Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Spica
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Ba Người Lính Ngự Lâm | Alexandre Dumas (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 00:56:21 | Chỉ xem của tác giả
Ba người lính ngự lâm - Chương 47
-----------------------------------------------

Aramis thấy Athos mỉm cười liền dừng lại.

- Thế nào, anh Athos, anh không chấp nhận cách đó ư? - D Artagnan nói.

- Tôi không hoàn toàn bác bỏ - Athos nói - nhưng chỉ muốn lưu ý Aramis là không thể rời khỏi doanh trại được, mà mọi người khác ngoài chúng ta đều không an toàn, chỉ cần hai giờ sau khi phái viên ra đi là bọn tu sĩ dòng Frăngxít, bọn mật vụ, bọn mũ nồi đen của Giáo chủ đã thuộc lòng bức thư, và người ta sẽ bắt giữ cậu cùng với con người khôn khéo của cậu nữa.

- Chưa kể - Porthos nói - Hoàng hậu sẽ cứu De Buckingham nhưng không cứu chúng ta đâu.

- Thưa các vị - D Artagnan nói - điều Porthos nói đầy ý nghĩa đấy.

- Ơ kìa? Có chuyện gì xảy ra trong thành ấy nhỉ! - Athos hỏi.

- Chúng đánh trống ra quân.

Bốn người lắng tai nghe, và tiếng trống vang đến tận chỗ họ.

- Các cậu sẽ thấy chúng sắp phái cả một binh đội đến đánh chúng ta đấy - Athos nói.

- Anh không định chống chọi với cả một binh đội đấy chứ?

Porthos hỏi.

- Tại sao không? - Chàng ngự lâm quân đáp - Tôi cảm thấy mình đang hăng máu đây. Và tôi sẽ trụ vững trước cả một đạo quân, chỉ cần chúng ta phòng bị trước bằng cách có thêm mười hai chai rượu nữa.
D Artagnan nói:

- Tôi thề là tiếng trống đang đến gần đấy. Cứ để cho nó đến gần - Athos nói - Đường đi từ đây đến thành phố chỉ mất mười lăm phút và do đó từ thành phố đến đây cũng vậy. Còn khối thì giờ để ta vạch ra kế hoạch của ta. Nếu đi khỏi đây, chẳng bao giờ chúng ta còn tìm lại được một chỗ thuận lợi như thế. Và xem này, đúng là mình vừa có một ý rất hay, các vị ạ.

- Nói xem nào.

Cho phép mình ra lệnh cho Grimaud một vài điều cần thiết.

Athos ra hiệu cho người hầu của mình lại gần.

- Grimaud - Athos chỉ những người chết nằm yên trong pháo thành - Anh đem những vị này dựng lên tựa vào tường thành, đội mũ lên đầu họ, và đặt súng vào tay họ(1).

- Ôì, vĩ nhân! - D Artagnan nói - Tôi hiểu anh rồi - Cậu hiểu ư? - Porthos hỏi - Còn anh, Grimaud, anh có hiểu không? Aramis nói.
Grimaud ra hiệu có hiểu.

- Chỉ cần có thế thôi - Aramis nói - ta trở lại ý kiến của tôi đã.

- Tôi muốn hiểu cặn kẽ cơ - Porthos nói.

- Không cần thiết.

- Có chứ, có chứ, phải hiểu cặn kẽ ý kiến của anh Athos chứ? cả D Artagnan và Aramis cùng nói.

- Cái mụ Milady ấy, mụ đàn bà ấy, con súc sinh ấy, con quỷ ấy có một gã em chồng, theo như cậu nói với tôi có phải không, D Artagnan?

- Phải, tôi còn biết ông ta rất rõ nữa, và tôi cũng tin ông ta không có cảm tình mấy với chị dâu mình.

- Điều đó không phải là dở, nhưng nếu ông ta ghét mụ thì tốt hơn.

- Trong trường hợp đó, chúng ta càng được việc.

- Thế nhưng - Porthos nói - tôi vẫn muốn biết Grimaud làm cái gì?

- Tên gã em chồng là gì?

- Huân tước De Winter.

- Bây giờ hắn ở đâu?

- Trở về London ngay khi có tin chiến tranh rồi.

- Thế thì, đó chính là người mà chúng ta cần, Athos nói - đó chính là người thích hợp với cậu để báo trước. Chúng ta sẽ cho ông ta biết là chị dâu ông ta đang định ám sát ai đó, và chúng ta sẽ yêu cầu ông ta đừng rời mắt khỏi mụ ta. Tôi hy vọng ở London chắc cũng có một cơ sở nào đó chứa những mụ đàn bà con gái sa ngã để hoàn lương, để ông ta tống chị dâu mình vào đó, thế là ta yên tâm.

- Yên tâm - D Artagnan nói - cho đến khi mụ ta ra khỏi đây.

- Chà, thật tình - Athos nói - cậu đòi hỏi nhiều quá đấy, D Artagnan à, tôi đã hiến cho cậu tất cả những gì tôi có, và xin báo trước thế là cạn túi rồi.

- Tôi thì tôi lại thấy thế này tốt hơn - Aramis nói, chúng ta báo trước cho cả Hoàng hậu lẫn Huân tước De Winter.

- Đúng, nhưng chúng ta sẽ nhờ ai mang thư đến thành Tours và đến London?

- Tôi đảm bảo Bazin đi được - Aramis nói.

- Và tôi, là Planchet - D Artagnan nói.

Porthos nói:

- Quả là nếu chúng ta không thể rời doanh trại, thì những người hầu của chúng ta có thể rời đi lắm chứ.

- Hẳn rồi - Aramis nói - và ngay hôm nay, ta viết thư, ta sẽ cho họ tiền và họ ra đi.

- Chúng ta cho họ tiền? - Athos hỏi lại - vậy các cậu có tiền không?

Bốn người nhìn nhau, và một áng mây lướt trên trán họ vừa mới rạng ra được một lúc.

- Báo động! - D Artagnan hét lên - tôi thấy những chấm đen và những chấm đỏ đang động đậy dưới kia, vậy mà anh nói là một binh đội được ư, Athos, cả một đạo quân đấy!

- Phải, chúng đấy! - Athos đáp - Cậu thấy lũ thâm hiểm này đang đến không kèn, không trống chứ? A, làm xong rồi hả Grimaud?

Grimaud ra hiệu xong rồi, và chỉ mười hai xác chết hắn đã đặt trên những độ cao rất ngoạn mục số này thì cầm súng, số kia thì nhắm bắn, số khác tay cầm gươm.

- Hoan hô? - Athos nói - trí tưởng tượng của người như thế là đáng tôn vinh đó.

- Thì cũng đến thế thôi - Porthos nói - Tôi muốn hiểu cặn kẽ cơ.

- Hãy chuồn đã - D Artagnan nói - anh sẽ hiểu sau.

- Khoan tí đã các vị! Khoan một tí cho Grimaud có thì giờ dọn dẹp đi đã.

- Này này! - Aramis nói - Những chấm đen và chấm đỏ mỗi lúc một to thêm và trông rõ quá rồi, tôi đồng ý với D Artagnan, tôi tin chúng ta không còn dềnh dàng việc rút về doanh trại được nữa đâu.

- Thì tôi có gì để chống lại việc rút lui nữa đâu. Chúng ta đánh cược một giờ, ta đã ở đây một giờ rưỡi, có gì đáng nói nữa, đi thôi, các vị, đi thôi.

Grimaud bê thúng thức ăn thừa đi trước.

Bốn người đi sau gã cách khoảng mươi bước.

- Ê này các vị - Athos nói - Chúng ta làm cái quỷ gì thế?

- Anh quên cái gì ư? - Aramis hỏi.

- Mẹ kiếp, còn lá cờ? Không thể để cờ lọt vào tay quân thù được, ngay cả khi nó chỉ là một cái khăn ăn.

Và Athos lao trở lại pháo thành, leo lên bậc thềm, nhổ lấy lá cờ lên, có điều quân Rochelle đã đến đúng tầm bắn, chúng bắn chát chúa vào phía chàng đang phơi mình ra như một thú vui.

Athos vừa vẫy cờ vừa quay lưng lại bọn Rochelle và chào những người của doanh trại. Từ hai mặt tiếng reo hò vang dội, một mặt là những tiếng la hét giận dữ, mặt kia lại là những tiếng reo cuồng nhiệt.

Một loạt đạn thứ hai tiếp theo loạt thứ nhất và ba viên khoan thủng biến chiếc khăn ăn thành một lá cờ thực sự. Tiếng la vang lên từ khắp doanh trại.

- Xuống đi, xuống đi!

Athos đi xuống. Các bạn đang rất đỗi lo âu đợi chàng, rất vui mừng thấy chàng trở lại.

- Nào, nào - D Artagnan nói - Bước dài chân ra, mau lên, giờ thì chúng ta đã giải quyết được tất cả rồi, trừ mỗi tiền thôi, để bị giết thì ngu ngốc quá.

Nhưng Athos vẫn bước một cách đường hoàng, mặc kệ những lời chỉ trích của các đồng đội, rồi thấy chỉ trích cũng vô ích, họ đành phải bước theo kiểu đường hoàng theo chàng.

Grimaud bê thúng đi trước đã ra khỏi tầm bắn.

Một lát sau lại vang lên tiếng súng bắn tới.

- Thế là thế nào? - Porthos hỏi - Chúng bắn vào cái gì vậy?

- Tôi không nghe thấy tiếng đạn réo và chẳng nhìn thấy ai cả.

- Chúng bắn vào những xác chết đấy - Athos trả lời.

- Nhưng những xác chết của chúng ta sẽ không đáp lại.

- Đúng thế, thế là chúng liền tưởng là một ổ phục kích, chúng sẽ bàn bạc, rồi sẽ cử một tên đến thương nghị, và khi chúng nhận ra đó là một trò đùa, chúng ta đã ở ngoài tầm bắn.

- Bởi thế làm gì phải vội vã cho nó hết hơi.

- Ồ, tôi hiểu rồi? - Porthos kinh ngạc nói.

- Thế thì sung sướng quá! - Athos nhún vai nói.

Về phía mình, những người Pháp thấy bốn người bạn lững thửng trở về, reo lên cuồng nhiệt.

Cuối cùng một loạt đạn súng trường lại vang lên, và lần này đạn tới bệt dí trên sỏi đá xung quanh bốn người bạn, và réo lên thê thảm bên tai họ. Bọn Rochelle cuối cùng cũng đã chiếm được pháo thành.

- Đúng là một lũ vụng về - Athos nói - Chúng ta giết được bao nhiêu đứa? Mười hai phải không?

- Hoặc mười lăm gì đó.

- Bao nhiêu đứa bị chết bẹp?

- Từ tám đến mười đứa.

- Mất tất cả ngần ấy mà không đổi lại được một vết xước ư?

- Chà! Khá thật? Cậu làm sao ở tay vậy, D Artagnan? Máu ư?

- Không sao cả - D Artagnan nói.

- Một viên đạn lạc?

- Không phải đâu.

- Vậy là cái gì?

Như đã nói, Athos yêu D Artagnan như con mình, và cái tính u trầm và cứng rắn đôi khi đối với chàng trai trẻ lại như những chăm sóc của người cha.

- Vết xước da thôi - D Artagnan đáp - những ngón tay tôi lại bị kẹp giữa hai hòn đá, một hòn ở bức tường và một viên trên chiếc nhẫn, thế là da bị rách ra.

- Thế mới biết thế nào là có kim cương, ông chủ ạ - Athos nói mỉa.

- Và phải rồi - Porthos reo lên - Quả là có một viên kim cương cơ mà, vậy thì tại cái quỷ gì mà một khi đã có một viên kim cương lại cứ phàn nàn là không có tiền?

- Ừ, phải rồi! - Aramis nói.

- Thế là may quá rồi, Porthos, lần này mới thật là một ý kiến.

- Hẳn rồi - Porthos gân cổ lên nói trước sự khen ngợi của Athos - một khi có kim cương, ta bán béng nó đi.

- Nhưng - D Artagnan nói - Đó là kim cương của Hoàng hậu.

- Càng đáng bán - Athos nói tiếp - Hoàng hậu cứu Buckingham người tình của mình, không gì đúng hơn thế.

- Hoàng hậu cứu chúng ta, những người bạn của bà, không gì đạo lý hơn, bán cái nhẫn kim cương đi. Ngài nghĩ sao, cha tu viện trưởng? Tôi không hỏi ý kiến Porthos nữa, cậu ấy đã nói rồi.

- Còn tôi thì nghĩ - Aramis đỏ mặt lên nói - vì chiếc nhẫn không phải do người tình tặng và do đó không phải là tín vật của tình yêu nên D Artagnan có thể bán nó.

- Bạn thân mến, anh nói như một nhà thần học bằng xương, bằng thịt vậy. Như thế ý kiến của anh là…

- Là bán cái nhẫn kim cương - Aramis trả lời.

- Thế thì! - D Artagnan vui vẻ nói - Ta bán chiếc nhẫn kim cương đi và đừng bàn bạc gì nữa.

Loạt súng mới tiếp tục nổ, nhưng mấy người đã ra khỏi tầm bắn và quân Rochelle chỉ còn bắn để khỏi trái với lương tâm của họ.

- Quả thật tôi thấy ý kiến của Porthos đưa ra thật đúng lúc.

- Giờ đây ta đã ở doanh trại. Như vậy, thưa các vị, không nói ra nói vào một câu nào nữa về mọi chuyện này. Người ta đang quan sát chúng ta, sẽ đến gặp gỡ chúng ta, chúng ta sẽ được công kênh vì chiến thắng.

Quả nhiên, toàn doanh trại đùng đùng chuyển động, hơn hai nghìn người đã tham dự một trò bịp bợm như một màn kịch, một trò bịp bợm may mắn của bốn người bạn mà còn lâu người ta mới nghi ngờ động cơ thực sự của nó. Người ta chỉ còn nghe thấy những tiếng hò "Cận vệ muôn năm! Ngự lâm muôn năm".

Ông De Buyxinhi là người đầu tiên đến siết tay Athos, nhận đã thua cược. Chàng long kỵ binh và chàng lính Thụy sĩ đi theo ông ta, tất cả các bạn hữu đều đi theo chàng Long kị binh và chàng Thụy Sĩ. Khen ngợi bắt tay, ôm hôn không dứt, những chuỗi cười đối với bọn Rochelle không tắt, cuối cùng là một sự náo động lớn đến nỗi Giáo chủ tưởng có nổi loạn phải sai La Huđinie, viên đại úy cận vệ đến xem có chuyện gì.

Mọi việc được kể lại cho vị phái viên với tất cả sự tưng bừng cuồng nhiệt.

- Thế nào? - Giáo chủ hỏi khi thấy La Hyđinie.

- Ồ, thưa Đức ông - người này nói - đó là ba chàng ngự lâm quân và một cận vệ đánh cược với ông De Buyxinhi đến ăn điểm tâm trong pháo thành Saint Giécve, và vừa ăn vừa chống chọi trong hai giờ đồng hồ với quân thù và tôi không biết đã giết được bao nhiêu quân Rochelle.

- Ông có hỏi tên ba người đó không?

- Có, thưa Đức ông.

- Tên là gì?

- Đó là các ông Athos, Porthos, và Aramis.

- Vẫn là mấy tay can trường của ta - Giáo chủ lẩm bẩm - Và tay cận vệ?

- Ông D Artagnan.

- Vẫn luôn là gã quỷ non của ta! Dứt khoát bốn con người ấy phải thuộc về ta.

Ngay tối ấy, Giáo chủ nói với ông De Treville về chiến công buổi sáng khiến cả doanh trại phải bàn tán. Ông De Treville đã nắm được câu chuyện phiêu lưu ấy từ chính miệng của những nhân vật từng là anh hùng đó, liền kể lại hết đến từng chi tiết, không quên đoạn chiếc khăn cho Giáo chủ nghe.

- Tốt lắm, ông De Treville ạ - Giáo chủ nói - Làm ơn cho tôi được giữ chiếc khăn. Tôi sẽ cho thêu ba bông huệ bằng vàng lên đó, và tôi sẽ trao lại cho đại đội ngài để làm quân kỳ.

- Thưa Đức ông - Ông De Treville nói - Như thế sẽ bất công đối với quân cận vệ. Ông D Artagnan không thuộc quân tôi mà thuộc ông des Essarts.

- Thế thì, ông hãy lấy anh ta sang đại đội ông đi - Giáo chủ nói - Một khi bốn chiến binh can trường yêu quý nhau đến thế mà lại không phục vụ trong cùng một đại đội há chẳng bất công sao.

Ngay tối đó, ông De Treville báo cáo tin ấy cho ba chàng ngự lâm và D Artagnan và mời cả bốn người hôm sau tới ăn điểm tâm.

D Artagnan không đủ sức để gánh nổi vui mừng nữa. Uớc mơ suốt đời chàng là trở thành một ngự lâm quân.

- Thật tình! - D Artagnan nói với Athos - Ý của anh đã làm nên chiến thắng đó, và như anh đã nói đấy, chúng ta đã có thể gắn nó với một cuộc bàn bạc quan trọng bậc nhất.

- Ta lại còn có thể trở lại câu chuyện đó lúc này mà không bị ai nghi ngờ, bởi nhờ Chúa phù hộ, từ nay chúng ta chuyển sang phe Giáo chủ rồi.

Ngay tối đó, D Artagnan tới để tỏ lòng tôn kính ông des Essarts và báo tin cho ông mình đã được đề bạt.

Ông des Essarts rất yêu D Artagnan liền ngỏ ý tặng chàng một số thứ, vì sự thay đổi đơn vị sẽ dẫn đến những khoản chi tiêu sắm sửa quân trang.

D Artagnan từ chối, nhưng không bỏ lỡ dịp tốt, chàng nhờ ông đánh giá giúp chiếc nhẫn kim cương trao cho ông mà chàng muốn đổi thành tiền.

Tám giờ sáng hôm sau, tên hầu của ông des Essarts đến chỗ D Artagnan và trao cho chàng một túi vàng bẩy nghìn livres.
Đó là giá chiếc nhẫn kim cương của Hoàng hậu.

Chú thích:
(1) Tác giả áp đặt quá đáng tình tiết này: Người đã chết không thể giữ súng trong tay, và bao nhiêu việc như thế làm sao có thể thực hiện trong mười lăm phút.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 01:01:46 | Chỉ xem của tác giả
Chương 48
Việc gia đình


Athos đã tìm ra được từ: Việc gia đình. Việc gia đình không chịu sự điều tra của Giáo chủ. Việc gia đình không liên quan đến ai. Người ta có thể lo việc gia đình công khai trước mọi người.

Thế là Athos đã tìm ra được từ: Việc gia đình.

Aramis tìm ra ý tưởng: những tên hầu.

Porthos nghĩ phương kế. nhẫn kim cương.

Chỉ có D Artagnan chẳng nghĩ ra kế gì, nhưng lại vẫn thường là người có nhiều sáng kiến nhất trong bốn người. Nhưng cũng phải nói, chỉ riêng cái tên Milady đủ làm chàng tê liệt.

- À mà có chứ, chàng đã tìm được người mua nhẫn kim cương.

Bữa điểm tâm ở nhà ông De Treville là một chuyện vui mừng mê ly. D Artagnan đã có đồng phục ngự lâm. Vì cùng vóc người với Aramis vì Aramis được chủ hiệu sách trả hậu cho bài thơ của chàng, nên cái gì cũng sắm một đôi, và chàng đã nhường cho bạn mình một bộ quân trang hoàn chỉnh. D Artagnan có lẽ đã tràn trề thỏa mãn ước nguyện nếu như chàng không nhìn thấy Milady vẫn ló ra như một đám mây đen ở chân trời.

Sau bữa điểm tâm họ thỏa thuận sẽ họp mặt tại lều của Athos và ở đó sẽ bàn nốt công việc.

D Artagnan suốt ngày hôm đó đi khắp doanh trại để phô bộ trang phục ngự lâm quân.

Buổi tối, theo giờ đã ấn định, bốn người bạn tụ hội lại. Chỉ còn ba điều phải quyết định:

- Viết gì cho em chồng Milady. Viết gì cho con người khôn khéo ở Tours.

Những gã hầu nào sẽ mang thư đi.

Mỗi người đều hiến người hầu của mình. Athos nói về tính kín đáo của Grimaud, chỉ nói khi chủ tháo chỉ khâu ở miệng.

Porthos khoe sức lực của Mousqueton ở tầm cỡ có thể quật đổ bốn người bình thường. Aramis tin tưởng ở sự khôn khéo của Bazin, ca tụng bốc trời ứng viên của mình. Cuối cùng, D Artagnan hoàn toàn tin tưởng vào sự can trường của Planchet, và nhắc lại chuyện hắn đã xử trí thế nào trong vụ việc gai góc ở Bulônhơ.

Bốn đức tính ấy giành giật nhau hồi lâu trong cuộc thi tuyển ngoạn mục.

- Không may thay - Athos nói - ta lại cần phái đi một người hội đủ cả bốn đức tính ấy.

- Nhưng tìm đâu ra được một người hầu như thế?

- Không thể tìm nổi - Athos nói - Tôi biết rõ mà. Ta lấy Grimaud vậy.

- Lấy Mousqueton.

- Lấy Bazin.

- Lấy Planchet: Planchet dũng cảm và khôn khéo, thế là có hai trong bốn phẩm chất rồi.

- Thưa các vị - Aramis nói - cái chính không phải là biết ai trong bốn gã là người kín đáo nhất, khỏe nhất, khôn khéo nhất, hoặc can trường nhất, cái chính là phải biết xem kẻ nào thích tiền nhất.

- Điều mà Aramis nói thật đầy ý nghĩa - Athos nói tiếp - Ta nên lợi dụng những tật xấu của con người chứ không phải là đức hạnh của họ - Thưa cha tu viện trưởng, ngài đúng là một nhà đạo đức học lớn?

- Hẳn rồi - Aramis nói - bởi không những ta cần được phục vụ tốt sao cho thành công, mà còn không để thất bại. Bởi trường hợp thất bại, lại là chuyện cái đầu, không phải đầu của người hầu đâu.

- Khẽ chứ, Aramis! - Athos nói.

- Đúng thế, không phải đầu bọn người hầu- Aramis nói tiếp - mà đầu người chủ và đầu cả mấy người chủ nữa! Bọn người hầu của chúng ta liệu có trung thành đến mức liều đời vì chúng ta không? Không!

- Tôi tin - D Artagnan nói - tôi hầu như đảm bảo cho Planchet.

- Thế thì! Bạn thân mến, bạn hãy thêm vào lòng trung thành tự nhiên của hắn một món sộp vào làm cho hắn sống dễ chịu một chút, thay vì đảm bảo một lần, làm thế là đảm bảo gấp đôi đấy.

- Ôi, lạy Chúa? Dẫu sao các cậu cũng nhầm cả rồi - Athos vốn lạc quan khi đụng đến sự vật, lại bi quan khi đụng đến con người, nói - Họ sẽ hứa tràn đi để có tiền, và dọc đường nỗi sợ hãi sẽ ngăn họ hành động. Một khi đã cầm tiền, họ sẽ nắm lấy nó cho thật chắc. Nắm chắc rồi, họ sẽ thú nhận. Mẹ kiếp! Chúng ta không phải lũ con nít! Để sang được nước Anh (Athos hạ giọng) phải đi qua gần khắp nước Pháp nhan nhản bọn gián điệp và bọn chó má của Giáo chủ, phải có hộ chiếu để xuống tàu, phải biết tiếng Anh để hỏi đường tới London. Xem xem, tôi thấy điều này khó lắm.

- Chả khó tí nào - D Artagnan kiên quyết chủ trương phải làm việc này cho kỳ được nói - Trái lại, tôi thấy dễ thôi. Mẹ kiếp, tất nhiên, nếu ta viết cho Huân tước De Winter những điều vượt qua chuyện nhà cửa, những nỗi hãi hùng về Giáo chủ.

- Khẽ chứ? - Athos nói.

- Những âm mưu những bí mật quốc gia, - D Artagnan tiếp tục nói nhỏ theo lời nhắc nhở của Athos - Tất nhiên chúng ta sẽ bị bánh xe nghiến tươi tất cả(1) nhưng lạy Chúa, đừng quên, như anh đã nói, Athos ạ, chúng ta với mục đích duy nhất để khi Milady đặt chân tới London, ông ta loại ngay mụ không cho hại chúng ta. Tôi sẽ viết cho ông ta một bức thư đại khái như thế này…

- Để xem nào - Aramis nói, mặt đã sẵn vẻ phê phán

"Thưa ngài bạn thân mến"…

- À, hay lắm, bạn thân mến, với một người Anh - Athos ngắt lời mở đầu khá lắm! Hoan hô, D Artagnan! Riêng với câu ấy cậu đã bị phanh thây thay cho bị nghiến sống rồi.

- Thế thì, thế này vậy: "Thưa ngài", gọn thế thôi.

- Cậu cứ gọi là "Thưa Huân tước" - Athos nắm vững các nghi thức nói.

"Thưa Huân tước, ngài còn nhớ khu vườn kín thả dê ở Luxembourg chứ?"

Hay thật! Vườn Luxembourg lúc này ư? Người ta lại tưởng bóng gió Thái hậu?

- Viết thế mới thật là khéo! - Athos nói.

- Thế thì, đơn giản thôi vậy "Thưa Huân tước, ngài có nhớ một bãi kín nhỏ nào đó mà người ta đã tha mạng ngài?"

- D Artagnan ơi là D Artagnan - Athos nói - Cậu sẽ chỉ mãi mãi là một biên tập viên tồi, "Mà người ta đã tha mạng ngài".

- Thôi đi! - Ai lại đi viết thế. Người ta không nhắc những việc đó với một người lịch sự. Trách quên ơn là gây thù oán đó.

- Ôi! Bạn thân mến, - D Artagnan nói - anh thật không thể chịu nổi, và nếu cứ phải viết dưới sự kiểm duyệt của anh, nói thật nhé, tôi thèm vào nữa.

- Cậu làm thế là đúng. Cậu hãy điều khiển cây súng và lưỡi gươm, bạn thân mến ạ, hai ngón đó thì cậu rất hào hoa, còn cây bút hãy chuyển cho ngài tu viện trưởng, nó liên quan đến ngài nhiều hơn.

- Ờ, đúng, phải rồi - Porthos nói - hãy chuyển bút cho Aramis, hắn ta viết luận văn bằng cả tiếng Latinh kia mà.

- Thôi được - D Artagnan nói - Aramis, anh soạn thảo bức thư này đi. Nhưng thề có Đức Thánh cha giáo hoàng! Hãy viết cho chặt chẽ, bởi đến lượt tôi, tôi cũng sẽ vặt lông anh đấy, xin báo trước như vậy.

- Tôi không đòi hỏi gì hơn - Aramis nói với niềm tin ngây thơ mà mọi thi sĩ vốn có sẵn trong mình - Nhưng phải cho tôi biết rõ đã, tôi mới chỉ được nghe chỗ này, chỗ kia mỗi chỗ một tí, rằng con chị dâu đó là một con gian manh tôi cũng đã có bằng chứng khi nghe nó nói chuyện với Giáo chủ.

- Khẽ chứ nào, đồ quỷ! - Athos nói.

- Nhưng - Aramis tiếp tục - tôi không nắm được chi tiết.

- Tôi cũng vậy - D Artagnan nói.

D Artagnan và Athos im lặng nhìn nhau một lúc. Cuối cùng Athos sau khi đã tĩnh tâm lại và tái người đi hơn thường lệ vốn đã như thế, ra hiệu đồng ý, D Artagnan hiểu mình có thể nói ra.

- Thế thì! Đây là điều phải nói ra - D Artagnan nói tiếp - "Thưa Huân tước, chị dâu ngài là một mụ đàn bà hiểm độc, đã từng muốn giết ngài để hưởng gia tài của ngài. Nhưng mụ không thể lấy anh trai ngài, vì đã cưới chồng ở Pháp, và đã bị…

D Artagnan dừng lại nhìn Athos như thể muốn tìm một từ.

- "Bị chồng đuổi", - Athos nói.

- "Bởi vì mụ đã từng bị đóng dấu chín" - D Artagnan tiếp tục.

- Sao, mụ định giết người em chồng ư? Porthos kêu lên - - Không thể thế.

- Phải, thế đấy.

- Mụ đã từng có chồng? Aramis hỏi.

- Phải.

- Và chồng mụ đã phát hiện ra dấu bông huệ đóng chín trên vai mụ? - Porthos kêu lên.

- Phải.

Ba tiếng "phải" đều do Athos nói, mỗi tiếng giọng càng u uất hơn.

- Và ai đã nhìn thấy cái dấu hoa huệ đó? Aramis hỏi.

- D Artagnan và tôi, hay đúng hơn, nếu theo trật tự niên giám là tôi và D Artagnan - Athos trả lời.

- Và người chồng của con mụ ghê tởm đó còn sống? Aramis hỏi.

- Ông ta còn sống.

- Anh có chắc không?

- Tôi chắc chứ.

Một phút im lặng lạnh lùng, trong khi đó mỗi người đều cảm nhận riêng theo bản tính của mình. Athos là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng, chàng nói:

- Lần này, D Artagnan đã đưa ra cho chúng ta một chương trình hành động rất hay và trước hết ta phải viết thế đã.

- Anh nói đúng, Athos ạ - Aramis nói - và việc biên tập mới gai góc đây. Bản thân ông chánh án cũng sẽ bối rối khi soạn thảo một bức thư mạnh mẽ như thế, trong khi đó ông ta soạn thảo một bản án một cách dễ dàng. Thôi được, các người im đi để tôi viết Thế là Aramis cầm lấy bút, nghĩ vài phút, viết liền một mạch tám đến mười dòng, bằng nét chữ mềm mại duyên dáng của đàn bà, rồi bằng một giọng dịu dàng và chậm rãi như thể mỗi từ đã được cân nhắc chu đáo, chàng đọc:

"Thưa Huân tước,

Người viết mấy dòng chử này cho ngài đã có vinh dự được đọ gươm với ngài trong một mảnh đất kín ở phô Âm ty. Từ đó vì ngài đã từng nhiều lần muốn kết bạn với người đó, người đó có nghĩa vụ phải nhận ra tình bạn bằng một lời khuyên chân thành. Hai lần ngài suýt nữa đã trở thành nạn nhân của người họ hàng gần nhất mà ngài tin là người thừa kể, bởi vì ngài không biết trước khi kết hôn ở Anh, người đó đã từng cưới chồng ở Pháp. Nhưng lần thứ ba, tức lần này, ngài có thể bị giết hại. Mụ họ hàng đó ra đi từ La Rochelle trong đêm tối tới nước Anh. Ngài hãy giám sát mụ khi mụ tới, bởi mụ có những mưu toan to lớn và khủng khiếp. Nếu ngài nhất thiết muốn biết mụ ta có khả năng làm chuyện gì, xin ngài hãy xem cái quá khứ của mụ trên vai trái…"

- Ồ, thế là tốt lắm rồi, Athos nói - cậu đúng là một cây bút cỡ đổng lý văn phòng Nhà nước, Aramis ạ. Bấy giờ Huân tước De Winter sẽ cảnh giác cao, đương nhiên nếu thư này đến tay ông ta, và không may nó có rơi vào tay Giáo chủ, thì chúng ta cũng sẽ không bị phương hại gì. Nhưng vì gã người hầu ra đi có thể chỉ dừng lại ở Saterlơrôn mà làm cho chúng ta tin đã đến London, ta chỉ trao bức thư và nửa số tiền, và hứa đưa nốt nửa kia, nếu có thư trả lời. Cậu vẫn còn cái nhẫn chứ?

- Còn hơn cả thế kia, tôi có tiền rồi.

- Và D Artagnan ném cái túi lên bàn, nghe tiếng vàng kêu xủng xoảng, Aramis ngước mắt nhìn, Porthos giật mình, còn Athos vẫn bình thản như không. Chàng hỏi:

- Có bao nhiêu trong túi?

- Bẩy nghìn livrơ toàn tiền mười hai quan.

- Bảy nghìn livres? - Porthos kêu lên - Cái viên kim cương nhỏ hạng xoàng ấy mà giá bảy nghìn livrơ cơ à?

- Chắc là như thế - Athos nói - vì tiền một đống đây. Tôi không cho là anh bạn D Artagnan của chúng ta bỏ thêm tiền của mình vào đâu.

- Nhưng, các vị ạ, trong mọi chuyện này, chúng ta không nghĩ gì đến Hoàng hậu. Vậy chúng ta hãy chăm lo một chút đến sức khỏe của ông Buckingham thân yêu của bà. Đó là điều tối thiểu ta phải làm.

- Chính thế - Athos nói -nhưng việc này liên quan đến Aramis.

Chàng ta đỏ mặt dáp:

- Thế thì tôi phải làm gì nào?

- Ồ - Athos nói tiếp - thật quá đơn giản - soạn thảo một bức thư thứ hai cho con người khôn khéo sống ở Tours.

Aramis lại cầm bút, lại nghĩ, và viết những dòng thư lập tức được các bạn hoan nghênh nhiệt liệt như sau: "Cô em họ thân mến…

- A! - Athos nói - ra con người khôn khéo đó là họ hàng của cậu - Em con cô ấy mà - Aramis nói.

- Vậy tiếp tục với em họ cậu đi!

Aramis tiếp tục đọc:

"Cô em họ thân mến, Đức ông Giáo chủ mà Chúa dành cho hạnh phúc của nước Pháp và sự lúng túng của kẻ thù vương quốc đang sắp kết liễu bọn phản nghịch tà đạo ở La Rochelle. Có thể hạm đội cứu viện quân Anh sẽ không đến kịp để tận mắt nhìn thấy. Tôi cũng không dám nói rằng tôi tin chắc ông De Buckingham sẽ bị ngăn trở bởi một sự cố lớn nào đó. Đức ông là một nhà chính trị lỗi lạc nhất trong thời gian qua. Ngài sẽ dập tắt mặt trời, nêu mặt trời làm vướng chân ngài. Hãy báo những tin vui này cho bà chị em, em thân mến ạ. Anh mơ thấy gã người Anh đáng nguyền rủa ấy bị chết. Anh không thể nhớ lại được là bởi dao găm hay thuốc độc. Có điều anh tin chắc là anh đã mơ thấy hắn bị chết, và như em đã biết đấy, những giấc mơ của anh không đánh lừa anh bao giờ. Em hãy yên tâm, không lâu nữa anh sẽ trở về".

- Tuyệt lắm - Athos nói - cậu là vua của các nhà thơ, Aramis thân mến ạ, cậu nói như Apôcalíp(2) ấy và cậu nói đúng như kinh Phúc âm. Giờ cậu chỉ còn việc ghi địa chỉ vào nửa thôi.

Dễ thôi mà - Aramis nói.

Chàng gập bức thư lại một cách tình tứ rồi viết: "Gửi cô Mítsông, cô thợ may ở thành Tours".

Cả ba người bạn cùng nhìn nhau cười: họ bị lừa, Aramis nói:

- Bây giờ, các vị đã hiểu chỉ Bazin mới có thể mang thư này đi. Cô em họ chỉ quen biết Bazin và chỉ tin anh ta. Bất kỳ ai khác đều làm hỏng việc. Hơn nữa, Bazin nhiều tham vọng và thông thái. Bazin đã đọc lịch sử, các vị ạ, hắn biết Xích Canh đã trở thành giáo hoàng sau khi đã từng chăn lợn con. Hắn cũng tính chuyệnthụ giáo như tôi chẳng qua vẫn hy vọng đến lượt hắn cũng trở thành giáo hoàng hoặc ít nhất cũng Giáo chủ. Các vị hiểu một người đã có những mục tiêu như thế sẽ không để bị tóm, hoặc nếu bị tóm, sẽ chịu tử đạo còn hơn khai ra.

- Tốt, tốt lắm - D Artagnan nói - Tôi hoàn toàn đồng tình anh chọn Bazin. Nhưng anh ủng hộ tôi chọn Planchet đi. Ngày nào Milady đã dùng gậy phang hắn tống ra khỏi cửa mà Planchet thì nhớ dai lắm, và tôi xin đảm bảo, nếu gã thấy có thể trả thù được, thì thà hắn chịu để đánh gãy sống lưng chứ không chịu bỏ cuộc đâu! Nếu việc đi Tours là việc của anh, Athos ạ, việc đi London cũng là việc của tôi. Vậy tôi mong các vị hãy chọn Planchet, hơn nữa hắn đã từng đến London với tôi và biết nói rất chuẩn mấy câu: "London, sir, if want please and My master, lord D Artangman" (London, thưa ngài, mong ngài làm ơn chỉ giúp và ông chủ tôi, ngài D Artagnan). Với những điều đó, xin các vị yên tâm, hắn sẽ biết đường đi, đường về.

- Trong trường hợp ấy - Athos nói - Planchet cần được nhận bẩy trăm livrơ tiền đi và bẩy trăm livrơ tiền về còn Bazin ba trăm livres tiền đi và ba trăm livrơ tiền về. Như thế sẽ còn lại năm nghìn livres, mỗi người chúng ta cầm một nghìn livrơ để chi dùng riêng, còn để lại quỹ một nghìn livrơ mà cha tu viện trưởng sẽ giữ để chi những trường hợp đặc biệt hoặc nhu cầu chung. Như thế có được không?

- Anh Athos thân mến - Aramis nói - Anh nói cứ như ông Nétxto mà ai cũng biết là một nhà thông thái bậc nhất của Hy Lạp ấy.

- Vậy thì! Dứt khoát nhé - Athos nói lại - Planchet và Bazin sẽ đi. Tóm lại, tôi hoàn toàn vui vẻ giữ lại Grimaud, hắn đã quen tính nết chủ, tôi biết thế. Hôm qua chắc hắn đã hết vía, chuyến đi này sẽ chỉ làm hại hắn.

Họ cho gọi Planchet đến và cho hắn những chỉ dẫn. Hắn cũng đã được D Artagnan báo trước, đầu tiên là vinh quang, tiếp đến là tiền bạc rồi đến hiểm nguy.

- Tôi sẽ giấu thư vào mép áo - Planchet nói - nếu bị bắt tôi sẽ nuốt ngay.

D Artagnan nói:

- Ồ, thế thì anh không thể làm nổi nhiệm vụ này rồi.

- Vậy tối nay ông sao cho tôi một bản, mai tôi sẽ thuộc lòng.

D Artagnan nhìn các bạn như muốn nói: "Thế nào! Tôi đã hứa với các anh mà?"

- Bây giờ - Chàng tiếp tục căn dặn Planchet - Anh có tám ngày để đến gặp Huân tước De Winter và có tám ngày để trở về đây, tổng cộng mười sáu ngày. Nếu đến ngày thứ mười sáu sau khi khởi hành, tám giờ tối, anh chưa về đến nơi, sẽ không có tiền, dù là tám giờ năm phút.

- Vậy thì ông chủ - Planchet nói - mua cho tôi một cái đồng hồ!

- Cầm lấy cái này! - Athos vừa nói vừa đưa cho hắn chiếc đồng hồ của mình rất hào hiệp vô tư - Và hãy là một chàng trai can trường. Hãy nghĩ rằng nếu ngươi nói, nếu ngươi ba hoa, nếu ngươi la cà, ngươi sẽ làm chủ ngươi bị chặt cổ, mà chủ ngươi lại hết sức tin tưởng ở long trung thành của ngươi và đảm bảo cho ngươi. Nhưng cũng cần nghĩ nếu do lỗi của ngươi, gây tai họa cho D Artagnan, ta sẽ tìm lại được ngươi ở bất cứ nơi đâu, và sẽ phanh thây ngươi.

- Ồ, thưa ông - Planchet nói, vừa thấy tủi vì bị nghi ngờ và nhất là hoảng sợ về sự bình thản của Athos.

- Và ta - Porthos trợn tròn mắt lên - nên biết ta sẽ lột da mày.

- Ôi, thưa ông!

- Còn ta - Aramis nói bằng một giọng dịu dàng và du dương ta sẽ thiêu người dưới lửa nhỏ như một tên mọi rợ.

- Ôi, thưa ông!

Và Planchet òa khóc, không biết do sự hãi trước những lời hăm dọa đối với hắn hay vì cảm kích khi thấy bốn người bạn gắn bó chặt chẽ với nhau đến thế.

D Artagnan cầm tay và ôm hôn hắn và bảo:

- Thấy chưa, Planchet, các ông ấy nói với ngươi như vậy là vì quý ta, nhưng trong thâm tâm lại yêu mến ngươi.

- Ôi thưa ông? - Planchet nói - hoặc tôi sẽ hoàn thành hoặc cứ cắt tôi ra làm bốn. Cứ việc cắt tôi ra làm bốn, ông cứ tin là không còn sót mảnh nào chịu khai báo đâu.

Chàng quyết định tám giờ sáng hôm sau, Planchet sẽ ra đi cốt để như Planchet đã nói với chàng, đêm có thể học thuộc lòng bức thư. Vậy là hắn có mười hai tiếng đồng hồ để lo việc học. Và phải trở về lúc 8 giờ tối ngày thứ mười sáu.

Sáng hôm sau lúc hắn sắp lên ngựa, D Artagnan trong lòng vẫn cảm thấy lo lắng cho Quận công De Buckingham, kéo Planchet ra một chỗ và bảo hắn:

- Nghe đây, khi anh đã trao thư cho Huân tước De Winter và khi ông ấy đã đọc xong, anh bảo thêm ông ấy: "Xin ngài hãy canh chừng cho ngài Huân tước De Buckingham, bởi vì người ta muốn ám sát ngài ấy". Này Planchet, điều này rất nghiêm trọng, rất cần thiết đến mức ta cũng chẳng muốn thú nhận với các bạn ta là ta tin trao cho anh bí mật này và đối với một nhiệm vụ hàng đầu như thế, ta cũng không muốn viết cho anh mang đi.

- Xin ông yên tâm - Planchet nói - Rồi ông sẽ thấy có thể tin cậy vào tôi.

Và cưỡi trên một con tuấn mã, gã phải đi hai mươi dặm rồi bỏ ngựa lại để đổi ngựa trạm, Planchet phi nước đại, lòng hơi thắt lại vì ba lời hẹn ước của ba chàng ngự lâm quân nhưng dẫu sao cũng trong tình trạng tốt đẹp nhất trên đời.

Bazin ra đi sáng hôm sau đến Tours và có tám ngày để hoàn thành nhiệm vụ.

Bốn người bạn, trong suốt thời gian vắng mặt hai gã ấy, hơn bao giờ hết phải để mắt canh chừng, phải mũi đánh hơi, tai nghe ngóng. Ngày ngày phải thử xem liệu có bắt gặp người ta nói gì không, phải rình rập điệu bộ, dáng dấp của Giáo chủ, phải đánh hơi các xe thư vừa tới. Nhiều lần, không tránh khỏi run lên khi họ bị gọi lên vì một công việc đột xuất nào đó. Vả lại họ cũng phải giữ sao cho được an toàn cho chính họ. Milady là một con ma, khi nó đã hiện hình với ai, nó sẽ không để cho người đó ngủ yên.

Chú thích:

(1) Hình phạt thời trung cổ cho bánh xe nghiến nát chân tay như ép mía
(2) Tiếng Hy Lạp có nghĩa là linh ứng. Chương cuối cùng của Tân ước, có tính chất tượng trưng, huyền bí, rất tối nghĩa, nhưng lại đầy chất thơ.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 01:05:09 | Chỉ xem của tác giả
Ba người lính ngự lâm - Chương 48
-----------------------------------------------

Sáng ngày thứ tám, mặt mày tươi tỉnh như vẫn thường thấy, Bazin mỉm cười theo thói quen bước vào tửu quán Pácpayô, đúng lúc bốn người bạn đang ăn điểm tâm, và nói theo đúng quy ước:

- Thưa ông Aramis, đây là thư trả lời của cô em họ.

Bốn người bạn đưa mắt nhìn nhau vui sướng, nửa phần công việc đã được làm xong, tất nhiên đây là phần việc tốn ít thời gian và dễ dàng hơn.

Aramis cầm bức thư, nét chữ thô kệch và sai chính tả, không tránh khỏi đỏ mặt.

- Lạy chúa! - Chàng vừa cười vừa reo lên - dứt khoát là tôi thất vọng rồi. Chả bao giờ cái cô Mítsông tội nghiệp viết được như ông De Voatuya.

- Thế nghĩa là thế nào, cái cô Migiông tội nghiệp ấy - Người lính Thụy sĩ đang trò chuyện với bốn người bạn thì thư đến liền hỏi.

- Ồ, Chúa ơi! Có gì đâu - Aramis nói - một cô thợ may bé nhỏ duyên dáng mà tôi rất yêu và tôi yêu cầu cô ấy viết cho mấy dòng để làm kỷ niệm ấy mà.

- Nói thật nhé - Người lính Thụy Sĩ nói - Nếu nàng là một mệnh phụ như cái chữ viết của nàng, thì ông đúng là có phúc lớn đấy ônh bạn của tôi ạ!

Aramis đọc thư rồi chuyển cho Athos và bảo:

- Athos, anh xem cô ấy viết gì này.

Athos liếc nhìn qua bức thư và muốn dập tắt mọi sự nghi ngờ có thể phát sinh, đọc to lên:

"Anh họ của em ạ, chị em và em đoán rất giỏi những giấc mơ, và chúng em cũng có nỗi sợ khủng khiếp về những giấc mơ ấy. Nhưng về giấc mơ của anh, có thể nói, em hy vọng là mọi mộng mị đều là giả dối. Tạm biệt! Mong anh luôn khỏe và thỉnh thoảng cho chúng em biết tin về anh".

Aglaê Mítsông(3)

- Cô ta nói về giấc mơ nào thế? - Người lính long kỵ xán lại gần trong khi đọc, hỏi.

- Phải, giấc mơ gì vậy? - Người lính Thụy Sĩ nói.

- Ồ, mẹ kiếp - Aramis nói - thì đơn giản nó là một giấc mơ tôi mơ rồi kể cho cô ấy nghe chứ còn cái của nợ gì nữa.

- Ồ, phải, mẹ kiếp! Vì đơn giản là kể lại giấc mơ, nhưng tôi không mơ bao giờ cả!

Athos vừa đứng dậy vừa nói:

- Thế thì anh may quá đấy, tôi những mong có thể nói được như anh thôi!

- Không bao giờ! - Người lính Thụy sĩ lắp lại và tỏ ra rất sung sướng vì một người như Athos lại thèm muốn một điều gì đó ở mình - Không bao giờ! Không bao giờ!

Thấy Athos đứng dậy, D Artagnan cũng đứng lên theo, khoác tay Athos đi ra.

Porthos và Aramis ở lại để đối mặt với những lời giễu cợt của tay lông kỵ binh và người lính Thụy Sĩ.

Còn Bazin, anh chàng ra nằm ngủ khoèo trên một ổ rơm, và anh ta có nhiều óc tưởng tượng hơn anh chàng Thụy Sĩ, nên mơ thấy Aramis trở thành giáo hoàng, và đội lên đầu anh chiếc mũ hồng y Giáo chủ.

Nhưng dù trở về may mắn Bazin cũng không cất được một phần nỗi lo đang châm đốt bốn người bạn. Những ngày chờ đợi dài dằng dặc, và nhất là D Artagnan những muốn đánh cược ngày bây giờ dài bốn tám giờ. Chàng quên mất những sự chậm trễ buộc phải có của công việc chạy tàu. Chàng phóng đại thế lực của Milady. Chàng gán cho mụ đàn bà đối với chàng giống như một con quỷ đó, có lũ tay chân cũng siêu nhiên như mụ, chàng tưởng tượng ra từ mỗi tiếng động nhỏ nhất người ta tới bắt giữ chàng và người ta dẫn Planchet về để đối chứng với chàng và các bạn chàng. Còn hơn thế nữa, lòng tin của chàng xưa kia lớn lao đến thế, vào cái gã xứ Picađy ấy, ngày một giảm sút. Sự lo âu ấy lớn đến nỗi lan sang cả Porthos và Aramis. Chỉ còn mỗi Athos vẫn bình thản như không, như thể chẳng có mối hiểm nguy nào động đậy xung quanh chàng và chàng vẫn hít thở không khí như mọi ngày thường.

Nhất là ngày thứ mười sáu, những dấu hiệu bồn chồn ở D Artagnan và hai người bạn kia thể hiện rõ đến nỗi họ đứng ngồi không yên và lang thang như những cái bóng trên con đường mà Planchet sẽ phải trở về.

Athos bảo họ:

- Thật đúng là, các cậu không phải là những người lớn nữa mà là một lũ trẻ con, đến nỗi một con mụ đàn bà này làm cho các cậu sợ hãi ghê gớm đến thế. Và tóm lại, có chuyện gì nào? Bị cầm tù ư? Thì người ta sẽ lôi chúng ta ra khỏi tù. Người ta đã từng kéo bà Bonacieux ra khỏi tù như chơi đó sao. Bị chặt đầu ư? Nhưng ngày ngày trong chiến hào chúng ta vẫn vui vẻ phơi mình ra cho những chuyện còn tệ hơn, bởi một viên đạn trái phá có thể làm gãy chân ta và tôi tin rằng một nhà giải phẫu cắt đùi ta còn làm ta đau hơn tên đao phủ chặt đầu ta. Vậy hãy bình tĩnh chờ đợi. Hai giờ, bốn giờ, sáu giờ, hoặc chậm hơn nữa, Planchet sẽ ở đây. Hắn đã hứa như vậy. Và tôi, tôi có một niềm tin rất lớn vào những lời hứa của Planchet, một người mà tôi thấy là một chàng trai rất can trường.

- Nhưng nếu hắn không tới? - D Artagnan nói.

- Ồ nếu hắn không tới, đó là có lẽ hắn bị chậm, có thế thôi.

- Hắn có thể bị ngã ngựa, hắn có thể bị lộn nhào qua cầu, có thể chạy quá nhanh nên bị mắc chứng sưng phổi. Thế đấy. Các vị ạ, ta phải tính đến phần của các sự cố chứ. Đời là một chuỗi tràng hạt những nỗi khổ đau nho nhỏ mà nhà triết học vừa cười vừa lần những hạt khổ dau. Hãy là nhà triết học như tôi, các vị ạ, hãy ngồi vào bàn và uống, chẳng có gì làm hiện ra tương lai màu hồng như ta nhìn nó qua một cốc rượu sămbéctanh.

- Đúng lắm, - D Artagnan trả lời - Nhưng tôi mệt mỏi vì cứ sợ rằng, thứ rượu vang đó lại lấy ra từ hầm rượu của Milady, ngay khi uống.

- Cậu khó tính quá - Athos nói - một người đàn bà đẹp đến như thế?

- Một mụ đàn bà bị đóng dấu! - Porthos cười hô hố.

Athos giật mình đưa tay lên trán lau mồ hôi cũng đứng dậy không kìm nổi một động tác căng thẳng.

Trong khi ấy ngày vẫn cứ trôi và chiều tối đến chậm hơn nhưng cuối cùng vẫn đến. Các quầy rượu đầy ắp khách uống.

Athos rủng rỉnh trong túi phần chia tiền bán kim cương, không rời quán Pácpayô nữa. Chàng đã tìm thấy trong ông De Buyxinhi người chung quy đã khao bọn chàng một bữa tiệc thịnh soạn, một đối thủ cờ bạc ngang tầm với chàng. Họ chơi với nhau như thường lệ tới khi đồng hồ điểm bẩy tiếng và người ta nghe thấy tiếng chân lính tuần tra đến thay phiên các trạm, rồi bảy giờ rưỡi vang lên tiếng kèn thu quân.

- Chúng ta nguy rồi - D Artagnan rỉ rai Athos.

- Cậu muốn nói chúng ta đã thua chứ gì? - Athos bình tĩnh vừa nói vừa rút trong túi ra bốn đồng pítxtôn vàng ném lên bàn, rồi tiếp tục - Các vị, kèn thu quân rồi, ta về ngủ thôi.

Và Athos, theo sau là D Artagnan ra khỏi quán Pácpayô, Aramis khoác tay Porthos đi đằng sau. Aramis lải nhải mấy vần thơ, và Porthos thỉnh thoảng lại nhổ vài chiếc ria mép tỏ ý thất vọng.

Nhưng kìa, bất thình lình từ trong bóng đêm, một bóng người hiện ra, mà hình dạng có vẻ thân quen với D Artagnan và một giọng nói rất quen thuộc nói với chàng:

- Thưa ông, tôi mang đến cho ông áo khoác của ông vì tối nay trời lạnh.

- Planchet! - D Artagnan reo lên, mừng vui đến phát rồ.

- Planchet! - Porthos và Aramis nhắc lại.

- Ờ, đúng là Planchet - Athos nói - Thế thì có gì lạ? Hắn đã hứa trở về lúc tám giờ, và bây giờ là tám giờ. Hoan hô, Planchet người là một chàng trai biết giữ lời hứa, và nếu bao giờ người thôi làm cho chủ ngươi, ta vẫn dành một chỗ để ngươi giúp ta đấy.

- Ồ, không, không bao giờ - Planchet nói - không bao giờ tôi rời bỏ ông D Artagnan.

Đồng thời D Artagnan cảm thấy Planchet nhét một mẩu thư ngắn vào tay mình.

D Artagnan rất muốn ôm hôn Planchet lúc trở về cũng như chàng đã từng ôm hôn anh ta lúc ra đi. Nhưng chàng lại ngại sự biểu lộ tràn trề đối với người hầu như thế giữa nơi phố xá có vẻ kỳ cục đối với người qua lại đành phải kiềm chế.

- Tôi có thư - chàng nói với Athos và các bạn.

- Tốt lắm - Athos nói - Ta về chỗ mình thôi và ta sẽ đọc bức thư.

Bức thư nóng bỏng trong tay D Artagnan chàng muốn rảo bước, nhưng Athos kéo tay chàng và khoác vào tay mình, buộc chàng phải đi cùng nhịp với bạn mình.

Cuối cùng họ bước vào lều bạt, thắp đèn lên, trong khi đó Planchet đứng gác trước cửa để đề phòng bốn người bị bắt quả tang, D Artagnan tay run run, bẻ xi niêm phong mở bức thư mong đợi bấy lâu nay.

Thư chỉ có nửa dòng, nét chữ hoàn toàn của người Anh, ngắn gọn và dứt khoát:

"Thank you, be easy"

Có nghĩa là "Cám ơn, hãy yên tâm"

Athos giật lấy bức thư trong tay D Artagnan, đưa lại gần đèn và đốt và chỉ buông ra khi nó đã hoàn toàn biến thành tro. Rồi gọi Planchet, và bảo hắn:

- Bây giờ chú em, chú có thể đòi bẩy trăm livrơ của chú được rồi, một bức thư như thế này rồi thì chú em không phải lo gì nữa đâu. Thế mà tôi đã phải nghĩ ra biết bao nhiêu cách để giữ bằng được nó - Planchet nói.

- Vậy thì kể lại cho bọn ta nghe nào - D Artagnan nói.

- Trời ơi! Dài lắm, thưa ông.

- Anh nói đúng đấy Planchet ạ - Athos nói - Hơn nữa, trống điểm quân đã báo rồi, chúng ta sẽ bị để ý khi để đèn lâu hơn người khác.

- Thôi được, - D Artagnan nói - Ta đi ngủ vậy. Ngủ ngon nhé! Planchet!

- Thú thật, đây là giấc ngủ đầu tiên từ mười sáu ngày nay đấy, thưa ông.

- Ta cũng vậy? D Artagnan nói.

- Ta cũng thế - Porthos nói.

- Cả ta nữa! - Aramis nói Thế thì các cậu có muốn tôi thú nhận sự thực không? Thật tình thì tôi cũng thế! - Athos nói.

Chú thích:
(3) Đây là sự sơ xuất của tác giả vì bức thư không hề sai chính tả
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 01:07:57 | Chỉ xem của tác giả
Chương 49
Định mệnh


Trong khi đó Milady điên cuồng giận dữ, gầm lên trên boong tàu như một con sư tử cái bị đưa xuống tàu, đã định lao xuống biển để trở vào bờ, bởi nàng không thể chịu nổi ý nghĩ bị D Artagnan làm nhục, bị Athos đe dọa và phải rời nước Pháp và không trả thù được họ. Chả mấy chốc, ý nghĩ ấy hành hạ nàng đến mức mặc cho những gì khủng khiếp có thể đến với mình, nàng đã van nài viên thuyền trưởng ném nàng lên bờ nhưng thuyền trưởng đang lo trốn thoát khỏi tình thế giả mạo đặt giữa những hạm tàu Pháp và Anh, như con dơi giữa đàn chuột và bầy chim(1), đang hết sức vội vã sang tới nước Anh, một mực từ chối không tuân theo cái thói thất thường của đàn bà, mà chỉ hứa với người nữ hành khách, vốn được Giáo chủ đặc biệt gừi gắm, là nếu biển thuận và quân Pháp cho phép sẽ để bà ta cặp bến ở Brơtanhơ hoặc cảng Loriăng hoặc Brétx. Nhưng trong khi chờ đợi, gió lại ngược, biển động mạnh, phải cắt gió đi vát bờ.

Chín ngày sau khi ra khỏi Sarâng, Milady mặt tím lại vì buồn bực và điên giận, chỉ thấy hiện ra vùng bờ biển xanh nhạt của vùng Finítxte.

Nàng tính toán để đi xuyên qua cái góc này của nước Pháp để trở về bên Giáo chủ, ít nhất phải mất ba ngày, thêm một ngày lên bờ thành bốn, thêm bốn ngày này vào chín ngày kia thành mười ba ngày mất toi, mười ba ngày trong khi đó biết bao sự biến quan trọng có thể diễn ra ở London, nàng nghĩ chắc chắn Giáo chủ sẽ giận dữ thấy nàng quay về và hậu quả là ông sẽ sẵn sàng nghe những lời khiếu nại chống nàng hơn là những cáo buộc nàng chống lại kẻ khác. Vậy nên nàng để mặc cho tàu đi qua Loriăng và Brétx không khẩn nài viên thuyền trưởng nữa, còn về phần ông ta, ông ta cũng dè chừng chẳng muốn đánh thức nàng Milady tiếp tục hành trình của mình. Cũng đúng ngày hôm Planchet xuống tàu ở cảng Portsmouth trở về nước Pháp, thì vị nữ phái viên của Đức ông cặp cảng đó một cách thành công.

Toàn thành phố xôn xao vì một hoạt động lạ thường, bốn hạm tàu lớn mới đóng xong vừa được hạ thủy. Người ta thấy ông Buckingham đứng trên cầu tàu, choáng lộn, lòe loẹt, đầy vàng, kim cương, đá quý theo thói quen, mũ dạ trang điểm một chiếc lông trắng cong vut xuống tận vai, xung quanh là bộ tham mưu hầu như cũng choáng lộn như ông.

Đó là một trong những ngày đông đẹp trời và hiếm có mà nước Anh chợt nhớ ra mình cũng có một mặt trời. Vị tinh tú đó đã nhạt đi tuy vẫn còn rực rỡ đang lặn xuống chân trời, nhuộm tía cả bầu trời lẫn mặt biển bằng những vạt lửa và ném lên trên các đỉnh tháp và những ngôi nhà già nua của thành phố những tia nắng vàng, cuối cùng làm các ô cửa kính lấp lánh như ánh lửa một đám cháy. Milady hít thở không khí biển càng gần đất liền càng tươi mát và thơm hơn, vừa ngắm nhìn sức mạnh của những phương tiện chiến tranh ấy mà nàng được trao trách nhiệm phải phá hủy, toàn bộ sức mạnh của cái đạo quân mà nàng phải chiến đấu bằng một mình nàng - một mình người đàn bà là nàng cùng với mấy túi vàng, nàng thầm tự sánh mình với Judita, người đàn bà Do Thái khủng khiếp, khi lọt sang chiến tuyến quân Atxyri, chỉ gẩy tay một cái đã làm tan tành tất cả thành mây khói.

Tàu vào vụng, nhưng khi người ta sắp thả neo thì một tàu khu trục nhỏ, súng ống khủng khiếp, sáp gần chiếc tàu buôn, nhân danh tuần tra duyên hải, thả xuống biển một chiếc xuồng tiến lại cầu thang tàu buôn. Xuồng có một sĩ quan, một viên cai và tám tay chèo. Chỉ một mình sĩ quan lên tàu buôn, và được tiếp đón trọng thể theo đồng phục cấp bậc sĩ quan.

Viên sĩ quan trao đổi vài phút với chủ tàu buôn, đọc cho người này nghe vài tờ giấy ông ta mang theo và theo lệnh của thuyền trưởng tàu buôn, tất cả thủy thủ đoàn của tàu, thủy thủ và hành khách được gọi lên trên boong tàu.

Khi việc điểm danh đã được tiến hành, viên sĩ quan lớn tiếng hỏi về địa điểm khởi hành, lộ trình, ghé bờ ở đâu, mọi câu hỏi thuyền trưởng đều trả lời trôi chảy, không chút khó khăn. Lúc đó, viên sĩ quan mới đi kiểm tra tất cả mọi người, người nọ sau người kia và dừng lại trước mặt Milady, nhìn nàng rất kỹ, nhưng không hề nói với nàng một lời nào.

Rồi ông ta quay về chỗ thuyền trưởng, nói thêm với ông này vài câu, và từ lúc đó con tàu như thể thuộc quyền chỉ huy của ông ta, ông ta ra lệnh, đoàn thủy thủ thi hành ngay. Thế là con tàu lại lên đường luôn có chiếc tàu khu trục hộ tống chạy song song, nòng sáu khẩu đại bác nhằm vào sườn tàu buôn uy hiếp, trong khi đó chiếc xuồng bơi theo rạch nước của chiếc chiến hạm như một chấm nhỏ bên một khối khổng lồ.

Trong khi viên sĩ quan chăm chú quan sát Milady, thì về phía mình, Milady cũng nhìn lại như ăn tươi nuốt sống người kia. Nhưng người đàn bà có đôi mắt lửa, vốn quen đọc thấu trong tim những kẻ mà nàng có nhu cầu đoán ra những bí mật, lần này chỉ thấy bộ mặt vẫn trơ trơ, không khám phá ra được bất cứ điều gì mà nàng cần dò xét. Người sĩ quan đã dừng lại trước mặt nàng và vẫn đang lặng lẽ nghiên cứu về nàng rất cẩn thận có thể chỉ độ hai nhăm hai sáu tuổi, với đôi mắt xanh tươi hơi sâu, cái miệng nhỏ và rất đẹp, không hề nhúc nhích trong những đường nét rất chuẩn xác, cái cằm nhô ra nhiều biểu lộ một ý chí mạnh mẽ, mà nếu ở trong giới người Anh hạ lưu thường cllỉ biểu hiện sự ương bướng, vầng trán hơi ngả về phía sau thích hợp với trán các nhà thơ, những người cuồng nhiệt và các binh sĩ, bị bộ tóc cắt ngắn và thưa hơi che đi, màu hạt dẻ sẫm giống như màu bộ râu cằm phía dưới mặt.

Lúc tàu cặp bến thì trời đã tối. Sương mù làm bóng tối dày đặc thêm tối và tạo thành xung quanh những đèn hiệu và đèn chiếu kè biển những vành tròn tương tự như vành tròn bao quanh mặt trăng khi trời muốn mưa. Không khí người ta hít thở, buồn, ẩm và lạnh.

Milady, người đàn bà mạnh mẽ đến thế cũng không tránh khỏi thấy rùng mình.

Viên sĩ quan yêu cầu Milady cho biết đâu là những bọc gói của nàng rồi cho chuyển hành lý của nàng xuống xuồng và khi mọi việc đã xong, ông ta vừa mời nàng xuống xuồng vừa chìa tay dắt nàng Milady nhìn người đàn ông và ngập ngừng rồi hỏi:

- Thưa ông, ông là ai mà lại chiếu cố chăm sóc quá đặc biệt đến tôi như vậy?

- Ồ, thưa bà, nhìn bộ quân phục tôi mặc - bà phải thấy chứ, tôi là sĩ quan hải quân Anh - người đàn ông trẻ tuổi trả lời.

- Nhưng rút cục, có phải sĩ quan quân Anh có lệ ra lệnh cho đồng bào của mình khi họ cặp bến đất Anh và lịch sự đến mức áp tải họ vào bờ?

- Vâng, thưa bà, đây là thông lệ, không phải do lịch sự mà do cảnh giác nên trong thời chiến, những người ngoại quốc đều được dẫn đến một khách sạn đã chỉ định, cốt để họ được đặt dưới sự giám sát của Nhà nước cho tới khi có được những thông tin đầy đủ về họ.

Những lời lẽ đó được nói ra một cách lịch thiệp chuẩn xác nhất, và với một sự bình thản hoàn hảo nhất. Nhưng nó lại không khiến cho Milady được yên tâm chút nào.

- Nhưng tôi đâu có phải người nước ngoài, thưa ông - Milady nói bằng một giọng đặc Anh chưa hề được nghe thấy từ Portsmouth đến Manchetser - Tôi là phu nhân Clerics, và cái thể thức này…

- Thể thức này là chung thôi, thưa bà, bà có định phá lệ cũng vô ích thôi.

- Thưa ông, vậy tôi sẽ theo ông.

Cầm tay viên sĩ quan, nàng bắt đầu xuống thang và phía dưới là chiếc xuồng đang đợi. Viên sĩ quan đi theo nàng. Một áo choàng lớn được rải ở phía buồng lái, viên sĩ quan bảo nàng ngồi trên cái áo choàng đó rồi ngồi cạnh nàng và bảo thủy thủ:

- Bơi đi!

Tám mái chèo cùng buông tõm xuống biển và nhất loạt chèo chiếc xuồng như bay trên mặt nước.

Trong vòng năm phút xuồng đã cặp bờ.

Viên sĩ quan nhảy lên kè và đưa tay cho Milady. Một chiếc xe đang đợi sẵn.

- Xe này là dành cho chúng ta? - Milady hỏi.

- Vâng, thưa bà - Viên sĩ quan trả lời.

- Khách sạn có xa lắm không?

- Ở đầu kia thành phố thôi.

- Ta đi thôi - Milady nói.

Rồi nàng cả quyết bước lên xe.

Viên sĩ quan theo dõi cho đến khi những gói đồ được buộc cẩn thận phía sau thùng xe và khi mọi việc đã xong, ông ta lên ngồi bên Milady và đóng cửa xe lại.

Lập tức, chẳng cần phải để ra lệnh và cũng chẳng cần phải bảo đi về địa chỉ nào, gã đánh xe cho ngựa phi nước đại đi sâu vào các phố trong thành phố.

Một sự đón tiếp lạ lùng như vậy hẳn phải làm cho Milady suy nghĩ rất nhiều, cho nên thấy viên sĩ quan không hề tỏ ra sẵn sàng bắt chuyện, nàng tựa khuỷu vào một góc xe, lần lượt xem lại mọi giả thiết nảy ra trong đầu.

Tuy nhiên, được độ mươi phút, nàng lấy làm ngạc nhiên vì đường xa đến thế, liền ngả người về phía cửa xe để xem người ta đưa mình đi đâu, thì không thấy nhà cửa nữa, chỉ có cây cối hiện ra trong bóng đêm như những con ma lớn đen ngòm, con nọ chạy sau con kia.

Milady rùng mình và nói:

- Nhưng chúng ta không còn trong thành phố nữa, thưa ông.

Viên sĩ quan vẫn ngồi im.

- Tôi không đi xa thêm nữa đâu, nếu ông không nói ông dẫn tôi đi đâu, tôi báo trước cho ông đấy.

Lời đe dọa ấy vẫn chẳng nhận được câu trả lời nào.

- Ôi! Thế này thì quá lắm! - Milady kêu lên - Cứu với! Cứu với!

- Không một tiếng đáp lại. Chiếc xe tiếp tục lăn bánh nhanh và viên sĩ quan vẫn tựa như pho tượng.

Milady nhìn viên sĩ quan với một nét mặt đặc biệt khủng khiếp và hiếm khi không có hiệu quả. Cơn giận làm đôi mắt nàng long lanh trong bóng tối.

Milady định mở cửa xe và lao ra.

- Coi chừng đấy, thưa bà ~ người đàn ông trẻ lạnh lùng nói - bà nhảy ra là tự giết mình đấy.

Milady lại ngồi xuống, tức sùi bọt mép. Viên sĩ quan ngả người đến lượt mình cũng nhìn Milady tỏ vẻ ngạc nhiên thấy khuôn mặt vừa rồi còn đẹp đến thế, vì sôi lên giận dữ đã trở nên hầu như xấu xí. Người đàn bà gian manh ấy hiểu rằng nếu để người ta nhìn sâu trong tâm hồn mình như thế là tự hại mình, liền tươi tỉnh lại nói bằng một giọng thương tâm:

- Có Chúa trời chứng giám! Thưa ông, xin ông, xin hãy nói cho biết tôi phải gán việc tôi bị đối xử bằng bạo lực như thế này cho ông, cho Chính phủ của ông hay cho một kẻ thù nào?

- Không ai dùng bạo lực với bằng, thưa bà, và việc xảy ra cho bà chỉ là kết quả của biện pháp hoàn toàn đơn giản mà chúng tôi buộc phải áp dụng đối với tất cả mọi người cặp bến ở nước Anh.

- Thưa ông, thì ra ông không biết tôi?

- Đây là lần đầu tiên tôi hân hạnh được gặp bà.

- Và ông có thể cam đoan ông không có chuyện gì hiềm khích với tôi chứ?

- Không có gì, tôi xin thề với bà.

Giọng nói của người đàn ông trẻ vừa hết sức trong trẻo, bình thản lại dịu dàng nữa khiến Milady yên tâm.

Cuối cùng, sau gần một giờ, xe mới dừng lại trước hàng rào lưới sắt, đi vào một con đường trống vắng dẫn đến một tòa lâu đài bề ngoài nghiêm trang, nặng nề và heo hút. Lúc đó, bánh xe lăn trên cát mịn nên Milady nghe thấy tiếng sóng gầm của biển vỗ vào bờ đá lởm chởm.

Chiếc xe đi dưới hai vòm cổng, cuối cùng dừng lại trong một cái sân vuông và tối, cửa xe vừa mở, người đàn ông trẻ tuổi đã nhảy ngay xuống theo, khá bình tĩnh.

Milady nhìn xung quanh rồi dồn mắt nhìn viên sĩ quan trẻ với nụ cười duyên dáng nhất và nói:

- Vậy, tôi vẫn cứ là một tù nhân, nhưng chắc sẽ không lâu đâu, tôi tin chắc như thế - Rồi nàng thêm - Thưa ông, lương tâm tôi và sự lịch sự của ông đảm bảo với tôi như thế.

Dù tán tụng và ve vãn như vậy, viên sĩ quan vẫn không trả lời, mà chỉ rút từ đai lưng ra một chiếc còi bằng bạc mà những viên cai vẫn dùng trên tàu chiến, thổi lên ba hồi theo ba giai điệu khác nhau. Thế là mấy người hiện ra tháo lũ ngựa đang thở phì phì và đưa xe vào một cái nhà kho.

Viên sĩ quan vẫn thái độ lịch sự điềm đạm mời tù nhân của mình vào trong nhà. Người đàn bà vẫn với bộ mặt tươi cười, vịn tay viên sĩ quan, đi vào cùng với ông ta qua một chiếc cửa thấp thắt giữa, vòm cửa chỉ được chiếu sáng từ sâu mãi bên trong, dẫn tới một cầu thang bằng đá xoắn theo một trụ đá, đi lên, rồi dừng lại trước một chiếc cửa nặng nề. Sau khi người kia tra chìa khóa mang theo vào ổ, cánh cửa nặng nề quay trên bản lề để lộ ra lối vào một căn phòng dành cho Milady.

Thoáng nhìn qua, người nữ tù nhân đã nắm được hết các chi tiết nhỏ nhất của căn nhà.

Đó là một căn buồng mà nội thất vừa quá sạch đối với một nhà tù và cũng quá sạch đối với một chỗ ở của một con người sống tự do. Tuy nhiên những song sắt của sổ và những chốt ngoài của cửa ra, lại thiên về một nhà tù.

Trong giây lát, toàn bộ nghị lực của con người từng được tôi luyện trong những mạch nguồn mạnh mẽ nhất tiêu tan hết.
Nàng buông mình xuống ghế tựa, khoanh tay, cúi đầu chờ đợi từng phút một để thấy một thẩm phán đi vào thẩm vấn nàng.
Nhưng chẳng có ai vào mà chỉ có vài ba lính thủy mang rương hòm tới, xếp vào một góc rồi lại rút lui không nói một lời.

Viên sĩ quan điều khiển mọi chi tiết với vẻ bình thản mà Milady thấy vẫn nguyên như trước, chẳng nói một lời mà chỉ lấy tay ra hiệu hoặc thổi còi cho bọn lính tuân theo.

Có thể nói giữa con người này và những kẻ dưới quyền, ngôn ngữ nói không tồn tại hoặc trở nên vô ích…

Cuối cùng Milady không chịu nổi thêm nữa, liền phá vỡ sự im lặng và kêu lên:

- Có trời cao chứng kiến, thưa ông. Tất cả những gì diễn ra thế này là thế nào? Nói toạc móng heo xem có chuyện gì nào. Tôi có đủ can đảm đối mặt với mọi hiểm nguy mà tôi thấy trước, mọi bất hạnh mà tôi thấu hiểu. Tôi đang ở đâu và ở đây làm gì? Tôi có còn được tự do không, tại sao lại có những song sắt và những cái cửa ấy? Tôi có phải tù nhân không và tôi mắc tội gì?

- Bà ở đây trong một căn phòng được dành cho bà. Tôi được lệnh phải giữ bà từ ngoài biển và dẫn bà đến tòa lâu đài này. Và tôi tin tôi đã hoàn thành nhiệm vụ với tất cả sự nghiêm túc của một quân nhân và phong độ của một nhà quý tộc. Giờ đây đã kết thúc, ít ra là cho đến lúc này, trách nhiệm tôi phải làm tròn đối với bà, phần còn lại liên quan đến một người khác.

- Thế cái người khác đó là ai vậy? - Milady hỏi - Ông không thể nói tên người ấy ra với tôi ư?

- Đúng lúc đó, có tiếng đinh thúc ngựa ầm ầm phía cầu thang.

- Có mấy tiếng người rồi lại im ngay, và tiếng bước chân một mình ai đó lại gần chiếc cửa.

- Cái người đó đến đây rồi, thưa bà - Vừa nói viên sĩ quan vừa chỉ ra lối đi, vừa đứng dẹp sang một bên với thái độ kính trọng và phục tùng.

Đồng thời cửa mở, một người đàn ông hiện ra ở ngưỡng cửa.

Người này không đội mũ, đeo gươm, tay đang vò một chiếc khăn tay.

Milady tin mình nhận ra bóng người đó trong bóng tối. Nàng chống bàn tay lên thành ghế tựa, vươn đầu ra như để đón trước cái điều đã chắc chắn rồi.

- Người lạ từ từ tiến lại và khi ông ta tiến sâu vào vùng ánh sáng từ chiếc đèn chiếu ra, Milady bất giác lùi lại.

Rồi khi không còn chút nghi ngờ gì nữa, nàng kêu lên đầy vẻ kinh hoàng:

- Kìa sao? Em tôi? Chú đấy ư?

- Vâng, thưa quý bà! - Huân tước Winter làm điệu bộ chào nửa phong nhã, nửa hài hước.

- Tôi đây! Nhưng sao, tòa lâu đài này?

- Là của tôi.

- Căn phòng này?

- Là của bà!

- Tôi là tù nhân của ông ư?

- Gần như vậy.

- Nhưng đó là một sự lấy thịt đè người ghê tởm?

- Đừng có ngoa ngoắt. Ta hãy ngồi xuống chuyện trò với nhau bình tĩnh đã, như thế thích hợp giữa ông em và bà chị hơn.
Rồi quay về phía cửa, thấy viên sĩ quan đang đứng đợi những mệnh lệnh cuối cùng, ông ta nói:

- Tốt lắm! Xin cám ơn ông. Bây giờ để mặc chúng tôi, ông Felten.

Chú thích:
(1) Ngụ ngôn Êdốp: Dơi đến với chuột bị chuột đuổi vì cho dơi thuộc loài chim, đến với chim bị chim đánh vì cho dơi thuộc loài chuột
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 01:10:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 50
Chuyện trò giữa ông em chồng với chị dâu


Trong lúc Huân tước De Winter đóng cửa, khép cánh cửa sổ lại và kéo một chiếc ghế đến ngồi gần chiếc ghế bành của người chị dâu thì Milady mơ màng dọi mát vào trong sâu thẳm, mong có khả năng khám phá ra toàn bộ âm mưu mà chính nàng không thể thấy nổi dù chỉ lơ mơ, chừng nào nàng còn chưa biết mình bị rơi vào tay ai. Nàng biết rõ ông em chồng vốn nhà quý tộc thực sự, mê săn bắn, một con bạc lì lợm, táo tợn với đàn bà, nhưng về chuyện mưu mô thì còn dưới cả mức trung bình. Làm sao ông ta lại có thể phát hiện việc nàng tới đây, và cho bắt giữ nàng? Tại sao lại giữ nàng tại đây?
Athos đã nói hở với nàng vài câu chứng tỏ cuộc chuyện trò giữa nàng và Giáo chủ đã lọt vào tai người ngoài. Nhưng nàng không thể chấp nhận Athos lại có thể đào hố chống mình nhanh chóng và táo tợn đến thế.

Nàng sợ hơn cả là những hoạt động trước đây của mình trên đất Anh đã bị khám phá. Buckingham có thể đoán chính nàng đã cắt mất hai nút kim cương và trả thù sự phản trắc nhỏ bé này. Nhưng Buckingham không thể đối xử quá đáng đối với một người đàn bà nhất là người đàn bà ấy được coi như là đã hành động bởi một tình cảm ghen tuông.

Giả thiết này đối với nàng có vẻ có lý hơn cả. Nàng thấy hình như người ta muốn trả thù cái đã là quá khứ, chứ không phải để đón trước tương lai. Dẫu sao nàng cũng mừng thầm là đã rơi vào tay người em chồng, mà nàng cho là đã gặp may, hơn là vào tay một kẻ thù trực tiếp và khôn ngoan.

- Vâng, ta nói chuyện, chú ạ - nàng vui vẻ nói và quyết định phải rút ra bằng được trong cuộc trò chuyện, mặc dầu De Winter có thể che giấu, những gì có thể làm sáng tỏ những điều cần biết để điều chỉnh thái độ sắp tới cho thích hợp.

- Vậy là bà đã quyết định trở lại nước Anh. - Huân tước De Winter nói - mặc dầu bà thường ngỏ ý với tôi ở Paris rằng bà quyết định không bao giờ đặt chân trở lại đất Anh nữa.

Milady trả lời câu hỏi đó bằng một câu hỏi:

- Trước hết, ông hãy cho tôi biết ông đã cho người rình rập theo dõi tôi nghiêm ngặt đến thế nào để có thể biết trước được không những việc tôi đến mà cả ngày, giờ và cảng nào tôi đến nữa?

De Winter áp dụng ngay cái chiến thuật của Milady, nghĩ rằng chị dâu mình đã dùng nó ắt hẳn phải hay:

- Nhưng bà chị thân mến, bà cũng phải nói cho tôi biết bà định làm gì ở đất Anh đã chứ.

- Nhưng tôi sang thăm ông mà - Milady nói tiếp mà không biết câu trả lời đó đã làm trầm trọng thêm biết bao những ngờ vực nảy sinh trong đầu người em chồng từ bức thư của D Artagnan. Thật ra nàng nói dối chỉ để cốt thu hút được thiện ý của ông ta.

- Chà, sang thăm tôi? - Wintern hỏi một cách thâm hiểm.

- Hẳn rồi, thăm ông. Việc đó lạ lắm sao?

- Và bà sang Anh không ngoài mục đích nào khác là thăm tôi?

- Không.

- Như thế, chỉ vì mỗi mình tôi mà bà phải nhọc công vượt biển Măngssơ?

- Vì mỗi ông thôi.

- Chà, tình cảm gớm nhỉ, bà chị dâu ơi!

- Thế chị không phải họ hàng gần nhất của chú sao? - Milady hỏi bằng một giọng ngây thơ và cảm động nhất.

- Và còn là người thừa kế duy nhất của em nữa chứ, có phải không? - De Winter nhìn chăm chăm vào mắt Milady mà hỏi.

Dù có nghị lực làm chủ được mình đến mấy, Milady không tránh khỏi giật mình, và vì vừa nói ra những câu ấy. De Winter vừa đặt tay lên cánh tay người chị dâu, nên sự rùng mình ấy không tránh khỏi ông ta nhận thấy.

Quả là miếng đòn vừa giáng thẳng lại vừa thâm. Milady chợt nghĩ bị Ketty phản bội, và con bé này đã kể hết với Huân tước về mối ganh ghét về lợi lộc do vô ý nàng đã để lộ ra những dấu hiệu trước người hầu gái. Nàng cũng nhớ ra là mình đã tỏ ra giận dữ và bất cẩn chống lại D Artagnan thế nào khi chàng tha chết cho em chồng mình.

Để tranh thủ thời gian làm cho đối thủ phải nói ra, nàng nói:

- Thưa Huân tước, tôi không hiểu chú định nói gì? Có ẩn ý gì giấu sau lời nói của chú chăng?

- Ồ không, Chúa ơi! - Huân tước De Winter làm ra vẻ thật thà phúc hậu nói - Chị có lòng muốn thăm tôi và chị sang tận Anh. Tôi hiểu tấm lòng đó, hay đúng hơn tôi ngờ rằng chị cảm thấy như vậy, và để tránh cho mọi sự phiền phức và mọi vất vả phải cặp bến ban đêm, tôi đã phái một sĩ quan của tôi tới đón trước chị, đưa cho ông ta một cỗ xe để đưa chị về đây trong tòa lâu đài mà tôi là chủ nhân này. Ngày ngày tôi sẽ đến và để thỏa lòng mong muốn gặp nhau của cả hai chúng ta tôi đã cho sắp xếp cho chị một căn buồng. Có gì trong tất cả những điều tôi nói đó lại lạ lùng hơn những gì chị nói với tôi sao?

- Không, điều tôi thấy lạ, là chú biết trước việc tôi sang đây cơ.

- Đó lại là điều đơn giản nhất đấy bà chị thân mến ạ. Chị không thấy lúc tàu vào vịnh, viên thuyền trưởng của tàu chị đã phái một chiếc xuồng nhỏ vào trước mang theo sổ nhật ký hàng hải và danh sách của tàu, người ta mang sổ sách đến trình tôi, tôi nhận ra tên chị. Trái tim tôi mách bảo tôi điều mà chị vừa khẳng định với tôi, nghĩa là chị đã tự dấn thân vào bao gian nan của một vùng biển đầy sóng gió hiểm nguy hoặc ít nhất cũng đầy vất vả trong lúc này với mục đích gì, và tôi đã phái một tàu khu trục ra đón trước. Phần còn lại, chị đã rõ.

Milady hiểu rằng Huân tước De Winter nói dối và chỉ càng sợ hơn.

- Chú ơi - nàng tiếp tục - phải chăng người tôi trông thấy đứng trên đập tối nay lúc cặp bờ là Huân tước De Buckingham?

- Chính ông ta đấy. À! Tôi hiểu việc trông thấy ông ta khiến chị xúc động mạnh - De Winter nói tiếp - Chị đến từ một đất nước mà ở đấy người ta hẳn quan tâm rất nhiều đến ông ta, và tôi biết việc dấy binh của ông ta chống nước Pháp khiến Giáo chủ bạn chị rất lo lắng.

- Giáo chủ bạn tôi! - Milady kêu lên thấy rõ trên điểm này, cũng như điểm khác, De Winter hình như đã hiểu rõ tất cả.

- Ông ta không phải là bạn chị thật ư? Huân tước hững hờ nói tiếp - Ồ, xin lỗi, tôi lại cứ tưởng như vậy. Mà thôi, để sau ta hãy trở lại chuyện của Quận công, ta đừng lạc đề câu chuyện đang diễn ra hết sức tình cảm nữa; chị nói chị đến đây để thăm tôi?

- Vâng.

- Thế thì…! Tôi đã trả lời chị rằng chị sẽ ước sao được vậy, và ngày nào chúng ta cũng sẽ gặp nhau.

- Vậy tôi cứ phải ở đây vĩnh viễn ư? Milady hỏi với một sự hãi hùng nào đấy.

- Chị thấy ở đây không tốt ư, chị dâu? Chị cứ việc yêu cầu những gì chị thiếu, và tôi sẽ cho người mang tới cho chị ngay.

- Nhưng tôi không có đàn bà, đàn ông giúp việc…

- Bà sẽ có tất cả, thưa bà, bà cứ nói cho biết người chồng đầu của bà đã dựng cho bà loại nhà như thế nào, cho dù tôi chỉ là em chồng của bà, tôi cũng sẽ dựng cho bà loại nhà như thế.

- Người chồng đầu của tôi! - Milady kêu lên, nhìn Huân tước De Winter bằng đôi mắt hãi hùng.

- Vâng, người chồng Pháp của bà ấy. Tôi không nói về anh tôi Hơn nữa, nếu bà đã quên ông ta, vì ông ta vẫn còn sống, tôi có thể viết cho ông ấy, ông ấy sẽ giúp tôi biết tỉ mỉ về chuyện này.

Một lớp mồ hôi lạnh đầm đìa trán Milady.

- Ông đùa rồi - nàng nói bằng một giọng khàn khàn.

- Tôi có vẻ đùa à? - Huân tước vừa hỏi vừa đứng lên, lùi lại một bước về phía sau.

- Hay đúng hơn là ông lăng mạ tôi - nàng tiếp tục, vừa bóp chặt hai bàn tay co quắp lên hai thành ghế, chống tay đứng phắt lên.

- Tôi lăng mạ bà ư! - De Winter khinh bỉ nói - Thật ra bà tin có thể thế được ư?

- Thật ra, thưa ông - Milady nói - Ông say hay phát rồ rồi. Ra đi, và gửi cho tôi một hầu phòng.

- Đàn bà rất hay bép xép, bà chị ạ! Tôi không thể phục vụ bà như một thị nữ được ư? Làm như thế mọi bí mật gia đình sẽ nguyên vẹn.

- Đồ hỗn láo! - Milady thét lên và bật lên như một chiếc lò xo, nhẩy xổ vào Huân tước vẫn đang đứng đợi, hai tay khoanh lại, nhưng bàn tay vẫn giữ chuôi gươm.

- Chà chà! - Ông ta nói - Tôi biết là bà vẫn có thói quen ám sát mọi người, nhưng tôi báo trước cho bà biết, tôi sẽ chống cự lại, dù là chống lại bà.

- Ố, ông có lý - Milady nói - và ông làm cho tôi thấy ông khá hèn hạ khi đang tay chống với một người đàn bà.

- Có thể thế đấy. Vả lại, tôi có cớ để làm thế này. Bàn tay tôi sẽ không phải là bàn tay đàn ông đầu tiên đặt lên người bà, tôi nghĩ như vậy.

Và Huân tước, bằng một cử chỉ chậm rãi và buộc tội, chỉ vào vai trái Milady, hầu như chạm hẳn ngón tay vào đấy.

Milady thất lên một tiếng gầm khàn, lùi lại tận góc phòng, như một con báo cái tự lùi vào thế bí để lao tới.

- Ồ! Bà cứ việc gầm thét - De Winter nói to - nhưng chớ có định cắn, bởi tôi báo trước sự việc sẽ xoay ngược lại làm hại bà đấy ở đây không có các ông biện lý để tính trước các khoản thừa kế, không có hiệp sĩ lang thang đến để gây sự với tôi vì một người đàn bà đẹp mà tôi giữ làm tù nhân. Nhưng tôi đã có sẵn những quan tòa sẽ phán xử một mụ đàn bà hai chồng khá trơ trẽn đến luồn vào giường Huân tước De Winter, anh cả tôi(1) và những viên quan tòa ấy, tôi xin báo trước cho bà, sẽ tống bà cho đao phủ và đao phủ sẽ làm cho hai vai bà được giống nhau.

Hai mắt Milady ném ra những tia sáng long lanh khiến cho dù là đàn ông và được vũ trang trước một mụ đàn bà không vũ khí ông ta vẫn cảm thấy lạnh thấu con tim vì sợ hãi. Ông vẫn tiếp tục nhưng với nỗi giận dữ tăng lên.

- Phải, tôi hiểu, sau khi được thừa hưởng của anh tôi, nếu được thừa hưởng cả tôi nữa thì ngon lành thật, nhưng phải biết trước rằng, bà có thể giết tôi, hoặc cho người giết tôi, nhưng tôi đã đề phòng cả rồi. Không một xu nào của tôi chuyển sang tay bà đâu. Bà chẳng phải đã giàu có rồi sao, bà sở hữu gần bạc triệu, mà vẫn không thể dừng lại trên con đường định mệnh của mình ư, hay là bà làm điều ác chỉ để bản thân thỏa thích cao độ và đến tận cùng? Ồ, hãy nhớ lấy điều tôi nói đây, nếu không vì lòng tưởng nhớ thiêng liêng của tôi đối với anh tôi, bà sẽ bị thối rữa trong hầm tối quốc gia, hoặc làm thỏa mãn sự tò mò của thủy thủ ở Tybum(2) rồi. Tôi sẽ câm miệng, nhưng bà, bà hãy chịu đựng cảnh giam cầm một cách bình tĩnh. Trong vòng mười lăm hai mươi ngày nữa, tôi sẽ đi La Rochelle cùng với quân đội. Nhưng trước hôm tôi đi, một con tàu sẽ đến đón bà, tôi sẽ nhìn nó ra đi mang bà tới những thuộc địa ở phương Nam, và bà hãy yên tâm, tôi sẽ cho một người bạn đi phụ giúp bà sẵn sàng bắn bà vỡ sọ ngay khi bà có ý định đầu tiên liều lĩnh trở về nước Anh hay lục địa.

Milady lắng nghe chăm chú, trợn tròn đôi mắt nảy lửa.

- Phải, giờ này - Huân tước De Winter tiếp tục - bà ở yên vị trong tòa lâu đài này. Tường bao rất dày, các cổng cửa đều rất kiên cố, chấn song chắc chắn, vả lại cửa sổ phòng bà trông thẳng xuống biển, những người của tôi đều trung thành sống chết với tôi canh gác xung quanh lâu đài và giám sát mọi lối ra sân. Ra sân rồi bà còn phải vượt qua ba hàng rào kẽm gai. Nội dung phạt giam rất rõ ràng: Một bước chân, một cử chỉ, một lời nói tỏ ra ý định vượt ngục là người ta sẽ bắn vào bà. Nếu người ta bắn chết, tôi hy vọng công lý Anh quốc sẽ chịu ơn tôi vì đã tránh cho họ cái nhiệm vụ nặng nề. A, nét mặt bà đã bình thản lại rồi, bộ mặt bà đã có vẻ yên tâm hơn. Mười lăm hai mươi ngày!

Bà nói:

- Được!

"Từ nay đến đấy, ta vốn có đầu óc sáng kiến, thế nào chả tìm được ý tưởng nào hay, ta có tâm hồn ma quỷ, ta sẽ tìm được nạn nhân. Từ nay đến mười lăm ngày nữa, bà tự bảo mình, ta sẽ ra khỏi nơi đây. Chà chà! Cứ thử xem".

Milady thấy bị đoán ra ý nghĩ của mình, liền bấm móng tay cho vào da thịt để chế ngự mọi cử động có thể đem lại cho bộ dạng mình dấu hiệu nào đó khác với sự lo âu.

Ông De Winter tiếp tục:

- Viên sĩ quan duy nhất chỉ huy ở đây lúc tôi vắng mặt, bà đã gặp và đã biết rồi đó. Ông ta như bà thấy đấy, biết giám sát một lệnh phạt giam, bởi vì, tôi biết, đi từ cảng Portsmouth đến đây bà không phải không cố tìm cách làm cho ông ta nói về việc đó. Bà nói sao về việc này? Một pho tượng đá hoa cương chưa chắc đã trơ và câm lặng hơn ông ta phải không? Bà đã thử cái sức mạnh của những nét quyến rũ của bà với bao nhiêu người đàn ông và khốn nạn thay, bà đã luôn luôn thành công. Nhưng bà cứ thử với ông ta xem, mẹ kiếp! Nếu bà thành công với ông ta, tôi tuyên bố với bà, ông ta cũng là quỷ nốt.

Ông De Winter đi tới cửa, mở bật ra và nói:

- Gọi cho ta ông Felten, bà đợi đây một lát, tôi sẽ trao bà cho ông ta trông nom.

Một sự im lặng kỳ lạ diễn ra giữa hai người, trong khi đó người ta nghe thấy tiếng bước chân khoan thai đều đặn lại gần, rồi trong bóng tối hành lang hiện ra một dáng người, đó chính là viên trung úy trẻ lúc trước, ông ta dừng lại ở ngưỡng cửa đợi lệnh của Huân tước.

- Vào đi, John thân mến - Huân tước De Winter nói - vào đi rồi đóng cửa lại.

Viên sĩ quan trẻ vào.

- Bây giờ - Huân tước nói - Ông hãy nhìn người đàn bà này, bà ta trẻ đẹp, có tất cả những nét quyến rũ trên đời, vậy mà, đó lại là một con quỷ ở tuổi hai nhăm, đã phạm không biết bao nhiêu tội ác mà ông có thể đọc trong một năm trong kho lưu trữ các tòa án của chúng ta, giọng nói bà ta rào đón bằng sự lấy lòng khôn khéo, sắc đẹp bà ta dùng làm mồi cho các nạn nhân, thân xác bà ta cũng đem trả cho những điều đã hứa. Bà ta sẽ tìm cách quyến rũ ông, có thể còn tìm cách giết ông nữa. Ông Felten, tôi đã kéo ông ra khỏi cảnh nghèo khổ, tôi đã phong ông chức trung úy, tôi đã một lần cứu sống ông, ông biết rõ trong hoàn cảnh nào rồi, tôi không những là người bảo hộ cho ông mà còn là bạn ông, không những là một ân nhân mà còn là một người cha, mụ đàn bà này đến nước Anh âm mưu ám hại tôi, tôi đã giữ được con rắn ấy trong tay, vì thế, tôi cho gọi ông để nói với ông: "Anh bạn Felten, John, con ta ạ, hãy canh giữ cho ta, nhất là phải canh chừng cho bản thân anh con mụ đàn bà này, hãy thề trừng phạt mụ ta xứng đáng để cứu lấy bản thân anh, John Felten, ta tin ở lời thề của anh, John Felten, ta tin ở lòng trung thành của anh".

- Thưa Huân tước - Viên sĩ quan trẻ nói, con mắt chứa chất đơn thuần toàn bộ nỗi căm hờn cảm thấy trong lòng - Tôi xin thề với ngài mọi việc sẽ được làm đúng như ngài mong muốn.

Milady nhẫn nhục chịu đựng cái nhìn đó như một nạn nhân.

- Không thể nhìn thấy một vẻ mặt nào chịu khuất phục và dịu dàng hơn những gì đang ngự trị trên bộ mặt kiều diễm của nàng, đến nỗi chính ông De Winter cũng khó lòng nhận ra con hổ cái một lát trước đây ông sẵn sàng chiến đấu với nó.
- Mụ ta sẽ không bao giờ được ra khỏi cái buồng này, hiểu chưa John - Nam tước tiếp tục - mụ sẽ không được liên hệ với bất cứ ai, mụ chưa được nói với ông, nếu ông có ý định ban cho mụ vinh dự ngỏ lời trước với mụ.

- Thế là đủ, thưa Huân tước, tôi đã thề.

- Và bây giờ, thưa bà, hãy cố ôn hòa với Chúa, và bà bị phán xử bởi Người.

Milady mặc cho đầu gục xuống như thể cảm thấy bị sự phán xử ấy đè bẹp. Huân tước De Winter vừa ra hiệu cho Felten theo sau và đóng cửa lại.

Một lát sau trong hành lang có tiếng bước chân nặng nề của một chàng lính thủy đi tuần, chiếc rìu giắt ở đai lưng và súng hỏa mai trong tay.

Milady ngồi im trong tư thế ấy trong mấy phút, bởi nàng nghĩ người ta theo dõi mình qua lỗ khóa, rồi nàng từ từ ngẩng đầu lên, lấy lại vẻ hăm dọa khủng khiếp và vẻ thách thức, chạy đến nghe ở cửa, nhìn qua cửa sổ, rồi lại quay vào vùi mình trong chiếc ghế bành, suy nghĩ.

Chú thích:
(1) Đến đây tác giả gọi người chồng thứ hai của Milady là "anh cả tôi" (monfrèe âiné) qua lời nói của Huân tước De Winter
(2) Tybum, quảng trường, nơi thi hành án tử hình, một pháp trường nổi tiếng thời đó ở London

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 01:15:01 | Chỉ xem của tác giả
Chương 51
Sĩ quan


Trong khi đó, Giáo chủ mong đợi những tin tức từ nước Anh nhưng chẳng thấy gì nếu không phải những tin tức gây bực mình hoặc hăm dọa.

Cho dù La Rochelle có bị vây chặt và thành công có vẻ đã chắc trong tay nhờ những biện pháp phòng ngự và nhất là con đê, không cho bất cứ con thuyền nào lọt vào thành phố bị bao vây, thì cuộc vây hãm vẫn cứ phải kéo dài thêm nữa và đó là một nỗi nhục lớn đối các binh chủng của nhà Vua, một sự bực mình lớn đối với Giáo chủ khiến ông ta không thiết gây rắc rối giữa Louis XIII và Anne Autriche nữa, đúng vậy, vì chuyện đó đã xong rồi, mà phải hàn gắn mối bất hòa giữa ông Bassompirre với Quận công Angoulême.

Còn Hoàng đệ, người mở đầu cuộc bao vây nay để mặc Giáo chủ lo việc hoàn tất.

Thành phố, mặc dầu sự kiên gan không thể tưởng tượng nổi của viên thị trưởng, vẫn toan tính nổi loạn để đầu hàng. Viên thị trưởng đã cho treo cổ những kẻ bạo loạn. Việc hành hình đó đã làm dịu bớt những cái đầu bất trị nhất, họ quyết định thôi đành chết đói. Cái chết đó luôn có vẻ chậm chạp hơn và kém chắc chắn hơn cái chết bị treo cổ.

Về phía mình, thỉnh thoảng quân vây thành lại bắt được những phái viên của quân Rochelle phái đến Buckingham hoặc những điệp viên mà Buckingham gửi tới cho quân Rochelle. Đối với cả loại này lẫn loại kia, bản án được đưa ra nhanh chóng.

Giáo chủ chỉ nói mỗi một câu: Treo cổ! Người ta mời nhà Vua xem treo cổ. Nhà vua đến, người mệt lử, ngồi ở một chỗ tốt để xem rõ từng chi tiết việc hành quyết. Việc đó luôn làm Ngài khuây khỏa đôi chút và khiến Ngài kiên nhẫn hơn trong việc bao vây nhưng không ngăn nổi Ngài phiền muộn rất nhiều, và lúc nào cũng nói đến việc trở về Paris, thành thử nếu bọn phái viên và điệp viên không xuất hiện, thì Đức ông, mặc dù sức tưởng tượng phong phú của mình, cũng thấy rất lúng túng.

Song, thời gian cứ trôi đi, quân Rochelle không đầu hàng. Tên gián điệp cuối cùng bị bắt là một kẻ mang một bức thư. Bức thư nói rõ với Buckingham là thành phố đã chịủ đựng đến cùng rồi, nhưng đáng lẽ thêm rằng: "Nếu việc cứu viện của ngài, trước mười lăm ngày nữa, không đến, chúng tôi sẽ đầu hàng" lại chỉ đơn giản như sau: "Nếu trong vòng mười lăm ngày việc cứu viện của ngài không tới, thì khi tới chúng tôi đã chết đói hết rồi?"

- Vậy là quân Rochelle chỉ hy vọng vào Buckingham.

Buckingham là chúa cứu thế của họ. Rõ ràng là nếu một ngày nào đó họ biết một cách chắc chắn rằng không nên trông cậy vào Buckingham nữa, thì lòng dũng cảm của họ sẽ rơi rụng cùng với hy vọng của họ.

Cho nên Giáo chủ rất nóng lòng mong đợi những tin tức từ nước Anh đáng lẽ phải thông báo là Buckingham sẽ không đến nữa.

Vấn đề chiếm thành phố bằng sức mạnh thường được tranh luận trong hội nghị của nhà Vua, luôn bị gạt bỏ. Trước hết vì La Rochelle có vẻ không thể đánh chiếm, rồi Giáo chủ, cho dù ông đã nói, ông biết thừa nỗi kinh hoàng vì máu đổ trong cuộc đối đầu này nơi người Pháp phải chiến đấu chống người Pháp, là một thoái trào chính trị tới sáu mươi năm. Mà Giáo chủ vào thời kỳ này lại được người ta gọi là một con người cấp tiến. Quả thật cuộc cướp phá thành La Rochelle và vụ tàn sát ba bốn nghìn người theo giáo phái Canvanh năm 1628 quá giống cuộc thảm sát Saint Báctêlêmy năm 1572(1), và rồi trên tất những cái đó cái thủ đoạn cực đoan mà nhà vua, một tín đồ Cơ đốc ngoan đạo không ghê tay luôn bị thất bại trước lý lẽ của các tướng lĩnh vây thành: ngoài nạn đói ra, La Rochelle không thể nào bị chiếm.

Giáo chủ không thể gạt ra khỏi trí não nỗi sợ mà người nữ mật sứ đáng sợ đã gieo vào, bởi ông, chính ông cũng hiểu sự mất cân bằng kỳ lạ, lúc là rắn lúc là sư tử của người đàn bà này. Mụ ta đã phản bội? Mụ chết rồi chăng? Dẫu sao ông cũng khá hiểu rõ mụ để biết rằng trong khi hành động cho ông hoặc chống lại ông, là bạn hay là thù của ông, mụ cũng không chịu im ắng như thế nếu không gặp những trở ngại lớn. Nhưng từ đâu ra những trở ngại ấy? Đó là điều ông chưa thể biết.

Vả chăng, ông vẫn có lý do để trông cậy vào Milady, ông đã đoán ra trong quá khứ, người đàn bà ấy đã có những chuyện đáng sợ mà chỉ chiếc áo đỏ Giáo chủ của ông thôi mới có thể che đậy và ông cảm thấy rằng, vì một nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, người đàn bà đã thuộc về ông ấy chỉ có thể tìm thấy ở ông một chỗ dựa vượt lên trên mối nguy đang đe dọa mụ, vì vậy, ông quyết định tiến hành chiến tranh một mình mình và chỉ trong đợi vào mọi thành công còn xa lạ với ông như người ta trông đợi một vận may. Ông tiếp tục cho nâng cao thêm con đê nổi tiếng để làm đói La Rochelle, trong khi chờ đợi ông phóng mắt nhìn cái thành phố khốn khổ, chất chứa bao nỗi khốn cùng sâu xa cũng như bao đức tính anh hùng và nhớ đến câu nói của vua Louis XI, bậc tiền bối chính trị của ông, cũng như bản thân ông lại là bậc tiền bối của Rôbétxpie, ông lại nhớ câu châm ngôn của cha đỡ đầu của Trítxtăng(2) "chia để trị".

Henri IV khi vây hãm Paris đã cho ném qua tường thành bánh mì và thực phẩm. Ở đây Giáo chủ cho ném truyền đơn vào trong đó trình bầy cho dân Rochelle rõ cách đối xử bất công ích kỷ, dã man của bọn chỉ huy, bọn chỉ huy thừa mứa lúa mì mà không đem chia cho họ, bọn chúng áp dụng phương châm ấy, bởi chính bọn chúng cũng có những phương châm, rằng phụ nữ, trẻ con và người già có chết cũng chẳng sao, miễn là đàn ông bảo vệ thành lũy thì phải sống khỏe mạnh và được ăn mặc đầy đủ. Cho đến lúc này, do vì nghĩa vụ hoặc do bất lực không phản ứng lại được, cái phương châm đó không được chấp nhận về đại thể, tuy nhiên đã chuyển từ lý thuyết thành thực hành. Nhưng những tờ truyền đơn bay tới cũng có tác dụng công kích. Những truyền đơn nhắc nhở những người đàn ông rằng trẻ con, đàn bà, người già bị bỏ chết ấy chính là con cái họ, vợ họ và cha họ, rằng sẽ công bằng hơn nếu mỗi người đều chịu chung cảnh khốn cùng, có cùng chung cảnh ngộ thì mới có được những quyết định thống nhất.

Những tờ truyền đơn đó đã phát huy hiệu quả mà những người viết ra có thể trông đợi. Một số đông cư dân đã quyết định mở những cuộc thương lượng riêng với quân đội nhà Vua.

Nhưng đúng lúc Giáo chủ thấy phương sách của mình đã có hiệu quả và lấy làm mừng vì đã áp dụng phương sách đó thì một cư dân của La Rochelle đã có thể vượt qua những phòng tuyến quân đội hoàng gia như thế nào có trời mới biết, dù cho những kiểm soát gắt gao của các ông Bassompirre, De Xkombéc, Công tước Ănggulêm, và rồi chính họ lại bị Giáo chủ giám sát, một cư dân ở La Rochelle đến từ cảng Portsmouth và nói rằng, trước đây tám ngày thấy một hạm đội hùng hậu sẫn sàng giương buồm. Thêm nữa, Buckingham đã thông báo cho ông thị trưởng rằng một liên minh to lớn chống nước Pháp sắp sửa ra mắt, và vương quốc Pháp sắp bị quân Anh, Tây Ban Nha và đế quốc Áo xâm lược.

Bức thông điệp được đọc công khai trên tất cả các quảng trường, các bản sao được dán ở các góc phố, và ngay những người đã bắt đầu mở những cuộc thương lượng cũng đình lại, quyết định chờ cứu viện như đã được huyênh hoang công bố.
Tình thế bất ngờ đó khiến cho Richelieu bắt đầu lo lắng, buộc ông bất đắc dĩ phải quay mặt nhìn về phía bên kia bờ biển.

Trong khi đó, bất chấp những lo lắng của vị chỉ huy đích thực và duy nhất, binh lính quân đội nhà vua vẫn sống vui tươi, thực phẩm không thiếu ở doanh trại, tiền bạc cũng vậy, mọi đơn vị đối đầu nhau xem ai gan dạ và vui chơi thỏa thích hơn ai. Bắt gián điệp và đem treo cổ, tiến hành đột kích trên đê hay trên biển, tưởng tượng ra những trò rồ dại rồi thực hiện một cách lạnh lùng, đó là những trò giết thì giờ để tìm cách rút ngắn thời gian trong quân ngũ quá dài, còn quá dài chẳng những với dân Rochelle đang bị nạn đói và nỗi lo âu gậm nhấm mà cả với Giáo chủ đang vây hãm họ rất ác liệt.

Đôi khi, khi Giáo chủ cưỡi trên lưng ngựa như một gã cảnh sát quân sự cuối cùng của quân đội, đưa con mắt đăm chiêu nhìn những công trình mà ông đã ra lệnh huy động các kỹ sư của khắp nước Pháp đến đây để tôn cao lên, lại diễn ra quá chậm trễ không theo mong muốn của ông, nếu khi đó, gặp một lính ngự lâm của đại đội ông De Treville, ông liền lại gần, nhìn người đó một cách lạ thường, và nếu nhận ra đó không phải là một trong bốn người bạn, ông lại để con mắt thâm trầm và ý nghĩ mung lung hướng về nơi khác.

Một hôm, không còn hy vọng vào những cuộc điều đình với thành phố, không chút tin tức gì từ nước Anh, bị nỗi phiền muộn chết người gậm nhấm, Giáo chủ đi ra ngoài không có mục đích nào khác là chỉ để ra ngoài, cùng đi chỉ có Cahuxắc và Lahuđinie. Ông đi dọc theo bờ cát và hòa trộn những giấc mơ bao la của mình vào sự bao la của đại dương. Ông thong thả cho ngựa đi bước một lên một ngọn đồi, trên đỉnh đồi đằng sau một hàng giậu, ông bắt gặp bẩy người, xung quanh là những chai rượu rỗng, nằm dài trên cát đón những tia nắng mặt trời hiếm hoi trong tiết mùa đông này. Bốn người trong số đó là bốn chàng ngự lâm quân đang chuẩn bị nghe đọc một bức thư mà trong người trong bọn họ vừa nhận được. Bức thư này rất quan trọng đến nỗi nó làm cho họ bỏ mặc cả những lá bài và quân xúc xắc trên mặt trống.

Ba người khác lo việc mở nắp một bình rượu vang Côkina khổng lồ. Đó là mấy người hầu của mấy người kia.

Giáo chủ đang u sầu, và trong tâm trạng ấy, không gì làm tăng gấp bội nỗi bực tức bằng sự vui tươi của những người khác.

Vả lại, ông vốn có một thiên kiến kỳ quái, đó là luôn tin rằng chính nỗi buồn của ông là nguyên nhân làm cho những kẻ khác vui thích.

Ra hiệu cho La Huđinie và Cahuxắc dừng lại, ông xuống ngựa lại gần những kẻ cười cợt đáng ngờ, hy vọng nhờ đi trên cát, nên tiếng bước chân không bị nghe thấy và hàng giậu che khuất ông đi đến, ông có thể nghe được vài câu của cuộc chuyện trò này đối với ông có vẻ rất thú vị. Đến cách hàng giậu chỉ mươi bước ông đã nhận ra giọng thổ ngữ Gascogne, và vì đã biết những người này đều là ngự lâm quân, ông chẳng còn ngờ gì nữa là ba người kia là những người mà người ta gọi là ba chàng nối khố, nghĩa là Athos, Porthos, Aramis.

Việc phát hiện ra mấy chàng này chỉ làm Giáo chủ tăng thêm ham muốn được nghe thấy cuộc trò chuyện. Đôi mắt ông lạ hẳn đi, với bước chân của loài mèo rừng ông tiến đến bờ giậu nhưng ông chỉ vừa nghe thấy những âm tiết mơ hồ, không có nghĩa nào rõ rệt, thì một tiếng kêu thất thanh làm ông giật bắn mình và khiến mấy chàng ngự lâm chú ý.

- Sĩ quan! - Grimaud kêu váng lên.

- Ai cho anh nói? Đồ khốn! - Athos chống tay nhổm dậy nhìn Grimaud bằng con mắt nảy lừa làm anh ta ngẩn ra.

Grimaud không nói thêm một lời nào nữa, đành chỉ tay về phía hàng giậu phát giác Giáo chủ và tùy tùng.

Bốn chàng ngự lâm chồm ngay dậy và đứng nghiêm chào kính cẩn.

Giáo chủ hình như có vẻ giận dữ. Ông nói:

- Hình như các vị ngự lâm quân bố trí những người này canh phòng cho mình? Phải chăng bọn Anh đến bằng đường bộ, hay các ông ngự lâm quân tự coi mình là sĩ quan cao cấp?

- Thưa Đức ông - Athos trả lời, bởi giữa lúc tất cả cùng hoảng sợ, chỉ còn mỗi mình chàng là vẫn giữ được tính điềm đạm và thản nhiên của một bậc đại lãnh chúa không bao giờ thiếu được ở chàng - Thưa Đức ông, những người lính ngự lâm khi không bận làm nhiệm vụ hoặc khi đã làm xong nhiệm vụ, họ uống rượu và chơi xúc xắc và họ là những sĩ quan rất cao cấp đối với những người hầu của họ.

- Những người hầu! - Giáo chủ càu nhàu - những người hầu được lệnh báo cho chủ mình khi có ai đó đi qua, đó không hề là những người hầu, đó là những tên lính gác.

- Tuy nhiên Đức ông thấy quá rõ, nếu không đề phòng trước như vậy, thì chúng tôi đã để ngài đi qua mà không được bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn vì ngài đã ban cho chúng tôi được xum họp cùng nhau - Athos tiếp tục - D Artagnan, vừa nãy, anh vẫn mong có dịp bày tỏ lòng biết ơn với Đức ông, giờ Đức ông đã đến đây, hãy lợi dụng cơ hội này đi.

Athos nói ra những câu ấy với vẻ thản nhiên bình lặng thường làm tôn bật chàng lên trong những giờ phút hiểm nguy và sự lễ độ thái quá ấy đôi lúc thường làm chàng như một ông vua còn đường bệ hơn cả những ông vua dòng dõi.

D Artagnan lại gần và ấp úng mấy câu cám ơn rồi tịt mất trước cái nhìn sa sầm lại của Giáo chủ.

Giáo chủ không tỏ ra bị lạc hướng ý đồ ban đầu của mình bởi sự phá bĩnh của Athos nêu lên, liền tiếp tục:

- Không sao, các vị, không sao, ta chỉ không thích thấy những gã mới là lính thôi, bởi thấy mình hơn người, được phục vụ trong một đơn vị được biệt đãi lại làm ra vẻ các đại lãnh chúa như thế và kỷ luật thì đối với họ cũng vẫn là kỷ luật chung cho mọi người.

Athos để cho Giáo chủ nói xong xuôi, liền nghiêng đầu tỏ vẻ đồng tình, đến lượt mình nói tiếp:

- Kỷ luật, thưa Đức ông, tôi hy vọng, bất cứ mặt nào, chúng tôi cũng không sao lãng. Chúng tôi chưa được giao nhiệm vụ và chúng tôi nghĩ rằng, vì không làm nhiệm vụ, chúng tôi có thể bố trí thời gian sao cho tốt nhất với mình. Nếu như có đôi chút may mắn được Đức ông trao cho một mệnh lệnh đặc biệt nào đó, chúng tôi sẵn sàng tuân lệnh ngay - Athos vừa tiếp tục nói vừa cau mày lại bởi cái lối thẩm vấn đó bắt đầu làm chàng cáu bực - Đức ông cũng thấy, để sẵn sàng, kể cả trước những báo động nhỏ nhất, chúng tôi đã ra ngoài không rời vũ khí.

Và chàng chỉ cho Giáo chủ bốn khẩu hỏa mai bó lại bên cái trống, trên trống lăn lóc quân xúc xắc và quân bài.

- Mong Đức ông tin rằng - D Artagnan nói thêm - chúng tôi đâu có cho rằng Đức ông lại đến với chúng tôi bằng một đoàn bé nhỏ như thế này, nếu biết thế chúng tôi đã ra nghênh đón trước ngài rồi.

Giáo chủ cắn ria mép rồi cắn môi, nói:

- Các ông có biết giống ai không, luôn luôn tụ họp, như bây giờ đây này, vũ khí trong tay, người hầu canh phòng, các ông giống như bốn kẻ đồng mưu.

- Ồ! Về việc này, thưa Đức ông, đúng là như vậy - Athos nói - Chúng tôi đang mưu tính, như Đức ông có thể thấy buổi sáng hôm nào đó, chỉ để chống lại bọn Rochelle.

- Này, các nhà chính trị!- Giáo chủ đển lượt mình cũng cau mày lại nói tiếp - có lẽ người ta sẽ tìm thấy trong đầu các ông biết bao điều bí mật còn chưa được biết, nếu như người ta có thể đọc được ở trong đó như các ông đọc trong bức thư mà các ông đã giấu đi khi thấy ta đến.

Mặt Athos đỏ bừng lên, chàng bước một bước tiến lại gần Giáo chủ.

- Thưa Đức ông, ngài nghi ngờ chúng tôi thực mất rồi, và chúng tôi đang phải chịu một cuộc thẩm vấn đích thực. Nếu đã như vậy, xin Đức ông hạ cố giải thích cho để ít nhất chúng tôi cũng biết cách xử sự.

- Và khi nào đây là một cuộc thẩm vấn - Giáo chủ nói tiếp - thì là những kẻ khác chứ không phải các ông phải chịu thẩm vấn và phải trả lời, ông Athos ạ.

- Thế cho nên, thưa Đức ông, tôi đã chẳng nói với Đức ông là ngài cứ việc hỏi và chúng tôi sẵn sàng trả lời là gì.

- Bức thư mà các ông định đọc là bức thư gì, mà ông đã giấu đó, ông Aramis?

- Thưa Đức ông, thư đàn bà.

- Ồ ta hiểu - Giáo chủ nói - những loại thư ấy thì phải kín đáo rồi. Nhưng tuy nhiên người ta có thể đưa cho cha xưng tội xem, và ông biết đấy, ta có quyền ấy.

- Thưa Đức ông - Athos nói với một vẻ bình thản còn đáng sợ hơn cả việc mình đem đầu ra đặt vào câu trả lời này - bức thư đó là của một người đàn bà nhưng không ký tên Marion Delorme, cũng không ký tiểu thư De Eghiông(3).


Chú thích:
(1) Vụ thảm sát những giáo đồ Tin lành dưới triều vua Charles IX theo sự thúc ép của mẹ là Catherine de Medicis đêm 23 tháng 8 năm 1572 và hôm sau là lễ cưới của Henri de Navarre (sau này trở thành Hanri IV, bố của Louis XIII) với Marguerite, em gái Vua Charles IX. Vua Charles IX trước đòi hỏi của mẹ mình đã trả lời: "Mẹ muốn vậy à? … thì giết, nhưng giết tất!". "Tất" đây ý nói cả Henri de Navarre, nhưng vì tuyên thệ bỏ đạo nên được tha chết. Hậu quả vụ thảm sát là cuộc nội chiến thứ 5.
(2) Tristan L Hermite: Hiến binh của các thống chế Pháp (như chánh cảnh sát) thời Henri VII và Louis XI - Tàn bạo, bất chấp các nguyên tắc công lý - Cha đỡ đầu của Tristan đây ý nói là Vua Louis XI
(3) Marion Delorme- một phụ nữ nổi tiếng về sắc đẹp và những cuộc phiêu lưu tình ái (1611-1659) - Vị Hygo đã viết một vở kịch thơ cùng tên Nữ Công tước D aguillon - tên đầy đủ: Marie Madeleine De Vignerot, cháu gái của Richelieu (1604-1675). Người ta đồn cả hai đều là người tình của Richelieu
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 01:16:24 | Chỉ xem của tác giả
Ba người lính ngự lâm - Chương 51
-----------------------------------------------

Giáo chủ tái mặt lại như da người chết, một tia mắt thú dữ lóe lên trong mắt ông, ông quay phắt lại như thể ra lệnh cho Cahuxắc và La Huđinie, Athos thấy động thái độ liền bước lại ngay chỗ để súng. Ba người kia mắt cũng chăm chăm nhìn súng ở tư thế không chịu để bị bắt giữ. Về phía giáo chủ, ông chỉ có ba. Ngự lâm quân kể cả người hầu là bẩy. Giáo chủ nghĩ ngay, dù Athos và đồng bọn có âm mưu thực sự thì vẫn cứ không cân sức, ông lật ngược ngay tình thế và ông vẫn luôn luôn như thế, mọi sự tức giận tan biến thành một nụ cười.

- Thôi nào, thôi nào! - Ông nói - Các ông là những chàng trai trẻ can trường, kiêu hãnh trước mặt trời, chung thủy trong bóng tối, chẳng có điều gì xấu khi chăm lo cho mình, sau khi đã chăm lo đầy đủ cho người khác. Các ông ạ, ta không hề quên cái đêm mà các ông đã hộ tống ta đến quán Chuồng chim câu Đỏ. Nếu như có điều gì nguy hiểm đáng sợ trên con đường ta sắp đi đây, ta sẽ yêu cầu các ông đi cùng ta, nhưng vì không có chuyện gì, các ông cứ việc ở lại, uống nốt những chai rượu, chơi nốt ván bài và đọc xong bức thư đi. Tạm biệt các ông.

Rồi, nhảy lên lưng con ngựa Cahuxắc vừa dắt đến, ông giơ tay chào mọi người và đi mất.

Mọi người nhìn nhau.

Ai nấy mặt mũi đều bàng hoàng bởi mặc dầu bề ngoài chào thân thiện, nhưng tất cả đều hiểu trong lòng, Giáo chủ điên lên lúc ra đi.

Chỉ mỗi Athos là mỉm cười, một nụ cười mạnh mẽ và khinh thị. Khi Giáo chủ đã ra khỏi tầm nhìn và tầm nghe, Porthos nói to:
- Cái thằng Grimaud này báo chậm quá! - Porthos muốn trút nỗi bực bội lên một ai đó.

Grimaud định trả lời để bào chữa, Athos giơ ngón tay lên và Grimaud im mất.

D Artagnan hỏi:

- Aramis, anh định đưa bức thư à?

- Mình ư, - Aramis nói bằng một giọng véo von - mình đã quyết định nếu ông ta cứ nằng nặc đòi đưa cho ông ta bức thư, thì một tay mình đưa thư, tay kia mình sẽ đưa gươm của mình xuyên qua người ông ta.

- Mình cũng nghĩ y như vậy - Athos nói - Vì vậy mà mình đã lao vào ngăn giữa cậu và ông ta. Thật ra, con người đó ăn nói như thế với người khác là quá dại. Nghe nói bao giờ ông ta cũng chỉ gây chuyện với đàn bà và trẻ con.

- Anh Athos thân mến - D Artagnan nói - Tôi phục anh đấy. Nhưng rút cuộc, chúng ta cũng sai đấy.

- Sao, sai ư? - Athos nói - Vậy cái không khí mà chúng ta thở này là của ai? Của ai cái đại dương mà tầm mắt của chúng ta trải ra xa tắp? Lớp cát chúng ta nằm này là của ai? Bức thư của người tình của cậu này là gửi cho ai? Của Giáo chủ hẳn? Mình thề là cái con người đó cứ tưởng cả thế giới này đều thuộc về mình. Cậu đứng đó, ấp úng, hoang mang, kinh hồn. Làm như Bastille lù lù trước mắt cậu và nữ thần khổng lồ Mêđuydơ(4) biến cậu thành đá. Xem nào, si tình mà lại là âm mưu ư? Cậu si mê một người đàn bà mà Giáo chủ đã cho giam lại, cậu muốn kéo nàng ra khỏi bàn tay của Giáo chủ. Đây là một canh bạc cậu chơi với Đức ông. Bức thư đó, là nước bài của cậu. Tại sao cậu lại phô nước bài của mình ra cho đối phương? Không thể làm thế được ông ta cứ việc đoán, tốt thôi. Chúng ta cũng đoán nước bài của ông ta.

- Suy đến cùng - D Artagnan nói - Athos ạ, những điều anh vừa nói mang nhiều ý nghĩa lắm.

Đã vậy thì không còn vấn đề vừa xảy ra nữa, và Aramis đọc tiếp bức thư của cô em họ mà Giáo chủ làm đứt đoạn đi.

Aramis rút bức thư từ trong túi ra, ba người bạn chụm lại và ba người hầu cũng lại quây vào bên cái bình rượu.

- Anh mới đọc được một vài dòng thôi - D Artagnan nói - Anh đọc lại từ đầu đi.

- Xin sẵn sàng! - Aramis nói.

"Anh họ thân mến, em tin thế nào em cũng sẽ đi Xtơnay nơi chị em đã đưa cô hầu gái bé nhỏ của chúng ta vào ở trong tu viện của những nữ tu sĩ thuộc giáo phái Cácme(5). Cô bé tội nghiệp đó phải cam chịu, nó biết rằng nó không thể sống ở nơi nào khác mà sự cứu rỗi linh hồn nó không bị nguy hiểm. Tuy nhiên nếu những công việc trong gia đình chúng em được thu xếp ổn thỏa như chúng em mong muốn, em tin rằng cô bé thoát khỏi nguy cơ gánh kiếp đọa đày, sẽ được trở lại bên những người cô bé nhớ tiếc, nhất là nó lại biết người ta luôn nghĩ đến nó. Trong khi chờ đợi cô bé cũng không đến nỗi khốn khổ lắm đâu. Tất cả những gì nó mong ước đó là một bức thư của người hẹn ước. Em biết những loại vật phẩm như thế rất khó vượt qua lưới sắt. Nhưng rút cục như em đã cho anh những bằng chứng, anh họ thân mến, em không đến nỗi quá vụng về và em sẽ đảm nhiệm việc đó. Chị em cảm ơn anh về kỷ niệm tốt và vĩnh hằng của anh. Có lúc chị em cũng rất lo lắng. Nhưng cuối cùng bây giờ chị ấy cũng đã đôi chút yên tâm và đã phái người tới đó để không xảy ra một điều gì bất ngờ. Tạm biệt, anh họ thân mến, cho chúng em biết tin tức về anh càng thường xuyên càng tốt, nghĩa là bất cứ lúc nào mà anh tin có thể gửi đi chắc chắn.

Hôn anh.

Marie Mítsông

- Ôi! Aramis! Tôi phải chịu ơn anh nhiều lắm! - D Artagnan kêu lên - Constance yêu dấu! Thế là ta cũng đã có được tin tức của em rồi. Em còn sống. Em được an toàn trong một tu viện, em ở Xtơnay? Xtơnay ở đâu anh Athos?

- Ở Loren, cách vùng biên giới Andátx mấy dặm. Một khi cuộc vây hãm này được rỡ bỏ, chúng ta có thể làm một chuyến đến đấy.

- Cũng không lâu đâu, phải hy vọng thế - Porthos nói - Bởi sáng nay đã treo cổ một tên gián điệp, tên này khai bọn Rochelle đã phải ăn cả da giầy. Giả dụ sau khi ăn hết da, chúng phải ăn đến đế giầy, rồi hết đế thì còn gì để ăn, trừ phi chúng ăn lẫn nhau.

- Những kẻ dại dột đáng thương - Athos và nói vừa uống cạn cốc rượu vang Boócđô trứ danh, hồi đó còn chưa nổi tiếng như ngày nay, nhưng không phải hạng xoàng - Những kẻ dại dột đáng thương! Làm như Cơ đốc giáo không phải là thứ tôn giáo lợi lộc nhất và dễ chịu nhất trong các tôn giáo ấy? Mà cũng thế thôi - chàng chặc lưỡi nói tiếp - Đó là những chàng trai trẻ can trường. Mà cậu làm cái quái gì thế hả Aramis? - Athos tiếp tục - cậu khư khư ôm lấy cái thư trong túi cậu ư?

- Phải đấy - D Artagnan nói - anh Athos nói đúng đấy, phải đốt đi thôi. Phải đốt đi đốt lại ấy, ai biết đâu nhỡ Giáo chủ có bí quyết hỏi cung được tàn tro?

- Ông ta hẳn là có đấy - Aramis nói - Vậy anh định làm thế nào bức thư ấy? - Porthos hỏi.

- Lại đây, Grimaud - Athos nói.

Grimaud đứng lên và tuân lệnh.

- Để phạt ngươi tội nói không xin phép, anh bạn ạ, ngươi phải nuốt mẩu giấy này, rồi để thưởng cho ngươi đã giúp chúng ta một việc tốt, ngươi hãy uống tiếp cốc rượu vang này. Bức thư đây nhai thật kỹ vào.

Grimaud mỉm cười, đôi mắt dán vào chiếc cốc mà Athos vừa rót đầy tràn, gã nghiền nát mẩu giấy và nuốt chửng.

- Hoan hô, thầy Grimaud - Athos nói - Và bây giờ cầm lấy cốc rượu này. Tốt lắm, không cần cám ơn đâu.

Grimaud lặng lẽ uống cốc vang Boócđô nhưng mắt lại ngước lên trời nói bằng thứ ngôn ngữ như thể người câm nhưng không kém biểu cảm trong cả quãng thời gian kéo dài cái việc làm dễ chịu này.

- Và bây giờ - Athos nói - trừ phi ngài Giáo chủ nghĩ ra chuyện mổ bụng Grimaud, còn thì tôi tin chúng ta có thể yên tâm được rồi.

Trong khi đó, Giáo chủ đang tiếp tục cuộc dạo chơi u trầm, miệng lẩm bẩm giữa hai hàng ria:

- Dứt khoát, bốn con người ấy phải thuộc về ta.

Chú thích:
(4) Mêđuydơ - một trong ba nữ quái, đẹp hiếm có, có bộ tóc đẹp lộng lẫy, đã xúc phạm nữ thần Minécvơ. Nữ thần tức giận đã biến tóc mụ thành những đàn rắn, và mắt mụ nhìn ai người ấy hóa đá. Pécsê đã chém đầu mụ mang theo cuộc viễn chinh để dọa kẻ thù
(5) Giáo phái của những tu sĩ khất thực ở Palestine, thế kỷ 12, du nhập vào Pháp dưới triều Louis IX
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 01:18:47 | Chỉ xem của tác giả
Chương 52
Ngày đầu tiên trong cảnh giam cầm


Trở lại chuyện Milady, nàng vẫn trong tình trạng tuyệt vọng, tự đào cho mình một vực thẳm của những ý nghĩ tối tăm, một địa ngục tối tăm mà nàng đã hầu như bỏ lại niềm hy vọng ở cửa, bởi đây là lần đầu tiên nàng hoài nghi, lần đầu tiên nàng biết sợ.

Cả hai trường hợp, nàng đều không gặp may, cả hai trường hợp nàng đều bị phát hiện và bị phản bội, và cả hai trường hợp nàng đều thất bại chống lại thần định mệnh chắc hẳn do Thượng đế sai xuống để đánh nàng. D Artagnan đã thắng nàng, kẻ đại diện cho sức mạnh vô địch của cái ác.

Chàng đã lợi dụng nàng trong tình yêu, làm nhục niềm kiêu hãnh, lừa dối nàng trong tham vọng của nàng và giờ đây, chàng làm cho số phận nàng nguy khốn, tước đoạt tự do của nàng, đe dọa cả mạng sống của nàng. Nhưng, tệ hơn nữa, chàng đã lột bỏ một phần cái mặt nạ của nàng, là tấm da dê nàng quấn quanh người khiến nàng mạnh đến thế.

D Artagnan đã làm cho Buckingham, người mà nàng căm ghét như thể căm ghét tất cả những gì mình đã từng yêu, thoát khỏi cơn bão táp mà Richelieu uy hiếp ông ta thông qua Hoàng Hậu. D Artagnan vờ giả làm De Wardes, người mà nàng đã có một cơn giở chứng của loài hổ cái bất trị mà những người đàn bà có cùng tính cách thường làm như vậy. D Artagnan đã biết được cái điều bí mật mà nàng đã thề không ai biết nổi nếu không bị chết. Cuối cùng, lúc nàng có được tờ giấy toàn quyền hành động, nhờ nó nàng có thể báo thù, tờ giấy đó lại bị giật mất khỏi tay và chính D Artagnan là người cầm tù nàng và đẩy nàng đến một vịnh Botany(1) không dấu chân người, một thứ Thaibơn(2) nhục nhã nào đó ở Ấn Độ Dương.

Chắc chắn tất cả những gì xảy ra với nàng đó đều do D Artagnan mà ra cả. Do ai mà bao nhiêu nỗi hổ nhục chồng chất lên đầu nàng nếu không phải hắn? Chỉ có hắn mới có thể chuyển cho Huân tước De Winter tất cả những bí mật kinh khủng hắn đã lần lượt phát hiện ra do định mệnh. Hắn quen biết em chồng nàng. Hắn đã viết cho kẻ kia tất cả.

Biết bao căm hờn nàng nghiền ngẫm! Ngồi đó, bất động, đôi mắt chăm chăm, cháy bỏng trong căn phòng hoang vắng, như những âm vang của những tiếng gầm khan đôi khi thoát ra cùng hơi thở từ sâu trong ngực, hòa cùng với tiếng sóng đang dâng, đang gào thét, gầm rú rồi tới đập vào bờ đá, trên đó là tòa lâu đài u ám và kiêu ngạo, vỡ tan ra như một sự tuyệt vọng vĩnh cửu và bất lực. Trong những ánh chớp của cơn điên giận giông bão làm lóe sáng trí não nàng, nàng thai nghén những dự định trả thù đồ sộ chống lại bà Bonacieux, Buckingham, nhất là D Artagnan, nhưng rồi tất cả đều mất tăm mất tích trong cái xa xôi vô tận của tương lai!

Đúng, nhưng để trả thù phải được tự do đã, và để được tự do khi là một tù nhân thì phải đục tường, bẻ song sất, khoét sàn, với sự quyết tâm chỉ những người đàn ông kiên trì và khỏe mạnh mới có thể đẩy đến cùng, còn trước những cái đó thì sự giận dữ của một người đàn bà mảnh mai chỉ có thất bại. Vả lại, để làm được mọi điều đó, cần phải có thời gian, năm tháng, và nàng… nàng chỉ có mười đến mười hai ngày, như De Winter, tên em chồng đao phủ khủng khiếp kia đã nói với nàng.

Và trong khi đó, nếu nàng là một người đàn ông, nàng sẽ thử làm mọi việc ấy, biết đâu lại chẳng thành công. Tại sao ông trời lại nhầm lẫn đặt một linh hồn nam tử vào tấm thân mềm yểu và mảnh mai như vậy.

Vì thế, những khoảnh khắc đầu tiên của cảnh giam cầm thật là khủng khiếp. Mấy cơn vùng vẫy điên cuồng mà nàng không thể vượt qua đã trả giá cho món nợ của thân phận đàn bà đối với tạo hóa. Nhưng dần dần nàng đã vượt qua được những tiếng nổ của cơn điên giận, những cơn điên giận run người cũng biến mất và giờ đây nàng thu mình lại như một con rắn mệt mỏi cần nghỉ ngơi.

"Thôi đi, thôi đi, ta điên nên mới nổi nóng như thế - Nàng vừa tự nhủ vừa soi gương, trong gương một cái nhìn rực cháy như thể nàng đang tự bảo mình - Không dùng bạo lực nữa. Bạo lực là bằng chứng của sự yếu đuối. Trước hết ta chưa bao giờ thành công được bằng phương thức ấy. Có lẽ nếu ta dùng sức mạnh của ta chống lại đàn bà, may ra ta thấy họ còn yếu hơn ta, do đó ta thắng họ. Nhưng đấu tranh chống lại đàn ông, ta chỉ là một người đàn bà đối với họ. Vậy đấu tranh với tư cách đàn bà, sức mạnh của ta là ở trong sự yếu đuối của ta".

Thế là, như để kiểm tra xem liệu mình có thể làm biến đổi được bộ mặt rất biểu cảm, rất linh hoạt không, nàng liền lần lượt sắm đủ các vai, từ nét mặt giận dữ cau có mặt mày đến nét mặt dịu hiền nhất, đáng yêu nhất, và nụ cười quyến rũ nhất.

Rồi mớ tóc nàng được đôi tay khéo léo lần lượt uốn thành những búp sóng mà nàng tin có thể làm cho bộ mặt mình thêm duyên dáng. Cuối cùng nàng thấy tự thỏa mãn và lẩm bẩm: "Ồ, chẳng bị mất đi cái gì cả. Ta vẫn luôn luôn đẹp".

Lúc đó đã gần tám giờ tối, Milady thấy có cái giường. Nàng nghĩ nghỉ ngơi mấy tiếng đồng hồ sẽ làm dịu mát không những cái đầu và ý nghĩ của mình và còn cả da dẻ mình nữa. Tuy nhiên, trước khi đi nằm, một ý nghĩ rất tuyệt chợt đến với nàng.

Nàng đã nghe nói đến việc ăn tối. Nàng đã ở trong cái buồng này được một tiếng đồng hồ, người ta không thể chậm trễ mang cơm cho nàng. Nữ tù nhân không muốn mất thời gian, nàng quyết định ngay tối nay thử thăm dò địa thế, nghiên cứu tính cách những con người được giao nhiệm vụ canh giác ở đây.

Một luồng sáng hiện ra dưới chân cửa, báo hiệu bọn cai ngục đang trở lại, Milady đang đứng vội gieo mình xuống chiếc ghế bành, đầu ngả ra sau, bộ tóc đẹp xõa tung, bộ ngực trần phơi ra một nửa dưới những nếp ren nhàu nát, một tay đặt lên ngực trái và tay kia thõng xuống.

Người ta mở chốt cửa, bản lề rít lên kin kít, tiếng bước chân rầm rập trong phòng và lại gần.

- Đặt trên chiếc bàn này - Một giọng nói cất lên và người nữ tù nhân nhận ra giọng nói của Felten.

Lệnh được thi hành ngay, Felten tiếp tục:

- Anh mang mấy ngọn nến vào rồi đổi gác đi.

- Cái lệnh kép mà viên trung úy trẻ ban ra cho vẫn cùng một người chứng tỏ với Milady rằng những người phục vụ và những người canh gác vẫn chỉ là một, nghĩa là lính cả.

Mệnh lệnh của Felten được thi hành mau lẹ và lặng lẽ, chứng tỏ viên trung úy duy trì kỷ luật rất tốt.

Cuối cùng thì Felten, còn chưa ngó tới Milady, đã quay lại phía nàng:

- À! - Felten nói - Bà ta ngủ, thôi được, thức dậy, bà ta sẽ ăn tối! - Và chàng ta bước mấy bước định đi ra.

- Nhưng, thưa trung úy! - Một người lính có lẽ đỡ nghiệt ngã hơn chỉ huy của mình, lại gần Milady - Bà ta không ngủ đâu.

- Sao, bà ta không ngủ! - Felten nói - Vậy bà ta làm gì?

- Bà ta ngất, mặt rất xanh và tôi đã nghe hoài không thấy thở.

- Anh nói đúng - Felten sau khi đứng tại chỗ nhìn Milady, không bước thêm một bước về phía nàng, liền bảo - Đi báo cho ngài De Winter là nữ tù nhân của ông ta bị ngất, bởi tôi không biết làm thế nào, trường hợp này đã không tính trước.

Người lính tuân lệnh đi ra, Felten ngồi đợi ở chiếc ghế bành vô tình kê gần cửa không nói một lời, cũng không động đậy, Milady vốn có cái tài lớn đã được đám đàn bà dày công nghiên cứu là có thể nhìn qua lớp lông mi dài mà lại làm như không phải mở mi. Nàng thấy Felten ngồi quay lưng lại. Nàng tiếp tục nhìn chàng sĩ quan khoảng gần mươi phút và trong mươi phút ấy người ngồi gác vẫn trơ trơ không hề ngoái lại lấy một lần.

Nàng nghĩ có lẽ Huân tước De Winter cũng sắp đến, và sự có mặt của ông ta sẽ đem lại một sức mạnh mới cho viên giám ngục của mình. Cuộc thử nghiệm đầu tiên của nàng đã bị thất bại.

Nàng đành chịu điều đó như một người đàn bà vững tin ở những khả năng trời phú cho đàn bà.

Thế là nàng ngẩng đầu lên, mở mắt và khẽ thở dài.

Nghe tiếng thở dài, Felten rút cục cũng quay lại.

- Kìa, bà đã dậy rồi? - Chàng ta nói - Tôi không còn việc gì ở đây nữa? Nếu bà cần gì, bà cứ lắc chuông.

- Ôi trời ơi! Trời ơi! Sao tôi đau đớn đến thế này! - Milady thầm thì bằng một giọng du dương giống như những mụ yêu tinh thời xưa làm mê hồn tất cả những người nào nó muốn hại.

Rồi nàng ngồi thẳng lên trên ghế bành, ở một tư thế duyên dáng nhất và còn buông thả hơn cả khi nàng đang nằm.

Felten đứng lên và nói:

- Bà sẽ được phục vụ như thế ba lần mỗi ngày, buổi sáng, chín giờ, buổi trưa, một giờ và buổi tối, tám giờ. Nếu không thích hợp với bà, bà có thể định giờ cho mình, người ta sẽ làm theo ý bà.

- Nhưng tôi cứ phải luôn đơn độc trong căn buồng rộng và buồn tẻ này vậy sao? - Milady hỏi.

- Một người đàn bà vùng lân cận đã được báo, ngày mai sẽ ở lâu đài và lúc nào bà muốn bà ta sẽ đến.

- Tôi xin cảm ơn ông - nữ tù nhân trả lời khiêm tốn.

Felten khẽ chào và đi về phía cửa. Đúng lúc chàng ta sắp bước qua ngưỡng cửa, Huân tước De Winter xuất hiện trong hành lang, theo sau là người lính đi báo cho ông ta cái tin Milady bị ngất. Ông ta cầm trong tay một lọ muối.

- Thế nào? Có chuyện gì nào? Chuyện gì diễn ra ở đây? - Ông ta vừa nhìn nữ tù nhân của mình đang ớứng và Felten đang sắp bước ra vừa nói bằng một giọng châm biếm - Cái người chết ấy đã sống lại rồi ư? Mẹ kiếp, Felten, chú bé ơi, vậy là anh không thấy người ta coi anh là một gã tập toạng vào nghề sao mà người ta vừa mới diễn cái màn đầu của vở hài kịch cho anh xem ư? Chắc hẳn thế nào chúng ta chẳng có được cái thú vị theo dõi tất cả những màn tiếp theo của vở kịch?

- Thưa Huân tước, tôi cũng đã nghĩ lắm chứ - Felten nói - Nhưng, rút cục, vì tù nhân là phụ nữ nên dẫu sao tôi cũng muốn có sự kiêng nể với bà ta như mọi người dòng dõi đối xử với phụ nữ, nếu không vì họ thì ít nhất cũng vì bản thân người đó.

Milady rùng hết cả người. Những lời nói của Felten giống như một dòng nước đá chảy trong khắp các mạch máu của nàng.

De Winter vừa cười vừa nói tiếp:

- Vậy là, những mớ tóc đẹp xõa ra khéo léo, làn da trắng, và cái nhìn yểu điệu kia còn chưa quyến rũ nổi anh ư, hở trái tim sắt đá?

- Không, thưa Huân tước - chàng trai sắt đá trả lời - xin ông cứ tin tôi Phải là cái gì hơn những thủ đoạn quỷ quyệt và những lối đỏm dáng của đàn bà mới làm sa ngã được tôi.

- Nếu đã vậy, chàng trung úy dũng cảm của tôi, hãy để Milady tìm xem có gì hơn không, và ta đi ăn tối đã. Mà anh cứ yên tâm. Bà ta có trí tưởng tượng phong phú, và màn thứ hai sẽ sớm ra mắt tiếp màn đầu ngay.

Nói xong, Huân tước De Winter khoác tay Felten vừa cười vừa lôi anh ta đi.

"Ồ, rồi ta sẽ tìm được cái cần cho mi thôi - Milady lẩm bẩm qua kẽ răng - Cứ yên tâm, tên thày tu hụt khốn kiếp, tên lính khốn kiếp cải đạo lấy áo thày tu may thành áo lính kia ạ".

- Nhân tiện - De Winter dừng lại ở ngưỡng của nói tiếp Milady, đừng nên để sự thất bại này làm cho ăn mất ngon, hãy nếm thử món gà giò, và những con cá mà tôi không bảo cho thuốc độc vào đâu, tôi thề danh dự đấy. Tôi khá hợp với đầu bếp của tôi, và vì nó không được thừa kế gì ở tôi, nên tôi hoàn toàn và đầy tin tưởng vào hắn. Hãy làm như tôi đi. Tạm biệt bà chị thân mến! Hẹn đến lần ngất sau của bà.

Đó là tất cả những gì Milady có thể chịu đựng. Hai bàn tay bấu vào tay ghế, răng nghiến khan, mắt dõi nhìn cánh cửa đóng lại đằng sau Winter và Felten. Và khi thấy chỉ còn có một mình, một cơn khủng hoảng về nỗi tuyệt vọng lại xâm chiếm nàng.
Nàng liếc mắt nhìn lên bàn, thấy lấp lánh con dao liền lao tới và vồ lấy. Nhưng sự thất vọng của nàng thật tàn nhẫn: lưỡi dao tròn, không sắc và bằng bạc nên mềm.

Một tràng cười vang sau cánh cửa khép hở và cửa mở toang.

- Chà, chà, - Huân tước De Winter kêu lên - Anh thấy rõ chưa, chàng Felten tử tế của ta, anh thấy những gì ta đã nói với anh chưa: con dao ấy là dành cho anh đấy, chú em ạ, mụ ta đã định giết anh, anh thấy chưa, đấy mới là một trong những thói điên cuồng của mụ ta để bằng cách này hay cách khác, thanh toán những người làm vướng chân mụ. Nếu ta nghe anh, con dao đã phải sắc nhọn và bằng thép, thế là hết đời Felten, mụ ta đã cắt cổ anh rồi, và sau anh là tất cả mọi người. Nhìn xem, John, mụ ta sử dụng dao có cừ không.

Quả thật Milady vẫn còn cầm con dao tấn công trong bàn tay co quắp, nhưng nghe những câu nói cuối cùng ấy, một sự lăng mạ đến cực điểm ấy, bàn tay nàng, sức lực nàng và cả ý chí nàng nữa đều rã rời ra.

Con dao rơi xuống đất.

- Thưa Huân tước, ông nói phải - Felten nói bằng một giọng tởm lợm sâu sắc vang tới tận đáy lòng Milady - Ông nói phải lắm, và chính tôi đã lầm.

Và cả hai lại đi ra.

Nhưng lần này, Milady lắng tai chăm chú hơn lần trước và nàng thấy bước chân họ xa dần và im mất ở cuối hành lang.
- Ta nguy rồi - nàng lẩm bẩm - Thế là ta đã bị đặt dưới quyền lực của những kẻ mà ta chẳng còn cách gì hơn để tác động đến họ như là trước những pho tượng bằng đồng hoặc bằng đá hoa cương. Chúng hiểu thấu tận tim gan ta và như đeo giáp sát trước mọi vũ khí của ta. Tuy nhiên mọi việc không thể kết thúc như chúng quyết định.

Quả vậy, ý nghĩ cuối cùng đã là như thế thì hy vọng lại trở lại theo bản năng trong cái tâm hồn xấu xa mà nỗi sợ và những tình cảm yếu đuối không sống lâu nổi. Milady ngồi vào bàn, ăn nhiều món, nhưng chỉ một chút rượu vang Tây Ban Nha và cảm thấy mọi quyết tâm của mình đã trở lại.

Trước khi đi ngủ, nàng đã lý giải, phân tích, lật đi lật lại các mặt, xem xét tất cả các khía cạnh, lời nói, cử chỉ, bước đi, dấu hiệu cho đến cả sự im lặng của những kẻ đối đáp với mình và từ sự nghiên cứu sâu sắc, khéo léo, và thông thái này, có thể rút ra, Felten dẫu sao cũng là kẻ dễ bị xâm hại hơn trong hai kẻ đang ngược đãi nàng.

Trên tất cả, người nữ tù nhân nhớ lại câu nói mà De Winter đã nói với Felten: "Nếu ta đã nghe anh".

Như vậy tức là Felten khi nói đã có ý ưu ái với nàng, vì thế, De Winter mới không muốn nghe Felten.

- Dù sáng hay mờ - Milady nhắc lại - từ con người đó cũng lóe lên một ánh thương hại trong tâm hồn hắn, từ đốm sáng này ta sẽ tạo thành một đám cháy nuốt sống hắn.

- Còn tên kia, hắn biết ta, sợ ta và biết điều gì đợi hắn nếu ta thoát khỏi tay hắn, cho nên dụ dỗ hắn chỉ vô ích. Nhưng Felten lại là chuyện khác, đó là một gã trai tơ ngây thơ trong trắng, và có vẻ có đức hạnh. Tên này, sẽ có cách hại hắn.

- Và Milady đi nằm rồi ngủ với nụ cười trên môi. Nếu ai đó thấy nàng ngủ như thế hẳn đã bảo đó là một thiếu nữ đang mơ đến một vành hoa mà nàng phải đội quanh trán trong ngày hội tới.

Chú thích:
(1) Vịnh Bôtany, ở gần Sidney (Australia) nơi lưu đày các tù nhân Anh.
(2) Tybum, quảng trường, nơi thi hành án tử hình, một pháp trường nổi tiếng thời đó ở London

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 01:23:38 | Chỉ xem của tác giả
Chương 53
Ngày thứ hai bị giam cầm


Milady mơ thấy cuối cùng mình đã tóm được D Artagnan, nàng tham dự cuộc hành quyết, và chính việc nhìn thấy dòng máu hôi tanh của chàng chảy dưới lưỡi rìu của đao phủ đã phác nên nụ cười duyên dáng trên môi nàng.

Nàng ngủ như một người tù được ru bằng niềm hy vọng đầu tiên.

Hôm sau, khi người ta vào trong buồng nàng, nàng vẫn còn nằm trên giường. Felten ở ngoài hành lang. Anh ta dẫn theo người đàn bà đã nói đêm trước vừa mới tới. Người đàn bà đó vào buồng và lại gần giường Milady và ngỏ ý phục vụ nàng.
Milady thường thường da vẫn tái xanh, làm cho người gặp nàng lần đầu dễ bị nhầm lẫn.

- Tôi bị sốt - Nàng nói - Tôi không ngủ được lấy một phút trong suốt cái đêm dài dặc này. Tôi đau đớn khủng khiếp lắm. Bà sẽ nhân đức với tôi hơn người ta đối xử với tôi hôm qua chứ? Tất cả những gì tôi yêu cầu là cho phép tôi được nằm.

- Bà có muốn cho gọi thầy thuốc không? - Người đàn bà nói.

Felten nghe cuộc đối thoại không nói một lời.

Milady suy nghĩ, người ta càng cho nhiều người đến, nàng càng có nhiều người hơn đoái thương nàng, nhưng ông De Winter lại càng tăng cường giám sát. Vả lại, thầy thuốc có thể tuyên bố bệnh là giả vờ, và Milady sau khi bị thua keo đầu không muốn bị thua trận thứ hai.

- Đi tìm thầy thuốc ư? - Nàng nói - Để làm gì? Hôm qua các vị ấy tuyên bố bố bệnh tôi chỉ là trò hề, vậy hôm nay cũng thế thôi, bởi vì từ tối hôm qua, người ta đã có đủ thì giờ để gọi bác sĩ.

Felten sốt ruột nói:

- Vậy bà hãy nói xem bà muốn điều trị thế nào?

- Lạy Chúa! Làm sao tôi biết được? Tôi cảm thấy tôi đau, có thế thôi, muốn cho tôi cái gì thì cho, tôi chẳng cần.

Felten mệt mỏi vì những lời phàn nàn lẽo nhẽo mãi:

- Đi tìm ông De Winter thôi.

- Ồ, không, không, - Milady kêu lên - không, thưa ông, đừng gọi ông ta, tôi xin ông đấy, tôi không sao cả, tôi không cần gì hết, đừng gọi ông ta.

Nàng tuôn ra một tràng hùng biện vừa quyết liệt kỳ lạ vừa lôi cuốn vô cùng khiến Felten cũng phải xiêu lòng bước mấy bước vào trong căn buồng Milady nghĩ "Hắn đã tới".

- Tuy nhiên, thưa bà - Felten nói - Nếu bà đau ốm thực sự, người ta sẽ cho tìm thầy thuốc, và nếu bà lừa chúng tôi, nghe đây, sẽ mặc xác bà, nhưng ít nhất về phía chúng tôi, chúng tôi sẽ không có gì phải ân hận.

Milady không trả lời gì, mà ngửa cái đầu xinh đẹp của mình ra trên gối, òa lên nức nở, nước mắt đầm đìa.

Felten nhìn nàng một lát trơ trơ như thường lệ, rồi thấy nguy cơ cơn điên có thể kéo dài, anh chàng đi ra. Người đàn bà nhìn theo. Vẫn không thấy ông De Winter đâu.

- Ta tin ta đã bắt đầu thấy rõ - Milady lẩm bẩm với một nỗi mừng vui hoang dại, vùi mình vào trong chăn để che giấu tất cả những ai có thể chợt bắt gặp sù bột phát thỏa mãn nội tâm ấy.

Hai giờ trôi qua.

"Giờ là lúc cơn bệnh phải dừng lại - nàng nói - hãy đứng lên và thu lấy chút thành công nào đó kể từ hôm nay. Ta chỉ có mười ngày, và tối nay, thế là đã trôi mất hai ngày".

Buổi sáng, lúc vào buồng Milady, người ta đã mang đến cho nàng bữa điểm tâm. Nàng nghĩ họ sẽ sớm đến dọn đi và lúc đó nàng sẽ gặp lại Felten.

Milady đã không nhầm, Felten đã trở lại, không hề để ý đến việc có hay không đụng đến bừa ăn, ra hiệu cho mang ra khỏi phòng, vẫn còn nguyên như khi mang đến.

Felten là người ở lại cuối cùng, tay vẫn cầm cuốn sách.

Milady nằm ngả người trong chiếc ghế bành gần lò sưởi, đẹp, xanh xao, nhẫn nhục, như một thánh nữ đồng trinh đang chờ tử đạo.

Felten lại gần nàng và nói:

- Huân tước De Winter cũng là tín đồ Cơ đốc như bà, đã nghĩ rằng sự lược bỏ những nghi thức và giáo lễ của tôn giáo bà có thể làm bà khổ tâm. Ông đồng ý cho bà được hàng ngày đọc kinh Misa của bà và đây là cuốn sách có bài kinh ấy.

Trước cung cách Felten đặt cuốn sách lên chiếc bàn nhỏ gần chỗ Milady, nghe giọng nói khi chàng ta đọc lên mấy tiếng kinh Misa của bà, với nụ cười khinh thị đi kèm, Milady ngẩng đầu và nhìn chăm chú hơn viên sĩ quan.

Thế là, với bộ tóc tai nghiêm túc, bộ quần áo giản dị tới mức thái quá, cái trán nhẵn bóng như đá cẩm thạch, nhưng rắn chắc và khó lọt vào như chàng ta, Milady nhận ra đây là một trong những tín đồ Thanh giáo u sầu mà nàng đã từng gặp quá thường xuyên lúc ở triều đình vua Jắc cũng như ở triều đình vua Pháp, ở đó mặc dầu vụ thảm sát xanh Báctêlêmy, đôi khi họ vẫn đến tìm nơi lánh nạn.

Nàng bỗng có một cảm hứng bất ngờ mà chỉ có những bậc thiên tài mới có được trong những cơn khủng hoảng tinh thần lớn, trong lúc lâm chung, nó quyết định số phận hoặc sinh mạng họ.

Mấy tiếng kinh Misa của bà và chỉ liếc mắt nhìn Felten cũng đủ biểu lộ tầm quan trọng của câu trả lời mà nàng sắp nói ra.

Nhưng với sự thông minh nhanh nhạy riêng nàng mới có, câu trả lời ấy đã hình thành sẵn ở trên môi:

- Tôi ư? - Nàng nói với một thái độ khinh thị sao cho thích hợp với giọng nói nàng đã nhận thấy ở viên sĩ quan trẻ - Tôi ư, thưa ông, kinh Misa của tôi ư! Huân tước De Winter, gã tín đồ Cơ đốc đồi trụy ấy biết thừa tôi không cùng tôn giáo với hắn ta, và đó là một cái bẫy hắn muốn chăng ra với tôi?

- Vậy thưa bà, bà theo tôn giáo nào? - Felten ngạc nhiên hỏi, đến mức bất chấp việc chàng thường tự kiềm chế được mình, không giấu nổi hoàn toàn sự ngạc nhiên đó.

Milady giả vờ phấn khích kêu lên:

- Tôi sẽ nói ra điều đó vào một ngày tôi quá đủ đau khổ vì đức tin của mình.

Cái nhìn của Felten mở ra cho Milady cả một không gian bao la mà nàng vừa hé mở ra chỉ bằng một câu nói.

Tuy nhiên viên sĩ quan trẻ vẫn câm lặng và không nhúc nhích, chỉ con mắt là cất tiếng nói thôi.

- Tôi đang trong tay kẻ thù của mình - nàng tiếp tục bằng cái giọng sôi nổi mà nàng biết nó thường quen thuộc với dân Thanh giáo - cứ để Chúa cứu tôi, hoặc tôi chết vì Chúa! Đó là câu trả lời mà tôi xin ông nói lại với ông De Winter. Còn về cuốn sách - nàng vừa nói thêm vừa lấy ngón tay chỉ cuốn sách kinh không hề được động đến, như thể sợ mình cũng bị nhơ bẩn lây - Ông có thể mang về dùng cho bản thân ông, bởi vì chắc chắn ông đã hai lần đồng lõa với Huân tước De Winter, đồng lõa trong chuyện ngược đãi, đồng lõa trong tà đạo của ông ta.

Felten không trả lời gì, cầm lấy cuốn sách với cùng một thái độ ghê tởm mà chàng ta đã từng biểu lộ và rút lui với vẻ mặt trầm ngâm.

Huân tước De Winter đến vào lúc năm giờ chiều. Milady, đã có cả một ngày trời để vạch một kế hoạch xử sự. Nàng tiếp ông ta với tư cách một phụ nữ đã nắm được tất cả mọi lợi thế của đàn bà.

Nam tước ngồi vào chiếc ghế bành đối diện với Milady uể oải gác chân lên lò sưởi và nói:

- Hình như chúng ta đang định bỏ đạo?

- Thưa ông, ông muốn nói sao?

- Tôi muốn nói rằng kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, bà đã thay đổi tôn giáo rồi. Tình cờ bà đã lấy người chồng thứ ba theo đạo Tin lành chăng?

- Huân tước, ông hãy giải thích cho tôi - nữ tù nhân nói một cách chững chạc - Bởi vì tôi tuyên bố tôi nghe thấy lời ông nói nhưng tôi chẳng hiểu gì cả.

De Winter cười gằn:

- Được thôi, đó là bà chẳng có thứ tôn giáo nào cả! Tôi lại thích thế hơn đấy.

- Chắc chắn là hơn theo những nguyên tắc của ông rồi - Milady lạnh lùng nói tiếp.

- Ồ, tôi xin thú thực với bà, điều đó đối với tôi hoàn toàn vô nghĩa.

- Ồ, ông sẽ chẳng thú nhận sự lãnh đạm tôn giáo ấy đâu, Huân tước ạ, nhưng những việc đồi bại và tội ác của ông làm cho phải tin như vậy.

- Hả, bà nói về những chuyện đồi bại ư, bà Messaline, Mácbét phu nhân(1), hay tôi nghe nhầm, hoặc, mẹ kiếp, bà quá vô liêm sỉ!

- Ông nói như thế bởi vì ông biết người ta đang lắng nghe chúng ta - Milady lạnh lùng trả lời - và ông muốn tác động đến bọn giám ngục và đao phủ của ông chống lại tôi.

- Giám ngục của tôi? Đao phủ của tôi? Gớm chưa, bà lại nói bằng cái giọng thơ phú rồi và tấn hài kịch hôm qua tối nay lại quay ngoắt sang bi kịch. Rút cục thì tám ngày nữa là bà cũng sẽ ở nơi bà phải ở và tôi sẽ xong nhiệm vụ.

- Nhiệm vụ đê tiện! Nhiệm vụ vô luận! - Milady nói tiếp với thái độ nóng nảy của nạn nhân khiêu khích quan tòa của mình.

Huân tước De Winter đứng dậy và nói:

- Ta tin con mụ vô lại này phát rồ rồi! Ta thề vậy đấy. Thôi nào, thôi nào, bình tĩnh lại nào, thưa bà Thanh giáo, nếu không ta phải nhất bà vào hầm kín thôi. Mẹ kiếp, rượu vang Tây Ban Nha của ta bốc lên đầu bà rồi không phải thế sao. Nhưng cứ yên tâm, cơn say đó không nguy hiểm và không có hậu quả xấu đâu.

Và Huân tước De Winter vừa lui ra vừa chửi thề vốn là một thói quen hoàn toàn mang tính cách dân kỵ sĩ thời bấy giờ.

Felten lúc đó đứng sau cánh cửa và không để sót một câu nào trong cảnh tượng đó.

Milady đã đoán đúng.

- Được cứ đi đi, - Nàng nói vớỉ em chồng - Hậu quả đang tới gần, và trái hẳn lại, rồi mày sẽ thấy, đồ súc sinh, khi chẳng còn thời gian để tránh chúng.

Tất cả lại trở nên yên tĩnh. Hai giờ nửa trôi qua. Người ta mang bữa tối đến và thấy Milady đang bận đọc to những câu kinh cầu nguyện của nàng, mà nàng học được ở ông lão bộc của người chồng thứ hai, một tín đồ Thanh giáo thuộc loại khắc kỷ nhất. Nàng làm như đang đê mê ngây ngất và không còn chú ý đến những gì diễn ra xung quanh nữa. Felten ra hiệu đừng ai quấy rầy nàng và khi tất cả đã đâu vào đấy, anh chàng lẳng lặng đi ra cùng với mấy người lính.

Milady biết nàng có thể bị rình rập nên tiếp tục đọc kinh cho đến hết và nàng thấy hình như người lính đang canh phòng ngoài cửa không đi lại thêm bước nào nữa mà còn lắng tai nghe.

Tới lúc ấy, nàng không còn muốn gì hơn nữa, liền vùng dậy, ngồi vào bàn ăn ít thôi và chỉ uống nước.

Một giờ sau, người ta đến dọn bàn ăn, nhưng Milady nhận thấy lần này Felten không đi cùng bọn lính.

Vậy là anh ta sợ gặp nàng quá nhiều.

Nàng quay mặt vào tường để mỉm cười, bởi trong nụ cười ấy có một biểu hiện thành công nào đó khiến chỉ riêng nó đã đủ làm nàng lộ chân tướng.

Nàng để cho nửa giờ nữa trôi qua, và vì lúc đó, cái lâu đài cũ kỹ đã hoàn toàn yên tĩnh, người ta chỉ còn nghe tiếng sóng rì rào vô tận, tiếng thở bao la của đại dương, nàng bèn cất lên bằng một giọng trong trẻo, du dương và ngân nga đoạn đầu của bài thánh thi thời đó, được mọi tín đồ Thanh giáo ưa thích.

"Ôi Chúa, Người bỏ chúng con
Để thử xem liệu chúng con đủ mạnh
Nhưng rồi bàn tay thiên giới của Người
Lại ban thắng lợi vẻ vang cho nỗ lực của chúng con"

Những câu thơ đó không hay lắm, còn phải cố gắng nhiều nhưng như người ta biết, dân Thanh giáo đâu có tự hào về thi ca.

Vừa ngân nga, Milady vừa lắng nghe. Người lính gác ở cửa đã dừng hẳn lại như thể biến mình thành đá. Milady vậy là có thể đánh giá hiệu quả do mình đã tạo ra.

Thế là nàng lại tiếp tục cất giọng hát với một lòng tin cuồng nhiệt và một tình cảm không thể diễn tả nổi. Nàng thấy dường như những âm thanh lan tỏa mãi ra xa dưới những mái vòm như một phép mầu nhiệm, làm dịu những trái tim của bọn cai ngục. Song người lính đi tuần hẳn một là tín đồ Cơ đốc giáo nhiệt tín, lại chối bỏ phép mầu, nói chõ vào trong:

- Bà có im đi không! Bài ca của bà buồn như bài cầu hồn ấy(2). Và nếu như ngoài việc phải bằng lòng đồn trú ỏ đây, lại phải nghe thêm những điều như vậy nữa, ai mà chịu nổi.

- Thôi! - Một giọng trầm trầm mà Milady nhận ra ngay là giọng Felten cất lên - Sao anh xen vào chuyện này, đồ vô lại! Người ta ra lệnh cho anh cấm người đàn bà đó hát à? Không, người ta bảo anh canh gác bà ta, bắn vào bà ta nếu bà ta tìm cách chạy trốn. Vậy hãy canh gác bà ta, nếu bà ta trốn, cứ giết. Nhưng đừng thay đổi gì chuyện phạt giam.

Khuôn mặt Milady rạng rỡ vẻ vui mừng khôn tả, nhưng vẻ mặt ấy có vẻ lén lút như phản xạ của một ánh chớp và không để lộ ra là đã nghe thấy cuộc đối thoại mà nàng không bỏ sót một lời nàng lại tiếp tục đem tất cả vào giọng hát của mình sự mê hồn, sức mạnh và sự cám dỗ yêu quái…

"Biết bao nước mắt, bao nỗi đắng cay
Trong xiềng gông và trong cảnh lưu đày…
Ta lại có tuổi xanh và lời cầu nguyện.
Chúa sẽ bù cho đau khổ của ta thôi…"

Giọng ca với sức mạnh chưa từng thấy và sự đam mê tột đỉnh, đem lại cho chất thơ thô thiển và nghèo nàn của bàì Thánh thi một ma lực và một biểu hiện mà những ngươi Thanh giáo cuồng nhiệt nhất hiếm khi thấy trong những tiếng hát các đạo hữu của mình, và họ buộc phải tô điểm thêm bằng tất cả nguồn sức mạnh của trí tưởng tượng của họ: Felten tưởng như một vị thiên sứ hát ru ba người Hêbrơ(3) trong vạc dầu.

Milady lại tiếp tục:

"Nhưng rồi ngày giải thoát sẽ đến với chúng con,
Chúa công minh đầy sức mạnh
Nếu Chúa lừa hy vọng của chúng con
Vẫn luôn còn tuẫn đạo và cái chết".

Khổ thơ mà mụ pháp sư đáng sợ đã cố đem hết tâm hồn mình vào đó, cũng hoàn thành việc đem đến sự xáo trộn trong lòng người sĩ quan non trẻ. Chàng bất thình lình mở tung cửa và Milady thấy chàng vẫn xanh xao như luôn thế, nhưng đôi mắt nồng nàn và hầu như lạc hẳn đi.

- Tại sao bà cứ hát như thế? - chàng nói - và với một cái giọng như thế?

- Xin lỗi ông - Milady dịu dàng nói - tôi quên khuấy là tiếng hát của tôi không phù hợp trong ngôi nhà này. Có lẽ tôi đã xúc phạm đến đức tin của ông. Nhưng tôi xin thề với ông, tôi đâu muốn thế. Hãy tha thứ cho tôi một lỗi có lẽ là lớn đấy, nhưng chắc chắn chỉ vô tình.

Milady lúc này sao đẹp thế, trạng thái đê mê tín ngưỡng mà nàng đang đắm mình vào, đem lại một vẻ đẹp trên khuôn mặt nàng, đến nỗi Felten như quáng mắt, tưởng rằng đấy chính là vị thiên sứ mà chàng vừa nghe lúc nãy.

- Phải, phải lắm - chàng trả lời - đúng là bà đã làm bối rối, đã khuấy động mọi người sống trong tòa lâu đài này.

- Và anh chàng mất trí đáng thương cũng không nhận thấy những lời nói thiếu mạch lạc của bản thân mình, trong khi đó Milady thọc sâu con mắt mèo rừng vào nơi sâu kín nhất của trái tim chàng.

- Tôi sẽ im - Milady vừa nói vừa cúp mắt xuống với tất cả sự dịu dàng nàng có thể đem lại cho giọng nói của mình và với tất cả sự nhẫn nhục có thể biểu lộ ra trong cách xử sự của mình.

- Không, không, thưa bà - Felten nói - có điều, bà hát nhỏ hơn, nhất là ban đêm thôi.

Nói rồi, Felten, cảm thấy mình không thể giữ mãi vẻ nghiêm khắc đối với người nữ tù nhân nữa, liền lao ra khỏi phòng.

- Ông làm thế đúng lắm, trung úy ạ - người lính nói - Những tiếng hát đó làm đảo lộn tâm hồn. Tuy nhiên rồi người ta cũng quen đi, giọng hát bà ta sao mà tuyệt thế?

Chú thích:
(1) Messaline - người vợ đầu của Hoàng đế La mã Clốt đệ nhất, nổi tiếng đồi trụy bị giết năm 48.
Mácbét: Vua xứ Ecốt - Kịch cùng tên của Sếchxpia: Mácbét ám sát vua Đăncan. Khi vua đang ngủ, phu nhân Mácbét đi vào, lấy ngón tay nhúng vào máu nạn nhân bôi lên mặt và bàn tay của hai thị vệ, đổ tội cho hai người này.
(2) De Profondis, tiếng Latinh có nghĩa là "những chiều sâu vực thẳm" trong bài kinh cầu nguyện cho người chết
(3) Tức người Do Thái

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 01:27:41 | Chỉ xem của tác giả
Chương 54
Ngày thứ ba bị giam cầm


Felten đã cắn câu. Nhưng còn một bước nữa phải làm. Phải giữ hắn lại, hoặc đúng hơn là hắn phải ở lại một mình. Và Milady mới chỉ nhìn thấy mờ mờ cái phương cách dẫn nàng đến kết quả ấy Phải hơn thế ấy chứ. Phải làm cho hắn phải há miệng để mình còn nói được với hắn. Bởi vì, Milady thừa biết sự cám dỗ lớn nhất ở nàng là giọng nói, có thể lướt trên tất cả các cung bậc âm thanh một cách tài tình từ giọng nói nhân gian đến ngôn ngữ thiên thần.

- Và tuy nhiên, mặc cho mọi sức quyến rũ ấy, Milady vẫn có thể thất bại, bởi vì Felten đã được báo trước để phòng ngừa, và điều đó chống lại sự may rủi. Từ lúc đó, nàng cẩn thận giữ gìn mọi hành động, lời nói cho đến cả từng cái nhìn đơn giản, từng cử chỉ, từng hơi thở mà người ta có thể lắm chuyện bảo là tiếng thở dài. Rút cuộc, nàng phải nghiên cứu tất cả như một diễn viên hài kịch tài ba phải làm khi người ta trao cho một vai mới chưa quen đóng.

Đối diện với Huân tước De Winter, cách xử sự của nàng dễ dàng hơn. Việc đó đã được vạch ra từ tối hôm trước rồi. Trước mặt hắn ta, hãy như câm và tỏ ra chững chạc, thỉnh thoảng lại chọc giận hắn ta bằng vẻ khinh khỉnh đáng yêu, bằng một câu khinh bỉ đẩy hắn ra đến những việc hăm dọa và hung bạo trái hẳn với sự nhẫn nhục của nàng, đó chính là ý đồ của nàng, Felten sẽ thấy, có thể sẽ chẳng nói gì, nhưng sẽ thấy hết.

Buổi sáng, Felten đến như thường lệ, nhưng Milady cứ để mặc cho chàng ta điều khiển sắp xếp bữa điểm tâm mà không nói với chàng ta lời nào. Vì thế, lúc anh chàng sắp sửa rút lui, trong nàng đã lóe lên một tia hy vọng nhỏ bởi nàng tưởng chính anh ta sẽ nói trước. Nhưng đôi môi anh ta chỉ mấp máy mà không một lời nào thốt ra khỏi miệng, và cố kiềm chế bản thân, anh ta khép kín những lời đính nói trong trái tim mình và đi ra.

Đến trưa, Huân tước De Winter đi vào.

Đó là một ngày mùa đông đẹp trời, và một tia nắng mặt trời nhợt nhạt của nước Anh lóe sáng, nhưng không ấm áp, lọt qua những song sắt của phòng tù.

Milady nhìn qua cửa sổ, làm ra vẻ không nghe thấy tiếng cửa mở.

Huân tước De Winter nói:

- A, a, sau khi đã diễn trò hàỉ kịch, rồi diễn trò bi kịch, giờ ta chơi trò u buồn.

Nữ tù nhân không trả lời. De Winter tiếp tục:

- Phải, phải, tôi hiểu. Bà muốn được tự do trên bờ biển kia lắm. Bà muốn lắm trên một con tàu rẽ sóng biển xanh như ngọc bích. Bà muốn lắm, hoặc trên đất liền, hoặc trên đại dương, dựng lên cho tôi một cuộc phục kích hay hay nho nhỏ mà bà biết cách phối kết rất tài. Hãy kiên nhẫn! Hãy kiên nhẫn! Bốn ngày nữa thôi là bờ biển kia bà sẽ được phép, biển sẽ mở ra cho bà, còn mở rộng hơn là bà mong muốn ấy chứ, bởi bốn ngày nữa, nước Anh sẽ tống khứ được bà.

Milady chắp hai tay lại và ngước đôi mắt đẹp lên nhìn trời:

- Thượng đế! Ôi! Thượng đế! - Nàng nói với dáng điệu và giọng nói ngọt ngào thiên sứ - Hãy tha thứ cho con người đó, cũng như bản thân con cũng tha thứ cho ông ta.

Nam tước De Winter hét lên:

- Ừ, cứ cầu xin đi, đồ thối tha, lời cầu nguyện của mụ xem ra càng bao dung hơn chừng nào mụ còn trong quyền lực của một người sẽ không tha thứ cho mụ, ta thề như thế đấy.

Và ông ta bỏ đi.

- Đúng lúc ông ta đi ra, Milady đưa cặp mắt sắc nhọn nhìn qua khe cửa và thấy Felten vội lánh sang một bên để nàng khỏi nhìn thấy.

Thế là nàng lại quỳ ngay xuống và cầu nguyện:

- Lạy Chúa! Lạy Chúa! Người biết rõ con đau khổ vì lẽ thánh nào, vậy xin Người hãy cho con sức mạnh để con đau khổ.
Cửa mở khẽ. Người đẹp đang cầu nguyện làm như không nghe thấy tiếng động, và bằng một giọng tràn đầy nước mắt, nàng tiếp tục:

- Lạy Đức Chúa báo hận! Lạy Đức Chúa nhân từ! Người nỡ để mặc cho con người đó hoàn thành những ý đồ ghê tởm của hắn ư?

Chỉ đến lúc đó nàng mới vờ nghe thấy tiếng bước chân Felten và đứng bật ngay dậy, đỏ mặt lên như thể xấu hổ vì bị bắt gặp đang quỳ.

- Tôi không thích quấy rối những ai đang cầu nguyện chút nào, thưa bà - Felten nghiêm trang nói - vậy xin bà đừng bận tâm vì tôi, tôi cầu xin bà đấy.

- Làm sao ông biết tôi đang cầu nguyện, thưa ông? - Milady hỏi bằng một giọng ngột ngạt vì thổn thức - Ông nhầm rồi, thưa ông, tôi không cầu nguyện đâu?

- Bà nghĩ thế ư, thưa bà - Felten trả lời vẫn với giọng nghiêm trang, cho dù có vẻ dịu dàng hơn - bà nghĩ rằng tôi tin là tôi có quyền ngăn cản một sinh linh quỳ lạy trước Chúa sáng thế ư? Chúa không bằng lòng thế đâu! Vả lại, sự hối hận rất phù hợp với những kẻ phạm tội. Dù mắc phải tội ác đến thế nào đi nữa, kẻ phạm tội đã quỳ dưới chân của Chúa đối với tôi đều thiêng liêng.

- Tôi, tội phạm ư? - Milady nói với một nụ cười có thể tước bỏ vũ khí của thiên thần trong phiên chung thẩm - Tội phạm? Chúa ơi, chỉ có Người mới biết con có phải là tội phạm không? Thưa ông, hãy bảo tôi bị kết tội, thế mới đúng. Nhưng ông biết đấy Chúa thương những người tuẫn đạo, đôi khi cũng cho phép kết án người vô tội.

Felten trả lời:

- Dù bà bị kết tội, dù bà tuẫn đạo, bà càng có lý do để cầu nguyện và bản thân tôi, tôi cũng sẽ giúp bà cầu nguyện.

Milady quỳ sụp xuống chân chàng ta và kêu lên:

- Ôi, ông đúng là một bậc công minh. Ông ơi, tôi không thể chịu nổi lâu thêm nữa đâu, bởi tôi sợ không còn sức lực lúc tôi cần vững vàng tranh đấu và tuyên bố đức tin của mình. Vậy xin ông hãy lắng nghe lời khẩn cầu của một người đàn bà đang tuyệt vọng. Thưa ông, người ta lợi dụng ông, nhưng không phải là vấn đề đó, tôi xin ông một ân huệ và nếu như ông đồng ý ban cho tôi, tôi nguyện sẽ cầu chúc cho ông cả trong thế giới này lẫn thế giới bên kia.

- Thưa bà, bà hãy nói với ông chủ - Felten tôi không may mắn được ủy thác tha thứ hay trừng phạt. Thượng đế trao trách nhiệm đỏ cho người cao cấp hơn tôi.

- Không, chỉ với ông, với ông thôi. Xin hãy nghe tôi, còn hơn là tham gia vào việc hại tôi, tham gia vào việc làm tôi ô nhục.

- Nếu bà xứng đáng với nỗi hổ nhục đó, thưa bà, nếu bà gây ra nỗi ô nhục đó, thì phải chịu và hiến dâng nó cho Thượng đế.

- Ông nói sao? Ồ, ông không hiểu tôi rồi! Khi tôi nói đến ô nhục, ông tưởng tôi nói về một sự trừng phạt nào đó ư, về nhà tù, về cái chết ư? Xin tùy ở Chúa! Với tôi, cái chết hay nhà tù, nghĩa lý gì đâu?

- Thưa bà, chính tôi cũng không hiểu nổi bà nữa!

- Hay là làm ra không hiểu nữa, thưa ông - Nữ tù nhân trả lời với nụ cười hoài nghi.

- Không thưa bà, thề danh dự của một quân nhân, thề trên đức tin của một tín đồ!

- Sao cơ? Ông không biết những ý đồ của ông De Winter với tôi thật ư?

- Tôi không biết.

- Không thể thế, ông là người tâm phúc của ông ta!

- Thưa bà, tôi không bao giờ nói dối.

- Ồ, ông ta có che giấu gì nhiều lắm đâu mà ông không đoán ra nổi?

- Tôi không tìm cách để đoán gì hết, thưa bà. Tôi mong người ta tin cẩn tôi, và ngoài phần ông ta nói với tôi trước mặt bà, ông ta không thổ lộ gì với tôi hết.

- Nhưng - Milady kêu bằng cái giọng thực thà không thể tưởng tượng nổi - Vậy thì ông không phải là kẻ đồng lõa của ông ta rồi, thế ra ông không biết ông ta gán cho tôi một nỗi ô nhục mà tất cả những hình phạt trên trái đất này không thể xứng với sự khủng khiếp của nó sao?

- Thưa bà, bà nhầm rồi - Felten vừa nói vừa đỏ mặt lên - Huân tước De Winter không thể phạm một tội ác như vậy.

"Tốt lắm! - Milady tự bảo mình - chẳng biết nó như thế nào mà gã ta đã gọi đó là một tội ác rồi?"

Rồi nói to:

- Bạn của kẻ đê tiện có thể làm được tất!

- Bà gọi ai là kẻ đê tiện? - Felten hỏi.

- Vậy ở nước Anh liệu có hai người thích hợp với cái tên tương tự như thế không?

- Bà muốn nói về Gorge Villiers? - Felten hỏi, mà mắt như nảy lửa.

- Về người mà bọn tà giáo, bọn quý tộc vô đạo gọi là Quận công De Buckingham ấy! - Milady lại tiếp - Tôi không tin rằng còn có một người Anh trong khắp nước Anh này lại cần đến một sự giải thích dài dòng đến như thế mới nhận ra kẻ tôi muốn nói!
- Bàn tay của Chúa sẽ vươn tới hắn - Felten nói - hắn sẽ không thoát khỏi bị trừng phạt thích đáng.

Felten chỉ biểu lộ thái độ phỉ nhổ mà mọi người Anh thể hiện đối với con người mà bản thân những người Cơ đốc giáo cũng gọi là tên hút máu, tên ăn hối lộ, tên đồi trụy, còn những người Thanh giáo gọi hoàn toàn đơn giản là quỷ satan.

- Ôi, lạy Chúa! Lạy Chúa! - Milady kêu lên - Khi con cầu xin Người giáng sự trừng phạt xuống con người đó xứng với tội hắn phải chịu, Người biết rằng không phải con theo đuổi mối thù riêng mà là con van xin Người giải thoát cho cả một dân tộc.

- Bà quen biết ông ta chứ? - Felten hỏi.

"Cuối cùng gã đã hỏi ta" - Milady tự nhủ, lòng tràn ngập vui sướng vì đạt kết quả nhanh đến thế.

Rồi nàng trả lời:

- Ồ có chứ! Tôi quen biết ông ta chứ? Thế tôi mới bất hạnh, bất hạnh suốt đời thế này?

- Và nàng vặn vẹo hai cánh tay như thể nỗi đau đã lên đến cực điểm. Trong thâm tâm, Leltel cảm thấy mình cũng rã rời, liền bước vài bước về phía cửa, nữ tù nhân vẫn không ngừng để mắt tới chàng ta, chồm theo sau và ngăn lại:

- Thưa ông - Nàng la lên - Xin hãy nhân từ, xin hãy bao dung, hãy nghe lời cầu xin của tôi. Cái con dao mà ông Huân tước thận trọng như thể do định mệnh đã tước đoạt mất của tôi bởi ông ta biết tôi định dừng vào việc gì. Ôi, xin ông nghe tôi nói rõ ngọn ngành đã! Con dao đó, xin hãy trả lại tôi, chỉ một phút thôi, xin làm ơn, xin hãy thương tôi! Tôi xin quỳ xuống hôn chân ông. Nào, ông hãy đóng cửa lại đi. Đâu phải ông là người mà tôi căm thù. Trời ơi! Căm thù ông ư? Căm thù con người công minh chính trực, tốt, và nhân từ duy nhất tôi đã gặp ư? Căm thù ông, có thể là cứu tinh của tôi ư? Con dao ấy, một phút, chỉ một phút thôi, tôi sẽ trả lại ông qua ô cửa. Chỉ một phút thôi, ông Felten, và ông sẽ cứu được danh dự cho tôi!

- Để bà tự sát! - Felten hoảng hồn kêu lên, quên cả rút tay mình ra khỏi đôi bàn tay của nữ tù nhân - Để bà tự sát?

- Thưa ông, tôi đã nói - Milady hạ giọng vừa thầm thì vừa cố ý ngã quỵ xuống sàn nhà - Tôi đã nói hết bí mật của tôi rồi? Ông ta đã biết tất! Trời ơi! Tôi chết mất!

Felten vẫn cứ đứng, bất động, ngẩn người ra.

"Gã vẫn còn ngờ, Milady nghĩ, ta đã không đúng lắm chăng?"

Có tiếng người đang bước trong hành lang. Milady nhận ra tiếng chân của Huân tước De Winter. Felten cũng thấy thế và bước một bước về phía cửa.

Milady lao theo và nói như nén giọng:

- Ồ, đừng có nói gì đấy. Đừng một lời nào cho con người ấy về những gì tôi đã nói với ông, nếu không tôi chết mất, và chính ông, ông…

Rồi, vì những bước chân tới gần, nàng im lặng, sợ người ta nghe thấy giọng nói của mình, áp bàn tay xinh đẹp đang run, lên miệng Felten. Felten khẽ đẩy Milady ra. Nàng chạy ra ngồi phịch xuống chiếc ghế tựa dài.

Huân tước De Winter đi qua cửa mà không dừng lại, rồi tiếng chân xa dần.

Felten xanh như một người chết, vẫn để tai nghe ngóng vài phút rồi khi tiếng chân tắt hẳn, chàng ta thở phào như một người vừa ra khỏi một giấc mơ và lao ra khỏi căn phòng.

- A - Milady nói và đến lượt mình cũng lắng nghe tiếng chân của Felten đang xa dần về hướng đối diện hướng đi của De Winter.

- Cuối cùng thì mi đã thuộc về ta!

Rồi trán nàng lại sa sầm xuống.

- Nếu hắn nói với Huân tước - nàng nói - thì ta chết mất bởi gã Nam tước ấy biết thừa là ta sẽ không tự tử đâu, và đặt dao vào tay ta trước mặt gã trung úy, và ông ta sẽ thấy hết tất cả nỗi tuyệt vọng lớn lao ấy chỉ là một trò hề.

Nàng đến đứng trước gương và ngắm nhìn mình chưa bao giờ thấy mình đẹp đến thế.

- Ồ! Nàng mỉm cười nói - gã sẽ không nói ra với ông Huân tước đâu!

Buổi tối, ông De Winter đi cùng bọn mang đến bữa tối.

Milady bảo ông ta:

- Thưa ông, sự có mặt của ông phải chăng là một phụ khoản bắt buộc của việc giam cầm tôi, và ông không thể tha tôi cái việc gia tăng khổ hình mà những cuộc thăm viếng của ông gây cho tôi ư?

- Sao lại thế được, bà chị thân mến? - De Winter nói - Thế chẳng phải cái miệng xinh đẹp nhưng hôm nay lại quá ư tàn nhẫn với tôi đã từng tuyên bố một cách thân ái rằng bà đến nước Anh với mục đích duy nhất là để thăm tôi cho nó thỏa lòng sao? Bà còn nói với tôi bà cảm thấy quá ư mạnh mẽ sự thiếu thốn niềm vui được gặp gỡ tôi, cho nên bà mới bất chấp tất cả, nào say sóng, bão tố, giam cầm? Thế thì, tôi đây, bà hãy hài lòng đi! Vả lại lần này tôi đến thăm bà là có lý do đấy.

Milady rùng mình. Nàng tưởng Felten đã nói. Có lẽ chưa bao giờ trong đời, người đàn bà đã từng trải qua những xúc động mạnh mẽ và đối lập nhau lại cảm thấy tim mình đập mạnh đến thế.

Nàng vẫn ngồi. Huân tước De Winter kéo một chiếc ghế bành đến cạnh nàng, ngồi xuống lấy ra một tờ giấy, từ từ mở ra và bảo nàng:

- Nghe đây, tôỉ muốn giới thiệu với bà loại hộ chiếu tôi đã tự soạn thảo và từ nay bà sẽ dùng làm số điểm danh trong cuộc đời bà mà tôi bằng lòng dành cho bà.

Rồi đưa mắt nhìn từ Milady sang tờ giấy, ông ta đọc:

- "Lệnh dẫn độ đến… Tên vùng để trống - De Winter dừng đọc nói - nếu bà thích chỗ nào hơn, miễn là đừng ít hơn một nghìn dặm tính từ London, yêu cầu của bà sẽ được đáp ứng - Tôi đọc lại nhé: "Lệnh dẫn độ đến… người đàn bà có tên là Sáclôt Bêchxơn bị tòa án vương quốc Pháp thích dấu chín, nhưng đã được thả tự do sau khi chịu tội. Phạm nhân sẽ phải cư trú tại nơi đó không bao giờ được phép đi xa quá ba dặm. Trường hợp toan tính chạy trốn, sẽ áp dụng tội tử hình, phạm nhân sẽ được 5 silinh mỗi ngày cho việc ăn ở".

Milady lạnh lùng trả lời:

- Lệnh đó chẳng liên quan gì tới tôi vì trong đó mang tên người khác chứ không phải tên tôi.

- Tên ư? Thì ra bà cũng có một cái tên?

- Tôi mang tên của anh ông.

- Bà nhầm rồi, anh tôi chỉ là người chồng thứ hai và người chồng thứ nhất còn đang sống. Bà hãy nói tên người ấy và tôi sẽ thay vào cái tên Sáclốt Bếchxơn. Không à?… Bà không muốn à?

- Bà im lặng à? Được thôi! Bà sẽ bị đăng ký số tù bằng cái tên Sáclốt Bếchxơn.

Milady vẫn lặng im. Có điều, lần này không còn là do giả bộ nữa mà là do khiếp sợ. Nàng tưởng lệnh đã sẵn sàng được thi hành. Nàng nghĩ ông De Winter đã đẩy thời hạn ra đi lên sớm hơn. Nàng tưởng sẽ bị xử đi đày ngay tối nay. Trong giây lát nàng mất hết tinh thần, thì bất ngờ nàng lại nhận ra lệnh chưa mang chữ ký của một ai.

Nỗi mừng vui khi phát hiện ra điều đó lớn đến nỗi nàng không thể che giấu nổi.

- Phải, phải - Huân tước De Winter đã nhận thấy điều gì diễn ra trong nàng, ông nói - chưa mất hết cả đâu, một khi lệnh đó chưa được ký, người ta giơ ra là để dọa tôi, có thế thôi. Nhưng bà nhầm rồi, ngày mai, lệnh đó sẽ được gửi lên Huân tước De Buckingham. Ngày kia lệnh sẽ được gửi lại do chính tay Huân tước ký và đóng dấu, và hai bơn giờ sau, chính tôi sẽ đảm nhiệm bắt đầu thi hành lệnh đối với bà. Tạm biệt bà, đó là tất cả những gì tôi cẩn nói với bà.

- Và tôi tôi sẽ trả lời ông rằng việc lạm dụng quyền hành, rằng việc đày ải một người dưới một cái tên giả định là một hành động đê tiện.

- Bà có thích được treo cổ dưới cái tên thật hơn không, Milady? Bà biết đó, luật pháp nước Anh rất nghiêm khắc đối với việc bội ước trong hôn nhân, bà hãy giải thích thẳng thắn chuyện đó. Cho dù tên tôi hoặc đúng hơn là tên của anh tôi bị dính líu vào mọi chuyện đó, tôi cũng đành mang tiếng mang tai trong một vụ án công khai để đoán chắc tôi sẽ loại bỏ được bà.
Milady không trả lời gì, nhưng nhợt nhạt như một cái thây ma.

- Ồ, tôi biết bà thích viễn du hơn mà. Càng tốt, thưa bà. Một ngạn ngữ cổ nói rằng du hành rèn luyện tuổi trẻ. Thật tình tôi thấy dẫu sao bà cũng không nhầm, và sống vẫn tốt hơn. Chính vì lẽ đó mà tôi không lo bà vứt cái lệnh của tôi đi. Thôi hãy nghĩ tính toán lo chuyện năm silinh đi. Tôi tỏ ra hơi bủn xỉn, có phải không? Cái đó chẳng qua là tôi lo xa bà sẽ làm bọn coi giữ sa đọa thôi. Hơn nữa, bà vẫn luôn còn duyên sắc để cám dỗ họ kia mà. Bà hãy đem nó ra dùng nếu sự thất bại của bà với Feltơn không làm bà tởm lợm những toan tính loại ấy.

"Felten không hề nói gì - Milady tự nhủ - Thế là chưa có gì nguy cả".

- Và bây giờ, hẹn gặp lại bà. Ngày mai tôi sẽ đến báo cho bà biết giờ khởi hành của phái viên của tôi.

Ông De Winter đứng lên, châm biếm chào Milady và đi ra.

Milady thở phào. Nàng vẫn còn bốn ngày nữa, bốn ngày đủ để nàng hoàn tất việc quyến rũ Felten.

- Tuy nhiên một ý nghĩ khủng khiếp đến với nàng, đó là nhỡ ông De Winter sai chính Felten đi để lấy chữ ký của Buckingham, như thế thì Felten sẽ tuột khỏi tay nàng, muốn thành công, nữ tù nhân phải có ma thuật để tiếp tục cám dỗ.

Tuy nhiên, một điều làm nàng yên tâm: Felten không nói gì.

Nàng không muốn tỏ ra xúc động trước những lời hăm dọa của Huân tước De Winter, liền ngồi vào bàn và ăn.

Rồi, như đã làm bữa trước, nàng lại quỳ xuống và nhắc lại thật to những câu nguyện cầu của mình. Như bữa trước, người lính thôi đi lại và dừng chân để lắng nghe.

Lát sau, nàng nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng hơn của tên lính tuần canh từ cuối hành lang đi đến và dừng lại trước cửa.

- Chính gã rồi! - Nàng nói. Và nàng lại bắt đầu vẫn cái tiếng hát thánh ca bữa trước đã làm Felten phấn khích tới cao độ.

Nhưng, cho dù cái giọng hát êm dịu, tràn đầy và vang động có ngân lên du dương hơn, não lòng hơn bao giờ hết, cửa vẫn cứ đóng. Liếc nhìn trộm về phía ô cửa nhỏ, qua tấm lưới sắt đan dầy, Milady hình như thấy đôi mắt nồng cháy của chàng trai trẻ. Nhưng dù đó là một thực tế hay một ảo ảnh, lần này, gã ta cũng giữ được nghị lực để không đi vào.

Có điều, vài phút sau khi nàng đã hát xong thánh ca Milady tin rằng đã bắt gặp một tiếng thở dài não ruột. Rồi vẫn những bước chân đã lại gần lại xa dần một cách từ từ như vẫn còn lưu luyến.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách