Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: ^^Smile^^
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Cổ Đại - Xuất Bản] Duyên Kì Ngộ (Mạn Mạn Thanh La) | Trang Trang

[Lấy địa chỉ]
11#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 01:07:17 | Chỉ xem của tác giả

CHƯƠNG 5



Tiền chi tiêu hàng tháng của thất phu nhân và A La cộng lại không quá mười lạng bạc, tằn tiện mới đủ trang trải cho cả Đường viên. Từ khi Lý tướng biết Thanh La không phải hạng bất tài, tiền chi tiêu tháng tăng vọt lên đến hai chục lượng. Thất phu nhân xem kỹ tấm ngân phiếu lấy được của Lưu Giác, không có ký hiệu gì đặc biệt, liền giao cho vú Trương lén tìm người đổi tiền, được hơn bốn trăm lượng, so ra thật là một trời một vực, công tử nhà giàu giắt túi sơ sơ cũng mấy trăm lạng bạc, đủ cho bốn người của Đường viên ăn trong vài năm. A La nhất quyết cho rằng, có tiền mới dám mạnh mồm, đi đến đâu, đồng kẽm có ô vuông cũng là quan ngoại giao tốt nhất, vậy là quyết chí ra khỏi phủ tìm cơ hội kiếm tiền.

Thất phu nhân buồn rầu nhìn A La: “Tháng sau con mới tròn mười ba, ngày thường không ra khỏi nhà, sao mẹ có thể yên tâm?”.

A La đáp: “Những ngày qua con cũng được nghe nhiều về phong thổ nhân tình của Phong thành, cũng lén đọc khá nhiều thư tịch, không đến nỗi chẳng biết gì về Ninh quốc, huống hồ, đầu óc của A La đâu có giống đứa trẻ mười ba?”.

Thất phu nhân vẫn không yên tâm, A La cũng hết cách, bèn kéo phu nhân đến rừng trúc. Khi nàng vận nội công dùng tay chẻ toác một cây tre to ngay trước mặt bà. Lại tung một loạt quyền cước, đòn ra đến đâu, lá trúc bay rào rào, trông rất khí thế, thất phu nhân mới sửng sốt. A La cười kéo tay mẹ: “Lúc nhỏ có lần không ngủ được, con chạy ra vườn chơi, gặp một đại thúc tinh thông quyền cước, ông ấy dạy con, dạy xong thì đi, dặn không được nói với bất kỳ ai. Mẹ à, trong phủ này cũng chỉ có mình mẹ biết. Lần trước, tiểu vương gia của phủ An Thanh vương đã bị con một chưởng đánh ngất xỉu”.

Thất phu nhân giơ tay bịt miệng A La, nhìn vẻ dương dương đắc ý của nàng, vừa bực vừa buồn cười vừa vui: “A La, thế này được rồi, nếu quả thực không ổn, con rời tướng phủ xem ra cũng có thể một mình bỏ trốn”.

A La ôm mẹ: “Đã đi thì cùng đi, con quyết không để mẹ một mình ở đây”. Trong thế giới kỳ dị này thất phu nhân là hồi ức ấm áp nhất của nàng. Con người không phải cỏ cây, bảy năm chung sống, A La đã coi thất phu nhân, vú Trương và Tiểu Ngọc là người thân.

Tiểu Ngọc đã mười bốn, thất phu nhân đưa cho một trăm lạng bạc, để sau này rời phủ có chút lưng vốn, rồi tìm người tử tế xây dựng gia đình, Tiểu Ngọc không chịu, quỳ khóc nói: “Tiểu Ngọc không người thân thích, năm xưa thất phu nhân cho ngân lượng để Tiểu Ngọc mai táng cho mẹ, bây giờ phu nhân bảo con đi đâu?”.

Thất phu nhân nói: “Ở mãi trong phủ sẽ lỡ dở chuyện cả đời”.

Tiểu Ngọc chỉ lắc đầu: “Phu nhân, tiểu thư đã coi Tiểu Ngọc như người nhà, cứ cho con ở lại, tiểu thư vẫn còn nhỏ”.

A La đỡ Tiểu Ngọc đứng dậy: “Sau này Tiểu Ngọc là tỷ tỷ của ta, chúng ta là người một nhà, ta đi đến đâu cũng không bỏ tỷ”. Từ hôm đó, thất phu nhân bắt đầu dạy Tiểu Ngọc thổi sáo, đề phòng có ngày A La ra khỏi phủ, Tiểu Ngọc có thể đứng trong rừng trúc thổi sáo đánh lừa tai mắt của mấy bà phu nhân.

Sau khi hứa với Lý tướng sẽ chuyên tâm học thổi sáo, A La thường dậy sớm vào rừng trúc tập luyện. Rừng trúc vắng vẻ, không khí thanh tĩnh trong lành, chim chóc ríu rít, không ai quấy rầy.

Hôm đó, nàng vừa thổi một lúc chợt nghe có tiếng tiêu từ bên ngoài vọng vào, hòa tấu với tiếng sáo của nàng. A La giật thót, tiếng tiêu vẫn tiếp tục. Nàng chầm chậm thổi hết một khúc, buông cây sáo, tiếng tiêu bên ngoài cũng nhỏ dần, rồi dứt hẳn .

Tiếng tiêu đó xuất hiện khoảng một tháng sau khi A La đến rừng trúc tập sáo. Sau đó sáng sớm mỗi ngày khi nàng đến đây luyện sáo, tiếng tiêu lại cất lên hòa tấu. Lúc đầu tiếng sáo của A La chưa thành thục, dần dần càng hòa hợp với tiếng tiêu. Thất phu nhân an ủi nàng: “Tam nhi, tiêu sáo đều cùng một họ, con chơi đàn đã vượt qua mẹ năm xưa, sáo cũng học rất nhanh, đủ để đối phó với cha con rồi”.

Từ đó A La không bỏ nhiều công sức luyện sáo nữa, chỉ cần có thể giao lưu là được. Nàng nghĩ, phải ra ngoài xem xét mới nhanh chóng thông thuộc Phong thành, mới dễ tìm lối thoát.


Tường bao quanh tướng phủ cao tám thước, xây bằng gạch xanh, không hề có kẽ hở. Tiểu Ngọc đứng canh bên ngoài rừng trúc, hai bên thỏa thuận nếu có tình hình sẽ dùng tiếng sáo làm hiệu. A La thong thả đi về phía bức tường bao sau rừng trúc. Thận trọng men theo tường đi một vòng, không phát hiện thấy lối ra, rủa thầm giá lúc này gặp công trình rởm như thời hiện đại có phải tốt không! Đang lúc thất vọng, đột nhiên nhìn thấy bên cạnh tường có mấy đống đá chỏng chơ, đoán là chỗ đá thừa khi xây tường. Đá chất đống đã lâu, bên trên rêu cỏ mọc đầy.

Nàng xắn tay thử bẻ một phiến, đá vỡ dù bé, nhưng phiến to cứng hơn năm chục ký. A La hít một hơi cố sức nhấc, phiến đá chỉ hơi nhúc nhích. Lòng mừng thầm, nhớ kỹ vị trí, đi ra khỏi rừng trúc, mỉm cười với Tiểu Ngọc.

Ngày hôm sau, thất phu nhân đích thân đứng canh bên ngoài rừng trúc, A La và Tiểu Ngọc đem theo hai cái gậy đến chỗ đống đá hôm trước. Tiểu Ngọc nhìn đống đá không biết làm gì: “Tiểu thư, chỗ đá này phải mấy người đàn ông khỏe mới chuyển đi được, chúng ta có làm được không?”.

A La cười: “Chúng ta bẩy, không cần dùng quá nhiều sức lực. Archimedes nói, cho tôi một điểm tựa tôi sẽ nâng cả trái đất, mấy hòn đá này có là gì”.

Tiểu Ngọc nghe mù tịt: “Trái đất gì? Archimedes gì, tiểu thư nói gì vậy?”.

A La cười khanh khách: “Không cần phải hiểu, cứ làm theo ta”. Sau đó dạy Tiểu Ngọc dùng gậy tre luồn dưới tảng đá, tìm một hòn đá khác kê dưới gậy, A La ra sức ấn cây gậy, bẩy tảng đá lên, Tiểu Ngọc ở phía trước đẩy, tảng đá nhích dần từng tý tới bên tường.

Tiểu Ngọc vui mừng vỗ tay, A La suỵt một tiếng, hai người chuyển một hòn đá nhỏ hơn bắt đầu kê xếp.

Mấy ngày sau, khi thất phu nhân đến bên tường, chỉ nhìn thấy mấy khóm trúc và đám dây leo, không có đường ra ngoài phủ. Đang buồn, A La đã kéo bà quay ra sau, đống đá đã được xếp từng bậc cao dần sát tường, đi theo các bậc đó, dễ dàng trèo lên mặt tường.

Thất phu nhân và A La thử ngó ra. Bên ngoài có một con đường nhỏ, tiếp nữa là một dòng sông. Xung quanh không có ai, hai người cười thầm từ trên mặt tường nhảy xuống, vòng ra phía trước. Thất phu nhân thốt lên: “Đứng ở chỗ này chẳng thấy dấu vết gì”.

A La đắc ý cười: “Con và Tiểu Ngọc đã mất bao nhiêu công sức lấy dây leo che lên đấy”.
Trở về phòng, thất phu nhân bắt đầu vẽ sơ đồ trong phủ, phán đoán con sông bên ngoài là từ núi Ngọc Tượng trong vương cung chảy ra, ra khỏi đông môn, nhập vào sông Đô Ninh. Thất phu nhân còn vẽ cả bản đồ Phong thành theo trí nhớ.

A La kết hợp sơ đồ do thất phu nhân vẽ và những điều đọc được trong sách, mới có sơ đồ toàn cảnh của Phong thành.

Phía nam ngoài Phong thành là sông Đô Ninh. Phía tây là bình nguyên, đi thẳng mãi về phía tây sẽ đến Khởi quốc. Phía đông là núi Ngọc Thúy, biệt uyển Thập Thúy sơn trang của Hộ quốc công chúa xây dưới chân núi, lâm viên của hoàng gia cũng ở đó. Vượt qua núi Ngọc Thúy là khu rừng rậm Hắc Sơn bạt ngàn, tiếp đến là bình nguyên Mãng Độ, cũng chính là biên giới giữa Ninh quốc và An quốc, đi tiếp về đông là biển Nguyệt Ly mênh mông.

Phía bắc Phong thành là dãy Ngọc Tượng. Vương cung xây dựa vào núi, các đỉnh núi thuộc dãy Ngọc Tượng cao chót vót chạm mây, quanh năm tuyết phủ, tuyết tan tạo thành suối Toái Ngọc, bốn mùa không bao giờ cạn, chảy qua vương cung ra ngoài, lại phân lưu thành những nhánh nhỏ chảy vào thành làm nguồn nước, phía sau dãy Ngọc Tượng cũng là rừng rậm, đi tiếp là biên giới với An quốc.

Phía nam qua sông Đô Ninh, qua mười ba trấn là đến Hán Thủy, tiếp đến là Trần quốc. Phía tây nam cách Hán Thủy là Hạ quốc.

Phong thành chỉ có ba cổng lớn, tựa núi kề sông vững chãi. Cách An quốc một khu rừng rậm, là không còn phải lo gì nữa. Phong thành là tuyến phòng thủ cuối cùng của Ninh quốc. Ninh quốc phồn thịnh thanh bình, mấy chục năm không xảy ra chiến tranh.

Từ vương cung có một con đường thẳng tắp dẫn tới cổng bắc Phong thành, đoạn đường trong thành lại gặp con đường thông với cổng đông bắc. Phong thành tự nhiên được chia thành bốn khu. Phía tây bắc là khu cung thất và công đường; đông bắc là cung thất của hoàng thân, đại thần và công quán của sứ thần các nước, đây là khu vực giàu sang; tây nam là khu thường dân; đông nam là khu thương mại.

Trong các khu chỗ nào cũng trà quán, tửu lầu, quán cơm chi chít như bàn cờ. Khu thương mại là nơi ăn chơi giải trí phong lưu, ở đây có dinh thự lộng lẫy của thương gia, các tửu quán, lầu xanh, ngoại thương quán xa hoa cao cấp nhất. Ra khỏi cửa nam, trên sông Đô Ninh thuyền hoa dày đặc. Tóm lại, đây chính là đô hội quốc tế lớn sầm uất náo nhiệt, được phân chia chức năng rõ ràng.

A La ra ngoài, đầu tiên đi tham quan khu thương mại. Nàng cần kiếm tiền, cần thu thập thông tin, cần tìm hiểu phong tục tập quán của một nơi xa lạ. Những nơi chưa phát triển luôn tàng ẩn thể giới đào viên. A La tin là nàng nhất định tìm được. Lúc này nàng không mong lập nên nghiệp lớn ở thế giới cổ đại, chỉ muốn sống yên ổn, có thể tự quyết định mọi chuyện của mình.

Hôm đó Thanh La dậy sớm, bên trong mặc áo ngắn bó sát, bên ngoài choàng áo chùng rộng màu bạc, tóc cột chặt, thắt đai lưng gọn gàng, soi gương thấy một tiểu nam nhi mặt mày khôi ngô, ngũ quan rạng ngời như ngọc.

Thất phu nhân giúp nàng dùng bột nâu bôi những chỗ lộ da thịt, tô đậm lông mày. A La ép cho giọng nói thấp trầm, sải bước dài, sao cho dáng điệu cử chỉ không còn vẻ yểu điệu của một tiểu thư khuê các. A La rất vừa ý, thất phu nhân tạm yên lòng, cười nói: “Nếu không phải là người quen, nhất định không nhận ra con là gái”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

12#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 01:08:55 | Chỉ xem của tác giả
Lần đầu hành động cảm giác có chút xúc động, căng thẳng, A La nhẹ nhàng vượt qua tường, rồi rút thang dây giấu kỹ, bụng nghĩ, như thế này đơn giản hơn cả leo núi. Nếu biết khinh công nữa thì tốt, bay đi bay lại tự do quá. Nghĩ đến tài khinh công của Lưu Giác, A La bất giác thấy ngưỡng mộ vô cùng, nếu không có chuyện với nhau, tìm chàng ta làm sư phụ thì tốt quá.

Sau khi tiếp đất bình an, xác định phương vị, A La rảo bước đi về khu thương mại, nhìn con sông nhỏ phía xa, lại đổi ý. Đi đến một góc vắng của tường viện, lấy sáo thổi khúc bình an thường ngày vẫn hòa tấu với tiêu. Tiếng sáo vừa vang lên, A La chú ý nhìn quanh, lát sau đã thấy tiếng tiêu vọng đến. Nghiêng tai lắng nghe, chính là từ phía sông vọng lại, bèn cất sáo đi về phía đó.

Tiếng sáo vừa dứt, tiếng tiêu liền ngập ngùng, cơ hồ cảm thấy lạ hôm nay sao tiếng sáo lại ngắn ngủi như vậy, sau đó lại tiếp tục vang lên.

A La đến gần bờ sông mới đi chậm lại, làm ra vẻ nhàn tản vãn cảnh. Không lâu sau nhìn thấy dưới rặng thùy liễu ven sông có một chàng trai đang ngồi, mình vận áo chùng màu tím, tay cầm cây ngọc tiêu. Thì ra người thổi tiêu là chàng ta, vì sao ngày nào cũng đến đây thổi tiêu? Chỉ vì muốn họa xướng với tiếng sáo của mình ư?

Cảm thấy phía sau có người, chàng trai quay đầu, thấy một tiểu công tử tuấn tú đang nhìn cây tiêu trong tay mình, bỗng bật cười: “Tiểu đệ đệ, đệ cũng thích tiêu ư?”.

A La nhìn chàng công tử tuổi chừng đôi mươi, lông mày dài hình lưỡi mác vếch đến tận tóc mai, ánh mắt thâm trầm, khóe môi thấp thoáng nụ cười mơ hồ, lại là một chàng thượng lưu. Nhìn diện mạo không phải hạng tiểu nhân, lại thêm chàng ta đã hòa tấu với mình lâu như thế, A La bỗng có thiện cảm, trả lời: “Tại hạ đi dạo bên sông, nghe tiếng tiêu du dương, lần theo tiếng ngọc đến đây, làm phiền công tử rồi”.

Chàng trai cười khe khẽ: “Đừng ngại, đừng ngại, hôm nay cũng chỉ một lát này thôi”.

A La cảm thấy chàng ta có gì buồn bã, biết đó là do không có tiếng sáo xướng họa, liền cười nói: “Tại hạ thích thổi sáo, liệu có thể cùng công tử hợp tấu một khúc?”.

Mắt công tử sáng lên vui mừng: “Tiểu huynh đệ cũng biết thổi sáo ư? Tốt quá!”.

Ngay lúc đó hai người lấy tiêu và sáo hòa tấu, hợp khúc vừa dứt, tình đã thêm phần gắn bó. Chàng công tử nhìn A La hỏi: “Gặp được tri kỷ lòng mừng khôn xiết, nhìn tiểu huynh đệ rất thân thiện, liệu có thể mời tiểu huynh đệ vào Thiên phong lầu hàn huyên chút đỉnh?".

A La nghĩ, Thiên phong lầu có lẽ là những nơi có trà quán, tửu lầu, vừa hay đang muốn đi, có người bạn đường càng tốt. “Đệ tên La Sơn, còn quý danh đại ca?”. A La tự nhiên thắt chặt chêm quan hệ.

Công tử cười nói: “Tốt, hôm nay không chỉ gặp tri kỷ lại quen thêm một huynh đệ, ta họ Trần, đệ cứ gọi Tử Ly cũng được, đại ca cũng được”.

A La thân thiết gọi đại ca. Hai người vừa đi vừa trò chuyện, A La vui mừng phát hiện vị đại ca mới quen này rất thông thạo Phong thành, theo chàng ta coi như có người hướng dẫn, có một tấm bản đồ sống, tự chúc mừng đã gặp vận may. Ở nơi lạ nước lạ cái này, có một người bạn quý biết bao, hơn nữa người bạn này xem ra cũng là một anh chàng đẹp trai đứng đắn. A La che miệng, cười thầm.

Hai người men bờ sông theo hướng đông, lên mặt đê, đã thấy quán trà, A La lần đầu tiên đi trên đường phố của Phong thành, nhìn gì cũng mới lạ, cái gì cũng hiếm gặp, đầu ngó nghiêng hai bên, không muốn bỏ sót thứ gì, quay đầu nhìn, hai người đã cách khá xa khu lầu gác cao cấp. Đột nhiên Tử Ly gọi nàng: “Sơn đệ, cứ đi thế này, tối mịt cũng không đến được Thiên phong lầu”.

A La đỏ mặt, ngẩng đầu nhìn: “Đại ca, Thiên phong lầu còn xa không?”.

Tử Ly đáp: “Cưỡi ngựa không đến hai khắc, đi bộ phải một canh giờ”.

A La bụng nghĩ, đi mất hai tiếng đồng hồ? Phong thành lớn thật, xem ra có ngựa là tốt nhất. Nói ngựa là ngựa đến, một tiếng ngựa hý vang, A La nhìn ra, thấy cái đầu ngựa to đùng đã thò ra trước mặt.

Tử Ly nói: “Ta cho gia nhân dắt ngựa đứng chờ ở đây, Sơn đệ có biết cưỡi ngựa không?”.

“Ngồi trên lưng ngựa để người khác dắt, có gọi là biết cưỡi không?”.

Tử Ly thấy ánh mắt lóng lánh, tinh anh nhìn mình không chớp, lòng thầm thốt lên, quả là một đôi mắt đẹp. Chàng nhanh nhẹn nhảy lên lưng ngựa, chìa tay cho A La: “Nào cùng cưỡi với đại ca”.

A La ngần ngừ nắm bàn tay chàng, thấy một luồng lực lớn xộc đến, người đã được kéo lên ngựa nhẹ tênh. Chàng ta cũng biết võ công? A La bất giác nhướn mày, hiệp khách giang hồ thời cổ đại sao mà nhiều đến thế.

Tử Ly cười: “Ngồi cho vững!”. Khẽ huýt một tiếng, con ngựa tung vó lao đi. A La nhắm mắt cố không để tiếng hét vọt ra khỏi miệng, tay nắm chặt cương, người hơi ngả về sau, cả người đã rơi vào lòng Tử Ly. Hơi thở nóng hổi trên đỉnh đầu, một giọng trầm dịu vang lên: “Đừng sợ, có đại ca ở đây, không rơi được đâu”.

A La dở khóc dở cười, huynh nói không sợ là không sợ hay sao. Nàng vẫn cứng người, toát mồ hôi lạnh, mỗi lần ngựa lồng lên là nàng hồn siêu phách lạc. Nhìn mọi thứ bên đường như bay về phía sau, cuối cùng nàng hét lên: “Đại ca, chậm một chút có được không!”.

Tử Ly nghe giọng nàng run run, biết đây là loại công tử nhà giàu được nuông chiều, nhát gan chưa bao giờ cưỡi ngựa. Nhìn thấy đã vào cửa thành phía đông, liền cho ngựa đi chậm lại: “Sơn đệ, bây giờ tốt rồi, để ngựa đi nước kiệu, đệ có thể cưỡi ngựa ngắm phố phường”.

Lúc này A La mới ngồi thẳng người, nhìn thấy con đường trước mặt có lẽ rộng đến hai, ba chục thước, thỉnh thoảng có cỗ xe ngựa đi qua cũng không cần tránh, dưới chân, mặt đường phẳng phiu, lát đá tảng xanh trơn nhẵn. Từ chỗ này có thể nhìn thấy khí thế của Phong thành. Hai bên đường vô cùng náo nhiệt, các quán ăn, bán đồ vặt, chỗ xem bói, chỗ vui chơi, tiếng hò reo không ngớt. Nhà cửa nhìn chung đều là lầu gác hai, ba tầng, dựng men theo mặt đường, san sát chen nhau. Dưới lầu là cửa hiệu, trên lầu hầu như đều là tửu quán hoặc trà quán, trên đường nam thanh nữ tú, tốp năm tốp ba qua lại tấp nập.

Tử Ly thúc ngựa đi về hướng nam, vào một con phố hẹp. Ở đây toàn những tòa lầu biệt lập, cây cối xanh um bao quanh một tòa lầu nhỏ. Đi đến trước một tòa lầu, A La ngước mắc nhìn thấy ba chữ màu đen nổi bật - “Thiên phong lầu”, biết là đã đến nơi. Tử Ly xuống ngựa, đón A La. Đi vài bước, cảm thấy mông hơi mỏi, không chịu nổi lấy tay khẽ xoa, thấy Tử Ly nhìn mình nửa cười nửa không, cảm thấy có phần tủi thân: “Đại ca phóng ngựa nhanh quá”.

Tử Ly nén cười: “Là đại ca không phải, xin lỗi tiểu đệ”.

A La bạo dạn, nói: “Tha cho huynh, ai bảo đệ không biết cưỡi ngựa”. Trước đây nàng chỉ ngồi lên ngựa có người dắt đi dạo trong những khu vui chơi, đương nhiên khó thích nghi khi ngựa phi như bay. Nghĩ tới sau này có thể có nhiều cơ hội cưỡi ngựa, bèn nói: “Hôm nào đại ca dạy đệ cưỡi ngựa được không?”. Tử Ly gật đầu, cảm thấy Sơn đệ này tính tình xởi lởi, lại thêm phần quý mến.

Hai người đi vào Thiên phong lầu. Tiểu nhị mắt sáng lên. Hàng ngày đón khách ở đây, dần dần cũng biết nhận định con người. Khách đến Thiên phong lầu đa phần thuộc hạng giàu sang. Hai người này, người cao phong độ quý phái, người thấp hơn có lẽ cũng là tiểu công tử nhà giàu. Vậy là tiểu nhị bước lên ân cần chào hỏi: “Xin mời hai vị công tử lên lầu”.

A La nhìn thấy phòng lớn ở dưới lầu không hề có bàn ghế, chỉ có vài quầy trà bằng gỗ mun. Trên tường treo mấy bức tranh chữ sơn thủy, rất văn hoa. Bụng nghĩ ông chủ đã lãng phí tầng một, món ăn lầu hai chắc là rất đắt.

Lên lầu, có những tấm bình phong ngăn cách các bàn, cũng có những phòng riêng. Tử Ly chọn một phòng riêng, đợi A La ngồi xong, nói: “Ở đây nói chuyện yên tĩnh hơn”.

A La gật đầu, ngồi bên cửa sổ ngắm cảnh bên ngoài. Nghe tiếng Tử Ly nói với tiểu nhị: “Nghe đồn Thiên phong lầu có ba món đặc sắc, ba loại rượu đặc sắc, hôm nay lần đầu đến đây, mong không để bọn ta thất vọng”.

Tiểu nhị cười hề hề gật đầu: “Công tử lần đầu đến đây sao? Vậy nhất định phải thưởng thức tài nghệ của đầu bếp chỗ chúng tôi".

Một lát sau, món ăn được đưa lên, A La nhìn, đậu phụ, rau cải, cà tím xào cay, không hề có thịt. Lại nhìn Tử Ly, chàng ta mỉm cười lắc đầu tỏ ý bản thân cũng chưa ăn. A La thầm nghĩ, càng chay tịnh càng khó làm, dùng đũa gắp miếng đậu phụ nếm thử, còn chưa kịp nhận xét đã thấy Tử Ly khen: “Ngon, đậu phụ rất mịn, vẫn giữ nguyên vị thuần khiết của đậu, nuốt xuống cổ vẫn còn thơm”.

A La vội nếm món rau cải và cà tím, thấy Tử Ly miệng khen hết lời, những là khoái khẩu mỹ vị, không nén nổi, hỏi Tử Ly: “Đại ca, món này có gì ngon?”. Nàng ăn thử lại thấy rất bình thường.

Tử Ly nói: “Lẽ nào khẩu vị của Sơn đệ khác người? Bữa ăn trong phủ món đậu phụ đâu còn vị nữa, thảo nào tiểu vương gia phủ An Thanh vương khoe rằng, muốn nếm vị đậu phụ thuần khiết, chỉ có đến Thiên phong lầu”.

A La vừa nghe thấy ba chữ “tiểu vương gia” tập tức bật ho, uống một ngụm trà cho bình tĩnh lại, mới nói: “Đại ca rất thân với Lưu Giác?”. Lòng bỗng sợ hãi vô cùng, sợ nhất vị đại ca mới quen này là bằng hữu thân thiết của Lưu Giác, mình cũng bị đưa đến ra mắt hắn ta.

Mắt Tử Ly thoáng vẻ hồ nghi, nhưng giọng vẫn bình thường: “Không thân lắm, có gặp vài lần. Sơn đệ quen hay sao?”.

“Có gặp ở Đào hoa yến”. Nhìn ba món ăn nổi tiếng của Thiên phong lầu trước mặt, A La vội chuyển chủ đề: “Đệ nghĩ chắc là Thiên phong lầu nhằm vào đám thực khách nhà giàu chán ngấy sơn hào hải vị, cho nên mới chế những món chay tịnh để thay đổi khẩu vị. Những thứ này, quả thật chẳng ra gì”.

Nghe A La nói vậy, một nụ cười hiện lên môi Tử Ly. Thấy nàng lắc đầu bĩu môi, ánh mắt lóng lánh, thật cuốn hút. Thầm nghĩ, nếu mình thích đàn ông, nhất định sẽ đưa tiểu tử này đi. Rồi bất chợt nghĩ đến tiếng sáo ngắn ngủi sáng nay. Dạo trước có lần ngẫu nhiên nghe thấy tiếng sáo bèn cùng hợp tấu, tiếng sáo ngày càng hay, kỹ năng cũng càng thuần thục, để cuối cùng như ẩn chứa bao tâm tư. Chàng thích dùng tiếng tiêu để giao lưu với tiếng sáo đó, để cảm nhận những biến thiên cõi lòng của người thổi sáo, cho nên, buổi sáng mỗi ngày chàng đều chờ ở bên sông. Không ngờ tiếng sáo hôm nay rất ngắn ngủi, rồi lại gặp tiểu huynh đệ dung mạo khôi ngô, hoạt bát mà tiếng sáo rất giống tiếng sáo bên trong bức tường kia, tự dưng thấy muốn thân thiện gần gũi.

Tử Ly ngẫm nghĩ, uống liền mấy chén tam tuyệt tửu. Lúc này lại nhìn A La, đột nhiên nghĩ đến con báo gấm có lần chàng bắn sổng, mắt cũng lóng lánh tinh ranh như vậy. Thầm nghĩ, tiểu tử này nếu nước da trắng hơn, e phụ nữ cũng phải ghen tỵ.

A La vừa nhận xét như vậy, lại thấy Tử Ly ngồi ngơ ngẩn, bèn hỏi: “Đại ca, nếu có cơ hội, tiểu đệ xuống phủ làm mấy món hầu đại ca, đảm bảo đại ca thấy ngon không nỡ ăn”.

Tử Ly như tỉnh mộng, cười: “Coi thường tam tuyệt của Thiên phong lầu, Phong thành này chỉ có tiểu đệ là một”.

A La kinh ngạc: “Thật không? Đệ thấy Phong thành phồn hoa như vậy, lẽ nào ẩm thực lại kém thế?”.

Tử Ly tò mò hỏi A La: “Đệ không phải là người Phong thành?”.

“Đây là lần đầu đệ xuất phủ, lần đầu dùng bữa ở tửu lầu. Cơm ở phủ nhà đệ ăn vẫn còn khá hợp khẩu vị”. Bữa ăn bình thường ở Đường viên, vú Trương và thất phu nhân thay nhau vào bếp. Thỉnh thoảng cũng cùng ăn với mọi người trong đại gia đình tướng phủ, nhưng tâm trạng nơm nớp không dám gắp nhiều, cảm thấy bếp lớn kém xa bếp nhà, cứ tưởng Lý lão gia lạnh nhạt với Đường viên, nên không chiêu đãi tử tế. Không ngờ hôm nay đến Thiên phong lầu, được nếm cái gọi là tam tuyệt lại nguyên sơ chay tịnh như vậy!

Tử Ly lại nói: “Thiên phong lầu lấy món chay là chính, cũng được coi là tửu lầu có tiếng nhất Phong thành. Có lẽ tài nấu ăn ở tư gia Sơn đệ rất cao minh?”.

A La nghĩ một lát, nói: “Đại ca, lần sau có thể đưa tiểu đệ đến những tửu lầu có tiếng khác được không? Thưởng thức món ăn là đệ nhất thú vui của tiểu đệ”.

Tử Ly nhìn đôi mắt sáng ngời, vẻ cầu khẩn trước mặt, không kịp nghĩ, gật đầu: “Sơn đệ, đệ có biết khi đệ nhìn người khác với ánh mắt như vậy, sẽ không một ai có thể từ chối đệ?".

A La đỏ mặt, cúi đầu. Tử Ly mỉm cười: “Nếu ta có một tiểu đệ như vậy, muốn gì ta cũng cho. Sơn đệ, Tử Ly này rất thích đệ gọi ta là đại ca”.

Dùng bữa xong, trả tiền, tiểu nhị nói: “Mười ba lạng”.

A La nhảy dựng lên, kinh ngạc “Ba... ba cái món này mà nhiều bạc thế ư?”.

Tử Ly nhìn nàng cười: “Không đắt, Sơn đệ!”. Đoạn móc túi đưa ngân lượng cho tiểu nhị.

A La đi khỏi tửu lầu, ngoái đầu nhìn. Coi như đã biết tại sao lầu một không bày bàn ăn, tầng hai khách ít cũng không sao. Một bữa ăn ở đây bằng chi ăn cả tháng của Đường viên, vậy mà còn kêu không đắt? Thật không thể hiểu được. Lại nghĩ, nếu mở một tửu lầu như thế, chẳng phải kiếm bộn tiền hay sao?

Ra khỏi Thiên phong lầu, Tử Ly đứng yên ngẫm nghĩ, đoạn cười nhạt: “Tam tuyệt tửu ngấm lâu, uống thêm vài chén vì đệ, hơi chếnh choáng, ta đi bộ cho tỉnh được không?”.

A La gật đầu. Tử Ly dắt ngựa, hai người tản bộ về hướng nam, vừa rẽ vào con ngõ, đột nhiên có mấy kẻ bịt mặt, tay cầm dao xông ra, không nói không rằng, tay dao lăm lăm xông vào hai người.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

13#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 01:09:57 | Chỉ xem của tác giả
Tử Ly đẩy A La về phía sau lưng, tay phải không biết lấy ở đâu ra một thanh kiếm lao vào đấu với mấy kẻ bịt mặt. A La nhìn hoa cả mắt. Nàng tập Karate đã nhiều năm, nhưng chứng kiến cảnh đao kiếm đánh giáp lá cà như vậy cũng không quen, chỉ thấy tay mình bị Tử Ly xiết chặt. Chàng vẫn bảo vệ nàng. A La né phải né trái theo chàng; dần nhận ra đường kiếm, bỗng tay kia nắm lấy Tử Ly, mượn lực lấy đà vọt lên tung cú song phi khiến một tên đang cầm đao lao tới, ngã nhào.

Tử Ly nhìn nàng một cái, mắt lộ vẻ kinh ngạc, nhân cơ hội lao vào vung kiếm lia lịa, đoạn tránh một bên, kéo A La nói nhỏ: “Lên ngựa!”.

Chàng tung người nhảy lên lưng ngựa, đột nhiên thấy eo đau buốt, cả người đổ xuống, A La cũng ngã theo. Bất chấp mông đau ê ẩm, nàng chạy đến bên Tử Ly: “Đại ca, sao thế?”.

Tử Ly đột nhiên bật cười: “Tiểu đệ ngốc, sao không cưỡi ngựa đi đi?”. Trong hơi thở gấp, mặt đã xanh tái, chàng nói nhỏ: “Trên yên có cắm kim độc”.

Những kẻ bịt mặt lúc này từ từ áp sát, một tên cười sằng sặc: “Nếu không dùng kế đó, mấy người bọn này, sao địch nổi đại ca?”.

A La sợ hãi, nhưng bất chấp, nhảy ra đứng chắn trước mặt Tử Ly, phẫn nộ hét: “Bí ổi thế mà vẫn cười được? Đưa thuốc giải độc ra đây!”. Dù mạnh mồm như thế, nhưng bụng thầm cầu khấn: Đừng giết ta!

Mấy kẻ bịt mặt nhìn tiểu công tử áo gấm, cười nhạo: “Tiểu công tử kháu trai, lần này thu hoạch to rồi đây. Công tử lui ra, nếu không máu vọt ra công tử lại sợ chết khiếp!”.

A La ngoái nhìn Tử Ly, mặt chàng vẫn cười cười: “Đại ca, đại ca cố lên!”. Nói đoạn, dắt ngựa lại gần, giật yên ra, cố sức xốc Tử Ly lên: “Đại ca, đệ đỡ ca, đại ca cố lên ngựa đi!”.

Mấy kẻ bịt mặt càng cười to: “Tiểu công tử, công tử đỡ được sao? Có cần đại ca này giúp không?”.

A La lườm chúng, quay đầu nhìn Tử Ly, mặt chàng hơi xanh, nhưng vẫn như cười, người lại hơi nhũn ra. A La biết chàng không thể lên ngựa, bèn buông dây cương vỗ vào mông thả cho ngựa đi, hy vọng có kỳ tích xảy ra, kiểu như ngựa quen đường, dẫn cứu binh đến. Nàng dìu Tử Ly đến ngồi dựa vào chân tường, lúc đó một người bịt mặt cười, nói: “Ngõ cụt làm gì có ai qua, đây nói thật, hôm nay chúng mày có cánh cũng không chạy thoát”.

A La nhắm mắt, vọt người lên cao. Tên bịt mặt ngớ ra, không biết nàng định làm gì. A La khởi động mấy nhát dừng lại, cởi phắt áo choàng, lạnh lùng nhìn tên bịt mặt: “Đã lâu không đánh nhau, các người định lần lượt từng người hay cả đám?”. Trong bụng không dám chắc, nhưng không thể ngồi giương mắt chờ chết, cho nên quyết liều một phen.

Một trận cười rộ lên, có kẻ múa dao xông đến, cười to: “Không ngờ ta có phúc đến thế, nào để đại ca ôm công tử đã”. Không đợi gã lại gần, A La tung chân đá trúng đầu gã, rồi xoay người, tay phải chém vào lưng gã, chỉ nghe tiếng xương gãy rắc một tiếng, tên bịt mặt đổ xuống.

Nàng cố giữ cho thân người linh hoạt, nhảy sang phải, né sang trái, thỉnh thoảng vung tay chém một nhát, tự mình cũng thấy tay đã hết lực. Chỉ nghe thấy Tử Ly kêu lên, đứng dậy, đẩy nàng về sau. Lúc đó không biết từ đâu, tên bay đến rào rào, những kẻ bịt mặt kêu lên thảm thiết từ từ ngã gục.

Liền sau đó, mấy người từ trên tường nhảy xuống, quỳ sụp trước mặt Tử Ly, hoảng hốt: “Thuộc hạ đến chậm, xin chúa công trách tội!”.

Tử Ly nhìn họ: "Đứng lên đi!”.

Mấy người nhanh nhẹn khiêng những xác chết đi, lau sạch vết máu trên đất, tất cả đều làm nhanh chóng gọn gàng. Lát sau trong ngõ đã như không xảy ra chuyện gì. Ngay sau đó có tùy tùng dắt ngựa đến, đứng hầu một bên.

A La kinh ngạc nhìn cảnh tượng trước mặt, miệng thở hổn hển, tay vẫn còn run, trời ơi, chuyện gì thế này? Quay đầu nhìn thấy Tử Ly mặt như cười, bèn hỏi: “Đại ca không trúng độc sao?”.

Mắt Tử Ly cười: “Chút độc đó, một lát là hết. Huống hồ, kẻ mọc cánh cũng không thoát chính là bọn chúng!”.

A La mới hiểu tại sao vừa rồi Tử Ly không hề tỏ vẻ lo lắng, lòng hơi buồn, mình vẫn nghĩ về con người ở đây đơn giản quá. Băn khoăn hỏi Tử Ly: “Vậy đại ca còn đứng nhìn đệ bị đâm? Thật thiếu nghĩa khí! Không nhận là đại ca nữa! Sau này đừng nói chúng ta quen nhau, coi như ta ngốc nghếch một phen”. Nói xong nhặt áo choàng bỏ đi.

Tiếng Tử Ly vang lên đằng sau: “Vừa rồi sao đệ không cưỡi ngựa bỏ chạy?".

A La quay đầu lườm chàng: “Không phải không muốn cưỡi, mà ta bị ngã xuống!”.

Tử Ly mỉm cười: “Đệ có thể đi, bọn chúng đâu có muốn mạng của đệ!”.

A La càng giận: “Không nghe bọn chúng nói đệ là tiểu công tử xinh đẹp hay sao? Đệ muốn cũng không đi được! Cáo biệt, sẽ không gặp lại nữa!”.

Đi được mấy bước, Tử Ly đã đuổi kịp: “Có muốn học cưỡi ngựa không?”

A La không thèm nghe, Tử Ly lại tiếp: “Có muốn thử tất cả sơn hào hải vị của Phong thành không?”.

A La vẫn không thèm, Tử Ly lại than vãn: “Ta chỉ muốn xem võ công của đệ mà thôi. Đòn tung chân của đệ rất lợi hại, ta biết đệ có luyện công. Nếu đệ nguy cấp, ta nhất định ra tay, ta không ra tay, thị vệ của ta cũng ra tay. Thế này nhé, đệ cần gì nói đi, nếu làm được nhất định ta sẽ giúp”.

A La dừng lại, người này xem chừng chỉ có một mình, nhưng lại có thị vệ võ nghệ giỏi như vậy ngầm bảo vệ, thân thế chắc chắn không đơn giản, không thể đắc tội được. “Thật không?”.

“Thật”. Tử Ly mỉm cười.

A La lại hỏi: "Huynh rất giàu phải không?”.

Tử Ly cau mày: “Coi như thế đi!”.

A La cười: “Có tiền là được, liệu đệ có thể hỏi, cần bao nhiêu bạc có thể mua được Thiên phong lầu?”.

Tử Ly cười: “Đệ muốn Thiên phong lầu?”.

A La lắc đầu. Tử Ly ngẫm nghĩ, nói: “Một vạn ngân lượng”.

A La hỏi: “Nếu muốn mua một ngôi nhà ở Phong thành, cần bao nhiêu bạc thì đủ?”.

Tử Ly cười: “Mấy trăm lạng là có thể mua được một chỗ vừa vừa, thườngdân sống tằn tiện nhất, thì năm mươi đến một trăm lượng là có thể đủ chi trong vòng một năm”.

“Vậy mấy món vừa rồi đã ăn hết chi tiêu một tháng của thường dân!“, A La cảm thấy ở đây sự chênh lệch giàu nghèo quá lớn.

Tử Ly vẫn mỉm cười: “Mua một a đầu chỉ cần hai chục lượng”

A La nói: “Đệ cần một ngàn lượng, đại ca có thể cho đệ không?”

Tử Ly nhìn nàng vẻ lạ lùng: “Đệ cần một ngàn lượng để làm gì?”.

A La nói: “Để trả công cho đệ! Cứu mạng huynh, đệ đã suýt mất mạng! Mạng của huynh đáng giá một ngàn lạng chứ!”.

Tùy tùng đứng bên phẫn nộ: “Dám hạ nhục chủ nhân bọn ta?".

Tử Ly nhìn bọn họ, bọn tùy tùng cúi đầu không dám nói, nét mặt vẫn hậm hực. A La hỏi: “Chê ta mua rẻ chủ nhân các người sao? Vậy thì hai ngàn lượng vậy”.

Tùy tùng không dám mở miệng, nhưng mặt đỏ phừng phừng. Tử Ly cười: “Đệ muốn kinh doanh ẩm thực như Thiên phong lầu?”.

A La cười: “Đệ không tham lam, hai ngàn lượng, chúng ta ân oán rạch ròi, sau này không ai nợ ai”.

Tử Ly nhìn nàng chằm chằm: “Hay là đệ giận ta đã có chuẩn bị lại không ra tay?”.

A La cười: “Đệ biết võ công, lại vừa quen nhau, huynh nghi ngờ cũng không phải là lạ. Nhưng đệ không thích”.

Tử Ly vừa giơ ngón tay ra hiệu, tùy tùng đưa ra một bọc bạc, chẳng buồn nhìn trao ngay cho A La. A La mở ra đếm đủ hai ngàn lượng, trả lại số bạc thừa, xong xuôi quay người bỏ đi.

Khi sắp ra khỏi con ngõ, nghe thấy tiếng vó ngựa sau lưng, chưa kịp phản ứng, một cánh tay đã vung ra, nhấc bổng nàng lên ngựa. Tử Ly cười: “Ta tiễn đệ về, nhà đệ ở đâu?”.

A La lúc này đã kiệt sức, thấy của cho không, nên cũng không từ chối, nói: “Đưa đệ đến chỗ ta gặp nhau là được”.

Tử Ly không nói gì thêm, ra roi thúc ngựa đi về hướng đông, vòng đến bờ sông.

A La xuống ngựa đi thẳng, Tử Ly kéo lại, tháo miếng ngọc bội trên thắt lưng đưa cho nàng: “Sau này có chuyện gì, cứ đến Hưng Nguyên quán trong thành tìm chủ quán, đưa cái này nói là của Tử Ly công tử cho đệ”.

A La nghĩ ngợi rồi cầm miếng ngọc bội.

Tử Ly lẳng lặng lên ngựa, ra roi phóng đi. A La đi đến bên tường bao tướng phủ, nhìn quanh không thấy ai, bèn lấy sáo thổi ám hiệu. Lát sau Tiểu Ngọc xuất hiện ở đầu tường.

Trở về nhà toàn thân A La rã rời, chỉ muốn tắm nước nóng. Thất phu nhân thấy nàng mệt như vậy nên cũng không hỏi nhiều.

A La ngâm mình trong bồn nước nóng, thật dễ chịu, đầu óc bắt đầu hoạt động. Tử Ly công tử thân thế phi phàm, thủ đoạn ra tay cũng khác thường này rút cục là người thế nào? Nhìn cách quản thuộc hạ của chàng ta, có vẻ rất có tài quản !ý. Nghĩ lại nàng lại thấy tức khí, mất công đánh nhau một trận, để cho người ta đùa bỡn như con khỉ, nếu mình không biết karate, Tử Ly cũng không ngồi đợi chết. Người ở đây sao ai cũng cáo già thành tinh như vậy, không một ai đơn giản.

Điều mừng nhất là kiếm được hai ngàn lượng bạc, lại còn được tặng miếng ngọc bội khi cần sẽ được giúp đỡ. Đây đúng là bảo bối, chưa biết chừng có ngày phải đến cầu cứu Tử Ly. Chàng ta sẽ giúp mình, không biết tại sao, nàng rất tin lời Tử Ly.

Tắm xong, A La đưa bạc cho thất phu nhân giữ. Thất phu nhân kinh ngạc hỏi: “Sao đi có một ngày mà kiếm được nhiều bạc thế? Tam Nhi, không phải con lại đánh ngất người ta rồi cướp tiền chứ?”.

A La cười hớn hở: “Hôm nay đánh ngất mấy người. Con cứu được một người, đây là bạc người đó trả ơn, nguồn gốc tuyệt đối minh bạch. Mẹ à, chúng ta mua nhà bên ngoài được không? Con nghĩ bạc đủ rồi”. Nàng đã tính, định trốn khỏi tướng phủ, nhất định phải có chỗ nương thân.

Thất phu nhân cũng đồng tình: “Ý này rất hay, nếu có ngày chúng ta rời tướng phủ, phải có chỗ nương náu. A, nghe nói hoàng hậu đã hạ chỉ, triệu nội quyến ngày rằm vào cung thưởng nguyệt. Có lẽ là người muốn xem mặt Thanh Lôi, định rõ đã tuyển được thái tử phi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

14#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 08:13:19 | Chỉ xem của tác giả

CHƯƠNG 6



Đại sảnh trong tướng phủ đèn đuốc sáng rực thâu đêm, chỉ những khi phủ có việc trọng đại mới thấy cảnh tượng long trọng linh đình như thế. Khi thất phu nhân đưa A La vào đại sảnh, mọi người đều đã tề tựu đông đủ. Nàng vẫn ngồi bên thất phu nhân ở cuối dãy ghế bên phải, lắng nghe bề trên chỉ giáo. Lý tướng hắng vài tiếng cho trong giọng rồi cất lời: “Rằm tháng tám này hoàng hậu có ý triệu nội quyến các quan tam phẩm trở lên vào cung thưởng nguyệt, lại còn nói rõ muốn xem tiểu thư các nhà trổ tài. A Lôi, A Phỉ, A La, các con thấy thế nào?”.

A La ngớ người, “các con thấy thế nào”, còn thế nào nữa, chẳng phải bề trên nói sao là vậy ư? Ông thân làm tả thừa tướng, không có người nối dõi, chẳng phải rất mong bán mỗi con gái sao cho thật đắt hay sao, mưu đã tính sẵn từ lúc các con còn nhỏ, tuyên bố là xong, hỏi như vậy là có ý gì? Nàng nhất thời không tìm ra ý đồ thật sự của Lý tướng. Ưu tú nhất nhà đương nhiên là đại tỷ, nhị tỷ, còn nàng vui lòng lên tiếng sau cùng.

Thanh Lôi nhẹ nhàng: “Cha không định để con tiếp tục chơi đàn nữa chứ? Khuê nữ mọi nhà mười người có đến tám người chơi đàn, ngón đàn của con ngang ngửa Cố tiểu thư. Những ngày vừa qua được thái tử điện hạ càng thêm mến mộ, si mê, không cần chơi đàn nữa cũng được”. Thấy tình cảm của thái tử đối với mình mười phần chắc chắn, khẩu khí của Thanh Lôi đã có vẻ kiêu kiêu tự đắc.

Mắt Lý tướng lộ ra nụ cười, xem ra ông cũng không định để Thanh Lôi lại thể hiện ngón đàn. Dù biết rõ tâm tư của thái tử đã đặt vào Thanh Lôi, hoàng hậu chẳng qua tức khí vì cháu gái Vương Yến Hồi chưa kịp đua tài đã bị loại. Lý tướng mỉm cười, nói: “Lần thưởng nguyệt này, hoàng hậu có ý để tiểu thư Yến Hồi vãn hồi một phen, chủ đề so tài có lẽ sẽ không phải là những trò giải trí như đàn, hát".

A La đột nhiên vỡ lẽ, Lý lão gia vốn đã tính đến điều này, triệu tập cả nhà là muốn mọi người cho ý kiến, để Thanh Lôi có thể thắng Vương Yến Hồi, danh chính ngôn thuận trở thành chủ nhân Đông cung.

Đại phu nhân chậm rãi lên tiếng: “Vương Yến Hồi ta đã gặp từ nhỏ, thường đi theo cha là Vương thái úy, lớn lên trong quân doanh, thông thuộc binh thư, am tường binh pháp. Năm xưa khi ta được gả vào tướng phủ không lâu có về thăm nhà, đúng lúc Vương thái úy mời, ta được cha đưa đến phủ thái úy. Khi đi dạo một mình trong hoa viên, không tìm thấy lối ra, lúc đó một nữ đồng ba tuổi từ trên cây nhảy xuống vỗ tay cười nói: “Mê hồn trận mà sách xưa nói thì ra cũng có cái hay”, ta hiếu kỳ hỏi, có phải hoa viên bố trí theo trận pháp, cô bé cười hớn hở nói, đọc sách thấy viết như vậy, bèn thử bày bố trong hoa viên xem sao. Ta không thể tin nổi, đứa trẻ mới ba tuổi, mà đã có thủ đoạn như vậy”.

Lý tướng tiếp lời: “Nay đã qua mười bốn năm, Vương Yến hồi đã mười bảy tuổi, nghe đồn mưu lược hơn người, thông minh tuyệt đỉnh, có lẽ không phải là lời đồn suông”.

Nghe xong câu chuyện, cả phòng lặng phắc như tờ. Nếu trong yến tiệc, hoàng hậu bảo Vương Yến Hồi hiến kế, thì đúng là không phải chuyện hay. Chưa biết chừng Ninh vương nghe vậy hiếu kỳ, muốn biết thái tử phi tương lai liệu có đầu to mà óc nhỏ. Bởi vì sau này thái tử đăng cơ, thái tử phi sẽ được tấn phong làm quốc mẫu. Thái tử sủng ái mỹ nhân nào có thể tùy tiện phong phi tử, nhưng quốc mẫu thống lãnh hậu cung, không mưu lược thủ đoạn e không được.

Lý tướng lại tiếp: “A Lôi, con chơi đàn rất hay, văn thơ cũng khá, bây giờ cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra trong yến tiệc, hôm nay cha chỉ nhắc con, khi đó phải linh hoạt cẩn trọng, vạn sự nên lấy hai chữ cẩn trọng làm đầu”. Ánh mắt chuyển đến Thanh Phỉ và Thanh La, “Mục đích vào cung lần này của hai con là giúp Thanh Lôi thuận lợi vượt qua cửa ải, luôn đi theo sát đại tỷ, cần ra tay vẫn nên ra tay, chỉ có điều nên thận trọng đừng để bị phát hiện! Phải ghi nhớ một điều, vinh cùng vinh, nhục cùng nhục! Cha già rồi, mọi hy vọng của Lý gia bây giờ đều trông cậy vào đại tỷ các con, hiểu chưa?”.

Mọi người đồng thanh “Rõ”, A La muốn cười không được, mối quan hệ xã hội của Trung Quốc mấy nghìn năm trước là thế, mấy nghìn năm sau vẫn thế. Dựa vào một con nhện nhả tơ dệt mạng, thêm mấy con khác liên kết thành mạng lớn, bè phái liên minh. Chỉ có điều mình ở trong đó chỉ muốn vùng ra, không muốn cùng họ mưu cầu vinh lợi, điều này cũng khác quan điểm tư tưởng hiện đại. Những thứ mà người trong tướng phủ cần không giống những thứ nàng cần.

Lại thấy Lý tướng hỏi Thanh Phỉ: “A Phỉ, bà mối của Thành thị lang đã đánh tiếng dạm hỏi, nhưng tỷ tỷ con chưa xuất giá, con đi trước cũng không hay, cha nghĩ nên đợi chuyện của tỷ tỷ con định đoạt xong xuôi rồi hãy tính”.

Tứ phu nhân vội trả lời: “Lão gia nói chí phải, nhà chúng ta dòng dõi thư hương, tuyệt đối không nên có chuyện thất lễ như vậy”.

A La thấy mắt Thanh Phỉ sáng lên rồi lại tối đi, biết ngay mẹ con họ bị Lý lão gia thừa cơ đánh vào điểm yếu. Thành thị lang kia hào hoa phong lưu, văn tài xuất chúng, tuổi còn trẻ mà đã làm quan cao, Thanh Phỉ gả cho chàng ta xem ra cũng xứng đôi vừa lứa. Chỉ có điều nhanh quá, nhanh chóng thành thân như vậy, trong thời hiện đại vẫn còn có người yêu đến chết đi sống lại, ở đây bỏ qua giai đoạn yêu đương, lấy nhau rồi có hối cũng không kịp. A La đã quyết rời khỏi tướng phủ, tuyệt đối không để cho Lý lão gia biến hôn nhân đại sự của mình thành cuộc buôn bán trao đổi, cho nên bây giờ vẫn nên ít tiếp xúc với những bậc anh tài thì hơn. Nghĩ đến những bậc anh tài, nàng đột nhiên nghĩ đến tiểu vương gia của phủ An Thanh vương và Tử Ly công tử thân thế bí hiểm. Người trước nàng trốn còn không kịp. Còn người sau, nàng lại thầm thở dài, chẳng phải đã được trả công sòng phẳng rồi sao?

Lý tướng cười khà khà: “Thành thị lang nói, kết thân với Lý gia ta quả thật là đã với cao. Khi nói như vậy vẻ mặt Thành thị lang rất phấn chấn, có thể cùng cánh với thái tử, tiền đồ của người ta cũng hanh thông”.

Vậy là điều đó đã được nói rõ ra rồi. Nếu Thanh Lôi được gả cho thái tử là Thanh Phỉ có thể thành thân với Thành Tư Duyệt, vận mệnh vẫn còn ở chỗ đại tỷ có đắc sủng hay không. Sao lại có một người cha đem con gái ra toan tính như Lý tướng chứ?
A La đang mãi nghĩ, thì nghe thấy Lý tướng cười nói với nàng: “A La tháng sau con đã mười ba tuổi rồi, đi xem xét mở rộng tầm mắt cũng tốt, con sớm muộn cũng được gả cho một đám tốt”.

Kế hoạch đã nhanh chóng chuyển sang nàng vậy sao? A La cúi đầu trả lời: “Con còn nhỏ, vẫn muốn sống với cha mẹ vài năm nữa”.

Lý tướng cười: “Cha cũng không muốn xa con, nhưng cứ định sẵn hôn sự, đến tuổi cập kê tính chuyện cũng không muộn”.

A La cúi đầu ra bộ xấu hổ, sự phẫn nộ trong lòng lại bùng lên. Nàng sẽ không nghe theo sắp đặt của ông ta, tuyệt đối không!


Mấy ngày liền, A La không đến rừng trúc thổi sáo. Nghe tiếng tiêu vẳng lại, ngẫm nghĩ một hồi vẫn quyết định không lên tiếng. Tiếng tiêu mỗi lúc càng thêm âu sầu. Có một hôm cuối cùng không chịu nổi, nàng trèo qua tường nấp vào một chỗ nhìn ra, từ xa thấy bóng dáng tiêu sơ của Tử Ly công tử ngồi bên gốc liễu ven sông. A La cảm thấy không nỡ, nhưng vẫn không chịu ra. Mục tiêu hiện nay của nàng là cuộc sống tự do ngoài phủ, kiểu đàn ông ưu tú bí hiểm này vẫn nên ít tiếp xúc thì hơn.

Lại qua mấy ngày, không thấy tiếng tiêu nữa. Liền mấy ngày A La nằm mơ, trong mơ nàng bay bổng trên bầu trời trong tiếng tiêu du dương của Tử Ly. Sau đó nàng ra khỏi phủ nhưng không đến bờ sông, miếng ngọc bội Tử Ly tặng nàng cũng cất vào một chỗ.

Sinh nhật mười ba tuổi của A La thoắt cái đã qua, nàng vẫn lén trốn khỏi phủ, đã tìm mua được hai gian nhà ở đông nam kinh thành, hai nhà chỉ cách nhau một bức tường, thuê người lén xây một cái cửa bí mật thông nhau. Ngôi to hơn nàng đã thuê quản gia, mua mấy thứ đồ dùng, nàng có thể lộ mặt với tư cách tiểu thiếu gia, chỉ dặn họ, nói là để có chỗ nghỉ ngơi mỗi khi vào thành buôn bán. Ngôi nhà nhỏ hơn, nhờ một đôi vợ chồng hiền lành trông coi, để cho vú Trương đứng ra giao dịch, nói là của một người bà con sinh sống ở phương nam muốn sau này trở về cố hương, nên đã chuẩn bị trước.

Lại một tháng nữa trôi qua, trời thu xanh thẳm. Dạ yến thưởng trăng do hoàng hậu mời đã đến.

Lý phủ, người trên kẻ dưới đều tất bật quay quanh Thanh Lôi, bàn tính nên vận trang phục thế nào, dùng đồ trang sức gì, trang điểm ra sao. Lý tướng đã dặn, bữa tiệc này hết sức đặc biệt, không thể ăn vận giản dị, nhưng cũng không được quá hào nhoáng cầu kỳ. Lý tướng định vời một sư phụ may y phục nổi tiếng nhất Phong thành của phường Ngọc cẩm đến tận nhà cắt may y phục cho Thanh Lôi. Sau lại nghe tin các nhà khác hầu như cũng mời vị sư phụ này, nên lại thôi. Đang lúc bối rối, nhị phu nhân, ngũ phu nhân, lục phu nhân lại mủm mỉm cười, bê ra một bộ y phục lộng lẫy, nói đó là chút lòng của ba người.

Giở ra xem, chất liệu bằng lụa hương la, có thêu những bông hoa mai Thanh Lôi yêu thích nhất bằng những sợi chỉ tơ óng ánh, trong nhụy mỗi đóa hoa đều đính một hạt đá hồng bảo. Không đặc biệt hào nhoáng nhưng tỏa sáng rực rỡ dưới ánh dèn. Thanh Lôi mặc lên người rất mực yểu điệu phú quý, kiều diễm vô song. Lý tướng mừng đến độ mấy ngày liền lần lượt đến phòng các phu nhân kia để tỏ ý khen ngợi.

Thất phu nhân đưa đồ trang sức gia truyền cho Thanh Lôi đeo. Tứ phu nhân sợ mình lạc hậu, cẩn thận vẽ mấy kiểu trâm cài để Thanh Lôi tham khảo.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

15#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 08:14:37 | Chỉ xem của tác giả
Trở về Đường viên, thất phu nhân cười nói với A La: “Con có muốn ngày mai đẹp hơn đại tỷ không?”. A La xua tay: “Con còn đang tiếc không được hóa trang theo kiểu a hoàn lần nữa để nâng váy cho đại tỷ. Mẹ à, chúng ta cũng nên làm chút gì, nếu không cha và mấy phu nhân kia sẽ không vui. Lúc này không nên làm bất cứ chuyện gì để ông ấy nghi ngờ”.

Thất phu nhân cười, nói: “Đương nhiên rồi, những gì cần làm mẹ sẽ làm”. Thất phu nhân tự tay chải đầu đeo đồ trang sức cho Thanh Lôi theo mẫu vẽ đã chọn. Dưới bàn tay khéo léo của thất phu nhân, khi Thanh Lôi bước ra, mọi người trong Lý phủ đều ngây người sửng sốt. Thái tử phi lý tưởng có lẽ nên có dáng vẻ như Thanh Lôi, đoan trang quý phái mà vẫn yểu điệu dịu dàng. Khuôn mặt trái xoan của Thanh Lôi như tỏa hào quang, A La nghĩ, một Thanh Lôi như thế này cũng xứng với phong độ của thái tử. Không biết Cố Thiên Lâm và Vương Yến Hồi trang điểm thế nào, nàng quả thật rất hiếu kỳ.

Để làm nền cho nhân vật chính, Thanh Phỉ và Thanh La không trang điểm nhiều, chỉ đủ xứng với thân phận, cũng xiêm y mới, đồ trang sức mới. A La ngồi trước gương nói với thất phu nhân: “Mẹ à, không nên chải hất mái bờm của con, cứ để như mọi ngày là được”.

Thất phu nhân thở dài: “Tam Nhi, mẹ rất muốn trang điểm cẩn thận cho con”.

A La cười: “Sau này còn nhiều cơ hội, hôm nay không được. Con cũng muốn xem mình trang điểm tử tế trông sẽ thế nào. Mẹ của con đẹp thế này, A La có lẽ cũng không đến nỗi nào đâu”.

Thất phu nhân đột nhiên trở nên trẻ trung: “Mẹ thử trang điểm cho con, sau đó lau đi cũng được, để chúng ta tự ngắm thôi mà”.

A La cười hi hí: "Gọi Tiểu Ngọc ra cửa canh chừng, nhỡ có ai vào”. Hai người nhìn nhau cùng cười.

A La nghĩ đến đêm dạ hội với bạn bè ngày nàng mới vào đại học, cả khu ký túc nữ bận tíu tít, ai cũng thử váy áo, son phấn, trang điểm, náo nhiệt vô cùng. Bây giờ bọn họ, người ra nước ngoài, kẻ lấy chồng, có lẽ đều sống rất tốt. Đột nhiên nghĩ đến cha mẹ, bảy năm rồi, có lẽ họ cũng đã quen cuộc sống không có mình. Nghĩ vậy, hai hàng nước mắt ứa ra. Thất phu nhân thấy vậy thở dài hỏi: “Tam Nhi, con khóc ư?".

A La vội lau nước mắt: “Không có gì, chỉ không muốn đi dự tiệc mà vẫn phải đi”. Nói đoạn nhìn vào gương, sửng người. Sau khi chải hất mái bờm, vầng trán trong ngần, rờ rỡ tỏa sáng của nàng lộ ra hoàn toàn, một khuôn mặt hoàn mỹ như tạc bằng ngọc, cặp mắt to, rạng ngời long lanh ngấn nước. Khuôn mặt vẫn còn nét thơ trẻ nhưng đã lay động vô ngần, nàng không nén nổi giơ tay chạm vào người trong gương.

Thất phu nhân lại thở than: “Tam Nhi, bây giờ con đã khiến người ta nhìn không muốn rời, mấy năm nữa sẽ thế nào, đẹp quá cũng không phải chuyện hay”.

“Cho nên vừa rồi con mới bảo mẹ cứ để mái bờm che nửa mặt, con không muốn là hồng nhan bạc phận, rất khổ”. Nói xong lè lưỡi, khuôn mặt trong gương sinh động hẳn lên. A La nhìn mãi, quay đầu nói với thất phu nhân: “Mẹ à, sửa đi nào”.

Thất phu nhân chải lại đầu giúp nàng, hỏi: “Tam Nhi, sau này con muốn tìm một phu quân như thế nào?”.

A La ngẫm nghĩ, đáp: “Ít nhất cũng không phải là người thích con chỉ vì khuôn mặt này. Sau đó, là người có thể bảo vệ con, chỉ có một mình con, và không có quá nhiều phép tắc. À, có lẽ yêu cầu này quá cao rồi, ở đây không có đâu. Nhưng bây giờ con vẫn chưa nghĩ nhiều, giờ đây cả ngày con chỉ nghĩ một điều, làm sao không bị người ta ức hiếp là tốt rồi. Con sợ nhất là chết, động tý là chém đầu, đúng là xã hội phong kiến vạn ác”.

Thất phu nhân băn khoăn hỏi: “Xã hội phong kiến? Là cái gì thế?”.

A La cười: “Chính là cái đất nước này, mọi thứ xung quanh. Đại khái là như thế”. Nàng cười thầm, không thể dùng những từ ngữ hiện đại, kẻo lại phải giải thích mệt lắm.

Sau khi chải đầu, thay trang phục, A La lại ăn khá nhiều đồ ăn vặt, thấy sắp đến giờ, mới cùng đại phu nhân, Thanh Lôi, Thanh Phỉ lên xe ngựa vào cung dự tiệc.

Văn hào Victor Hugo đã từng miêu tả nhà thờ Đức bà Paris là một dàn nhạc giao hưởng bằng đá đồ sộ, kiến trúc là âm nhạc lắng đọng, mỗi phiến đá được lắp ghép tinh tế tạo nên kiến trúc đều là một âm phù tuyệt diệu, những tổ hợp kết phối khác nhau tấu nên những khúc nhạc khác nhau. Trình Tinh từng đến Cố cung ở Bắc Kinh, Cố cung ở Thẩm Dương, cung điện Bangkok ở Thái Lan, bảo tàng Louvre của Pháp, cũng đã nhìn thấy trường quay mô phỏng Tần cung, Hán cung, nhưng nhìn thấy vương cung Ninh quốc xây dựa vào núi lúc này vẫn không khỏi kinh ngạc thán phục. Từ quảng trường mênh mông dưới chân núi nhìn lên, cổ ngửa hết cỡ, mà dường như vẫn không thể nhìn hết vương cung trên núi.

Người sống trên đó, lên xuống không mệt hay sao? Nàng hỏi đại phu nhân: “Mẹ cả, vương cung nơi cao nhất là bao nhiêu? Người lên xuống núi liệu có mệt lắm không? Hơn nữa hình như lại còn có tuyết”.

Đại phu nhân nhìn nàng: “Cao nhất là lãnh cung, người trong đó khỏi cần xuống núi. Bây giờ nói cho các con biết, để các con vào cung không chạy lung tung. Kim điện chỗ vương thượng nghị sự tọa lạc dưới chân núi, lên một chút thực ra là một khe núi, hậu cung đều ở đó, chỉ hơi cao hơn một chút. Lên chút nữa là khu lưu trữ thư tịch, giặt giũ trang phục của vương cung, tiếp đến là ty tông nhân và lãnh cung, đỉnh của dãy Ngọc Tượng chính là hoàng lăng. Ngự hoa viên ở khe núi hơi chệch về phía tây nam, hôm nay hoàng hậu nương nương mở tiệc ở đó. Ngự hoa viên rộng vô chừng, các con nhất định không được chạy lung tung, đề phòng lạc đường gây họa, nhớ chưa?”.

Ba cô gái vội đáp: “Rõ ạ”.

Vào cửa cung, tất cả chuyển sang kiệu nhỏ. A La lén vén rèm nhìn ra, bầu trời một màu lam xám đang dần tối. Trong vương cung đèn thắp sáng như ban ngày. Đến cổng ngự hoa viên, mọi người xuống kiệu, A La kinh ngạc phát hiện mặt đường nhấp nháy phát sáng, giống như đèn ngầm dưới mặt đường thời hiện đại. Nàng lén lùi lại một chút, nhìn quanh không ai để ý, nhanh tay cúi xuống sờ, toàn là đá. Thầm nghĩ chắc là được lát bằng loại đá lân tinh, phát sáng mà không chói mắt, nàng bất giác thầm khen Ninh quốc đúng là biết hưởng thụ. Nhìn ra xa, toàn bộ ngự hoa viên như chìm trong biển ánh sáng.

A La nheo mắt, bỗng nhận ra những con đường trong vương cung tạo nên hình chim đại bàng. Khách được dẫn đến vị trí đã định dành cho từng phủ, nàng vừa nhìn hình họa thì phát hiện chỗ họ ngồi vừa đúng bộ phận đầu chim. Vừa rồi họ từ phía móng vuốt đại bàng tiến vào. Vậy hai bên đông tây đương nhiên là phần cánh chim. Đầu đại bàng rộng như vậy, hai cánh giương lên, ngự hoa viên thực sự rộng khủng khiếp.

Nhìn các cung nữ đi đi lại lại, A La thầm nghĩ, tỳ nữ mà đại phu nhân mang theo hôm nay là người khác, không phải Quyên Nhi. Lâu lắm không thấy Quyên Nhi, không biết vẫn ở chỗ đại phu nhân hay đã đi đâu, đành phải trông chờ vào mệnh của Quyên Nhi vậy. Nàng thở dài, một lần nữa tự nhắc mình phải thận trọng từng lời ăn tiếng nói, nếu không muốn rước họa vào thân.

Lúc này tân khách được mời đã lục tục kéo đến. Đối diện với bàn của A La có lẽ sẽ là chỗ của phủ Cố tướng. Ghế bên cạnh nàng có một thiếu nữ chừng mười mấy tuổi đang ngồi một mình trên ghế, thần thái ung dung, khuôn mặt nhìn nghiêng rất xinh đẹp, A La thầm đoán có lẽ là Vương Yến Hồi?

Hình như cảm thấy có người nhìn, cô nương đó nghiêng mặt nhìn A La mỉm cười, hai mắt lóe sáng. A La cũng cười tươi đáp trả, ánh mắt gặp nhau, bất chợt thấy chột dạ, có cảm giác hình như nàng ta nhìn thấu suy nghĩ của mình.

Thanh Lôi khẽ hắng một tiếng, thiếu nữ ngoảnh nhìn về phía đối diện, A La cũng ngoái đầu theo, đúng lúc nhìn thấy Cố Thiên Lâm đang dìu mẫu thân đi vào. A La suýt bật cười, Thanh Lôi và Cố Thiên Lâm đúng là kỳ phùng địch thủ, Thanh Lôi đêm nay đoan trang quý phái, Cố Thiên Lâm lẽ nào không thế. Hai người trang điểm gần giống nhau, chỉ có màu sắc y phục của Cố Thiên Lâm nhạt hơn, của Thanh Lôi đậm hơn. Y phục của Thanh Lôi thêu hoa mai, dưới ánh đèn, những hạt đá quý lóng lánh phát sáng, cả người cũng tỏa hào quang. Lại nhìn Cố Thiên Lâm, những đường chỉ thêu trên y phục hình như hơi đặc biệt, chúng phát ra ánh sáng rực rỡ giống như ánh lân tinh trong hoa viên. Lại nhìn Vương Yến Hồi, y phục không có gì đặc biệt, trên cổ đeo chuỗi ngọc minh châu quý giá, làm cho khuôn mặt có một vẻ dịu hiền đặc biệt.

Nếu trên đầu mỗi người có một ngọn đèn xạ quang thì tốt, giống như những quầng ánh sáng trên sân khấu. A La đột nhiên nghĩ đến Đức mẹ đồng trinh Maria, cúi đầu nén cười.
Nội thị hô: “Vương thượng, hoàng hậu giá đáo!”.

Khách vội rời khỏi chỗ quỳ sụp xuống, hô vạn tuế. Lúc đã yên vị, A La lén nhìn lên phía trước, Ninh vương tuổi trạc ngũ tuần, dung mạo rất giống thái tử, thời trẻ chắc cũng là một trang tuấn kiệt. Hoàng hậu đầu đội vương miện, xấp xỉ tứ tuần, dung mạo phóng khoáng, tầm vóc trung bình.

Thái tử đứng bên Ninh vương. Mắt đang nhìn về phía này, A La liếc sang bên, thấy mặt Thanh Lôi đỏ bừng, cúi đầu, rồi lại ngẩng lên, đã nhanh chóng trao cho thái tử ánh mắt e thẹn. A La thấy miệng thái tử mủm mỉm cười nụ.

Ninh vương nói: “Hôm nay hoàng hậu mở yến, quả nhân cũng chỉ là khách, xin mời hoàng hậu chủ trì”.

Hoàng hậu không từ chối, tạ ơn rồi nói: “Trung thu trăng tròn, rất hợp để thưởng lãm. Hôm nay chỉ cầu vui, không nói chuyện gì khác. Đã sớm mời các tiểu thư quý phủ chuẩn bị trổ tài, lúc này xin mời thể hiện mới không phụ một đêm đẹp thế này”.

Hai người họ đã thương lượng với nhau rồi. Hoàng hậu đưa ra trò chơi, cha con hoàng đế xem diễn để so sánh. A La nghĩ, trò hay sắp bắt đầu rồi đây. Lúc đó cung nữ đứng sau hoàng hậu bước ra dõng dạc tuyên: “Hôm nay nữ tài hội tụ, kính thỉnh chư gia đại diện lên bốc thăm tiết mục biểu diễn, hoàng hậu đã có chỉ, bất luận hay dở đều có thưởng, mỗi bàn lại có phiếu hoa, chư vị cô nương biểu diễn xong, tân khách có thể bình chọn anh tài, theo số phiếu hoa sẽ bình ra ba vị nữ tài đầu bảng”.

A La thầm kêu, đúng là cuộc thi nữ sinh thanh lịch thời cổ đại, mình trở thành giám khảo quần chúng rồi.

Ninh vương cười: "Quả nhân, hoàng hậu và các vị hoàng thân đều có phiếu bầu, chỉ được bầu một phiếu. Chư vị cân nhắc kỹ hãy bỏ phiếu!”. Lúc đó thấy bóng người đứng phía sau Ninh vương cười nói: “Tuân chỉ".

A La cố nhìn mới phát hiện, trên mỏ đại bàng còn mấy chiếc bàn có người ngồi, nhưng bị cây cảnh che khuất, không nhìn rõ, chỉ có thái tử ngồi phía trước Ninh vương và hoàng hậu.

Lát sau, có vị nữ quan cầm hòm hoa đến các bàn để cho các nhà bốc thăm. Đại phu nhân thò tay lấy một tờ, cung nữ ghi lại số phiếu.

Đại phu nhân dè dặt mở ra xem, trong đó viết: Nói gieo vần. Đại phu nhân sững người, đề gì thế này? Cau mày hỏi: “Thanh Lôi, cái này con phải suy nghĩ kỹ”.

A La nghĩ, chuyện này quá đơn giản, chắc là muốn thử xem miệng lưỡi Thanh Lôi có linh hoạt không. Nhìn xung quanh, biểu hiện mỗi người một kiểu, có người phấn khởi ra mặt, có người thất vọng cau mày.

Lát sau, thấy hoàng hậu nói nhỏ gì đó với cung nữ, cung nữ dõng dạc nói: “Kính thỉnh nhị vị cô nương phiếu hoa số ba và số bảy lên phía trước”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

16#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 08:15:45 | Chỉ xem của tác giả
Cố Thiên Lâm từ từ đến trước ngự tiền hành lễ. Cung nữ lại nói: “Phiếu số ba là của Cố tướng thiên kim, đầu đề là vừa nhảy múa vừa vẽ tranh. Phiếu số bảy là của thiên kim Cao thượng thư, đầu đề là chơi khúc đàn “Vũ đả ba tiêu”. Yêu cầu Cố tiểu thư vừa nhảy múa vừa vẽ tranh, sao cho bước vũ phải hòa nhịp với điệu khúc, yêu cầu đối với Cao tiểu thư là tiếng đàn phải tương hòa với tranh vẽ của Cố tiểu thư, khúc đàn vừa dứt thì tranh cũng phải hoàn thành”.

Mọi người sửng sốt, nếu hai vị tiểu thư phối hợp không tốt, thì hỏng bét. Đề ra như vậy có vẻ như muốn xem các giai nhân làm trò cười.

Chợt thấy ngón tay Cao tiểu thư lay động, tiếng đàn tựa châu ngọc tuôn rơi, liên miên không dứt, Cố Thiên Lâm nga ngẩn giây lát, ống tay vừa vung lên, bước nhảy rất chậm. Vung lần nữa nhịp cũng không khớp với tiếng nhạc, thân người bắt đầu uốn nhịp nhanh hơn, một tay nhanh chóng bắt đầu vẽ tranh trên giấy họa. Nhưng tiếng nhạc mỗi lúc một mau. Cố Thiên Lâm soạt soạt vài nét, bước chân múa gấp gáp. Chiếc váy trên người cuốn thành đóa hoa, những đường thêu lóng lánh phát quang vô cùng đẹp mắt.

Bên này những ngón tay Cao tiểu thư vẫn lướt trên phím đàn, thấy Cố tiểu thư vẫn chưa vẽ xong, nhận ra khúc nhạc của mình sắp hết, vậy là đành chơi chậm lại, khúc “Vũ đả ba tiêu” cảnh vườn chuối trong mưa lúc này chỉ còn từng giọt mưa rớt trên tàu lá. Xung quanh bắt đầu nổi lên tiếng cười.

Cố Thiên Lâm do chậm hơn, lại vẫy nhẹ ống tay, thong thả uốn mình, tay vẫn chầm chậm hoàn thành bức họa, đoạn liếc nhìn Cao tiểu chư, mỉm cười hạ nốt nét bút cuối cùng. Cao tiểu thư mới vội vàng đánh cả mười ngón tay, những giọt mưa biến thành con mưa rào rào trên tàu lá, kết thúc khúc nhạc.

Hai cô nương lui về chỗ ngồi. A La liếc nhìn bức họa của Cố Thiên Lâm, trong đó chính là cảnh vườn chuối trong mưa, tuy những tia nước hơi rối một chút, nhưng vẫn là bức họa tuyệt vời. Bất giác thầm khâm phục thiếu nữ cốt cách như lan mà trí thông tuệ này.

Cung nữ lại tuyên: “Kính thỉnh phiếu hoa số bốn và số sáu”.

Lần này là Thanh Lôi và thiên kim của Trần thượng thư. Trần tiểu thư gieo vần, số câu tăng dần. Nàng ta nói một câu Thanh Lôi nói lại một câu, đọc xong Trần tiểu thư sẽ phải đọc thuộc lòng từ đầu chí cuối, Thanh Lôi bắt chước đọc lại, không được sai, không được lẫn.

Lần này biểu diễn của hai tiểu thư rất xuất sắc, bây giờ A La mới phát hiện thì ra Thanh Lôi có khẩu tài tốt như vậy.

Lại một vòng nữa, Vương Yến Hồi đứng lên, nhưng chỉ có một mình. Đề bốc được là thiết kế một trò chơi, để mọi người cùng tham gia. Vương tiểu thư cười nói: “Liệu có thể cho vài cung nhân phụ giúp tiểu nữ?”.

Hoàng hậu gật đầu, cung nữ tiến đến trước mặt Vương Yến Hồi, nghe phân công xong liền tản đi. Vương tiểu thư nói, chất giọng trong trẻo vô cùng: “Yến Hồi thấy ngự hoa viên đêm mà sáng như ban ngày, đường đi lại chằng chịt ngoắt ngoéo, nhưng cuối cùng đều trở về chỗ này. Giờ đã sai cung nữ để câu đố ở các ngã rẽ, quý vị nào đoán trúng sẽ biết lộ tuyến tiếp theo, điểm xuất phát và điểm cuối cùng đều ở đây, quý vị nào không đoán ra cũng có thể tự thưởng lãm cảnh đẹp rồi trở về. Quý vị thắng cuộc là người có nhiều sơ đồ lộ tuyến nhất, trò chơi này một là được thưởng thức phong cảnh, hai là được giải câu đố, thêm phần thú vị, không biết nương nương thấy thế nào?”.

Hoàng hậu còn chưa kịp mở miệng, Ninh vương đã phấn khởi cưới lớn: “Tốt, đề này ra rất tuyệt, hoàng hậu có muốn cùng quả nhân tham gia?”.

Hoàng hậu cười: “Nếu hoàng thượng giải được ít câu đố nhất, thần thiếp sẽ không đi theo người nữa!”.

Ninh vương cười khà khà dắt tay hoàng hậu đi trước, mọi người tới tấp đứng dậy đi vào vườn hoa.

Đại phu nhân cười, nói: “Chúng ta có bốn người, tất cả hợp lực, nghĩ cũng không khó”. Lập tức cùng ba cô gái đi vào hoa viên.

A La đã quyết, lần này đánh chết cũng không mở miệng. Vào hoa viên, cây cối được đèn chiếu sáng choang, mặt đường ánh lân tinh nhấp nháy, cả hoa viên giống như một mê cung. Nếu không thuộc đường, muốn vãn cảnh trở về như Vương Yến Hồi nói, e rằng cũng khó. Nếu bị bỏ sau mọi người thì sẽ rất khó coi.

A La vừa đi vừa quan sát, đi một lát đến một ngã ba, đã có cung nữ đứng chờ, đại phu nhân bước lên rút một câu đố, mở ra đọc, Thanh Lôi đã nói ngay đáp án. Cung nữ cúi chào, lại đưa sơ đồ lộ tuyến tiếp theo. Đại phu nhân nhận lấy, tất cả lại đi về phía trước. Đến khi qua hai, ba ngã tư, A La phát hiện nhiều quan khách đã quay trở lại không đi tiếp nữa. Bụng nghĩ có lẽ họ sợ trở về muộn, chỉ cần được vài sơ đồ lộ tuyến trong tay là được rồi.

Đại phu nhân cũng thấy như vậy, lại nhìn Thanh Lôi, Thanh Lôi mỉm cười: “Mẹ cả à, không vào hang cọp sao bắt được cọp con, muốn vượt qua người khác, phải đi tiếp thôi”.

Đại phu nhân nói: “Mẹ nghĩ Cố gia thiên kim và Vương gia tiểu thư có lẽ cũng nghĩ như vậy, nếu giữa đường bỏ về, thái tử sẽ coi thường chúng ta”.

Bốn người lại đi tiếp, đến một chỗ, đọc câu đố nhưng không sao giải được, cung nữ lại cúi chào nói: “Phu nhân và tiểu thư là người đầu tiên đến được chỗ này”. Ý nói họ đã vượt qua nhiều người khác.

Đại phu nhân cười nói: “Được rồi, ta quay về thôi”.

Sau khi bốn người quay lại, nhưng chưa đi qua được hai ngã rẽ đã thấy khó khăn. Lộ tuyến lúc đến chỉ ghi nên đi về phía trước, nhưng ngã rẽ lúc này xuất hiện mấy ngả. Nhìn dấu đánh trên bản đồ cơ hồ đều là đường về. A La chỉ biết điểm đích là vị trí đầu con đại bàng, nhưng sau khi đi vào phần thân và cánh mới biết vườn quá rộng, nàng cũng không tìm được phương hướng. Bốn người đều không biết làm thế nào, đại phu nhân nghĩ hồi lâu, nhớ ra con đường lúc đi. Nhưng đi về phía trước một đoạn, lại thấy một ngã ba, đại phu nhân đành dẫn các con đi theo cảm giác, nhưng quanh co một hồi, vẫn không tìm ra đường về.

Trước mặt có bốn con đường, đại phu nhân lập tức quyết định mỗi người đi một ngả. Thanh Lôi phản đối: “Đi riêng lẻ như vậy nếu vẫn không tìm được đường về thì làm thế nào?".

Đại phu nhân trợn mắt: “Chỉ cần nhìn thấy thị vệ, chúng ta sẽ nhờ họ chỉ đường”.

Vậy là mỗi người đi một đường.

A La ngẩng đầu nhìn sao trời, sao Bắc Đẩu rực rỡ, ánh trăng trong vắt như nước, cây cối, hoa cỏ lay động, mùi hương bảng lảng đâu đây, kỳ ảo như tiên cảnh. Nàng bắt đầu hình dung lại con đường lúc đến, lại nhìn sao trời, đoán phương hướng, quyết định đi về phía trước. Vừa rẽ qua một khúc quanh, nhìn thấy một bóng người dáng cao thanh tú đứng phía trước. A La tim đập thình thình, máu như đông lại, vừa định thần, cúi đầu, quay người trở lại đường cũ, thì đã nghe thấy tiếng Lưu Giác hỏi: “Cô nương lạc đường phải không?”.

Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

17#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 08:17:04 | Chỉ xem của tác giả
A La không dám trả lời, vội vàng đi thẳng. Tiếng gió bạt bên tai, bóng người đã lại đứng trước mặt nàng. A La cúi đầu thật thấp.

Lại vẫn tiếng Lưu Giác: “Nàng là thiên kim nhà ai, lạc người nhà phải không?”.

A La nén giọng nói gọn lỏn, “Phải”. Lưu Giác nói: “Đi theo ta. Nàng đi đường này không đúng”.

Có lẽ chàng ta tưởng nàng xấu hổ. A La lại nén giọng nói: “Cô nam quả nữ đi cùng không tiện, công tử chỉ đường là được”.

Lưu Giác “À” một tiếng, nói: “Nàng đi theo hướng lúc ta đến, gặp ngã ba thì rẽ phải, đi qua ngã ba thứ ba lại đi thẳng, đến đó có thể nhìn thấy người rồi”.

A La vội cúi chào, lí nhí cảm tạ, vội đi theo hướng chàng ta chỉ, chỉ sợ bị nhận ra. Đi một lát, đang định thở phào, lại thấy tiếng Lưu Giác: “Cô nương, xin dừng bước”.

A La muốn khóc, trời sắp hại mình rồi, sao lại để mình đi đúng đường này, gặp hắn ta rồi ư? Lòng bấn loạn, tay đã nắm thành nắm đấm, chân dừng lại, đầu vẫn cúi. Lưu Giác hỏi: “Cô nương, trên đường có gặp Cố tiểu thư không?”.

A La lắc đầu, thấy Lưu Giác hình như có chút thất vọng thở dài, lại cắm cúi bước. Lúc này Lưu Giác không đi theo nữa, vừa rồi nàng sợ hút chết. Lưu Giác đi tìm Cố Thiên Lâm sao? Nàng ta vẫn chưa quay về ư? Có phải hắn ta có tình ý với Cố gia thiên kim? A La nhớ lại trong Đào hoa yến, hắn ta đã tặng hoa cho Cố Thiên Lâm. May mà Lưu Giác không có ý với mình, Diêm Vương này mình tuyệt đối không được dây dưa. Nàng thở một hơi, bây giờ phải nhanh chóng quay trở về, không biết đại phu nhân và hai tỷ đã về chưa.

Đi theo đường Lưu Giác vừa chỉ, quả nhiên lát sau đã nhìn thấy cung nữ. A La vội nói với cung nữ, Cố phu nhân và hai tiểu thư có thể vẫn còn trong hoa viên. Cung nữ cười tươi roi rói: “Tiểu thư đừng ngại, có người dẫn họ ra khỏi ngự hoa viên rồi”.

Trở về bàn tiệc, nhìn thấy đại phu nhân đang nói chuyện với hai tỷ, A La bèn đi đến đó. Thấy nàng đã quay về, đại phu nhân cũng rất mừng, bà vẫn sợ A La đi nhầm đường gây ra chuyện. Một lúc lâu sau A La mới nhìn thấy Cố Thiên Lâm quay trở lại, Lưu Giác không đi cùng, không biết anh chàng có gặp nàng ta không. A La nhìn Cố Thiên Lâm, đột nhiên nghĩ, Lưu Giác thích nàng ta, vậy mà nàng ta lại đi tranh giành ngôi thái tử phi, quan hệ phức tạp quá.

Cung nữ lục tục dẫn khách trở về. Một lát sau, nghe tiếng nữ quan tuyên: “Người chiến thắng trong trò chơi đoán đường trong ngự hoa viên này là Lý tướng phu nhân và thiên kim”.

Hoàng hậu cười, nói: “Lý phu nhân và thiên kim cơ mưu hơn người, mời lên lĩnh thưởng”.

Lý phu nhân sung sướng kinh ngạc dẫn ba cô gái đến trước ngự tiền hành lễ lĩnh thưởng. Nghe thấy hoàng hậu hỏi: “Được nghe, Thanh Lôi ngón đàn cao minh, Thanh Phỉ giỏi thư họa, nhưng chưa biết gì về tài của tam tiểu thư”.

Đại phu nhân vội đáp: “Thanh La còn nhỏ, chưa bằng hai chị, đây là lần đầu vào cung”.

Hoàng hậu cười: “Ngẩng đầu để ai gia nhìn nào!”.

A La vội quỳ xuống, ngoan ngoãn từ từ ngẩng đầu. Hoàng hậu chỉ thấy nửa khuôn mặt và chiếc cằm nhọn, cảm thấy tam tiểu thư của Lý gia không như Thanh Lôi và Thanh Phỉ vừa nhìn đã thấy ngay là mỹ nhân. Bèn hỏi: “Ở nhà Thanh La học gì?”.

A La đành trả lời: “Tiểu nữ vừa học thổi sáo mấy ngày, vẫn chưa thành thạo”.

A La ngẩng đầu, vừa dứt lời, trong mấy bóng người khuất sau lưng Ninh vương có người “ồ” một tiếng. Nàng giật nảy mình, giọng này hơi quen, là ai thế? Lưu Giác sao? Nàng lại càng sợ hãi vội cúi đầu.

Hoàng hậu đang muốn tìm điểm yếu nào đó của Lý gia. Trò chơi giải đố này là do Vương Yến Hồi đưa ra, khiến ngay cả Ninh vương cũng vô cùng hứng thú, tân khách hồ hởi tham gia, nhưng người thắng cuộc lại là Lý Thanh Lôi. Nghe Thanh La nói, mới học thổi sáo ít ngày, bình thường cũng không nghe nói tam tiểu thư của Lý phủ có tài cán gì, bèn nảy ra một ý định, nói: “Đứng lên đi, thổi một khúc cho ai gia nghe nào”.

A La nhẹ giọng vâng lời, đầu rối như tơ: Nên thổi hay, hay là thổi dở? Lúc này đại phu nhân và hai tỷ đã quay về chỗ, cung nữ mang cây sáo đến. A La đứng dậy, khi đại phu nhân đi ngang qua nàng đã nói nhỏ: “Không được để tướng phủ mất mặt”. A La thầm nghĩ, không hay không dở vậy, chỉ cần ứng phó là được.

Nghĩ vậy, nàng bình thản thổi một khúc, thổi xong cầm sáo đứng đó. Chỉ thấy hoàng hậu buông một câu: “Xem ra thiên kim Lý tướng cũng không xoàng, ai cũng tuyệt nghệ vô song, cho ngươi lui”. A La vội cúi đầu lùi ra. Đại phu nhân lườm nàng, nói nhỏ: “Sao không học hành cho tử tế, về nhà ta hỏi tội!”.

Coi như là xong, đằng nào cũng không nên làm con chim đầu đàn! A La thầm nhủ.

Cuộc thi tài trong dạ yến kết thúc. Đội ca vũ trong cung bắt đầu biểu diễn. Lúc đó cung nữ mới đi thu các phiếu hoa bình chọn. Lát sau, Ninh vương vẫy tay ra hiệu nhạc dừng, mỉm cười vui vẻ: “Phiếu hoa đã thống kê xong, ba người đầu bảng là Cố tướng thiên kim, Lý tướng thiên kim và Vương thái úy thiên kim, quà thưởng sẽ đưa đến các phủ".

Ba tiểu thư đứng dậy đến trước ngự tiền tạ ơn. Mặt đại phu nhân lúc đó mới từ sầm sì trở thành tươi cười như hoa nở.

Ngồi xem múa hát một lát, Thanh Lôi đột nhiên đỏ bừng mặt, cúi đầu nói nhỏ với Lý phu nhân. Đại phu nhân mỉm cười: “Bảo A La đưa con đi”.

A La ngẩn người: “Mẹ cả, con...”.

“Bảo đi thì đi nhanh lên”. Đại phu nhân vẻ sốt ruột.

A La thở dài đứng lên, nàng không muốn ra ngoài, sợ nhỡ gặp Lưu Giác. Họ cùng đi ra, cung nữ dẫn đường đưa họ vào một động có cửa hình bán nguyêt, chỉ chiếc lều phía xa, Thanh Lôi bèn đi vào, A La đứng ngoài chờ. Lát sau Thanh Lôi đi ra, hai người quay trở lại bàn tiệc, đang đi, bỗng thấy thái tử đứng bên đường. Thanh Lôi nhìn Thanh La, thái tử cũng nhìn Thanh La. A La nghĩ, hai người có lẽ đã hẹn trước, kéo mình theo làm bình phong đây, vậy là tươi cười nói với Thanh Lôi: “Đại tỷ, muội về trước”.

Thanh Lôi vội gọi lại: “Chúng ta cùng về”.

A La nghĩ, sao mà xúi quẩy thế, không cho về, để mình đi đâu đây? Không còn cách nào đành nhận lời: “Muội ra phía kia ngắm trăng, lúc nào về gọi muội”.

Thanh Lôi đỏ mặt gật đầu, A La vòng qua con đường nhỏ, nhìn thấy dãy hành lang, liền đến đó ngồi. Lòng thầm mong hai người nói chuyện nhanh nhanh, yến hội nhanh kết thúc, nhất định không nên gặp Lưu Giác, nhất định không để cho hắn ta nhận ra mình. Đang nghĩ, đột nhiên toàn thân tê dại, người dựa vào cột, không thể động đậy, há miệng cũng không nói được, A La kinh ngạc, sao lại thế này?

Một người từ phía sau vòng lên trước mặt, chính là Lưu Giác. A La toàn thân lạnh toát, thầm rên, hỏng rồi. Oan gia ngõ hẹp sao lại gặp đúng người của vương cung? Ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, bị chém đầu chẳng chơi! A La nhìn Lưu Giác, hoảng hốt. Thấy chàng ta ngồi xuống cạnh mình, mặt đầy phấn khích: “Thì ra là tam tiểu thư của Lý tướng gia, cuối cùng ta đã tìm được”.

A La lúc này chỉ có thể ngồi nhìn chàng ta. Đúng là tránh một ngày, không tránh được cả tháng, càng muốn tránh xa các công tử hoàng gia thì họ càng sáp lại.

Đột nhiên Lưu Giác ghé mặt lại gần, nhìn thẳng vào mắt A La một lát, rồi ngoảnh đầu ra, chép miệng “chà chà”: “Chính là đôi mắt này, không sai”. Tiếp đó là giọng nói gay gắt: “Để ta tìm mãi! Hừ, dám ra tay với tiểu vương gia, cảm giác bị điểm huyệt thế nào?”.

A La hốt hoảng nhìn chàng ta không nói câu gì. Lưu Giác lại tiếp: “Muốn nói phải không? Có điều, ta phải nhắc ngươi trước, đừng có hô hoán ầm ĩ, kinh động thánh giá”. Nói xong hơi giơ tay ra.

A La mở miệng: “Ngươi định thế nào?”.

Lưu Giác nghiêng đầu nghĩ một lát: “Tạm giữ cô nương ở đây hai canh giờ, huyệt đạo giải xong cô lại quay về được chứ?".

A La hoảng hốt: “Hôm nay không được, đây là hoàng cung, lần trước là ta sai, huynh là đại nhân nên rộng lượng, giơ cao đánh khẽ được không?”. Kịp thời nhận định tình hình mới gọi là đầu óc thông minh, chỉ có ngu ngốc mới cứng cổ giơ đầu chịu báng.

“Dựa vào đâu? Đánh ngất người lại còn cướp ngân lượng, làm gì có chuyện như thế!”.

Gã công tử nhà giàu hống hách bị ta đánh ngất trói gô, lại cướp ngân lượng là đáng đời! Bây giờ A La không thấy hối hận nữa, bụng rủa chầm, nhưng mặt vẫn tươi cười. Thanh Lôi đứng xa vẫy nàng, A La vội đáp: “Đại tỷ, muội đến ngay”. Thấy Lưu Giác không chịu giải huyệt cho mình, nước mắt trào ra nàng nói: “Ta phải về, nếu gây họa, cha ta đánh chết! Huynh lén ra tay với ta cũng không phải là anh hùng hảo hán, hay là hôm nào chúng ta tỷ thí lại?”.

Lưu Giác thấy nàng mặt đỏ gay, mắt ngấn nước long lanh, vẻ rất tội nghiệp, bật cười “khì” một tiếng. Tìm suốt nửa năm cuối cùng đã biết nàng ta là ai, nỗi phẫn nộ trong lòng đã vơi một nửa. Lại nghĩ đây là vương cung, liền giải huyệt cho nàng, nói với vẻ bề trên: “Chiều mai chờ tiểu vương gia ta ở ven sông phía nam thành”.

A La chạy như bay đến chỗ Thanh Lôi, bụng nghĩ chuyện ngày mai, để mai tính, hôm nay nhất định mình phải về nhà bình yên, càng nghĩ càng thấy ghét Lưu Giác.

Lưu Giác nhìn theo bóng nàng, tâm trạng rất sảng khoái, như vớ được món đồ chơi mới mẻ thú vị, bắt đầu suy nghĩ ngày mai tìm trò hay gì để giỡn Lý Thanh La.

Thanh Lôi chờ đã sốt ruột, nhìn thấy A La chạy đến trợn mắt: “Chuyện hôm nay không được nói với ai! Nếu không thái tử sẽ không bằng lòng”. A La vội gật đầu. Hai người trở về bàn tiệc không lâu thì yến tiệc giải tán, đại phu nhân phấn khởi đưa ba cô gái quay về phủ.

A La kể cho thất phu nhân nghe chuyện trên bàn tiệc, tuyệt nhiên không đả động đến chuyện bị Lưu Giác nhận ra, sợ mẹ lo lắng. Khi lên giường, lại một mình trằn trọc suy nghĩ, ngày mai không thể không đi, có thể làm dịu nộ khí của Lưu Giác là tốt nhất, tránh để hắn ta suốt ngày đến tìm mình gây chuyện. Nàng rất hiểu kiểu người như Lưu Giác, càng đấu hắn ta càng hung hăng. Nghĩ mãi, rồi “hừ” một tiếng, đồ trẻ ranh!
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

18#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 08:18:16 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 7



Sáng sớm hôm sau, khi A La vừa ngủ dậy, đã văng vẳng nghe thấy tiếng tiêu từ rừng trúc vọng lại, nàng chợt nghĩ tới Tử Ly. Thực ra nàng đã không cảm thấy bực mình nữa, nghĩ kỹ lại, có người muốn giết chàng ta, chàng ta cẩn thận một chút cũng là bình thường. Không muốn qua lại với chàng ta là bởi vì cảm thấy Tử Ly thân thế quá bí hiểm, nàng sợ gây ra những chuyện khó cứu vãn. Bây giờ ngoài thất phu nhân, Tiểu Ngọc và vú Trương, nàng không biết có thể tin vào ai. Nghĩ đến lời hẹn với Lưu Giác, A La hơi buồn. Lúc đi vào rừng trúc mới đột nhiên phát hiện tiếng tiêu hôm nay sao gần thế? Vừa ngẩng đầu đã thấy Tử Ly đứng tựa vào thân trúc, thổi tiêu.

Thấy có người đến, Tử Ly dừng lại, quay đầu. A La sững người, theo phản xạ nàng muốn bỏ chạy.

Tử Ly hỏi: “Người dạy nàng thổi sáo là ai?".

A La ngớ người: “Mẹ ta”. Bụng nghĩ sao chàng ta biết mình biết thổi sáo? Chàng ta nhận ra mình rồi ư?

Tử Ly băn khoăn: “Người hàng ngày thổi sáo trong rừng trúc là ai?”.

A La nói bừa: “Mẹ ta”. Nàng càng nghi ngờ thân phận của Tử Ly, càng không muốn để chàng ta biết mình chính là Sơn đệ của chàng ta, cũng là người ngày ngày thổi sáo ở đây.

Tử Ly nhìn A La, như cười như không: “Nhìn thấy ta, nàng không hề giật mình, người thổi sáo là nàng đúng không?”.

“Đây là tướng phủ, ngươi tự tiện xông vào, không sợ bị giải lên quan phủ?”. A La không đáp, hỏi vặn lại.

Tử Ly cười: “Với thân thủ của ta, người còn chưa thấy đâu, ta đã cao chạy xa bay rồi. Thổi tiêu quanh đây đã lâu, ta không khỏi tò mò muốn biết người thổi sáo là ai, thì ra là tam tiểu thư của Lý phủ”.

A La giật mình, không dám nhìn chàng ta. Nàng chưa hỏi tại sao ngày nào Tử Ly cũng đến đây hòa tấu với một người không quen biết. Hơn nữa lại biết thân phận của nàng, cũng nhận ra nàng chính là người thổi sáo. Chàng ta tuyệt đối không đơn giản! Lúc này bên ngoài rừng trúc vang lên mấy tiếng sáo, đó là ám hiệu Tiểu Ngọc báo có chuyện, A La vênh mặt, nói: “Đã nhìn thấy rồi, còn không đi đi?”.

Tử Ly không nhúc nhích, khuôn mặt anh tú thoáng nụ cười: “Tại sao chúng ta không hòa tấu một khúc?”.

A La đầu óc đang bấn loạn, không biết nhà có chuyện gì, cũng không muốn tiếp chuyện chàng ta, vội buông một câu: “Nhà đang có việc, không nói với ngươi nữa”. Nói đoạn, vội bỏ đi.

Tử Ly hơi ngỡ ngàng, lại hơi băn khoăn. Bây giờ cuối cùng mình đã biết người thổi sáo là ai, sao nàng ta lại vội vàng bỏ đi như vậy. Chàng thở dài rồi nhảy qua tường.

A La vội chạy về nhà, thất phu nhân kéo nàng vào phòng, vừa đi vừa nói: “Thánh chỉ đến rồi, mọi người trong phủ ra tiếp chỉ”.

Đi vào đại sảnh, cả nhà đã có mặt đông đủ, một vị thái giám tay nâng thánh chỉ mở ra tuyên đọc.

A La quỳ bên cạnh thất phu nhân, cúi đầu, khi nghe thái giám đọc đến câu “Lý gia trưởng nữ Thanh Lôi, phẩm mạo đoan thục được chọn làm thái tử lương đệ(*).”, bỗng sững người, những người khác cũng ngơ ngác không hiểu. Thái tử lương đệ, là thiếp của thái tử sao? Liếc trộm Thanh Lôi, thấy mặt Thanh Lôi tái nhợt rồi xanh xám, cố kìm nước mắt.

Thái giám vừa đi khỏi, Thanh Lôi bật khóc: “Tại sao? Tại sao là nàng ta mà không phải là ta? Người điện hạ thích rõ ràng là ta!”.

Lý tướng trái lại, mỉm cười nói: “Ý trời đã vậy, ai biết thái hậu và hoàng hậu liệu có liên thủ gièm pha chuyện con chỉ là con gái thứ thiếp của ta. A Lôi, con đừng buồn, không được làm thái tử phi, nhưng là người thái tử sủng ái nhất cũng tốt. Sau này không được làm hoàng hậu, thái tử cũng không để con thiệt thòi”.

Thanh Lôi đành nước mắt rưng rưng. Lý tướng lại tiếp: “Nếu con gặp lại thái tử nhất định không được tỏ ra oán giận, Vương Yến Hồi mưu lược hơn người, cũng không nên đối đầu với cô ta, con phải giữ chặt trái tim thái tử mới có thể đảm bảo địa vị của mình và vinh hoa phú quý của Lý gia. Mà mọi thứ của Lý gia cũng là hậu thuẫn vững chắc cho con, hiểu chưa?”. Giọng Lý tướng đã trở nên nghiêm khắc.

Thanh Lôi bất lực dựa vào người tam phu nhân gật gật đầu.

A La nghe vậy rụng rời chân tay, lấy hoàng tử phiền phức vậy sao? Chưa kịp kết hôn đã bắt đầu mưu tính.

Trở về Đường viên, mới nghe thất phu nhân than vãn: “Tam Nhi, lần này thái tử tốt rồi, cưới luôn một lúc cả hai người. Thanh Lôi đáng tiếc lại là thiếp, con cái của thứ thiếp không có địa vị gì đâu”.

“Còn Cố Thiên Lâm? Sao không thấy nói đến nàng ta?”.

“Nghe nói hôm nay thánh thượng đã hạ chỉ xuống Cố phủ, Cố tiểu thư làm chính phi của tứ điện hạ”.

A La ồ một tiếng, trong năm vị đại công tử Phong thành nàng vẫn chưa nhìn thấy tứ hoàng tử và Cố Thiên Tường. Xem ra mệnh của Cố Thiên Lâm còn tốt hơn Thanh Lôi nhiều. Tứ hoàng tử sau này dù thế nào cũng là một vương gia, hơn nữa ít nhất cũng không một lúc cưới hai vợ. Nghĩ đến sau khi lấy người ở đây phải đối mặt với vô số các bà vợ của họ, A La đã rùng mình. Bất luận thế nào nàng cũng không chịu nổi cảnh đa thê. Cứ nhìn tốc độ gả con của Lý tướng, nếu nàng không muốn lại bị nhốt vào một cái lồng khác, thì nên nhanh chóng kiếm ít ngân lượng, cao chạy xa bay trước khi bị Lý tướng bán đi, thế mới là thượng sách.

A La chầm chậm đi vào rừng trúc, nhìn mặt trời, biết là không thể nào đến chỗ hẹn với Lưu Giác ở bờ sông phía nam thành. Nhưng quả thực không muốn ở trong phủ, bèn nói với thất phu nhân và Tiểu Ngọc, cải trang một chút rồi vượt tường ra ngoài.

Mình nên làm gì bây giờ, mua hai căn nhà, bạc đã vơi một nửa, chỗ còn lại phải để duy trì hai căn nhà kia. A La chầm chậm đi về phía bờ sông, ngồi suy nghĩ, đi kiếm bạc ở đâu? Gió sông rất dễ chịu, nàng ngồi dựa gốc liễu, dần dần ngủ thiếp đi.

Khi Tử Ly đi đến bờ sông, nhìn thấy dáng A La đang thiu thiu ngủ, bỗng cảm thấy thích thú, nhẹ nhàng vòng qua, cúi gần ngắm nghía, không muốn làm nàng thức giấc, càng nhìn càng thấy giống tam tiểu thư của Lý tướng, Tử Ly cau mày dùng ngón tay chấm tý nước sông nhỏ lên cổ A La rồi lau nhẹ.

A La bị đánh thức, mở mắt, ngơ ngác: “Tử Ly, sao huynh lại đến đây?”.

Mắt Tử Ly sáng lên: “Sơn đệ, sao đệ lại đến đây?”.

A La cười, “Ở trong phủ mãi thấy chán, ra ngoài dạo quanh quanh, ở đây yên tĩnh, không ngờ ngồi chơi một lúc lại ngủ mất”. Nghĩ đến lời hẹn với Lưu Giác, cảm thấy nhất định xảy ra chuyện. Nhìn mặt trời, đoán là đã đến giờ Mùi, Lưu Giác không thể đợi ba canh giờ ở bờ sông. Nàng đã thất hẹn, không biết hắn ta giận đến mức nào, sẽ đối phó với nàng thế nào, nghĩ vậy bất giác thở dài.

“Vẫn còn giận đại ca sao?”. Vừa dứt lời, Tử Ly đã thấy kinh ngạc, tại sao mình lại lây tâm trạng của Sơn đệ, cũng thấy nóng ruột như vậy. Tử Ly mím môi, ánh mắt nhìn A La đã có phần thiếu tự nhiên.

A La cười: “Sao có thể? Hôm nay có người hẹn gặp đệ vào giờ Ngọ, nhà có việc không kịp đi, lòng áy náy sợ người ta giận, đại ca sao lại đến đây?”.

“Ở đây yên tĩnh, đúng lúc lòng có tâm sự”.

A La ồ một tiếng, không nói nữa.

Tử Ly hiếu kỳ: “Sao đệ không hỏi ta có tâm sự gì?”.

A La liếc nhìn chàng ta: “Đệ tôn trọng chuyện riêng tư của người khác, nếu huynh muốn nói tự khắc nói ra, nếu không muốn, hỏi cũng vô ích”.

Tử Ly nói: “Đệ hỏi huynh sẽ nói”.

A La bất lực: “Vậy được, huynh có tâm sự gì?”.

Miệng Tử Ly hé cười: “Huynh quen một cô nương biết thổi sáo, huynh thường xuyên đến đây thổi tiêu hòa tấu với tiếng sáo của nàng ấy, huynh luôn nhận ra tâm sự của cô nương đó qua tiếng sáo, có lúc rất vui, nhưng đa phần đầy uẩn khúc tâm tư. Cô nương ấy rất thông minh, học sáo rất nhanh, nhưng đến một hôm nàng ấy đột nhiên không thổi sáo nữa, mặc cho huynh dùng tiếng tiêu mời gọi, trách móc, nàng ấy cũng nhất định không xuất hiện. Sơn đệ, đệ nói xem cô nương ấy làm sao?”.

Mắt Tử Ly như phát ra tia sáng, hai đồng tử ánh lên một thứ khiến A La không dám nghĩ. Nàng không thể nhìn thẳng vào mắt chàng ta, trầm ngâm lúc lâu mới nói: “Huynh đã nghe ra rất nhiều tâm tư của cô nương ấy, vậy thì chắc chắn nàng ấy có nỗi phiền lớn, có nỗi phiền tất nhiên không thể hòa tấu với huynh”.

Tử Ly nhìn mái đầu cúi xuống của A La, không muốn ép nàng nữa, vui vẻ trở lại: “Sơn đệ, chẳng phải đệ rất thích món ngon, huynh đưa đệ đến một nhà hàng thưởng thức, được không?”.

A La lườm chàng ta: “Không có người cầm dao đâm huynh nữa chứ? Đệ sợ chết lắm”.

Tử Ly cười lớn: “Có đại ca ở đây, bảo đảm không kẻ nào dám làm đệ bị thương một tấc”.

A La nghiêm túc, nói: “Đệ rất sợ những chuyện rắc rối, bởi vì đệ không có khả năng xử lý rắc rối, huynh có đảm bảo không để đệ rơi vào những chuyện rắc rối không?”

Tử Ly cũng nghiêm túc: “Đương nhiên”.

“Huynh không phải là người xấu chứ, đệ khẳng định đệ là người tốt”.

Tử Ly cảm thấy buồn cười: “Huynh khẳng định huynh không phải là người xấu. Sơn đệ, sao mới có mấy ngày mà đệ đã trở nên đa nghi như vậy?”.

A La cúi đầu thở dài: “Bởi vì huynh nghi ngờ đệ trước. Hơn nữa lại có người muốn giết huynh, lai lịch của huynh không đơn giản, đệ khẳng định đệ không địch nổi”.

“Sơn đệ, lòng đệ đang lo sợ điều gì?”.

A La nghĩ, tôi chẳng sợ gì hết, những thứ tôi sợ quá nhiều. Chỉ cần nghĩ đến có ngày bị Lý tướng mang đi bán là tôi không thể nào vui lên được.

Tử Ly nhìn khuôn mặt tủi thân của A La, thầm thở dài, mỉm cười nói với nàng: “Sơn đệ, nhăn mày lần nữa thì không còn là tiểu công tử khôi ngô nữa rồi, vui lên đi, có việc gì đại ca sẽ giúp. Bây giờ chúng ta đi ăn được không?”.

A La nghĩ, buồn cũng chẳng ích gì, trước hết cứ đi ăn chiêu đãi đã, nhân tiện xem có việc gì có thể kiếm tiền. Hai người vẫn cưỡi chung ngựa đến khu thương mại, lần này đến một tửu lầu khác, theo lời của Tử Ly, Tửu phong lầu này tốt nhất Phong thành. A La hỏi: “Đại ca, món ăn ở đây cũng đắt như lần trước sao? Một bữa bằng thường dân ăn cả tháng”.

Tử Ly cười: “Không đâu, chỉ cần không gọi món đắt nhất là được. Thế nào, định tiết kiệm tiền cho đại ca ư?”.

A La lắc đầu: “Đệ muốn nói, nếu vẫn đắt như vậy, huynh không cần mời đệ ăn, đưa thẳng bạc cho đệ cũng được”.

Tử Ly bật cười thành tiếng: “Sao đệ lại thích bạc đến thế!”.

A La nói thẳng: “Không có tiền đi một bước cũng khó, có tiền đi khắp thiên hạ! Bạc rất quý, yêu bạc có nghĩa là yêu cuộc sống”.

Tử Ly nhìn nàng, mỉm cười không nói gì. Nàng ấy luôn có thể làm cho chàng bật cười, đạo lý nói ra cũng có phần khác lạ.

Vào đến tửu lầu, tiểu nhị dẫn họ lên lầu hai. A La hiếu kỳ quan sát lầu một, ánh mắt lập tức bắt gặp Lưu Giác đang ngồi ở bên cửa sổ, hoảng hốt, cúi đầu vội quay trở lại.

Tử Ly theo sau A La, khẽ cau mày, nhìn Lưu Giác ngồi bên cửa sổ, lại nhìn A La đang quay người đi xuống lầu, chàng cũng xuống theo.

A La nặn ra nụ cười: “Đại ca, đệ muốn về nhà, hôm khác ăn được không?”.

Tử Ly đoán biết giữa nàng và Lưu Giác chắc chắn có chuyện gì. A La không chịu nói, chàng cũng không nài, chỉ cười nhạt đưa nàng lên ngựa trở về bờ sông, rồi quay đi.

Đến khi chàng quay trở về Tửu phong lầu, Lưu Giác đã đi khỏi. Tử Ly gọi một nậm ruợu, ngồi bên cửa sổ, chìa ngón trỏ trái ra xem, đầu ngón tay còn dính lớp bột màu nâu. Tử Ly bất giác bật cười, rồi thôi cười, uống liên tục, hết chén này sang chén khác, một nỗi u uẩn hiện dần trong mắt chàng.

A La trở về nhà, tối đó hơi khó ngủ. Luôn cảm thấy Lưu Giác sẽ đến tìm mình gây sự, trằn trọc mãi không nghĩ ra đối sách. Đến bây giờ nàng vẫn chưa tìm được cách nào kiếm ra tiền, ngày rời tướng phủ cũng càng xa vời, cuộc sống cứ thế này trôi qua, đến một ngày Lý tướng đem nàng đóng gói đưa đi bán thì biết làm sao? Tử Ly có thể giúp nàng không? Chàng ta có tin nàng không? A La cảm thấy khổ sở vô cùng.

(*) Lương đệ tức là thiếp của hoàng thái tử, là người có phẩm cấp tương đối cao trong số thiếp của thái tử, địa vị chỉ đứng sau thái tử phi (BTV).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

19#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 16:49:59 | Chỉ xem của tác giả
Sáng sớm hôm sau, tiếng tiêu của Tử Ly lại từ rừng trúc vọng đến. A La thầm nghĩ, tại sao Tử Ly lại hứng thú với tam tiểu thư của Lý phủ như vậy? Là bởi vì hai người đã hòa tấu với nhau suốt hai tháng qua ư? Cải trang thành người khác trước mặt Tử Ly, nàng cảm thấy quá khó khăn. Hơn nữa, tài hóa trang của thất phu nhân, nhiều nhất cũng chỉ thay đổi được hàng lông mày và làn da, lâu dần Tử Ly sẽ nhận ra. Bây giờ mỗi khi ở bên chàng ta, nàng lại thấp thỏm, hay là nên nói sớm với chàng ta. Không biết Tử Ly có giúp được mình không, bởi vì Lưu Giác là tiểu vương gia của phủ An Thanh vương kia mà. A La thở dài đi vào rừng trúc.

Tử Ly cười dịu dàng. Chàng đang đợi, đợi A La nói với chàng, nàng chính là La Sơn, La Sơn chính là nàng.

Nhìn thấy Tử Ly, A La cũng không còn ngạc nhiên nữa: “Sao huynh lại đến?”

“Hôm qua nàng đi vội quá không kịp trả lời, vì sao không hòa tấu với ta nữa”.

A La đến ngồi xuống một tảng đá, hai tay che cằm, suy nghĩ lại lần nữa, rồi ngẩng đầu nhìn Tử Ly: “Đại ca! Ta. ta chính là La Sơn”. Nói xong cúi đầu có vẻ rất xấu hổ.

Tử Ly làm bộ ngạc nhiên: “Đệ nói đệ là Sơn đệ sao?”.

A La nói: “Muội cải nam trang, bôi mặt”.

Tử Ly đi đến trước mặt nàng, quỳ xuống nhìn nàng: “Để ta ngắm kỹ xem nào”.

A La nghiêm nghị nhìn thẳng vào mắt chàng. Tử Ly nhìn kỹ A La, khuôn mặt nhỏ nhắn, cằm nhọn xinh xinh, môi như cánh hoa, cặp mày khuất dưới mái bờm, hai mắt ướt long lanh như ngọc nổi bật giữa làn da trắng tuyết. Không nhìn kỹ, sẽ không nhận ra A La lại đẹp mê hồn như vậy. Tử Ly nhìn mắt A La, trong đó lóe lên điểm đen huyền bí mà chàng không quen, giống như dòng nước xoáy hút chàng vào đó, bất giác ngây ra nhìn.

Tử Ly nhìn không muốn rời, A La đỏ mặt, nghiêng đầu, tưởng chàng không tin: “Đại ca, chúng ta lần đầu gặp nhau ở ven sông, lúc đó huynh đang thổi tiêu, muội đã quấy rầy”.
Tử Ly sực tỉnh, khẽ cười: “Ta biết, muội lấy tên Sơn đệ, là có hàm ý con thứ ba trong nhà phải không?”(*).

A La gật đầu.

Tử Ly ngồi xuống bên nàng hỏi: “Sơn đệ, à, bây giờ nên gọi thế nào?”.

“Cứ gọi tên cũng được, mẹ thích gọi muội là Tam Nhi, những người khác trong nhà gọi là A La, họ tên đầy đủ là Lý Thanh La, tùy huynh gọi”.

“Làm gì có cô nương nào để người ta tùy tiện gọi tên lúc còn con gái, muội to gan thật”.

A La lúc này mới sực nhớ họ không cùng thời đại, không thể tùy tiện gọi tên. Bèn nhẹ nhàng nói: “Đại ca cứ gọi muội là A La, tên chỉ là một ký hiệu, gọi thế nào cũng vậy”.

Tử Ly cảm thấy A La là người rất mực cởi mở, cười nói: “Được thôi, A La muội có điều gì phiền muộn?”.

A La buồn bã, nói: “Muội không biết làm thế nào để kiếm ra bạc”.

Tử Ly hiếu kỳ: “Muội cần kiếm bạc làm gì?”.

A La tư lự: “Có bạc mới có thể rời tướng phủ đi du ngoạn khắp nơi”.

“Lý tướng tuyệt đối không cho phép”.

“Cho nên muội mới định tự mình kiếm tiền”.

Tử Ly cau mày: “Thực ra bên ngoài rất nguy hiểm, mấy chiêu quyền cước của muội có thể ứng phó người không biết võ công, nhưng nếu gặp người có võ công thực sự thì khỏi nói”.

A La thở dài, nghĩ tới Lưu Giác biết khinh công, lại biết điểm huyệt, Tử Ly cũng có khinh công nhảy vọt qua tường, trong khi bản thân hì hục trèo tường vất vả, “Đại ca, nhưng muội rất muốn chu du khắp nơi, huynh dạy muội cách kiếm tiền được không?”.

Tử Ly nhìn đôi mắt cầu khẩn của A La, không thể nào từ chối, cười nói: “Vậy muội biết những gì, nói huynh nghe nào”.

Mắt A La sáng lên: “Muội biết nấu ăn, chắc chắn ngon hơn ba món đặc sắc ở Thiên phong lầu”.

Tử Ly lắc đầu, không tin: “Nấu cho huynh ăn huynh mới tin”.

A La vui sướng nhảy lên, hỏi: “Đại ca, nếu muội nấu ngon hơn Thiên phong lầu, huynh có chịu bỏ tiền mở tửu lầu cho muội làm không, bạc kiếm được chúng ta chia đôi”.

Tử Ly không nhịn được cười: “Được, cứ quyết như vậy, ta đi thôi”.

A La vui sướng nhảy chân sáo, nhất thời quên mất Tử Ly cũng biết khinh công, kéo chàng ta trèo tường. A La mấy bước đã lên mặt tường, vẫy Tử Ly: “Đại ca, lên đi, mau lên!”.

Tử Ly ngẩng đầu nhìn A La, lúc đó trông nàng như một tiểu đồng lanh lợi. Tiếng sáo u hoài không hợp lứa tuổi nàng, nhưng chỉ cần nàng cất tiếng cười là tựa như thủy tinh trong vắt, không chút sầu vương. Tử Ly thấy lòng xao động, bỗng muốn cùng nàng vượt tường. Chàng sải mấy bước đã tới mặt tường, thấy A La mang ra chiếc thang dây, chàng cười to, ôm lấy nàng cùng vọt ra ngoài.

A La cười hớn hở: “Vui quá, quên mất đại ca biết khinh công”.

A La không cải trang, Tử Ly gọi tùy tùng thuê chiếc kiệu, nói với nàng: “Khi nào muội cải nam trang, đại ca sẽ dạy muội cưỡi ngựa”.

Ngồi kiệu cũng tốt, vừa đi vừa thong thả ngắm cảnh bên đường, A La ngồi trong kiệu vén rèm, háo hức nhìn ra. Tử Ly cưỡi ngựa đi bên cạnh, thỉnh thoảng ngoái đầu nhìn nàng, A La bịt miệng cười thầm, dáng chàng cưỡi ngựa tuyệt thật. Đến Thiên phong lầu, không biết Tử Ly nói gì, một vị sư phụ ân cần nói với A La: “Tiểu thư, mời theo tôi vào bếp”.

Nàng nhìn Tử Ly. Chàng ngồi bên bàn giả bộ nghiêm nghị: “Khó ăn quá là không được đâu”.

A La đắc ý ngẩng đẩu, đi theo sư phụ vào trong. Gần một canh giờ sau mới bê đồ ăn lên bàn.

“Muội vào bếp lâu như vậy, chỉ làm được món canh suông thế này ư? Món này chẳng phải chỉ cần cho rau vào nồi đun sôi là xong hay sao?”.

A La bĩu môi: “Tam tuyệt mỹ vị của Thiên phong lầu còn lâu mới sánh được, cái hay của món này là ở chỗ, mới thoạt nhìn thực khách cứ tưởng chỉ là canh suông bình thường. Đại ca nếm đi”.

Tử Ly cười, múc một thìa đưa lên miệng. Thấy chàng cau mày, rồi vẻ kinh ngạc sung sướng dần dần hiện trên khuôn mặt: “Thiên phong lầu phen này phải đóng cửa thôi”. Chàng nhìn A La, mắt đầy tán thưởng: “Vị thanh mà ngọt lịm, thơm ngon khác thường, làm thế nào vậy?”.

A La bắt đầu tán: “Rau cải trắng chỉ lấy phần nõn trong cùng có màu hơi vàng, để lửa vừa chín tới không được nát. Nước dùng được hầm bằng gà già, vịt già, móng giò, xương sườn, gân bò khô, lại thêm rất nhiều gia vị, mới có được vị ngọt mát như vậy, lại phải hớt hết bọt sao cho nước dùng trong vắt không một mảy may váng mỡ. Một canh giờ ư? Là muội sợ huynh đợi lâu sốt ruột mới làm vội như thế”.

Tử Ly cười: “Là đầu bếp của tướng phủ dạy muội sao?”.

“Bí mật, chuyện này không thể tiết lộ”.

Tử Ly bắt đầu vừa húp nước canh vừa ăn rau cải. Nhìn chàng ăn rất ngon lành, lòng nàng cũng thấy vui vui. A La nhớ lại, trong thời hiện đại có lần được ăn món canh này, lúc đó không biết nguồn cơn, chỉ thấy một bát canh bẩn những mười tám đồng thì quá đắt, suýt cãi nhau với chủ quán. Sau mới biết đó là đề thi dùng cho đầu bếp cấp một, bèn đi học nấu bằng được.

“Quá ngon, quá ngon, tốt quá, huynh sẽ mở tửu lầu, muội không cần động tay, dạy nhà bếp làm là được. Một bát canh bán mười lượng bạc, chúng ta mỗi người một nửa”.

A La kinh ngạc: “Đắt vậy sao? Có người ăn không?”.

“Muội yên tâm, của hiếm là của quý. Người giàu sẽ thích món này”.

A La nhẩm nhanh con tính, nếu vậy, không đầy mấy tháng mình đã trở thành triệu phú thời cổ đại rồi! Có thể rời tướng phủ, có thể đi ngao du tứ xứ, có thể tự do! A La chắp hai tay, mắt lim dim, miệng thầm thì: “Thời cổ đại cái gì có thể giúp kiếm được nhiều tiền nhất? Trí tuệ hiện đại! Cảm tạ thần linh đưa tôi đến đây mà không cướp đi ký ức của tôi, cảm tạ bà mẹ luôn bận rộn để tôi sống tự lập, cảm tạ bà chủ quán đã thu mười tám đồng bát canh.”.

Tử Ly cảm thấy buồn cười nhìn A La xúc động cầu khấn, khuôn mặt nhỏ nhắn như phát sáng, hàng mi rung rung như cánh bướm sắp bay, trong lòng trào lên nỗi thương cảm, chàng thở dài, nắm tay A La nói giọng chân thành: “A La, để đại ca chăm sóc muội được không?”.

A La sững sờ nhìn chàng. Trong mắt Tử Ly có một thứ khiến nàng giật mình, khiến nàng mơ hồ, khiến nàng lờ mờ hiểu ra, giống như khẩn cầu, giống như thương xót, giống như. Nàng kinh ngạc, cúi đầu cười: “Muội không ngờ ở đây muội lại gặp được một đại ca tốt với muội như vậy! Hy vọng huynh vẫn là bằng hữu cùng phường làm ăn của muội”.

Tử Ly vừa bực vừa buồn cười, ngẫm nghĩ có lẽ là do nàng ấy còn nhỏ, không hiểu ý mình. Đang định mở miệng thì có tiếng cười lạnh lùng vang lên: “Thì ra đã tìm được chỗ dựa mới ngang nhiên như vậy, khiến tiểu vương gia ta phí công chờ đợi!”.

Giọng nói lọt vào tai A La giống như tiếng sét, nàng sợ đến mức toàn thân run rẩy, ra sức trấn tĩnh, ngoái đầu nhìn, người đứng ở chân cầu thang chẳng phải Lưu Giác sao? Hắn ta đứng tựa vào đó một cách uể oải, dáng người thanh, ngũ quan tuyệt đẹp có một vẻ tuấn tú rõ ràng. Chỉ có điều mặt cười nhưng mắt lạnh như băng.

Tử Ly nói: “Tiểu vương gia cũng đến Thiên phong lầu dùng cơm?”.

“Vốn định thế, nhưng bây giờ không muốn nữa, cáo từ!”. Trong ngữ khí của Lưu Giác đã đặc mùi thuốc súng, lúc bỏ đi, A La cảm thấy ánh mắt lạnh băng của hắn ta dừng lại trên người mình, bỗng thấy tóc gáy dựng ngược.

Tử Ly nhìn vẻ khiếp sợ của A La, không nén nổi tò mò nên vội hỏi: “Hôm qua không đến chỗ hẹn với người ta sao?".

Tử Ly quen Lưu Giác ư? Phải một lúc lâu sau A La mới phục hồi thần trí: “Trong Đào hoa yến, muội không biết chàng ta là ai, đánh chàng ta ngất xỉu, trói vào cây, cướp bạc của chàng ta. Trong dạ tiệc thưởng nguyệt trung thu vừa rồi bị chàng ta nhận ra, hôm qua hẹn muội đến ven sông nam thành tỉ thí, nhưng nhà có việc muội không đi được”.

Tử Ly càng nghe, nụ cười trong mắt càng lộ rõ, không ngờ người như Lưu Giác lại bị chết đứng trong tay một cô nương bé nhỏ. Hình dung ra cảnh đó, không nhịn nổi, chàng cười ngất: “A La muội thú vị thật! Đừng sợ! Đại ca sẽ bảo vệ muội”.

A La nhìn Tử Ly thần sắc không đổi, cảm thấy tự tin hơn nhiều, nhưng cũng lại càng thấp thỏm, không biết thân thế người này lớn thế nào, dám chọc giận tiểu vương gia của phủ An Thanh vương. Tử Ly không nói, nàng cũng không tiện hỏi, thầm nghĩ, dù thế nào Lưu Giác cũng là tiểu vương gia của An Thanh vương, cháu ruột Ninh vương, loại công tử quý tộc này là không bao giờ chịu nổi ấm ức. Oán thù nên cởi không nên buộc, vẫn nên tìm Lưu Giác giải thích rõ, ngộ nhỡ liên lụy đến Tử Ly thì phiền lắm.

(*) Tiếng Trung Quốc "Sơn đệ" đọc là shan di, đồng âm với di san, nghĩa là người con thứ ba (ND).
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

20#
 Tác giả| Đăng lúc 20-5-2013 16:51:27 | Chỉ xem của tác giả
CHƯƠNG 8


Lưu Giác trở về vương phủ, hầm hầm tức giận, triệu tập đám thuộc hạ tỉ thí với mình, chàng ra đòn mạnh như gió lốc, không chút nương tay, đến khi đám thuộc hạ bị đánh ngã gục, nằm ngổn ngang trên đất, tay chàng đã tê cứng mới dừng lại, không thèm nhìn họ một cái, lập tức bỏ về phòng, tức giận, trợn mắt nhìn bức họa trên tường.

Lưu Anh nơm nớp liếc nhìn khuôn mặt tái xanh, sắt lại của chủ nhân, không hiểu tại sao chúa thượng xưa nay vốn dĩ vui buồn ít bộc lộ, vậy mà hôm nay lại nổi giận đùng đùng như thế, bèn nói nịnh một câu: “Chúa thượng, tìm được cô nương đó rồi định báo thù thế nào?”.

Lưu Giác nghe vậy, hỏa khí lại bốc ngùn ngụt, liếc xéo Lưu Anh cười khẩy: “Tam tiểu thư của Lý tướng, em gái thứ phi tương lai của thái tử, có mối quan hệ không bình thường với tứ hoàng tử, nhà ngươi thấy tiểu gia ta nên báo thù thế nào?”.

Lưu Anh càng nghe càng thấy nóng tai, tiểu a đầu đó thân phận quả không nhỏ, chẳng trách to gan dám đánh ngất tiểu vương gia. Chuyện này không thể công khai ra tay, xem ra tiểu vương gia đang điên đầu vì thế. Nghe nói nàng ta có mối quan hệ không bình thường với tứ hoàng tử, tự dưng trở nên lắm lời, hỏi: “Tứ điện hạ chẳng phải được hoàng thượng ban hôn, sắp cưới Cố tướng thiên kim hay sao?”.

Trong Đào hoa yến, Lưu Giác sau khi nghe Cố Thiên Lâm chơi đàn, rất có cảm tình với cô nương lan tâm tuệ trí này, lại thêm trong dạ tiệc thưởng trăng đêm trung thu nhìn thấy Cố Thiên Lâm múa rất đẹp, đã âm thầm sinh lòng mến mộ. Lúc đó, do có việc phải đi, chàng không kịp nghe tiếng đàn của Lý Thanh Lôi, sau đó nghe tin thái tử động lòng sâu sắc bởi khúc “Thu thủy” của Lý Thanh Lôi, chàng có phần không tin! Trong dạ tiệc trung thu, chàng một mình đi tìm Cố Thiên Lâm, loanh quanh thế nào lại gặp nha đầu đã đánh ngất mình. Hàng ngày chàng trầm ngâm rất lâu trước bức họa, nhìn ngắm Cố Thiên Lâm, nhưng lại không nhận ra đôi mắt đẹp lóng lánh như thủy tinh kia đã in sâu vào tâm trí mình tự lúc nào. Hôm nay Cố Thiên Lâm được ban hôn cho tứ hoàng tử, Lý Thanh La cũng bám lấy chàng ta, Lưu Giác sao không tức giận?

Lưu Anh thấy tiểu vương gia đang nhìn ngắm bức họa trên tường, người trong tranh chính là Cố Thiên Lâm, bất giác lấy tay tát vào mặt mình, hối hận cáo tội: “Thuộc hạ nói bậy, tội đáng muôn chết!”.

Lưu Giác nghĩ một hồi mới nảy ra chủ ý: “Thôi được, chuẩn bị ngựa, ta muốn đến thăm Lý tướng”.

Lý tướng thấy Lưu Giác xuất hiện, trong đầu lập tức nảy sinh bao suy đoán. An Thanh vương chiến công hiển hách, bao năm lãnh binh đồn trấn biên thành phía tây, vương phủ trên dưới đều do tiểu vương gia này sắp đặt, cai quản đâu ra đấy, có thể thấy người này năng lực không tầm thường.

Thanh Lôi sắp được gả cho thái tử, bản thân mình đương nhiên dốc lòng ủng hộ Đông cung. Bây giờ triều đình đa phần hướng về thái tử, nhưng có một bộ phận quần thần lại ủng hộ tứ hoàng tử. Thái tử là đích tử do đương kim hoàng hậu sinh ra, tứ hoàng tử là đích tử của hoàng hậu quá cố Trần thị. Ninh vương vẫn tình sâu nghĩa nặng đối với cố hoàng hậu Trần thị, do tổ chế quy định lập con trưởng kế vị và thế lực bên ngoại của đương kim hoàng hậu nên tuy đã lập Lưu Giám làm thái tử, nhưng vẫn âm thầm yêu thương tứ hoàng tử. Ái nữ của Vương thái úy trở thành thái tử phi, tứ hoàng tử rõ ràng ở vào thế bất lợi. Ninh vương lập tức ban ái nữ của Cố tướng cho tứ hoàng tử. Đế tâm khó dò, nếu Ninh vương có ý sau đại hôn lễ sẽ cho tứ hoàng tử kế vị, thì ý kiến của An Thanh vương hết sức quan trọng. Chỉ cần An Thanh Vương ủng hộ tứ hoàng tử, thế lực hai vị hoàng tử tương đương, nhưng nếu ông ta ủng hộ thái tử, tứ hoàng tử trong tay không nắm binh quyền, đương nhiên không có cơ hội. Lúc này tiểu vương gia của An Thanh vương lại đến thăm, không biết có dụng ý gì?

A La vừa từ bên ngoài về, nghe gia nhân truyền báo đến đại sảnh Lý lão gia muốn gặp nàng. Không biết xảy ra chuyện gì, A La đi vào đại sảnh trang nghiêm hành lễ. Vừa nhìn thấy Lưu Giác ngồi một bên cười như một con hồ ly, liền biết chàng ta đến tìm mình, nàng giả bộ lần đầu nhìn thấy, cúi đầu cụp mắt đứng yên.

Lý tướng cười khà khà: “A La, tiểu vương gia trong đêm hội yến trung thu nghe con thổi sáo, rất tán thưởng tiếng sáo bay bổng tuyệt tác của con, vô cùng ngưỡng mộ. Tiểu vương gia cũng tinh thông âm luật, muốn mời con tham gia dạ yến tối nay, cùng thổi sáo ngắm trăng, tâm sự hàn huyên, con đi đi”.

Nói dối! A La thầm mắng, nhưng miệng lại lễ phép, ngọt ngào đáp lời: “Cho phép A La trở về sửa sang y phục”. Cúi chào xong, vội lui gót. Ra khỏi phòng lớn, A La thầm thở than, tiểu vương gia này tâm địa hẹp hòi, đúng là tiểu nhân! Chỉ có tiểu nhân mới dùng thủ đoạn bỉ ổi như vậy. Hắn ta, hắn ta và Lý tướng là rắn, chuột cùng một ổ, đều xấu bụng! Phí hoài cái diện mạo đẹp đẽ! Nhìn thấy hắn ta là thấy buồn lòng.

Lý tướng và Lưu Giác nhìn nhau cười, thâm tâm mỗi người đều có toan tính riêng.

Vừa ra khỏi tướng phủ, A La vén rèm kiệu lạnh lùng hỏi Lưu Giác: “Tiểu vương gia định đưa tiểu nữ đi đâu?”.

Lưu Giác cưỡi ngựa đi bên cạnh, thấy nàng hỏi như vậy, tỏ vẻ lạ lùng: “Đi dự tiệc, thổi sáo, nói chuyện hàn huyên”.

A La nghiến răng, sao có chuyện đơn giản thế. Quả nhiên kiệu bỗng dưng bị rung lắc dữ dội, A La bị lắc đến tức ngực, lồng ngực thúc từng cơn, miệng buồn nôn, hít sâu một hơi mới từ từ dịu xuống, nhắm mắt tưởng tượng ra các món ăn, lẩu, cá nướng cay, đậu phụ, bột chua cay. tất cả những thứ có mùi có vị. Lại bắt đầu tưởng tượng tửu lầu mình với Tử Ly hợp tác mỗi tháng thực khách tấp nập, ngân lượng chảy vào túi như nước. Hình dung cảnh tượng đưa thất phu nhân và Tiểu Ngọc đi chu du những miền đất lạ từng đọc trong sách, cố gắng di chuyển sự chú ý. Tuy nhiên, kiệu lại như dốc ngược, đầu lộn xuống dưới. Nàng biết đó là Lưu Giác giở trò, cố nín nhịn, nhưng cuối cùng vẫn phải kêu lên: “Dừng kiệu, dừng kiệu, ta muốn nôn!”.

Kiệu dừng, A La xông ra ngoài, chạy đến một góc nôn thốc nôn tháo. Lưu Giác trên lưng ngựa tỏ vẻ phẫn nộ: “Còn đi hơn nửa canh giờ nữa mới đến nơi, các người khiêng thế nào vậy?”. Chàng cố ý bảo phu kiệu khiêng kiểu đó, để A La bị rung lắc, khốn khổ phải cầu xin chàng tha tội.

A La nôn xong, cảm thấy dễ chịu hơn nhiều. Ngẩng nhìn thấy Lưu Giác bề ngoài tỏ ra tức giận mắng phu khiêng kiệu, nhưng trong mắt đầy vẻ đắc ý, biết chàng cố tình, lại nghe nói còn nửa canh giờ nữa. Một tiếng đồng hồ! A La nổi cáu, ngươi đã muốn thấy ta khốn đốn, vậy sẽ để cho ngươi nhìn đã mắt, ta sẽ nôn suốt đường cho ngươi xem, ta quyết không tỏ ra yếu thế! Nàng bình tĩnh ngồi vào kiệu: “Đi thôi, kẻo lỡ mất bữa tiệc tối của tiểu vương gia lại đắc tội”.

Lưu Giác ngớ người, liếc thấy các phu kiệu tỏ ra áy náy, không nỡ, bực mình quất ngựa phóng thẳng: “Gặp nhau ở ven sông Đô Ninh, trên thuyền Lưu Hương”.

Chàng vừa đi khỏi, kiệu lại bình thường, không đến hai khắc đã ra khỏi cổng phía nam đến ven sông Đô Ninh.

Sông Đô Ninh rộng mười ba trượng có dư, nước cuồn cuộn chảy về đông, gió muộn từ mặt sông thổi lên mát rượi, phía chân trời ẩn hiện khói mây màu tím sẫm, A La bất giác nghĩ đến câu thơ “Yên quang ngưng nhi mộ sơn tử, lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cộng trường thiên nhất sắc”(*). Bây giờ chỉ có vùng núi hẻo lánh mới có thể nhìn thấy sông xanh gợn sóng, không bị ô nhiễm, cảnh sắc này khiến khát khao được đi du ngoạn khắp thế giới kỳ lạ này của nàng càng thêm mãnh liệt. Nếu không phải đi ăn với Lưu Giác, con người đáng ghét này thì nàng đã không cầm lòng muốn hát vang trước một cảnh sắc huyền diệu như vậy! A La nghĩ đến Quyên Nhi, lòng lại nặng trĩu nỗi buồn, tự nhắc mình phải cố nhẫn nhịn, không thể đối đầu với Lưu Giác, chỉ có thể tỏ ra ngốc nghếch khiến chàng ta không nắm được đằng chuôi. Hít một hơi thật sâu không khí trong lành, A La ngẩng cao đầu đi về phía thuyền Lưu Hương.

Ven sông có khoảng chục chiếc thuyền hoa đỗ rải rác, trong ánh hoàng hôn, thuyền nào cũng đã lên đèn ngũ sắc sáng rực. Thuyền Lưu Hương có ba tầng, xà và cột đều chạm trổ hoa văn, thiết kế tinh tế, sang trọng. Nữ tỳ dẫn A La lên tầng cao nhất, Lưu Giác đang đứng tựa cửa sổ trong một gian hậu thất rủ rèm châu.

A La nhìn vào, bên ngoài có mấy chiếc tràng kỷ bọc gấm và mấy cái án chạm trổ hoa văn, trên tường treo mấy bức thư họa của những nhà thư pháp nổi tiếng, xung quanh bày rất nhiều hoa. Không gian phía sau bức rèm rộng rãi, khoáng đạt, những chiếc đèn màu tỏa sáng, mấy cái bàn tròn, bên cạnh là ghế bành và giường ngủ. Cửa sổ mở toang, gió sông lồng lộng, trong phòng mát rượi. Tà áo Lưu Giác bay bay, mấy sợi tóc chờn vờn trước trán, nửa khuôn mặt nhìn nghiêng đường nét như tạc, tuấn tú tuyệt vời. A La nghĩ, tốt nhất vẫn nên giải thích mọi chuyện, đổi gươm đao lấy ngọc bội, giải quyết bằng hòa bình để trừ hậu họa. Cách bức rèm châu, nàng lên tiếng: “Hôm đó Ninh vương ban chỉ đến tướng phủ, tiểu nữ thực tình rất muốn giữ lời, rất muốn nói lời xin lỗi, đã để cho tiểu vương gia đợi lâu”.

Lưu Giác quay đầu cầm lên chén trà, nhưng không uống, lơ đãng ngắm nhìn, đột nhiên bật cười: “Có biết hôm nay ta đến quý phủ là vì chuyện gì không?”.

(*) Trích trong "Đằng Vương các tự" của Vương Bột (đời Đường).
Dịch thơ: "Ánh khói đọng, núi chiều tía", "Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cô đơn chiếc diều bay, làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc" (bản dịch của Trần Trọng San) (BTV).

A La không trả lời câu hỏi của chàng, trong đầu chỉ nghĩ nhất thiết phải xin lỗi đã rồi hãy tính: “Thực ra hôm nay tiểu nữ vốn định đến quý phủ tìm tiểu vương gia giải thích rõ. Lần trước ở Đào hoa yến tiểu nữ đã sai, không nên đánh ngất tiểu vương gia. Bởi vì lần đầu xuất phủ, khó khăn lắm mới được ngắm cảnh đẹp vậy mà lại bị tiểu vương gia quấy rầy, trong lòng không vui. Tiểu nữ xin lỗi người lần nữa”.

Lưu Giác thấy A La thái độ thành khẩn, bật cười: “Chuyện lần trước không nói nữa, có điều, nàng đã cướp bạc của ta.”.

A La đỏ bừng mặt, cúi đầu trả lời: “Tiểu nữ sẽ trả lại vương gia”. Hành động này quả là vô đạo đức, lúc đó nàng cũng chỉ nhất thời hồ đồ.

Lưu Giác thầm nghĩ, chút bạc đó ta không bận tâm. Nàng ta đã xin lỗi lần nữa, mình vốn không có ý định tính toán với nàng ta về chuyện đó, nhưng vẫn cảm thấy có gì không ổn, “Nói một lời xin lỗi là xong ư?”.

A La nghĩ, đã xin lỗi rồi còn phải làm gì đây? Bèn hỏi Lưu Giác: “Vậy tiểu vương gia nghĩ thế nào?”.

Lưu Giác ớ người, đúng vậy, mình nghĩ thế nào? Nàng ta vẫn chỉ là một tiểu cô nương, cũng đã xin lỗi, tính toán nữa hóa ra mình quá hẹp hòi. Nhưng nếu vậy sẽ không còn cớ để đến tìm nàng ta nữa? Nghĩ đến cảnh A La thân thiết với Lưu Phi, không biết từ đâu nỗi giận vô cớ bùng lên, chàng nói: “Nàng và tứ hoàng tử thân thiết như vậy, ta có thể làm gì?”.

A La sững người: “Tứ hoàng tử nào?”. Đột nhiên vở lẽ, người Lưu Giác nói là Tử Ly, bèn hỏi: “Tử Ly? Trần Tử Ly? Là Lưu Phi sao?”.

“Nàng không biết thật hay giả bộ không biết?Trông điệu bộ hai người không phải mới quen ngày một ngày hai, ở Thiên phong lầu nàng còn đích thân xuống bếp nấu ăn cho người ta, thân thiết như thế!”.

Tử Ly chính là tứ hoàng tử? A La không tin, nôn nóng hỏi: “Đại ca ấy bảo cứ gọi là Trần Tử Ly, tứ hoàng tử chẳng phải là Lưu Phi sao?”.

Lưu Giác cười gằn: “Hoàng hậu quá cố họ Trần, Tử Ly là tên tự của huynh ấy, Trần Tử Ly chính là Lưu Phi, Lưu Phi chính là Trần Tử Ly, nàng gọi huynh ấy Tử Ly, gọi cái tên thân thiết như vậy, rõ ràng là quan hệ không bình thường”.

A La há miệng không biết nói sao. Lần đầu gặp Tử Ly, nàng cũng dùng tên giả, còn Tử Ly không muốn người khác biết thân thế của mình đã mượn họ mẹ, và dùng tên chữ, cuối cùng vẫn là dùng tên thật, chẳng có gì giả dối! Nhưng Tử Ly chẳng phải chính là tứ hoàng tử sắp cưới Cố Thiên Lâm sao? Mình đã nhận tứ hoàng tử làm đại ca? Trời ơi! Vốn đã không muốn dính líu với vương thất, chuyện này. A La đột nhiên hoảng hốt, nhưng lại nghĩ khác, chuyện này cũng chẳng sao, giống như trong mắt người khác mình là thiên kim tướng phủ thân phận cao quý vậy, kỳ thực. nàng lắc đầu, những thân phận đó đối với mình chẳng là gì hết. Tử Ly tốt với mình, tình nguyện làm đại ca của mình, vậy huynh ấy chỉ là đại ca của mình mà thôi.

Lưu Giác chuyển chủ đề, không nhắc đến Tử Ly nữa, cười nói: “Nghe đồn tiếng sáo của tam tiểu thư rất siêu phàm, liệu có thể tấu một khúc?”.

A La dẹp bỏ ngạc nhiên của mình khi biết thân phận Tử Ly, vén rèm châu bước vào, đến bên án rót trà uống: “Đói rồi, ăn đã, tiểu vương gia thực lòng muốn nghe thổi sáo hay là hẹn đến để chấn chỉnh ta?”.

Lưu Giác châm biếm: “Ta thấy nàng có vẻ không hiểu phép tắc, không giống thiên kim của tướng phủ, khuê nữ chốn danh gia?”.

Trước mặt ngươi việc gì ta phải làm bộ làm điệu? A La nhìn chàng nói tiếp: “Tiểu vương gia lắc kiệu khiến ta khổ sở suốt hơn canh giờ, thức ăn trong bụng nôn hết rồi, vừa đói vừa khát. Làm sao còn sức lực, hứng thú thổi sáo?”.

Lưu Giác nghĩ vậy lấy làm thú vị, cười ha hả, vỗ tay ra hiệu. Nữ tỳ đi vào. Lát sau bưng ra một bàn đồ ăn.

A La rất muốn biết món ăn ở đây hương vị thế nào. “Bắt đầu!”, nói xong lập tức vào cuộc. Đa số các món đều rất ngon, nhưng mấy món chay mùi vị không ổn. Nàng chợt hiểu, món mặn ở Phong thành sắc hương vị đều đậm đà, nhưng món chay làm không tinh, chẳng trách canh đậu phụ ở Thiên phong lầu cũng được coi là món ngon. Thầm nghĩ, ở Phong thành e rằng chỉ có thể dùng món chay làm chiêu câu khách. Nàng gắp cá thịt lia lịa, khiến Lưu Giác cau mày: “Ở tướng phủ nàng không được ăn thịt hay sao?”.

A La đang vui, buột miệng nói: “Bình thường, bữa ăn ở bếp Đường viên đều đạm bạc, mấy năm rồi tiểu nữ không được ăn những món ngon thế này”.

Lòng Lưu Giác không hiểu: “Lý tướng thanh liêm như vậy ư?”.

A La cười: “Mẹ xinh đẹp của ta tuy rất đẹp nhưng lại không được sủng ái, Đường viên chúng ta cuộc sống có thể nói là rất bình thường”.

“Vậy mà nàng lại ngang tàng đến thế? Con gái một thứ thiếp không được sủng ái, nhìn thấy những bậc công tử như tiểu vương gia đây càng nên chủ động ân cần mới phải! Ô, đúng rồi, như nhiệt tình của nàng đối với tứ hoàng tử!”. Lưu Giác không hiểu sao lòng bỗng thấy có gì tựa như thương xót đối với nàng, vội dùng ánh mắt nghiêm lạnh và những lời châm biếm để xua đi cảm giác đó.

A La tức giận, hắn ta coi mình là loại người gì chứ? Nhưng nàng không muốn đối đáp với chàng ta nữa, mới miễn cưỡng chuyển nỗi tức giận vào đôi đũa trong tay: “Cơm đã ăn xong, không biết tiểu vương gia nghe thổi sáo xong có đưa tiểu nữ về nhà không?”.

Lưu Giác thấy A La tư thái điềm tĩnh, đôi mắt trong như ngọc long lanh dưới ánh đèn, khuôn mặt nhỏ nhắn một phần bị mái bờm che khuất trở nên vô cùng sinh động. Những lời nói lúc trước vừa nói ra, chàng đã muôn phần hối hận, nhưng thấy vẻ láu lỉnh trên mặt A La, nỗi bực lại bùng lên, chàng nghịch ly rượu trong tay nói: “Gian ngoài là nơi mua vui”. Dường như ý muốn nói, chàng coi A La chỉ là trò mua vui.

A La nghĩ, nếu một tiểu thư khuê các thời cổ đại, nghe Lưu Giác nói vậy, chưa biết chừng cảm thấy bị sỉ nhục đến nỗi nhảy xuống sông tự vẫn! Dù không tự vẫn cũng sẽ phẫn nộ quở trách! Nàng điềm nhiên rời bàn ra phòng ngoài, tìm một cái ghế băng ngồi xuống, thầm nghĩ, ngươi càng tức, ta càng vui, bèn thổi ngay khúc “Hỷ dương dương”.

Ánh trăng lãng đãng trên sông, hoa trên thuyền lặng lẽ tỏa hương, gió hiu hiu, cảnh tuyệt diệu như vậy làm nền cho tiếng sáo trầm bổng, khúc “Hỷ dương dương” của A La tiết tấu vui nhộn, nhưng Lưu Giác nghe không thấy vui. Chàng liếc nhìn đôi mắt A La cười như hai vành trăng khuyết, cái đầu nhỏ nhắn đung đưa theo tiếng sáo, cảm giác trong lòng chàng không biết là khóc hay cười, thầm nghĩ, a đầu này bề ngoài hình như không tỏ ra tức giận, nhưng trong lòng rất lắm tiểu chiêu. Nghe xong, không đợi A La mở miệng, nói luôn: “Nghe nói đại tỷ nàng chỉ đàn khúc “Thu thủy” mà được lòng thái tử, Lý gia dòng dõi thư hương, liệu có thể chơi một khúc? Ta thưởng nguyệt trên sông, hãy chơi khúc “Thu nguyệt” đi!”.

A La nghĩ đến chuyện đánh đàn thay Thanh Lôi, bèn nói: “Tiểu nữ không biết chơi đàn, con gái Lý gia mỗi người học một ngón khác nhau, tiểu nữ chỉ biết thổi sáo”.

Nàng càng nói không biết, Lưu Giác càng làm khó, chàng đảo mắt nói: “Tiểu vương chỉ muốn nghe đàn. Vốn tâm trạng đã rất tốt, chỉ đợi nàng đánh đàn xong là thanh toán nợ nần, không đến làm phiền nàng nữa, nàng lại nói không biết chơi, như vậy được sao?”.

Mặc chàng nói thế nào, A La vẫn nhớ kỹ, nếu để lộ mình biết chơi đàn tất sẽ gieo mầm họa, chỉ một mực lắc đầu. Lưu Giác không thuyết phục được nàng, nói với hầu nữ bên ngoài: “Mang đàn ra đây!”.

Lưu Giác ngồi xuống một chiếc ghế thấp, hai tay vuốt nhẹ, một chuỗi âm thanh vút lên, chàng đánh khúc “Bội Ian”. A La nhận thấy Lưu Giác cũng là người hay đàn, chàng chơi khá thành thục. Lại nhớ ra khúc nhạc mà Cố Thiên Lâm đã đàn trong Đào hoa yến, thấy Lưu Giác đàn rất chuyên chú, say mê, thầm nghĩ, thì ra Lưu Giác đang hận vì Tử Ly sắp cưới ý trung nhân của chàng ta, bèn không nén nổi ý nghĩ chọc tức chàng: “Hoàng đế đã ban hôn, chưa biết chừng Tử Ly đã để ý tới Cố gia tiểu thư từ lâu, ai bảo tiểu vương gia ra tay muộn!”.

Lưu Giác đặt tay lên phím đàn, “phầng" một tiếng, tiếng đàn đột ngột dừng lại: “Lưu Phi và Cố gia tiểu thư là một đôi trời định, rất xứng đôi!”.

A La nghĩ, chẳng lẽ ngươi định khích ta? Nàng vênh cằm cười: “Đúng vậy, tiểu nữ cũng thấy họ rất xứng đôi, một người chơi đàn, một người thổi tiêu, phu xướng phụ tùy, chắc chắn mạnh hơn một số người cô độc thở than”.

Lựu Giác lại không thấy bực, chỉ nói: “E rằng ngay tiếng đàn của Cố tiểu thư, Lưu Phi cũng chưa nghe, Đào hoa yến huynh ấy không dự”.

A La bê lên một cốc trà, thong thả uống: "Bây giờ chưa nghe cũng không sao, sau này nghe càng thú vị! Hai người trai tài gái sắc, như tiểu vương gia nói đấy, rất xứng đôi!”. Không biết tại sao, nàng rất muốn chọc cho Lưu Giác tức khí, nổi máu ghen.

Lưu Giác nói: “Sau này Lưu Phi đã có Cố Thiên Lâm, còn tâm trạng để ý đến nàng không? Muốn huynh ấy suốt ngày đưa nàng xuất phủ du ngoạn e khó rồi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách