Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Kẻ Phụng Sự Thầm Lặng | Daniel Silva (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
51#
 Tác giả| Đăng lúc 19-11-2013 20:36:15 | Chỉ xem của tác giả
Chương 29
(tiếp theo)

“Hắn quay trở lại Amsterdam”, Gabriel nói. “Trong căn hộ ở Allébeplein tháng Tám”.

“Vì cái quái gì mà anh trả hắn về?”

“Chúng tôi không có lựa chọn nào khác trừ việc trả hắn về”, Gabriel đáp. “Nếu Ibrahim bốc hơi khỏi mặt đất thì vợ hăn sẽ gọi cho cảnh sát Hà Lan ngay, và ta có thể đối mặt với một vụ ầm ĩ ngay tại đó”.

“Tránh bê bối ở Hà Lan không phải là chuyện ưu tiên hàng đầu của chúng ta vào lúc này”, Carter đáp. “Chúng ta cần hắn, và ngay bây giờ. Tôi đoán chắc hắn đã ở ngoài tầm kiểm soát”.

“Không đâu, Adrian, chuyện đó đã làm rối tungđầu óc chúng ta đấy”.

“Cố mà kiểm soát cái khiếu hài hước Israel trời cho của anh một chút đi nào”.

“Tất nhiên hắn đã ở ngoài tầm kiểm soát”.

“Thế nên tôi cho rằng anh sẽ chẳng có vấn đề gì khi tóm hắn vào tay chúng ta”.

“Chẳng vấn đề gì cả”, Gabriel tiếp lời. “Nhưng ông không thể có hắn ta đâu”.

“Suy nghĩ đi, Gabriel”.

“Tôi là người duy nhất có lý, Adrian ạ. Và giả như mấy tay đâm thuê chém mướn của ông mon men đến gần hắn thì bọn chúng sẽ lãnh đủ đấy”.

Caretrr nổi cáu. “Vậy là ta đã vào ngõ cụt”.

“Đúng vậy”.

“Tôi tin là anh có phương án dự phòng”, Carter nói. “Tôi cũng dám chắc là tôi không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc ngồi lắng nghe”.

“Tôi khuyên ông hãy hiên nhẫn, Adrian ạ”.

“Elizabeth Halton sẽ chết lúc sáu giờ tối thứ sáu. Chẳng còn thời gian để chúng ta kiên nhẫn đâu”.

“Tôi đã đưa ông địa chỉ và một lô số điện thoại mà một trong những số đó sẽ được kẻ bắt giam cô ta dùng để gọi về căn cứ. Trong kho vũ khí của Cục an ninh quốc gia, các ông có dịch vụ phản gián điện tử lớn nhất và thông minh nhất trên thế giới có khả năng hút sạch mọi cú fax, cuộc gọi và liên lạc qua mạng trên hành tinh này, từng giây trong ngày. Giao số của Ishaq ở Copenhagen cho NSA. Đêm nay, khi hắn gọi, bảo NSA mang toàn bộ các nguồn tin đang quan tâm ra mà trả lời cho cái câu hỏi đơn giản này: Hắn ở đâu?”.

Carter đứng dậy và thong thả bước đến quầy bar mini. Sau khi nghiên cứu bảng giá, anh chọn một món uống không cồn. “Để không làm hỏng vụ này, phải cài được bộ nghe vào điện thoại nhà của hắn và đặt một đội theo dõi vợ con tên Ishaq này suốt ngày”.

“Thế ông nghĩ ta đang làm gì cả ngày vậy, Adrian? Xem phim trong phòng khách sạn chắc?”. Gabriel quay sang Sarah. “Cô là sĩ quan liên lạc. Vui lòng thực thi nhiệm vụ và báo cáo các hoạt động hàng ngày của chúng ta”.

“Hanifah và Ahmed sống trong một khu ở Copenhagen gọi là Norrebro”, Sarah nói. “Căn hộ của họ nằm trong một khối nhà đẹp nhất thế kỉ, như thể là một thành phố khác trong thành phố ấy. Ta có thể tiếp cận mỗi căn hộ như vậy bằng một cửa trước và một cửa hậu dành cho các dịch vụ. Lúc gần trưa, lúc mà Hanifah dẫn Ahmed ra ngoài câu cá và sắm sửa vài thứ, tụi tôi đã luồn vào cửa sau và cài vài cái…”. Cô nhìn sang Gabriel. “Cái thiết bị ta cài vào điện thoại, chúng gọi là gì ấy nhỉ”.

“Là thanh kế”, Gabriel đáp. “Nó thu toàn bộ âm thanh trong phòng cùng với toàn bộ các cuộc đàm thoại qua điện thoại”.

“Chúa ơi”, Carter khẽ nói. “Hãy nói với tôi rằng anh không lôi luôn cả nhân viên của tôi trong vụ B và E giữa thanh thiên bạch nhật ở Copenhagen này chứ”.

“Cô ấy làm rất tốt, Adrian ạ. Ông hẳn là tự hào về cô ấy lắm”.

“Chúng tôi cũng đặt luôn bộ chuyển tín hiệu điện thoại ở Hội đồng các vấn đề Hồi giáo ở Đan Mạch rồi”. Sarah nói. “Hộp tổng thì đặt dưới các văn phòng trong một con hẻm. Vụ đó dễ ợt”.

“Tôi cũng lo luôn việc theo dõi động thái của chúng”.

Gabriel cau mày nhìn Carter như thể anh đã tìm thấy chút gì đó của một câu hỏi mang tính chống đối. Carter ngó xuống các bức ảnh về vụ hỗn độn trên màn hình tivi.

“Tôi được điều đến đây để sa thải anh và giờ đây tôi ngờ là mình đã dấn vào một vụ tự sát”, anh ta tắt tivi, nhìn sang Gabriel. “Thôi được, anh thắng. Chúng ta đúng là đã đưa số điện thoại cho NSA tối qua. Giả sử hắn gọi bằng di động, NSA nói phải gần đến một giờ sau mới dò tìm ra vị trí tương ứng. Lúc đó ta sẽ thông báo cho các cấp lãnh đạo địa phương liên quan và bắt đầu tìm kiếm”.

“Hãy nhớ chắn chắn là các cấp lãnh đạo địa phương liên quan đó biết được rằng họ sẽ giết chết cô ta nếu bất kỳ ai cố gắng tìm cách giải cứu cô ấy đấy”.

“Chúng tôi đã nói rõ ràng với các đồng nghiệp tại châu Âu về vụ này rồi. Nếu có ai đó làm việc này thì đó phải là chúng ta. Thật ra chúng tôi đã điều bốn đội quân lực Delta đến các thủ đô khác nhau ở đây chỉ để cho vụ này thôi. Họ đang nóng lòng. Nếu ta đến đó với tin mật về chỗ ở hiện nay của Elizabeth Halton, các đội ấy sẽ vào trong và mang cô ta ra và rồi ta sẽ lo đến màn xoa dịu cho cái cảm giác châu Âu bị đau đớn ấy sau đó”.

“Chúng tôi có hẳn một đoàn chuyên lo mấy chuyện này, Adrian ạ. Nếu ông cần lời khuyên thì nói với chúng tôi nhé”.

“Anh lo lắng thế là đủ rồi”, Carter cau mày nhìn đồng hồ đeo tay. “Anh và đội của anh chịu trách nhiệm theo dõi động thái của vợ con hắn tại Copenhagen này. Tôi sẽ đi Luân Đôn giải thích lí do tôi không tuân thủ lệnh chấm dứt sự dính líu của anh trong hoạt động của hắn. Định mệnh của Elizabeth Halton giờ nằm trong tay anh và thuộc sự nghiệp của anh đấy, Gabriel ạ. Nhớ làm hết sức, đừng để chúng tôi bị vạ lây”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

52#
 Tác giả| Đăng lúc 19-11-2013 20:38:34 | Chỉ xem của tác giả
Chương 30
Nhà Tù Torah (AI Cập)

Bốn giờ 19 phút chiều thứ ba

Wazir Al-Zayyat nghĩ thầm. Scorpion – Con bọ cạp: Địa ngục trần gian. Một trăm buồng giam bẩn thỉu chứa toàn các thành viên Hồi giáo nhà nòi ở Ai Cập, một tá phòng thẩm vấn, nơi hầu hết các chiến binh cứng cựa nhất của tổ chức Thanh kiếm Allah cũng có thể nôn ra bí mật sau vài giờ “được hỏi han” trong tay mật vụ Ai Cập. Vài người bước vào nhà tù Bọ Cạp đã khác hẳn kẻ khác ở tâm hồn hoặc cơ thể không lành lặn. Những kẻ đã chạm mặt Wazir Al-Zayyat thì hiếm khi sống được để kể về chuyện này.

Nhà tù Bọ Cạp chiều ấy đông đúc hơn so với mấy năm trước. Al-Zayyat chẳng làm gì đáng chú ý vì anh ta chịu trách nhiệm lớn nhất đối với bọn mới đến. Tù nhân trong phòng thẩm vấn số 4 có vẻ hứa hẹn nhất. Hussein Mandali, giáo viên trung học đến từ tổ chức Thanh kiếm Allah của Imbaba. Hắn bị tóm trong vòng chỉ 12 giờ đồng hồ vì bị tình nghi đang phân phát một cuộn băng ghi lại buổi thuyết giảng của lãnh tụ Hồi giáo Tayyib Abdul Razzap. Chuyện này tự thân nó khó là một tội – mấy bài giảng đạo vô vị của tay lãnh tụ Hồi giáo giờ như bản hip-hop của số đông thanh niên – thế nhưng nội dung bài giảng tìm thấy ở Mandali lại đáng chú ý. Trong cuộn băng, tay lãnh tụ có đề cập tới chuyện bắt cóc người phụ nữ Mỹ tại Luân Đôn và đã kêu gọi một cuộc nổi dậy có quy mô chống lại chế độ. Một loạt bằng chứng cho thấy buổi thuyết giảng được ghi lại cách đó không lâu. Al-Zayyat biết rằng mấy cuộn băng không phải do hoá phép hay do ý chí siêu phàm của Allah mà xuất hiện. Hussein Mandali là mảnh ghép cần tìm.

Al-Zayyat đẩy cánh cửa bước vào trong. Ba thẩm vấn viên đang tựa người vào trong. Ba thẩm vấn viên đang tựa người vào mấy bức tường xám ngoét, tay áo xoắn lên, mặt mũi ướt đẫm mồ hôi. Hussein Mandali bị đặt trên một cái bàn kim loại, mặt bê bết máu và sưng tấy, mình mẩy thì đầy vết cháy sém. Một sự khởi đầu tốt đẹp đây, Al-Zayyat nghĩ bụng, nhưng vẫn chưa đủ để lung lay một thằng bước ra từ cái ổ chuột của Imbaba.

Al-Zayyat ngồi đối diện Mandali và nhấn nút PLAY lên cái máy chạy băng ở giữa bàn. Lát sau, một giọng nói mỏng manh và yếu ớt của lãnh tụ Tayyib vang lên quan các bức tường phòng thẩm tra. Al-Zayyat để bài giảng đạo vang lên vài phút rồi thình lình đè mạnh nút STOP bằng cái ngón trỏ to thù lù.

“Mày lấy cuộn băng này ở đâu?”, anh ta từ tốn.

“Một người đàn ông đã đưa cho tôi trong quán cà phê tại Imbaba”.

Al-Zayyat thở dài thườn thượt và liếc qua ba vị kia. Màn đánh đập mà họ thực hiện trong hai mươi phút sau đó, xét theo tiêu chuẩn Ai Cập, thì cũng đã quá tàn bạo. Khi Mandali quay trở lại chỗ ngồi tại bàn thẩm ván, hắn tỉnh hơn và bắt đầu thút thít như con nít. Al-Zayyat lại mở cuộn băng lên nghe và hỏi lần thứ hai.

“Mày lấy cuộn băng này ở đâu?”.

“Một người đàn ông…”

Al-Zayyat ngắt lời. “Tao nhớ chứ, Hussein – từ một gã trong quán cà phê tại Imbaba. Thế nhưng tên hắn ta là gì?”.

“Ông ta … không có nói cho tôi biết”.

“Quán cà phê hiệu gì?”.

“Tôi … không nhớ được”.

“Chắc không Hussein?”.

“Tôi … chắc”.

Al-Zayyat đứng dậy không nói thêm lời nào và gật đầu với mấy viên thẩm vấn kia. Lúc bước ra hành lang, anh nghe tiếng Mandali van xin đừng tra tấn và tiếng vị lãnh tụ Hồi giáo trong cuốn băng ra rả. “Đừng sợ kẻ hầu cận của Pharaoh. Hãy đặt niềm tin vào Allah, và Ngài sẽ bảo vệ anh”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

53#
 Tác giả| Đăng lúc 20-11-2013 19:19:45 | Chỉ xem của tác giả
Chương 31
Copenhagen

Thứ ba, 5 giờ 30 phút chiều.

Vì không có thời gian để sắp xếp chỗ ở an toàn cho đội của Gabriel ở Copenhagen, họ đã nghỉ tại khách sạn D’Anglerterr, một khách sạn nổi tiếng khổng lồ, sang trọng thấp thoáng trên quảng trường King’s New. Chẳng bao lâu sau 5 giờ 30, Gabriel và Sarah đã đến nơi và đi thẳng lên một phòng ở tầng bốn. Trong khi đó Mordecai ngồi tại bàn làm việc, chân đi tất, tai nghe phôn, còn cặp mắt thì dán vào bộ đàm như một vị bác sĩ đang đọc máy quét điện não tìm dấu hiệu sự sống. Gabriel bước vào phòng, chụp tai nghe vào, rồi nhìn Mordecai với vẻ mặt nhăn nhó.

“Nghe như có thằng cha nào đang đóng cọc móng nhà trong phòng vậy”.

“Ừ, tên thằng bé là Ahmed. Nó đang đập mạnh thứ đồ chơi nào đó xuống sàn nhà ở ngay gần điện thoại”, Mordecai nói.

“Sự việc diễn ra trong bao lâu rồi?”.

“Được một tiếng đồng hồ rồi”.

“Tại sao cô ấy không bảo nó dừng lại nhỉ?”.

“Có lẽ cô ấy bị điếc. Thề có Chúa là tôi cũng sẽ bị điếc nếu thằng nhóc ấy không ngừng ngay lại”.

“Có cuộc điện thoại nào diễn ra không?”.

“Chỉ có một cuộc điện thoại gọi ra ngoài thôi. Cô ấy gọi cho Ibrahim ở Amsterdam để phàn nàn về việc Ishad vắng mặt liên tục. Cô ấy không hề biết gì cả trừ phi đây là một mưu kế quá tinh vi”.

Gabriel xem đồng hồ. Đã 5 giờ 37 phút rồi. Anh thầm nghĩ về cuộc đời của một điệp viên. Phút giây chán chường bị phá vỡ bởi một nỗi sợ hãi. Anh đeo nhanh tai nghe vào và chờ tiếng chuông điện thoại của Hanifah.

Họ phải chịu đựng sự im lặng tang tóc thật khó chịu của những người lạ mặt cùng nhau trải qua một buổi chiều vô vị đến đáng sợ. Chỉ có tiếng Ahmed ném mạnh đồ chơi của mình xuống sàn nhà bếp. Rồi tiếng nó giả vờ làm một chiếc máy bay phản lực. Và tiếng nó đá một quả bóng vào tường phòng khách. Vào lúc 8 giờ 15 phút, có một âm thanh ré lên inh tai. Mặc dù họ không thể nào xác định được chính xác sự việc diễn ra như thế nào nhưng họ biết nó cũng đủ làm cho Hanifah điên tiết chửi rủa. Đáp lại sự tức giận của Hanifah, thằng bé hỏi mẹ với giọng đầy hối hận rằng liệu cha nó sẽ gọi vào đêm nay không. Gabriel bước chậm rãi trên sàn nhà như thể đang tìm kiếm những đồ vật quý giá bị mất, rồi đứng yên và chờ câu trả lời. Cha con sẽ gọi ngay khi có thể, Hanifah nói. Ibrahim đã luôn nói sự thật.

8 giờ 20 phút, Ahmed bị bắt đi tắm. Hanifah dọn dẹp lại mớ hỗn độn ở phòng khách, sau đó mở tivi. Cô ta xem ngay kênh đang chiếu về Al-Manar, mạng truyền hình chính thức của Hezbollah. 20 phút sau, trong khi Ahmed bắn tung toé nước trong bồn tắm, họ buộc phải ngồi nghe buổi thuyết giảng của tu sĩ người Libăng, ông ta đang ca tụng sự dũng cảm của Tổ chức Thanh kiếm Allah và kêu gọi thêm nhiều hành động khủng bố để chống lại những người Mỹ vô đạo và những người theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái.

Vào lúc 8 giờ 43 phút, bài thuyết giảng bị cắt ngang bởi một tiếng reo của chuông điện thoại. Hanifah nghe điện thoại ngay lập tức và nói bằng tiếng Arập. “Có phải là anh không, Ishaq?”.

Đó không phải là Ishaq mà là một người đàn ông Đan Mạch đang trong tâm trạng bối rối gọi đến tìm một người tên là Knud. Khi nghe giọng của một người phụ nữ nói tiếng Arập và những lời nguyền rủa của cô ta trong điện thoại, anh ta liên tục nói xin lỗi và vội vàng cúp máy. Hanifah gác điện thoại và bắt Ahmed ra khỏi phòng tắm. Người thuyết giáo Hezbollah hô lớn rằng đã đến lúc những tín đồ của Hồi giáo phải hoàn thành sứ mệnh mà Hitler đã bắt đầu.

Mordecai giận dữ nhìn Gabriel. “Cả hai chúng ta đều không cần trải qua chuyện quái quỉ này. Tại sao chúng ta không rời khỏi đây nhỉ?”, Mordecai nói.

“Tôi không muốn bỏ lỡ cuộc gọi của hắn”.

“Máy thu âm sẽ làm việc đó mà”, Mordecai đưa cho Gabriel áo khoác của anh và xô nhẹ anh ra cửa. “Đi kiếm cái gì đó ăn đi. Đưa Sarah đi cùng với. Anh và cô ấy là một cặp xứng đôi đó”.

Một ban nhạc bốn người đang chơi nhạc Bach ở phòng khách dưới lầu. Gabriel và Sarah đi ngang qua họ, không thềm liếc nhìn và đi thẳng tới quảng trường, hướng đến những quán cà phê dọc theo cảng New Harbor. Trời trở lạnh hơn, Sarah đội một chiếc mũ bê-rê, kéo cổ áo khoác lên. Khi Gabriel trêu chọc là cô giống y hệt một điệp viên, cô chụp tay anh và đẩy nhẹ người mình vào vai anh. Họ ngồi dọc theo bến cảng, uống bia Carlberg ướp lạnh, phía dưới là máy sưởi ấm bằng gas đang phát ra tiếng xì xì. Gabriel lấy một đĩa cá thu và khoai tây chiên, trong khi đó thì Sarah nhìn chăm chăm vào ánh đèn đầy màu sắc chiếu trên bề mặt của những ngôi nhà nằm bên bờ bên kia của kênh đào.

“Em cho là ở đây đẹp hơn Langley”.

“Bất cứ cái gì cũng đẹp hơn ở Langley”, Gabriel nói.

Sarah ngước nhìn lên bầu trời tối mịt. “Em nghĩ là số phận của anh giờ đây đang nằm trong tay của NSA và những vệ tinh của họ”.

“Em cũng thế đấy, Sarah ạ”, Gabriel nói. “Nếu khôn ngoan thì em nên đi Luân Đôn với Adrian”.

“Và bỏ lỡ chuyện này sao?”, Sarah nhìn về phía những ngôi nhà ở bên kia kênh đào. “Nếu hắn gọi vào đêm nay thì anh có nghĩ là chúng ta sẽ tìm được cô ấy không?”.

“Nó còn tuỳ thuộc vào NSA xác định được địa bàn của Ishaq như thế nào nữa. Thậm chí nếu NSA có thể xác định được địa điểm của Elizabeth thì Washington cũng sẽ gặp vấn đề khác – làm thế nào để đưa cô ấy sống sót trở vê. Ishaq và đồng bọn của hắn luôn sẵn sàng chết, có nghĩa là bất cứ hành động nào đánh ập vào chỗ trú ẩn của bọn chúng thì cũng sẽ kết thúc bằng vũ lực. Nhưng anh chắc ý kiến của chuyên gia là phải vạch ra một kế hoạch nào đó”.

“Đừng có đóng vai kẻ tử vì đạo bị tổn thương như vậy nữa. Nó không hợp với anh đâu, Gabriel à”.

“Anh không quan tâm đến những gì mà họ đã nói về anh ở Washington ngày hôm nay”.

“Washington là một thành phố không có tình thương”.

“Jerusalem cũng thế”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

54#
 Tác giả| Đăng lúc 20-11-2013 19:20:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 31
(tiếp theo)

“Rồi anh cũng phải cần đến bộ mặt lạnh lùng hơn khi anh trở thành người đứng đầu của Văn phòng”. Cô liếc nhìn anh một cách tinh nghịch qua cổ áo. “Adrian nói nó chỉ là một lời đồn đại thôi, nhưng đánh giá từ phản ứng của anh cho thấy đó là sự thật”. Sarah nâng ly lên và nói. “Mazelton”.

“Sự cảm thông sẽ được đánh giá cao hơn”.

“Anh không thích công việc này à?”.

“Nhiều người luôn có ước mơ vĩ đại thôi thúc bên trong”.

“Anh đang rất cao hứng đấy”.

“Tha lỗi cho anh, Sarah. Cuộc nói chuyện về sự diệt chủng và huỷ diệt sẽ làm hỏng buổi chiều của anh mất”.

“Ồ, đúng đấy”.

Sarah nhấm nháp ly bia của mình và rùng mình vì lạnh.

“Anh biết đấy, nhà hàng này có khu vực riêng ở phía trong”.

“Ừ, nhưng thật khó cho anh để nói rằng liệu chúng ta có bị theo dõi hay không”.

“Chúng ta bị theo dõi ư?”.

“Em đã được huấn luyện trong việc này rồi mà, em thử nói anh nghe xem”.

“Khi chúng ta rời khách sạn có một người đàn ông đang uống ở quầy rượu”, Sarah nói. “Và bây giờ ông ta đang đứng bên kia con kênh với một người phụ nữ già hơn ông ấy ít nhất 15 tuổi”.

“Liệu ông ta có phải là an ninh của Đan Mạch không?”.

“Ông ta nói tiếng Đức ở quầy rượu”.

“Vậy thì sao?”.

Sarah lắc đầu. “Không, em nghĩ ông ta không phải là an ninh Đan Mạch. Còn anh nghĩ thế nào?”.

“Anh nghĩ hắn là một gã trai bao người Đức, sẽ lừa hết từng đồng tiền của người đàn bà tội nghiệp đó”.

“Chúng ta có nên cảnh báo bà ấy không?”.

“Anh thấy đêm nay chúng ta có nhiều chuyện để bận tâm rồi”.

“Lúc nào anh cũng có được cuộc hẹn hò thú vị như lúc này sao?”.

“Anh đã không nhận ra đây là một cuộc hẹn hò”.

“Đây gần như là một cuộc hẹn hò mà lâu rồi em mới có được”.

Gabriel nhìn cô với ánh mắt kinh ngạc và bỏ một miếng cá vào miệng mình. “Em có thật sự mong anh tin rằng em gặp khó khăn trong việc hấp dẫn đàn ông?”.

“Có lẽ anh đã quên mất rằng ngay lúc này đây em phải sống với việc che giấu tung tích và giữ vai trò trong hoạt động Al-Bakari. Chính vì vậy em khó mà tiếp xúc được với đàn ông. Thậm chí những cộng sự ở CTC cũng không biết tên thật hoặc bất kỳ điều gì về quá khứ của em. Em nghĩ rằng như vậy là hay nhất. Nhưng dù cho em có gặp bất kỳ ai vào thời điểm này thì người ấy cũng không có cơ hội đến với em. Vì em e rằng trái tim của em đã bị người khác giữ mất rồi”. Sarah ngắm nhìn Gabriel thật kỹ qua cái ly trước mặt mình. “Bây giờ là lúc anh nên hỏi tên người đàn ông đã đánh cắp trái tim em”.

“Có những câu hỏi tốt hơn hết là không nên hỏi, Sarah à”.

“Gabriel à, anh thật là cứng nhắc”. Cô uống một ngụm bia và tiếp tục nhìn về phía những ngôi nhà bên kia con kênh. “Nhưng trái tim anh đã thuộc về người khác rồi phải không?”.

“Hãy tin anh, Sarah. Em có thể làm tốt hơn là tìm kẻ hận đời đến từ thung lũng Jezreel”.

“Em luôn luôn bị hấp dẫn bởi những người đàn ông hận đời, đặc biệt là những người có tài. Nhưng em e rằng sự chọn lựa của em lúc nào cũng tệ hại. Đó là lý do tại sao em học nghệ thuật thay vì nên học âm nhạc”.

Cô nhìn anh cười buồn vui lẫn lộn. “Đó có phải là Chiara không?”.

Gabriel gật đầu một cách chậm rãi.

“Em biết mà”, Sarah nói. “Cô ấy thật may mắn”.

“Anh cũng thấy mình may mắn”.

“Anh có biết là cô ấy quá trẻ so với anh không?”.

“Nhưng cô ấy lớn hơn em đấy, dù sao cũng cám ơn em vì đã nhắc nhở anh”.

“Nếu có khi nào cô ấy bỏ anh để theo một gã trẻ hơn…”, giọng cô nhỏ dần. “À, anh biết tìm em ở đâu mà. Em sẽ làm công việc quản lý bảo tàng trực đêm ở tổ chuyên trách về Arập của trung tâm chống khủng bố”.

Gabriel đưa tay sờ mặt Sarah. Cái lạnh đã làm đôi má của cô thêm hồng.

“Anh xin lỗi”.

“Vì cái gì?”.

“Bọn anh không nên lợi dụng em, mà nên tìm người khác”.

“Không có ai giống như em đâu. Nhưng em đoán là anh biết điều đó mà”.

Một đoàn du lịch người Trung Quốc, đi du lịch châu Âu mà như thể đi xâm chiếm đất, đang chụp ảnh ở ngay giữa quảng trường King’s New. Gabriel khoác tay Sarah và đưa cô đi một vòng, trong khi đó anh cũng cảm thấy thú vị với sự mỉa mai của một dân tộc thể hiện trên mái vòm nơi linh thiêng của một văn minh vào lúc chạng vạng tối. Họ đi vào hành lang của D’Angleterre dưới cái nhìn đầy ngưỡng mộ của người giữ cửa và đi lên cầu thang dẫn đến Pachelbel’s Canon. Mordecai đang bước đều với vẻ lo lắng khi hai người bước vào phòng. Anh ta dúi cặp tai nghe vào tay Gabriel và để anh nghe máy thu âm. “Hắn đã gọi đến”, Mordecai thì thầm. “Hắn đã gọi đến rồi, vậy là chúng ta tóm được hắn được rồi. Gabriel, anh đã thành công”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

55#
 Tác giả| Đăng lúc 20-11-2013 19:22:49 | Chỉ xem của tác giả
Chương 32
Cairo

10 giờ 19 phút tối thứ ba

Sự thật đã được phơi bày ở phòng thẩm vấn số 4 của nhà tù Bọ Cạp. Đúng như những gì Wazir Al-Zayyat đã nghi ngờ, Hussein Mandali không phải là một giáo viên trung học tầm thường. Hắn là một thành viên cao cấp trong tổ chức Thanh kiếm Allah và là Tổng tư lệnh quan trọng ở Imbaba. Hắn cũng thú nhận chính mình đã có mặt khi các tộc trưởng Tayyib thu âm lại buổi diễn thuyết của ông ta kêu gọi sự đứng lên chống lại chế độ, phiên họp được ghi âm diễn ra vào sáng Chủ nhật ở căn hộ số 2408 của toà tháp Ramses, một khu sang trọng phía bắc của câu lạc bộ thể thao Gezira, đầy những vị khách nước ngoài, những ngôi sao điện ảnh và những người bạn mới giàu có của chế độ. Việc kiểm tra nhanh qua các hồ sơ đã cho thấy ra căn hộ đang bị nghi vấn này được sở hữu bởi một công ty có tên là Nejab-Holdings, việc kiểm tra lần hai đã xác nhận rằng Nejab-Holdings được điều khiển bởi một Hoàng tử tên là Rashid bin Sultan al-Saud.

Đó không phải là lần đầu tiên tên của một vị Hoàng tử lại có liên hệ đến khủng bố của Hồi giáo Ai Cập. Nhiều năm nay, anh ta đã rót hàng triệu đô la vào túi những kẻ cuồng đạo Ai Cập bao gồm mặt trận và thực thể được điều khiển bởi tổ chức Thanh kiếm Allah. Nhưng bởi đây là Hoàng tử Arập – bởi vì nước Ai Cập nghèo khó đang chịu ơn viện trợ kinh tế của Arập, Al-Zayyat đã không có sự lựa chọn nào khác nên anh ta buộc lòng phải làm ngơ với sự nỗ lực làm từ thiện của vị Hoàng tử. Nhưng lần này thì khác, anh ta thầm nghĩ. Việc cho tiền vì lợi ích của đạo Hồi là một chuyện, việc viện trợ và cung cấp chỗ ở cho tên khủng bố muốn huỷ diệt chế độ của Mubarak lại hoàn toàn là chuyện khác. Nếu SSI tìm ra được những tộc trưởng Tayyid đang ẩn náu nơi nào đó trên lãnh thổ Ai cập thì cũng đủ để gây ra một cuộc chiến nhằm kết thúc việc xen vào nội bộ Ai Cập một cách triệt để.

Al-Zayyat đến toà tháp Ramses khoảng sau 10 giờ 30 phút và phát hiện ra toà nhà bị bao vây bởi hàng trăm cảnh sát mới vào nghề. Anh ta biết rằng hầu hết những viên cảnh sát trẻ tuổi này đã bí mật ủng hộ mục tiêu của tổ chức Thanh kiếm Allah. Rất nhiều trong số họ nếu có cơ hội sẽ sẵn lòng lặp lại hành động của trung uý Khaled Islambouli và cho một phát súng vào ngực của Pharaoh. Al-Zayyat bảo tài xế của mình lái xe đến dừng ở bên kia đường và hạ thấp cửa kính xuống. Một người đàn ông thấy được chiếc xe Mercedes của Văn phòng liền hối hả chạy qua.

“Chúng tôi đã đi vào đó khoảng 20 phút trước”, một nhân viên nói. “Trong đó không có ai cả. Rõ ràng là có một ai đó vừa mới ở đó, mà cho dù đó là ai đi nữa thì cũng đã vội vã bỏ đi. Có thức ăn ở trên bàn và những cái chảo ở trong bếp, mọi thứ đều còn ấm”.

Al-Zayyat lầm bầm chửi thề. Đó có phải là điềm xấu, hay là trong hàng ngũ của ta có một kẻ phản bội – một kẻ ở ngay trong SSI, người đã báo tới cho lãnh tụ Hồi giáo này về việc Mandali đang bị tra khảo.

Anh ta nói. “Phong toả tất cả các cầu ở Zamelek không ai được rời khỏi đảo mà không bị lục soát. Sau đó bắt đầu xét từng phòng bên trong toà tháp. Tôi không cần biết anh phải làm mất lòng những người nổi tiếng hay giàu có ở đây thế nào. Tôi muốn đảm bảo rằng gã lãnh tụ Hồi giáo hoàn toàn không có mặt ở bên trong toà tháp”.

Người nhân viên quay trở lại và chạy tới lối vào của tào nhà. Al-Zayyat lấy điện thoại từ trong túi và bấm số nội bộ của nhà tù Bọ Cạp.

“Vườn không nhà trống rồi”, anh ta nói với người đàn ông ở đầu kia.

“Chúng ta có nên chuyển sang tra khảo tiếp tên Mandali không?”.

“Không, hắn cũng hết thông tin gì cần thiết rồi”.

“Anh muốn chúng tôi làm gì hắn đây?”.

“Chúng ta chưa bao giờ bắt được hắn”, Al-Zayyat nói. “Chúng ta chưa bao giờ nghe về hắn. Hắn không là gì cả, không là ai cả”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

56#
 Tác giả| Đăng lúc 21-11-2013 10:24:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 33
Copenhagen

10 giờ 24 phút tối thứ ba

Gabriel ngồi ngay trước máy thu âm, đeo tai nghe rồi nhấn nút Play.

“Em sợ tối nay anh không gọi. Anh có biết mấy giờ rồi không?”.

“Anh đang rất bận, em đã xem tin tức chưa?”.

“Các vụ nổ bom à? Mọi người đang bàn tán về chuyện đó đấy”.

“Thế họ đã nói những gì nào?”.

“Dĩ nhiên là dân Đan Mạch rất sốc về chuyện đó. Họ tự nhủ khi nào thì vụ việc tương tụ như thế sẽ xảy ra ở Copenhagen. Ở Norrebre, họ nói châu Âu đáng bị như vậy vì đã ủng hộ bọn Mỹ. Họ muốn bọn Mỹ phóng thích cho các lãnh tụ Hồi giáo”.

“Hanifah, cẩn thận với những gì em đang nói đấy. Coi chừng có người đang nghe lén”.

“Ai lại muốn nghe lén một người như em chứ?”.

“Em đã kết hôn với người đàn ông làm việc cho Hội đồng các vấn đề Hồi giáo ở Đan Mạch”.

“Một người đàn ông sẵn sàng sống xa vợ con để đến vùng Trung Đông làm cuộc nghiên cứu về thế giới đạo Hồi. Rốt cuộc là anh đang ở đâu vậy?”.

“Anh đang ở Istanbul. Còn Ahmed khoẻ không?”

Gabriel nhấn nút dừng, để tua băng lại, rồi nghe tiếp.

“Rốt cuộc là anh đang ở đâu vậy?”.

“Anh đang ở Istanbul. Còn Ahmed khoẻ không?”.

“Nó nhớ anh nhiều lắm”.

“Anh muốn nói chuyện với con”.

“Bây giờ đã khuya. Con nó ngủ được gần một tiếng rồi”.

“Đánh thức nó dậy đi”.

“Không”.

“Anh cần phải nói chuyện với nó đêm nay”.

“Vậy thì anh nên gọi sớm hơn chứ. Anh đang ở đâu vậy Ishaq? Có tiếng ồn gì ở trong điện thoại vậy?”.

“Tiếng xe cộ chạy ngoài đường đó mà”.

“Nghe như là anh đang ở trên đường cao tốc vậy”.

“Không như ở Copenhagen, ở Istanbul rất ồn ào. Hôm nay em có nói chuyện với cha anh không?”.

Dừng lại, tua băng và nghe lại.

“Anh đang ở đâu vậy Ishaq? Có tiếng ồn gì ở trong điện thoại vậy?”.

“Tiếng xe cộ chạy ngoài đường đó mà”.

“Nghe như là anh đang ở trên đường cao tốc vậy”

“Không như ở Copenhagen, ở Istanbul rất ồn ào. Hôm nay em có nói chuyện với cha anh không?”.

“Có, hồi chiều”.

“Ông ấy khoẻ không?”.

“Chắc là khoẻ”.

“Thời tiết ở Copenhagen ra sao?”.

“Lạnh, Ishaq. Anh đang nghĩ gì thế?”

“Có người lạ mặt nào lảng vảng quanh căn hộ không? Hay có bất kỳ khuôn mặt không quen nào đi trên phố không?”.

“Có thêm vài cảnh sát so với mọi khi, nhưng ở đây cũng yên tĩnh”.

“Em có chắc không?”.

“Vâng. Sao anh có vẻ lo lắng vậy?”.

“Bởi vì ngay lúc này đây, cộng đồng Hồi giáo đang bị bao vây. Bởi vì bọn anh bị bắt giữ và bị thẩm vấn chỉ vì đã nói tiếng Arập và cầu nguyện hướng về Meca”

“Không có ai bị bắt ở Copenhagen cả”.

“Chưa đâu”.

“Khi nào thì cuộc họp của anh kết thúc, Ishaq? Anh định khi nào mới về nhà?”.

“Thực ra hai mẹ con em sẽ đến ở đây. Không phải là Istanbul mà là một nơi tốt hơn”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

57#
 Tác giả| Đăng lúc 21-11-2013 10:26:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 33
(tiếp theo)

“Anh đang nói gì vậy?”.

“Hãy mở ngăn cuối cùng tủ đồ của anh. Anh có để một phong thư ở đó”.

“Ishaq à, em mệt mỏi lắm rồi. Em không muốn chơi trò này đâu”.

“Hãy làm theo những gì anh nói Hanifah. Anh hứa là em sẽ không thất vọng đâu”.

Hanifah điên tiết, ném mạnh ống nghe xuống đến nỗi ở đầu dây bên kia màng nhĩ của Gabriel rung lên. Tiếp theo đó Gabriel chỉ nghe được những âm thanh từ xa. Tiếng bước đi từ từ, tiếng kéo ngăn tủ, tiếng xào xạc của những tờ giấy. Vài giây sau đó, giọng hốt hoảng của Hanifah vang lên.

“Anh lấy món tiền đó ở đâu ra vậy?”.

“Đừng bận tâm đến việc anh lấy nó ở đâu. Em thấy vé máy bay chưa?”.

“Beirut? Tại sao chúng ta lại đến Beirut?”.

“Cho kỳ nghỉ mát”.

“Máy bay sẽ khởi hành vào sáng thứ sáu. Sao mà em có thể chuẩn bị trong khoảng thời gian gấp như vậy?”.

“Chỉ cần mang những thứ cần thiết thôi. Anh sẽ nhờ ai đó trong Hội đồng đưa em đến phi trường. Một đồng nghiệp của anh tại Beirut sẽ đón em và con tại sân bay và đưa đến căn hộ mà chúng ta được cấp. Anh sẽ trở về từ Istanbul trong vài ngày tới”.

“Thật điên rồ. Sao bây giờ anh mới nói với em?””

“Hanifah, hãy làm theo những gì anh nói, anh phải đi đây”.

“Khi nào thì anh mới gọi lại nữa?”.

“Anh cũng không chắc nữa”.

“Ý anh là sao? Anh bảo em đến Beirut và rồi lại như vậy đó hả?”.

“Ừ, là như vậy. Em là vợ anh, cứ làm theo lời anh nói đi”.

“Không đâu, Ishaq. Hãy nói cho em biết khi nào anh gọi lại cho em nếu không thì em sẽ không đặt chân lên máy bay đâu”.

“Tối mai anh sẽ gọi lại cho”.

“Mấy giờ?”.

“Khi nào thuận tiện”.

“Không, không phải thuận tiện. Em muốn biết chính xác mấy giờ…”.

“9 giờ 30”.

“Giờ của ai? Của em hay của anh?”.

“9 giờ 30. GIờ Copenhagen”.

“Vào lúc 9 giờ 31 phút em sẽ không nghe điện thoại nữa. Anh hiểu chứ?”.

“Anh phải đi đây, Hanifah”.

“Chờ đã Ishaq”.

“Anh yêu em, Hanifah”.

Cạch.

“Anh vừa làm gì thế? Chúa ơi, anh vừa làm gì thế?”

Dừng lại. Tua băng. Nghe lại.

“Em muốn biết chính xác mấy giờ anh gọi…”.

“9 giờ 30”.

“Giờ của ai? Của em hay của anh?”.

“9 giờ 30. Giờ Copenhagen”.

“Vào 9 giờ 31 phút em sẽ không nghe điện thoại nữa. Anh hiểu chứ?”.

Dừng

Gabriel nhìn Mordecai. “Tôi sẽ nghe lại đoạn Ishaq yêu cầu Hanifah đi lấy vé và tiền. Anh có thể làm cho tạp âm nhỏ lại để tôi có thể nghe tiếng Ishaq được không?”.

Mordecai gật đầu và làm theo lời Gabriel, chỉ mất có 23 giây để thực hiện. Gabriel nghe lại đoạn đó 3 lần, rồi bỏ tai nghe ra khỏi đầu nhìn Sarah.

“Bảo Adrian không cần chờ NSA”, Gabriel nói. “Nói với anh ta rằng Ishaq sẽ gọi ở đường cao tốc, điểm dừng nghỉ trên đường đến Đức, theo giọng nói của những người tôi nghe được trong điện thoại thì hắn sẽ đến vùng Tây Bắc. Nói với Adrian sẽ có ít nhất một người đàn ông đi chung với hắn. Chúng sẽ vận chuyển cô ta bằng xe chở hàng vận chuyển. Hắn sẽ không nghỉ chân trong nhiều giờ sắp đến, vì hắn ta vừa đổ xăng đầy bình”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

58#
 Tác giả| Đăng lúc 21-11-2013 10:28:45 | Chỉ xem của tác giả
Chương 34
Trên Bầu Trời Colorado

Ba giờ 28 phút tối thứ ba

Chiếc máy bay phản lực chuyên dụng Falcon đời 2000 bắt đầu lắc mạnh khi đi vào những đám mây của cơn bão, phía dưới là những đồng cỏ phía đông Colorado. Lawrebce Strauss tháo cặp mắt kính đọc sách của mình ra và kẹp nó lại. Lawrebce Strauss không cho phép thân chủ của mình áp đặt thời khoá biểu cá nhân hoặc phương tiện đi lại nhưng trường hợp này là một ngoại lệ. Vị thân chủ vừa là bạn mà cũng chính là Tổng thống Hoa Kỳ - nhiệm vụ được giao cho Strauss cực kỳ nhạy cảm mà chỉ có Tổng thống và luật sư của ông ta biết.

Chiếc máy bay phản lực ra khỏi đám mây u ám tới một nơi trong lành hơn. Strauss đeo kính rồi nhìn xuống tập hồ sơ trên bàn làm việc phía trước mình. Hoa Kỳ đối lập với Sheikh (lãnh tụ Hồi giáo) Abdullah Abdulrazzaq. Tổng thống đã đích thân đưa cho Strauss vào khuya đêm hôm trước ở tại Nhà Trắng. Strauss biết được rất nhiều thông tin qua việc đọc các vụ kiện của chính phủ chống lại vị tu sĩ Ai Cập này. Alf một luật sư bào chữa giỏi, ông có thể lật ngược tình thế chỉ bằng những lời sắc bén trươc toà. Nhưng lãnh tụ Hồi giáo không có được luật sư bào chữa giỏi, thay vào đó ông đã tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi của binh lính đến từ Manhattan, những người đã bị rơi vào bẫy của bên bị đơn. Nếu Lawrebce Strauss là luật sư của vị lãnh tụ Hồi giáo này, vụ việc không cần phải ra toà. Abdullah sẽ được tuyên án nhẹ hơn hoặc có kảh năng được phóng thích ngay tại chỗ.

Nhưng Lawrebce Strauss không đảm nhận các vụ kiện giống như vụ kiện về lãnh tụ Hồi giáo Abdullah. Thực ra thì ông ít khi nhận các vụ kiện Abdullah. Strauss được biết đến như là một luật sư không có tiếng tăm nhưng mọi người đều cần tới. Ông ta không bao giờ lộ diện trước báo chí, không tham dự các buổi tiệc coctail ở Washington, lần duy nhất mà ông ta có mặt ở phòng xử án cách đây 20 năm vè trước là để làm chứng chống lại một người đàn ông tấn công ông trong lúc ông chạy bộ buổi sáng trong công viên Battery Kemble ở Washington. Strauss chưa từng thắng được vụ kiện lớn nào. Nhưng ông cũng không có vụ scandal nào. Ông tham dự vào các vụ kiện ở Washington nơi có mối qua hệ chính trị, mối quan hệ cá nhân, để thể hiện sự tài hoa trong lĩnh vực hợp pháp, không giống như các bạn đồng nghiệp khác đang làm việc trong giới luật pháp ở Washington. Ông có được khả năng xoay sở trước những đường lối chính trị. Những quan điểm chính trị của ông đều mang tính chủ nghĩa thực dụng, vì vậy ông thường đến trại David một số ngày cuối tuần trong một năm dù cho Đảng nào cầm quyền đi nữa. Ông rất giỏi thương lượng và biết cách làm cho người khác nguôi giận. ông giải quyết những rắc rối và bị cáo một cách êm đẹp. Strauss tin rằng những vụ tố tụng là những trò chơi may rủi mà ông không thích tham gia, chỉ trừ cuọc hơi bài vào tối thứ năm với chánh án toà án tối cao Hoa Kỳ, và hai vị nguyên Chưởng lý và Chủ tịch của Uỷ ban Tư pháp thượng nghị viện. Tuần trước như mọi khi ông đã thắng lớn.

Qua bộ đàm, viên phi công nói với Strauss rằng máy bay sẽ hạ cánh trong vòng mười phút nữa. Strauss bỏ tập hồ sơ vào va li và nhìn những đồng bằng phủ đầy tuyết đang vươn lên đón ông. Bởi vì ông đang đối đầu với một đối thủ không tầm thường.

Strauss lo sợ rằng mình đang dây vào một vụ rắc rối. Ông buộc phải sử dụng đến mưu mẹo mặc dù không hề thích như vậy, và ông cho rằng chỉ có nhưgxng kẻ thua cuộc mới phải dùng đến mưu mẹo. Mà Lawrence Strauss lại ghét việc thất bại hơn cả việc ngồi trên máy bay.

Nhà tù Penitentiary Administrative Facility Hoa Kỳ, còn được biết đến là nhà tù biệt giam hay là nhà tù Alcatraz vùng Rockies, cách miền nam Florence 2 dặm, bị bao phủ bởi những ngọn đồi sa mạc cao vút của Colorado và tránh xa khỏi tầm nhìn của công chúng. Có 400 tên tù nguy hiểm nhất thế giới bị giam ở đó, gồm có Theodore Kaczynski, Tery Nichols, Ẻic Rudọph, Mathew Hale, David Lane, Anthony Ggaspipe Casso, tay trùm giấu mặt của gia đình tội phạm Luchese. Bên trong nhà lao này còn có rất nhiều những tay trùm khủng bố Hồi giáo, như Zacarias Moussaoui, Richard Reid, và Ramzi Yousef, kẻ lên kế hoạch cho vụ khủng bố tấn công vào toà nhà thương mại: Mặc dù ở đây toàn là những tù nhân có tiền sử khét tiếng nhưng những điều tra cho thấy nhà tù này lại thiết người trông coi và thiếu an toàn. Các uỷ viên công tố ở California biết được rằng tên trùm maphia người Mexico đang điều hành những tập đoàn tội phạm ở Los Angeles ngay trong phòng giam tại Supermax, trong khi đó những nhà cầm quyền ở Tây Ban Nha phát hiện ra rằng tên cầm đầu vụ khủng bố trugn tâm Thương mại quốc tế Mohamed Salameh hay thư từ với những tên tội phạm khủng bo strong nhà giam về vụ đánh bom tàu ngâmcf Madrid. Khi Lawrence Strauss đi qua tên lính gác cổng, ông mong rằng các lính gác giữ được nơi đây an bình cho đến khi ông trở lại máy bay.

Người cai ngục đang chờ Strauss tại khu vực tiếp khách. Sau khi trịnh trọng bắt tay với Strauss, người cai ngục đưa ông vào và không nói thêm lời nào cả. Họ đi qua hàng loạt các cửa sắt, đóng lại nagy sau khi họ đi qua. Strauss từng đi cùng với Tổng thống trên một chiếc tàu ngầm hạt nhân và ông thề là sẽ không lặp lại chuyện đó nữa. Cũng như ngay lúc này đây, ông thấy sợ bị giam cầm và mồ hôi cứ tuôn ra mặc dù thời tiết ở đây lạnh giá.

Người cai ngục đưa ông đến phòng thẩm vấn an toàn. Nó được chia ra hai buồng bởi một bức tường bằng thuỷ tinh, những người đến thăm ở một bên và bên kia là tù nhân. Ở giữa là điện thoại để họ nói chuyện với nhau. Chuyện đó cho thấy tất cả các cuộc nói chuyện với tù nhân điều bị quản lý. Strauss nhìn người cai ngục và nói. “Tôi sợ là không thể làm như vậy được”.

“Tất cả các thiết bị thu âm và máy quay hình đền phải được tắt hết”.

“Cuộc nói chuyện ngày hôm nay không được thực hiện qua bất cứ thiết bị điện tử nào”.

“Điều này được thực hiện đúng như khi CIA và FBI đến đây”.

“Tôi không làm cho FBI hay CIA”.

“Nhưng đây là qui tắc ông Strauss ạ”.

Strauss lấy điện thoại di động trong túi áo ra. “Chỉ cần một cú điện thoại thôi. Chỉ cần một cú điện thoại thì tôi sẽ có những gì tôi muốn. Nhưng đừng có lãng phí thời gian quý báu. Hãy thoả thuận nhé”.

“Ông đang nghĩ gì vậy?”.

Strauss nói với người cai ngục.

“Hắn không hề bước ra khỏi phòng giam hàng tuần nay”.

“Vậy thì thứ hắn cần nhất bây giờ là không khí trong lành”.

“Ông có biết ở ngoài lạnh khủng khiếp thế nào không?.

“Đưa cho hắn một cái áo khoác”, Strauss nói.

Trời bắt đầu tối dần khi Strauss được dẫn qua cánh cửa sập đến sân tập thể dục của tù nhân. Một cái bàn và hai chiếc ghế xếp được đặt ngay giữa sân, những chiếc đèn hình vòng cung dọc theo trên hàng rào điện. Có 4 viên lính gác đứng như pho tượng xung quanh và hai ngừơi nữa có mang vũ khí trên tháp quan sát. Strauss nhìn người cai ngục và gật đầu đồng ý rồi đi vào sân một mình và ngồi xuống ghế.

Vị lãnh đạo Hồi giáo Abdullas Abdul-Razzaq xuất hiện từ khu nhà giam 5 phút sau đó, hắn bị xiềng và bị kẹp giữa hai tên lính gác ngục to con. Hắn thấp hơn so với Strauss tưởng tượng, gầy như một gã nghèo đói. Hắn mặc bộ đồ tù nhân liền thân màu cam như cáo paca và đôi vai xương xẩu của hắn hiện lên dưới lớp áo. Râu thì rậm rạp và bù xù, và tất cả những gì Strauss thấy đó là khuôn mặt xám xịt và ốm yếu bệnh hoạn. Ông nghĩ đây là vẻ mặt của một người sắp chết, một khuôn mặt không hề nhìn thấy ánh mặt trời trong nhiều năm. Nhưng cặp mắt của hắn nói lên rằng hắn rất thông minh. Lawrence Strauss là người đàn ông kiếm sống nhờ vào những vụ xử án dân sự. Ấn tượng đầu tiên của Strauss về tên lãnh đạo Hồi giáo Abdullah, là hắn là một tên dũng cảm và tận tuỵ - không giống như tên cuồng tín mà các uỷ viên hay nói đến lúc vụ xử án diễn ra. Tên này đáng là một đối thủ xứng tầm với mình đây.

Khi vị lãnh đạo Hồi giáo ngồi xuống ghế, Strauss nhìn một trong những tên canh gác và nói. “Anh làm ơn tháo cái còng ra cho ông ta đi”.

Người canh ngục lắc đầu. “Điều đó là chống lại luật pháp”.

“Tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về việc này”.

“Xin lỗi, nhưng đó là luật, chúng tôi không thể làm khác được”, người cai ngục nói với ông. “Các tù nhân không bao giờ được tháo còng khi họ ở ngoài nhà tù cả. Điều đó đúng không, Sheikh Abdullah?”.

“Người giữ tù vỗ nhẹ vào lưng viên lãnh đạo Hồi giáo rồi trở ra canh ngục tiếp. Người Ai Cập không nói gì cả mà chỉ dán mắt vào Lawrence Strauss.

“Ông là ai?”, hắn hỏi Strauss với giọng Anh.

Strauss trả lời. “Tôi là Arthur Hamilton”.

“Ông làm việc cho chính phủ Mỹ phải không?”

Strauss lắc đầu. “Tôi muốn ông biết rằng tôi là một công dân riêng biệt. Tôi chẳng có mối liên hệ gì với chính phủ Mỹ cả”.

“Nhưng tôi tin chắc rằng không phải tự ông muốn đến đây mà ông đến theo sự sắp đặt của người khác”.

“Chính xác”.

“Ai phái ông đến đây?”.

Strauss nhìn lên những tên canh ngục trên pháo đài rồi nhìn chằm chằm vào Sheikh Abdullah. “Tôi là đặc phái viên của Tổng thống”.

Viên lãnh đạo Hồi giáo như gỡ được một phần thắc mắc qua câu trả lời của Strauss. “Tôi đang mong đợi ông đấy, tôi có thể giúp gì được cho ông không, ông Hamilton?”, hắn ta hỏi với giọng điệu rất điềm tĩnh.

“Tôi cho là ông biết về vụ tổ chức của ông đã bắt cóc con gái của đại sứ Mỹ ở Luân Đôn và còn đang đe doạ là sẽ giết cô ấy nếu như Hoa Kỳ không chịu thả ông về Ai Cập”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

59#
 Tác giả| Đăng lúc 21-11-2013 10:30:52 | Chỉ xem của tác giả
Chương 34
(tiếp theo)

“Này ông Hamilton, ông hãy lựa lời mà nói đấy. Trong mắt của chúng tôi thì Elizabeth Halton là mục tiêu hợp pháp. Cái chết của cô ta phải được xảy ra như dự định, đó không phải là vụ án mạng mà là vụ giết ngừơi chính đáng”.

“Vậy ông…”.

“Tôi biết chứ, Hamilton ạ”.

“Vậy ông có liên quan đến vụ tấn công đó không?”.

“Ông đang hỏi tôi rằng tôi là người ra lệnh làm điều đó hay tôi là người lên kế hoạch?”.

“Phải”.

Hắn lắc đầu chậm rãi. “Tôi chẳng liên lạc gì với tổ chức Thanh kiếm Allah cả bởi vì tôi bị giam trong này mà. Điều gì đã được thực thi nhân danh tôi?”.

“Bởi em trai của ông”.

“Tôi không biết”, viên lãnh đạo Hồi giáo cười. “Ông rất giỏi trong việc đặt câu hỏi, ông Hamilton. Tôi nghĩ ông là một luật sư đúng không?”.

“Tội ác phải bị trừng phạt Sheikh Abdullah ạ”.

“Tôi đánh giá cao tính bộc trực của ông. Tôi có thể hỏi ông một câu chứ?”.

Strauss gật đầu.

“Ông có thể cải đạo Hồi không?”.

“Ông lặp lại thử xem”.

“Là một người Hồi giáo sùng đạo, tôi bị ép buộc làm vài điều bao gồm cả việc mang món quà của Hồi giáo cho những người vô tính ngưỡng”.

“Sheikh Andullah ạ, tôi e là lòng trung thành của tôi đã dành cho đạo khác rồi”.

“Ông có phải là người sống dựa toàn vào sách vở không?”.

“Tôi tin vào luật pháp, Sheikh Abdullah ạ”.

“Luật pháp có ý nghĩa quan trọng nhất chỉ có thể là luật pháp của Đấng tối cao”.

“Vậy theo ông thì Đấng tối cao nói gì về sự tàn bạo ở Châu Âu? Ngài sẽ nói gì về những vụ bắt cóc và giết ngừơi hả?”.

Vị lãnh đạo Hồi giáo lặng đi một lúc. “Ông có biết chuyện gì đã xảy ra với nước tôi sau khi máy bay của Osama đâm vào toà tháp đôi không? Chính phủ ông đã đưa cho Mubarak một danh sách hàng trăm cái tên, ông Hamilton. Ông có biết Mubarak và cảnh sát chìm của họ làm gì không? Họ đã bắt tất cả những người đó dù những người này không có liên quan gì đến vụ 11/9”.

“Vậy điều này thanh minh cho việc bắt cóc và giết hại phụ nữ vô tội à?”.

“Hoàn toàn chính xác”, vị lãnh đạo Hồi giáo ngước mắt lên nhìn bóng đèn huỳnh quang đang làm hắn chói mắt. “Không phải Tổng thống phái ông từ Washington đến đây để dàn xếp một cuộc tranh luận chứ, ông Hamilton?”.

“Không, ông ta không làm vậy”.

“Vậy ông đến đấy với mục đích gì?”.

“Tổng thống phái tôi tới đây để thỉnh cầu một đặc ân. Ông ấy muốn ông gọi điện cho tổ chức của ông bảo họ thả Elizabeth ra. Tổng thống nhận thấy rằng lời nói của ông có ảnh hưởng sâu sắc đến những kẻ bắt giữ cô ấy”.

“Kẻ bắt giữ Elizabeth đang nghe lời người khác. Tiếng nói của tôi chẳng có ảnh hưởng gì đâu”.

“Tổng thống nghĩ khác”, Strauss nói tiếp, đầy thận trọng. “Và ông ấy rất biết ơn ông về bất kì điều gì ông đã giúp chúng tôi trong việc này”.

“Vậy vị Tổng thống sẽ chứng minh lòng biết ơn như thế nào đây?”.

“Sheikh Abdullah, không phải tôi đến đây để thương lượng”.

“Tất nhiên rồi, ông Hamilton ạ”.

“Tổng thống biết ông là một người biết điều không muốn Elizabeth bị tổn hại. Ông ấy tin rằng cuộc thương lượng vào lúc này là không thích hợp. Nó cũng không đúng với chính sách của nước Mỹ”.

“Nếu như ông ta nghĩ tôi là một người biết điều, vậy tại sao ông ta lại quy cho tôi là tên khủng bố khát máu chứ?”.

“Đôi khi nhiều chuyện mà quần chúng nói không nhất thiết phải chú ý làm gì”, Strauss nói. “Là người ở vùng Trung Đông, tôi nghĩ ông hiểu điều này mà đúng không?”.

“Hơn là ông nghĩ đấy”, gã người Ai Cập nói. “Nhưng Tổng thống đâu cần sự hợp tác của tôi trong chuyện này. Ông ta chỉ cần bảo những điệp viên giỏi của mình làm giả một cuộn băng tuyên bố là được rồi”.

“Ông ấy nghĩ nếu như không có lời nói của ông thì những kẻ bắt giữ Elizabeth sẽ không tin. Tổng thống muốn ông nói trước máy quay phim. Và dĩ nhiên chúng tôi cũng đã chuẩn bị đầy đủ cho cuộc ghi hình này”.

“Dĩ nhiên”, vị lãnh lãnh đạo Ai Cập vuốt râu tư lự. “Theo tôi biết thì ngài Tổng thống Hoa Kỳ muốn tôi chấm dứt cuộc khủng hoảng này. Nhưng ông ta sẽ cho tôi gì chứ?”

Strauss lấy từ trong vali bộ hồ sơ ra và đặt nó lên bàn. “Tôi để ý là các nguyên cáo đến từ văn phòng luật sư của Mỹ đã không cung cấp đủ các chứng cứ cần thiết cho luật sư của ông như theo yêu cầu của luật pháp. Tôi tin rằng bản kiến nghị được phác thảo theo mục 2255 sẽ hứa hẹn được chấp thuận tại các phiên toà”.

“Hứa hẹn như thế nào?”.

Một lần nữa Strauss lại cảnh báo. “Tôi có thể đoán trước được viễn cảnh lời buộc tội ông sẽ được đảo ngược, vào thời điểm chính phủ quyết định giữ lại hay phóng thích ông. Trong lúc chờ đợi cuộc sống ở đây sẽ trở nên dễ chịu hơn đối với ông”.

“Làm như thể tôi là một vị khách được mời vậy”.

“Ông đúng là một vị khách mời, Abdullah ạ. Chúng tôi chấp thuận cho ông được phép vào đất nước này, vậy mà ông đáp lại lòng hiếu khách của chúng tôi bằng cách tấn công một số vị trí quan trọng nhất của chúng tôi”.

“Nhưng dù sao ông cũng sẵn lòng đảm nhận vụ kiện của tôi chứ?”.

“Đó không phải là công việc của tôi”, Strauss nói. “Nhưng tôi nghĩ có vài luật sư có thể làm tốt việc này”.

“Vậy phải mất bao lâu?”.

“2 năm”, Strauss nói. “Lâu nhất là ba năm”.

“Trông tôi giống như người có thể sống tới được 3 năm nữa hay sao?”.

“Ông không có sự lựa chọn”.

“Không, ông Hamilton, Tổng thống mới là người không có sự lựa chọn. Thực ra thì ông ta không còn cách nào khác mới cử ông đến đây để nài nỉ sự giúp đỡ của tôi. Vậy mà các ông lại mong muốn sự biết ơn của tôi à. Đó chẳng phải là những gì người Mỹ hay làm sao? Dường như có một việc mà ông không hiểu, đó là có nhiều chuyện còn quan trọng hơn việc hy sinh mạng sống của người phụ nữ Mỹ nào đó”.

Strauss bỏ tập hồ sơ vào cặp. “Tôi không phải là một chuyên gia Trung Đông, nhưng vài điều ông nói có chút không đúng, Abdullah. Hãy cứu mạng Elizabeth. Hãy làm điều thiện. Đấng tối cao sẽ phù hộ cho ông”. Ông ta lưỡng lự và nói thêm. “Và Tổng thống sẽ ban thưởng cho ông vì điều đó”.

“Nói với Tổng thống của ông rằng người Mỹ không thương lượng với những tên khủng bố, còn chúng tôi thì không thương lượng với bạo chúa. Bảo ông ta hãy chấp nhận những yêu cầu của tổ chức Thanh kiếm Allah, nếu không ông ta sẽ phải đứng tại căn cứ không quân Andrews để nhìn quan tài của Elizabeth được đưa xuống máy bay”.

Strauss đột nhiên đứng lên và nhìn xuống tên lãnh tụ Hồi giáo. “Ông đang mắc sai lầm nghiêm trọng đấy. Ông sẽ chết rũ xương trong nhà tù này”.

“Có lẽ vậy”, tên người Ai Cập nói. “Nhưng các người sẽ chết trước tôi”.

“Sheikh Abdullah, tôi e là sức khoẻ của tôi tốt hơn ông nhiều đấy”.

“Đúng vậy, nhưng ông sống ở Washington và một ngày gần đây anh em của chúng tôi sẽ san bằng nó thành đống tro tàn”, tên lãnh đạo nhìn lên bầu trời tối mịt và nói. “Bay về nhà vui vẻ nhé, ông Hamilton. Và làm ơn gửi những lời chúc tốt đẹp của tôi đến Tổng thống”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

60#
 Tác giả| Đăng lúc 22-11-2013 07:35:14 | Chỉ xem của tác giả
Chương 35
Copenhagen

Một giờ 15 phút chiều thứ tư.

“Anh đã nói đúng về cuộc gọi từ Đức”, Adrian Carter nói.

Carter và Gabriel đang đi dạo dọc theo một con đường lát đá trong khu vườn Tivili. Carter mặc một chiếc áo len, đội một cái mũ da ushanka mà ông có được từ thời còn ở Mát-cơ-va. Gabriel mặc một chiếc quần jeans và áo khoác da bước cạnh Carter, vẻ bồn chồn.

“NSA cứ cho rằng Ishaq chỉ ở đâu đó ngay bên ngoài Dortmund lúc hắn gọi điện cho vợ mình, có thể ở chỗ dọc theo xa lộ A1. Họ giả thuyết là những tên bắt cóc đang cố gắng đưa Elizabeth ra khỏi nước Anh rồi đưa cô ta đến chỗ nào khác ở châu Âu”.

“Anh đã nói với mấy tay người Đức chưa?”.

“Chỉ sau khi NSA xác định được địa điểm hai phút thì Tổng thống đã nói chuyện điện thoại với Thủ tướng Đức. Trong vòng một tiếng đồng hồ sau, toàn bộ cảnh sát phía Tây bắc đều được huy động để tìm kiếm. Và dĩ nhiên là họ có tìm thấy ai đâu, cả Ishaq lẫn Elizabeth”.

“Có lẽ ta đành trông chờ vào vận may thôi”, Gabriel tiếp. “Lỡ như có tay cớm nào không phải phe ta tình cờ tìm được họ, có lẽ chúng ta phải liên hệ đến vụ Furstenfeldbruck”.

“Sao tôi nghe thấy cái tên này quen quen thế nhỉ”.

“Đó là sân bay của Đức ở ngoại ô Munich, nơi đã đón các chuyên viên của chúng ta vào năm 1972 ấy. Mấy tên khủng bố định lên máy bay và chuồn êm ra nước ngoài. Dĩ nhiên đó là một cái bẫy. Người Đức đã tiến hành một cuộc giải thoát. Chúng ta đã yêu cầu được phụ trách vụ đó, vậy mà họ lại từ chối. Họ muốn tự làm. Giải quyết vụ đó theo hướng ôn hoà thật là một sai lầm lớn”.

“Nhớ rồi”, giọng Carter trở nên xa vắng. “Chỉ trong vài giây, đám chuyên gia của anh đã chết sạch”.

“Shamron đứng ngay trong toà tháp và đã chứng kiến từ đầu đến cuối”, Gabriel nói.

Hai người họ ngồi ở một quán cà phê vỉa hè. Gabriel gọi một tách cà phê và một cái bánh táo rồi nhìn Sarah từ từ đi ngang qua. Phần đuôi cái khăn quàng cổ của cô nhét vào trong áo khoác, một ám hiệu giao trước của bọn họ, nghĩa là không có dấu hiệu nào của an ninh Đan Mạch.

“Munich”, Carter nói sau khi ngẫm nghĩ. “Mọi chứng cứ đều dẫn về Munich thì phải? Munich là bằng chứng cho thấy chủ nghĩa khủng bố sẽ làm cả thế giới phải phục tùng. Và cũng chính Munich chon người ta thấy là bọn khủng bố không chỉ nói suông”. Carter chua xót, nhấm nháp tách cà phê. “Nhưng Munich cũng chứng minh rằng chỉ có những chiến dịch tàn nhẫn và dứt khoát mới có thể chống lại được bọn giết ngừời. Mất nhiều thời gian đấy, nhưng cuối cùng anh cũng có thể làm giống như phim “Tháng Chín Đen vậy”, Carter nhìn sang Gabriel. “Xem phim đó chưa?”.

Gabriel nhìn Carter và gật đầu chậm rãi. “Nó hiện ra trong đầu tôi hàng đêm, Adrian à. Người thật việc thật chứ không phải là bộ phim do thằng cha đạo diễn nào đó dựng chuyện bàn về vận mệnh của đất nước tôi để kiếm sống đâu”.

“Tôi không có ý muốn chọc tức anh”, Carter lấy dao chọc vào cái bánh. Ai đó mà thấy cái bánh vào lúc này thì thật chẳng còn muốn ăn nữa. “Nhưng có một cách để mọi chuyện dễ dàng hơn mà, đúng không? Tiêu diệt hết mấy thằng đầu sỏ, và cả mạng lưới cũng sẽ như rắn mất đầu mà tiêu tùng theo. Hiện tại chúng ta đang phải chiến đấu chống lại tín ngưỡng, mà niềm tin đâu dễ bị đánh bại như vậy. Cũng tương tự như việc phải đấu tranh chống căn bệnh ung thư vậy. Anh phải dùng thuốc đúng liều đúng lượng. Dùng thuốc quá ít, bệnh ung thư sẽ ngày càng nặng. Ngược lại nếu dùng quá liều bệnh nhân sẽ xong đời”.

“Ông sẽ không bao giờ chữa được căn bệnh ung thư khi Ai Cập cứ tiếp tục làm náo động bọn khủng bố”, Gabriel nói. “Nhưng Ibrahim Fawaz là một ngoại lệ. Khi hắn bị chính chế độ của mình tra tấn và nhục mạ, thì hắn sẽ chọn rời bỏ nhóm Hồi giáo cực đoan để được duy trì mạng sống. Trong khi đó, những kẻ khác lại hoàn toàn ngược lại”.

“Chẳng phải sẽ rất tuyệt nếu chúng ta chỉ cần bật ngón tay mà có thể gây ảnh hưởng đến một chế độ dân chủ ở khắp bờ sông Nile sao. Có điều, nó sẽ không diễn ra sớm được, nhất là chúng ta đang còn làm vụ ở Irắc”.

“Về nhiều mặt thì Ai Cập – xét về bản chất – đã là một nước Cộng hoà Hồi giáo rồi. Vì chính phủ không có khả năng lo cho người dân của mình nên những tín đồ Hồi giáo đã làm điều đó thay cho chính phủ. Bọn họ thâm nhập vào trường tiểu học, đại học và bộ máy nhà nước lẫn cả vào lĩnh vực nghệ thuật, truyền thông; thậm chí cả toà án và hệ thống pháp luật. Không có cuốn sách hay phim ảnh nào được phép xuất bản mà không thông qua các giáo sĩ ở đến Al-Azhar. Tầm ảnh hưởng của phương tây đang lụi dần. Chế độ đó chắc chắn bị sụp đổ, chỉ là sớm hay muộn mà thôi”.

“Hy vọng xe chúng ta sẽ đầy xăng trước khi chuyện đó xảy ra”.

Gabriel nhét vài tờ tiền dưới tách cà phê và đứng dậy. Họ lại tiếp tục đi đến ven công viên ngang qua những hàng ăn dọc đường. Sarah đang ngồi ở một bàn gỗ, ăn tôm lạnh với bánh mì đen. Cô trút phần thức ăn dang dở của mình vào thùng rác khi Carter và Gabriel ngang qua rồi bám theo cả hai.

“Nói về vụ Ai Cập, đêm qua chúng tôi suýt chút nữa đã thành công”, Carter nói. “SSI đã bắt được một tên mật vụ của tổ chức Thanh kiếm Allah tên là Hussein Mandali. Hắn bị bắt do giữ trong người một trong những cuốn băng thuyết giáo của Sheikh Tayyib – cuốn Bài thuyết giáo. Cuốn băng được thu âm ngay sau vụ bắt cóc. Hoá ra, Mandali đã có mặt tại nơi thu âm, một căn hộ tại Zamalek. Chủ sở hữu của căn hộ chính là mạnh thường quân của tổ chức Thanh kiếm Allah – Hoàng tử Rashid bin Sultan. Đó là vị hoàng tử đã vài ba lần xuất hiện trong những vụ chúng ta theo dõi. Dường như việc ủng hộ những tên khủng bố Hồi giáo là thú vui của anh ta, cũng như thú chơi chim cảnh hay thói ăn chơi truỵ lạc”.

Carter móc tẩu thuốc từ trong túi ra. “SSI đã lùng sục khắp căn hộ và cả những cơ ngơi khác nhưng chúng đều bị bỏ trống. Chúng tôi xin phép được thẩm vấn Mandali nhưng được báo lại rằng hắn không sẵn sàng để nói bất cứ điều gì”.

“Điều đó có nghĩa là hắn sẽ không lộ mặt nữa”.

“Hoặc tệ hơn”.

“Hay muốn tống khứ mấy tên chốt như tôi đến Ai Cập để thẩm vấn?”.

“Anh nói đúng trọng điểm rồi đó, Gabriel. Vấn đề là chúng ta phải làm gì bây giờ?”.

“Có lẽ đã đến lúc chúng ta cần nói chuyện với Ishaq”.

Carter đứng lại và nhìn thẳng vào Gabriel. “Chính xách thì anh đang nghĩ gì vậy?”.

Gabriel nói với Carter về kế hoạch của mình khi họ đi qua trung tâm Copenhagen dọc theo một con đường vắng vẻ.

“Thật là mạo hiểm”, Carter nói. “Chúng ta cũng khôgn có gì đảm bảo rằng hắn ta sẽ gọi đến đêm nay. Mặc dù chúng ta yêu cầu cảnh sát Đức thực hiện cuộc lục soát một cách êm thấm, thế mà vẫn không qua mặt được cánh báo chí, và cũng đồng nghĩa là có thể Ishaq đã đánh hơi thấy. Nếu hắn thông minh, coi như ta không có chứng cứ nào cả; nhưng ngược lại, nếu hắn nghi ngờ các cuộc điện thoại đã bị theo dõi, hắn sẽ hành động”.

“Hắn sẽ gọi, Adrian à. Hắn đang cố gắng gìn giữ gia đình của mình. Không có lựa chọn nào mà lại không kèm theo rủi ro”.

Carter lại suy nghĩ hồi lâu rồi nói. “Chúng ta phái báo cáo rõ với bên Đan Mạch. Kế hoạch này phải được Tổng thống chấp thuận”.

“Vậy thì gọi cho Tổng thống chứ?”.

Carter đưa điện thoại cho Gabriel và nói. “Ông ta là bạn của anh cho nên anh gọi đi”.

Một giờ đồng hồ lại trôi qua trước khi ngài Tổng thống nhận cuộc điện thoại của Gabriel. Bước đầu tiên của hoạt động sẽ biết sau 10 phút nữa, không phải ở Copenhagen mà ở Amsterdam vào lúc 12 giờ 45 phút chiều. Sau buổi cầu kinh, Ibrahim Fawaz bước ra khỏi đền al-Hijirah và bắt đầu đi thẳng đến khu chợ trời ở Ten Kate Straat. Khi hắn ta đến gần gian hàng cuối chợ, một người đàn ông đứng bên cạnh và chạm nhẹ vào tay. Ngừơi đàn ông này có đầy sẹo tròn do đậu mùa trên má, nói tiếng Arập sệt giọng Palestine. 5 phút sau, Ibrahim ngồi cạnh anh ta ở phía sau chiếc Marcedes.

“Lần này thì không xiềng xích và không trùm đầu chứ?”.

Người đàn ông với khuôn mặt đầy sẹo do bị đậu mùa khẽ lắc đầu. “Tối nay ta sẽ có một chuyến đi dễ chịu, miễn là ông cư xử cho phải phép”.

“Chúng ta đi đâu?”.

Người đàn ông trả lời đúng sự thật.

“Copenhagen? Tại sao lại là Copenhagen?”, Ibrahim hỏi.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách