|
Chương 10
Hai giờ 32 sáng thứ sáu
Sau này, trong cuộc điều trần không thể tránh khỏi trước Quốc hội Mỹ, người ta đã tập trung nhiều về việc xác định chính xác thời điểm và cách thức các cơ quan tình báo Hoa Kỳ nắm được hiểm hoạ sắp giáng xuống Luân Đôn.
Câu trả lời là 2 giờ 32 sáng theo giờ địa phương, khi một cú điện thoại từ một người được xác định là “nguồn tin tình báo hải ngoại”, đến trên đường dây khẩn cấp trong dãy văn phòng điều hành ở tầng bảy thuộc Tổng hành dinh CIA ở Langley, Virginia. Nguồn tin tình báo hải ngoại, dù chưa được xác định, chính là Gabriel và đường dây khẩn cấp anh đã quay số chính là của Adrian Carter, Phó giám đốc nghiệp vụ của CIA. Trong thời điểm bình thường, cuộc gọi này có thể đã được chuyển đến nhà Carter ở gần MCLean. Tuy nhiên, đây gần như không phải thời điểm bình thường và mặc dù ở thời điểm nguy cấp, Carter vẫn đang đứng ở cửa sổ văn phòng nóng lòng chờ đợi thông tin về kết quả của một chiến dịch nhạy cảm đang thực hiện ở vùng núi Pakistan.
Ngoài hướng nhìn thẳng ra sông Potomac, ít có lý do nào cho thấy văn phòng của Carter là một trong những nơi nhiều quyền lực nhất của cơ quan tình báo quy mô ở Washington. Cũng không ai đoán được gì nhiều từ bề ngoài có vẻ mộ đạo của Carter. Chỉ vài người ở Wasington biết rằng Adrian Carter nói thông thạo bảy thứ tiếng và có thể hiểu ít nhất bảy thứ tiếng nữa. Cũng ít người biết rằng Carter, trước khi trở thành một nhân vật quen thuộc của tầng bảy tại Langley, đã là một trong những chiến binh giấu mặt trung thành nhất của quốc gia.
Dấu tay của ông đã từng để lại trên mọi chiến dịch ngầm quan trọng của Hoa Kỳ trong những năm vừa qua. Ông đã tham dự vào việc lấp liếm kết quả bầu cử, lật đổ chính quyền và giả mù trước những vụ hành quyết và ám sát nhiều hơn anh có thể đếm được. Tính khoan nhượng ít có trong cách xử sự của Carter. Carter chuyên về nghiệp vụ, ông ta chỉ thực hiện những gì được giao mà thôi. Chỉ trong vòng một năm, chính ông đã làm nhiệm vụ của Chúa ở Ba Lan, dựng lên thể chế ma quỷ ở Salvado. Hay chuyện ông trút đô la và súng bắn tên lửa lên những chiến binh Hồi giáo thánh chiến ở Afghanistan, dù ông biết một ngày nào đó họ sẽ trút đạn và sự chết chóc lên người mình.
Nhưng ngày nay, sống thọ là thành tựu đáng nói nhất của Carter. Những hiền triết ở Langley thích đùa rằng cuộc chiến chống khủng bố đã làm thiệt mạng thêm nhiều người trong Ban chỉ huy chiến dịch hơn trong hàng ngũ lãnh đạo al-Qeada. Dù sao Carter cũng còn sống. Ông đã sống sót qua những cuộc thanh trừ bằng máu với những con dao dài, súng, mìn và cả nỗi sợ hãi. Bí mật cho sự sống sót của ông là ở chỗ ông thường dự đoán đúng. Mùa hè năm 2001, ông đã cảnh báo rằng al-Qeada đang lên kế hoạch tấn công lớn vào nước Mỹ. Mùa đông năm 2003, ông báo động một số nguồn tin về chương trình vũ khí đáng nghi ngờ của Irắc, nhưng do tin đó bị sếp của ông bác bỏ. Và khi chiến tranh trở nên ác liệt ở khu Lưỡng Hà, ông đã viết một công hàm bí mật dự báo Irắc sẽ trở thành một Afghanistan mới, nơi sản sinh ra thế hệ kế tiếp của những kẻ thánh chiến, một thế hệ sẽ tàn bạo hơn và khó lường trước hơn những thế hệ trong quá khứ. Carter đã khẳng định không dựa trên bất cứ sự phân tích đặc biệt nào, mà bằng dự cảm riêng của mình. Mười lăm năm sau, trong một căn nhà tồi tàn ở Peshawar, một người đàn ông râu ria đội khăn xếp đỏ đã báo cho ông biết rằng, một ngày nào đó những lực lượng Hồi giáo sẽ biến Hoa Kỳ thành tro bụi. Carter tin lời người đàn ông trong trí tưởng tượng ấy.
Và chính Carter này – Carter mật vụ, Carter sống sót, Carter bi quan – người mà trong buổi sáng sớm ngày thứ sáu xui xẻo tháng 12 đó, mệt mỏi đưa điện thoại lên tai chờ một tin từ một vùng đất xa xôi. Thay vào đó ông lại nghe thấy gọng của Gabriel và được cảnh báo là sẽ có một vụ tấn công ở Luân Đôn. Carter tin lời Gabriel.
Carter ghi số của Gabriel rồi ngắt điện thoại, ngay lập tức ông quay số đến bàn nghiệp vụ tại Trung tâm chống khủng bố Quốc gia.
Sỹ quan trực hỏi. “Thông tin này có đáng tin cậy không?”.
“Đủ tin cậy để tôi gọi anh lúc 2 giờ 34 phút sáng đấy”, Carter cố giữ bình tĩnh. “Anh hãy báo cho RSO tại Đại sứ quán bằng điện thoại ngay lập tức, bảo ông ta dốc toàn lực và nhân viên vào vị trí chiến đấu cho đến khi chúng ta kiểm soát được tình hình”.
Carter gác điện thoại trước khi người sĩ quan trực có thể đặt một câu hỏi điên rồ nào khác, ông ngồi thừ ra và cảm thấy hoàn toàn vô dụng. Ông nghĩ: đồ NCTC chết tiệt. Ông sẽ đưa vấn đề vào tầm kiểm soát. Ông quay số chi nhánh CIA ở Đại sứ quán Luân Đôn và một lúc sau đã nói chuyện với Kevin Barnett, Phó COS (phó giám đốc CIA tại Đại sứ quán Luân Đôn). Khi Barnett mới nói chuyện, giọng ông khá run.
“Sáng nào cũng có một nhóm nhân viên Đại sứ quán chạy bộ trong công viên Hyde Park”.
“Anh chắc không đấy?”.
“Thường thì tôi tham gia mà”
“Còn ai chạy ở đó?”
“Sỹ quan Trưởng phòng báo chí, liên lạc FBI, sỹ quan an ninh khu vực…”
“Ôi lạy Chúa”, Carter cướp lời.
“Tình hình chuyển biến tệ hơn”.
“Tệ hơn thế nào?”.
“Elizabeth Halton”.
“Con gái ngài đại sứ phải không?”
“Đúng”
“Họ rời đi lúc mấy giờ?”.
“Đúng 5 giờ 15”.
Carter nhìn đồng hồ. Lúc đó là 7 giờ 36 phút ở Luân Đôn.
“Hãy bảo họ trở về Đại sứ quán đi Kevin. Tự họ phải chạy qua công viên Hyde Park nếu không có cách nào khác”.
Âm thanh tiếp theo Carter nghe được qua điện thoại là tiếng Phó COS ở Luân Đôn đóng mạnh cửa. Carter gác điện thoại, chờ 10 giây rồi gọi lại cho Gabriel.
Ông nói: “Tôi nghĩ có một nhóm của đoàn ngoại giao đang chạy bộ trong công viên Hyde Park. Anh có thể đến chỗ đó trong bao lâu?”.
Carter nghe một tiếng cách khác nữa.
Họ đã vào công viên từ cổng Brook, chạy xuống phía nam dọc theo đường Broad Walk đến góc Hyde Park, rồi sang phía tây dọc theo đường Rotten, qua Vườn Hồng và khu Dell. Elizabeth Halton chạy lên trước khi họ đến đài tưởng niệm Albert; sau đó cô nhanh chóng tăng tốc khi họ chạy lên hướng bắc đường Lancaster Walk để sang đường Bayswater. Jack Hammond, phát ngôn viên Đại sứ quán, chạy qua mặt Elizabeth rồi hướng nhanh đến cổng Victoria và chạy xuống đường West Carriage Drive đến bờ khu Serpentine. Khi họ đến chỗ nhà thuyền, một chiếc điện thoại di động vang lên. Đó là điện thoại của Chris Petty, người của RSO.
***
Chúng trông như những cái va li đang lăn bình thường. Nhưng thật ra không hoàn toàn như thế. Cạnh và bánh xe được trợ lực để chịu được sức nặng của thuốc nổ, nút trên những chiếc tay cầm có thể gấp xuống được nối với bộ kích nổ. Những cái va li này là tài sản của bốn người đàn ông đang tiếp cận bốn mục tiêu khác nhau cùng một lúc. Những ga tàu điện ngầm tại các khu vực rạp xiếc Piccadilly, quảng trường Leicester, ngã tư Charing, và Nhà mái vòm. Những người này không biết gì về nhau, nhưng giữa họ có nhiều điểm chung. Cả bốn đều là người Ai Cập. Cả bốn đều là người Hồi giáo Takfiri coi cái chết của mình cũng rẻ mạt như mạng sống của những người ngoại đạo. Cả bốn đều đang đeo đồng hồ kỹ thuật số Seiko sẽ báo thức đúng 7 giờ 40 phút sáng.
Gabriel mất 2 phút thay quần áo rồi lấy khẩu Beretta và mất một phút nữa để đi xuống tầng dưới và ra đường. Đèn tín hiệu giao thông trên Bayswater đang đỏ khi anh đến. Anh không dừng lại mà phóng nhanh qua luồng giao thông đang ập đến để vào công viên. Đúng lúc đó anh nghe thấy một tiếng nổ vang lên và cảm thấy mặt đất rung chuyển dưới chân mình. Anh dừng lại một chút, không chắc chắn về những gì mình vừa nghe và cảm thấy, sau đó anh quay người chạy nhanh đến khu vực giữa công viên.
Chris Petty đã chạy chậm lại rồi dừng hẳn, rút điện thoại khỏi kẹp gắn với thắt lưng quần tập thể thao.
Anh nói lớn. “Các bạn chứ chạy đi. Cứ đi theo lộ trình thường ngày. Tôi sẽ đuổi kịp nếu có thể”. |
|