Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Kẻ Phụng Sự Thầm Lặng | Daniel Silva (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
41#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 16:20:56 | Chỉ xem của tác giả
Chương 23
(tiếp theo)

Scanlon nhìn đồng hồ. “Chín phút thưa ngài”.

Tổng thống nhìn từ thư ký báo chí cho tới Cố vấn an ninh quốc gia. “Tôi cần biết xem mình có đưa những chiến dich nhạy cảm nào đến chỗ nguy hiểm hay không nếu nói chuyện này trước công chúng. Hãy nối máy cho tôi với Giám đốc CIA. Cả Bộ trưởng Ngoại giao nữa”.

“Vâng, thưa ngài”.

Tổng thống nhìn Scanlon lần nữa. “Giả sử không có ai phản đối, anh muốn tôi thực hiện điều này ở đâu?”.

“Theo ý tôi, phòng hội thảo có vẻ phù hợp”.

“Không ai được đặt bất kỳ một câu hỏi nào?”.

“Tôi sẽ nói rõ với các phóng viên về điều này”.

“Anh định xử lí vụ Malissa Stewart thế nào?”.

“Ta phải hứa với cô ấy điều gì đó”, Scanlon nói. “Điều gì đó thật quan trọng”.

“Ta không thể kêu gọi cô ấy cần có thái độ đúng đắn và biết yêu nước à?”.

“Chúng ta đang nói về Melissa Stewart, thưa Tổng thống. Tôi không chắc cô ấy có động lòng hay không, chưa nói gì đến lòng yêu nước”.

Tổng thống thở dài. “Anh có thể cho cô ấy biết cuộc phỏng vấn đầu tiên tôi thực hiện sau cuộc nói chuyện này sẽ dành cho đài NBC. Điều đó sẽ làm cô ấy vui”.

“Điều đó sẽ gây cho tôi rắc rối trong phòng báo chí đấy thưa ngài”.

”Tôi e đó là những vấn đề của anh, không phải của tôi”.

“Cho phép tôi được soạn văn bản cho ngài”.

Tổng thống lắc đầu. “Tôi tự lo được”.

Melissa Stewart kéo áo khoác chuẩn bị bước ra sân phía Bắc thì điện thoại trong buồng lưu động của cô vang lên.

“Anh có nghĩ là đang gấp gáp lắm không?”

“Tôi rất tiếc Melissa. Có lúc tôi quên mất cô chính là trung tâm vũ trụ”.

“Tôi trễ một cảnh quay quan trọng rồi, Nick”.

“Huỷ đi”

“Thế anh có gì cho tôi nào?”

“Tổng thống sẽ vào phòng hội thảo trong 20 phút nữa để cho thế giới biết rằng tổ chức Thanh kiếm Allah đang giữ Elizabeth Halton làm con tin và chúng đang yêu cầu phóng thích Sheikh Abdullah. Trước khi ông ta xuất hiên, cô có thể tường thuật rằng đài NBC biết được tin Elizabeth đang bị giam giữ bởi những kẻ dân quân người Ai Cập, rằng Tổng thống sẽ nói rõ về tình hình này. Nếu cô theo đó mà tường thuật, đài của cô sẽ có cuộc phỏng vấn riêng đầu tiên với Tổng thống khi xong vụ này. Nếu không, tôi sẽ dành khoảng thời gian còn lại ở Nhà Trắng để làm khổ đời cô đấy. Ta thoả thuận vậy được không?”.

“Tôi tin là được”.

“Gặp cô trong phòng hội thảo mười phút nữa. Đừng cố qua mặt tôi nhé. Tôi sẽ lắng nghe kỹ lắm đó”.

Tổng thống Hoa Kỳ bước đến bục diễn thuyết trong phòng hội thảo đúng 1 giờ 30 phút chiều theo giờ bờ Đông, thông báo cho thế giới biết rằng con gái đỡ đầu của ông đã bị một tổ chức khủng bố Ai Cập gọi là Thanh kiếm Allah bắt làm con tin. Để đổi lấy tự do cho Elizabeth, bọn khủng bố đòi Hoa Kỳ phóng thích Sheikh Abdullah Abdul-Razzaq. Tổng thống nói rõ đó là yêu sách không bao giờ đáp ứng được. Ông kêu gọi bọn khủng bố trả tự do cho Elizabeth ngay lập tức, ông cũng cảnh báo chúng và những kẻ bảo trợ cho chúng rằng chúng sẽ bị đưa ra toà, và ông cám ơn nhân dân Mỹ vì đã cầu nguyện và ủng hộ trong những ngày qua.

Lúc 1 giờ 32, Tổng thống bước ra khỏi bục diễn thuyết, để cho Nicholas Scanlon, thư ký báo chí của ông, một mình đối mặt với cánh báo chí đang sững sờ.

Adrian Carter nhấn nút MUTE trên cái điều khiển từ xa rồi nhìn cửa văn phòng, nơi Shepard Cantwell, Phó giám đốc tình báo, đang đứng chờ.

“Anh nghĩ gì?”, Cantwell hỏi.

Carter ngập ngừng trước khi trả lời. Shepard Cantwell chỉ hỏi những câu của người khác khi anh muốn tìm ý kiến của chính mình. Cantwell không làm được. Anh ta chuyên về phân tích.

“Tôi nghĩ Tổng thống đã hành động đúng đắn trong hoàn cảnh này”, Carter nói. “Ông ấy đã nói rõ với Thanh kiếm Allah rằng chúng ta sẽ không trở thành con tin và sẽ không đàm phán”.

“Anh cho rằng Thanh kiếm Allah thực sự muốn đàm phán à? Tôi không chắc chuyện đó”, Cantwell bước vào văn phòng Carter rồi ngồi xuống. “Những nhà phân tích của chúng ta đã chú tâm vào mỗi lời Sheikh Tayyib Abdul Razzaq đã viết hay nói trước công chúng: những bài thuyết pháp, fatwa, những bài phỏng vấn, bất kỳ thứ gì ta có thể chạm vào. Cách đây vài năm, ông ta đã trả lời phỏng vấn cho tờ báo tiếng Arập của Luân Đôn trong những điều kiện vô cùng bí mật ở nơi nào đó của Ai Cập. Trong cuộc phỏng vấn đó, vị lãnh đạo Hồi giáo này được yêu cầu nói đến khả năng dễ xảy ra nhất, khi đó người hồi giáo có thể lên nắm quyền ở Ai Cập – một cuộc bầu cử, đảo chính hay nổi dậy lan rộng. Vị lãnh đạo Hồi giáo này trả lời rất rõ. Ông ta nói cách duy nhất để người Hồi giáo nắm quyền ở Ai Cập là kích động dân chúng nổi dậy chống những kẻ áp bức. Biểu tình, bạo động, đụng độ trên đường phố với quân đội. Kiểu như vụ nổi dậy từ vùng châu thổ sông Nile đến thượng Ai Cập”.

“Thế quan điểm của anh là gì, Shep?”.

“Sheikh Tayyib Abdul Razzaq là kẻ cuồng tín sát nhân hàng loạt, hắn tỏ ra là người thông minh sắc sảo. Bằng chứng là hắn vẫn còn sống sau nhiều năm. Hắn phải biết được ta sẽ không bao giờ chấp nhận yêu cầu phóng thích người anh của hắn để đổi lấy Elizabeth. Nhưng có lẽ hắn thực sự không cần anh mình. Có lẽ những gì hắn muốn chỉ là cuộc nổi dậy”.

“Và hắn nổi đình đám bằng cách kích động sự đối đầu với ta?”.

“Vào thời điểm này, các cơ quan an ninh Ai Cập đang xới tung đất nước này lên để giúp những người Mỹ ngoại đạo tìm ra con gái ngài đại sứ tỷ phú”, Cantwell nói. “Hãy nghĩ điều đó làm sao tác động đến người Hồi giáo Ai Cập đang sống trong nghèo khó cùng cực, những người bị mất cha anh trong những phòng tra tấn. Những phòng tra tấn đó đang đầy chỗ khi ta nói chuyện, khi chính quyền này đang tìm một phụ nữ Mỹ”.

“Thế tình hình Ai Cập hiện giờ thế nào?”.

“Các báo cáo từ trạm Cairo cho biết tình hình hết sức xấu. Thực ra, còn tệ hơn bất kỳ ai đã thấy. Nếu chuyện này kéo dài thêm nữa, Sheikh Tayyib Abdul Razzaq sẽ nổi dậy. Và lịch sử sẽ nhớ đến Tổng thống của chúng ta như là người đã làm mất đồng minh Ai Cập”.

Cantwell đứng dậy định bước đi, rồi bất ngờ dừng lại. “Còn chuyện này”, ông nói. “Tổng thống vừa gửi đến người bạn chúng ta, Sphinx, thông điệp rất rõ ràng. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu Sphinx gửi thông điệp trả lời. Nếu là anh, tôi sẽ gọi điện thoại cho bên an ninh nội địa nâng thông báo tình trạng khẩn cấp quốc gia ngay lập tức”.

“Nâng cỡ nào?”.

“Màu đỏ”, Cantwell nói khi bước ra khỏi phòng. “Màu của máu”.

Caretrr nhìn đồng hồ. Lúc đó là 1 giờ 37 chiều. Buổi cầu nguyện tối của người Hồi giáo vừa mới bắt đầu ở Amsterdam. Ông nhìn điện thoại, chờ tiếng chuông
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

42#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 16:22:19 | Chỉ xem của tác giả
Chương 24
Khu Oud West, Amsterdam

Bảy giờ 9 phút tối thứ hai

Một làn gió lạnh làm Ibrahim Fawaz đứng im khi mở cửa giáo đường Al Hijrah. Giờ là mùa đông thứ hai mươi lăm của hắn ở Hà Lan mà hắn vẫn chưa quen với giá lạnh. Thượng đế và số phận đã mang hắn đến đây, đến khu vườn bằng khối than xỉ và xi măng ở miền bắc châu Âu, nhưng trong tim hắn vẫ là một ibn balad từ Thượng Ai Cập đến – một người con của đất và sông. Hắn đứng ở tiền sảnh một lúc, bẻ cổ áo khoác lên, xiết chặt khăn quàng cổ rồi bước ngập ngừng vào con phố dưới ánh mắt theo dõi của hai nhân viên cảnh sát Amsterdam có đôi má hồng hào. Hắn pha trò với họ bằng tiếng Hà Lan lưu loát, sau đó quay người bước dọc phố Jan Hazenstraat.

Hai sĩ quan cảnh sát là những người túc trực thường xuyên bên ngoài giáo đường. Al Hijrah đã bị những điều tra viên Hà Lan lục soát hai lần do vụ tấn công ở Luân Đôn. Hồ sơ và máy tính bị thu giữ, thầy tế và vài cộng sự bị thẩm vấn về sự liên hệ với Samir al-Masri và những thành viên khác trong nhóm. Tối nay, thầy tế kết tội những kẻ ngoại đạo đã dùng vụ tấn công ở Luân Đôn và vụ sát hại Solomon Rosner làm minh chhứng cho sự trừng trị không nương tay đối với Hồi giáo ở Hà Lan. Ibrahim Fawaz trước đó đã sống qua cái thời đàn áp Hồi giáo, vụ đó được thực hiện tàn bạo và dã man đến mức mà người châu Âu ngay cả trong ác mộng cũng không tưởng tượng ra được. Vị thầy tế này đã mượn cuộc điều tra của cảnh sát là cái cớ để làm rùm beng lên. Nhưng rồi đó lại là việc hắn làm tốt nhất. Đó là lí do thầy tế được cử đến Amsterdam.

Một chiếc xe vượt qua, Ibrahim thấy bóng mình kéo dài trên vỉa hè trước mặt rồi biến mắt khi chiếc xe chạy qua. Hình như ba chiếc đèn gần cuối phố không sáng. Trong công viên nhỏ trên bờ kênh, có một người đàn ông ngồi một mình trên băng ghế. Anh ta có gương mặt tái, đôi mắt đen như ma, ốm như cỏ sậy sông Nile. Ibrahim nghĩ, tên này nghiện heroin đây. Tất cả họ đều không phải người ở Amsterdam. Họ đến từ châu Âu và Mỹ, lợi dụng luật cho phép sử dụng ma tuý của Hà Lan và những lợi ích trợ cấp xã hội rộng rãi, rồi khi đã dính vào, nhiều người không còn sức và ý chí để sống tiếp.

Ibrahim đưa mắt nhìn xuống vỉa hè quanh góc phố. Cảnh tượng kế tiếp còn xúc phạm người Hồi giáo hơn cả tên nghiện heroin đang ngồi một mình trong công viên giá lạnh. Đó cũng là cảnh đã nhìn thấy quá thường xuyên ở Amsterdam: hai người đàn ông mặc đồ da quấn lấy nhau trong bóng tối cạnh chiếc bán tải Volkswagen. Ibrahim bất ngờ dừng lại, giận dữ vì hành động xấu xa mà mình đang chứng kiến. Hắn chắc mình có nên đi qua nhanh, ngoảnh mặt đi chỗ khác hay chạy trốn theo hướng ngược lại.

Hắn quyết định sử dụng cách thứ hai, nhưng bỗng cửa sau của chiếc bán tải mở toang, một người như chú lùn ranh mãnh nhảy ra nắm cổ họng hắn. Sau đó hai người đàn ông kia thình lình không còn quan tâm đến nhau nữa mà lại quay sang hắn. Có người nào bóp miệng hắn. Một người khác bóp cổ làm cho cả cơ thể hắn quỵ xuống. Hắn nghe tiếng cửa đóng lại rồi chiếc bán tải vút đi. Một giọng nói bằng tiếng Arập ra lệnh cho hắn đứng im và câm họng. Sau đó, không ai nói nữa. Ibrahim không biết ai đang bắt mình. Hắn chỉ biết chắc một điều, là nếu không làm y hệt những gì kẻ bắt cóc muốn, thì hắn sẽ không bao giờ nhìn thấy Amsterdam hay vợ của mình nữa.

Ibrahim nhắm mắt cầu nguyện. Một hình ảnh hiện lên tự sâu trong ký ức, một hình ảnh đứa bé đầy máu bị treo lên trần nhà của phòng tra tấn. Đừng, hắn cầu nguyện. Allah, xin đừng để điều đó xảy ra lần nữa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

43#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 19:33:55 | Chỉ xem của tác giả
Phần 3: Sự Hy Sinh Của Isaac

Chương 25
Miền Bắc Nước Đức

10 giờ 18 phút tối ngày thứ hai

Người quản lí nhóm những người chuyên làm công việc quản gia rất thích căn nhà như căn 22XB. Ở một nơi lạc hậu như thế này thì căn nhà giống như lâu đài cổ vậy. Nó đứng cách con đường riêng của nông trại khoảng chừng 100 thước Anh, phía cuối con đường đầy những vết xe lún và những thân cây trơ trọi. Mái nhà nghiêng dốc xuống, phủ đầy tuyết xốp vào buổi tối. Mành sáo thì bị mất vài miếng lát và gục xuống như một kẻ say rượu. Đằng trước kiến trúc bằng gỗ này có 4 cái lỗ, chứng tỏ trước đây có một ban công đã bị tháo đi.

Buổi họp không ở trong nhà mà lại diễn ra trên lối đi vào dành riêng cho người giúp việc ở phía cửa trước, gần rìa sân ngôi nhà cũ kỹ này. Họ đến trên 4 chiếc xe, mọt chiếc hiệu Vilkswagen, 2 chiếc mui kín hiêu Renault và nổi bật hơn cả là chiếc xe bóng nhoáng hiệu Audi 18; và nếu như có ai đó hỏi thăm mục đích của việc hội họp này, có lẽ họ sẽ trả lời rằng đây là một cuộc hẹn gặp gỡ giữa những người bạn cũ. Liếc nhanh qua ngôi nhà, ta có thể thấy được khá nhiều thứ. Thức ăn và rượu chứa đầy trong bếp, củi được chất đầy đủ cho lò sưởi trong phòng khách. Nhìn kĩ ngôi nhà, có vẻ như phòng ăn đã được chuẩn bị chu đáo cho một cuộc phỏng vấn và căn nhà này chứa đựng một vài dụng cụ giao tiếp độc đáo, không có bán trên thị trường. Dừng lại ở phòng ngủ bằng đá vôi, có các lỗ nằm phía bên trên tầng hầm, và giờ đây những cái lỗ đó đang được che lấp bởi một người đàn ông Ai Cập ở độ tuổi trung niên. Người đàn ông bị trói với còng, băng bịt mắt, và trần trụi với cái quần lót. Gabriel nhìn người đàn ông này với vẻ dò xét trong một lúc rồi đi lên bậc thang đến phòng ăn, nơi mà Yaakov đang đứng bên cạnh Sarah.

Gabriel hỏi. “Anh đã ở đó trong bao lâu?”.

“Khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ”, Yaakov trả lời.

“Có vấn đề gì không?”

Yaakov gật đầu. “Chúng tôi rời khỏi Amsterdam một cách nhanh chóng và hắn xử sự rất tốt trong suốt chuyến đi”.

“Anh có phải sử dụng thuốc cho hắn không?”.

“Không”.

“Còn vũ lực thì sao?”.

“Tôi đã tát yêu hắn vài cái, nhưng hắn sẽ không bận tâm đâu”.

“Có ai nói chuyện trước mặt hắn không?”.

“Chỉ một vài từ bằng tiếng Arập. Thế nhưng Ibrahim đã có nói một ít. Hắn đoán chắn mình đang trong tay của người Mỹ”.

Tốt, Gabriel suy nghĩ. Nó chính xác là những gì mà Ibrahim nghĩ. Anh để Sarah vào trong phòng khách, nơi mà Dina và Rimona đang đọc hồ sơ của tổ chức Thanh kiếm Allah trước tiếng nổ tanh tách của củi cháy trong lò sưởi. Sau đó Gabriel mở 2 cánh cửa hướng vào phòng ăn. Phòng trống trải, chỉ có cái bàn hình chữ nhật và 2 chiếc ghế dựa cao. Mordecai đứng trên ghế, gắn máy ghi âm vào bộ đèn chùm.

“Đây chỉ là cái dự phòng thôi”, anh nhảy khỏi ghế và chùi đôi bàn tay bẩn vào chiếc quần tây của mình.

“Đã có một chiếc micro nhỏ ở dưới này”, anh vỗ tay lên bàn. “Đưa Ibrahim ngồi vào chiếc ghế này. Bằng cách này micro sẽ không bỏ sót bất cứ thứ điều gì anh ta nói”.

“Còn việc kết nối với bên an ninh?”.

“Nó ở ngay trên đó và đang hoạt động”, Mordecai nói. “Tôi sẽ cho những tín hiệu truyền đến đại lộ King Saul và họ sẽ truyền nó đến Langley. Dựa trên những gì chúng ta thu thập được từ người Mỹ, anh sẽ là người có vé hạng nhất để vào thị trấn đêm nay”.

Mordecai đi ra khỏi phòng và đóng cửa lại. Sarah nhìn quanh những bức tường trống, bình luận. “Chắc chắn ngôi nhà này có giá trị lịch sử lắm”.

“Trước chiến tranh, căn nhà này thuộc sở hữu của một gia đình Do Thái, tên chủ nhà là Rosenthal”, Gabriel nói.

“Và khi chiến tranh bùng nổ?”.

“Nó bị sĩ quan SSI tịch thu, và gia đình Rosenthal bị trục xuất tới Áo. Người con gái trong gia đình quyết định ở lại và giành lại tài sản của gia đình, nhưng đi được nửa đường thì cô ta bỏ cuộc và tới sống ở Israel. Người Đức không thật sự tỏ ra tốt bụng đối với người sống sót sau nạn huỷ diệt của phát –xít”.

“Vậy còn căn nhà?”.

“Cô ta không bán nó. Khi Shamron biết được rằng cô ấy vẫn còn sở hữu nó, ông thuyết phục cô ấy cho chúng ta sử dụng ngôi nhà này. Shamron luôn luôn cất giữ các thứ cần thiết cho một ngày tận thế. Các ngôi nhà, hộ chiếu và con người. Ngôi nhà này rất an toàn cho chúng ta sử dụng và là địa điểm hoạt động trong suốt chiến dịch “Cơn thịnh nộ của Chúa”. Eli và tôi trải qua rất nhiều đêm dài ở đây, thỉnh thoảng với những điều tốt, nhưng thỉnh thoảng cũng không”.

Sarah cúi mình xuống chiếc ghế đã được xếp sẵn cho Ibrahim Fawaz và khoanh tay lại. “Chuyện gì sẽ tiếp tục xảy ra ở đây đêm nay?”, cô hỏi.

“Phụ thuộc hoàn toàn vào Ibrahim. Nếu hắn hợp tác và nói với tôi sự thật, thì sau đó mọi thứ sẽ trở nên dễ dàng. Còn nếu hắn không làm thế thì…”, Gabriel nhún vai. “Yaakov là một trong những người của Shabak có kĩ năng thẩm tra, hỏi cung giỏi. Anh ta biết cách nói chuyện với những kẻ không sợ cái chết. Những điều xảy ra cũng có thể là thứ không được thoải mái lắm”.

“Không thoải mái như thế nào?”.

“Cô đang hỏi liệu chúng ta có nên tra tấn hắn hay không à?”.

“Chính xác đó là điều tôi muốn nói”.

“Mục đích của chúng ta đêm nay là tạo thêm một đồng minh nữa, Sarah à, hoặc là sẽ tạo ra một người không phải là đồng minh với các tổ chức tín ngưỡng”.

“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Ibrahim không muốn trở thành đồng minh của chúng ta?”.

“Nếu hắn không muốn trở thành đồng minh của chúng ta thì sau đấy có lẽ hắn sẽ nhanh chóng thấy mình ở một nơi mà người ta sẽ không bao giờ ngại ngần sử dụng các phương pháp bạo lực mạnh nhất để thu thập các thông tin. Nhưng bây giờ thì hãy để chúng ta hy vọng một chút rằng điều đó sẽ không xảy ra – tất cả vì mục đích của chúng ta”.

“Anh không tán thành việc tra tấn?”.

“Tôi ước rằng tôi có thể nói việc ấy không có hiệu quả, nhưng nó không phải trường hợp này. Họ làm một cách bài bản, được huấn luyện một cách chuyên nghiệp, họ chịu áp lực về thể chất và tinh thần khi phải tiến hành bắt giữ những kẻ hkủng bố, mà những kẻ khủng bố này thường có những hành động ranh ma để có thể cứu lấy cuộc sống của chúng. Phải tốn bao nhiêu cho xã hội và các bộ phận an ninh được thuê mướn làm nhiệm vụ đó? Không may, đó lại là một cái giá rất cao. Nó đặt chúng ta vào vị trí giống như những người Ai Cập – người Gioócđan, Arập, vị trí của mỗi viên cảnh sát chìm hung bạo Arập buộc phải tra tấn đối phương. Những lý do đó gây nguy hại cho chúng ta bởi vì nó biến lòng tin thành cuồng tín”.

“Anh xử phạt bằng hình thức tra tấn nhưng không băn khoăn về việc nó có thể là hành động giết người?”.

“Không băn khoăn?”, anh chậm rãi gật đầu. “Giết người là gây ra sự mất mát nhưng tôi e rằng đó là việc duy nhất mà chúng ta có thể làm. Chúng ta phải giết những con quái vật trước khi nó giết chúng ta. Không giản đơn như việc những chiếc giày ủng nện trên mặt đất; cũng giống như cô, người Mỹ thường nói, khi chúng ta xâm lấn đất đai của họ sẽ khiến cho họ có tinh thần ngày càng cao hơn để chiến đấu và để chiến thắng. Những kẻ sát nhân phải đứng trong bóng tối, nơi mà không ai có thể nhìn thấy. Chúng ta phải truy lùng chúng một cách sát sao. Chúng ta phải đe doạ chúng”.

Anh nhìn sang cô một lần nữa. “Sarah, chào mừng cô đến với cuộc chiến đấu của chúng tôi. Cô là một công dân thực sự của chúng tôi kể từ tối nay”.

“Cám ơn anh, tôi đã trở thành một công dân của nơi này trong vài tháng nay rồi đấy chứ”.

Có tiếng gõ cửa. Đó chính là Yaakov.

“Tôi nghĩ hắn đã sẵn sàng để được hỏi cung”.

“Anh chắc không?”.

Yaakov gật đầu.

“Cho hắn thêm 10 phút nữa”, Gabriel nói. “Sau đó thì dẫn đến cho tôi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

44#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 19:35:32 | Chỉ xem của tác giả
Chương 25
(tiếp theo)

Họ dẫn người đàn ông lên cầu thang, vào chỗ ngồi đã được đinh trước với mắt bị bịt và đôi tay bị trói phía sau lưng. Hắn không yêu cầu được bảo vệ, không đòi hỏi gì cả và cũng không có dấu hiệu sợ hãi. Thực tế, Gabriel thấy hắn như là một anh hùng bị đoạ đày giờ đang chờ đao phủ ra tay hành quyết. Ở trong hầm bấy giờ rất tối, với chiếc đèn pin cầm theo, Gabriel có thể nhìn thấy da của hắn bị sưng tấy lên. Chờ vài phút trôi qua, Gabriel tiến đến chiếc bàn và tháo băng bịt mắt. Người đàn ông Ai Cập nheo mắt trước ánh sáng đột ngột và từ từ mở hai mắt nhìn trừng trừng vào Gabriel.

“Tôi đang ở đâu?”.

“Ông đang ở nơi khó khăn nhất của vấn đề”.

“Tại sao các anh lại bắt tôi?”.

“Không có ai bắt cóc ông cả. Đơn giản là ông được chăm sóc một cách hơi riêng tư và kỹ lưỡng thôi mà, ông đang được bảo vệ đấy”.

“Bởi ai? Vì lí do gì?”.

“Bởi người Mỹ. Và ắt hẳn chúng ta đều biết lí do tại sao”.

“Nếu tôi trong tay người Mỹ thì tại sao anh ở đây?”.

“Bởi vì…hiển nhiên, vì tôi là người kể cho họ nghe những thứ về ông”.

“Cho tôi sự bảo vệ, đó chỉ là cái cách nói của anh thôi”.

“Nhưng những thứ bảo vệ này sẽ bị huỷ bỏ ngay lập tức nếu ông lừa dối tôi”

“Tôi chẳng làm gì cả”.

“Thật à?”.

“Tôi đã kể cho anh tất cả những gì tôi biết về âm mưu đó. Nếu anh và những người bạn Anh của anh hành động nhanh hơn thì có lẽ đã ngăn được điều ấy rồi”. Người đàn ông Ai Cập im lặng suy tư trong giây lát. Gabriel nói. “Tôi rất thích khi đọc quá khứ đầy sóng gió của ông trên báo, Ibrahim à. Tôi không biết nên nghĩ gì khi tôi đối diện với một người quan trọng như ông tối nay tại Amsterdam”.

Gabriel đặt xấp tài liệu lên bàn và đẩy đến gần Ibrahim. Ibrahim nhìn xuống một hồi rồi hướng mắt nhìn chằm chằm một lần nữa vào Gabriel.

“Anh lấy cái này ở đâu?”.

“Ông nghĩ là ở đâu?”.

Ibrahim cười hợm hĩnh. “Người Mỹ, người Do Thái và những viên cảnh sát chìm Ai Cập. Bộ ba đáng ghê tởm. Thế mà anh còn phải tự hỏi tại sao anh bị người Arập ghét bỏ”.

“Thời gian của chúng ta không có nhiều đâu, Ibrahim ạ. Ông có thể sẽ tốn thời gian để loanh quanh với mớ lí thuyết đó hoặc là ông sẽ sử dụng thời gian một cách hợp lý bằng cách kể cho chúng tôi nghe tất cả những gì ông biết về việc bắt cóc người phụ nữ Mỹ”.

“Tôi không biết một chút gì cả”.

“Ibrahim, ông đang nói dối”.

“Tôi đang nói với anh sự thật”.

“Ông là thành viên tổ chức Thanh kiếm Allah”.

“Không, trước đây tôi là thành viên của tổ chức Thanh kiếm Allah, nhưng tôi đã rời khỏi hội này khi tôi rời Ai Cập”.

“À, tôi nhớ rồi, ông đến châu Âu vì một cuộc sống tốt hơn – đó không phải là những gì ông nói với tôi sao? Nhưng điều đó không là sự thật, đúng không? Ông được phái đi châu Âu bởi một người bạn của ông là Sheikh Tayyib để thành lập một tổ chức nằm trong lòng thành phố Amsterdam, nó là hội Cộng đồng Hồi giáo Tây Amsterdam, hai hội này đều là bình phong cho hội Thanh kiếm Allah, đúng không Ibrahim?”

“Nếu tôi là thành viên tích cực của Thanh kiếm Allah, thì sao tôi lại phải làm việc với điệp viên của anh, là ông Solomon Rosner? Tại sao tôi kể với anh về âm mưu bắn chiếc máy bay phản lực? Và tại sao tôi phải cảnh báo anh về Samir Al-Masri và những người bạn của hắn đến từ nhà thờ Hồi giáo Al-Hijrah?”

“Toàn là những câu hỏi hợp lí. Và ông chỉ có 30 phút để trả lời một cách thoả đáng những câu hỏi đó. Ông có 30 phút để kể cho tôi nghe toàn bộ những gì ông biết về việc tổ chức bắt cóc Elizabeth Halton. Nếu không thì ông sẽ được yêu cầu rời khỏi đây và người Mỹ sẽ tiếp nhận ông. Hiện giờ họ đang rất giận dữ, Ibrahim. Và ông biết khi người Mỹ nổi giận là thế nào rồi đấy. Họ sẽ sử dụng những biện pháp khác hoàn toàn với bản chất của họ đấy”.

“Người Israel đã đi quá đà rồi”.

Gabriel nhìn đồng hồ. “Ông làm mất thời gian rồi đấy. Nhưng có lẽ là kế hoạch của ông. Ông nghĩ có thể giữ được điều ấy đến lúc chết à. Bốn ngày là thời gian quá dài để giữ bí mật rồi, Ibrahim. Ông sẽ không giữ mãi được đâu. Hãy bắt đầu đi. Khai báo đi”.

“Tôi chẳng có gì để khai báo”.

Nhưng giọng nói của Ibrahim dường như yếu ớt hơn. Gabriel lợi dụng ngay khoảnh khắc này. “Kể cho tôi nghe tất cả những gì ông biết đi, Ibrahim, nếu không ông sẽ bị người Mỹ xử lí đấy. Và nếu như người Mỹ không có những thông tin mà họ muốn thì họ sẽ đưa ông lên máy bay đến Ai cập rồi họ để cho SSI tiến hành thẩm vấn ông”. Anh nhìn vào vết phỏng trên cánh tay của người đàn ông Ai Cập. “Ông hiểu rõ phương thức của người Mỹ mà đúng không, Ibrahim?”.

“Tra tấn với những điếu thuốc là những gì tốt nhất mà họ dành cho tôi. Những điều anh nói chẳng làm tôi sợ. Tôi không tin ở đây có sự hiện diện của người Mỹ và tôi cũng không tin sẽ có ai đó buộc tôi phải về Ai Cập để chất vấn. Tôi là cư dân Hà Lan. Tôi có quyền”.

Gabriel nghiêng lưng ghế dựa và đập mạnh 2 lần vào hai cánh cửa bằng cái nắm tay. Một lát sau, Sarah đứng bên cạnh ông ta với cái nhìn ngượng ngập, Ibrahim thì nghoảnh mặt đi xấu hổ và tỏ ra lúng túng trong ghế ngồi.

“Chào ông Fawaz. Tên tôi là Catherine Blanchard, tôi làm việc cho CIA. Cách đây một dặm, có một chiếc máy bay với nhiên liệu đã được đổ đầy đang sẵn sàng đưa ông tới Cairo. Nếu ông còn có thêm câu hỏi nào nữa thì sau khi rời khỏi cánh cửa này tôi sẽ giải đáp cho ông”.

Sarah rời khỏi phòng và quay lưng đóng cửa lại. Ibrahim nhìn trừng trừng vào Gabriel một cách giận dữ.

“Tại sao anh dám để cho người phụ nữ đó nhìn tôi trong bộ dạng này?”.

“Để lần tới ông khỏi phải nghi ngờ lời nói của tôi”.

Người đàn ông Ai Cập nhìn vào mớ tài liệu. “Họ nói gì về tôi?”.

“Họ nói rằng ông là một trong những thành viên đầu tiên của tổ chức Thanh kiếm Allah tại Minya. Họ nói ông có mối quan hệ liên kết mật thiết với Sheikh Tayyib Abdul – Razzaq và người anh em của hắn ta là Sheikh Abdullah. Họ nói ông là người tổ chức nhóm khủng bố tại trường đại học Minya và là người tuyển mộ những sinh viên trẻ làm thành viên của nhóm khủng bố Hồi giáo. Họ nói rằng ông muốn thực hiện việc cai trị theo tín ngưỡng”.

“Đã có những thông tin sai lầm”, Ibrahim nói. “Nhưng có một thông tin vô cùng quan trọng. Thực tế thì hội Thanh kiếm Allah ở trường đại học không hề hoạt động khủng bố. Hội Thanh kiếm Allah quay trở lại hoạt động khủng bố không trước mà sau cuộc mưu sát Sadat”.

Fawaz lại nhìn vào mớ hồ sơ. “Họ còn nói ông bị bắt giữ ngay trong tối đó bởi kẻ sát nhân giết Sadat”.

“Và?”

“Đó là điều cuối cùng”.

“Thật là khó mà ngạc nhiên. Những điều xảy ra sau khi tôi bị bắt đi là những điều mà họ chẳng muốn viết ra giấy”, Ibrahim nhìn vào các hồ sơ giấy tờ. “Anh có muốn biết chuyện gì đã xảy với tôi vào tối hôm đó không? Anh có muốn tôi điền cho đầy đủ vào những giấy tờ mà anh còn thiếu kia không? Những giấy tờ mà anh đưa ra trước mặt tôi như là một minh chứng cho tội lỗi?”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

45#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 19:36:57 | Chỉ xem của tác giả
Chương 25
(tiếp theo)

“Ông có 30 phút để nói cho tôi nghe sự thật, Ibrahim. Ông có thể sử dụng thời gian theo ý ông muốn”.

“Tôi mong muốn kể cho anh nghe một câu chuyện về một người bạn của tôi – một câu chuyện của kẻ mất tất cả mọi thứ vì niềm tin”.

“Tôi đang nghe đây”.

“Có thể cho tôi ít cà phê không?”.

“Không”.

“Vậy anh có thể tháo còng tay cho tôi được không?”.

“Không”

“Tay tôi đau quá”.

“Ông phải cố mà chịu thôi”.

“Ông ta là giáo sư nên rất được mọi người nể trọng”. Ibrahim bắt đầu miêu tả, không phải với câu chuyện về một người đàn ông,mà lại bắt đầu bằng sự đấu tranh – sự đấu tranh để làm tăng cường niềm tin trong thế giới trần tục – thuyết Nasser, Baath, Cộng sản, liên minh Arập, xã hội Arập – cái duy nhất được nhắc đến, vào tháng 6 năm 1967, tất cả các học thuyết chỉ là mặt nạ cho sự hèn kém và suy tàn của Arập.

“Anh là người trong số những người có thể thoát khỏi cơn bão đấy”, Ibrahim nói. “Người Palestine có học thuyết Ngày tận diệt vào năm 1948. Đối với chúng tôi, năm 1967, chỉ có 6 ngày trong tháng 6 để có thể biến Arập thành trung tâm của mọi thứ. Nasser và những người theo chủ nghĩa duy vật đã bảo với chúng tôi rằng họ là những kẻ cực kỳ mạnh mẽ”.

“Ông đã ở trong quân ngũ vào năm 1967?”.

Hắn ta gật đầu. “Tôi đã hoàn tất nghĩa vụ quân sự. Tôi học Đại học Cairo năm 1967. Trong vòng một tuần sau khi chiến tranh kết thúc, chúng tôi tổ chức một nhóm bất họp pháp tên là Người Hồi giáo. Tôi là một trong những người lãnh đạo phong trào cho đến năm 1969 khi hoàn tất học vị tiến sĩ kinh tế. Trước khi tốt nghiệp, tôi đã có 2 sự lựa chọn: đi làm việc cho cơ quan Pharaoh như là một viên chức hoặc là dạy học ở trường Pharaoh. Tôi chọn hướng thứ hai và chấp nhận một vị trí tại trường Đại học Minya, miền trung Ai Cập. Sáu tháng sau thì Nasser chết”.

“Và mọi thứ bị thay đổi”, Gabriel nói.

“Hầu như chỉ qua một đêm là mọi thứ thay đổi”. Ibrahim nói với vẻ đồng tình. “Sadat khuyến dụ chúng tôi. Hắn cho chúng tôi sự tự do và tiền bạc để tiến hành thành lập tổ chức. Chúng tôi để râu. Chúng tôi thành lập hội những người thanh niên và các quỹ từ thiện giúp người nghèo. Chúng tôi đã có những cuộc tập dượt gần giống như trong quân đội tại một trại trên sa mạc, được trả chi phí bởi chính phủ và tài sản của Sadat. Chúng tôi đã sống cuộc sống của chính mình, dựa vào luật pháp của Đấng tối cao và chúng tôi muốn luật pháp này sẽ trở thành luật Ai Cập. Sadat hứa với chúng tôi rằng hắn ta sẽ tạo nên một học viện sharia. Nhưng hắn ta không giữ lời hứa, sau đấy hắn ta lại gây ra những hành động tồi tệ hơn bằng cách kí một hiệp ước hoà bình với quỷ sứ, và đó là lí do mà hắn và vợ hắn phải trả giá”.

“Ông tán đồng cuộc mưu sát Sadat?”.

“Tôi đã quỳ gối và cảm tạ Đấng tối cao vì đã trừng phạt hắn ta”.

“Và sau đó một cuộc vây bắt được tiến hành”.

“Hầu như liền ngay sau đó”, Ibrahim nói. “Sự lo lắng sợ hãi về cái chết của Sadat chỉ là phát súng khởi đầu cho một cuộc cách mạng Hồi giáo sẽ lan toả khắp đất nước. Họ đã sai, dĩ nhiên, nó không ngăn họ thực hiện các hành vi khủng bố đối với những người tin rằng nó là một âm mưu hoặc tin rằng có những âm mưu có thể sắp xuất hiện”.

“Tại trường đại học, họ xuất hiện vì ông à?”.

Ông ta gật đầu. “Tôi rời khỏi trường khi xế chiều và về căn hộ chung cư. Khi tôi về đến nơi, chẳng có ai ở đấy cả. Tôi hỏi thăm hàng xóm xem họ có thấy vợ và con tôi đâu không. Hàng xóm bảo rằng vợ và các con tôi đã bị bắt đi. Tôi đến đồn cảnh sát, nhưng vợ và con tôi không ở đó, cảnh sát bảo họ không ghi nhận được bất kỳ một trường hợp bắt cóc nào cả. Sau đó tôi đi tới cơ quan đầu não của SSI tại Minya”. Giọng của ông ta kéo dài, ánh mắt nhìn vào đống tài liệu.

“Anh bạn của tôi, anh có biết cây cầu bắc qua Jahannam không?”.

“Đó là cây cầu mà tất cả người Hồi giáo phải đi qua để lên thiên đàng”, Gabriel nói. “Nó là sản phẩm của trí tưởng tượng. Những người Hồi giáo tin rằng khi còn sống, nếu làm điều tốt đẹp thì khi chết, bước qua cầu là sẽ lên tới thiên đàng. Nhưng nếu làm điều xấu xa độc ác thì sẽ phải xuống địa ngục với những hình phạt vô cùng đau đớn”.

Ibrahim lại nhìn vào đống tài liệu, rõ ràng ông ta thật sự bị ấn tượng bởi sự hiểu biết của Gabriel về Hồi giáo. “Tôi là kẻ không có may mắn được thấy chiếc cầu bắc qua Jahannam. Tôi buộc phải đi qua nó và bước xuống địa ngục vào một đêm tháng 10 năm 1981”.

Gabriel tháo còng cho Ibrahim và ra hiệu cho ông ta tiếp tục kể.

Ibrahim kể rằng mình bị giam vào một xà lim và bị đánh đập tàn nhẫn trong suốt 12 tiếng đồng hồ. Kết thúc xong việc tra tấn này, ông ta bị dẫn vào phòng tra vấn và người tra vấn là tay khá lão luyện của SSI, tay này biết mọi thứ về kế hoạch của tổ chức khủng bố Hồi giáo ở Minya. Ông ta trả lời các câu hỏi một cách thành thật rằng mình không thật sự biết về các kế hoạch tấn công – và ngay lập tức ông ta bị đưa về xà lim giam giữ, và lại bị đánh đập trong vòng vài ngày nữa. Sau đó ông ta lại được đưa tới trước một viên thẩm tra và lại phủ nhận các kế hoạch tấn công khủng bố được dự trù sẵn. Lần này, viên thẩm tra của SSI đưa ông ta vào một xà lim khác. Trong xà lim này, có đứa bé gái khoảng tuổi niên thiếu đang trong tư thế trần truồng và bất tỉnh, cơ thể bị treo lên với hai tay trên trần nhà. Cô bé bị đánh đập, cơ thể toàn vết trầy xướt, vết cắt bởi sự tra tấn bằng dây và dao cạo, mặt cô bé bị biến dạng bởi các vết sưng và đầy máu me. Phải một lúc, Ibrahim mới nhận ra cô bé chính là đứa con Jihan bé bỏng của mình.

“Con bé được làm cho tỉnh lại bằng xô nước lạnh”, ông ta nói. “Con bé nhìn tôi một hồi, nhưng nó cũng không nhận ra được tôi. Viên thẩm vấn lấy roi da quất mạnh vào con bé trong mấy phút, sau đó có mấy kẻ khác đưa con bé xuống và bắt đầu hãm hiếp nó trước mặt tôi. Con gái tôi nhìn tôi trong lúc nó bị bọn thú này hành hạ. Con bé cứ kêu van. “Ba ơi, cứu con với”.”Hãy ngưng lại và tao sẽ nói cho bọn mày những gì bọn mày muốn biết”. Nhưng tôi có cái gì đâu để mà nói, làm sao mà bọn chúng ngừng tay đây”.

Ông ta bắt đầu run lên giận dữ. “Bây giờ tôi có thể mặc quần áo không?”.

“Cứ nói tiếp đi, Ibrahim”.

Hắn ta im lặng hồi lâu. Trong thời gian ấy, Gabriel lo rằng hắn sẽ không kể nữa, nhưng sau đó, hắn ta run run và bắt đầu nói tiếp.

“Họ đưa tôi đến một xà lim bên cạnh để tôi phải nghe tiếng kêu van đau đớn của con gái tôi trong suốt đêm dài ấy. Lần thứ ba, tôi bị mang tới trước viên thẩm tra. Tôi nói với ông ta mọi thứ mà tôi nghĩ hầu như có thể khiến đứa con gái của tôi bớt đi khổ sở. Tôi đưa cho hắn một vài thông tin quan trọng nhưng đó là tất cả những gì tôi biết. Tôi đưa cho hắn ta tên các thành viên của hội Thanh kiếm Allah. Tôi đưa cho hắn ta các địa chỉ mà tôi đã gặp gỡ các thành viên trong hội và tên của các sinh viên ở trường đại học có liên quan đến các hành động cực đoan. Tôi nói cho hắn tất cả những gì hắn muốn nghe, dẫu rằng tôi biết tôi đang làm tổn hại đến các bạn vô can, các đồng nghiệp của tôi, họ rồi chắc sẽ phải chịu đựng như tôi đã phải chịu đựng. Hắn ta có vẻ thoả mãn với những gì mà tôi khai. Tuy nhiên, tôi vẫn bị tra tấn một lần nữa vào đêm ấy. Khi tra tấn xong, tôi bị dẫn vào xà lim và bị để mặc cho chết. Lần đầu tiên, tôi không ở một mình, còn một tù nhân khác nữa ở đấy”.

Gabriel hỏi. “Ông có nhận ra anh ta không?”.

“Biết chứ”.

“Anh chàng đó là ai?”.

“Đó chính là Sheikh Abdullah. Sheikh nói với tôi bằng giọng như nhà tiên tri Mohammed “Tin vào Đấng tối cao. Đừng tiêu tan hy vọng”. Hắn ta xoa lên các vết thương cho tôi và cầu nguyện cho tôi trong hai ngày kế tiếp. Tôi vẫn còn sống được là nhờ hắn”.

“Còn đứa con gái của ông?”.

Ibrahim nhìn đồng hồ đeo tay của Gabriel. “Tôi đã tốn mất bao nhiêu thời gian rồi trước khi tôi được nộp cho người Mỹ?”

Gabriel tháo đồng hồ và chùi nó trên túi áo.

“Tôi có thể mặc lại quần áo không?”

Gabriel dựa lưng nghiêng chiếc ghế rồi gõ mạnh hai lần vào cửa.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

46#
 Tác giả| Đăng lúc 17-11-2013 19:38:26 | Chỉ xem của tác giả
Chương 26
Norfolk, Anh Quốc

10 giờ 24 phút tối thứ hai

Vầng trăng sáng treo trên những cánh đồng của miền bắc nước Đức tạo thành những mảng trời sáng trên vùng duyên hải Norfolk tối hôm đó. Marcia Cromwell, một phụ nữ chưa chồng, ba mươi sáu tuổi, đang đi trên con đường cát nhỏ dẫn xuống bãi biển Walcott với Ginger, con chó Spaniel của xứ Wales bám theo gót chân cô. Những thắc mắc về mặt đạo đức đối với việc tra tấn và thậm chí là sự sống còn của một phụ nữ Mỹ mất tích lúc này không làm cô quan tâm nữa. Cô đã được người yêu mới quen của mình báo rằng, sau nhiều lần cân nhắc kỹ, cuối cùng anh quyết định không bỏ vợ con mình. Marcia Cromwell, một cư dân sống ở Norfolk đã lâu, quyết định xoa dịu nỗi đau của mình cũng bằng cách mà cô luôn áp dụng đối với bao lần hụt hẫng khác, là đi bộ dọc theo bờ biển bắc trong đêm khuya.

Đến cuối con đường, bãi biển chợt hiện ra trước mắt cô, phẳng lặng và dài vô tận trong màn đêm với những con sóng cuộn tròn theo gió vỡ ra trong ánh lân tinh dọc theo bờ cát đen ngòm. Con Ginger chợt có phản ứng kỳ quặc. Nó tự nhiên chồm lên đòi cởi dây, nên làm cho xích căng ra. Hành động kỳ lạ của nó làm khuấy động những con mòng biển và mấy con chim nhỏ ở bờ cát. Lúc này nó lại ngồi xuống ngang chân cô, nhìn chằm chằm vào lùm cây thông trên đụn cát. Marcia Cromwell cởi dây xích ra và suỵt nó tiến xuống bờ nước. Nhưng nó lại lao thẳng vào lùm cây.

Marcia Cromwell ngần ngừ một lúc rồi đi theo nó. Chú chó trinh sát này phát hiện ra một cái trại của những người du lịch lang thang tại đó. Dưới gốc cây, những lon bia và những chai nước rỗng nằm rải rác. Cô gọi con Ginger vài tiếng rồi lấy đèn pin trong túi áo khoác ra đi tìm nó. Sau đó cô thấy nó đang dùng chân cào cái gì đó ở gốc cây. Marcia Cromwell bước đến kiểm tra, và thét to lên.

Việc phát hiện một xác chết trên bãi biển Walcott lập tức khiến đội điều tra tội phạm Sở công an Norfolk lên đường. Được thành lập vào tháng 11 năm 2004 để thực hiện các cuộc điều tra tội phạm như cố sát, ngộ sát, hãm hiếp, mỗi đội có một nhân viên điều tra cao cấp (SIO), một đội phó, một chuyên viên về tang vật chịu trách nhiệm xử lí các chứng cứ tội phạm hiện trường, và một nhân viên thẩm vấn nhân chứng và đối tượng tình nghi. Trong vòng 30 phút sau khi nhận được điện thoại của Marcia Cromwell, cả bốn nhân viên đều có mặt. Chỉ có hai người, nhân viên điều tra cao cấp và nhân viên điều tra tang vật đến lùm cây tại chân các đụn cát. Cả hai đều mang thiết bị bọc giày bảo vệ màu vàng để giữ nguyên chứng cứ pháp lí và dùng đèn pin để khám tử thi.

“Xác chết ở đây lâu chưa?”, viên điều tra cao cấp hỏi.

“Tôi cho rằng trong vòng bốn mươi tám cho đến bảy mươi hai tiếng đồng hồ”.

“Nguyên nhân chết là gì?”.

“Một vết thương bằng súng ngắn bắn vào sau đầu, kiểu hành quyết, nhìn vẻ bên ngoài như vậy. Nhưng lại có một chi tiết thú vị”.

Phân tích hiện trường, họ thấy có một nhãn hiệu đèn pin Maglite nhỏ ở phía dưới đùi phải của thi thể, nhưng còn có một tình tiết khác đáng chú ý hơn.

“Miếng xương?”

“Đúng là miếng xương. Nhân viên điều tra sẽ có được kết luận cuối cùng, nhưng nhìn vào vết thương, tôi cá rằng đó là do một viên đạn”.

“Đường kính bao nhiêu?”.

“Khoảng 9mm, nhưng đó không phải là điểm cần chú ý. Cách đây vài ngày trước khi bị bắn vào đầu, ai đó chữa trị cho hắn chắc sẽ biết hắn đã làm gì?”.

“Cô ấy?”

“Elizabeth Halton là một bác sĩ phẫu thuật của phòng cấp cứu ở Denver, Colorado. Có thể tôi sai, nhưng tôi chắc rằng thi thể này là một trong những tên khủng bố từ công viên Hyde Park. Có phải COBRA và Văn phòng quốc nội đã đánh động chúng ta phải chú ý đến các vết thương do đạn bắn không thể giải thích được?”.

“Vâng”, nhân viên điều tra cao cấp trả lời.

“Vết thương và các dấu hiệu các mô xung quanh nhiễm trùng dữ dội. Tôi cho là gã này bị bắn bởi gã Israel đó trong lúc bắt cóc. Đồng đội của hắn đã cố giữ cho hắn sống nhưng hình như cuối cùng bọn chúng bỏ hắn lại và cho hắn hết đau bằng một viên đạn gọn ghẽ sau đầu. Chắc là đau lắm. Tôi cho rằng rốt cuộc cũng sẽ có công lí trên đời này chứ”.

Nhân viên điều tra cao cấp cúi người sát xuống tử thi và khám dưới đùi nạn nhân. Sau đó, ông bắt đầu lục soát xác nạn nhân để tìm chứng cứ. Các túi áo khoác ngoài cũng như các túi quần trước đều không có gì. Nhưng ông ta tìm thấy trong túi quần sau, bên phải, một miếng giấy nhỏ, gấp lại làm tư và bị làm bẹp gí qua mấy ngày rồi. Nhân viên SIO từ từ mở mảnh giấy ra, dùng đèn pin soi mảnh giấy và đọc.

“Cho tôi một danh sách hàng tiếp tế, ai đó cần điều trị vết thương do đạn bắn trong khu vực này – các thứ đó có thể mua được ngoài các quầy hàng thực phẩm nào đó. Sau đó dựng một hàng rào rộng xung quanh khu vực này. Nếu giả thiết của các ngài về gã này là đúng thì bãi biển này sẽ bị hàng trăm người từ bộ phận Chống khủng bố, MI5, FBI và CIA chiếm ngay”.

“Rồi”.

Nhân viên điều tra cao cấp quay lại và đi nhanh ra khỏi lùm cây. Hai phút sau, ông đã ở sau tay lái và nói chuyện với nhân viên trực của trung tâm liên lạc và điều hành qua bộ đàm. “Có khả năng tử thi này liên quan đến người phụ nữ Mỹ mất tích. Cho nói chuyện với cảnh sát trưởng ngay và đưa cho ông ấy xem bức hình đó”.

“Còn gì nữa không, thưa sếp?”.

“Tôi tìm thấy một biên nhận trong túi của hắn ta về việc chở hàng từ Portsmouth đến Le Havre. Nếu tên này thật sự là một trong những tên khủng bố, có nghĩa là cô gái người Mỹ hiện giờ đang ở Pháp”.

Một loạt các sự kiện diễn ra nhanh chóng và bằng chứng cho thấy rõ ràng có sự liên quan. Trung tâm Liên lạc và điều hành ngay lập tức gọi Cảnh sát trưởng Norfolk vào vị trí công tác. Ông đang ăn tối với gia đình và bạn bè ở Norwich. Trung tâm báo với ông về phát hiện này. Cảnh sát trưởng bước ra khỏi bàn và nhanh chóng báo cáo cho cấp trên tại Văn phòng Quốc nội. Văn phòng Quốc nội có nhiệm vụ chuyển thông báo đến cho Uỷ ban COBRA và cảnh sát quốc gia Pháp. Mười lăm phút sau khi nhân viên SIO gửi bản tin đi từ bãi biển, các tin tức về sự phát hiện này sẽ đến đội công tác Mỹ ở quãng trường Grosvenor. Điện tín bảo đảm sẽ được ưu tiên gửi đi từ toà đại sứ đến tất cả các cơ quan có liên quan đến việc tìm kiếm Elizabeth Halton, trong đó có cả CIA.

Vào lúc 16 giờ 18 phút chiều, giờ phương Đông, một bản copy đã đến tay Adrian Carter, lúc này đang ngồi trực trên ghế ở trung tâm Điều phối Toàn cầu của CIA, giám sát cuộc thẩm vấn có tính bí mật bất hợp pháp đang diễn ra tại căn nhà vô chủ trong trang trại nằm trong các cánh đồng của miền bắc nước Đức. Ông đọc nhanh thông tin. Lần đầu tiên sau hơn một tuần ông cảm thấy thoáng lên một tia hy vọng. Sau đó ông đặt điện thoại sang một bên và nhìn chằm chằm vào màn hình. Tín hiệu của máy im lặng khoảng năm phút rồi. Gabriel dường như đã đi ăn tối.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

47#
 Tác giả| Đăng lúc 19-11-2013 09:50:51 | Chỉ xem của tác giả
Chương 27
Miền Bắc Nước Đức

12 giờ 36 phút sáng thứ ba

Họ mang tất cả quần áo và thực phẩm đến: gạo, đậu, trứng, pho-mát feta, bánh mì tròn và trà ngọt. Ông ta bốc một miếng nhỏ, sau đó đẩy cái đĩa ra phía trước cho Gabriel. Lúc đầu Gabriel từ chối, nhưng Ibrahim nài nỉ, và họ ngồi tại đó một lát, người tù và người thẩm vấn cùng ăn một bữa cơm đơn giản trong im lặng.

“Chúng tôi, những người Hồi giáo có tập tục được gọi là Eis”, Ibrahim nói. “Nếu tín đồ nào đó bị giết, thì người đó được cho ăn một bữa cuối cùng”. Hắn nhìn từ chân mình lên Gabriel. “Có phải đó là những điều anh đang làm phải không? Anh bạn, cho con chiên cúng tế của mình một bữa cuối cùng rồi chết phải không?”.

“Họ giam giữ ông bao lâu?”, Gabriel hỏi.

“Sáu tháng”, Ibrahim nói. “Và việc thả chẳng giống như việc bắt giam tôi. Họ đưa tôi đi vòng các đường phố của Minya với áo quần rách tả tơi và ra lệnh thả tôi về nhà. Khi tôi vào nhà, vợ tôi thét lên. Cô ấy tưởng tôi là ăn mày nên không nhận ra”.

“Tôi nghĩ là khi ông về đến nhà con gái của ông đã không còn ở đó nữa”.

Ibrahim xé một miếng bánh mì và quết nó quanh bát cơm. “Nó chết trong đêm đó, trong các phòng tra tấn của Minya. Nó bị mấy cảnh sát mật vụ hãm hiếp cho đến chết. Chúng chôn nó trong khu mộ của tội phạm, rìa sa mạc, và không cho tôi đi thăm. Theo chúng, đó là một kiểu tra tấn hiệu quả”.

Hắn hớp một ngụm trà, suy tư. “ Vợ tôi đổ lỗi cho tôi về cái chết của Jihan. Tất nhiên là cô ấy đúng. Giá mà tôi không tham gia vào tổ chức Thanh kiếm Allah thì Jihan không bao giờ bị bắt. Rất nhiều ngày sau vợ tôi tránh gặp tôi. Một tuần sau, tôi được trường đại học thông báo là không cần tôi dạy nữa. Tôi là một người đau khổ. Tôi mất tất cả. Công việc, con gái và cả số phận của mình”.

“Tôi không còn lựa chọn nào cả. Để tồn tại nghĩa là phải sống trong bóng tối. Tôi muốn cắt dây trói của mình với Thanh kiếm Allah. Tôi chẳng thích chính trị của người Hồi giáo tí nào. Tôi muốn có cuộc đời mới, tại một nơi mà người ta không giết hại những bé gái trong các phòng tra tấn”.

“Còn Amsterdam?”.

“Gia đình vợ tôi sống ở khu Tây. Họ bảo vợ chồng tôi rằng cộng đồng hồi giáo ở Hà Lan đang phát triển và đa số người Hà Lan đang chờ đón và tha thứ cho chúng tôi. Tôi xin visa tại toà đại sứ Hà Lan và được cấp ngay lập tức”.

“Tôi nghĩ là ông không thông báo với chính phủ Hà Lan về mối quan hệ của ông với Thanh kiếm Allah”.

“Chắc là tôi đã quên”.

“Và phần cuối câu chuyện ông đã kể cho tôi vào cái đêm ở Amsterdam”.

“Hoàn toàn đúng như vậy. Tôi làm đường. Sau đó tôi quét dọn. Tôi trang trí nội thất”, hắn ta đưa cánh tay bị thương lên và nói. “Thậm chí sau khi tôi bị mất mấy ngón tay”.

“Và ông không còn tiếp xúc với các thành viên Thanh kiếm Allah khác?”.

“Hầu hết trong số họ trốn từ Ai Cập sang Mỹ hay định cư ở Luân Đôn. Thỉnh thoảng có người đi khắp Amsterdam”.

“Lúc nào?”

“Tất nhiên, họ cố lôi kéo tôi về lại cuộc chiến. Tôi bảo họ là tôi chẳng ham thích gì về chính trị Hồi giáo cả. Tôi bảo họ là tôi muốn sống đời sống riêng của một người Hồi giáo và muốn bỏ lại các vấn đề cai trị và đất nước cho những người khác”.

“Và Thanh kiếm Allah đã làm theo mong ước của ông?”.

“Tuy nhiên, con trai tôi lại không chấp thuận mong ước của tôi”.

“Ông có nghĩ là, vì con trai ông mà chúng ta ở đây tối nay?”

Ibrahim gật đầu.

“Thằng con, một nửa là Ai Cập và một nửa là Palestine – một sự pha trộn dở hơi”.

“Rất dở hơi”.

“Tên nó là gì?”

“Ishaq”, gã đàn ông Ai Cập nói. “Tên nó là Ishaq”.

“Sự việc bắt đầu bằng những câu hỏi vô hại, loại câu hỏi bất kỳ thanh nhiên nào nghi ngờ cũng có thể hỏi cha mình. Tại sao chúng ta bỏ quê hương ở Ai Cập sang châu Âu? Tại sao cha đang là Giáo sư trường đại học lại đi quét đường? Tại sao chúng ta sống trên một vùng đất xa lạ mà không sống ở quê hương Hồi giáo? Đã nhiều năm, tôi chỉ kể cho qua chuyện với nó, nhưng khi nó lên mười lăm tuổi, tôi mới nói sự thật”.

“Ông có kể với nó rằng ông là một thành viên của Thanh kiếm Allah không?”.

“Có”.

“Ông kể với nó về việc ông bị bắt, bị tra tấn và cái chết của Jihan?”.

Ibrahim gật đầu. “Tôi hy vọng rằng qua việc kể cho Ishaq sự thât, tôi sẽ dập tắt những cục than hồng thánh chiến đang cháy âm ỉ trong lòng nó. Nhưng câu chuyên của tôi lại có tác dụng ngược. Ishad lại càng bị lôi cuốn vào chính trị Hồi giáo nhiều hơn; nó càng trở thành thằng bé hung dữ; nó bắt đầu căm ghét chế độ Ai Cập và người Mỹ, những người đã trợ giúp chế độ đó”.

“Và nó muốn trả thù”.

“Có một điều mà anh và những người Mỹ dường như không bao giờ hiểu hết”, Ibrahim nói. “Khi chúng tôi bị đối xử không đúng, chúng tôi phải tìm cách trả thù. Điều đó nằm trong văn hoá, trong dòng máu của chúng tôi. Mỗi khi các anh giết hay tra tấn ai đó trong chúng tôi nghĩa là các anh đã tạo ra một dòng họ thù hằn, buộc phải trả thù”.

Hơn ai hết, Gabriel biết Ibrahim nói đúng. Anh xúc một ít cơm, đậu và bánh mì rồi ra hiệu cho Ibrahim kể tiếp.

“Ishaq bắt đầu rút khỏi xã hội người Hà Lan, không giữ mối quan hệ bạn bè với bọn con trai Hà Lan nữa mà chuyển sang liên hệ thường xuyên với bọn con gái Hà Lan, mấy con dân chơi và đĩ thoã. Nó đội mũ Kufi và mặc đồ Galabiya. Nó chỉ nghe nhạc Arập và không uống bia. Khi lên mười tám tuổi, nó bị bắt vì đã đánh một gã đồng tính bên ngoài quán rượu ở Leidseplein; và tôi phải tìm đến gã bị thương đó, xin bồi thường thương tật”.

“Nó có học đại học không?”.

Ibrahim gật đầu. “Lúc mười chín tuổi, nó được vào học ở Khoa học Điện toán và Thông tin đại học Erasmus ở Rotterdam. Tôi hy vọng rằng những yêu cầu về việc học sẽ làm dịu cơn sốt Hồi giáo trong nó, nhưng khi nó ở Rotterdam, nó càng hướng về Hồi giáo nhiều hơn. Nó theo một nhóm Hồi giáo trẻ cùng xu hướng. Nó thường đi tới các vùng biên giới khác nhau và dự các cuộc họp. Nó để râu. Nó giống như tôi hồi còn trẻ, ai cũng tưởng như đó chính là tôi trẻ lại”.

Hắn ta ăn một lúc rồi tiếp. “Tôi sang châu Âu để lánh xa chính trị Hồi giáo. Tôi muốn có một cuộc sống khác cho tôi và cho con trai nhưng nền chính trị Hồi giáo cực đoan quái thai đó cũng đã tràn đến phương Tây. Dưới nhiều phương diện, quan điểm chính trị này càng cực đoan và độc hại hơn Hồi giáo ở phương Đông; nó bị làm băng hoại bởi đồng tiền của Arập và các lãnh tụ Arập. Đó là Wahhabi và Salafist trong viễn cảnh của nó. Nó là đứa độc hại và tội phạm”.

“Rồi sau đó nó dính líu đến các hoạt động của bọn khủng bố?”.

Ibrahim lắc đầu. “Nó quá bối rối để hứa hẹn với bất kỳ một tổ chức hay một lý tưởng nào. Nó không chắc mình là người Ai Cập hay người Palestine. Rồi một ngày, nó làm bạn với một số kẻ thuộc phe Hamas; sau đó nó ca ngợi và cổ vũ cho Mujahideen ở Afghanistan”.

“Rồi điều gì xảy ra?”.

“Osama Bin Laden cho máy bay đâm vào các toà nhà ở New York và Washington”, Ibrahim nói. “Và mọi việc đã thay đổi”.

Đúng là Gabriel chưa sẵn sàng bỏ ý nghĩ chờ đợi chuyến bay ở Mỹ nên anh gõ mạnh hai tiếng lên cửa phòng khách để gọi Sarah và nói thầm vài tiếng vào tai cô về việc hoãn khởi hành chuyến bay vài phút. Sau đó anh nhìn Ibrahim và nói. “Ông đang kể tôi nghe về vụ 11/9. Tiếp đi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

48#
 Tác giả| Đăng lúc 19-11-2013 09:51:54 | Chỉ xem của tác giả
Chương 27
(tiếp theo)

“Đó là một trận động đất, nó xé toang tấm màn lịch sử - không chỉ đối với phương Tây mà cả với chúng tôi”.

“Hồi giáo à?”.

“Những người theo Hồi giáo”, hắn sửa lại lời Gabriel. “Những người Mỹ đã sai lầm nghiêm trọng sau vụ 11/9. Họ thấy những tín đồ Hồi giáo nhảy múa trên các con đường của thế giới Arập và ở châu Âu, do đó họ cho rằng tất cả các tín đồ Hồi giáo và những người theo Hồi giáo đều ủng hộ cho Osama. Họ gộp chúng tôi lại với những kẻ thánh chiến trên thế giới giống như Bin Laden và Zawahiri. Họ không nhận ra rằng đối với người nào đó, như tôi chẳng hạn, là một người Hồi giáo tử tế, các cuộc tấn công ngày 11/9 đúng là bất lương và tàn bạo đối với những gì đã diễn ra trên thế giới văn minh này. Chúng tôi thuyết phục những người theo Hồi giáo hiểu rằng Osama và al-Qaeda vô cùng sai lầm khi tấn công vào Hoa Kỳ và gây ra cuộc chiến không thể nào thắng. Chúng tôi cho rằng Osama là tên bịp bợm đã gây ra nhiều đau thương cho người Hồi giáo hơn tất cả những chế độ tục bội giáo cộng lại. Và hơn nữa, chúng tôi cho rằng các cuộc tàn sát hàng ngàn người dân vô tội là một hành động phi Hồi giáo ghê tởm đã làm hại đến luật pháp và thuần phong mỹ tục Hồi giáo. Mười chín tên không tặc này được mời như những vị khách ở Mỹ và rồi chúng đánh mất danh dự vì đã gây ra chuyện đó. Thực ra chúng đã phản lại sự tiếp đón nồng hậu. Tôi không quan tâm đến việc ông nghĩ sao về chúng tôi và về đạo của chúng tôi. Tín đồ Hồi giáo là những người hiếu khách. Chúng tôi không đánh mất sự hiếu khách”.

Hắn ta đẩy cái đĩa lại phía Gabriel. Gabriel lấy một nửa quả trứng luộc và một miếng feta.

“Tôi cho rằng Ishaq không xem đó là cách của con trai ông”.

“Không phải như thế”, Ibrahim nói. “11/9 đã đẩy nó đến bờ vực thẩm”.

“Vậy thì cái gì đã đẩy nó xuống vực thẳm?”.

“Irắc”.

“Vậy nó được tuyển dụng ở đâu?”.

“Nó ở Amsterdam cùng lúc với vợ nó, một cô gái Ai Cập tên là Hanifah, và một đứa con, tên Ahmed. Trong những ngày xâm lược của Mỹ, nó đến Ai Cập, nơi nó đã cam kết tham gia tổ chức Thanh kiếm Allah. Tổ chức này đã huấn luyện cơ bản cho nó trong các trường bí mật và trong các trại ở sa mạc. Rồi họ giúp nó sang Irắc, nơi đó, nó được huấn luyện và thực tập với al-Qaeda ở Mesopotamia, nơi nó tiếp xúc gần gũi với một gã đàn ông tên là Samir Al-Masri. Một tháng sau, nó chuyển gia đình đến Copenhagen và xin việc ở một tổ chức có tên Hội đồng Ngoại giao Hồi giáo ở Đan Mạch. Tôi e rằng, hội này chẳng có gì ngoài việc làm bình phong cho các hoạt động của bọn thánh chiến”.

“Con ông đã lập một tổ chức thứ hai từ Copenhagen?”.

“Có lẽ thế”.

“Và do đó khi Samir và tổ chức của hắn biến khỏi Amsterdam vài ngày trước khi tấn công, ông quyết định tiếp cận tôi. Ông cung cấp cho tôi đầy đủ thông tin với hy vọng làm lệch đi các hoạt động này, để con ông không thể tham gia vào đó được”.

Ibrahim lắc đầu chua chát.

“Ông đã nói dối tôi”, Gabriel nói, “ông đã lừa tôi để cứu mạng con ông”.

“Bất kỳ người cha tốt nào cũng làm thế cả”.

“Không, Ibrahim, vì cuộc sống của những người dân vô tội bị đe doạ. Đã có hơn ba trăm người chết vì ông và con trai của ông. Nếu ông kể cho tôi nghe sự thật – hoàn toàn sự thật – có thể chúng ta đã ngừng chiến đấu với nhau rồi. Thay vì ông đưa cho tôi những mảnh vụn, ông nên đưa những mảnh tương tự cho SSI cách đây hai mươi năm khi ông cố cứu mạng sống cho con gái của mình”.

“Và nếu tôi kể cho anh nghe nhiều hơn về đêm đó? Tôi nên kết thúc ở chỗ nào? Những người Mỹ khi đó sẽ cho tôi là tên khủng bố. Họ sẽ đưa tôi lên máy bay và đưa tôi trở về Ai Cập để tra tấn”.

“Ông có biêt Luân Đôn là mục tiêu không? Ông có biết họ đang vạch kế hoạch bắt cóc Elizabeth Halton và dùng cô ta để cứu chuộc anh bạn Sheikh Abdullah của ông?”.

“Tôi không biết gì về các kế hoạch của họ cả. Những tên này được đào tạo rất kỹ. Người nào giỏi chuyên môn sẽ bị lôi kéo vào hàng ngũ”.

Gabriel ngập ngừng. “Có kẻ đã làm thế. Có thể chính là ông, Ibrahim?. Có thể ông là người chỉ đạo toàn bộ các hoạt động. Có thể ông là một người mà họ gọi là Sphinx”.

“Sẵn sàng tin vào những chuyện vu vơ là căn bệnh của dân Arập, anh Allon, không phải là bệnh của một người Do Thái phục quốc. Anh càng phí công theo đuổi những chuyện ngớ ngẩn như thế chúng ta càng ít có thời gian để tìm con gái ngài đại sứ và đem cô ấy về quê hương”.

Gabriel chộp ngay một tiếng riêng biệt mà Ibrahim vừa nói, từ chúng ta.

“Và chúng ta sẽ cùng nhau làm việc đó như thế nào?”.

“Tôi tin rằng Ishaq là một trong những tên khủng bố đang giữ cô gái Mỹ đó làm con tin”.

Gabriel ngả người lên ghế. “Tại sao ông lại nghĩ thế?”.

“Ishaq rời Copenhagen cách đây hai tuần. Nó bảo Hanifah rằng nó đi Trung Đông, đại diện cho Hội đồng Ngoại giao Hồi giáo đi nghiên cứu. Để che đậy chuyện bịa đặt của mình, tối nào nó cũng điện về nhà lúc thằng Ahmed đã đi ngủ”.

“Làm sao ông biết?”.

“Bởi vì Hanifah nói với tôi”.

“Ông có nói chuyện với nó không?”.

“Tôi để lại tin nhắn cho nó, nhưng nó chẳng bao giờ gọi cho tôi”.

Gabriel đặt tập giấy và bút xuống bàn rồi đẩy sang cho Ibrahim.

“Tôi cần địa chỉ của căn nhà ở Copenhagen và số điện thoại đó”.

“Hanifah và Ahmed chẳng dính líu gì vào chuyện này cả”.

“Họ chẳng có gì mà phải sợ cả”.

“Tôi muốn anh phải hứa với tôi rằng chúng sẽ không bị hại gì nhé”.

“Ông đã ở tù mà còn dám đưa ra yêu sách, Ibrahim?”.

“Hứa với tôi đi, anh Allon, hứa với tôi là anh sẽ không làm hại gì chúng đấy”.

Gabriel gật đầu một cái. Ibrahim viết những thông tin ra giấy sau đó đẩy tập giấy về phía Gabriel và đọc lẩm bẩm hai dòng từ trang hai mươi hai của cuốn Genesis.

Sáng sớm hôm sau, Abraham dồn hết đồ đạc lên con lừa và đem theo hai người hầu của mình cùng người con trai tên là Isaac. Ngài chẻ miếng gỗ ra để đốt lửa làm lễ. Ngài bắt đầu lên đường tìm miền đất mà Chúa đã bảo với ngài.

“Ông biết kinh Hebrew à?”, Gabriel nói. “Nhưng nó không là con của ông, Ibrahim. Nó bị nhiễm virut của bọn thánh chiến rồi. Nó là con quái vật”.

“Cho dù vậy, nó vẫn mãi là con tôi”, hắn nhìn xuống tập giấy ngượng ngùng. “Nếu tôi nhớ không lầm, người Do Thái tin rằng Abraham đến Beersheba sau khi vượt qua thử thách của Chúa. Nhưng điều gì sẽ xảy đến với tôi? Tôi có được đưa về Ai cập để thẩm vấn nữa không hay vẫn phải ở đây?”. Hắn ta nhìn quanh phòng. “Đây là đâu?”.

“Tôi cho rằng điều đó phụ thuộc vào người Mỹ”.

Cái nhìn khinh khỉnh trong đôi mắt của Ibrahim làm cho ngườ ta hiểu rõ hơn rằng hắn nghĩ như thế nào về người Mỹ. “Tôi cho là nên gạt người Mỹ ra khỏi chuyện này”, hắn nói. “Tốt hơn tôi và anh nên qua cầu Jahannan một mình. Anh quyết định như thế nào thì cứ làm nhanh đi. Con gái của ngài đại sứ đang ở trong tay của một thằng thanh niên mà chị của nó đã bị giết bởi tay sai của Pharaoh. Nếu nó được lệnh giết cô ấy, thì nó chẳng nương tay đâu”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

49#
 Tác giả| Đăng lúc 19-11-2013 09:54:06 | Chỉ xem của tác giả
Chương 28

Chín giờ 25 phút sáng thứ ba

Người dẫn chương trình tại trường quay số 2 chi nhánh ở Pháp đang xáo mấy tấm ghi chú, chắc là thời gian khong còn nhiều nữa. Khách mời là Giáo sư lịch sử phương Tây – Yusuf Ramadan, đến từ trường Đại học Hoa Kỳ ở Cairo, ông này vừa là một học giả tại viện nghiên cứu đạo Hồi tại Paris – cũng vừa là một quân sư cho tổ chức khủng bố lâu đời với cái tên “Thanh kiếm Allah”. Vị giáo sư khách mời biết rằng phải nhanh chóng đưa ra những lời kết luận cho chương trình.

Ông giáo sư phát biểu với giọng Pháp chuẩn, “… Và tôi nghĩ rằng điều nguy hại nhất trong tình trạng khủng bố hiện nay không phải ở đây, tại châu Âu mà ở chính Ai Cập. Theo tôi hiểu thì các bộ phận an ninh quốc gia Ai Cập đã phản ứng lại bằng một đòn khá nặng, và nếu hành động này tiếp diễn thì nó giống như việc khiêu khích sự yếu kém của quốc gia này, mà có lẽ sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định của chính thể”.

Anh chàng dẫn chương trình chắc đã đoán trước được lời bình luận của Giáo sư Ramadan, anh ta bỏ qua phần hướng dẫn của ban biên tập mà hỏi luôn rằng. “Ông có đang buộc tội chính phủ Ai Cập về việc sử dụng biện pháp tra tấn không, thưa Giáo sư?”.

“Cái cách mà cảnh sát và bộ phận an ninh của Ai cập đã va đang làm thì ai cũng biết. Chúng ta có thể chắc rằng họ đang sử dung biện pháp tra tấn và những trò khá rùng rợn khác để cố giúp người Mỹ tìm ra con gái ngài đại sứ”.

“Vâng, cách nghĩ này của ông khiến cho người khác phải suy nghĩ rất nhiều. Thưa Giáo sư Ramadan, tôi hy vọng ông sẽ lại tham gia trong chương trình này với chúng tôi để giúp chúng tôi phân tích tình trạng diễn biến sắp tới đây”.

“Rất sẵn lòng”, Giáo sư Ramadan trả lời và mỉm cười một cách thân thiện trước ống kính camera của máy quay.

Người dẫn chương trình thông báo với khán giả truyền hình rằng bài phóng sự về vấn đề nan giải này tại trường quay số 2 sẽ được tiếp tục sau phần quảng cáo. Người dẫn chương trình bắt tay vị Giáo sư và cảm ơn ông đã dành thời gian xuất hiện trong chương trình này. Ramadan đứng dậy từ ghế ngồi và được hướng dẫn ra bên ngoài bởi một người phụ nữ trẻ trong ban trợ lí sản xuất chương trình. Năm phút sau, vị Giáo sư bước lên chiếc xe Citroen đang đỗ chờ sẵn ngoài khu Henri. Vị Giáo sư nhìn chiếc đồng hồ đeo tay, 9 giờ 25 phút. Người dẫn chương trình và viên trợ lí trẻ tuổi tại trường quay số 2 hoàn toàn không hề biết về điều sắp làm cho buổi sáng bình yên này trở thành ác mộng.

Cùng thời điểm đó, tại thành phố Zurich, phía Bắc Thuỵ Sĩ, một chiếc xe hơi Mercedes Benz S600 đang từ từ đổ vào lề dành cho khách vào sân bay Kloten. Chiếc xe hơi có phần đầu nhỏ, hẹp lại, còn phần giữa sau thì hơi rộng ra như thể để giữ cân bằng. Một người đàn ông sang trọng bước xuống từ băng ghế phía sau của chiếc xe hơi. Ông ta mặc bộ veston kiểu Ý, khoác bên ngoài chiếc áo len thật mịn, tay xách theo chiếc vali bằng da lớn, trông đắt tiền. Một viên cảnh sát Thuỵ Sĩ với thẻ an ninh ngay trước ngực đang đứng theo dõi lối vào cuối cùng để lên máy bay. Người đàn ông lịch lãm kia gật đầu chào một cách lịch sự với viên cảnh sát rồi bước vào trong.

Người đàn ông dừng lại một lát và nhìn vào chân cầu thang lên máy bay. Trong túi áo ông ta đang có tấm vé của hãng hàng không Mỹ đi sân bay Dulles vào sáng nay. Ông ta đã mua tấm vé này mặc dù ông biết mình không có visa hợp lệ. Không sao cả, ông đâu có ý định đi Mỹ. Ông là một kẻ tử vì đạo, và chuyến đi này ông ta không dự định đi bằng máy bay.

Sau khi hoàn tất thủ tục cho chuyến bay, người đàn ông đứng xếp hàng chờ lên máy bay, đặt chiếc vali ngay sau mình. Chiếc vali này đã vài lần được thay đổi để phù hợp bới nhu cầu thực sự của ông ta. Các cạnh của vali và các bánh xe nhỏ của vali đã được thiết kế để có thể chịu được một khối lượng lớn hơn chứa bên trong và các khoá chính là kíp nổ. Áp lực là 12 pao (~ 453,6g) trên một centimet vuông của chiếc vali, kỹ sư đã cho ông biết thế. Chỉ một cái ấn nhẹ cũng đủ để chuyến đi bắt đầu.

Bộ phận an ninh đang một lần nữa kiểm tra vé và hộ chiếu của các hành khách đi hãng hàng không Mỹ. Ông ta đang đứng trong hàng cùng các hành khách khác, chủ yếu là người Mỹ. Không có visa hợp lệ, ông ta chắc sẽ khó tiến gần những người sẽ là nạn nhân mà chỉ có thể tiến gần bộ phận an ninh. Cuộc sống của họ sẽ chẳng còn những giờ phút thảnh thơi đâu… trong đầu ông ta nghĩ ra cảnh tượng với cả trăm pao thuốc nổ, chiếc vali này còn được nén chặt bởi hàng ngàn vòng bi trong ổ bạc đạn và những cây đinh nhọn. Những kẻ không tin vào đạo này sẽ nhanh chóng được quấn bằng những ruy-băng thấm đầy máu. Hẳn sẽ là cảnh tượng đầy sắc màu. Ông ta chỉ hy vọng rằng ngay sau khi cùng chết với đám người này, hồn mình có thể lưu lại đấy vài phút để chứng kiến cảnh tượng đẹp đẽ ấy.

Nhân viên an ninh kiểm tra xong các giấy tờ cần thiết của một người phụ nữ Mỹ với 2 đứa con nhỏ thì chú ý đến người đàn ông này. Ông làm đúng theo lời hướng dẫn là đưa vé và hộ chiếu cho nhân viên an ninh.

Với vẻ nghi ngờ, nhân viên này hỏi. “Ông là người Ai Cập?”.

“Vâng, đúng vậy”

“Ông có visa hợp lệ để đến Mỹ ngày hôm nay không?”

“Tôi được bảo rằng mình không cần visa”.

“Ai bảo thế?”.

“Thánh Allah”.

Nhân viên an ninh rút ngay chiếc điện đàm.

Người đàn ông bấm kíp nổ trên vali. Áp lực 12 pao được giải thoát. Ôi, thiên đường…

Kẻ tử vì đạo này không hề cô độc. Cũng có 2 trường hợp nổ bom liều chết xảy ra tại các sân bay của châu Âu sáng nay. Một tại sân bay Madrid, một tại sân bay Schewechat của Áo. Và tất cả đều được thực hiện theo một kiểu. Kẻ tử vì đạo ở Madrid thực hiện trễ hơn 1 phút nhưng bạn hắn tại Áo thì mãi tới 9 giờ 35 phút giờ châu Âu mới thực hiện được. Điều tra viên ở Áo cho biết tính đến giờ phút này chỉ xác định được một người có hành vi nổ bom liều chết, người này trước đó đã thưởng thức ly cà phê Viên trong sân bay trước khi cho nổ để về thiên đàng.

Giáo sư Ramadan nhận được tin nổ bom liều chết lúc 9 giờ 38 phút khi đang bị tắc đường tại Seine. Không phải Abu Musa đưa tin cho ông mà chính người trợ lí sản xuất đã đưa vị Giáo sư quay về toà cao ốc nơi có trường quay. Dường như nơi đến của nhóm khủng bố đang được mở rộng và ngài Giáo sư lại được tiếp tục mời làm cố vấn và nhà bình luận cho các hành động trên, Ngài Giáo sư ngay lập tức đồng ý mà không cần thảo luận về thù lao. 10 phút sau ông lại ngồi trên chiếc ghế đã được xếp sẵn mà ban nãy ông đã ngồi.

“Rất vui gặp lại Giáo sư Ramadan. Theo ngài, các cuộc tấn công vừa rồi có ý nghĩa gì?”

“Có nghĩa là nước Mỹ nên nhanh chóng thành lập kênh đối thoại với tổ chức Thanh kiếm Allah. Nếu không, sự việc đẫm máu hơn nữa có thể xảy ra ngay tại chính châu Âu”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

50#
 Tác giả| Đăng lúc 19-11-2013 20:35:10 | Chỉ xem của tác giả
Chương 29
Copenhagen

Thứ ba, 3 giờ 3 phút chiều.

Họ quyết định triệu tập một cuộc họp, họ đáp máy bay xuống phi trường Copenhagen rồi đến thẳng khách sạn Hilton. Adrian Carter đến trước, ngồi chờ trong khu giải khát trong lcú Gabriel cùng Sarah sải bước vào hành lang. Anh dẫn họ đến chỗ thang máy với cái nhìn mệt mỏi, một lúc sau họ đã quây quần trước tivi trong phòng quản trị cơ sở của Carter. Carter vặn tivi với âm lượng rất to. Bộ phận an ninh của CIA đã dọn dẹp phòng rồi, thế nhưng Carter là người hay câu nệ, nhất là khi giờ đây nó liên quan trực tiếp đến đặc thù công việc, cũng giống như Gabriel, Carter coi mấy bộ đồ điện là quan trọng, là cần thiết.

“Zurich, Madrid và Vienna: ba vụ tấn công phi trường, hệt như nhau và được sắp đặt hoàn hảo”. Vừa nhìn chăm chú vào các bức ảnh chụp vụ tảm sát và khung cảnh đổ nát trên màn hình, Carter vừa chậm rãi gật đầu và nói. “Một trăm hai mươi chín người được xác nhận là đã chết, năm trăm người bị thương, còn hệ thống hàng không châu Âu giờ đây bị tê liệt”.

Gabriel hỏi. “Các chính khách châu Âu thì sao?”.

“Với công chúng họ toàn nói lời hay: nào là đáng trách, nào là dã man, rồi vô nhân đạo. Thế nhưng lúc ngồi riêng với nhau, họ lại cầu xin chúng ta thoả hiệp với tội ác. Họ bảo chúng ta phải chấm dứt chuyện này trước khi máu loang thêm trên đất của họ. Ngay cả mấy người bạn chí cốt ở phố Downing của chúng ta cũng bắt đầu tự hỏi liệu chúng ta có tìm ra được cách nào đó để thương lượng nhằm thoát khỏi vụ này không. Sphinx dù có là ai đi nữa, là một tên sát nhân ngoại cỡ hay là một tên khốn nhẫn tâm, thì việc tính thời gian của hắn cũng không chê vào đâu được”.

“Có cơ hội nào cho ông Tổng thống sắp hết thời ấy không?”.

“Không phải là sau vụ này đâu. Thật ra, ông ta kiên quyết hơn bao giờ hết rằng vụ này sẽ kết thúc mà không có cuộc thương thảo nào cả. Có nghĩa rằng chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc tìm cho ra Elizabeth Halton trước hạn chót”. Ánh mắt Caretrr chuyển từ màn hình tivi sang Gabriel. “Lúc này, Joe của anh xuất hiện, chính là hy vọng duy nhất và tốt nhất của chúng ta”.

“Anh ta không pahỉ là của tôi đâu, Adrian ạ”.

“Bây giờ thì đúng thế, ít nhất cho đến khi có ý kiến chính thức từ Washington”, Carter hạ âm lượng xuống một hay hai decibel gì đó. “Anh gây ra một cơn bão khôn ghỏ ở Washington tối qua đấy, Gabriel. Buổi điều tra Ibrahim Fawaz của anh giờ cần phải được nghe lại từ Langley cho đến toà J.Edgar Hoover, đến cả Cục an ninh quốc gia”.

“Kết quả ra sao?”.

“Rối tung cả lên”, Carter trả lời. “Chuyên gia bất đồng ở chỗ chẳng biết Ibrahim có thành thật không, hay hắn đã lừa anh lần thứ hai. Chuyên gia cho rằng anh đã tin hắn quá vội vàng, và chuyên gia cũng lo ngại rằng anh đã hành xử quá đỗi nhân nhượng”.

“Vậy thì các chuyên gia nghĩ cái gì trong đầu kia chứ?”.

Carter đáp. “Một buổi thẩm vấn thứ hai”.

“Ai sẽ là người tra vấn hắn?”.

“Là người của Cục với mấy cái họ tên Cơ Đốc giáo thay vì một kẻ ám sát gốc Israel”.

“Và ông sẽ nói với tôi rằng tôi sắp bị đuổi việc ư?”

“Đó chính xác là những gì tôi nói”.

“Ông chẳnh cần pahỉ đi một quãng đường dài từ Copenhagen đến đây để sa thải tôi đâu, Adrian ạ. Một cuộc gọibảo mật là đủ rồi”.

“Tôi cảm thấy tôi nợ anh chuyện này. Rốt cục, tôi chính là người đã mang anh vào vụ này”.

“Ông tử tế quá. Nhưng hãy nói cho tôi đi nào Adrian, nói tôi nghe chính xác chuyện các điều tra viên của Cục nghĩ là họ sẽ lấy được cái gì từ Ibrahim, cái mà tôi đã không làm được ấy”.

“Họ tin rằng hắn ta đã không trả lời thẳng thắn và đầy đủ nhé. Ý kiến chung của các chuyên gai là hắn ta có những câu trả lời lảng tránh và sự dối trá cao độ”.

“Thật thế sao? Họ tự nghĩ ra chuyện đó hay là máy tính đã làm chuyện đó?”.

“Thật ra là sự kết hợp của cả hai”.

“Vậy ông muốn Ibrahim chân thật bao nhiêu nữa? Hắn đồng ý giúp ta tìm Elizabeth Halton và còn đưa ta số điện thoại ở Copenhagen mà con trai hắn gọi mỗi chiều nữa kia “.

“Không đâu, hắn đưa cho chúng ta số điện thoại mà hắn ta nói là con trai hắn sẽ gọi”.

“Vậy thì tối nay chúng ta sẽ biết được là hắn ta có nói thật hay không”.

“Cấp trên không sẵn lòng chờ. Họ muốn Ibrahim phải bị xích vào tường, ngay bây giờ”.

“Họ nghĩ họ sẽ thẩm vấn ở đâu?”.

“Họ đang tự hỏi liệu họ có thể nhờ cơ sở của anh ở Đức hay không”.

“Không có chuyện đó đâu”.

“Tôi cũng e rằng anh sẽ nói như thế. Và trong trường hợp này, chúng tôi có hai lựa chọn: một là đưa hắn về các cơ sở của chúng tôi ở Đông Âu; hai là tống hắn lên máy bay về AI Cập”.

Gabriel khẽ gật đầu nói. “Ibrahim sẽ không sang Đông Âu, Adrian ạ. Hắn cũng chẳng quay về Cairo làm gì. Sẽ không ai trói anh ta lên mấy tấm ván trượt nước và cũng chẳng ai xích anh ta vào tường nữa”.

“Giờ anh bắt đầu vô lý rồi đấy”. Carter nhìn sang Sarah như thể cô nàng sắp sửa nói điều gì hay ho với mình. “Vậy chính xác bây giờ Ibrahim đang ở đâu?”

Gabriel không đáp. Carter lặp lại caua hỏi với cái nhấn ở cuối câu mà Gabriel chưa từng nghe.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách