Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: Spica
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Tiểu Thuyết - Xuất Bản] Ba Người Lính Ngự Lâm | Alexandre Dumas (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
81#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 18:24:20 | Chỉ xem của tác giả
Chương 63
Giọt nước


Rochefort vừa đi khỏi, bà Bonacieux đã trở lại, nàng thấy Milady mặt mũi tươi cười.

- Thế nào! - Thiếu phụ nói - Điều mà chị lo sợ vậy là đã đến rồi chứ? Tối nay hay ngày mai Giáo chủ sẽ cho người đến bắt chị?

- Ai bảo em như vậy nào, cô bé của tôi? - Milady hỏi.

- Em nghe nói từ miệng của viên sứ giả.

- Lại đây, ngồi gần chị vào - Milady nói.

- Em đây.

- Hãy khoan, để chị xem có ai nghe được chúng ta không đã.

- Tại sao phải đề phòng như vậy?

- Rồi em sẽ biết.

Milady đứng lên đi ra mở cửa, nhìn hành lang, rồi trở lại ngồi bên bà Bonacieux. Mụ nói:

- Thế là ông ta đã diễn tốt vai của mình rồi.

- Ai cơ?

- Người tự xưng với bà tu viện trưởng là phái viên của Giáo chủ đấy.

- Vậy là ông ta diễn trò ư?

- Đúng, cô em ạ.

- Vậy, người đó không phải là…

- Người đó - Milady hạ giọng - là ông anh của chị.

- Ông anh của chị! - Bà Bonacieux kêu lên.

- Chứ sao! Chỉ mình em biết bí mật này thôi đấy nhé, em bé ạ. Nếu em để lộ cho bất kỳ ai là chị nguy đấy, cả em cũng vậy.

- Ôi lạy Chúa tôi!

Nghe đây, chuyện là như thế này, anh chị đến cứu chị ra khỏi đây bằng vũ lực, nếu cần, nhưng gặp phải phái viên của Giáo chủ đến tìm chị. Anh chị đi theo hắn ta, đến một chỗ đường vắng và hẻo lánh, anh ấy rút gươm ra lệnh cho tên phái viên phải trao hết giấy tờ mang theo, tên kia định kháng cự, anh ấy đã giết chết hắn.

- Ôi! - Bà Bonacieux rùng mình kêu lên.

Đó là cách duy nhất, em cứ thử nghĩ xem. Thế là ông anh chị quyết định thay sức mạnh bằng mưu kế, anh ấy lấy hết giấy tờ ra mắt ở đây như chính bản thân phái viên của Giáo chủ, và trong khoảng một hai tiếng nữa, một cỗ xe sẽ nhân danh Giáo chủ đến bắt chị.

- Em hiểu rồi, chiếc xe đó là do ông anh chị gửi đến cho chị.

- Đúng vậy, nhưng chưa hết, bức thư mà em nhận được và em tin là của bà De Chevreuse.

- Thì sao?

- Là giả.

- Sao lại thế?

- Phải, giả đấy. Đấy là cái bẫy để em không chống cự lại khi người ta tới tìm em.

- Nhưng là D Artagnan sẽ đến kia mà.

- Em hãy tỉnh lại đi. D Artagnan và các bạn mình bị giữ lại ở cuộc vây thành La Rochelle kia mà.

- Làm sao chị biết được điều ấy?

- Anh chị gặp những phái viên của Giáo chủ trong quần áo ngự lâm. Họ sẽ gọi em ra cổng, em sẽ tưởng là có chuyện với các bạn mình, và họ sẽ bắt em đưa về Paris.

- Ôi, lạy Chúa! Đầu tôi đến nổ tung ra mất vì cái mớ hỗn mang đầy bất công này - Bà Milady lấy hai tay bóp trán nói tiếp - Tôi cảm thấy nếu việc cứ như thế này tôi phát điên mất - Khoan đã!

- Gì thế?

- Chị nghe tiếng vó ngựa, đấy là ông anh chị lại ra đi đấy. Chị muốn nói lời chào tạm biệt cuối cùng với anh ấy, lại đây.
Milady mở cửa sổ và ra hiệu cho bà Bonacieux ra theo. Thiếu phụ đi đến đấy.

Rochefort phi nước đại đi qua.

- Tạm biệt, anh trai! - Milady nói to.

Kỵ sĩ ngẩng cao đầu, nhìn thấy hai người thiếu phụ và vừa phi vừa giơ tay ra hiệu chào Milady thân mật.

- Ôi cái anh Gioóc tốt bụng! - Mụ vừa nói đóng cửa sổ lại với vẻ mặt đầy yêu thương và buồn bã.

Rồi mụ trở lại ngồi vào chỗ cũ như thể đang đắm mình trong những suy nghĩ hoàn toàn riêng tư.

- Phu nhân thân mến? - Bà Bonacieux nói - Xin thứ lỗi cho em đã cắt ngang dòng suy nghĩ của chị! Nhưng chị khuyên em phải làm gì bây giờ? Chúa ơi! Chị có nhiều kinh nghiệm hơn em, chị hãy nói đi, em xin nghe đây.

- Trước hết - Milady nói - có thể là chị nhầm lắm chứ và D Artagnan và các bạn của chàng sẽ thực sự đến với em.

- Ôi! thế thì còn gì bằng? - Bà Bonacieux reo lên - chẳng lẽ em lại được hạnh phúc đến thế sao!

- Ồ, em nên hiểu, vấn đề sẽ chỉ đơn giản là thời gian, một thứ chạy đua xem ai đến trước thôi. Nếu là các bạn em chạy nhanh hơn thì em sẽ được cứu thoát, nếu là bọn tay chân Giáo chủ thì em chết.

- Ồ, phải, phải, chết khốn khổ khốn nạn! Vậy phải làm gì? làm gì?

- Có một cách rất đơn giản, rất tự nhiên…

- Cách gì, chị nói xem nào?

- Là sẽ đợi, ẩn nấp vùng quanh đấy và để biết chắc những người đến đây tìm mình là ai?

- Nhưng đợi ở đâu?

- Ồ, không thành vấn đề. Cả chị nữa, chị cũng định trốn ở chỗ nào cách đây vài dặm để chờ anh chị đến gặp chị cơ mà. Chị sẽ đem em đi theo, chúng ta sẽ cùng trốn, sẽ cùng đợi.

- Nhưng người ta không để cho em đi đâu. Em ở đây gần như một nữ tù nhân rồi.

- Vì người ta tin là chị đi theo lệnh của Giáo chủ, nên sẽ không tin em vội vã đi theo chị đâu.

- Em không hiểu?

- Thế này nhé. Xe sẽ đỗ ở cổng. Em sẽ ra tạm biệt chị, em sẽ trèo lên bậc xe để ôm chị lần cuối. Tên gia nhân của ông anh chị đến đón chị sẽ được dặn trước, hắn ra hiệu cho bọn xà ích, và chúng ta phi luôn.

- Nhưng còn D Artagnan, nhỡ chàng đến?

- Chả nhẽ chúng ta lại không biết sao?

- Làm sao biết được?

- Không gì dễ hơn. Chúng ta sẽ cho tên gia nhân của ông anh chị quay lại Bêtuyn, ta có thể tin ở nó. Nó sẽ cải trang, sẽ cư trú đối diện với tu viện. Nếu bọn phái viên của giáo chủ đến nó sẽ không cựa quậy, nếu là D Artagnan và các bạn, nó sẽ đưa họ đến chỗ chúng ta.

- Nó cũng biết họ ư?

Hẳn rồi. Nó đã từng thấy D Artagnan ở nhà chị!

- Ồ phải rồi, phải, chị nói có lý. Như thế, mọi việc đều ổn cả, mọi việc đều tốt đẹp. Nhưng ta đừng ở xa đây quá.

- Nhiều lắm là bảy tám dặm thôi. Chúng ta sẽ ở ngay trên biên giới. Giả dụ, có động tĩnh gì, chúng ta ra khỏi nước Pháp ngay.

- Từ giờ đến lúc đó, ta làm gì?

- Đợi thôi.

- Nhưng nếu chúng đến?

- Xe của ông anh chị sẽ đến trước bọn chúng.

- Thế khi họ đến đón chị, em lại đang ăn trưa, ăn tối, không ở gần chị, chẳng hạn?

- Thì làm một việc gì đó.

- Việc gì?

- Nói với bà nhất phúc hậu rằng để cho chị em mình được gần gũi nhau hơn chút ít, xin bà cho phép được ăn cơm cùng với chị.

- Liệu bà có cho phép không?

- Có vướng gì đâu mà không cho?

- Ồ phải đấy, làm theo cách ấy thì chúng ta không rời nhau một giây.

- Vậy thì, em hãy xuống chỗ bà mà xin đi! Chị cảm thấy nhức đầu, chị đi quanh vườn một lúc.

- Vậy chị đi đi, nhưng em sẽ tìm chị ở đâu?

- Độ một giờ nữa, ở đây thôi.

- Một giờ nữa ở đây ư, ôi, chị tất quá, em cảm ơn chị.

- Làm sao chị lại không quan tâm đến em được? Kể cả em không đẹp và duyên dáng, em chẳng phải là bạn gái của người bạn tốt nhất chị sao!

- D Artagnan thân yêu ơi, chàng phải cám ơn chị đến chừng nào!

- Chị rất mong là thế. Thôi nhé, thỏa thuận cả rồi, ta đi xuống thôi.

- Chị ra vườn?

- Ừ!

- Chị đi theo hành lang, một cầu thang nhỏ sẽ dẫn chị xuống.

- Tuyệt lắm, cám ơn!

Và hai người đàn bà mỉm cười duyên dáng rời nhau ra.

Milady nói thật. Mụ nhức đầu, bởi các dự định chồng chéo lên nhau như mớ bòng bong. Mụ cần được một mình để sắp xếp lại những ý nghĩ trong đầu. Mụ thấy tương lai còn mơ hồ. Cần phải có đôi chút yên tĩnh và bình tâm để đem lại cho những ý nghĩ hãy còn rối rắm một khuôn khổ rõ ràng, một kế hoạch dứt khoát.

Điều cần gấp hơn cả, là bắt cóc được bà Bonacieux đưa đến một địa điểm an toàn, và ở đó trong trường hợp cần thiết sẽ biến thành một con tin. Milady bắt đầu thấy hoảng cho cái kết cục cuộc đấu khủng khiếp mà mụ càng sống mái bao nhiêu thì kẻ thù của mụ càng kiên gan bấy nhiêu.

Hơn nữa, mụ còn có cảm giác như cơn dông ào tới, cái kết cục này đã gần lắm rồi và không thể không khủng khiếp.
- Vậy điều chủ yếu đối với mụ là nắm lấy vợ lão Bonacieux trong tay. Vợ lão Bonacieux chính là sinh mạng của D Artagnan, còn hơn cả sinh mạng của hắn nữa, đó là sinh mạng người đàn bà hắn yêu, trường hợp xấu nhất, đó là phương sách để thương nghị và chắc chắn sẽ có lợi thế.

Mà điều ấy thì đã chắc chắn rồi. Vợ lão Bonacieux, không chút nghi ngờ sẽ đi theo mụ. Một khi đã trốn cùng mụ ở Acmăngchie, sẽ dễ làm cho người đàn bà đó tin rằng D Artagnan không đến Betuyn. Trong vòng mười lăm ngày hoặc hơn thế, Rochefort sẽ quay lại, vả lại trong vòng mười lăm ngày ấy, mụ sẽ suy tính phải làm gì để báo thù bốn tên lính ngự lâm. Mụ chẳng làm gì phải buồn phiền, bởi vì nhờ trời, mụ sẽ có được một trò giết thời gian ngọt ngào nhất mà những biến cố có thể đem đến cho một người đàn bà có tính khí như mụ, đó là hoàn thiện kế hoạch trả thù.

Trong lúc mơ màng, mụ vẫn đưa mắt nhìn quanh, sắp xếp trong đầu địa hình của khu vườn, Milady như một vị tướng tài tiên đoán đồng thời cả chiến thắng lẫn thất bại, và tùy theo thời cơ may rủi của trận chiến mà tiến lên hay vừa đáp vừa lùi.
Khoảng một giờ sau, mụ nghe một tiếng nói dịu dàng gọi mình. Đó là tiếng của vợ lão Bonacieux. Bà tu viện trưởng phúc hậu đã hồn nhiên bằng lòng tất cả, và để bắt đầu, họ sẽ cùng ăn bữa tối nay.

Vừa đến sân, họ đã nghe thấy tiếng xe đỗ ở ngoài cổng.

Milady lắng nghe:

- Em có nghe thấy gì không?

- Có, tiếng xe lăn bánh.

- Xe anh chị phái đến đấy.

- Ôi! Chúa ơi!

- Kìa, can đảm lên chứ!

Người ta giật chuông gọi cửa tu viện, Milady đã không nhầm. Mụ nói với bà Bonacieux:

- Em lên ngay buồng em, em chắc có ít đồ nữ trang phải mang theo chứ.

- Em chỉ có những thư của chàng.

- Thế thì đi lấy đi và đến ngay phòng chị, chúng ta ăn tối thật nhanh vào, có lẽ chúng ta phải đi mất gần hết đêm nay đấy, phải ăn để giữ sức.

- Chúa ơi! - Bà Bonacieux đưa tay ôm ngực nói - Tôi hồi hộp đến ngạt thở thế này, tôi không đi nổi mất.

- Can đảm lên, nào, phải can đảm lên chứ! Nên biết là mười lăm phút nữa là em được cứu thoát rồi và phải nghĩ là việc em sắp làm là chính vì chàng chứ.

- Ồ vâng, tất cả vì chàng. Chị chỉ nói một câu thôi mà đã làm em can đảm lên rồi, nào chị đi đi, em theo chị đây.

Milady vội lên ngay phòng mình và đã thấy người hầu của Rochefort, liền dặn dò hắn.

- Hắn phải ra đợi ngoài cổng nếu không may, các chàng ngự lâm quân xuất hiện, thì phải đánh xe đi thật nhanh vòng một lượt quanh tu viện, và đến đợi Milady tại một làng nhỏ ở đầu cánh rừng. Trong trường hợp này, Milady sẽ đi xuyên qua vườn và đi bộ đến làng đó, vì Milady đã thuộc lòng vùng này của nước Pháp.

Nếu những chàng ngự lâm không xuất hiện, mọi việc cứ tiến hành như đã thỏa thuận. Bà Bonacieux lên xe mượn cớ chào tạm biệt, và mụ sẽ cuốn nàng đi cùng.

Bà Bonacieux vào phòng. Để gạt bỏ mọi nỗi nghi ngờ của nàng nếu có, Milady nhắc lại mấy câu dặn dò cuối cùng với người hầu.

Milady hỏi vài ba câu về xe cộ. Đó là cỗ xe tam mã do một xà ích điều khiển. Tên người hầu của Rochefort phải cưỡi ngựa chạy trước như một phu trạm.

Milady nghi ngại bà Bonacieux cũng bằng thừa. Người thiếu phụ tội nghiệp quá ngây thơ trong trắng, đâu có nghi ngờ gì một con đàn bà phản trắc đến như thế. Vả lại cái danh hiệu nữ Bá tước De Winter mà nàng đã nghe bà tu viện trưởng nhắc tới đối với nàng hoàn toàn xa lạ, nàng đâu biết mụ đàn bà lại góp một phần to lớn và tàn bạo đến thế vào những bất hạnh của đời nàng.

- Em thấy đấy - Milady nói khi tên hầu đã đi ra - tất cả đã sẵn sàng. Bà tu viện trưởng chẳng hề nghi ngờ gì cả và tin rằng họ nhân danh Giáo chủ đến đây tìm chị. Cái tên đó sẽ ra những mệnh lệnh cuối cùng. Em hãy cố ăn lấy một chút; uống một ít rượu vang rồi ta khởi hành.

- Vâng - Bà Bonacieux trả lời như một cái máy - Vâng, chúng ta khởỉ hành.

Milady ra hiệu cho nàng ngồi trước mặt mình rót một cốc nhỏ vang Tây ban Nha và gắp cho nàng một miếng lườn gà giò.

- Em thấy không - Mụ bảo nàng - có cái gì không phù hộ chúng ta đâu. Đêm đang xuống, rạng sáng mai là chúng ta đã tới nơi trú ẩn, và chẳng ai có thể nghi ngờ nơi ở của chúng ta. Nào, can đảm lên, ăn một chút gì đi.

Bà Bonacieux ăn như một cái máy vài miếng và nhấm môi vào cốc rượu vang.

- Nào uống đi - Milady đưa cốc rượu của mình lên môi - uống như chị đây này.

Nhưng đúng lúc mụ đưa cốc gần tới miệng, tay mụ bỗng thõng xuống. Mụ vừa nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập từ xa đang phi nước đại đến gần, rồi hầu như đồng thời mụ nghe thấy cả tiếng ngựa hí.

Tiếng động đó kéo mụ ra khỏi nỗi mừng vui như một cơn dông bừng dậy giữa giấc mộng vàng, mụ tái người đi và chạy ra cửa sổ, trong khi đó bà Bonacieux đứng dậy, toàn thân run lên, phải chống tay vào ghế để khỏi ngã.

Họ không thấy gì nữa mà chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa phi mỗi lúc một gần.

- Ôi Chúa ơi! - Bà Bonacieux nói - Tiếng vó ngựa đó là gì vậy?

- Là của các bạn hoặc của kẻ thù của chúng ta - Milady trả lời với một vẻ bình tĩnh đáng sợ - Em ở đâu cứ ở yên đấy, có thế nào chị sẽ bảo em.

Bà Bonacieux đứng ngây ra, câm lặng, bất động như một pho tượng.

Tiếng vó ngựa mỗi lúc một rầm rập hơn, chắc không quá một trăm năm mươi bước, tuy vẫn chưa trông thấy, đó là vì con đường có chỗ gấp khúc, tuy nhiên tiếng vó ngựa trở nên quá rõ đến nỗi có thể đếm được bao nhiêu con ngựa qua tiếng móng sắt đổ dồn dập xuống mặt đường.

Milady cố giương mắt ra nhìn. Trời hãy còn khá sáng để nhận rõ những ai đang phi tới.

Bỗng ở khúc ngoặt mụ thấy loang loáng những chiếc mũ đính ngự cài lông chim phần phật. Mụ đếm, hai, rồi năm, rồi tám kỵ sĩ, người nọ cách người kia chừng hai thân ngựa.

Milady rên lên một tiếng than như bị tắc thở. Mụ nhận ra người đi đầu là D Artagnan.

- Ôi Chúa ơi! Chúa ơi! - Bà Bonacieux kêu lên - có chuyện gì vậy?

- Đó là đồng phục bọn cận vệ của Giáo chủ đấy. Không được để lỡ một giây nào nữa! - Milady kêu lên - Trốn thôi, trốn thôi.

- Vâng, vâng, trốn thôi? - Bà Bonacieux lắp lại, nhưng không thể nhấc nổi chân, như bị đóng đinh tại chỗ vì quá đỗi kinh hoàng.
Có tiếng ngựa chạy ngang qua phía dưới cửa sổ.

- Lại đây nào? Kìa lại đây chứ! - Milady vừa hét lên vừa kéo tay thiếu phụ - nhờ có mảnh vườn, chúng ta còn có thể trốn thoát, chị có chìa khóa đây. Những nhanh lên, năm phút nữa là quá muộn mất rồi.

Bà Bonacieux cố cất bước, được hai bước thì quỵ gối xuống.

Milady cố đỡ nàng dậy và lôi nàng đi nhưng không nổi.

- Đúng lúc ấy mụ nghe thấy tiếng bánh xe lăn vì thấy các chàng ngự lâm quân, chiếc xe đã chồm lên phóng mất. Rồi ba bốn tiếng súng nổ vang.

- Lần cuối cùng tôi hỏi đây, cô có muốn đi không?

- Ôi, Chúa ơi! Chúa ơi! Chị thấy rõ em không còn đủ sức nữa mà! Chị thừa thấy em không thể bước nổi nữa. Chị trốn một mình đi.

- Trốn một mình ư? Để cô lại đây ư? Không, không, không đời nào! - Milady thét lên.

Bỗng mụ đứng sững lại. Một ánh sắc xám tóe ra trong đôi mắt mụ. Mụ chạy tới bàn ăn, cậy cực nhanh mặt nhẫn lấy ra một chất gì trong đó đổ vào cốc rưòu của bà Bonacieux. Đó là một hạt màu đỏ nhờ, tan ra ngay lập tức.

Rồi cầm chiếc cốc bằng bàn tay quả quyết và bảo bà Bonacieux.

- Uống đi, loại vang này sẽ đem lại sức mạnh cho em, uống đi em.

Và mụ đưa chiếc cốc lại gần môi thiếu phụ. Nàng uống theo như một cái máy.

Milady đặt cốc xuống bàn vôi nụ cười độc địa, nhủ thầm:

- Chà, thật ra ta cũng chẳng muốn trả thù thế này đâu, những còn làm được thì vẫn phải làm thôi.

Và mụ lao ra khỏi căn phòng.

Bà Bonacieux nhìn theo mụ chạy trốn, không thể đi theo.

Nàng như người đang mơ thấy người ta truy đuổi mình mà có cố cũng không bước nổi.

Vài phút trôi qua. Có tiếng đập cổng ầm ầm khủng khiếp.

Mỗi giây, mỗi phút, bà Bonacieux lại mong thấy Milady quay lại nhưng không thấy.

Nhiều lúc, hẳn vì hoảng sợ, mồ hôi lạnh toát ra trên vầng trán nóng bỏng của nàng.



Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

82#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 18:25:00 | Chỉ xem của tác giả
Ba người lính ngự lâm - Chương 63
-----------------------------------------------

Cuối cùng nàng thấy tiếng kêu kin kít của cổng sắt mở ra, tiếng ủng và tiếng đinh thúc ngựa vọng lên trên cầu thang. Rồi tiếng rầm rì đang đến gần, và giữa những tiếng đó nàng nghe như thấy nói đốn tên ai đó.

Bỗng nàng hét lên sung sướng và lao ra cửa, nàng nhận ra đó là tiếng của D Artagnan.

- D Artagnan! D Artagnan! - Nàng hét lên - có phải chàng không? Đây cơ mà, đây cơ mà.

- Constance? Constance - Chàng trai trẻ đáp - Em ở đâu?

- Chúa ơi!

Ngay lúc đó, cánh cửa căn phòng nhỏ bật tung ra(1). Nhiều người nhảy bổ vào trong phòng. Bà Bonacieux đã ngã xuống chiếc ghế băng và không thể cử động nữa.

D Artagnan ném khẩu súng ngắn còn đang bốc khói vẫn cầm trong tay và quỳ xuống trước người yêu của mình. Athos cài súng của mình vào đai lưng. Porthos và Aramis tra gươm trần vào vỏ.

- Ôi, D Artagnan? D Artagnan yêu dấu của em! Vậy là cuối cùng anh đã đến, anh không lừa dối em, đúng là anh đây mà!
- Đúng, đúng anh đây, Constance ạ! Xum họp rồi!

- Ôi! Thế mà bà ta cứ nói anh sẽ không đến, em cứ hy vọng thầm. Em đã không muốn trốn mà? Ôi, em làm thế là đúng quá rồi, em sung sướng biết bao!

Nghe tiếng bà ta Athos đang ngồi yên liền đứng phắt lên.

- Bà ta, bà ta là ai? - D Artagnan hỏi.

- Là bạn của em mà, cái bà vì yêu mến em muốn giúp em thoát khỏi bọn bạo ngược, cái bà đã tưởng nhầm bọn anh là cận vệ của Giáo chủ, vừa mới trốn khỏi đây.

- Bạn em! - D Artagnan kêu lên, mặt trắng nhợt ra hơn cả tấm voan trắng của người tình - em muốn nói đến người bạn nào vậy?

- Là người có xe đỗ ở ngoài cổng, người đàn bà nói là bạn anh ấy, D Artagnan, người đàn bà mà anh đã kể hết với bà ta ấy.

- Tên mụ, tên của mụ - D Artagnan hét lên - Chúa ơi, em không biết tên của mụ ư?

- Có chứ, người ta đã nhắc tới cái tên đó trước mặt em, khoan đã, nhưng sao lạ thế này… Ôi, lạy Chúa! Đầu tôi quay cuồng, tôi không thấy gì nữa.

- Giúp tôi, các bạn, giúp tôi với! Tay nàng lạnh hết rồi - D Artagnan kêu lên - nàng ấm rồi. Chúa ơi! Nàng bất tỉnh rồi!

Trong lúc Porthos hết sức gào lên kêu cứu, Aramis chạy đến bàn ăn lấy một cốc nước, nhưng chàng dừng lại vì thấy mặt Athos biến sắc đi khủng khiếp, vẫn đứng trước bàn, tóc dựng ngược lên, mắt đờ ra kinh hoàng nhìn vào một trong những chiếc cốc và đang day dứt bởi một ngờ vực khủng khiếp nhất.

- Ôi! - Athos nói - Ôi! Không, không thể thế được! Chúa không cho phép một tội ác đến như vậy!

- Nước, nước, D Artagnan thét lên - nước đâu?

- Ô, người phụ nữ tội nghiệp, người phụ nữ tội nghiệp - Athos lẩm bẩm bằng một giọng xé lòng.

- Bà Bonacieux mở lại mắt dưới những cái hôn của D Artagnan.

- Nàng tỉnh lại rồi! - Chàng trai trẻ reo lên, ôi, lạy Chúa? Lạy Chúa tôi? Con cám ơn Người!

- Thưa bà - Athos nói - Thưa bà, nhân danh Chúa trời, chiếc cốc uống cạn kia là cho ai?

- Cho tôi, thưa ông… thiếu phụ trả lời bằng một giọng thều thào.

- Nhưng ai đã rót rượu vang vào chiếc cốc đó?

- Bà ta - Nhưng, bà ta là ai?

- À, tôi nhớ ra rồi - bà Bonacieux nói - nữ Bá tước De Winter.

Cả bốn người bạn đều cùng thét lên một tiếng duy nhất nhưng tiếng thét của Athos át đi tất cả.

Cùng lúc ấy, mặt bà Bonacieux trở nên xám ngoét, một cơn đau ngấm ngầm đang vật vã nàng, nàng hổn hển ngã vào vòng tay của Porthos và Aramis.

D Artagnan nắm chặt bàn tay Athos với một nỗi lo khó tả, và nói:

- Thế nào! Anh tin.

Chàng nức nở không nói được nên lời.

- Tôi tin tất - Athos cắn môi đến bật máu để nén tiếng thở dài.

- D Artagnan? D Artagnan? - Bà Bonacieux kêu lên - Anh ở đâu? Đừng rời bỏ em, anh biết rõ là em sắp chết mà?

D Artagnan rời bàn tay Athos mà chàng vẫn còn đang co quắp nắm chặt lấy, chạy đến với nàng.

Khuôn mặt rất đẹp của nàng đã hoàn toàn biến đổi, đôi mắt chong chong không còn nhìn vào đâu nữa, người nàng quằn quại, trán đầm đìa mồ hôi.

- Nhân danh Chúa trời! Chạy đi, gọi lên, Porthos, Aramis, xin cấp cứu mau!

- Vô ích thôi! - Athos nói - Vô ích, với thứ thuốc độc con mụ ấy đổ vào, không có thuốc giải độc đâu.

- Vâng, vâng, gọi cấp cứu, gọi cấp cứu? - Bà Bonacieux lẩm bẩm - cấp cứu!

Rồi, thu hết sức lực, nàng ôm lấy đầu chàng trai trẻ, nhìn chàng một lát, như thể tất cả linh hồn nàng đều thu vào đấy, và nghẹn ngào thét lên một tiếng, áp môi mình vào môi chàng.

- Constance! Constance ơi! - D Artagnan thét lên.

Một hơi thở hắt ra từ miệng nàng Constance, lướt qua miệng D Artagnan. Hơi thở ấy, chính là linh hồn trong trắng và trinh bạch và rất đỗi yêu thương đang bay trở về trời.

D Artagnan chỉ còn ôm chặt một xác người trong tay.

Chàng trai trẻ thét lên một tiếng và ngã vật ra cạnh người yêu của mình cũng tái nhợt đi và lạnh ngắt như nàng.

Porthos khóc, Aramis giơ nắm đấm lên trời. Athos làm dấu thánh.

Vừa lúc ấy một người đàn ông hiện ra ở trước cửa, hầu như cũng nhợt nhạt như những người ở trong phòng, nhìn khắp xung quanh, thấy bà Bonacieux đã chết, và D Artagnan đang ngất đi.

Người này xuất hiện đúng vào giây phút kinh hoàng tiếp theo những thảm họa lớn.

- Nếu tôi không nhầm - Ông ta nói - đây là ông D Artagnan và các ông là ba người bạn của ông ấy, các ông Aramis, Porthos và Aramis.

Mấy người nghe thấy nói đến tên mình ngạc nhiên nhìn người lạ mặt. Cả ba đều hình như nhận ra ông ta.
- Thưa các vị - người mới đến nói - các vị cũng như tôi đều tìm kiếm một con đàn bà mà - Ông ta mỉm một nụ cười ghê sợ - chắc nó đã qua đây, bởi tôi thấy ở đây có một xác chết.

Cả ba người đều im không nói. Chỉ có tiếng nói và khuôn mặt là gợi họ nhớ đến một người đã từng gặp, tuy nhiên lại không thể nhớ rõ đã gặp trong trường hợp nào.

- Thưa các vị - người lạ tiếp tục - thôi thì vì các ông chẳng buồn nhận ra một người có lẽ các ông đã hai lần cứu mạng, tôi đành phải xưng tên ra vậy. Tôi là Huân tước De Winter, em chồng của mụ đàn bà đó.

Cả ba người cùng ồ lên kinh ngạc.

Athos đứng dậy chìa tay ra cho ông ta và nói:

- Rất hoan nghênh ông, Huân tước, ông là bạn bè của chúng tôi mà.

- Từ Portsmouth đi sau con mụ đó năm giờ - Huân tước De Winter nói - Tôi đến Bulônhơ sau mụ ba tiếng, tôi đến Saint Ômê chậm hơn nó hai mươi phút, cuối cùng đến Liliê, tôi mất hút nó. Tôi đi lung tung hỏi thăm mọi người thì thấy các ông đang phi ngựa qua rất nhanh. Tôi gọi các ông, các ông không trả lời. Tôi muốn đi theo, nhưng ngựa tôi đã quá mệt, không thể đi ngang tầm ngựa của các ông. Và tuy nhiên, hình như các ông mặc dầu đã đi nhanh đến thế mà vẫn bị quá muộn khi đến nơi, ông thấy đấy - Athos vừa nói vừa chỉ cho ông De Winter bà Bonacieux đã chết và D Artagnan thì Porthos và Aramis đang cố gọi cho tỉnh lại.

- Cả hai đều chết ư? - De Winter hỏi.

- Không, may sao, D Artagnan chỉ bị ngất - Athos trả lời.

- Thế thì tốt rồi!

Quả nhiên, đúng lúc đó, D Artagnan mở mắt. Chàng rứt ra khỏi tay Porthos và Aramis, như một người mất trí vồ lấy thi thể người yêu của mình.

Athos đứng lên, bước lại phía bạn mình, chậm rãi trang nghiêm, trìu mến ôm lấy chàng và vì chàng đang nức nở, Aramis nói với chàng bằng một giọng đầy vẻ thuyết phục và cao thượng:

- Bạn ạ, hãy đàn ông lên nào, chỉ đàn bà mới khóc người chết, còn đàn ông phải trả thù cho họ!

- Ồ, đúng - D Artagnan nói – Đúng! Nếu là để trả thù, tôi sẵn sàng theo anh!

Nhằm lúc hy vọng trả thù đem lại sức mạnh tinh thần cho người bạn bất hạnh, Athos ra hiệu cho Porthos và Aramis đi tìm bà nhất.

Hai người gặp bà ở hành lang, còn đang hoàn toàn hoang mang, bối rối trước bao nhiêu biến cố. Bà gọi mấy nữ tu sĩ, trái với tục lệ của tu viện được tiếp xúc với năm người đàn ông.

- Thưa bà - Athos vừa khoác tay D Artagnan vừa nói - chúng tôi xin để lại để nhờ bà lo việc nhân đức cho thi hài của người đàn bà bất hạnh này. Đó là một thiên thần nơi trần thế trước khi trở thành thiên thần trên thượng giới. Xin bà hãy lo mai táng nàng như một trong các nữ tu sĩ của bà. Chúng tôi sẽ quay lại cầu nguyện bên nấm mộ của nàng sau.

D Artagnan úp mặt mình vào ngực Athos òa lên nức nở.

- Khóc đi - Athos nói - khóc đi trái tim đầy tình yêu của tuổi trẻ và sức sống! Ôi, tôi cũng muốn có thể khóc được như bạn lắm!

Rồi chàng dìu bạn mình đi, âu yếm như một người cha, an ủi như một tu bĩ, Và cao cả như một người đã từng chịu nhiều đau khổ.

Rồi cả năm người, theo sau là những người hầu, lên ngựa tiến về thị trấn Bêtuyn, gặp một quán trọ ở đấy, họ dừng lại.

- Nhưng chúng ta không truy đuổi con mụ đó ư? - D Artagnan hỏi.

- Để sau đã - Athos nói -tôi đã có cách rồi.

- Nó sẽ thoát mất - Chàng trai trẻ nói tiếp - nó sẽ thoát mất thôi, và sẽ là lỗi ở anh đấy, Athos ạ.

- Tôi xin đảm bảo về nó - Athos nói.

D Artagnan rất tin vào lời hứa của bạn mình nên chàng chỉ lặng lẽ cúi đầu đi vào quán.

Porthos và Aramis nhìn nhau, chẳng hiểu gì về lời cam đoan của Athos.

Huân tước De Winter thì lại tin chàng nói thế để làm vơi dịu nỗi đau đớn của D Artagnan.

Khi đã yên tâm lữ điếm còn năm phòng trống, Athos nói:

- Bây giờ xin các vị lui về phòng mình. D Artagnan cần được một mình để khóc và ngủ. Tôi sẽ lo tất cả. Xin cứ yên tâm.

- Tuy nhiên, tôi thấy hình như - Huân tước De Winter nói - nếu như phải dùng cách nào để đối phó với con mụ nữ Bá tước ấy thì việc đó phải liên quan đến tôi, nó là chị dâu tôi.

- Còn tôi - Athos nói - nó là vợ tôi.

D Artagnan mỉm cười, bởi chàng hiểu Athos một khi đã tiết lộ ra cái bí mật ấy tức là anh ấy đã tin chắc vào việc trả thù. Porthos và Aramis nhìn nhau tái người đi. Huân tước thì nghĩ Athos là một gã điên.

- Các vị về phòng mình đi - Athos nói - cứ để mặc tôi làm.

- Các vị quá rõ với tư cách là chồng mụ, thì việc đó liên quan đến tôi Có điều, D Artagnan, nếu cậu chưa làm mất, hãy trao lại mẩu giấy đã tuột khỏi mũ thằng cha đó, và trên giấy ghi tên một làng…

- À! D Artagnan nói - tôi hiểu rồi, cái tên ấy do chính tay mụ ta viết…

- Cậu thấy chưa? - Athos nói - vẫn có Chúa ở trên trời đấy chứ?

Chú thích:

(1) Đây cũng là một sự sơ xuất của tác giả. Vì Milady sau khi đầu độc Constance lao ra khỏi phòng. Constance không đóng cửa lại. Milady cũng không khóa ngoài, thì làm sao lại phải đạp cửa tung ra?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

83#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 18:26:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 64
Người khoác áo choàng đỏ


Nỗi thất vọng của Athos đã nhường chỗ cho một nỗi đau bị dồn nén khiến trí tuệ sáng suốt của chàng lại càng minh mẫn hơn.

Tất cả đều dồn vào một ý nghĩ duy nhất, mà chàng đã hứa, và trách nhiệm chàng đã nhận. Chàng là người cuối cùng trở về phòng mình, yêu cầu chủ quán kiếm cho chàng một tấm bản đồ của tỉnh. Rồi cúi xuống bản đồ tìm kiếm những đường nét đã vạch ra, thấy có bốn con đường đi từ Betuyn đến Acmăngchie, liền gọi những người hầu.

Planchet, Grimaud, Mousqueton và Bazin đều có mặt để nhận những mệnh lệnh rõ ràng, chuẩn xác và nghiêm trọng của Athos.

Mờ sáng hôm sau, họ phải lên đường mỗi người một ngả khác nhau đến Acmăngchie. Planchet, lanh lợi hơn cả phải đi theo con đường mà cỗ xe đã biến mất, và bốn người đã bắn theo, và người ta nhớ ra, đi kèm còn có tên đầy tớ của Rochefort.
Athos giao trách nhiệm cho họ đi trước, bởi vì, từ khi họ phục vụ bọn chàng, chàng đã nhận ra những phẩm chất thiết yếu khác nhau của mỗi người bọn họ.

Thế rồi, những người hầu có hỏi han những người đi đường, cũng ít gây ra nghi ngờ hơn là chủ của họ và cũng dễ gây được cảm tình hơn đối với những người đó.

Cuối cùng, Milady đều biết các ông chủ bọn họ, nhưng lại không biết các người hầu. Trái lại, bọn họ lại biết quá rõ Milady.

Cả bốn phải hội lại với nhau vào mười một giờ hôm sau, nếu phát hiện được chỗ ẩn náu của Milady thì ba người phải lở lại canh giữ mụ, người thứ tư trở về Bêtuyn báo cho Athos và dẫn đường cho bốn người bạn.

Sắp xếp đâu vào đấy những người hầu lần lượt rút lui.

Athos liền đứng dậy đeo gươm, khoác áo choàng vào và ra khỏi lữ điếm. Lúc ấy đã gần mười giờ đêm. Vào giờ ấy ở tình lẻ phố xá thường vắng vẻ. Tuy nhiên, rõ ràng là Athos đang tìm kiếm một người nào đó mà chàng có thể hỏi một điều. Cuối cùng, cũng gặp được một người về muộn, liền lại gần người đó và nói với người này mấy câu. Người này kinh hãi lùi lại, tuy nhiên vẫn chỉ dẫn cho chàng, Athos biếu người đó một đồng nửa pítxtôn để người ấy dẫn chàng đi, nhưng người này từ chối.
Athos đi sâu vào trong phố theo hướng người kia chỉ tay.

Nhưng đến ngã tư, chàng lại phải dừng lại, rõ ràng đang lúng túng. Tuy nhiên, hơn bất cứ chỗ nào, ngã tư dễ gặp người hơn, chàng dừng lại. Quả nhiên, một lát sau, một tuần đêm đi qua.

Athos nhắc lại với anh ta vẫn câu hỏi mà chàng hỏi người gặp trước. Người tuần đêm cũng lộ vẻ kinh hãi, từ chối dẫn đường cho Athos, và lại chỉ ra con đường mà chàng phải đi theo.

Athos bước theo hướng đã chỉ và đi đến vùng ngoại ô ở đầu kia thị xã, đối diện với vùng mà chàng cùng các bạn đã đi vào.
Đến đây, chàng lại lo lắng và bối rối, lần thứ ba phải dừng lại.

May sao, một người ăn mày đi qua, lại gần Athos để xin bố thí. Athos ngỏ ý cho một đồng êquy vàng để hắn ta dẫn chàng đi.
- Người ăn mày do dự một lát, nhưng nhìn thấy đồng tiền lấp lánh trong bóng đêm, hắn quyết định và đi trước Athos.

Đến một góc phố, hắn chỉ cho chàng một ngôi nhà hẻo lánh đơn độc và buồn thảm ở phía xa. Athos lại gần ngôi nhà đó, trong khi đó người ăn mày, khi đã nhận được tiền công liền cuốn gói đi ngay.

Athos đi một vòng quanh ngôi nhà quét vôi đỏ, trước khi nhận ra chiếc cửa ở chính giữa. Không một chút ánh sáng lọt qua khe cửa, không một tiếng động để có thể coi là nhà có người ở Ngôi nhà âm u và im lìm như một nấm mồ.

Athos gõ cửa đến ba lần mà vẫn không ai trả lời. Tuy nhiên, lần thứ ba, có tiếng chân bên trong đang bước lại gần. Cuối cùng thì cửa cũng hé mở, một người đàn ông cao lớn, nước da mái(1) râu tóc đen hiện ra.

Athos khẽ trao đổi với người đó vài câu, thế rồi người đó ra hiệu cho chàng có thể vào nhà. Athos thấy thế vào liền và cánh cửa đóng lại sau lưng chàng.

Người đàn ông mà Athos phải từ xa và biết bao vất vả đến tìm kiếm, đưa chàng vào phòng thí nghiệm của hắn, ở đó hắn đang bận dùng dây thép xâu lại những khúc xương va vào nhau lách cách của một bộ xương người. Tất cả đều được sắp xếp đúng vào vị trí chỉ còn cái đầu lâu là đang đặt trên bàn.

Mọi thứ còn lại của nội thất chứng tỏ chủ nhân quan tâm đến khoa học tự nhiên. Có những bình đựng đầy rắn dán nhãn tùy theo loài, những con thằn lằn sấy khô, lóng lánh như ngọc bích nạm trên những khung tranh lớn bằng gỗ mun. Cuối cùng là những bó cỏ dại thơm nức, mà chắc hẳn có những công năng ít người biết tới, và được treo trên trần nhà, lõng thõng ở các góc nhà.

Hơn nữa, người đàn ông cao lớn, không gia đình không vợ con, không kẻ hầu người hạ, sống một mình trong ngôi nhà.
Athos đưa mắt lạnh lùng lãnh đạm nhìn mọi vật trong nhà và theo lời mời, ngồi xuống cạnh người đó.

Rồi chàng giải thích lý do chàng đến thăm và công việc chàng yêu cầu hắn làm, nhưng chàng vừa yêu cầu xong thì người lạ vẫn đang đứng cũng hoảng hết lùi lại và từ chối. Thế là Athos liền rút trong túi ra một tờ giấy nhỏ, trên đó viết hai dòng kèm theo chữ ký và con dấu đưa cho con người chưa chi đã tỏ ra ghê tởm ấy xem. Người đàn ông cao lớn vừa đọc xong hai dòng chữ ấy, nhìn thấy chữ ký và nhận ra con dấu, liền nghiêng mình tỏ ý không còn gì để bác bỏ nữa và sẵn sàng tuân lệnh.

Athos không yêu cầu gì hơn. Chàng đứng dậy, chào, đi ra, lại đi theo con đường cũ trở về lữ điếm và chui vào phòng mình.

Rạng sáng, D Artagnan vào phòng Athos và hỏi phải làm gì.

- Chờ đợi - Athos trả lời.

Mấy phút sau, bà nhất tu viện cho người đến báo việc mai táng sẽ được tiến hành vào buổi trưa. Còn về con mụ đầu độc, người ta vẫn chưa có tin tức gì, chỉ biết chắc nó trốn qua lối vườn, trên cát người ta còn nhận ra vết chân mụ, và cửa ra vườn đóng nhưng chìa khóa đã biến mất.

Bốn người bạn và Huân tước De Winter trở về đúng giờ mai táng. Chuông rung hết cỡ, tiểu giáo đường mở toang cửa, hàng rào nơi dàn đồng ca khép lại, thi hài nạn nhân được mặc lại quần áo nữ tu mới quy giáo, được đặt chính giữa dàn đồng ca. Ở mỗi bên dàn đồng ca và đằng sau hàng rào trông ra toàn bộ tu viện là cộng đồng các nữ tu sĩ dòng Cácmel đứng nghe thánh lễ và hòa giọng mình vào giọng hát kinh của các giáo sĩ, mắt không nhìn những người phàm tục và cũng không để họ nhìn mình.

Trước cửa tiểu giáo đường, D Artagnan lại cảm thấy mình không còn đủ can đảm nữa, chàng quay lại tìm Athos, nhưng Athos đã biến mất.

Trung thành với trách nhiệm trả thù, Athos nhờ người đưa ra vườn, ở đó, trên cát, lần theo vết chân rón rén của con đàn bà đi qua bất cứ nơi đâu cũng để lại vết máu, chàng tiến đến cái cổng mở ra mảnh rừng, nhờ người ta mở của rồi đi sâu vào rừng.
Lúc này, mọi nghi ngờ của chàng đều được khẳng định. Con đường mà chiếc xe đã biến mất, chạy vòng quanh rừng, Athos đi theo con đường đó ít lâu, mắt chăm chăm nhìn xuống đất thấy những vết máu nhỏ từ vết thương hoặc của kẻ đi theo xe như phu trạm, hoặc của một trong mấy con ngựa nhỏ giọt xuống nền đường. Đi khoảng độ ba phần tư dặm, cách Fetxtube khoảng năm mươi bước chân, vết máu loang rộng ra. Nền đường bị vó ngựa dẫm nát. Giữa mảnh rừng và chỗ này, hơi lui về phía sau một chút, lại thấy dấu những vết chân thon nhỏ như ở trong vườn, chiếc xe đã dừng lại.

Và Milady đã ra khỏi rừng và lên xe ở chỗ đó. Hài lòng với việc phát hiện đã khẳng định mọi sự ngờ vực của mình, Athos trở về lữ điếm và thấy Planchet đang nóng ruột chờ mình.

Tất cả đều đúng như Athos đã dự đoán.

Planchet đã đi theo con đường đó, giống như Athos cũng để ý đến các vết máu, nhận ra chỗ xe dừng lại, nhưng anh ta còn tiến xa hơn Athos, thành thử đến làng Fetxtube, vào uống trong một quán ăn, không cần hỏi, anh ta cũng biết được đêm trước, khoảng tám rưỡi tối, một người đàn ông bị thương đi hộ tống một phu nhân đi du hành trên một cỗ xe trạm, đã buộc phải dừng lại không thể đi tiếp. Tai nạn được gán cho bọn trộm cướp đã chặn xe lại ở trong rừng. Người đàn ông ở lại trong làng đó, người đàn bà thay ngựa và tiếp tục lên đường.

Planchet liền đi lùng tên xà ích đã đáp chiếc xe ấy và tìm được hắn. Hắn đã đưa vị phu nhân đó đến tận Frômen và từ Frômen, mụ ta đến Acmăngchie. Planchet liền đi theo lối tắt và bẩy giờ sáng đã ở Acmăngchie.

Ở đó chỉ có mỗi một lữ quán, đó là lữ quán của bưu trạm.

Planchet đến đó tự giới thiệu mình như một gã hầu không có việc làm đi tìm việc. Anh ta chuyện trò với những người trong lữ quán không đến mười phút đã biết được một người đàn bà một mình đến đây vào lúc mười một giờ đêm, đã thuê một phòng, và đã cho gọi chủ quán đến và bảo rằng muốn lưu lại một thời gian trong vùng quanh đây.

Planchet không cần biết gì hơn. Anh ta chạy đến chỗ hẹn, thấy ba người hầu kia đã đến đúng vị trí, liền cắt cử ba người canh giữ mọi lối ra của lữ quán, và trở về tìm Athos. Athos vừa nghe xong những tin tức thu lượm được của Planchet, thì các bạn của chàng cũng bước vào.

Mặt mũi ai nấy đều u uất và cau có, ngay cả khuôn mặt hiền dịu của Aramis.

- Phải làm gì bây giờ? - D Artagnan hỏi.

- Đợi - Athos trả lời.

Ai nấy đều trở về phòng mình.

Tám giờ tối, Athos hạ lệnh đóng yên cương ngựa, và báo cho các bạn mình và Huân tước De Winter chuẩn bị sẵn sàng để lên đường Trong giây lát, cả năm người đã chuẩn bị xong. Mỗi người đều kiểm tra lại vũ khí và nạp thuốc đạn sẵn. Athos xuống sau cùng và thấy D Artagnan đã lên ngựa và đang sốt ruột.

- Hãy kiên nhẫn - Athos nói - ta còn thiếu một người.

Bốn kỵ sĩ nhìn quanh ngạc nhiên, bởi tìm mãi trong đầu cũng chẳng thấy ai có thể thiếu đây.

Vừa lúc ấy, Planchet dắt ngựa của Athos đến, chàng nhẹ nhàng nhảy lên yên và nói:

- Chờ tôi đã, tôi quay lại ngay.

Và chàng phi nước đại.

Mười lăm phút sau, quả nhiên chàng quay lại đi cùng có một người đeo mặt nạ, và khoác một chiếc áo choàng đỏ rộng.

Ông De Winter và ba người bạn đưa mắt hỏi nhau. Chẳng ai trong bọn họ có thể cho người khác biết rõ chuyện gì bởi tất cả đều không biết người đó là ai. Tuy nhiên tất cả đều nghĩ rằng cần phải như thế bởi vì việc đó được làm theo lệnh của Athos.

Chín giờ đoàn người ngựa được Planchet hướng dẫn, lên đường theo đúng con đường mà chiếc xe đã đi.

Thật là một cảnh tượng buồn thảm khi sáu con người im lìm phóng ngựa, đắm mình trong những ý nghĩ riêng tư, tê tái như sự tuyệt vọng, u uất như sự trừng phạt.

Chú thích:
(1) Không có ánh đèn lọt ra. lại giữa đêm làm sao nhận ra được nước da mai mái? - ND.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

84#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 19:28:21 | Chỉ xem của tác giả
Chương 65
Phán xử


Đêm ấy là một đêm giông tố và u ám, những đám mây lớn cuồn cuợn trên trời, che hết ánh sáng các vì sao, đến nửa đêm trăng mới mọc.

Đôi khi, qua ánh chớp lóe lên phía chân trời, cũng thấy rõ được con đường trải ra trắng xóa và đơn độc. Chớp tắt, tất cả lại tối om.

Thỉnh thoảng Athos lại phải nhắc nhở D Artagnan luôn luôn đi đầu đoàn là phải giữ vững cự ly, nhưng một lúc sau, chàng lại bỏ xa cả đoàn. Chàng chỉ có một ý nghĩ duy nhất là tiến lên phía trước và cứ tiến phứa lên.

Họ lặng lẽ đi xuyên qua làng Fetxtube, nơi tên đầy tớ bị thương phải lưu lại, rồi đi dọc cánh rừng Ritsơbua. Planchet vẫn dẫn đường cho đoàn người đến Hecliê thì rẽ trái.

Nhiều lúc, khi thì Huân tước De Winter, khi thì Porthos, khi thì Aramis định thử bắt chuyện với người mặc áo choàng đỏ nhưng mỗi khi hỏi, người này chỉ nghiêng mình không trả lời. Mọi người bấy giờ đều hiểu rằng chắc phải có một lý do nào đó, nên người là mặt này mới giữ yên lặng như thế, nên cũng thôi không hỏi nữa.

Hơn nữa, cơn giông lớn dần, chớp nhoáng nhoàng nối tiếp nhau, sấm bắt đầu gầm thét, và gió rít trên lông chim và đầu tóc các kỵ sĩ báo hiệu phong ba.

Đoàn người ngựa vẫn phi nước kiệu.

Ra khỏi Frômen một quãng, cơn giông bùng nổ. Mọi người phanh áo choàng ra. Còn phải đi ba dặm đường nữa. Họ đi dưới trời mưa như thác đổ.

D Artagnan đã bỏ mũ ra và cũng chẳng mặc áo khoác.

Chàng thấy thích thú mặc cho nước chảy ròng ròng trên vầng trán nóng bỏng và trên cơ thể đang rùng rùng lên cơn sốt của mình.

Lúc tốp người đã vượt khỏi Gôtxkan và sắp tới bưu trạm, một người đàn ông, trú dưới một gốc cây, lẫn trong bóng tôl, tách ra, tiến ra giữa đường giơ ngón tay đặt lên môi.

Athos nhận ra Grimaud

- Có chuyện gì vậy? - D Artagnan kêu lên - mụ ta đã rời khỏi Acmăngchie rồi ư?

Grimaud gật đầu khẳng định điều đó.

D Artagnan nghiến răng.

- Im nào, D Artagnan! - Athos nói - chính tôi đã chịu trách nhiệm tất cả cơ mà, vậy phải để tôi hỏi Grimaud chứ. Nó đi đâu?
Grimaud chỉ tay về hướng sông Litx.

- Xa đây không? - Athos hỏi.

Grimaud giơ ra cho chủ mình ngón tay trỏ đã gấp.

- Một mình à?

Grimaud gật đầu.

- Các vị Athos nói - nó đang ở một mình cách đây nửa dặm, ở phía đông.

- Tốt lắm - D Artagnan nói - dẫn bọn ta đi, Grimaud.

Grimaud vượt qua đường, dẫn đoàn người ngựa đi.

Đi được khoảng năm trăm bước, thì gặp một con suối, họ lội qua dễ dàng.

Qua ánh chớp khác lóe lên, Grimaud dang tay ra chỉ và qua ánh chớp xanh lè, người ta thấy rõ một ngôi nhà đơn độc bên bờ sông, cách bến đò ngang chừng trăm bước.

Một cửa sổ có ánh đèn.

Athos nói:

- Chúng ta đến nơi rồi.

- Đúng lúc đó, một người nằm dưới một cái hố đứng dậy. Đó là Mousqueton, gã chỉ cái cửa sổ có ánh sáng và nói:

- Mụ ở đó.

- Bazin đâu? - Athos hỏi.

- Trong khi tôi canh gác cửa sổ, hắn ta gác ở cổng.

- Tốt lắm - Athos nói - các anh tất cả đều là những người giúp việc trung thành.

Athos nhảy từ trên lưng ngựa xuống, đưa dây cương, cho Grimaud tiến đến phía cửa sổ sau khi đã ra hiệu cho mọi người vòng ra phía cổng.

Ngôi nhà nhỏ được bao quanh bằng một hàng rào cây xanh cao già nửa mét. Athos bước qua hàng rào đến tận cửa sổ không có ván chắn gió nhưng có rèm lửng che kín.

Chàng trèo lên bờ đá chân tường để mắt có thể nhìn qua bên trên tấm rèm.

Dưới ánh đèn, chàng nhìn thấy một người đàn bà khoác một áo choàng không tay màu tối, ngồi trên một chiếc ghế đẩu bên đống lửa sưởi đang tàn, khuỷu tay tựa lên một chiếc bàn tồi tàn và đang ôm đầu trong đôi tay trắng mịn như ngà voi.

- Không thể trông rõ mặt, nhưng một nụ cười thảm khốc lướt trên môi Athos, không thể nhầm vào đâu được nữa, đó chính là con đàn bà chàng đang tìm kiếm.

- Đúng lúc ấy, một con ngựa hí lên. Milady ngẩng đầu lên, nhìn thấy khuôn mặt xanh xao của Athos dán vào ô kính liền thét lên.

Athos hiểu mụ đã nhận ra mình, liền lấy đầu gối và tay đẩy bật cửa sổ, các ô kính vỡ ra.

Và Athos như một hồn ma báo oán, nhảy vào trong phòng.

Milady chạy ra cửa và mở ra. Nhưng còn xanh hơn và dữ tợn hơn Athos, D Artagnan đã ở ngay ngưỡng cửa.

Milady thét lên và lùi lại. D Artagnan sợ rằng mụ còn có cách nào đó để trốn thoát, liền rút ngay súng ngắn ở đai lưng ra, nhưng Athos giơ tay ngăn lại.

- Cứ để yên súng đấy, D Artagnan. con đàn bà này cần phải được xét xử chứ không phải bị ám sát. Cứ đợi đó một lát thôi, D Artagnan, rồi cậu sẽ được hài lòng. Nào các vị, xin mời vào cả đây D Artagnan tuân lệnh bởi Athos nói bằng một giọng long trọng và với dáng điệu uy quyền của một vị phán quan do chính Thượng đế phái xuống.

- Thế rồi, sau D Artagnan, Porthos, Aramis, Huân tước De Winter và người mặc áo choàng đỏ vào theo.
Bốn người hầu canh giữ ngoài cổng và cửa sổ.

Milady ngã xuống chiếc ghế tựa, hai tay dang ra như để cầu xin giải trừ sự hiện diện khủng khiếp này. Nhận ra người em chồng, mụ thét lên một tiếng kêu hãi hùng.

- Ông muốn gì? - Milady kêu lên.

Athos nói:

- Chúng ta đòi Sáclốt Bêchxơn, lúc đầu được mang tên nữ Bá tước de la Fe, rồi tiếp đó là phu nhân De Winter, nữ Nam tước vùng Sepfin có mặt.

- Là tôi, là tôi đây! - Milady hoảng sợ tới cực điểm, lẩm bẩm - Ông muốn gì tôi?

Athos nói:

- Chúng ta muốn xét xử mụ theo đúng những tội ác mụ làm. Mụ sẽ được tự do bào chữa, hãy minh oan cho mụ nếu mụ có thể. Thưa ông D Artagnan, xin ông buộc tội trước tiên.

D Artagnan tién lên nói:

- Trước Đức Chúa và trước con người nói chung, tôi buộc tội con đàn bà này đã đầu độc nàng Constance Bonacieux đêm qua.
Chàng quay lại phía Porthos và Aramis.

- Chúng tôi xác nhận - cả hai chàng ngự lâm quân cùng nói.

D Artagnan tiếp tục:

- Trước Đức Chúa và trước con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã định đầu độc chính tôi, bằng rượu vang mụ gửi cho tôi từ Vilơroa với một bức thư giả mạo, như là vang của các bạn tôi. Chúa đã cứu thoát tôi, nhưng một người đã chết thay tôi, người ấy tên là Bridơmông.

- Chúng tôi xác nhận - Porthos và Aramis lại cùng nói.

- Trước Đức Chúa và trước con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã xui tôi giết Nam tước de Wardes và vì không có ai ở đó để xác nhận việc cáo buộc này là sự thực, tôi xin tự xác nhận. Tôi đã nói xong.

Và D Artagnan chuyển qua cạnh phòng, gần Porthos và Aramis.

- Đến lượt ông, Huân tước? - Athos nói.

Đến lượt Nam tước bước lại gần, ông nói:

- Trước Đức chúa và con người, tôi buộc tội con đàn bà này đã cho người ám sát Quận công De Buckingham.

- Quận công De Buckingham bị ám sát rồi ư? - Tất cả mọi người tham dự đều kêu lên.

- Vâng - Huân tước nói - bị ám sát rồi! Theo bức thư mà ông đã báo cho tôi, tôi đã cho bắt giữ con mụ này và tôi đã giao cho một người giúp việc trung thực canh giữ mụ. Mụ đã làm cho anh ta sa ngã, đã đặt dao găm vào tay anh ta để giết Quận công. Và lúc này có lẽ, Felten, tên anh ta, đã bị chặt đầu để trả giá cho tội ác điên rồ của hắn.

Tất cả các phán quan đều rùng mình về việc phát giác những tội ác mà mọi người chưa biết này.

- Chưa phải tất cả! - Huân tước De Winter nói tiếp - anh trai ta, người đã để lại tài sản thừa kế cho mụ đã chết trong vòng ba tiếng đồng hồ vì một căn bệnh kỳ lạ, để lại những vết bầm tím trên khắp cơ thể. Mụ chị dâu kia, chồng mụ đã chết như thế nào?

- Khủng khiếp quá! - Cả Porthos lẫn Aramis đều kêu lên.

- Kẻ giết Buckingham, giết Felten, giết anh trai ta, ta đòi công lý xử tội ngươi, và ta tuyên bố, nếu người ta không làm điều ấy cho ta, ta sẽ tự làm lấy.

Và Huân tước De Winter đến xếp hàng bên D Artagnan, dành chỗ cho người buộc tội khác.

Milady gục đầu trong hai bàn tay và cố nhớ lại những ý nghĩ hỗn độn của mụ bởi một cơn choáng váng dữ dội.

- Đến lượt tôi - Athos, nói người run lên như một con sư tử run lên trước con rắn độc - Đến lượt tôi. Trước đây tôi đã cưới mụ đàn bà đó khi nó còn là một thiếu nữ, tôi đã cưới nó bất chấp tất cả mọi người trong gia đình, tôi cho nó của cải, cho nó danh phận của tôi, và một hôm tôi chợt thấy mụ đàn bà đó bị đóng dấu chín về tội ô nhục, mụ đàn bà đó bị đóng dấu bông hoa huệ bên vai trái.

- Ồ! - Milady đứng ngay dậy - tôi thách tìm lại được cái tòa án đã tuyên phạt tôi tội hình nhục nhã ấy. Tôi cũng thách tìm lại được người đã thi hành tội ấy.

- Im đi - một giọng người cất lên - về việc này, thì đã có ta trả lời.

Và người mặc áo choàng đỏ đến lượt mình lại gần.

- Người này là người nào, người này là người nào? - Milady kêu lên, như người tắc thở bởi nỗi kinh hoàng và tóc xổ tung ra, và dựng đứng lên như thể những con vật sống trên bộ mặt xám ngoét.

Mọi con mắt đều đổ dồn vào con người đó, bởi trừ Athos, với tất cả, đó còn là một người lạ.

Mà Athos cũng còn sững sờ như mọi người khác vì chàng cũng không hiểu làm sao mà con người này lại dính dáng đến tấn thảm kịch khủng khiếp đang ở đoạn sắp kết thúc này.

Từ tốn và trịnh trọng bước đến gần, chỉ còn cách Milady cái bàn, người lạ mặt bỏ mặt nạ ra.

Milady nhìn người này một lúc, nỗi kinh hoàng càng tăng thêm, cái khuôn mặt tái nhợt râu tóc đen ngòm, cái gì cũng khiếp, chỉ duy nhất ngoại trừ vẻ bình thản lạnh lùng. Rồi thình lình mụ kêu lên:

- Ồ không không - Mụ đứng dậy và lùi tận sát tường - - Không, không, đây là ma quỷ hiện hình! Đây không phải hắn! Cứu tôi? Cứu tôi! - Mụ kêu tiếp giọng khản đi và quay mặt vào tường, như thể mở nổi một lối thoát bằng hai tay mụ.

Mọi nhân chứng trong cảnh đó đều kêu lên:

- Nhưng ông là ai vậy?

- Xin cứ hỏi mụ đàn bà này - Người đàn ông mặc áo choàng đỏ nói - bởi vì các ông thấy rõ là mụ ta đã nhận ra tôi?

- Tên đao phủ ở Lilơ, đao phủ ở Lilơ.

Milady sợ đến phát điên, vừa kêu lên vừa phải bấu chặt hai tay vào tường cho khỏi ngã.

Mọi người giãn ra, chỉ còn mỗi người mặc áo choàng đỏ đứng ở giữa phòng.

Con khốn nạn quỳ sụp xuống kêu lên:

- Ôi, xin tha chết! Xin tha chết!

Người lạ mặt để cho mọi thứ ổn định lại mới nói tiếp:

- Tôi đã nói với các ông mà, thế nào mụ cũng nhận ra tôi!

- Đúng tôi là đao phủ của thành Lilơ. Sau đây là chuyện của tôi.

Mọi con mắt đều đổ dồn vào con người đó, hau háu chờ nghe ông ta nói.

"Thiếu phụ này ngày xưa là một cô gái cũng đẹp như mụ ta hiện nay. Mụ là nữ tu sĩ ở tu viện dòng thánh Bênêđích ở Tămplôma. Một giáo sĩ trẻ lòng dạ hồn nhiên và sùng đạo phục vụ tại tu viện này. Mụ tính chuyện quyến rũ ông ta và đã thành công. Mụ đã cám dỗ một bậc thánh.

Cả hai thề nguyền mãi mãi bên nhau, không bao giờ thay đổi. Mối quan hệ của họ không thể kéo dài mà không tổn hại đến cả hai người. Mụ thuyết phục được ông ta rời bỏ xứ sở, Nhưng để rời bỏ xứ sở, để cùng nhau trốn đi, để đến được một miền khác trên đất Pháp, để có thể sống yên ổn, để không ai biết tới, thì cần phải có tiền, mà lại chẳng ai có. Vị linh mục liền lấy cắp các bình gốm thờ đem bán nhưng họ vừa cùng nhau chuẩn bị ra đi thì cả hai đều bị bắt.

Tám ngày sau, mụ đã quyền rũ được con trai viên cai ngục và trốn thoát. Vị linh mục trẻ bị kết án mười năm gông xiềng và bị đóng dấu chín. Tôi là đao phủ thành Lilơ, như mụ ta đã nói.

Tôi phải đóng dấu phạm nhân và thưa các vị, phạm nhân chính là em trai tôi.

Thế là tôi thề rằng con đàn bà đã làm nó chết, còn tệ hơn là kẻ đồng lõa của nó, vì lẽ mụ đã đẩy nó đến chỗ phạm tội thì ít nhất mụ cũng phải chia sẻ sự trừng phạt. Tôi ngờ nơi mụ trốn, và truy đuổi, rồi tóm được mụ, tôi gô cổ mụ lại và cũng in dấu sắt nung vào mụ như đã in vào em trai tôi.

Hôm sau tôi trở lại Lilơ, em trai tôi cũng lại trốn mất, người ta buộc tội tôi thông đồng và xử tôi bị tù thay chừng nào em tôi vẫn ngoài vòng pháp luật. Thằng em trai khốn khổ của tôi không biết việc xét xử đó, nó lại gặp được mụ đàn bà ấy, rồi cùng nhau trốn ở Bery và ở đó nó được nhận chân mục sư nhỏ.

Mụ đàn bà được coi là em gái nó.

Vị lãnh chúa trong vùng có ngôi nhà thờ của mục sư đó thấy cô em gái giả vờ đó, đem lòng si mê, đến mức ngỏ lời cầu hôn.

Thế là mụ bỏ phéng ngay kẻ mụ đã làm hại để chạy theo kẻ mụ phải làm hại và trở thành nữ Bá tước de la Fe".

Mọi con mắt lại đổ dồn về Athos, mà cái tên đó mới đích thực là tên chàng. Chàng gật đầu tỏ ý mọi điều người đao phủ nói đều đúng cả.

- Thế rồi - người này nói tiếp - thất vọng, điên dại, thằng em trai khốn khổ của tôi quyết định rũ bỏ cuộc đời mà mụ ta đã lấy đi tất cả danh dự, hạnh phúc, trở lại Lilơ mới hiểu ra tôi đã bị án quyết tù thay, nên nó đã ra đầu thú và ngay tối ấy đã treo cổ dưới lỗ thông hơi của xà lim.

Tóm lại, cũng là công bằng đối với chúng thôi. Những người đã kết án tôi đã giữ lời hứa. Tử thi được xác nhận là họ trả tự do cho tôi ngay.

Đó là tội ác tôi buộc tội mụ, và đó là nguyên nhân mụ bị đóng dấu nung.

Athos nói:

- Ông D Artagnan, ông đòi xử mụ đàn bà này hình phạt gì?

- Tử hình! - D Artagnan đáp.

Athos tiếp tục:

- Huân tước De Winter, ông đòi xử mụ đàn bà này hình phạt gì?

- Tử hình! - De Winter lặp lại.

- Các vị Porthos và Aramis - Athos hỏi tiếp - Các vị là các thẩm phán, các vị xử mụ đàn bà này hình phạt gì?

- Tội tử hình - cả hai đều trả lời bằng một giọng khàn khàn.

Milady rú lên một tiếng ghê rợn và lê gối đến trước mấy người xét xử.

Athos giơ thẳng cánh tay chỉ vào mặt mụ và nói:

- Sáclốt Bêchxơn, nữ Bá tước de la Fe, Milady de Winter, tội ác của mụ đã làm mệt mỏi người trên trần thế. Chúa ở trên trời. Nếu mụ biết vài lời cầu nguyện, thì hãy cầu đi, bởi mụ đã bị kết án tử hình và mụ sắp chết rồi.

Nghe nói vậy, thấy không còn chút hy vọng nào nữa, mụ đứng thẳng người lên định nói, nhưng không còn đủ sức. Mụ thấy có một bàn tay mạnh mẽ và không đội trời chung tóm lấy tóc mụ, lôi mụ đi không thể nào cưỡng lại như định mệnh lôi một con người. Mụ cũng chẳng thèm chống cự lại nữa và ra khỏi túp lều tranh.

Huân tước De Winter, D Artagnan, Athos Porthos và Aramis ra theo phía sau. Những người hầu cũng đi theo chủ và căn phòng lại đơn độc với chiếc cửa sổ vỡ, cổng mở và ngọn đèn bốc khói đang hắt hiu cháy trên mặt bàn.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

85#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 19:46:49 | Chỉ xem của tác giả
Chương 66
Hành quyết


Đã gần nửa đêm, mảnh trăng khuyết hạ tuần như nhuốm máu bởi những dấu vết cuối cùng của cơn giông tố, nhô lên sau cái thị trấn nhỏ Acmăngchie, làm nổi bật trong ánh trăng nhợt nhạt bóng dáng âm u các ngôi nhà và cái gác chuông cao lênh khênh như một bộ xương người. Phía trước mặt dòng sông Litx cuồn cuộn chảy như một dòng thiếc nóng, còn phía bờ bên là một khối đen sì cây cối hiện ra dưới bầu trời giông tố vẫn còn ngổn ngang những đám mây lớn màu đồng thau, tạo thành một cảnh hoàng hôn giữa ban đêm. Bên trái nổi lên một chiếc cối xay cũ bỏ hoang, với bộ cánh gió im lìm, trong chốn hoang phế ấy vang lên tiếng the thé, từng hồi và đơn điệu của một con cú mèo. Đây đó, trong cánh đồng, bên trái và bên phải con đường mà đám rước tang tóc ấy đang đi, hiện ra mấy cây thấp, mập giống như những thằng lùn dị dạng đang ngồi xổm để rình xem mọi người vào cái giờ thê lương ấy.

Thỉnh thoảng một lúc đám chớp lớn lại sáng lòa khắp chân trời và ngoằn ngoèo trên những đám cây đen ngòm, giống như một lưỡi đao khủng khiếp phạt đứt bầu trời và mặt nước ra làm hai mảnh. Không một làn gió nhẹ lướt qua vùng không khí nặng nề. Một sự im lìm chết chóc đè nặng lên tạo vật. Đất ẩm ướt và trơn tuột vì trời mưa. Cỏ cây như sống lại càng bốc nặng mùi hương.

Hai người hầu lôi Milady, mỗi người giữ một cánh tay, đao phủ đi sau, Huân tước De Winter, D Artagnan, Athos, Porthos và Aramis bước sau đao phủ. Planchet và Bandanh đi sau cùng.

Hai người hầu lôi Milady tơi bờ sông. Miệng mụ câm như hến, nhưng đôi mắt mụ lại nói lên một cách hùng hồn khó tả như thể lần lượt van xin những người mà mụ đang nhìn.

Vì mụ đi trước mấy bước(1) mụ bảo mấy người hầu:

- Một nghìn Pitxtôn cho mỗi người các anh, nếu để cho tôi trốn. Còn nếu các anh nộp tôi cho chủ các anh (?) tôi có ở gần đây những kẻ báo thù sẽ bắt các anh phải trả giá đắt cái chết của tôi.

Grimaud lưỡng lự, Mousqueton run hết cả tứ chi lên.

Athos nghe thấy Milady nói vậy vội đến gần ngay. Huân tước De Winter cũng vậy. Ông ta nói:

- Đổi mấy tên người hầu này đi thôi, mụ ta đã nói với chúng, không tin được chúng nữa.

Planchet và Bazin được gọi lên thay chỗ cho Grimaud và Mousqueton.

Đến bờ sông, đao phủ lại gần Milady, trói chân và trói tay mụ lại.

Bấy giờ mụ mới phá tan sự im lặng kêu lên:

- Chúng bay là những thằng hèn, chúng bay là những tên khốn nạn giết người. Chúng bay phải tới mười người để cắt cổ một người đàn bà, hãy coi chừng, nếu tao không được cứu thì tao sẽ được trả thù.

- Mụ không phải là một người đàn bà - Athos lạnh lùng nói - mụ không thuộc giống người, mụ là một loài yêu quái trốn thoát khỏi địa ngục và chúng ta sắp tống mụ trả về đấy.

- Chà các trang nam nhi đức hạnh! - Milady nói - Hãy coi chừng, kẻ nào động đến một sợi tóc trên đầu tao, thì kẻ ấy mới là tên sát nhân.

- Đao phủ có thể giết, nhưng không vì thế mà là một kẻ sát nhân - Người mặc áo choàng đỏ vừa nói vừa vỗ vào thanh kiếm rộng bản của mình - đây là vị quan tòa cuối cùng, có thế thôi:

- Nachrichter(2) như những ông bạn láng giềng Đức chúng ta vẫn nói ấy mà.

Nghe đao phủ vừa nói như thế vừa trói mình, Milady kêu lên hai ba tiếng man rợ tạo nên một hiệu quả u ám dị thường bay trong đêm tối và chìm dần trong rừng thẳm.

- Nhưng nếu tao là tội phạm, nếu tao mắc những tội mà chúng bay cáo buộc - Milady gào lên - thì phải đưa tao ra trước một tòa án, chúng bay không phải là các quan tòa để có thể kết tội tao.

- Ta đã đề nghị Tybum cho mụ - Huân tước De Winter - tại sao mụ lại không muốn?

- Bởi tôi không muốn chết - Milady vừa hét lên vừa giãy giụa - Bởi tôi còn quá trẻ không chết được.

- Người đàn bà bà đã đầu độc ở Bêtuyn còn trẻ hơn bà đấy, thế nhưng người ấy đã chết rồi - D Artagnan nói.

- Tôi sẽ vào nhà tu kín, tôi sẽ bắt mình đi tu? - Milady nói.

- Mụ đã từng ở trong một nhà tu kín - đao phủ nói - và mụ đã ra khỏi đó để làm hại em ta.

Milady kêu lên một tiếng hãi hùng và quỵ xuống.

Đao phủ xốc nách mụ lên và định lôi mụ xuống đò.

- Ôi, Chúa ơi - Mụ kêu lên - lạy Chúa! Các người định dìm chết ta ư?

Tiếng kêu đó cũng có đôi chút não lòng khiến D Artagnan là người hăng hái nhất trong việc truy đuổi Milady, cũng thẫn thờ đến tựa vào một gốc cây, đầu cúi xuống, lấy hai tay bịt tai lại, thế nhưng, mặc dù làm vậy, chàng vẫn nghe tiếng mụ hăm dọa và kêu khóc.

D Artagnan là người trẻ nhất trong tất cả bọn họ, nên không sắt đá nổi.

- Ôi! Tôi không thể nhìn cái cảnh tượng hãi hùng này! Tôi không thể bằng lòng với cảnh người đàn bà này chết như thế này?
Milady nghe thấy mấy câu nói đó, mụ lại lấy lại được chút tia hy vọng.

- D Artagnan! D Artagnan!- Mụ kêu lên - chàng nhớ là em đã yêu chàng chứ!

Chàng trai trẻ đứng lên và tiến một bước về phía mụ.

Nhưng Athos cũng đứng dậy, rút gươm ra chặn D Artagnan lại và nói:

- D Artagnan, nếu cậu tiến thêm một bước, chúng ta sẽ phải so gươm với nhau đấy.

D Artagnan quỳ xuống và cầu nguyện.

- Thôi nào, đao phủ - Athos tiếp tục - làm phận sự của mình đi.

- Xin sẵn sàng, thưa Đức ông - đao phủ nói - bởi cũng đúng như việc tôi là một tín đồ Cơ đốc ngoan đạo, tôi tin tưởng vửng chắc rằng tôi rất chân chính khi hoàn thành chức năng của tôi đối với mụ đàn bà này.

- Tốt lắm.

Athos bước một bước lại phía Milady.

- Ta tha thứ cho bà - chàng nói - về cái ác bà đã làm đối với ta, ta tha thứ cho bà làm tương lai ta tan nát, hạnh phúc ta mất mát, tình yêu ta nhơ bẩn và sự cứu rỗi linh hồn ta mãi mãi bị tổn hại bởi nỗi tuyệt vọng mà bà đã ném ta vào. Hãy chết cho bình yên.

Đến lượt mình, Huân tước De Winter cũng tiến lên và nói:

- Ta tha thứ cho bà đã đầu độc anh trai ta, đã ám sát Quận công De Buckingham, ta tha thứ cho bà về cái chết của gã Felten tội nghiệp, ta tha thứ cho bà về những mưu đồ ám hại chính bản thân ta. Hãy chết cho bình yên.

- Còn tôi - D Artagnan nói - xin bà hãy tha thứ cho tôi, đã dùng một ngón giảo quyệt không xứng với một nhà quý tộc, khiêu khích bà nổi giận, và đổi lại, tôi cũng tha thứ cho bà việc giết hại người bạn gái đáng thương của tôi và những sự trả thù tàn bạo của bà đối với tôi, tôi tha thứ cho bà và cũng khóc thương bà. Bà hãy chết bình yên.

- I am lost! - Milady lẩm bẩm bằng tiếng Anh - I must die(1).

Rồi mụ tự đứng dậy nhìn xung quanh với con mắt rực lửa.

Nhưng mụ không nhìn thấy gì hết.

Mụ lắng nghe, nhưng cũng không nghe thấy gì hết.

Mụ chỉ có xung quanh mình toàn là kẻ thù.

- Tôi sẽ chết ở đâu? - Mụ hỏi.

- Ở bờ sông bên kia - Đao phủ đáp.

Rồi đao phủ lôi mụ xuống đò, khi anh ta vừa bước chân xuống đò, Athos trao cho anh ta một số tiền.

- Cầm lấy - chàng nói - đây là tiền công hành quyết. Để cho mọi người thấy chúng tôi hành động như những quan tòa.

- Được thôi - đao phủ nói - và bây giờ để người đàn bà đến lượt mình cũng hiểu rằng không phải tôi hoàn thành một việc có tính chất nghề nghiệp mà là nghĩa vụ của tôi.

- Và hắn ta ném số tiền ấy xuống sông.

Đò xa dần sang bờ trái sông Litx, mang theo kẻ tội phạm và người hành quyết. Mọi người khác đều ở lại bên bờ phải và cùng quỳ xuông.

Con đò lướt đi chầm chậm theo dọc dây chăng qua sông của bến đò, dưới ánh phản quang của một đám mây nhợt nhạt lúc này đang chiếu xiên ngang mặt nước.

Thuyền đã cặp bờ bên kia, những bóng người in lên một màu đen trên nền chân trời màu đỏ nhờ.

Milady trong lúc sang sông đã cởi được thừng trói chân mình. Tới bờ này, mụ nhẹ nhàng nhảy lên bờ chạy trốn.

Nhưng đất ướt, lên hết dốc, mụ bị trượt chân ngã khuỵu xuông.

Một ý nghĩ mê tín chắc hẳn đã tác động mạnh đến mụ. Mụ hiểu rằng trời đã không dung mụ nữa, nên cứ ngồi nguyên như thế, đầu gục xuống và hai tay chắp lại.

Lúc đó, từ bờ kia nhìn sang mọi người thấy đao phủ từ từ nâng cao hai cánh tay lên, ánh trăng phản chiếu trên lưỡi đao rộng bản rồi hai cánh tay hạ xuống, người ta nghe thấy tiếng rít của lưỡi đao và tiếng kêu của nạn nhân, rồi một khối thịt mất đầu vật xuống.

Đao phủ liền cởi chiếc áo choàng đỏ trải ra đất, đặt thi thể nằm xuống, ném cái đầu vào, túm lại bốn góc khoác lên vai và bước xuống đò.

- Đến giữa dòng sông Litx, anh ta cho dừng đò lại, nâng cái bọc nặng lên trên mặt sông và hét lên rất to:

- Xin để cho Chúa phán xử!

Và anh ta buông cái xác cho rơi xuống đáy sông, và cho dòng nước khép lại.

Ba ngày sau, bốn chàng ngự lâm trở lại Paris, và vẫn còn trong thời hạn nghỉ phép. Ngay tối đó, như thường lệ, họ tới thăm ông De Treville.

- Thế nào? Các vị - Ông đại úy tử tế hỏi họ - các vị thỏa thích trong chuyến đi chơi xa chứ?

Athos thay mặt cho tất cả các bạn trả lời:

- Tuyệt diệu ạ!

Chú thích:
(1) Mỗi người hầu giữ một bên cánh tay thì không thể đi trước mấy bước. mà chỉ có thể đl ngang nhau
(2) Tục lệ cổ của người Đức khi hành quyết đều hô lên tiếng đó. Nachrichter có nghĩa; "đây là kẻ đến sau quan tòa"
(3) Tiếng Anh có nghĩa: Ta thua rồi - ta phải chết thật rồi.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

86#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 19:50:40 | Chỉ xem của tác giả
Kết luận


Ngày mồng sáu tháng sau, giữ lời hứa với Giáo chủ rời khỏi Paris trở lại La Rochelle, nhà Vua ra khỏi kinh thành lúc còn rất đỗi bàng hoàng về tin tức vừa lan đến là Buckingham bị ám sát.

Cho dù đã được báo trước người đàn ông mình yêu biết bao gặp nguy hiểm. Hoàng hậu, khi người ta báo tin cái chết ấy, vẫn không chịu tin, lại còn bất cẩn kêu lên:

- Thất thiệt! Ông ấy vừa viết thư cho ta!

Nhưng hôm sau thì bà đành phải tin cái tin thảm khốc đó.

La Port cũng như mọi người khác bị giữ chân lại ở Anh theo lệnh của Vua anh Charles đệ nhất, đã trở về mang theo món quà cuối cùng, tang tóc mà Buckingham gửi cho Hoàng hậu.

Nhà Vua vui mừng khôn tả. Ông chẳng tội gì giấu giếm niềm vui, lại còn cố ý làm rùm beng trước mặt Hoàng hậu, Louis XIII giống như mọi con tim hẹp hòi khác, thiếu sự đại lượng.

Nhưng rồi nhà Vua lại trở nên u buồn và cáu bực ngay.

Vầng trán Ngài không thuộc những vầng trán rạng rỡ được lâu dài. Khi trở lại trận tuyến, Ngài cảm thấy sắp sửa lại phải sống lệ thuộc, tuy nhiên Ngài vẫn trở lại.

Giáo chủ đối với Ngài như con rắn biết thôi miên và Ngài là con chim chuyền từ cành này sang cành khác nhưng không thể thoát ra được.

Vì vậy việc trở lại La Rochelle buồn sâu sắc. Nhất là bốn người bạn, họ làm cho đồng đội phải ngạc nhiên. Họ đi bên nhau, đầu cúi xuống, mắt u sầu. Chỉ có Athos thỉnh thoảng ngẩng vầng trán rộng lên, mắt long lanh, một nụ cười chua chát lướt trên môi, rồi lại như các bạn mình, phó mặc cho những ý nghĩ mơ màng.

Đoàn hộ tống đi tới một thành phố, ngay sau khi hộ giá nhà Vua về tới nơi nghỉ lại, bốn người bạn lui về chỗ mình ở hoặc đến một tửu quán hẻo lánh nào đó, chẳng bài bạc cũng không chè chén mà chỉ nói nhỏ với nhau, chăm chú nhìn xem có ai để ý nghe mình nói không.

Một hôm nhà Vua dừng lại ở dọc đường nhìn chim ác là bay, bốn người bạn theo thường lệ, đáng lẽ đi săn cùng, đã dừng lại trong một tửu quán cạnh đường cái, một người đàn ông phi nước đại từ La Rochelle tới, dừng lại ở cửa để uống một cốc rượu vang, phóng mắt nhìn vào tận bên trong nơi bốn chàng đang ngồi tại bàn.

- Ô, ông D Artagnan! - Hắn nói - chẳng phải ông, tôi đang thấy đó sao?

D Artagnan ngẩng đầu lên và reo lên mừng rỡ. Cái con người mà chàng gọi là con ma của chàng ấy chính là cái thằng cha căng chú kiết ở Măng, ở phố Phu đào huyệt, và ở Arát.

D Artagnan rút gươm và lao ra cửa.

Nhưng lần này thay vì chạy trốn, kẻ lạ mặt nhảy phắt từ ngựa xuống, và tiến đến đối mặt với D Artagnan.
- Chà, thưa ông
D Artagnan nói - cuối cùng thì tôi cũng gặp được ông, lần này thì ông không thoát nổi tôi đâu.

- Tôi cũng có ý ấy đâu thưa ông, bởi lần này, tôi tìm ông, nhân danh đức Vua, tôi bắt ông. Ông hãy trao gươm cho tôi, và không được chống cự, sẽ mất đầu đấy, tôi báo cho ông biết vậy.

- Vậy ông là ai? - D Artagnan vừa hỏi vừa hạ gươm xuống, nhưng vẫn chưa trao.

- Tôi là hiệp sĩ De Rochefort - người lạ trả lời - tổng quản của Đức giáo chủ Richelieu, và tôi được lệnh áp giải ông đến chỗ Đức ông.

- Thưa ông hiệp sĩ, chúng tôi đang quay về bên chỗ Đức ông - Athos vừa nói vừa tiến lại - và ông sẽ chấp nhận lời hứa của ông D Artagnan là ông ấy sẽ đi thẳng một mạch đến La Rochelle.

- Tôi phải giao ông ấy cho lính cận vệ để giải ông ấy về doanh trại.

- Chúng tôi sẽ làm cái việc ấy, thưa ông, xin lấy danh dự của các nhà quý tộc mà hứa đấy. Nhưng cũng xin lấy danh dự của các nhà quý tộc - Athos cau mày nói thêm - Ông D Artagnan sẽ không rời khỏi chúng tôi đâu.

Hiệp sĩ De Rochefort liếc nhìn về phía sau đã thấy Porthos và Aramis đứng xen vào giữa hắn ta và cổng quán, nên hiểu rằng phải tuân theo bốn người đó.

- Thưa các vị - hắn nói - nếu ông D Artagnan bằng lòng trao gươm cho tôi và cũng hứa như ông, tôi bằng lòng việc ông hứa dẫn ông D Artagnan tới hành dinh của Đức ông Giáo chủ.

- Tôi hứa với ông như vậy - D Artagnan nói - gươm của tôi đây!

- Thế thì càng tốt cho tôi - Rochefort nói thêm - tôi còn phải tiếp tục cuộc hành trình của tôi.

- Nếu là để gặp Milady - Athos lạnh lùng nói - sẽ vô ích thôi, ông sẽ không gặp lại được nữa đâu.

- Vậy bà ta ra sao rồi? - Rochefort vội hỏi.

- Cứ trở về doanh trại rồi ông sẽ biết.

Rochefort lặng lẽ đi một lát đăm chiêu. Rồi vì chỉ một ngày đường nữa là đến Xuyếcgie, nơi Giáo chủ đến yết kiến nhà Vua, hắn quyết định nghe theo lời khuyên của Athos và trở về cùng với họ.

Vả lại việc quay trở lại cũng có ích cho hắn, đó là hắn đích thân giám sát được tù nhân của mình.

Tất cả lại lên đường.

Hôm sau, ba giờ chiều, họ đến Xuyếcgie. Giáo chủ đợi Louis XIII ở đó. Thủ tưởng và nhà Vua cực lực ve vuốt tán dương nhau, về dịp may ngẫu nhiên khiến nước Pháp rũ bỏ được một kẻ thù cuồng nhiệt đang xúi bẩy cả châu Âu chống lại mình. Sau đó, Giáo chủ vì đã được Rochefort báo cho biết D Artagnan đã bị bắt giữ, vội đến gặp chàng, nên đã xin cáo từ nhà Vua và mời nhà Vua ngày mai đến khánh thành công trình xây dựng con đê.

Chiều tối, lúc trở về hành dinh ở Cầu Đá, Giáo chủ thấy D Artagnan đứng trước cổng ngôi nhà ông ở, không gươm, cùng với các bạn mình đều vũ trang đầy đủ.

Lần này, vì ông đang ở thế mạnh, ông nghiêm khắc nhìn họ và giơ tay, liếc mắt ra hiệu cho D Artagnan đi theo mình.

D Artagnan tuân theo.

- Chúng mình đợi cậu đấy, D Artagnan - Athos cố tình nói to để Giáo chủ nghe thấy.

Giáo chủ cau mày, dừng lại một lát, rồi lại đi tiếp không nói một lời.

D Artagnan theo sau giáo chủ đi vào, và cửa được canh giữ ngay.

Giáo chủ đi vào căn phòng dùng làm phòng làm việc và ra hiệu cho Rochefort dẫn D Artagnan vào.

Rochefort vâng lời và rút lui.

Còn lại một mình D Artagnan trước mặt Giáo chủ. Đây là cuộc gặp mặt lần thứ hai với Rochefort và chàng tự thú nhận chàng đã tin chắc đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng.

Rochefort vẫn đứng tựa người vào lò sưởi, một chiếc bàn kê giữa ông ta và D Artagnan.

- Này ông, - Giáo chủ nói - ta đã ra lệnh bắt ông.

- Thưa Đức ông, người ta đã bảo tôi vậy.

- Ông có biết tại sao không?

- Không, thưa Đức ông, bởi điều duy nhất khiến tôi có thể bị bắt giữ, Đức ông còn chưa biết.

Richelieu chăm chăm nhìn chàng trai trẻ:

- Ra thế, thế nghĩa là thế nào?

- Mong Đức ông vui lòng cho tôi biết trước những tội mà người ta buộc cho tôi, tôi sẽ nói những việc tôi đã làm sau.

- Người ta buộc ông những tội mà ngay cả những người có địa vị cao hơn cả ông cũng phải mất đầu đấy! - Giáo chủ nói.

- Thưa Đức ông, là những tội gì?

D Artagnan hỏi với thái độ bình tĩnh khiến Giáo chủ cũng phải kinh ngạc.

- Người ta đã buộc tội ông đã thông đồng với kẻ thù của vương quốc, buộc tội ông đã làm lộ bí mật quốc gia, buộc tội ông toan làm thất bại những kế hoạch đại tướng của ông.

- Và ai buộc tội tôi như thế thưa Đức ông? D Artagnan nói - Và ngờ rằng đó là do Milady - một con đàn bà bị công lý của đất nước đóng dấu chín, một con đàn bà đã cưới một người đàn ông ở Pháp, và một người khác ở Anh, một con đàn bà đã đầu độc người chồng thứ hai và toan tính đầu độc chính tôi ư?

- Ông nói gì thế? - Giáo chủ ngạc nhiên kêu lên - Và ông đang nói về mụ đàn bà nào thế?

- Về Milady de Winter - D Artagnan trả lời - Vâng, về Milady de Winter, mà chắc hẳn Đức ông không biết mọi tội ác của mụ khi mà mụ ta có vinh dự được hưởng sự tin cẩn của ngài.

- Này ông, Giáo chủ nói - nếu Milady de Winter phạm những tội ác như ông nói, mụ ta sẽ bị trừng phạt.

- Thưa Đức ông, mụ đã bị trừng phạt rồi!

- Ai đã trừng phạt mụ.

- Chúng tôi.

- Mụ ở trong tù à?

- Mụ đã chết.

- Chết! - Giáo chủ nhắc lại, chưa tin nổi những gì mình nghe thấy - Chết ư? Ông không nói mụ ta chết đấy chứ?

- Ba lần mụ định giết tôi, và tôi đã tha thứ cho mụ. Nhưng mụ đã giết người đàn bà tôi yêu. Thế là các bạn tôi và tôi, đã bắt, xét xử và kết án mụ.

D Artagnan liền kể lại việc đầu độc bà Bonacieux trong nữ tu viện Cácmel ở Bêtuyn, việc xét xử trong ngôi nhà hẻo lánh, việc hành quyết bên bờ sông Litx.

Giáo chủ đâu phải là người dễ rùng mình, vậy mà người cứ run lên.

Nhưng rồi bất ngờ một ý nghĩ thầm kín nảy sinh trong ông, Giáo chủ cho tới lúc này vẫn sa sầm, dần dần rạng rỡ lên, rồi hoàn toàn trong sáng hơn bao giờ hết.

- Như vậy là - Giáo chủ nói bằng một giọng dịu dàng trái hẳn với tính chất nghiêm khắc của câu nói - các ông tự cho mình là quan tòa, không nghĩ rằng những kẻ nào không có nhiệm vụ trừng phạt mà lại đi trừng phạt đều là những kẻ sát nhân!

- Thưa Đức ông, tôi xin thề với ngài rằng không giây phút nào, tôi có ý định chống lại ngài để giữ lấy cái đầu tôi. Đức ông muốn trừng phạt tôi thế nào, tôi cũng chịu. Tôi có thiết sống lắm đâu mà sợ chết.

- Phải, ta biết điều đó, ông là một con người dũng cảm - Giáo chủ nói bằng một giọng gần như trìu mến - ta có thể nói trước với ông rằng ông sẽ bị xét xử, bị kết án nữa đấy.

- Một kẻ khác đã có thể đảm bảo với Đức ông rằng hắn ta có lệnh đặc xá ở trong túi mình. Còn tôi, tôi vui lòng nói với ngài rằng xin Đức ông cứ ra lệnh, tôi đã sẵn sàng.

- Đặc xá ông? – Richelieu kinh ngạc nói.

- Vâng, thưa Đức ông - D Artagnan nói.

- Và ai ký, nhà Vua ư? - và Giáo chủ thót lên câu nói ấy với vẻ miệt thị khác thường.

- Đức ông hẳn nhận ra chữ ký của ngài.

Và D Artagnan đưa cho Giáo chủ mẩu giấy quý giá mà Athos đã tước được của Milady, và chàng đã đưa cho D Artagnan dùng làm bùa hộ mệnh.

Đức ông cầm mẩu giấy và chậm rãi đọc, nhấn mạnh vào từng vần:

"Theo lệnh của ta và vì quyền lợi quốc gia, người mang giấy này đã làm điều người ấy phải làm.

3 tháng 12, 1672.

Richelieu"

Đọc xong hai dòng chữ ấy, Giáo chủ như rơi vào một giấc mơ sâu thẳm, nhưng không trả lại mẩu giấy cho D Artagnan.

"Ông ta đang suy nghĩ xem dùng cực hình gì đối với ta đây - D Artagnan tự nhủ thầm. Được thôi, ta thề là ông ta sẽ thấy một nhà quý tộc chết như thế nào".

Chàng lính ngự lâm trẻ tuổi đã suy tính rất tuyệt để chết một cách anh hùng.

Richelieu vẫn suy nghĩ, cuộn vào rồi lại giở ra tờ giấy trong tay. Cuối cùng ông ngẩng đầu, trừng trừng đôi mắt chim ưng nhìn vào khuôn mặt trung trực, cởi mở, thông minh, đọc trên khuôn mặt ròng ròng nước mắt ấy những đau khổ mà anh ta phải chịu từ một tháng nay, và lần thứ ba hay thứ tư gì đó, ông lại nghĩ rằng thằng bé hai mốt tuổi này hẳn có tương lai biết mấy, và sự năng động của nó, lòng dũng cảm của nó, trí tuệ của nó sẽ cống hiến biết bao kế sách cho một người chủ tốt.

Mặt khác, tội ác, quyền lực, và thiên tài yêu quái của Milady từng đã nhiều lần làm ông hoảng sợ. Ông cảm thấy như có một niềm vui thầm kín mãi mãi rũ bỏ được kẻ đồng mưu nguy hiểm đó.

Ông chậm rãi xé tờ giấy mà D Artagnan đã hào hiệp trao cho ông.

"Ta toi rồi" - D Artagnan tự nhủ.

Và chàng cúi gập đầu trước Giáo chủ, như bảo ông: "Đức ông, ý của ngài đã được mãn nguyện!".

Giáo chủ lại gần bàn, không ngồi, ghi thêm mấy dòng vào một tờ giấy đã viết kín đến hai phần ba rồi áp dấu.

"Đây là bản án của mình đây - D Artagnan thầm nói - Ông ta tha cho mình vào ngục Bastille và việc lề mề xét xử. Cũng là tiện cho ông ta!".

- Cầm lấy - Giáo chủ nói với chàng trai trẻ - ta lấy mất của ông tờ giấy khống chỉ, ta trả lại ông một tờ khống chỉ khác.

Chưa có tên trên tờ chứng chỉ đó đâu, để tự ông sẽ điền vào.

D Artagnan lưỡng lự cầm tờ giấy và liếc mắt nhìn qua.

Đó là giấy phong hàm trung úy ngự lâm quân.

D Artagnan quỳ xuống chân Giáo chủ nói:

- Thưa Đức ông, sinh mệnh tôi thuộc về ngài. Từ nay xin tùy ngài sắp xếp, nhưng ân tình mà ngài ban cho tôi, tôi không xứng đáng đâu, tôi có ba người bạn đều xứng đáng và cao quý hơn tôi.

- Ông là một chàng trai trung hậu, D Artagnan - Giáo chủ ngắt lời, thân mật vỗ vai chàng, sung sướng vì đã chinh phục được cái bản chất bất trị ấy - Ông thích thế nào thì cứ làm như thế. Có điều hãy nhớ rằng, tuy tên còn để trống, nhưng là ta cho ông đấy.

- Tôi sẽ không bao giờ quên - D Artagnan đáp.

- Đức ông có thể tin chắc như vậy.

Giáo chủ quay lại và lớn tiếng gọi:

- Rochefort!

Hiệp sĩ hẳn vẫn ở đằng sau cánh cửa liền vào ngay.

- Rochefort! - Giáo chủ nói - Ông xem ông D Artagnan này, ta đã nhận ông ta vào số những bạn bè của ta. Vậy hãy ôm hôn nhau, và hãy khôn ngoan nếu muốn giữ vững cái đầu.

Rochefort và D Artagnan ôm hôn nhau qua quýt chút đầu môi, nhưng Giáo chủ vẫn đứng đó đang quan sát họ bằng con mắt soi mói.

Họ ra khỏi phòng cùng một lúc.

- Chúng ta còn gặp nhau, phải không ông?

- Khi nào ông thích - D Artagnan nói.

- Chắc sẽ có dịp thôi - Rochefort trả lời.

- Hả? – Richelieu mở cửa ra hỏi.

Hai người mỉm cười, bắt tay nhau và chào Giáo chủ.

- Bọn mình bắt đầu sốt ruột rồi đấy - Athos nói.

- Tôi đây mà, các bạn! - D Artagnan trả lời - không những được tự do mà còn được ân sủng nữa.

- Cậu sẽ kể cho bọn mình nghe chứ?

- Ngay tối nay.

Quả vậy, ngay tối ấy, D Artagnan trở về lều Athos, thấy chàng đang uống cạn chai vang Tây Ban Nha, một việc mà tối tối chàng đều thành kính hoàn thành.

D Artagnan kể lại mọi chuyện xảy ra giữa Giáo chủ và mình rồi rút trong túi ra cái chứng chỉ và nói:

- Anh cầm lấy, anh Athos thân mến, cái đó rất hợp với anh.

Athos mỉm một nụ cười hiền hậu và duyên dáng:

- Anh bạn ơi - chàng nói - với Athos thế quá nhiều, với Bá tước de la Fe, lại là quá ít - cậu cứ giữ lấy cái giấy chứng chỉ đó, nó thuộc về cậu. Than ôi! Lạy chúa? Cậu đã phải mua nó khá đắt rồi.

D Artagnan ra khỏi phòng Athos và vào phòng Porthos, chàng thấy Porthos ăn mặc rất lộng lẫy, áo quần đầy những đường thêu rực rỡ và đang soi mình trước gương.

- Chà, chà! - Porthos nói - cậu đấy à, bạn thân mến! Cậu thấy bộ quần áo này có hợp với mình không?

- Tuyệt lắm! - D Artagnan nói - nhưng tôi đến để đề nghị với anh một bộ quần áo còn hợp với anh hơn kia.

- Quần áo nào? - Porthos hỏi.

- Quân phục của trung úy ngự lâm quân!

D Artagnan kể cho Porthos cuộc hội kiến với Giáo chủ và rút tờ chứng chỉ từ trong túi ra:

- Cầm lấy, Porthos thân mến, anh hãy ghi tên anh vào đấy, và anh hãy là chỉ huy tất của tôi.

Porthos đưa mắt đọc tờ chứng chỉ rồi trả lại cho D Artagnan làm chàng hết sức ngạc nhiên.

- Đúng - Porthos nói - cái đó tôn mình lên rất nhiều nhưng mình sẽ chẳng có đủ thời gian lâu dài để hưởng cái ân huệ ấy đâu. Trong thời gian chúng ta viễn chinh tới Bêtuyn, ông chồng của bà Công tước của mình đã chết, thành thử cái két bạc của người quá cố đang dang hai tay đón mình, bạn thân mến ạ, mình sẽ cưới bà góa ấy. Coi đây, mình đang thử quần áo cưới mà, hãy giữ lấy chức trung úy, bạn thân mến. Giữ lấy.

Và Porthos trả lại cho D Artagnan.

Chàng trai trẻ lại vào phòng Aramis.

D Artagnan thấy chàng đang quỳ trước ghế đọc kinh, trán tựa vào cuốn sách kinh đã mở.

D Artagnan kể cho chàng nghe cuộc gặp gỡ với Giáo chủ, và lần thứ ba rút tờ chứng chỉ từ trong túi ra và nói:

- Anh, người bạn của tất cả chúng tôi, ánh sáng của chúng tôi, người che chở vô hình của chúng tôi, anh hãy nhận cái chứng chỉ này, anh xứng đáng với nó hơn bất kỳ ai bởi sự thông thái của anh và những lời khuyên của anh luôn luôn đem theo những thành công may mắn.

- Ôi chao! Bạn thân mến - Aramis nói - cuộc phiêu lưu cuối cùng của chúng ta đã làm tôi hoàn toàn chán ngán sự đời và gươm giáo rồi. Lần này, ý nguyện của tôi không thể lay chuyển nữa. Sau cuộc vây hãm thành La Rochelle này, tôi sẽ vào giáo đoàn truyền giáo(1). Hãy giữ lấy cái chứng chỉ đó, D Artagnan, nghề binh đao phù hợp với cậu, cậu sẽ trở thành một đại úy can trường và bất chấp mọi hiểm nguy.

D Artagnan rơm rớm nước mắt tỏ lòng biết ơn và rạng rỡ vui mừng, trở lại chỗ Athos, thấy chàng vẫn ngồi bàn và đang soi cốc rượu Malaga cuối cùng trước ánh đèn.

- Thế đấy? Họ cũng vậy, đều từ chối tôi cả?

- Chính là vì không ai xứng đáng với nó hơn cậu, bạn thân mến ạ.

Và Athos cầm một chiếc bút ghi tên D Artagnan lên tờ chứng chỉ rồi trao cho chàng.

- Vậy tôi sẽ không còn có bạn bè nữa - chàng trai trẻ nói - Ôi thôi! Không còn gì nữa, chỉ còn những kỷ niệm cay đắng…

Rồi chàng gục đầu vào hai lòng bàn tay, nước mắt ròng ròng trên hai gò má.

- Cậu còn trẻ - Athos trả lời - và những kỷ niệm cay đắng của cậu sẽ có đủ thời gian để đổi thành những kỷ niệm ngọt ngào!

Chú thích:
(1) Lazaristes: giáo đoàn của các giáo sĩ đi truyền đạo ở khắp nơi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

87#
 Tác giả| Đăng lúc 3-10-2011 19:51:56 | Chỉ xem của tác giả
Phần cuối


La Rochelle, mất đi sự cứu trợ của hạm đội Anh và của sư đoàn mà Buckingham đã hứa hẹn, đã đầu hàng sau một năm bị vây hãm. Ngày 28 tháng mười năm 1628, người ta ký kết đầu hàng.

Nhà Vua trở về Paris ngày 23 tháng mười hai năm ấy.

Người ta tổ chức lễ khải hoàn như thể vừa chiến thắng quân thù chứ không phải thắng người Pháp. Nhà Vua đi vào ngoại ô Thánh Giắc qua những cổng chào xanh rờn hoa lá.

D Artagnan đã nhận chức vụ của mình, Porthos giải ngũ và năm sau cưới bà Coquenard, cái két sắt thèm thuồng bấy lâu nay chứa những tám trăm ngàn quan.

Mousqueton được nhận một bộ chế phục lộng lẫy, và lấy làm thỏa mãn vì đã thực hiện được cái tham vọng suốt đời là được trèo lên phía sau một cỗ xe mạ vàng.

Aramis, sau một chuyến du hành đến Loren, bất ngờ biến mất và thôi không viết thư cho bạn bè. Mãi sau, do bà De Chevreuse nói cho hai ba người tình của bà, mới biết chàng đã thụ giáo ở tu viện Năngxy.

Bazin trở thành thầy dòng.

Athos vẫn ở lại ngự lâm quân dưới quyền chỉ huy của D Artagnan đến năm 1631, sau một chuyến du lịch đến Loren, chàng cũng rời quân ngũ mượn cớ vừa được thừa hưởng một gia tài nhỏ ở Rutxiông.

Grimaud đi theo Athos.

D Artagnan ba lần đấu với Rochefort và cả ba lần đều làm ông ta bị thương.

- Có thể lần thứ tư tôi sẽ giết ông đấy - chàng vừa bảo ông ta vừa đưa tay nâng dậy.

- Vậy thì sẽ tốt hơn cho cả ông lẫn cả tôi là chúng ta dừng lại ở lần này thôi - người bị thương trả lời - Mẹ kiếp! Tôi là bạn ông hơn là ông nghĩ đấy, bởi ngay từ lần đầu chạm trán với ông, tôi chỉ cần nói với Giáo chủ một câu là ông đã có thể bị chặt đầu rồi.

Lần này họ ôm hôn nhau, nhưng thật lòng và không một chút ẩn ý.

Planchet nhận được ở Rochefort chức đội trưởng trong đội cận vệ.

Ông Bonacieux sống rất bình yên, hoàn toàn không biết vợ mình đã ra sao, và cũng chẳng quan tâm mấy đến việc đó. Một hôm ông ta bất cẩn đi nhắc lại việc đó với Giáo chủ. Giáo chủ trả lời ông ta rằng Ngài sắp chu cấp cho ông ta để từ nay sẽ không bao giờ thiếu thốn cái gì nữa.

Quả nhiên, ngày hôm sau, bẩy giờ tối, ông Bonacieux ra khỏi nhà để đi đến điện Louvre, rồi không bao giờ thấy xuất hiện lại ở phố Phu đào huyệt nữa. Theo giới thạo tin thì ông đã được nuôi dưỡng và cư trú ở một vương phủ nào đó do Đức ông hào phóng tài trợ.


Hết.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

88#
Đăng lúc 30-7-2013 09:00:12 | Chỉ xem của tác giả
Một thiên trường ca về tình bạn và tình yêu của đại văn hào Alexandre Dumas.

Ngày nhỏ xíu tôi đã mê mẩn các anh D'Artagnan, Athos, Aramis, Porthos... Mê sự hào hiệp của D'Artar nan, vẻ quý tộc của Athos, nét duyên dáng của Aramis, sự mạnh mẽ của Porthos. Mê các trận chiến, các trò cá cược, Khiếp sợ những mưu mô chốn cung đình, những thối nát của giới quý tộc...

Tiếp theo truyện này còn có "Hai mươi năm sau", "Người mang mặt nạ sắt" nữa. Không biết nhà Kites có làm k?
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách