.

- Ông thấy đấy nhé! - Tu sĩ dòng Tên nói to - Trần tục hãy còn cất cao tiếng nói trong ông. Altisima voce (tiếng Latinh: cao giọng) ông theo thế tục, ông bạn trẻ ạ, và tôi sợ rằng ơn cứu rỗi không có chút hiệu quả nào.

- Xin đức cha tôn kính yên tâm, tôi xin đảm bảo về tôi.

- Một giọng tự phụ phàm tục!

- Thưa cha, tôi hiểu mình chứ, quyết định của tôi là bất di bất dịch.

- Vậy ông vẫn bướng bỉnh theo đuổi luận đề đó?

- Tôi tự cảm thấy mình được kêu gọi xử lý luận đề đó chứ không bất kỳ luận đề nào khác, vậy tôi sẽ tiếp tục, và ngày mai, tôi hy vọng cha sẽ thỏa mãn về những điều tôi sẽ sửa lại theo ý kiến cha.

- Ông cứ làm từ từ thôi - Ông mục sư nói - chúng tôi sẽ để cho ông được chuẩn bị tốt nhất.

Giáo sĩ dòng Tên nói:

- Phải, đất đai đã được gieo hạt khắp rồi và chúng ta không có gì để sợ một phần hạt bị rơi xuống đá, một phần rơi vãi dọc đường và phần còn lại Chúa trời ăn nốt, aves coeli comederumt illam.

D Artagnan nói:

- Cho ôn dịch bóp chết cái tiếng Latinh của ngươi đi!

- Xin chào, con trai, hẹn đến mai - Ông mục sư nói.

- Hẹn đến mai, chàng trai táo tợn - tu sĩ dòng Tên nói - Ông hứa sẽ thành một trong những vầng sáng của nhà thờ, cầu trời cho vầng sáng ấy không thành một vầng lửa ngốn ngấu.

D Artagnan suốt một tiếng đồng hồ gặm móng tay sốt ruột bắt đầu gặm cả vào thịt.

Hai người mặc đồ đen đứng dậy chào Aramis và D Artagnan rồi tiến ra phía cửa. Bazin vẫn đứng đó lắng nghe cuộc cãi lý với vẻ hân hoan sùng kính, liền lao về phía họ đỡ lấy quyển kinh, đi trước để dẫn đường cho họ.

Aramis ra tiễn tới tận chân cầu thang rồi lên ngay với D Artagnan đang mơ màng.

- Còn lại mình họ, hai người bạn thoạt tiên vẫn giữ im lắng lúng túng nhưng rồi cũng phải có một trong hai người phá tan sự im lặng đó, và D Artagnan có vẻ muốn nhường vinh dự đó cho bạn mình:

- Anh thấy đấy, - Aramis nói - Anh thấy tôi trở về với những ý tưởng căn bản của mình.

- Phải, ơn cứu rỗi đã tiếp xúc với anh rồi, như các ông ấy vừa rồi đã nói đó.

- Ồ, kế hoạch rút lui đã hình thành từ lâu, và anh đã từng nghe tôi nói, có phải không, bạn tôi?

- Hẳn vậy, nhưng tôi xin thú thực tôi tưởng anh chỉ đùa thôi.

- Đùa với những loại chuyện như vậy ư? Ôi, anh D Artagnan!

- Mẹ kiếp! Đùa cả với cái chết ấy chứ?

- Và người ta đã nhầm, D Artagnan ạ, bởi cái chết chính là cửa ải, dẫn đến sự ngộ nan hoặc cứu rỗi.

- Đồng ý, nhưng làm ơn đi, đừng nói về thần học với nhau nữa, Aramis, anh chắc còn khối thì giờ để nghĩ đến chuyện đó, còn tôi, tôi xin thú thật, tôi gần như quên hết một tí vốn Latinh mà tôi chẳng bao giờ hiểu cả, tôi cũng xin thú thật với anh, từ mười giờ sáng nay, tôi chưa ăn uống gì cả và tôi đang đói chết cha đây.

- Chúng ta sẽ ăn trưa ngay thôi, bạn thân mến ạ, có điều mong anh nhớ cho, hôm nay thứ sáu, mà trong những ngày này, tôi không thể nhịn cũng không thể ăn thịt được. Nếu anh hài lòng ăn trưa với tôi, thì bữa ăn chỉ có rau tứ giác luộc với trái cây thôi.

- Rau tứ giác là loại gì vậy? - D Artagnan lo lắng hỏi.

- Là rau dền ấy mà - Aramis nói tiếp - nhưng với anh tôi sẽ thêm trứng và đấy là phạm luật nghiêm trọng rồi, vì trứng là thịt, vì trứng nở ra gà con.

- Bữa tiệc này chẳng ngon lành gì, nhưng cóc cần, để ở lại với anh, tôi chịu được hết.

- Tôi rất biết ơn anh về sự hy sinh ấy - Aramis nói - Nhưng nếu như nó không có lợi gì cho thể xác anh, nó sẽ có lợi cho tâm hồn anh, xin anh hãy tin chắc như vậy.

- Như thế, Aramis, tức là anh dứt khoát đi tu rồi. Bạn bè chúng ta sẽ nói sao, ông De Treville sẽ nói ra sao? Họ sẽ coi anh là kẻ đào ngũ tôi xin báo trước cho anh như vậy.

- Tôi không đi tu, tôi trở lại việc tu hành. Chính là vì trần thế mà tôi đã đào ngũ khỏi nhà thờ, bởi anh cũng biết rằng tôi đã tự ép buộc mình khoác áo ngự lâm quan.

- Tôi, tôi chẳng biết cái gì cả?

- Anh không biết tôi đã rời bỏ tu viện.

- Hoàn toàn không.

- Đây là chuyện của tôi. Vả lại Thánh kinh nói: "Các con hãy sám hối với nhau". Vậy tôi xin sám hối với anh, D Artagnan.

- Và tôi tôi xá tội cho anh trước, anh thấy tôi nhân từ chưa.

- Xin đừng đùa với những chuyện của thánh thần, bạn tôi ạ.

- Vậy anh nói đi tôi nghe đây:

"Tôi vào tu viện từ năm chín tuổi. Tới khi ba ngày nữa tôi tròn hai mươi tuổi, tôi sắp thành tu viện trưởng. Một việc đã được ấn định rồi. Một tối, theo thói quen tôi đi đến một ngôi nhà vẫn thích thú lui tới. Khi người ta trẻ, người ta thường yếu đuối, làm thế nào được. Một viên sĩ quan nhìn tôi bằng con mắt ghen tuông khi thấy tôi đang đọc cuốn "Những cuộc đời của Thánh nhân" cho nữ chủ nhân ngôi nhà nghe, liền bất thình lình xộc vào nhà không báo trước. Đúng buổi tối hôm ấy tôi đã dịch một mẩu chuyện của Juyđít và tôi cũng vừa đưa mấy câu thơ cho nữ chủ nhân xem, bà ta hết lời khen ngợi và ngả vào vai tôi để cùng đọc với tôi. Cái tư thế ấy có đôi chút hơi buông thả, tôi phải thú nhận như vậy và đã làm viên sĩ quan tổn thương, gã không nói gì nhưng khi tôi đi ra, hắn cũng ra theo và đuổi kịp tôi.

- Thưa ông tu viện trưởng - hắn nói - Ông có thích ăn đòn không?

- Tôi không thể nói điều ấy được, thưa ông - tôi đáp - vì không ai dám cho tôi bao giờ cả.

- Vậy nghe đây, ông tu viện trưởng, nếu ông còn trở lại ngôi nhà, mà tôi đã gặp ông tối nay, thì tôi dám đấy.

- Tôi tin là tôi cũng sợ, tôi tái hẳn người đi, cảm thấy như chân mình không còn nữa, tôi tìm một câu trả lời mà không được, tôi đành im.

Viên sĩ quan đợi câu trả lời đó và thấy mãi không có, hắn phá lên cười, quay lưng lại phía tôi và trở vào ngôi nhà. Tôi trở về tu viện.

Tôi là nhà quý tộc dòng dõi, và tôi có bầu máu nóng, như anh đã có thể nhận thấy, D Artagnan thân mến, sự lăng mạ thật là khủng khiếp mặc dầu chẳng ai biết chuyện đó, tôi vẫn cảm thấy nó sống động trong đáy tim tôi. Tôi tuyên bố với các bề trên của tôi rằng tôi cảm thấy chưa chuẩn bị đầy đủ cho việc thụ phong và theo yêu cầu của tôi, người ta lui lễ lại một năm.

Rồi tôi xin thày dạy gươm bậc nhất ở Paris, đặt điều kiện với ông mỗi ngày học một bài đấu gươm và cứ như thế tôi học trong vòng một năm. Rồi tới ngày kỷ niệm một năm tôi bị lăng nhục, tôi treo áo thày tu lên, mặc một bộ đồng phục kỵ sỹ, rồi tôi đến một vũ hội do một quý bà, bạn tôi tổ chức và tôi biết con người kia của tôi thế nào cũng có mặt. Vũ hội ở phố Những thị dân tự do cạnh ngay phố Sức mạnh.

Quả nhiên viên sĩ quan của tôi có mặt. Tôi lại gần hắn, lúc hắn đang vừa hát một ca khúc ngắn về tình yêu vừa trìu mến nhìn một phụ nữ và tôi ngắt lời hắn giữa điệp khúc thứ hai. Tôi bảo hắn:

- Thưa ông, ông vẫn không hài lòng khi tôi quay lại ngôi nhà ở phố Payen và ông không còn cho tôi xơi đòn nữa, nếu như tôi nảy ra ý nghĩ kỳ quặc không tuân lời ông đấy chứ?

Viên sĩ quan nhìn tôi ngạc nhiên rồi nói:

- Ông muốn gì tôi thưa ông? Tôi không quen biết ông.

- Tôi là viên tu viện trưởng nhỏ đọc cuốn "Cuộc đời các Thánh nhân" và dịch Juyđít thành thơ ấy mà.

- À, à… Tôi nhớ ra rồi - Viên sĩ quan chớt nhả - Ông muốn gì tôi nào?

- Tôi muốn ông có chút thì giờ nhàn rỗi đi dạo một vòng với tôi.

- Sáng mai, nếu ông muốn, và sẽ không gì làm tôi vui bằng.

- Không sáng mai gì cả, yêu cầu ông ngay lập tức.

- Nếu ông dứt khoát đòi như vậy.

- Phải, tôi đòi thế đấy.

- Vậy, ra thôi; thưa các quý bà - Viên sĩ quan nói - xin cứ tự nhiên. Đủ thì giờ để giết ông đây thôi và tôi sẽ quay lại hoàn tất điệp khúc cuối hầu các quý bà.

Chúng tôi đi ra.

- Tôi dẫn hắn đến phố Payen, đúng địa điểm một năm trước, đúng đến cả giờ hắn đã chúc mừng tôi, mà tôi vừa kể đó. Trăng sáng tuyệt đẹp, chúng tôi cầm gươm và ngay miếng đầu tiên, tôi đâm hắn chết tươi.

- Khiếp nhỉ! - D Artagnan nhận xét.

Aramis tiếp tục:

- Thế rồi, vì các quý bà không thấy ca sĩ của mình trở lại, và người ta tìm thấy xác hắn ở phố Payen với một nhát gươm rất đậm xuyên qua người, người ta nghĩ chính tôi đã dính vào chuyện đó, và sự việc trở thành bê bối. Vì vậy tôi buộc phải cởi bỏ chiếc áo thày tu ít lâu. Athos mà tôi làm quen thời kỳ đó và Porthos là người đã dạy tôi thêm vài ngón gươm giang hồ ngoài những bài đấu gươm tôi đã học, cả hai quyết định tôi xin vào ngự lâm quân. Nhà Vua rất yêu quý cha tôi bị chết trong trận vây Arát nên đã ban chiếc áo ngự lâm quân cho tôi. Bây giờ, anh chắc hiểu đã đến lúc tôi phải trở lại trong sự nâng niu che chở của nhà thờ.

- Và tại sao hôm nay chứ không hôm qua hoặc ngày mai? Hôm nay cái gì đã xảy ra với anh, khiến anh có những ý nghĩ dữ tợn đến như vậy?

- D Artagnan thân mến ạ, vết thương này đã là một lời cảnh cáo của Thượng đế đối với tôi.

- Vết thương ư? Chết tiệt? Nó đã gần khỏi rồi. Tôi tin chắc không phải nó làm anh đau đớn nhất.

- Thế thì cái gì? - Aramis đỏ mặt hỏi.

- Nó ở trong tim anh cơ! Aramis, một vết thương sâu và đẫm máu hơn, một vết thương do một người đàn bà kia.
Mắt Aramis long lanh lên ngoài ý mình, chàng giấu xúc động của mình dưới vẻ giả vờ hững hờ và nói:

- Đùng nói về những chuyện ấy nữa! Tôi mà lại đi nghĩ đến những chuyện ấy ư? Lại có những sầu muộn tình yêu ư? Vanitas Vanitatum!(11) vậy theo ý anh, đầu óc tôi đã bị đảo lộn rồi ư? Và vì ai? Vì con bé lam lũ lẳng lơ nào, hay cô ả hầu phòng nào mà tôi đã tán tỉnh trong trại lính ư? Xì!

- Xin lỗi, Aramis thân mến, nhưng tôi tin anh hướng lên tầm cao hơn kia.

- Cao hơn? Và tôi là ai mà lại đi có tham vọng đến thế? Một gã ngự lâm quân khốn khổ vô cùng quẫn bách, và hết sức tối tăm, căm ghét sự quỵ lụy và cảm thấy quá ư lạc lõng trong thế giới thời lưu.

- Aramis ơi là Aramis ơi! - D Artagnan vừa kêu lên vừa nhìn bạn mình với vẻ nghi ngờ.

- Cát bụi, tôi trở về cát bụi. Cuộc đời là biển nhục, là bể khổ, chàng tiếp tục và sầm mặt lại - Mọi sợi dây gắn kết hạnh phúc với cuộc đời lần lượt bị đứt gãy trong bàn tay con người nhất là những sợi dây bằng vàng - Ôi, D Artagnan thân mến của tôi - Aramis vừa tiếp tục vừa đem đến một vẻ cay đắng nhẹ nhàng cho giọng nói của mình - hãy tin tôi, hãy giấu kín những vết thương, đi nếu anh có. Sự im lặng là niềm vui cuối cùng của những con người bất hạnh, hãy giữ đừng để bất kỳ ai biết được dấu tích của những đau khổ của anh, những kẻ tò mò sẽ bâu vào hút nước mắt anh như lũ ruồi bâu vào hút máu một con hoẵng bị thương vậy.

- Than ôi! Aramis thân mến! - D Artagnan đến lượt mình cũng thở dài nói - Chuyện anh nói cũng chính là chuyện của bản thân tôi đấy!

- Làm sao?

- Phải, một người đàn bà tôi yêu, tôi tôn thờ, vừa bị dùng bạo lực bắt cóc. Tôi không biết hiện giờ nàng ở đâu, người ta dẫn nàng tới đâu, nàng có thể là tù binh, cũng có thể nàng đã chết.

- Nhưng ít ra anh cũng có được niềm an ủi để tự bảo rằng nàng đã không tự nguyện rời bỏ anh, rằng nếu anh không có được chút tin tức nào của nàng, chính vì mọi thông tin với anh đều bị ngăn cấm, trong khi…

- Trong khi…

- Không - Aramis tiếp - không có gì.

- Như vậy, anh mãi mãi từ bỏ trần thế, một quyết định dứt khoát rồi chăng?

- Hoàn toàn mãi mãi. Hôm nay anh là bạn tôi. Ngày mai anh chỉ còn là một cái bóng với tôi mà thôi, hoặc hơn nữa, anh không tồn tại nữa. Còn thế gian, đó chính là một phần mộ chứ không phải cái gì khác.

- Quỷ sứ ơi! Điều anh nói với tôi thật quá thảm sầu!

- Anh còn muốn gì? Thiên hướng của tôi cuốn hút tôi, và bắt tôi đi!

D Artagnan mỉm cười và không trả lời. Aramis tiếp tục:

- Tuy nhiên, chừng nào tôi vẫn còn trên trái đất này, tôi vẫn muốn nghe nói về anh, về các bạn của chúng ta.

- Và tôi - D Artagnan nói - tôi lại muốn nói với anh về chính anh, nhưng tôi thấy anh đã quá tách mình ra khỏi tất cả. Những mối tình, anh không thèm nữa, bạn bè là những cái bóng, thế giới là một phần mộ.

Aramis thở dài:

- Than ôi! Rồi chính anh cũng sẽ thấy như vậy.

- Thôi không nói về những cái ấy nữa - D Artagnan nói - và ta đốt quách bức thư, chắc chắn, chỉ có thông báo cho anh biết một sự phụ bạc mới của một ả lẳng lơ hoặc một cô hầu phòng của anh mà thôi.

- Thư nào? - Aramis vội reo lên hỏi.

- Một bức thư gửi đến cho anh, anh vắng mặt, nên nhờ tôi chuyển cho anh.

- Nhưng bức thư của ai?

- À, của một hầu gái khóc lóc, một ả lam lũ lẳng lơ đang thất vọng nào đó, có thể là cô gái hầu phòng của bà De Chevreuse cũng nên, cô ta buộc phải trở lại thành Tours với nữ chủ nhân của mình, và để làm ra vẻ tao nhã đã dùng giấy thơm và đã niêm phong thư của mình bằng con dấu của nữ Công tước.

- Anh bảo sao cơ?

- Xem nào hay tôi đánh mất rồi! - D Artagnan tinh quái vừa nói vừa giả vờ tìm - May sao thế gian là một phần mộ, những người đàn ông, do đó cả những người đàn bà nữa đều là những cái bóng, và tình yêu là thứ tình cảm mà anh không thèm nữa!

- A, D Artagnan ơi là D Artagnan? - Aramis kêu lên - Cậu làm tớ chết mất thôi?

- A, nó đây rồi! - D Artagnan nói. Và chàng rút bức thư ra khỏi túi.

Aramis chồm đến giật lấy bức thư bóc ra đọc, đúng hơn là ngốn ngấu, mặt bừng sáng lên.

- Hình như ả hầu gái văn phong hay lắm! - Người đưa thư uể oải nói.

- Cám ơn D Artagnan! - Aramis sướng mê lên rối rít - Nàng buộc phải trở lại thành Tours. Nàng không phụ bạc mình. Lại đây, lại đây cho mình ôm hôn bạn. Mình đến ngất vì sung sướng mất!

Và hai người bạn ôm lấy nhau nhảy múa xung quanh cuốn kinh Thánh Critxtôm giẫm đạp một cách can trường lên những trang luận văn lăn lóc trên sàn nhà.

Đúng lúc đó, Bazin bước vào cùng với rau dền và trứng rán.

Aramis ném cái mũ chỏm thầy tu vào mặt gã hét lên:

- Tếch đi, đồ khốn kiếp? Từ đâu đến hãy xéo về đấy! Mang hết những thứ rau hãi hùng và món phụ ghê tởm này đi! Gọi một thỏ rừng nấu chua, một gà thiến béo, một đùi cừu ướp tỏi và bốn chai Buốcgô lâu năm cho ta.

Bazin ngơ ngác nhìn chủ chả hiểu gì về sự thay đổi ấy cả, rầu rĩ mặc cho trứng rớt xuống rau và rau rớt xuống sàn.
D Artagnan thấy vậy nói:

- Giờ đây là lúc cống hiến đời anh cho Đức Vua của các Nhà vua, nếu anh còn định giữ chút lễ nghĩa với người. Non inutile desderium in oblatione.

- Vứt mẹ nó thứ tiếng Latinh của cậu cho quỷ sứ đi!

- D Artagnan thân mến. Chúng ta hãy uống! Mẹ kiếp! Uống tươi uơng sống! Uống thật nhiều vào, và kể cho mình nghe người ta làm gì ở đó đi?

Chú thích:
(10) Olivier Patru - một luật sư nổi tiếng thế kỷ 17.
(11) Tiếng Latinh: Phù phiếm cả mà thôi!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

37#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 17:22:18 | Chỉ xem của tác giả
Chương 27
Người vợ của Athos


Sau khi đã kể cho chàng Aramis lanh lợi biết rõ mọi việc diễn ra ở kinh đô từ khi họ ra đi và một bữa trưa thịnh soạn làm cho người thì quên đi bản luận văn, người thì quên hẳn nỗi mệt nhọc, D Artagnan nói:

- Bây giờ việc còn lại là phải biết tin tức về Athos.

- Cậu tin anh ấy gặp bất hạnh ư? - Aramis hỏi - Anh Athos rất chi lạnh tính, rất can trường và là tay gươm rất giỏi kia mà.

- Hẳn thế rồi, và không ai biết rõ hơn tôi về lòng can đảm và tay gươm tuyệt vời của Athos. Nhưng tôi thích gươm tôi đấu với giáo hơn là với gậy. Tôi sợ rằng anh Athos sẽ bị bọn gia nhân quần cho tơi bời, mà lũ gia nhân thì chúng đánh dữ và dai lắm. Vì vậy mà tôi phải thú thật với anh, tôi muốn lại ra đi ngay càng sớm càng tốt.

- Mình sẽ cố đi cùng với cậu - Aramis nói - cho dù mình cảm thấy chưa đủ sức lên ngựa mấy. Hôm qua, mình đã thử dùng cái roi hành xác treo trên tường đó, và đau quá mình không thể tiếp tục được cái bài tập thành kính ấy.

- Chính thế đấy, bạn thân mến, chả ai bao giờ thấy việc thử chứa một phát đạn hỏa mai bằng vụt roi vào người cả. Nhưng anh còn ốm, và ốm đau làm cho đầu óc không tỉnh táo, tôi bỏ qua cho anh. Mai, sớm tinh mơ. Đêm nay anh cứ ngủ cho thật tốt vào, và ngày mai, nếu anh có thể, chúng ta sẽ cùng đi.

- Vậy để đến mai - Aramis nói - vì dù có xương đồng da sắt đi nữa, cậu cũng cần phải nghỉ ngơi.

Hôm sau, khi D Artagnan bước vào phòng Aramis, đã thấy Aramis ở cửa sổ, D Artagnan hỏi:

- Anh nhìn gì ở đó thế?

- Thú thật! Tôi đang chiêm ngưỡng ba con ngựa đẹp lộng lẫy mà bọn trai coi ngựa đang giữ cương. Cưỡi những con ngựa đó mà đi du hành thì sướng như ông hoàng.

- Thế thì anh Aramis thân mến của tôi ơi, anh hãy sướng đi bởi vì một trong mấy con ngựa đó là của anh.

- Thật không? Thế con nào?

- Con anh thích nhất trong ba con ấy, tôi thì con nào cũng thế thôi.

- Và cả tấm thảm đắt giá phủ lưng ngựa cũng là của tôi?

- Chắc chắn rồi.

- Cậu định giỡn tôi chắc, D Artagnan?

- Từ lúc anh nói tiếng Pháp, tôi không còn giỡn anh nữa.

- Cả những bao súng ngắn mạ vàng, tấm nhung phủ hông ngựa, bộ yên ghim đinh bạc cũng là của tôi?

- Của chính anh, cũng như con ngựa đang dậm chân là của tôi và cái con đang nhảy nhót kia là của Athos.

- Mẹ kiếp! Đúng là ba con ngựa tuyệt luân?

- Tôi rất mừng vì chúng hợp với sở thích của anh.

- Vậy là nhà Vua đã ban tặng cậu món quà đó ư?

- Chắc chắn không phải của Giáo chủ rồi. Nhưng anh đừng bận tâm chúng từ đâu đến, hãy nghĩ một trong ba con thuộc của anh thôi.

- Mình lấy cái con thằng hầu tóc hung đang giữ ấy.

- Cừ lắm!

- Thượng đế muôn năm! - Aramis reo lên - Thế này thì còn đau ở đâu cũng sẽ hết. Ba mươi phát đạn vào người, mình vẫn sẽ phi nó cho mà xem. Ôi, thề trên linh hồn mình đó, những cái bàn đạp mới đẹp tuyệt chứ! Ê, nào, Bazin đâu, đến đây ngay tức khắc đi!

Bazin rầu rĩ và héo úa người đi, hiện ra trước cửa.

- Lau chuốt thanh gươm của ta, nắn lại mũ, chải lại áo khoác và nạp đạn thuốc vào mấy súng ngắn cho ta.

D Artagnan ngắt lời:

- Không cần lời dặn cuối đâu. Đã có sẵn súng ngắn nạp thuốc rồi trong các bao súng.

Bazin thở dài.

- Thôi nào, thầy Bazin, yên tâm đi - D Artagnan nói - - Người ta có thể đến được vương quốc cái thiên thần trong mọi hoàn cảnh mà.

- Ông chủ đã từng là một nhà thần học tài ba! - Bazin nói mà rưng rưng nước mắt - Ông ấy có thể trở thành giám mục hoặc hồng y Giáo chủ ấy chứ.

- Thôi nào! Bazin khốn khổ của ta ơi, đừng nghĩ ngợi làm gì. Là người tu hành thì làm được cái gì, ta xin anh đấy. Mà tu hành thì có tránh ra trận được đâu. Anh thừa biết Giáo chủ ra trận lần đầu với cái mũ bình thiên và ngọn giáo trong tay. Còn ông Nôgarê đờ la Valét, anh nói thế nào? Ông ta cũng là Giáo chủ đấy. Thử hỏi lính hầu của ông ta xem bao nhiêu lần phải băng bó cho ông ta?

- Ôi! Bazin thở dài - tôi cũng biết thế, thưa ông, ngày nay mọi chuyện trong thế giới đều lộn tùng phèo hết.

Trong khi đó, hai chàng trai trẻ và gã người hầu khốn khổ cùng đi xuống. Rồi Aramis nói:

- Giữ bàn đạp cho ra, Bazin.

Rồi Aramis nhẹ nhàng, duyên dáng nhảy tót lên yên ngựa như mọi khi, nhưng chỉ sau mấy lần con ngựa quý nhảy cỡn và chồm lên, chàng kỵ sĩ của nó cảm thấy đau không chịu nổi, tái người đi và lảo đảo. D Artagnan đã tiên liệu tai nạn đó, nên vẫn không rời mắt, liền chạy băng tới, đỡ xuơng và dẫn bạn mình về phòng rồi bảo:

- Tốt rồi, Aramis thân mến, anh cứ chữa trị đi, tôi sẽ đi một mình tìm Athos.

- Cậu đúng là một con người thép - Aramis nói.

- Không, tôi may hơn, có thế thôi. Nhưng trong khi đợi tôi, anh sẽ sống ra sao? Không còn những lời chú giải về số ngón tay ban phúc và những lời ban phúc nữa chứ, hả?

Aramis mỉm cười, nói:

- Mình sẽ làm thơ.

- Phải đấy, những vần thơ thơm nức mùi nước hoa bức thư ngắn của ả hầu bà De Chevreuse. Anh hãy dạy âm vận thơ cho Bazin đi, cái đó sẽ an ủi gã. Còn con ngựa, hàng ngày cưỡi nó một chút để điều khiển nó cho quen đi.

- Ồ về chuyện đó, cậu cứ yên tâm - Aramis nói - Khi trở lại cậu sẽ thấy mình đã sẵn sàng theo cậu rồi.

Họ chào tạm biệt nhau, và sau khi đã ủy thác bạn mình cho Bazin và bà chủ quán, D Artagnan cho ngựa đi nước kiệu về phía Amiêng.

Chàng sẽ tìm Athos thế nào đây và liệu có tìm thấy không? Chàng đã để bạn mình lại trong tình thế hiểm nghèo. Người bạn thở dài khiến chàng buông khẽ những lời thề báo hận.

Trong tất cả số bạn bè, Athos là người nhiều tuổi nhất, và bề ngoài ít gần với sở thích và tình cảm của chàng nhất. Tuy nhiên, chàng lại ưa thích con người quý tộc ấy rõ rệt nhất. Phong thái cao quý và thanh lịch của anh ấy, tầm lớn lao của anh thỉnh thoảng lại lóe sáng từ vùng bóng tối mà anh tự nguyện giấu mình vào, tính tình điềm tĩnh không suy suyển khiến anh là người bạn dễ dãi nhất trên đời, niềm vui bất đắc dĩ và cay đắng, sự can trường có thể gọi là mù quáng nếu không phải là kết quả của sự bình tĩnh hiếm hoi nhất, bấy nhiêu phẩm chất ấy của anh khiến chàng hết lòng ngưỡng mộ và còn hơn cả chỉ là quý trọng và bạn bè thân thiết với anh.

Quả thật, đem so sánh ngay với ông De Treville, một triều thần tao nhã và cao quý, Athos trong những ngày anh vui vẻ, anh còn có phần hơn. Vóc người tầm thước, nhưng thân hình lại quá ư cân đối, và tuyệt đẹp, mà, nhiều lần trong những cuộc đấu sức anh đã quật đổ Porthos, gã khổng lồ mà sức mạnh thể xác đã trở thành huyền thoại trong ngự lâm quân. Khuôn mặt với đôi mắt sắc, mũi thẳng, với chiếc cằm như tượng tạc kiểu cằm của Brutus(1); một tính cách cao thượng và duyên dáng khó xác định; đôi bàn tay không hề chăm chút nhưng vẫn làm cho Aramis phải thất vọng mặc dầu chàng ra sức chăm sóc tay mình bằng kem hạnh nhân và dầu thơm; giọng nói của anh nghe thấm thía lại du dương, và rồi, cái khó xác định trong người Athos, người luôn luôn tỏ ra thấp kém và lu mờ, cái đó chính là cái khoa học về thời lưu và về những lề thói của cái xã hội sáng giá nhất, cái thói quen của một nhà dòng dõi tự lộ ra mà không hề hay biết trong những hành động nhỏ nhặt nhất của mình.
Về mặt ăn uống, Athos đặt ăn giỏi hơn bất kỳ ai, xếp khách ăn đúng chỗ và đúng ngôi thứ mà tổ tiên hoặc chính bản thân họ đã tạo ra cho mình. Về khoa huân huy chương, Athos thông thạo mọi gia tộc quý phái trong vương quốc, phả hệ của họ, sự liên minh giữa các dòng họ, gia huy và nguồn gốc gia huy. Về nghi thức anh biết đến từng chi tiết. Anh biết rõ quyền lợi của các đại điền chủ là thế nào. Anh biết sâu sắc cách săn bắn bằng chó và chim ưng, và một hôm nhân đàm đạo về cái nghệ thuật lớn này, anh làm Vua Louis XIII phải ngạc nhiên, trong khi đó, bản thân nhà Vua thuộc lại bậc thầy.

Cũng như các đại lãnh chúa thời ấy, anh cưỡi ngựa và sử dụng vũ khí thuộc loại thiện nghệ. Thêm nữa việc học hành của anh không một chút xao lãng, ngay cả trong lĩnh vực kinh viện học rất hiếm thấy trong giới quý tộc, anh chỉ mỉm cười khi Aramis phun ra mấy câu Latinh cụt ngủn, còn Porthos thì ra vẻ hiểu. Vài ba lần khi Aramis để lộ ra một sai lầm sơ đẳng nào đó, đặt động từ không đúng thời, một danh từ không đúng cách, Athos đã sửa lại trước sự ngạc nhiên vô cùng của các bạn. Ngoài ra, tính chính trực của anh là không thể lay chuyển được trong cái thế kỷ mà các quân nhân quá dễ dàng coi nhẹ tôn giáo và lương tâm của mình, các tình nhân quá dễ dàng coi nhẹ sự tế nhị nghiêm ngặt của thời đại chúng ta, và những người nghèo coi nhẹ dễ dàng đối với điều răn thứ bẩy của Chúa. Vì vậy, Athos quả là một con người rất phi thường.

Và tuy vậy cái bản tính quá ưu việt, cái sinh linh quá tốt đẹp cái khí chất quá tinh tế ấy quay lại một cách vô cảm với cuộc sống vật chất, cũng như các cụ già quay lại với sự ngây ngô về thể xác và tinh thần. Athos trong những giờ phút thiếu thốn đó, mà những giờ phút đó lại khá thường xuyên đã tự tắt trong cái phần tỏa sáng của mình và cái mặt ngời ngời của anh bị biến mất trong đêm trường sâu thẳm.

Thế là phần bán thần tàn lụi, anh chỉ còn gần như một con người. Đầu gằm xuống, mắt lơ mơ, lời nói nặng nề và khó khăn. Athos nhìn hàng mấy giờ liền hoặc cái chai và chiếc cốc, hoặc Grimaud, kẻ đã quen vâng lời bằng tín hiệu và đọc được trong con mắt vô sắc của chủ mình cả tới những ước muốn tầm thường nhất để thỏa mãn chủ ngay tức khắc. Giá như bốn người bạn tụ hội vào nước lúc như thế, hết sức cố gắng thất ra được một lời để góp vui vào câu chuyện cũng là hết mức đối với Athos rồi. Đổi lại, Athos một mình uống bằng bốn người và tuy uống như thế, nhưng anh tựa như không có gì thay đổi ngoài sự cau mày lộ liễu hơn và nỗi buồn sâu sắc hơn.

D Artagnan như ta đã biết, vốn có óc xét đoán và sắc sảo, dù có đôi chút quan tâm để thỏa mãn tính hiếu kỳ của mình về chuyện đó, cũng vẫn không thể gán cho nó bất kỳ nguyên nhân nào, hoặc xác định được do hoàn cảnh nào đã dẫn đến tình trạng suy sụp đó của Athos. Không bao giờ Athos nhận được thư từ, cũng chẳng bao giờ tiến hành một việc gì mà các bạn không biết.

Không thể nói rượu đem lại cho anh nỗi sầu muộn đó, trái lại anh chỉ uống để dẹp nỗi buồn sầu mà phương thuốc đó càng làm thêm u uất hơn. Cũng không thể gán cho cái vẻ u sầu thái quá ấy do thua bạc vì trái hẳn với Porthos tùy theo lúc đỏ đen thường hát ca hay chửi rủa, Athos dù thua dù được vẫn bình thản như không. Người ta đã từng thấy anh tại câu lạc bộ ngự lâm quân một tối được một nghìn đồng vàng, rồi lại thua hết, và mất cả chiếc đai lưng thêu sợi vàng dùng trong ngày hội, rồi lại được tất cả cộng thêm một trăm đồng vàng louis nữa, mà đôi lông mày đẹp và đen nhánh của anh không hề dướn lên hay cúp xuống, mà đôi bàn tay anh không hề mất đi vẻ ngà ngọc, và việc chuyện trò vui vẻ tối đó không vì thế mà không bình tĩnh và thoải mái.

Càng không phải, như những người láng giềng Anh quốc do ảnh hưởng của khí hậu mà sầm tối mặt mày, bởi nỗi sầu muộn đó càng thấm đậm hơn vào những ngày đẹp trời trong năm.

Tháng sáu và tháng bảy là những tháng khủng khiếp của Athos. Đối với cuộc sống hiện tại, anh không có gì buồn phiền, anh nhún vai khi người ta nói với anh về tương lai. Bí mật của anh đã thuộc về quá khứ, như người ta đã nói một cách mơ hồ với D Artagnan.

Cái sắc dạng bí ẩn nhuốm màu trên khắp người anh, khiến cái con người trong lúc say sưa túy lúy nhất, đôi mắt và cái miệng cũng không bao giờ hé ra điều gì dù những câu hỏi dò xét được đưa ra khéo léo nhất, càng được người ta mến mộ hơn.
D Artagnan lẩm bẩm giờ này Athos tội nghiệp có khi đã chết rồi, mà chết do lỗi của ta, bởi chính ta đã lôi anh vào việc này, mà anh lại không biết gốc gác, chẳng rõ kết quả, và cũng chẳng được lợi lộc gì.

- Chưa kể, thưa ông - Planchet trả lời - Chúng ta sống có lẽ là nhờ ông Athos. Ông có nhớ ông ấy đã kêu lên: "Chạy đi, D Artagnan, tôi bị tóm rồi". Và sau khi đã nổ hai phát súng ngắn, tiếng gươm vun vút của ông ấy mới khủng khiếp làm sao!
- Có thể nói đến hai chục người, đúng hơn là hai chục quỷ dữ đang điên dại!

Những lời nói ấy làm tăng gấp bội bầu máu nóng của D Artagnan, chàng thúc ngựa, mà con ngựa thì chẳng cần phải thúc cũng đã mang người kỵ sỹ của mình phi nước đại rồi.

Khoảng mười một giờ sáng thì trông thấy Amiêng, và mười một rưỡi, hai người đã tới trước cửa cái quán trọ đáng nguyền rủa.
D Artagnan vẫn thường luôn suy tính đến một cuộc trả thù thích đáng tên chủ quán điên đảo này họa chăng mới thỏa lòng chàng. Chàng kéo mũ dạ sụp xuống che mắt, tay trái giữ chuôi gươm tay phải quất roi ngựa vun vút bước vào quán trọ.
- Ông còn nhớ tôi chứ? - chàng nói với chủ quán đang tiến ra để chào khách.

- Thưa quý ông, tôi không có được cái vinh dự ấy - gã trả lời, mắt còn đang lóa lên vì đoàn người ngựa quý giá xuất hiện cùng với chàng.

- Chà, ông lại không biết ta ư?

- Không, thưa quý ông.

- Thôi được! Chỉ mấy câu hỏi là làm ông nhớ hết thôi. Ông đã làm gì nhà quý tộc cách đây khoảng mười lăm ngày, đã bị ông cả gan buộc tội làm bạc giả?

Chủ quán xanh mặt, bởi D Artagnan tỏ thái độ hăm đọa dữ tợn nhất, và Planchet cũng làm y như chủ mình.

- Ôi thưa Đức ông, xin đừng nói với tôi về chuyện ấy, - tên chủ quán kêu lên bằng một giọng muốn khóc - Ôi! Thưa đại nhân, tôi đã phải trả giá đắt chừng nào về cái lỗi lầm này. Ôi, khốn nạn cái thân tôi!

- Nhà quý tộc, ta hỏi ông, bây giờ ra sao?

- Xin Đức ông nghe tôi nói, và xin đại lượng từ bi, xin làm phúc hãy ngồi xuống đã nào.

D Artagnan giận và lo không nói được ra lời, ngồi xuống, hầm hầm như một quan tòa. Planchet ngạo nghễ tựa lưng vào ghế bành của mình.

- Thưa Đức ông, chuyện là như thế này - chủ quán run như cầy sấy nói tiếp - vì lúc này tôi đã nhận ra ngài rồi, ngài là người đã đi mất khi tôi mắc vào cái chuyện rắc rối khốn khổ với nhà quý tộc mà ngài nói.

- Phải, chính ta, như vậy, ông thừa biết, ông đừng mong ta tha tội, nếu ông không nói toàn bộ sự thật cho ta!

- Vậy mong hãy nghe tôi, và ngài sẽ rõ tất cả.

- Ta nghe đây.

- Tôi đã được nhà đương cục báo trước một tên làm bạc giả trứ danh sẽ đến quán trọ tôi với mấy tên đồng bọn tất cả đều cải trang dưới trang phục cận vệ hoặc ngự lâm quân. Ngựa, người hầu và hình dạng các vị đều được miêu tả cho tôi rõ.

D Artagnan nhận ra ngay do đâu có sự chỉ điểm chính xác đến như thế. Chàng hỏi:

- Rồi sao nữa? Sao nữa?

- Vậy là được nhà đương cục phái đến sáu người tiếp viện, và ra lệnh cho tôi, tôi đã sử dụng những biện pháp mà tôi cho là khẩn cấp để bắt giữ kỳ được mấy người bị mạo danh làm bạc gia.

Nghe mấy tiếng làm bạc giả. D Artagnan nóng rực tai lên:

- Lại vẫn nói thế hả?

- Xin Đức ông tha thứ, vì đã chót nói ra những điều như vậy, nhưng đây thật ra chỉ là cái cớ của tôi thôi. Nhà cầm quyền làm tôi sợ và ngài cũng biết một chủ quán thì phải biết làm theo nhà cầm quyền.

- Nhưng một lần nữa ta hỏi đây, nhà quý tộc ấy ở đâu? Ông ấy ra sao? Còn sống hay đã chết?

- Thưa Đức ông, xin hãy kiên nhẫn một chút, tôi nói ngay bây giờ đây. Vậy là xảy đến cái điều ngài đã biết, mà việc ra đi đột ngột của ngài - chủ quán nói thêm với vẻ ranh ma không lọt khỏi con mắt của D Artagnan - việc ra đi ấy dường như đã cho phép có lối thoát. Nhà quý tộc, bạn ngài chống cự tuyệt vọng.

- Người hầu của ông ấy chẳng may vô tình gây sự với các nhân viên của nhà chức trách cải trang làm bồi coi chuồng ngựa.
- Chà, quân khốn kiếp! - D Artagnan hét lên - tất cả bọn ngươi đã đồng lõa với nhau, ta không hiểu vì cái gì mà chưa giết sạch lũ ngươi!

- Ôi, không, thưa Đức ông, chúng tôi không đồng lõa cả lũ với nhau đâu, rồi Đức ông sẽ thấy ngay thôi. Ngài bạn của Đức ông (tôi xin lỗi vì không biết tên) sau khi đã loại khỏi vòng chiến hai người bằng hai phát súng ngắn, vừa đánh chống đỡ để rút lui bằng lưỡi gươm của mình, rồi đâm què thêm một người nữa của tôi và dùng mặt gươm quật tôi bất tỉnh.

- Nhưng, tên đao phủ kia, mi có chấm dứt đi không? - D Artagnan nói - Athos, ông Athos ra sao kia?

- Vừa đánh vừa lùi, như tôi đã nói với ngài, ông ấy thấy phía sau mình cầu thang của hầm rượu và vì cửa đang mở, ông ấy rút chìa khóa cất đi và chặn lại từ bên trong, vì người ta tin chắc có thể tìm lại ông ấy, họ để mặc cho ông ấy tự do.

- Phải - D Artagnan nói - người ta chưa định giết ông ấy nên mới chỉ tìm cách cầm tù ông ấy thôi.

- Trời ơi. Cầm tù ông ấy ư, thưa Đức ông? Ông ấy tự cầm tù thì có, tôi xin thề đấy. Lúc đầu ông ấy đã làm một việc khốc liệt: một người bị chết tươi và hai bị thương nặng. Người chết và hai người bị thương được đồng đội khênh đi và tôi chẳng còn nghe thấy nói năng gì về người này, người khác trong bọn họ nữa. Bản thân tôi khi tỉnh lại, tôi đến gặp ông trấn thủ kể lại mọi chuyện và hỏi tôi phải làm gì với người tù. Nhưng ông trấn thủ như rơi từ trên mây xuống, ông nói hoàn toàn chẳng hay biết gì điều tôi muốn nói, và những mệnh lệnh đến với tôi không phải do ông ban ra, và nếu tôi vô phúc nói ra với bất kỳ ai là ông có chút dính dáng đến cuộc xung đột này. Ông sẽ cho treo cổ tôi.

- Thưa ông, có vẻ như tôi đã bắt giữ nhầm người này thay cho người khác và người đáng ra phải bị bắt đã trốn thoát.

Thấy nói nhà cầm quyền bỏ mặc câu chuyện, D Artagnan càng sốt ruột gấp bội và hét lên:

- Nhưng còn Athos? Athos ra sao?

- Tôi vội sửa chữa ngay những sai lầm của tôi đối với người tù - chủ quán tiếp - tôi đến hầm rượu và định thả ông ra. Ôi! Thưa ông, không phải một con người nữa mà là một con quỷ. Về việc đề nghị thả, ông tuyên bố đấy là một cái bẫy giăng ra bắt ông và trước khi ra, ông buộc phải tuân theo các điều kiện của ông. Tôi hạ mình hết mức nói với ông rằng tôi sẵn sàng tuân chịu những điều kiện của ông, bởi tôi chẳng giấu cái tình cảnh tồi tệ tôi tự chuốc lấy vì đã dám ra tay với một ngự lâm quân của Hoàng thượng. Thế rồi ông bảo tôi: "Trước hết, ta muốn trả người hầu được trang bị vũ khí cho ta".

Chúng tôi vội tuân lệnh ngay, bởi vì ngài thừa hiểu, chúng tôi bị đặt vào tình thế phải làm tất cả những gì bạn ngài muốn.
Ông Grimaud, ông ấy đã nói tên ra, và chỉ thế thôi, được đưa xuống hầm, vẫn đầy mình thương tích. Thế rồi, ông chủ nhận người hầu xong lại chặn cửa lại và ra lệnh cho chúng tôi cứ ở trong cửa hàng.

- Nhưng rốt cuộc - D Artagnan lại hét lên - Ông ấy ở đâu? Athos ở đâu rồi?

- Trong hầm rượu, thưa ông.

- Sao, đồ khốn kiếp, mi giữ ông ấy trong hầm rượu từ bấy đến nay ư?

- Trời đất quỷ thần ơi! Đâu có, thưa ngài. Chúng tôi mà lại giữ được ông ấy trong hầm! Vậy ngài không biết ông ấy làm gì trong hầm ư? Ôi, nếu ngài có thể làm ông ấy chịu ra, tôi sẽ suốt đời biết ơn ngài, tôi xin thờ ngài như vị thánh tổ của tôi.
- Nghĩa là ông ta vẫn ở đó? Ta sẽ tìm lại được ông ta ở đó?

- Chắc chắn rồi, thưa ngài, ông ấy cứ khăng khăng ở lại. Hàng ngày, phải đưa bánh và thịt bằng một cái xỉa qua lỗ thông hơi khi ông yêu cầu. Nhưng than ôi! Không phải bánh và thịt là khoản tiêu thụ lớn nhất của ông. Một bữa, tôi cùng hai gã hầu bàn định thử xuống hầm nhưng ông liền nổi giận khủng khiếp.

- Tôi nghe thấy tiếng ông ấy nạp đạn vào súng ngắn và Grimaud nạp đạn vào súng trường. Rồi vì là chúng tôi hỏi các ông có ý định gì, ông chủ trả lời rằng thầy trò ông ấy có bốn chục viên đạn và sẽ bắn đến phát cuối cùng còn hơn cho phép bất kỳ ai trong chúng tôi đặt chân xuống hầm. Thưa ông, thế là tôi lại đến kêu với ông trấn thủ, ông trả lời rằng thế mới đáng kiếp cho tôi, và việc đó sẽ dạy cho tôi biết thế nào là lăng nhục các vị đại nhân đáng kính đến trọ ở quán tôi.

- Thành ra từ lúc đó… - D Artagnan không thể nhịn cười trước bộ mặt thiểu não của chủ quán, liền hỏi.

- Từ lúc đó, thưa ngài, đời sống chúng tôi trở nên cực kỳ bi đát, bởi vì ngài phải biết rằng tất cả nguồn thực phẩm của chúng tôi đều ở dưới hầm, nào là vang chai, vang thùng, bia, dầu, gia vị, mỡ, và xúc xích, và vì bị cấm được xuống, chúng tôi buộc phải từ chối lữ khách tới trọ gọi uống, gọi ăn đến nỗi ngày nào lữ quán chúng tôi cũng mất khách. Bạn ngài chỉ ở thêm một tuần lễ nữa dưới hầm là chúng tôi phá sản.

- Thế mới công bằng, đồ vô lại ạ? Nhìn dáng bộ chúng ta lại không biết chúng tôi là những con người danh giá chứ không phải đồ giả mạo hay sao?

- Vâng, thưa ông, ông nói đúng - chủ quán nói - Nhưng, xem nào, xem nào, ông ấy lại nổi giận đấy.

- Chắc hẳn lại quấy rầy ông ấy chứ gì? - D Artagnan nói.

- Nhưng đành phải quấy rầy ông ấy thôi. - Chủ quán nói - vì mới có hai vị quý tộc người Anh đến quán chúng tôi.

- Thì sao?

- Thì thế đấy! Bọn người Anh thích vang ngon như ông biết đấy. Bọn họ đòi loại thượng hạng. Vợ tôi chắc có lẽ đến van xin ngài Athos cho phép xuống hầm để thỏa mãn các vị kia. Và ông ấy chắc đã từ chối như thường lệ, ôi trời đất ơi, tiếng la hét, mắng nhiếc lại tăng lên gấp bội.

Quả nhiên, D Artagnan cũng nghe thấy tiếng ầm ầm cạnh hầm rượu. Chàng liền đứng dậy, đi trước là chủ quán vừa đi vừa vặn vẹo hai tay, và theo sau là Planchet cầm theo súng trường đã nạp đạn, đến gần chỗ xảy ra cảnh náo loạn.

Hai nhà quý tộc Anh đang nổi cáu, họ đã đi một đoạn đường dài và đang sắp chết đói và chết khát.

- Nhưng như thế là bạo hành quá đáng! - Bọn họ hét lên bằng tiếng Pháp rất chuẩn, tuy có hơi lơ lớ giọng nước ngoài - Cái lão điên này lại không cho những con người tốt này sử dụng rượu vang của họ. Đã thế thì chúng tôi sẽ phá cửa mà vào và nếu hắn điên quá, chúng tôi giết béng hắn đi thế là xong.

- Đứng lại các vị! - D Artagnan vừa nói vừa rút hai khẩu súng ngắn ở đai lưng ra. Các vị sẽ không giết ai hết, xin vui lòng vậy - Tốt thôi, tốt thôi! - Tiếng của Athos bên sau cánh cửa bình tĩnh phát ra - cứ để bọn ăn thịt trẻ con ấy vào thử một chút xem sao nào.

Có vẻ rất can trường thế đấy, nhưng hai nhà quý tộc người Anh nhìn nhau ngại ngùng. Người ta đồn trong hầm rượu có một con quỷ đói, gã khổng lồ trong huyền thoại dân gian mà không ai vào trong hang của nó mà không bị trừng phạt. Lặng đi một lúc, cuối cùng người Anh sợ lùi sẽ xấu hổ, và gã bẳn tính hơn bằng hai bước đã xuống năm sáu bậc thang và đập mạnh vào cửa tưởng đến vỡ cả tường.

- Planchet - D Artagnan vừa nói vừa lên đạn hai khẩu súng ngắn - ta đảm nhiệm tên đứng trên, còn anh thằng phía dưới.

- Này các vị, các vị muốn giao chiến! Thế thì người ta đến để giao chiến với các vị!

- Trời ơi! - Giọng trầm sâu của Athos hét toáng lên - Hình như ta nghe thấy tiếng D Artagnan.

- Đúng đấy - D Artagnan cũng cao giọng nói vọng vào - chính tôi đây, bạn ạ.

- A, tốt lắm, - Athos nói - Ta quần cho cái bọn phá cửa này một trận chứ.

Chú thích:
(1) Marcus Junius Brutus (sinh năm 85 trước công nguyên) nổi giận vì những tham vọng của bạo chúa Xêda, bị kich động thêm vi những thư vắn bí mật gửi cho mình: "Brutus, mi đang ngủ và Rôma đang trong xiềng xích" cùng Catxiútx âm mưu giết Xêda - Sau bị Antoine và Octave truy đuổi. Theo Plưtác, sau khi cất lời than cay đắng: "Ôi đức hạnh! Mi chỉ là một ngôn từ!" Brutus lao mình vào gươm của bạn mình tự sát (năm 42 trước công nguyên).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

38#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 17:26:14 | Chỉ xem của tác giả
Ba người lính ngự lâm - Chương 27
-----------------------------------------------

Mấy người quý tộc kia đã lăm lăm tay gươm, nhưng họ thấy mình giữa hai làn đạn nên lừng chừng thêm một lát, nhưng cũng như lần trước lòng kiêu hãnh đã thắng và thêm một cái đạp chân làm vỡ cánh cửa suốt từ trên xuống.

Athos kêu lên:

- Tránh ra, D Artagnan, tránh ra đi, tôi bắn đấy.

- Các vị! - D Artagnan nói, - hãy kiên nhẫn đã các vị tự nhiên đâm đầu vào một chuyện tồi tệ, và chỉ tổ nát người. Tôi và người hầu của tôi đây sẽ nã vào các vị ba phát và cũng ngần ấy phát từ trong hầm rượu tương ra các vị. Rồi chúng tôi lại còn gươm nữa chứ, mà tôi xin đảm bảo với các vị tôi và bạn tôi sử dụng cũng kha khá. Vậy hãy để tôi thu xếp việc của các vị với việc của tôi. Tôi xin hứa danh dự chỉ chốc nữa các vị sẽ được uống ngay thôi.

- Nếu như còn rượu - giọng Athos làu bàu giễu cợt.

Gã chủ quán cảm thấy một dòng mồ hôi lạnh chạy dọc xương sống.

- Sao, nếu như còn rượu ư? - Gã lẩm bẩm.

- Con khỉ ạ? Sẽ còn tôi - D Artagnan tiếp - cứ bình tĩnh nào, có hai người làm sao uống hết cả hầm rượu, còn các vị, tra gươm vào vỏ đi. Thế thì ông cũng cài súng vào đai lưng đi!

- Xin sẵn sàng.

Và D Artagnan làm gương trước. Rồi quay lại phía Planchet, chàng ra hiệu tháo đạn súng trường.

Bọn người Anh đã tin chắc, làu bàu tra gươm vào vỏ. Người ta kể lại cho họ chuyện Athos bị cầm tù. Và vì họ là những nhà quý tộc đứng đắn nên họ cho lỗi là ở tại chủ quán.

- Bây giờ thưa các vị - D Artagnan nói - xin mời các vị trở về phòng mình, và trong mười phút, tôi đảm bảo người ta sẽ mang tới cho các vị tất cả những gì các vị muốn.

Bọn người Anh chào và đi ra.

- Bây giờ còn lại có mình tôi - D Artagnan nói - Anh Athos thân mến ạ, mở cửa cho tôi đi, tôi xin anh đấy.

- Mở ngay đây - Athos nói.

- Thế là người ta nghe thấy tiếng rầm rầm của những thanh gỗ đập vào nhau và của những dầm nhà kêu kẽo kẹt. Đó là những ụ chống và pháo đài của Athos, mà bản thân kẻ bị vây hãm đang phá hủy.

Một lát sau cái cửa rùng rùng chuyển động, bộ mặt xanh xao của Athos hiện ra và đảo mắt rất nhanh dò xét xung quanh.

D Artagnan nhảy lên bá cổ và ôm hôn trìu mến Athos. Rồi khi chàng định lôi anh ra khỏi nơi trú ngụ ẩm thấp, thì chỉ đến lúc đó chàng mói thấy anh đang lảo đảo:

- Anh bị thương ư? - Chàng hỏi.

- Tôi ư? Không đời nào. Chỉ bí tỉ, thế thôi. Và chả có ai bao giờ lại có thể say hơn như thế. Chúa trời muôn năm, chủ quán ơi! Riêng phần tôi, ít nhất cũng phải uống đến một trăm năm chục chai đấy.

- Khốn nạn thân tôi! - chủ quán kêu lên - Nếu người hầu của ông chỉ uống bằng phân nửa chủ mình thì tôi cũng đến phá sản mất.

- Grimaud là một người hầu dòng dõi thế gia, không cho phép mình tầm thường như tôi đâu. Hắn chỉ uống ở thùng thôi. Xem nào, tôi tin là hắn quên đóng nắp lỗ thùng. Các ông nghe thấy không? Nó đang chảy đấy.

D Artagnan cười phá lên làm cho cơn run rẩy của chủ quán thành cơn sốt nóng.

Cùng lúc đó Grimaud đến lượt mình cũng hiện ra sau ông chủ, súng trường trên vai, đầu lắc lư như những kẻ dâm đãng say sưa trong những tranh của Rubens(2). Người hắn cả đằng trước lẫn đằng sau ướt đẫm một thứ nước nhờn mà chủ quán nhận ra đó là loại dầu ô-liu hảo hạng.

Đoàn người trịnh trọng đi xuyên qua đại sảnh và đến trụ tại một phòng sang nhất lữ quán mà D Artagnan đàng hoàng chiếm lấy.

Trong khi đó, vợ chồng chủ quán cầm đèn nhảy bổ xuống căn hầm đã khá lâu bị cấm và một cảnh tượng đáng sợ đang chờ họ ở đó.

Phía sau những thành lũy mà Athos đã phá hủy để đi ra, bao gồm đòn, ván, bó que, thùng rỗng đã được chất xếp hoàn toàn theo những quy tắc chiến thuật phòng thủ, người ta thấy đây đó xương thừa của đùi lợn muối đã ăn rồi như đang bơi trong những vũng dầu và rượu vang, trong khi một đống vỏ chai vỡ ngổn ngang ở góc trái căn hầm và một thùng lớn, vòi không đóng, đang chảy nốt những giọt máu cuối cùng của nó. Hình ảnh của tàn phá và chết chóc nói như nhà thơ cổ đang ngự trị trên bãi chiến trường.

Năm mươi xâu xúc xích treo trên dầm nhà còn lại chưa đầy mười xâu.

Thế là tiếng kêu khóc của vợ chồng chủ quán như thể chọc thủng cả vòm hầm khiến chính D Artagnan cũng phải mủi lòng. Còn Athos thì không cả ngoảnh đầu lại.

Nhưng cơn điên dại kế tiếp nỗi đau. Chủ quán vũ trang một cái đinh ba, trong cơn tuyệt vọng, lao vào căn phòng mà đôi bạn đã lui về đấy.

- Rượu ư!- Athos thấy chủ quán liền nói.

- Rượu đấy! - Chủ quán la lên rụng rời - Rượu đấy! Ông đã uống của tôi mất hơn một trăm đồng vàng rồi, ông làm tôi phá sản, nguy khốn, tiêu vong rồi!

- Thế à? = Athos nói - Nhưng chúng tôi đã lúc nào hết khát đâu.

- Nhưng giá các ông chỉ chịu uống thôi đã đỡ, lại còn đập hết các vỏ chai.

- Tại ông đẩy tôi vào cái đống ấy nó mới đổ vỡ đấy chứ. Đấy là lỗi của ông.

- Dầu ăn của tôi mất hết!

- Dầu là loại cao bôi thần diệu chửa trị các vết thương cho nên gã Grimaud tội nghiệp phải lấy để xoa bôi những vết thương ông gây ra cho gã chứ.

- Mọi xâu xúc xích của tôi bị gặm hết.

- Trong hầm rượu có vô số chuột cống.

Chủ quán nổi khùng kêu lên:

- Ông sẽ phải trả tiền tôi tất cả những thứ đó.

- Quân ba đời vô lại! - Athos vừa nói vừa đứng dậy. Nhưng chàng liền ngã xuống. Chàng đã kiệt sức rồi.

D Artagnan chạy lại đỡ chàng, và vung roi ngựa lên.

Chủ quán lùi lại một bước và òa lên khóc. D Artagnan nói:

- Điều đó sẽ dạy cho ông biết cách đối xử lịch sự hơn với những khách trọ mà Chúa đã gửi tới cho ông.

- Chúa ư? Quỷ sứ thì có.

- Ông bạn thân mến - D Artagnan nói - Nếu ông còn làm rách màng nhĩ chúng tôi, cả bốn chúng tôi lại tự nhốt vào hầm và chúng tôi sẽ coi xem sự thiệt hại có thật sự to lớn như ông nói không.

- Thôi được! Vâng, thưa các ngài tôi xin thú nhận tôi sai - Chủ quán nói - Nhưng tội nào cũng phải được lòng nhân đức xá cho và các ngài đều là các bậc quyền quý, còn tôi chỉ là gã chủ quán khốn khổ, xin các ngài rủ lòng thương.

- A, nếu nhà ngươi nói như thế - Athos nói - ngươi làm ta đến tan nát trái tim mất, rồi nước mắt ta cũng lại chảy như rượu chảy từ thùng ra. Cũng không đến nỗi là quỷ như cái vẻ bề ngoài đấy nhỉ. Nào, lại đây ta nói chuyện.

Chủ quán lại gần vẻ lo lắng:

- Lại đây, ta bảo rồi, đừng sợ - Athos tiếp tục - Lúc định trả tiền ngươi, ta có đặt túi tiền của ta lên bàn.

- Vâng, thưa Đức ông.

- Trong túi có sáu mươi đồng vàng. Đâu cả rồi?

- Chuyển lên phòng lục sự, thưa Đức ông. Họ bảo đó là tiền giả.

- Thế à, vậy đi mà đòi lại và giữ lấy sáu chục đồng vàng.

- Nhưng Đức ông biết thừa là phòng lục sự chẳng nhả ra cái gì họ giữ đâu. Nếu đó là tiền giả, may ra còn đòi được, nhưng khốn nỗi lại là tiền thật cả.

- Vậy ngươi đi mà thu xếp với họ, con người tử tế ạ, chuyện đó chẳng liên quan gì đến ta, mà ta cũng có còn xu nào đâu.

- Này - D Artagnan nói - Con ngựa cũ của Athos ở đâu?

- Ở chuồng.

- Đáng giá bao nhiêu?

- Năm mươi đồng vàng là hết nước.

- Nó đáng giá tám mươi đấy - Hãy giữ lấy con ngựa. Coi như xong.

- Sao, cậu bán ngựa của mình - Athos nói - cậu bán con Badadê của tôi ư? Tôi sẽ cưỡi gì để ra trận? Cưỡi lên thằng Grimaud ư?
D Artagnan nói:

- Tôi mang đến cho anh một con khác rồi.

- Con khác?

- Và tuyệt đẹp? - Chủ quán tấm tắc.

- Thế thôi, nếu quả có một con ngựa khác đẹp hơn, ít tuổi hơn, thì ngươi cứ giữ lấy con ngựa cũ đi và cho uống đi thôi.

- Loại nào ạ? Chủ quán hỏi, mặt mũi đã tươi tỉnh lên.

- Loại ở cuối hầm gần đống ván mỏng ấy. Chỗ ấy vẫn còn hai nhăm chai đấy, những chai khác bị vỡ hết lúc ta bị ngã rồi. Đem sáu chai lên đây.

- Loại người này đúng là lưu linh tái thế đấy! - Chủ quán nói với riêng mình - Chỉ cần hắn ở lại đây mười lăm ngày nữa, và uống đến đâu trả đến đấy, ta sẽ phục hồi lại được công việc làm ăn.

- Và đừng quên - D Artagnan nói tiếp - mang bốn chai cùng loại cho mấy vị người Anh.

- Giờ thì - Athos nói - trong khi chờ đợi họ mang rượu lên.

- D Artagnan cậu hãy kể cho mình những người kia thế nào.

D Artagnan kể lại mình đã tìm thấy Porthos nằm liệt giường vì bị trẹo đầu gối như thế nào, và Aramis trước cái bàn giữa hai nhà thần học. Chàng vừa kể xong cũng là lúc chủ quán quay lại với những chai rượu đã gọi và một cái đùi lợn may sao cho hắn lại ở ngoài hầm.

Athos rót đầy cốc mình và cốc bạn rồi nói:

- Về Porthos và Aramis thế là ổn rồi, còn cậu, cậu thế nào, có chuyện gì xảy ra với riêng cậu không? Tôi thấy cậu có vẻ gặp tai ương thì phải.

- Than ôi! - D Artagnan nói - Chính tôi mới là kẻ khốn khổ nhất trong mấy người chúng ta.

- Cậu khốn khổ ư, D Artagnan! - Athos nói - Thế cậu khốn khổ ra sao nào? Nói tôi nghe đi.

- Để sau đã, - D Artagnan nói.

- Để sau đã! Tại sao phải để sau? Vì cậu tưởng tôi say ư, D Artagnan? Hãy nhớ lấy điều này: tôi không bao giờ có được những ý tưởng minh bạch hơn trong rượu nhé. Vậy hãy nói đi, tôi chú ý nghe đấy.

D Artagnan kể lại cuộc phiêu lưu tình ái của mình với bà Bonacieux.

Athos lắng nghe không cau mày, khi chàng kể xong, Athos nói:

- Đau khổ cả mà thôi - Athos nói - Chỉ đau khổ thôi!

Đó là từ Athos ưa dùng.

- Anh luôn luôn nói đau khổ, anh Athos thân mến của tôi? - D Artagnan nói - Điều đó không hợp với anh, người không bao giờ yêu cả.

Con mắt lạc hồn của Athos bỗng rực sáng lên, nhưng chỉ như một tia chớp, nó lại trở lại mờ đục và mơ hồ như trước.
- Đúng thế - Chàng bình tĩnh nói - tôi chưa bao giờ yêu cả.

- Vậy anh hẳn thấy, trái tim sắt đá ơi - D Artagnan nói - Anh đã sai khi tỏ ra cứng rắn với những trái tim mềm yếu như chúng tôi chứ.

- Trái tim mềm yếu - Athos nói - là trái tim bị đâm xuyên.

- Anh nói sao?

- Tôi nói, tình yêu chỉ là trò xổ số, mà kẻ nào trúng, trúng luôn cái chết. Cậu không trúng thế là phúc đấy. Tin tôi đi, D Artagnan thân mến, và nếu tôi có lời khuyên cậu thì là khuyên luôn luôn không trúng.

- Nàng có vẻ quá chi là yêu tôi?

- Nàng mới có vẻ thôi.

- Ô, nàng yêu tôi.

- Trẻ con! Chẳng có người đàn ông nào lại không tin như cậu rằng người tình của mình yêu mình, và chẳng có người đàn ông nào lại không bị người tình của mình lừa dối.

- Trừ anh chứ, Athos, vì anh đã bao giờ có đâu.

- Đúng vậy - Athos nói sau một lúc lặng đi - tôi chưa bao giờ có cả, đúng vậy. Ta uống thôi!

- Vậy thì là một triết gia - D Artagnan nói - Anh hãy dạy tôi, nâng đỡ tôi. Tôi cần hiểu biết và cần được an ủi.

- An ủi cái gì?

- Nỗi đau khổ của tôi.

- Nỗi đau khổ của cậu làm tôi buồn cười - Athos nhún vai nói - Tôi tò mò muốn biết cậu sẽ nói thế nào nếu tôi kể cho cậu nghe một chuyện tình.

- Xảy ra với anh?

- Hoặc với một người bạn tôi, thì đã sao!

- Nói đi, Athos, anh nói đi.

- Uống đã, sẽ thú vị hơn.

- Vậy anh uống và kể đi.

Athos uống cạn một cốc, rót đầy cốc nữa rồi nói:

- Được thôi, vừa uống vừa kể là hay nhất.

- Tôi nghe đây - D Artagnan nói.

Athos như đang nhớ lại, và càng nhớ lại, D Artagnan thấy Athos càng tái đi. Anh đang nhớ tới cái giai đoạn trong cơn say mà những kẻ uống tầm thường, thường gục ngã và ngủ thiếp đi, còn anh, anh vẫn mơ màng, lớn tiếng mà không ngủ. Cái trạng huống mộng du say sưa ấy có một cái gì đó thật hãi hùng.

- Cậu muốn nghe thật chứ! - Athos hỏi.

- Tôi xin anh đấy - D Artagnan nói.

- Vì vậy đã muốn thì phải kể thôi. Một người bạn tôi, một trong số những bạn tôi, cậu hiểu chứ, chứ không phải tôi - Athos ngừng lại một lát với một nụ cười u tối. Một trong những Bá tước ở tỉnh tôi, nghĩa là ở Bery, dòng dõi cao quý như một Đăngđôlô(3) hoặc một Môngmôrăngxi(4) năm hăm nhăm tuổi si mê một thiếu nữ mười sáu tuổi, xinh đẹp như bản thân tình yêu.

Một tâm hồn nồng cháy biểu hiện trong vẻ ngây thơ của tuổi trẻ, không phải một tâm hồn phụ nữ, mà là tâm hồn của nhà thơ.

Nàng không làm người ta thích mà làm người ta si mê. Nàng sống ở một thị trấn nhỏ cạnh người anh là một mục sư. Cả hai đều là người nơi khác đến đấy sinh sống. Không ai biết họ từ đâu đến. Nhưng thấy nàng quá xinh đẹp và anh nàng quá sùng đạo người ta cũng chẳng nghĩ đến việc hỏi họ từ đâu tới. Hơn nữa, người ta nói họ xuất thân từ gia đình tử tế, bạn tôi lúc ấy là lãnh chúa xứ này lẽ ra có thể quyến rũ nàng hoặc cưỡng đoạt nàng theo sở thích, vì chàng là chúa tể ở đây. Ai sẽ đến bảo vệ hai kẻ xa lạ, hai kẻ vô danh? Khốn nỗi chàng là một người lương thiện, chàng cưới nàng hẳn hoi - Một kẻ dại dột, ngớ ngẩn, ngu đần?

- Nhưng tại sao lại thế, vì chàng yêu nàng cơ mà? - D Artagnan hỏi.

- Khoan đã nào - Athos nói - chàng đưa nàng về lâu đài của mình và đưa nàng lên hàng đệ nhất phu nhân của tỉnh. Nhưng công bằng mà nói, nàng tỏ ra xứng đáng với địa vị ấy.

- Rồi sao nữa? - D Artagnan hỏi.

- Rồi một hôm nàng đi săn với chồng - Athos tiếp tục giọng nhỏ hơn và nói rất nhanh - nàng bị ngã ngựa và ngất đi. Bá tước lao đến cứu, do nàng bị ngột ngạt trong bộ quần áo đi săn, chàng bèn lấy dao găm rạch áo nàng ra để hở vai nàng. D Artagnan cậu thử đoán xem nàng có cái gì trên vai nào? - Athos nói và cười phá lên.

- Tôi có thể biết là cái gì không? - D Artagnan hỏi.

- Một bông huệ - Athos nói - Nàng bị đóng dấu sắt nung phạm tội.

Và Athos uống một hơi cạn cốc rượu trên tay.

- Khủng khiếp quá! - D Artagnan kêu lên - Anh nói gì với tôi thế?

- Sự thật. Bạn thân mến, thiên thần là quỷ dữ. Cô thiếu nữ tội nghiệp đó đã ăn cắp.

- Và Bá tước tính sao?

- Bá tước là một đại lãnh chúa, chàng có quyền xét xử các vụ án cấp thấp và cấp cao. Chàng xé nốt quần áo của nữ Bá tước, trói quật tay ra sau lưng và treo cổ nàng trên cây.

- Trời ơi, Athos! Một vụ sát nhân! - D Artagnan la lên.

- Đúng, một vụ giết người, không hơn không kém - Athos tái người đi như một cái xác không hồn - Nhưng hình như thiếu rượu cho tôi rồi đấy.

Và Athos túm lấy cổ chai rượu cuối cùng còn lại, đưa vào tận miệng và tu thẳng một hơi cạn chai rượu, như bình thường cạn một cốc rượu.

Rồi chàng gục đầu lên hai bàn tay, D Artagnan ngồi trước mặt chàng rùng mình kinh hoảng.

- Chuyện đó đã chữa khỏi bệnh đàn bà đẹp, thơ mộng và đa tình cho tôi - Athos vừa nói vừa đứng lên không nghĩ tới việc tiếp tục câu chuyện có tính chất ngụ ngôn về ông Bá tước - Cầu chúa cho cậu cũng được khỏi bệnh như vậy - Thôi ta uống đi!

- Thế là nàng đã chết? - D Artagnan ấp úng.

- Cho chết! - Athos nói - Nhưng nâng cốc lên chứ. Đùi lợn đâu, quân đê tiện - Athos hét lên - chúng ta không thể uống được nữa!

- Thế còn anh nàng? - D Artagnan rụt rè hỏi thêm.

- Anh nàng ư? - Athos lặp lại.

- Ừ, ông linh mục ấy?

- À, tôi đã cho dò tìm để đem treo cổ cả hắn, nhưng hắn đã phòng xa, bỏ chức mục sư từ đêm trước.

- Ít nhất cũng phải biết tên khốn khiếp ấy là ai chứ?

- Chắc chắn đó là người tình đầu tiên và kẻ đồng lõa của người đẹp, một người danh giá đã đóng giả mục sư để cưới người tình của mình và đảm bảo thân phận của nàng. Rồi cũng sẽ bị xé xác ra thôi, tôi cho là như vậy.

- Ôi! Lạy Chúa? Lạy Chúa! - D Artagnan kêu lên và choáng váng hết cả người vì câu chuyện hãi hùng đó.

- Ăn miếng đùi lợn này đi, D Artagnan, tuyệt vời đấy, - Athos vừa nói vừa xẻo một lát đặt vào đĩa của bạn - Thật không may trong hầm lại không có bốn cái đùi lợn này, chỉ cần có thế, có lẽ tôi đã uống thêm năm mươi chai rượu nữa.

D Artagnan không thể chịu nổi cuộc trò chuyện này nữa, vì nó có thể khiến chàng phát điên. Chàng để gục đầu lên hai bàn tay và giả vờ ngủ thiếp đi.

Athos nhìn chàng thương hại nói:

- Bọn trẻ không biết uống nữa rồi. Tuy nhiên, cậu này vẫn cứ là loại cừ nhất!

Chú thích:
(2) Pierre Paul Rubens: Họa sĩ người xứ Flandre (1577-1640).
(3) Một dòng họ ở Vơnidơ đã có tới bốn ngưới làm thủ lĩnh của nền cộng hòa.
(4) Một dòng họ ở nước Pháp có nhiều nhân vật danh tiếng như nguyên soái. thống chế. quốc vương. từ triều đại Louis VII thế kỷ 12. người cuối cùng là quốc vương Henri XI chết vì bì phóng một mũi thương vào mắt trong cuộc cưỡi ngựa đấu thương với Montgome.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

39#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 17:32:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 28
Trở về


D Artagnan vẫn choáng váng về câu chuyện tâm tình của Athos, tuy nhiên còn khá nhiều điều hình như vẫn còn mập mờ trong sự bộc lộ nửa vời đó. Trước hết là chuyện do một người hoàn toàn say túy lúy kể cho một người nửa tỉnh nửa say, và mặc dầu hơi men của vài ba chai rượu Buốcgônhơ làm mịt mù cả đầu óc D Artagnan, sáng hôm sau khi thức dậy, vẫn thấy mỗi lời Athos nói còn in trong ký ức như thể ra khỏi miệng bạn đến đâu, là in vào tâm trí chàng đến đấy. Tất cả nỗi nghi ngờ ấy chỉ khiến chàng càng khao khát mạnh hơn đi đến một sự tường tận, và chàng sang phòng bạn với ý đồ quyết tâm nối lại cuộc trò chuyện đêm qua, nhưng chàng thấy Athos thần trí hoàn toàn ổn định, nghĩa là con người tinh tế và bí hiểm nhất.

Hơn nữa, người lính ngự lâm đó sau khi bắt tay chàng, đã đón trước được ý nghĩ của chàng.

- Hôm qua tôi say quá, D Artagnan thân mến ạ - Athos nói - Sáng nay tôi vẫn còn cảm thấy cơn say ở đầu lưỡi tôi, nó vẫn cứ bì bì, và mạch tôi vẫn còn đập mạnh lắm. Tôi cược rằng tôi đã nói muôn vàn điều bậy bạ lăng nhăng.

Vừa nói, Athos vừa nhìn bạn mình chằm chằm khiến D Artagnan bối rối.

- Nhưng không phải thế đâu - D Artagnan cãi lại - và nếu như tôi nhớ không nhầm thì anh chẳng nói gì ngoài những chuyện thường tình.

- Ồ, cậu làm tôi ngạc nhiên đấy, tôi nghĩ tôi đã kể cho cậu nghe một chuyện thương tâm nhất.

Và anh nhìn chàng trai trẻ như muốn đọc thấu tâm can của bạn mình. D Artagnan nói:

- Thật tình, hình như tôi còn say hơn cả anh, vì tôi chẳng nhớ được điều gì hết.

Athos chẳng thèm để ý đến câu nói ấy, và anh tiếp tục:

- Cậu không phải là không nhận thấy, bạn thân mến ạ, mỗi người có một kiểu say, buồn hay vui. Tôi say kiểu buồn, mà một khi tôi đã say, tôi có cái thói kể ra mọi chuyện tang thương mà bà vú nuôi ngớ ngẩn của tôi đã khắc vào trí não tôi. Đó là tật xấu của tôi, tật xấu cơ bản, tôi đồng ý như vậy. Nhưng ngoài tật đó, tôi là tay uống cừ.

Athos nói ra điều đó, quá tự nhiên, khiến cho niềm tin của D Artagnan bị lung lay. Chàng cố nắm bắt lại sự thật và nói:

- Ồ, thì ra là như thế, quả thật tôi cũng nhớ ra là như thế, vả lại nó giống như ta nhớ lại một giấc mơ ấy mà, tôi nhớ chúng ta đã nói về những người bị treo cổ.

- À cậu biết đấy - Athos vừa nói vừa tái người đi tuy nhiên vẫn cố cười - Tôi cam đoan những người bị treo cổ là cơn ác mộng của tôi, của chính tôi.

- Phải phải, - D Artagnan nói tiếp - tôi nhớ ra rồi - Phải, chuyện đề cập đến… khoan đã nào… đề cập đến một phụ nữ…

- À, đấy là một chuyện hay nhất của tôi - Athos trả lời, mặt xanh đi - về một người đàn bà tóc hoe vàng và khi tôi kể chuyện đó là lúc tôi đang say muốn chết.

- Phải, chính thế - D Artagnan nói - chuyện về một phụ nữ tóc vàng hoe, cao lớn và đẹp, có đôi mắt xanh.

- Phải, và bị treo cổ.

- Bởi người chồng là một vị lãnh chúa quen biết anh - D Artagnan vừa tiếp tục nói vừa nhìn thẳng vào mặt Athos.

- Ồ, cậu thấy đấy, trong khi người ta không còn biết mình đang nói gì nữa, thì người ta có thể làm tổn hại đến phẩm giá một con người lắm chứ - Athos vừa nói vừa nhún vai như thể mình đang thương hại chính bản thân mình - Nhất định là tôi không muốn say nữa, D Artagnan? Đó là một thói quen quá xấu.

D Artagnan im lặng không nói gì.

Rồi Athos chuyển phắt sang đề tài khác, và nói:

- Nhân tiện, xin cảm ơn cậu về con ngựa mà cậu đã mang đến cho tôi.

- Có hợp với anh không? - D Artagnan hỏi.

- Hợp, nhưng đó không phải là một con ngựa dai sức.

- Anh nhầm rồi. Tôi đã cưỡi nó chạy mười dặm trong một tiếng rưỡi đồng hồ mà cứ như thể mới chạy vòng quanh quảng trường Saint-Sulpice ấy.

- Thế à? Thế thì cậu làm cho tôi tiếc mất rồi.

- Tiếc cái gì?

- Tiếc vì tôi bán nó mất rồi.

- Thế là thế nào?

- Là thế này. Sáng nay tôi thức dậy lúc sáu giờ, cậu vẫn ngủ như chết, tôi chả biết làm gì, tôi vẫn còn ngẩn ngơ về việc quá chén của chúng ta hôm qua, tôi bèn đi xuống đại sảnh và thấy một trong hai người Anh đang mặc cả mua một con ngựa với người lái ngựa, ngựa của hắn bị chết hôm qua vì bị trúng gió.

- Tôi lại gần hắn và vì thấy hắn đang trả một trăm đồng vàng con tuấn mã màu tía. Tôi bảo hắn: "Này nhà quý tộc, tôi cũng có một con muốn bán".

- Và còn rất đẹp nữa - hắn nói - tôi thấy hôm qua rồi, người hầu của bạn ông đang dắt nó.

- Ông thấy nó đáng một trăm chứ?

- Vâng và ông muốn bán cho tôi với giá ấy à?

- Không, tôi chơi bạc nó với ông.

- Ông chơi bạc với tôi?

- Đúng.

- Chơi loại gì?

- Xúc xắc. Nói sao làm vậy, và tôi mất con ngựa, à nhưng mà, - Athos tiếp tục tôi đã gỡ lại được bộ đồ trang sức trên mình ngựa.

D Artagnan tỏ ra rất bực.

- Trái ý cậu lắm à? - Athos nói.

- Chứ sao, tôi thú thật với anh - D Artagnan nói tiếp - Con ngựa đó là để chúng ta nhận ra nhau khi xung trận, đó là một tín vật, một kỷ niệm. Athos, anh sai rồi.

- Ôi, bạn thân mến, cậu hãy ở vào địa vị tôi - người lính ngự lâm nói tiếp - tôi buồn muốn chết, thêm nữa, tôi thề danh dự đấy, tôi không thích ngựa Anh. Mà nếu chỉ để nhận ra nhau thôi thì cái yên là đủ, nó có thể nhận ra lắm chứ. Còn con ngựa, ta sẽ tìm một cớ gì đó để biện giải cho việc nó biến mất. Mà đếch gì! Nó chết, ngựa nào mà chả chết, cứ coi như con của tôi bị chết vì xổ mũi hoặc lở loét.

D Artagnan vẫn cau có.

- Điều đó làm tôi áy náy lắm - Athos tiếp tục - vì cậu quan tâm đến những con vật ấy đến thế, vì tôi đã kể hết chuyện đâu.

- Thế anh còn làm những gì nữa?

- Sau khi đã mất con ngựa của tôi, chín điểm thua mười, cậu thấy ức không, tôi bèn nảy ra ý nghĩ chơi con của cậu.

- Ờ, nhưng tôi mong mới chỉ dừng lại ở ý nghĩ của anh thôi.

- Không đâu, tôi thực hiện ngay lúc ấy.

- À! Hay thật đấy! - D Artagnan kêu lên lo lắng.

- Tôi chơi và thua.

- Thua con ngựa của tôi?

- Con của cậu, bẩy chọi tám, thua có một điểm… Cậu biết câu ngạn ngữ …

- Athos, tôi xin thề là anh không tỉnh rồi!

- Bạn thân mến, đấy là hôm qua, khi tôi kể cho cậu nghe những chuyện vớ vẩn, tôi phải nói như vậy, chứ không phải sáng nay. Tôi thua hết cả ngựa lẫn yên cương.

- Thế thì ghê tởm quá?

- Khoan đã nào cậu đã nghe hết đâu. Tôi sẽ là một tay chơi sành sỏi nếu tôi không cay cú, nhưng tôi lại cay cú, giống như khi tôi uống ấy, tôi cũng cay cú…

- Nhưng làm sao anh còn chơi nổi nữa, anh có còn cái gì đâu?

- Có chứ? Có quá đi chứ, anh bạn ạ! Chúng ta vẫn còn cái nhẫn kim cương lấp lánh trên ngón tay cậu mà tôi đã thấy hôm qua.

- Cái nhẫn kim cương này ư? - D Artagnan kêu lên và đưa tay giữ chặt lấy cái nhẫn.

- Và vì tôi là kẻ sành chơi, và cũng đã từng có mấy chiếc trong tài sản riêng, tôi ước lượng nó phải có giá một nghìn đồng vàng.
D Artagnan chết điếng người vì kinh hãi nghiêm nghị nói:

- Tôi hy vọng anh chưa động gì đến chiếc nhẫn kim cương của tôi đấy chứ?

- Trái lại đấy, bạn ơi. Chiếc nhẫn kim cương là tài sản duy nhất của chúng ta. Với nó, tôi có thể gỡ lại được yên cương, ngựa, và thêm nữa, tiền lộ phí.

- Athos, anh làm tôi run lên đây này? - D Artagnan kêu lên.

- Vậy là tôi nói về cái nhẫn kim cương với con bạc của tôi. Hắn cũng đã để ý thấy cái nhẫn. Mà quỷ ạ, cậu đeo ở ngón tay cậu một ngôi sao trên trời lại muốn người ta không chú ý ư? Không thể được?

- Nói nốt đi, ông bạn quý, nói nốt đi! - D Artagnan nói- Bởi vì thề danh dự đấy! Với sự bình tĩnh của anh, anh làm tôi chết mất đấy?

- Thế là chúng tôi chia cái nhẫn kim cương ra làm mười phần, mỗi phần một trăm đồng vàng.

- À anh định đùa và thử tôi đấy à? - D Artagnan nói, mà cơn giận bắt đầu túm lấy tóc chàng giống như thần Minéc túm lấy Akin trong Iliát(1).

- Không, tôi không đùa đâu, mẹ kiếp! Tôi chỉ muốn biết cậu sẽ ra sao trong tình cảnh ấy thôi? Đã mười lăm ngày tôi không được giáp mặt ai và cứ ở đó đàm đạo với những chai rượu cho đến trì độn người đi.

- Đó không phải là lý do đem nhẫn kim cương của tôi ra chơi bạc, thế đó! - D Artagnan vừa trả lời vừa nắm chặt tay lại, thần kinh co giật bắn người lên.

- Vậy cậu, nghe nốt đã. Mười phần, mỗi phần một trăm đồng vàng, mỗi phần chơi làm mười ván, không chơi gấp thiếc để gỡ, mười ba ván tôi thua tất. Mười ba ván, con số 13 luôn luôn xúi quẩy với tôi, đó là ngày mười ba tháng bẩy mà…

- Mẹ kiếp! - D Artagnan la lên và đứng lên khỏi bàn, chuyện lúc này khiến chàng quên cả chuyện đêm qua.

- Kiên nhẫn nào - Athos nói - tôi có một kế hoạch. Tên người Anh là một tay độc đáo, sáng nay tôi thấy hắn trò chuyện Grimaud, và Grimaud báo với tôi là hắn đề nghị với Grimaud phục vụ hắn. Tôi đánh luôn với hắn bằng Grimaud và cũng chia Grimaud ra làm mười phần.

- Trời, lại còn thế nữa? - D Artagnan không giữ nổi phá lên cười.

- Chính bản thân gã Grimaud, cậu hiểu không nào? Và với mười phần của Grimaud mà tất cả cũng chưa đáng một đucatông vàng tôi gỡ lại cái nhẫn kim cương. Giờ thì cậu thử nói xem lòng kiên nhẫn có phải là một đức hạnh không?

- Thật tình, tôi chỉ thấy quái gở! - D Artagnan đã khuây khỏa, vừa nói vừa ôm bụng cười.

- Cậu hiểu chứ, thấy mình đang vận đỏ, tôi lại chơi tiếp ngay bằng nhẫn kim cương.

- Ôi quỷ sứ! - D Artagnan nói và lại sa sầm mặt lại.

- Tôi đã gỡ lại được yên cương của cậu, rồi ngựa của cậu rồi yên cương của tôi, ngựa của tôi, rồi lại thua. Tóm lại tôi lấy lại được yên cương của cậu, rồi của tôi. Đó, bây giờ chúng ta chỉ có thế. Đó là một ván chơi tuyệt đẹp, vì vậy tôi dừng ở đó thôi.

D Artagnan thở phào như thể người ta vừa cất bỏ cả cái lữ quán này đè lên ngực chàng.

- Rốt cuộc, tôi vẫn còn nhẫn kim cương chứ? - D Artagnan rụt rè hỏi.

- Nguyên si! Bạn thân mến ạ. Thêm nữa là những bộ yên cương của con chiến mã của cậu và của tôi.

- Nhưng chúng ta sẽ làm gì với những yên cương mà không có ngựa?

- Tôi đã có ý kiến về chúng đây.

- Athos, anh làm tôi run đấy.

- Nghe đây, D Artagnan, đã lâu rồi cậu không chơi có phải không?

- Nhưng tôi không thèm chơi chút nào cả.

- Đừng có vội tuyên bố như thế - Từ lâu rồi, cậu không chơi, cậu chắc chắn sẽ gặp may cho mà xem.

- Thế thì sao?

- Thế thì tên người Anh và bạn hắn vẫn còn ở đây. Tôi nhận thấy hắn tiếc mấy bộ yên cương lắm. Còn cậu, cậu có vẻ tiếc con ngựa của cậu. Ở địa vị cậu tôi sẽ chơi bộ yên cương lấy con ngựa.

- Nhưng hắn sẽ không muốn một bộ thôi đâu.

- Thì chơi cả hai, mẹ kiếp! Tôi không phải là người ích kỷ như cậu đâu.

- Anh chơi thật chứ? - D Artagnan ngần ngừ nói, sự tin tưởng của Athos đã bắt đầu làm chàng xiêu lòng.

- Chơi một ván thôi, thề danh dự đấy.

- Nhưng chính vì đã mất mấy con ngựa, tôi lại càng muốn giữ lấy mấy bộ yên cương.

- Thế thì chơi bằng nhẫn kim cương vậy.

- Ồ, cái đó lại là chuyện khác, không bao giờ, không bao giờ cả.

- Mẹ kiếp! - Athos nói - Tôi muốn đề nghị cậu chơi bằng thằng Planchet lắm, nhưng cách đó đã làm rồi, thằng người Anh có lẽ không muốn nữa đâu.

- Này Athos thân mến - D Artagnan nói - tôi thích tốt nhất là đừng có liều nữa làm gì.

- Đáng tiếc đấy! - Athos lạnh lùng nói - Thằng người Anh đó có rất nhiều tiền vàng. Trời ơi! Cứ thử một cái. Một ván thôi mà!
- Và nếu tôi thua?

- Cậu sẽ thắng.

- Nhưng nếu tôi thua?

- À thì… Coi như cậu cho nó mấy bộ yên cương.

- Thì làm một ván - D Artagnan nói.

Athos liền đi tìm gã người Anh và thấy hắn ở chuồng ngựa đang ngắm nghía mấy bộ yên cương bằng con mắt thèm khát.
- Thật đúng dịp. Athos đặt điều kiện: Hai bộ yên ăn một con ngựa hay một trăm đồng vàng, tùy ý chọn. Tên người Anh tính toán rất nhanh: hai bộ yên cương đáng giá ba trăm đồng vàng, hắn bằng lòng ngay.

D Artagnan vừa run vừa ném mấy con xúc xắc và đạt ba điểm. Chàng tái người đi khiến Athos đâm sợ lây, đành vui vẻ nói:
- Một ván xúi quẩy rồi, ông bạn. Ông đến có lũ ngựa yên cương đầy đủ mất thôi.

Tên người Anh đắc chí, chẳng bỏ công xóc quân xúc xắc, ném luôn ra bàn không thèm nhìn, tin chắc phần thắng thuộc về mình. D Artagnan quay mặt đi để giấu vẻ bực tức.

- Khoan, khoan, khoan đã. - Athos nói bằng một giọng điềm tĩnh - một ván xúc xắc cực kỳ lạ lùng, và tôi chỉ thấy bốn lần trong đời đấy: hai con một!

Tên người Anh nhìn vô cùng kinh ngạc, D Artagnan cũng nhìn và rất đỗi vui mừng.

- Phải, - Athos tiếp tục - chỉ bốn lần thôi: một lần ở nhà ông De Crêquy, một lần ở nhà tôi, ở vùng thôn quê, tại lâu đài… khi tôi còn chiếc lâu đài, lần thứ ba ở nhà ông De Treville, làm cả lũ chúng ta phải ngạc nhiên, cuối cùng lần thứ tư ở một quán rượu, lần này giã đúng vào tôi, khiến tôi thua một trăm đồng louis vàng và một bữa nhậu tối.

- Thế là ông gỡ lại được con ngựa của mình rồi - gã người Anh nói.

- Hẳn rồi - D Artagnan nói.

- Không chơi gỡ ư?

- Chúng ta đã giao hẹn là không chơi gỡ. Ông nhớ chứ?

- Đúng vậy, con ngựa sẽ trả lại cho người hầu của ông.

- Khoan chút đã - Athos nói, - xin phép cho tôi nói với bạn tôi một câu.

- Ông cứ tự nhiên.

Athos kéo D Artagnan ra một chỗ. D Artagnan nói:

- Thế nào! Anh muốn gì nữa ở tôi, hỡi tên cò mồi, anh muốn tôi chơi nữa, có phải không?

- Không, tôi muốn cậu suy nghĩ thôi.

- Về cái gì?

- Cậu định lấy lại con ngựa có phải không?

- Hẳn rồi.

- Cậu nhầm rồi, tôi lấy một trăm đồng vàng cơ.

- Thôi đi, tôi lấy con ngựa.

- Và cậu nhầm rồi, tôi xin nhắc lại như vậy. Làm gì được với một con ngựa cho hai người chúng ta, tôi không thể cưỡi lên mông ngựa và chúng ta có vẻ như hai con trai nhà Âymông (2) bị chết. Cậu cũng không thể đang tâm cưỡi tuấn mã để tôi đi bộ bên cạnh được. Tôi, không cân nhắc lôi thôi gì cả, tôi lấy một trăm đồng vàng, chúng ta đang cần tiền để trở về Paris.

- Athos, tôi vẫn muốn lấy ngựa.

- Ôi cậu nhầm rồi, bạn ơi. Một con ngựa đi vòng kiềng, một con ngựa vấp chân, trẹo gối, một con ngựa ăn chung máng với con ngựa sổ mũi, đó một con ngựa như thế chỉ có mất toi một trăm đồng vàng. Rồi lại còn chủ thì phải nuôi ngựa, đằng này trái lại, một trăm đồng vàng nó nuôi chủ.

- Nhưng chúng ta trở về thế nào?

- Trên lũ ngựa của bọn người hầu của chúng ta. Mẹ kiếp!

- Người ta nhìn hình dạng chúng ta sẽ thấy ngay chúng ta là những người gặp phải hoàn cảnh không may.

- Cái bộ dạng đẹp đẽ của chúng ta trên lưng hai con nghẽo, còn Porthos và Aramis thì tưng tưng trên hai con ngựa chứ!
- Aramis, Porthos ư! - Athos la lên và bật cười.

- Cười gì? - D Artagnan hỏi, chàng chẳng hiểu tại sao bạn mình lại hô hố cười.

- Không có gì đâu, ta tiếp tục thôi - Athos nói.

- Như thế, ý kiến của anh?…

- Là lấy một trăm đồng vàng, D Artagnan ạ, với một trăm đồng vàng, chúng ta sẽ phè phỡn cho đến cuối tháng, chúng ta đã trải qua bao nhiêu gian lao vất vả, cậu thấy không, nghỉ ngơi một chút sẽ tốt chứ.

- Tôi nghỉ ngơi ư? Ồ, không, Athos, đến Paris một cái là tôi lập tức đi tìm người đàn bà tội nghiệp ấy ngay.

- Được rồi! Thế cậu tưởng con ngựa của cậu sẽ có ích cho cậu trong việc đó hơn là những đồng vàng quý giá ư? Cậu hãy lấy một trăm đồng vàng ấy đi! bạn ạ, hãy lấy một trăm đồng vàng.

Chú thích:
(1) Nữ thần Minéc, còn gọi là nữ thần Palátx, nữ thần Atêna, con gái của thần Jớtx, nữa thần của sự thông thái và nghệ thuật Trong Iliat, cơn giận khủng khiếp của Akin là do Atêna hay Minéc giật tóc.
(2) Bốn con trai nhà Âymông trong tiểu thuyết võ hiệp thế kỷ 12 gồm 14.489 cảu thơ, là Rơnô, Ghitxca, Ala và Rítsa, cả bốn cùng cưỡi trên một con ngựa thần kỳ Baya chống lại Hoàng đế Charlesma.


Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

40#
 Tác giả| Đăng lúc 2-10-2011 17:36:14 | Chỉ xem của tác giả
Ba người lính ngự lâm - Chương 28
-----------------------------------------------

D Artagnan chỉ cần một lý do để đầu hàng. Lý lẽ này có vẻ xuất sắc Vả lại chống chọi mãi, chàng sợ mình có vẻ ích kỷ trong con mắt Athos. Chàng gật đầu, và chọn một trăm đồng vàng gã người Anh đếm ngay tại chỗ.

Rồi họ chỉ còn nghĩ tới việc ra đi. Hòa ước đã ký ngoài con ngựa già của Athos phải trả thêm sáu đồng vàng cho chủ quán.

D Artagnan và Athos chiếm lấy ngựa của Planchet và Grimaud, hai người hầu đội hai bộ yên lên đầu và đi bộ theo.

Dù cưỡi ngựa tồi, đôi bạn vẫn vượt trước hai người hầu và đến Vỡ Tim. Từ xa họ đã gặp Aramis đang âu sầu tựa cửa sổ, và giống như chị Anne tôi, nhìn bụi rắc phía chân trời(3).

Đôi bạn hô vang lên:

- Ê này! Aramis, cậu đang làm cái quái gì thế?

- À, cậu đấy ư, D Artagnan, và anh nữa, Athos - chàng trai trẻ nói - Tôi đang nghĩ của cải trên đời sao nó ra đi nhanh đến thế và con ngựa Anh của tôi cũng đi xa và vừa biến mất trong lốc bụi, đối với tôi là một hình ảnh sinh động về sự mong manh của mọi vật trên đời. Cuộc đời cũng vậy, có thể quy lại bằng ba từ "Erat, est, fuit"(4).

- Thật ra thế nghĩa là thế nào? - D Artagnan hỏi và bắt đầu nghi ngờ sự thật.

- Nghĩa là tôi vừa bị lừa một quả sáu mươi đồng louis vàng lấy một con ngựa mà chỉ nhìn cách nó di chuyển thôi cũng đoán ra nó phi nước kiệu năm dặm một giờ.

D Artagnan và Athos phá lên cười.

- D Artagnan thân mến - Aramis nói - đừng giận tôi quá nhé, tôi xin cậu đấy, vì nhu cầu thì bất chấp luật lệ. Vả lại, trước hết tôi đã bị trừng phạt rồi, vì cái tên lái ngựa bất lương ấy đã xoáy mất của tôi ít nhất năm mươi louis vàng. Mà các vị cũng là những người điều hành giỏi đấy chứ, các vị đến đây bằng ngựa của bọn hầu và bắt bọn hầu dắt tay những con ngựa quý của các vị, nhẹ nhàng, từng quãng một.

Cũng vào lúc ấy một xe chở hàng từ phía Amiêng đã hiện ra được một lúc bây giờ đã tới nơi và dừng lại, rồi Planchet và Grimaud ra khỏi xe với bộ yên cương đội trên đầu.

Chiếc xe chở hàng đi không về Paris, và hai chàng hầu ta đã điều đình cho đi nhờ xe và sẽ đãi người đánh xe giải khát suốt dọc đường.

- Thế là thế nào? - Aramis thấy cung cảnh vừa diễn ra liền hỏi - Sao lại chỉ có mỗi yên thôi?

- Bây giờ cậu hiểu rồi chứ? - Athos nói.

- Các bạn tôi ơi, thế thì đúng như tôi rồi. Tôi cũng giữ lại yên cương, theo linh tính thôi. Ê này, Bazin! Mang bộ yên cương mới của ta xếp cạnh những bộ của mấy ông đây.

- Và anh làm thế nào với mấy vị mục sư của anh? - D Artagnan hỏi.

- À, hôm sau tôi mời họ ăn trưa - Aramis nói - Ở đây có loại vàng hảo hạng, đại khái như thế. Tôi cho họ uống say khướt cò lả. Thế là lão mục sư liền chống lại tôi rời bỏ đồng phục ngự lâm, còn ông giáo sĩ dòng Tên thì lại yêu cầu tôi xin giúp ông ta vào ngự lâm quân.

- Súp món luận văn đi! - D Artagnan hô lên - Súp luận văn đi? Tôi yêu cầu bãi bỏ luận văn đấy.

- Từ khi ấy - Aramis tiếp tục - tôi sống thoải mái. Tôi bắt đầu làm một thi khúc một vần. Cũng khó khăn đấy. Nhưng giá trị của mọi thứ là trong sự khó khăn. Tính cách bài thơ có đôi chút khuynh nữ. Tôi sẽ đọc khổ đầu cho các bạn nghe, có tất cả bốn trăm câu và chỉ kéo dài một phút.

D Artagnan ghét thi ca hầu như ngang với tiếng Latinh liền bảo:

- Thật tình, anh Aramis thân mến ạ, hãy thêm giá trị của sự ngắn gọn vào cái giá trị của sự khó khăn, anh sẽ tin chắc ít nhất thơ anh sẽ có hai giá trị.

- Rồi các bạn sẽ thấy. - Aramis tiếp tục - Nó toát ra những niềm đắm say chân thực - Ơ kìa, các bạn, chúng ta quay về đến Paris rồi ư? Hoan hô, mong mãi đây. Thếlà chúng ta lại sắp gặp Porthos rồi. Thế mới tuyệt. Các bạn không thể tưởng được tôi nhớ cái tay đại ngô nghê này thế nào đâu. Hắn có nhẽ không bán ngựa như cánh ta đâu cho dù giá một vương quốc. Tôi những muốn thấy hắn đang ngồi trên yên ngựa. Tôi tin chắc sẽ giống như Đại đế Môgôn(5).

Họ dừng lại một tiếng đồng hồ cho ngựa nghỉ. Aramis thanh toán tiền cho Bazin lên ngồi xe hàng cùng với các bạn rồi lại tiếp tục lên đường để gặp lại Porthos.

Mọi người thấy chàng đang đứng, đỡ xanh xao hơn D Artagnan gặp lần trước, rồi thấy ngồi vào bàn ăn dù dọn cho một mình chàng, cũng có thể hình dung ra một bữa trưa cho cả bốn người, một bữa trưa gồm thịt nấu nướng rất ngon, rượu nho kén chọn và quả cây tuyệt ngon.

- À, mẹ kiếp! - Chàng vừa đứng lên vừa nói - Các bác đến thật tuyệt, tôi mới chỉ đụng đến món xúp, ăn trưa với tôi thôi.
- Ồ, ồ, - D Artagnan nhận xét - Không phải Mousqueton dùng thòng lọng quăng những chai rượu này chứ - Lại còn thịt bọc mỡ nướng và thăn bò nữa…

- Tôi đang ăn trả bữa mà - Porthos nói - tôi ăn trả bữa.

- Không gì làm suy yếu bằng cái món trẹo xương chết tiệt đó, anh đã bị trẹo xương bao giờ chưa, Athos?

- Chưa bao giờ. Chỉ có tôi nhớ trong cuộc hỗn chiến ở phố Fréjus ngày nào, tôi bị một nhát gươm, cũng phải mất mười lăm mười tám ngày gì đó, khiến tôi bị ốm yếu hệt như cậu ấy.

- Nhưng bữa trưa này không phải dọn cho một mình anh đấy chứ Porthos? - Aramis nói.

- Không - Porthos đáp - Tôi đợi mấy nhà quý tộc quanh đây nhưng họ vừa đến bảo là không đến được, các bác thay họ vậy, vẫn thế cả thôi mà. Ê này, Mousqueton? Ghế đâu, và mang gấp đôi rượu ra đây.

- Các cậu có biết chúng ta ăn gì ở đây không? Chừng mươi phút sau, Athos hỏi mọi người.

- Mẹ kiếp! - D Artagnan trả lời - tôi ăn thịt bê nấu chua với tủy và rau cácđông.

- Và tôi thăn cừu non - Porthos nói.

- Còn tôi lườn gà - Aramis nói.

- Các vị nhầm tất - Athos nghiêm nghị nói - các vị ăn ngựa đấy.

- Ngựa thì ngựa! - D Artagnan nói.

- Thịt ngựa ư! - Aramis cau mặt lợm giọng nói.

Porthos ngồi im không trả lời.

- Phải, ăn ngựa? Có phải không, Porthos chúng ta đang ăn ngựa? Có khi ăn cả yên cương cũng nên!

- Không đâu, các bác ạ, yên cương thì tôi giữ lại - Porthos nói.

- Thì ra chúng ta kẻ tám lạng, người nửa cân cả. - Aramis nói - Cứ như ta bàn trước với nhau ấy.

- Biết làm thế nào - Porthos nói - con ngựa ấy làm cho mấy vị khách của tôi phải xấu hổ, mà tôi thì lại không muốn làm họ xấu hổ!

- Rồi lại thêm cái bà nữ Công tước của anh vẫn cứ ở vùng suối nóng, có phải không? - D Artagnan nói tiếp.

- Vẫn thế - Porthos trả lời - Mà thật tình cái lão trấn thủ tỉnh này, một trong những vị quý tộc tôi mời ăn trưa hôm nay ấy cứ thèm con ngựa quá cơ, cho nên tôi đã cho lão ta.

- Cho ư? - D Artagnan kêu lên.

- Ồ, trời ơi, phải cho lão! Đấy là cách nói thôi! - Porthos nói - bởi giá con ngựa phải đến một trăm năm mươi louis vàng và cái tên bủn xỉn ấy chỉ muốn trả tôi có tám mươi.

- Không yên chứ? - Aramis nói.

- Ừ, không yên.

- Các vị nhận thấy chưa - Athos nói - Hóa ra Porthos lại bán được giá hơn tất cả chúng ta.

- Thế là tất cả phá lên cười hô hố làm cho Porthos cứ ngây người ra. Nhưng mọi người giải thích cho chàng ngay lý do mọi người cười, khiến chàng ầm ĩ chia sẻ ngay theo thói quen của mình.

- Thành thử mọi người chúng ta đều sẵn vốn cả? - D Artagnan hỏi.

- Mình thì không - Athos nói - Mình thấy món rượu nho Tây Ban Nha của Aramis ngon quá, thế là mình cho chất sáu mươi chai lên chiếc xe hàng của bọn người hầu, thành ra nhẵn túi rồi.

- Còn tôi - Aramis nói - các bạn thử tưởng tượng xem tôi đã cúng đến đồng xu cuối cùng cho nhà thờ Môngđiđiơ và cho các giáo sĩ dòng Tên ở Amiêng, ngoài ra tôi có những cam kết buộc phải giữ những lễ misa cho tôi và cho các vị mà tôi tin chắc nhờ thế, chúng ta mạnh khỏe may mắn hơn.

- Và tôi, - Porthos nói - cái chỗ trẹo gối của tôi, các anh tưởng không tốn kém hay sao? Không kể thương tích của Mousqueton mà tôi buộc phải mời thầy giải phẫu đến mỗi người hai lần, lão ta bắt tôi phải trả tiền thăm khám gấp đôi viện cớ cái tên Mousqueton ngu ngốc ấy đã để cho một viên đạn bắn trúng vào chỗ mà người ta thường chỉ cho thầy thuốc xem thôi. Cho nên tôi đã phải căn dặn nó kỹ càng lần sau đừng để bị thương ở chỗ ấy nữa.

Athos cười nháy với D Artagnan và Aramis rồi nói:

- Chà, chà, tôi thấy cậu xử sự với gã hầu tội nghiệp quá hào phóng đấy. Đúng là một ông chủ tốt.

- Tóm lại - Porthos tiếp tục - trả hết mọi khoản chi tiêu, chắc chắn tôi chỉ còn ba mươi êqui vàng.

- Và tôi chừng mươi đồng - Aramis nói.

- Xem nào, - Athos nói - hình như chúng ta đều là những vua Crésus cả(6) Một trăm đồng pítxtôn vàng của cậu còn bao nhiêu hở D Artagnan?

- Một trăm của tôi ư? Trước hết, tôi đã cho anh năm chục rồi.

- Cậu tin vậy ư?

- Mẹ kiếp!

- À đúng, tôi nhớ ra rồi.

- Rồi tôi trả sáu đồng cho chủ quán.

- Cái tên chủ quán chó má ấy ư! Tại sao cậu lại cho nó sáu đồng.

- Thì chính anh bảo tôi cho nó còn gì.

- Đúng là tôi quá tốt với nó. Tóm lại, còn bao nhiêu?

- Còn hai nhăm đồng - D Artagnan nói.

- Và tôi Athos vừa nói vừa móc túi ra mấy xu lẻ - tôi…

- Anh, sạch sành sanh.

- Thú thực, ít quá, chẳng bõ góp vào của chung.

- Bây giờ, ta tính thử xem còn bao nhiêu tất cả nào?

- Porthos?

- Ba mươi đồng êqui.

- Aramis?

- Mười đồng pítxtôn.

- Còn cậu D Artagnan?

- Hai mươi lăm.

- Tất cả là bao nhiêu? - Athos nói.

- Bốn trăm bẩy nhăm đồng livrơ! - D Artagnan, tính toán giỏi như Acsimét nói.

- Đến Paris, có lẽ chúng ta còn chừng bốn trăm, lại còn yên cương nữa - Porthos nói.

- Nhưng những con ngựa kỵ binh của chúng ta thì sao đây? - Aramis nói.

- Thế này nhé! bốn con ngựa của bọn người hầu, ta sẽ lấy hai con cho chủ bằng cách gắp thăm. Số bốn trăm livrơ ta sẽ lấy một nửa mua một con cho một cậu chưa có ngựa, rồi còn bao nhiêu ta sẽ vét túi đưa cho D Artagnan, cậu ấy mát tay, để chơi luôn ngay ở sòng bạc ta gặp. Thế đó.

- Thôi ăn đã, - Porthos nói - Nguội hết cả rồi.

Bốn người bạn từ lúc đó tạm yên tâm về những ngày sắp tới, liền ăn uống thỏa thuê, chỗ còn thừa dành cho các vị Mousqueton, Bazin, Planchet và Grimaud.

Đến Paris, D Artagnan thấy một bức thư của ông De Treville báo cho chàng biết, thể theo lời cầu xin của ông, nhà Vua vừa mới gia ân cho chàng được xung vào ngự lâm quân.

Vì đó là tất cả những gì D Artagnan mong ước ở trên đời, đã đành chưa kể sự khao khát được gặp lại bà Bonacieux, chàng sướng run người chạy đến nhà các bạn vừa mới chia tay nhau được nửa tiếng đồng hồ, và chàng thấy họ đều rất buồn và rất ưu tư. Họ họp bàn ở nhà Athos, điều đó luôn luôn chỉ rõ những tình thế nghiêm trọng nào đó đang xảy ra.

- Ông De Treville cũng vừa báo cho họ biết quyết định dứt khoát của Hoàng thượng là mở chiến dịch vào ngày một tháng năm. Họ phải lập tức chuẩn bị quân trang.

Bốn triết gia sửng sốt nhìn nhau, ông De Treville không đùa về mặt quân kỳ.

- Các anh thử tính xem những bộ quân trang ấy mất bao nhiêu tiền? - D Artagnan nói.

- Ồ, chẳng có gì để nói cả - Aramis trả lời - chúng ta vừa mới tính toán chi ly chặt chẽ rồi, và mỗi người chúng ta phải có một nghìn năm trăm đồng livrơ.

- Bốn lần mươi lăm là sáu mươi, tức sáu nghìn livrơ - Athos nói.

- Tôi thấy hình như chỉ với một nghìn livrơ mỗi một người…

D Artagnan nói - Đúng là tôi không nói theo kiểu chặt chẽ mà theo kiểu biện lý(7)

Cái tiếng biện lý làm thức tỉnh Porthos. Chàng nói:

- Thôi được, tôi sực nghĩ ra một điều.

- Hẳn là một điều hay ho rồi, còn như tôi, thậm chí một nửa điều cũng không xong - Athos lạnh lùng nói - còn như D Artagnan thưa các vị, hạnh phúc từ nay được là dân ngự lâm như chúng ta làm cho hắn phát điên. Một nghìn livrơ ư! Tôi tuyên bố riêng tôi thôi, tôi cần phải hai nghìn.

Aramis liền nói tiếp:

- Bốn lần hai thành tám. Vậy cần phải tám nghìn livrơ cho chúng ta để mua sắm quân trang. Đúng là chúng ta mới chỉ có yên cương.

- Thêm nữa - Athos vừa nói vừa chờ D Artagnan đi cám ơn ông De Treville, rồi đóng cửa lại - Thêm nữa, cái nhẫn kim cương tuyệt đẹp lấp lánh ở ngón tay anh bạn chúng ta. Mẹ kiếp D Artagnan là người bạn quá tốt không thể để anh em trong cơn túng quẫn khi hắn đeo ở ngón giữa một món tiền có thể chuộc được cả một ông vua.

Chú thích:
(3) Trong truyện cổ tích con yêu Râu xanh của Perault. Anne là chị của người vợ cuối cùng của con yêu Râu xanh. Con yêu báo giờ tận số của ngườỉ vợ này vì phạm tội hở chuyện. Anne đứng trên đỉnh tháp. Cô em gọi "Chị Anne ơi, chị không thấy ai đến ư?". "Chị chẳng thấy ai mà chỉ thấy mặt trời đang rắc bụi sáng và cỏ mọc xanh rờn!".
(4) Tiếng Latinh có nghĩa: sẽ sinh ra, tồn tại, biến mất. Ở đây Dumas có lẽ định dùng từ Erit (sẽ tồn tại) chứ không phải Erat (đã từng tồn tại, tức biến mất rồi).
(5) Đại đế Môgôn (1483-1530) triều đại do Baberơ, chắt của Taméclan dòng dõi Thành Cát Tư Hãn sáng lập bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ và xứ Hindu.
(6) Crésus: quốc vương cuối cùng của Lyđi vùng Tiểu Á, nổi tiếng về những tài nguyên là cát có lẫn hạt vàng ở Pắc tôn. Sau bị Xyarút đánh bại và bị bắt làm tù binh. kinh đô bị đốt (thế kỷ 6, trước công nguyên)
(7) Procureur - biện lý, cũng gọi là kiểm sát trưởng - nghĩa ở đây là kiểm sát nhưng ở đây còn có sự chơi chữ nữa là Procurcuse - bà biện lý, cũng có nghĩa là tú bà (trên đã chú thích).

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách