|
Chương 20
(tiếp theo)
“Em không muốn đi xa đến thế”. Cô nhìn xuống lần nữa, rồi một cái bóng hình như lướt qua mắt cô. “Không ai ở Langley biết liệu Elizabeth Halton có trải qua chuyện này tốt hơn em không. Có lẽ là lí do tại sao Adrian chọn em cho công việc này. Ông ta là cựu sĩ quan hiện trường. Ông ta luôn biết cách tìm ra những phương án hữu hiệu nhất”.
“Anh biết mà”.
Cô ngước nhìn anh khi chiếc Gulfstream hạ cánh xuống đường băng. “Thế ta sẽ đi đâu?”.
“Đầu tiên ta sẽ dừng một thời gian ngắn ở Tel Aviv để họp với đội của anh. Sau đó ta sẽ đi Amsterdam để nói chuyện nhẹ nhàng với một người sẽ giúp ta tìm ra Elizabeth Halton”.
“Người đó em biết không?”.
“Có lẽ là không”.
“Kể cho em nghe về người đó đi”, cô nói.
Gabriel chờ đến khi máy bay lên hẳn mới kể cho cô nghe mọi chuyện.
Vào buổi sáng hôm sau, ngay khi bình minh vừa ló dạng, họ đã đến đại lộ King Saul ở Tel Aviv. Gabriel dừng nhanh tại bàn nghiệp vụ lấy hình ảnh theo dõi đầu tiên của Eli Lavon và xem những báo cáo gửi từ Amsterdam đến, sau đó anh dẫn Sarah đi dọc theo một hành lang ngầm dẫn tới một cánh cửa đánh số 456C. Trong nhiều năm qua, căn phòng này không được sử dụng làm gì ngoài việc chứa máy tính và đồ đạc văn phòng cũ, nơi đây thường được nhân viên ca đêm sử dụng làm chỗ hẹn hò lãng mạn. Giờ nó được mọi người khắp đại lộ King Saul gọi là Hang ổ của Gabriel. Có một tấm bảng bằng giấy dán lên cửa với dòng chữ viết bằng nét chữ Hebrew: UỶ BAN NGHIÊN CỨU SỰ ĐE DOẠ KHỦNG BỐ Ở TÂY ÂU. Tấm bảng đã có tác dụng tốt đối với anh qua hai chiến dịch quyết liệt. Gabriel quyết định tạm thời cứ để vậy. Anh mở khoá số rồi mở đèn bước vào trong. Căn phòng vẫn y nguyên như khi anh đi khỏi cách đây một năm. Một bức tường đầy những hình ảnh, một bức tường có sơ đồ đế chế kinh doanh toàn cầu, bức thứ ba có một bộ sưu tập những bức tranh thuộc trường phái ấn tượng. Chiếc bảng phấn của Gabriel đứng chơ vơ trong góc, mặt bảng trống không, chỉ duy nhất có một cái tên: SARAH BANCROFT. Cô chậm rãi theo anh vào trong, giống như là bước vào một căn phòng bị bỏ quên từ thời thơ ấu, cô nhìn những bức ảnh: Zizi al-Bakari chụp với cô con gái, Nadia bên cạnh; Abdul và Abdul, những luật sư học ở Mỹ; Herr Wehri, Giám đốc ngân hàng Thuỵ Sỹ, Bin Talal, Trưởng bộ phận an ninh, Jean-Michel, huấn luyện viên người Pháp và người hành hạ Sarah. Tất cả đều phục vụ Zizi. Cô quay người nhìn sang Gabriel.
“Anh lên kế hoạch cho mọi thứ từ đây à?”.
Anh gật đầu chậm rãi. Cô nhìn quanh căn phòng với ánh mắt đầy hoài nghi.
“Vậy mà em đã nghĩ là mọi thứ ở đây, phải hiện đại lắm…”, giọng cô lạc hẳn, rồi nói tiếp. “Và phải ấn tượng hơn rất nhiều”.
“Đây là văn phòng, Sarah, không phải là Langley. Bọn anh thích làm việc theo cách cũ”.
“Dĩ nhiên rồi”, cô nhìn tấm bảng. “Em chưa thấy tấm bảng viết phấn nào kể từ khi kết thúc bậc tiểu học”.
Gabriel mỉm cười, bắt đầu gỡ những tàn dư của chiến dịch al-Bakải khỏi những bức tường trong phòng khi những thành viên khác trong đội đi chầm chậm qua cửa. Không cần giới thiệu, vì Sarah biết hết và quý mến tất cả. Người đến đầu tiên là Yossi, một trí thức cao ráo, hói đầu, từ ban Nghiên cứu của Văn phòng, người đã học những kiến thức cổ điển ở Oxford và vẫn nói tiếng Hebrew với cách nhấn giọng của người Anh. Người kế tiếp là Dina Sarid, một cuốn từ điển bách khoa toàn thư thực thụ về khủng bố đến từ ban Lịch sử, người có thể nhắc lại thời gian, địa điểm và số thương vong của mỗi sự kiện bạo lực chống lại Israel. Mười phút sau có mặt Yaakov, một sĩ quan hiện trường dày dạn kinh nghiệm trận mạc đến từ phòng các vấn đề Arập của Shabak, theo sau là Rimona, Thiếu tá của IDF, nhà phân tích cho AMAN, cơ quan tình báo quân sự Israel. Oded, một nhân viên hoạt động chiến trường đa năng, con nhà nòi chuyên về các vụ bắt cóc, đến lúc tám giờ mang theo bữa sáng cho mọi người, và Mordecai, một người mảnh khảnh xử lý tất cả mọi thứ về điện tử, đến mười lăm phút sau, trông như thể đêm trước anh ta đã không ngủ chút nào. Người cuối cùng đến là Mikhail, một tay súng mắt xám sinh ra ở Nga, người đã một tay hạ sát một nửa lực lượng khủng bố của Hamas và Thánh chiến Hồi giáo Palestine. Nhờ Mikhail và khả năng sử dụng súng hoàn thiện của anh mà đến giờ Sarah vẫn cón sống. Cô hôn lên má anh ta khi Gabriel bước đến trước phòng ghim những hình ảnh theo dõi của Lavon lên bảng thông báo.
“Mọi người đã biết nhau cả rồi”, anh nói. “Đã đến lúc phải đi thẳng vào công việc. Đây là người sẽ dẫn chúng ta đến chỗ Elizabeth Halton. Hắn là thành viên sáng lập tổ chức Thanh kiếm Allah, hiện đang sống ở Amsterdam. Chúng ta sẽ làm cho hắn biến mất trong không khí. Sau đó sẽ vắt khô hắn. Ta phải làm việc nhanh gọn và không được phạm sai lầm”.
Văn phòng tự hào về khả năng ứng biến qua những thời điểm khủng hoảng, nhưng ngay cả Văn phòng, dù được ca ngợi cũng bị áp lực bởi những yêu cầu của Gabriel. An toàn là mối quan tâm lớn nhất của anh, và ban quản lí bất động sản, bảo trì và mua lại bất động sản cho Văn phòng, là đối thủ cứng đầu nhất của Gabriel. Không như những thành phố như Paris, Luân Đôn và Rome – nơi mà Văn phòng có hàng chục căn hộ an toàn, Amsterdam không có nơi nào được bảo vệ tốt. Điều đó có nghĩa là cần phải mua ngay nhà ở và mua trên thị trường công khai, đó là việc mà ban Quản lý bất động sản không bao giờ muốn. Đến 10 giờ, họ đã có được hợp đồng thuê sáu tháng đối với căn hộ hai phòng ngủ trên con kênh đào Herengracht, đến 11 giờ họ thuê được một chiếc du thuyền làm nhà sang trọng ở khu Prinsenrgacht tên là Heleen. Nhưng Gabriel cần một căn nhà đủ lớn cho cả đội và nó phải đủ xa để sự có mặt của họ không bị phát hiện. Anh đã hình dung ra mảnh đất đó – một ngôi nhà ọp ẹp ở miền quê ở ngoại ô Oldenburg mà họ đã sử dụng trong chiến dịch Cơn thịnh nộ của Chúa – và cuối cùng anh xen vào quyết định của ban Quản lý bất động sản để họ phải nghe theo ý mình.
Khi ban Quản lý bất động sản đầu hàng, những việc còn lại giống như chơi bài domino. Đến trưa, ban Hành trình đã sắp xếp được một loạt những chiếc xe thuê không thể truy tìm tung tích. Và đến 1 giờ, phòng Căn cước đã lo đủ hộ chiếu cho phép mọi thành viên trong đội đi lại bằng hộ chiếu châu Âu. Ban Ngân hàng không đồng ý yêu cầu của Gabriel là cần có một chiếc vali đầy tiền mặt nhưng lúc 1 giờ 30 anh đã sắp xếp được, mười phút sau đội vũ trang rời ngân hàng mang theo một chiếc cặp đựng 50 ngàn đô la và một chiếc cặp khác 50 ngàn tiền euro đang lưu hành.
Đến giữa buổi chiều, những thành viên đầu tiên trong đội đã lặng lẽ ra khỏi đại lộ King Saul hướng ra sân bay Ben Guiron. Oded, Mordecai và Rimona rời lúc 3 giờ30 đáp chuyến bay đi Bỉ. Một tiếng sau Yossi, Yaaskov và Dina rời đi trên chuyến bay của hãng Lufthansa đến Frankfurt. Gabriel và Sarah đi cuối cùng, và sau 8 giờ một chút, họ đã có ghế ngồi trên khoang hạng nhất chuyến bay tối của Hãng hàng không El Al đi Pais. Khi những hành khách còn lại làm thủ tục lên máy bay, Gabriel gọi điện thoại cho Chiara cho biết mình đã về nước và chuẩn bị đi tiếp. Cô không hỏi anh đi đâu. Cô không cần biết. |
|