Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Kẻ Phụng Sự Thầm Lặng | Daniel Silva (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
61#
 Tác giả| Đăng lúc 22-11-2013 07:36:34 | Chỉ xem của tác giả
Chương 35
(tiếp theo)

“Một người bạn của ông sắp làm chuyện nguy hiểm. Anh ta cần sự giúp đỡ của một người tốt bụng như ông đây”.

“Tôi cho là anh ta đã nghe được điều gì từ con trai tôi”.

“Tôi chỉ là giao liên. Bạn ông sẽ giải thích rõ những thắc mắc khi chúng ta đến đó”.

“Vậy còn con dâu và cháu tôi thế nào rồi?”.

Người đàn ông không trả lời. Thay vào đó ông ta liếc vào kính chiếu hậu, lắc nhẹ đầu ra hiệu cho tài xế lái đi. Khi xe đi qua đoạn đường khúc khuỷu, Ibrahim tự nhủ không biết là họ có thật sự đến Copenhagen không hay là họ lại đến phòng tra tấn của Ai Cập. Ibrahim chợt nhớ đến những lời của Đạo trưởng Abdullah, tin tưởng vào Đấng tối cao. Vị lãnh tụ đã từng nói. Đừng để bị đánh bại.

Mấy vụ của Đan Mạch được biết đến như là an ninh tình báo. Những người làm việc ở đó gọi nó là “làm công”, và một trong số những tay lão làng là Adrian Carter thì lại xem nó như PET, những chữ cái viết tắt từ một cái tên Đan Mạch mà thật không thể nào phát âm được dù căn cứ luôn được giữ bí mật và được người dân biết đến như một văn phòng luật sư nằm tại một nơi yên tĩnh ở phía Bắc khu vườn Tivoli.

Lars Mortensen, một người nhiệt tình ủng hộ Mỹ của PET đang ngồi chờ trong văn phòng của mình lúc Carter bước vào. Đó là một người cao to, để râu kiểu Viking giống như người Đan Mạch với mái tóc vàng của ngôi sao điện ảnh, cặp mắt màu xanh sắc bén. Hiếm khi một đặc vụ Mỹ như Adrian Carter lại ghé đến Copenhagen để tham quan, và càng hiếm hơn nữa khi ông ghé qua mà chỉ báo trước có năm phút.

“Tôi mong anh hãy báo trước khi đến”, Mortensen nói khi gật đầu với Carter từ trên ghế. “Ta nên có một buổi đón tiếp xứng đáng với địa vị chứ”.

“Tôi sợ là có chuyện đang xảy ra”. Carter nói một cách cẩn trọng, đảm bảo ông ta hiểu mình đang nói gì. “Cuộc tìm kiếm Elizabeth Halton đã đưa chúng tôi đến vùng đất Đan Mạch, mà chính xác hơn không phải chúng tôi mà là đặc vụ cộng sự của chúng tôi”.

“Đặc vụ nào?”.

Carter trả lời đúng sự thật. Mortensen chuyển từ cái nhìn tò mò sang giận dữ.

“Họ đã ở Đan Mạch bao lâu rồi?”.

“24 giờ rồi”.

“Tại sao chúng tôi không được thông báo gì hết?”

“Tôi cho vụ này được xếp vào loại thượng khẩn”.

“Trong lúc thượng khẩn thì điện thoại vẫn hoạt động chứ? Cả máy fax và vi tính nữa?”. Mortensen nói.

“Nó ngoài tầm của ta rồi”, Carter nói với giọng hoà giải. “Tôi chịu trách nhiệm về chuyện này chứ không phải người Do Thái”.

“Chính xác thì họ đang làm gì ở đây? Tại sao bây giờ anh lại đến với chúng tôi?”, Mortensen khẽ nhắm mắt lại. Vị trưởng phòng an ninh gõ nhẹ cây bút chì vào đầu gối mình một cách băn khoăn khi nghe Carter giải thích.

“Chính xác là có bao nhiêu người Do Thái ở Copenhagen lúc này?”

“Thật ra thì tôi không chắc lắm”.

“Tôi muốn họ biến khỏi thành phố trong vòng một tiếng nữa”.

“Tôi e là ít nhất một trong bọn họ sẽ phải ở lại”.

“Tên hắn”.

Carter nói xong, cây bút trên tay Mortensen không gõ lên bàn nữa.

“Tôi phải báo việc này với Thủ tướng”, Mortensen nói.

“Có cần thiết phải liên quan đến chính giới không?”.

“Dĩ nhiên là có nếu tôi không muốn bị đuổi việc”, Mortensen gầm lên. “Giả sử Tổng thống đồng ý hợp tác với chính phủ của các anh – mà ông ta không có lý do gì để từ chối cả, theo như những lần hợp tác trước với chính phủ các anh? Tôi muốn có mặt ở đó tối nay lúc Fawaz gọi”.

“Thật không vui chút nào”.

“Bọn tôi là những con người đầy quyết tâm, Carter à. Tôi nghĩ là vụ này cũng không khó gì”.

“Vậy thì thật là vinh hạnh khi được cộng tác”.

“Dặn anh bạn Allon của ông cất khẩu Beretta trong vali đi nhé. Tôi không muốn thấy ai phải chết. Nếu như có cái xác nào trên đất này tối nay, cái tên Allon sẽ được treo đầy trên các danh sách tình nghi đó”.

“Tôi sẽ báo với anh ta như thế”, Carter đáp.

Mortensen hỏi với vẻ tò mò. “Thằng cha đó thế nào?”

“Allon hả”

Mortensen gật đầu.

“Anh ta hơi nghiêm nghị, hơi thô lỗ mỗi khi có chuyện”.

“Ai cũng vậy thôi”.

Carter tiếp lời. “Biết vậy, nhưng còn ai có thể đổ lỗi cho họ chứ?”.

Trung tâm Copenhagen có mấy toà nhà nhìn thật tồi tệ. Các công trình mang lối kiến trúc toàn kính và thép đó toạ lạc ở Dag Hammarskjolds Allé – cụ thể hơn, toà nhà Đại sứ quán Mỹ là một trong số đó. Văn phòng CIA bé tẹo và ngột ngạt. Copenhagen từng là nơi an toàn cho hoạt động tình báo từ suốt thời chiến tranh lạnh cho tới nay. Tuy vậy, phòng họp có kiểu thiết kế rất thoải mái, hệ thống điện lại vô cùng tân tiến. Carter nghĩ thầm. “Chắn mấy món này cũng có mật danh”. Sau màn trình bày ngắn gọn, Gabriel đi đến kết luận rằng Moriah – ngọn đồi ở Jerusalem chính là nơi Thiên Chúa đã triệu Abraham đến để tế đứa con trai duy nhất của mình. Cha của Carter vốn là Trưởng giáo hội Thiên chúa, Điều đó làm ông mang một tâm niệm rằng sự lựa chọn đó là do chúa trời. Cũng chính vì điều này mà họ liên hệ đến nhóm chuyên đảm trách klên lạc và đội của Moriah.

Từ Amsterdam, Ibrahim Fawaz đến nơi lúc 6 giờ chiều cùng với Oded và Yaakov. Lúc 6 giờ 15 phút, Mortensen cũng xuất hiện và chấp thuận kế hoạch của Gabriel dù không xin phép chính quyền Đan Mạch. Gabriel cho nhóm còn lại của mình được ở lại Đan Mạch để hoàn thành điệp vụ. Mortensen rất hào hứng với suy nghĩ là mình được tham gia vào một câu chuyện sẽ trở thành huyền thoại, nên anh ta tức thì đồng ý. Mordecai cùng Sarah cũng nhập bọn sau chuyến nghĩ xả hơi ở khách sạn d’Angleterre, trong khi Eli Lavon cũng hoan hỉ nhập cuộc sau chuyến công tác ở Norrebro về. Trông anh ta như vừa về sau chuyến theo dõi đối tượng dài ngày.

Lúc 7 giờ, Mortensen và nhóm người Đan Mạch ngắt đường dây điện thoại tới căn hộ ở Norrebro và chuyển hướng tất cả cuộc gọi về một máy duy nhất tại văn phòng CIA. 15 phút sau, 2 đặc vụ người Đan Mạch – Mortensen đã rất thông minh lựa chọn 2 nhân viên nữ nhằm tránh một sự bất đồng có thể xảy ra – liếc qua căn hộ để nặn ra vài câu hỏi xem giờ này Ishaq Fawaz có thể ở đâu. “Cái gương” của Mordecai vẫn còn dùng được, tệ hơn nữa là bây giờ nó được nhóm của Moriah đem ra trưng dụng. Cũng phải mất 15 phút họ mới nghe được giọng của Hanifah và Ahmed đang bị xét hỏi điều gì đó theo phong tục Đan Mạch. Điện thoại di động của Hanifah bị tịch thu tại Đại sứ quán, nơi mà Mordecai cùng Carter sẽ chụp lấy nó như đào trúng mỏ vàng.

8 giờ, màn diễn đã bắt đầu với cảnh tượng mà sau đó Carter đã ví von là “chứng kiến cái chết diễn ra”. Họ tụ quanh cái bàn hình chữ nhật dài trong phòng họp. Một đầu là người Mỹ, đầu kia là Gabriel cùng các chiến binh của mình. Sarah ngồi giữa hai phe, còn Mortensen xếp cho mình một chỗ ngay đối diện với chỗ cái loa phóng thanh. Ibrahim ngồi sát bên tay phải đang hồi hộp lau chùi vết bám trên tasbih của mình. Chỉ có Gabriel vẫn không an tâm. Anh đi đi lại lại quanh căn phòng như một diễn viên chính hồi hộp vì buổi diễn sắp mở màn. Tay anh không rời khỏi cằm, mắt không rời điện thoại, như thể nó sẽ reo lên ngay lúc anh lia mắt khỏi nó. Sarah cố trấn an anh rằng sớm muộn gì hắn cũng gọi thôi. Gabriel còn tâm trí nào mà nghe lời Sarah nữa. Anh đang tập trung đến cái khác kia – giọng của Ishaq hứa với vợ hắn rằng hắn sẽ gọi về nhà đúng 9 giờ rưỡi và Hanifah cảnh báo rằng dù chỉ chậm 1 phút thôi cô cũng sẽ không nhấc máy. 9 giờ 29 phút, Gabriel thôi đi loanh quanh. Anh tiến đến chỗ điện thoại. 10 giây sau, chuông reo – tiếng chuông nghe như tiếng còi tàu báo cháy. Gabriel nhấc ống nghe, chậm rãi áp vào tai.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

62#
 Tác giả| Đăng lúc 22-11-2013 07:39:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 36
Copenhagen

Chín giờ 30 tối thứ tư.

Gabriel lắng nghe trong giây lát mà không nói lời nào. Xe cộ vẫn đổ xô trên nền vỉa hè ẩm ướt. Tiếng còi ở phía xa hệt như một điềm cảnh báo sắp có chuyện rắc rối xảy ra.

“Chào, Ishaq”, Gabriel nói giọng Arập điềm tĩnh. “Tôi muốn anh hãy nghe kỹ những gì tôi sắp nói ra đây. Đang nghe đấy chứ, Ishaq?”.

“Ai vậy?”.

“Tôi sẽ xem nó như là lời đồng ý của anh. Tôi đã có được cha anh và cả vợ con anh nữa. Ta thương lượng nhé, Ishaq. Chỉỉ có tôi và anh. Anh sẽ trả Elizabeth về cho tôi, tôi sẽ trả lại gia đình cho anh. Nếu anh không làm, tôi sẽ mang họ đến Ai Cập. SSI sẽ tra khảo họ. Anh hẳn là biết điều gì sẽ xảy ra ở phòng thẩm vấn của SSI chứ?”.

“Cha tôi đâu?”.

“Ishaq, tôi sẽ đưa anh một số điện thoại. Ngoài tôi ra không ai biết số điện thoại đó cả. Tôi muốn anh viết nó ra, rất quan trọng đấy, anh không được quên đâu. Đã sẵn sàng chưa, Ishaq?”.

Im lặng một hồi, sau đó anh ta nói. “Tôi đã sẵn sàng”.

Gabriel đọc số điện thoại rồi nói tiếp. “Anh hãy gọi cho tôi số này sau 10 phút nữa. Bây giờ là 9 giờ 30, tôi sẽ không nghe máy lúc 9 giờ 42 phút đâu đấy. Anh hiểu ý tôi chứ, Ishaq? Đừng thử thách sự kiên nhẫn của tôi, và đừng có làm gì sai lầm đấy”.

Gabriel cúp máy rồi nhìn Ibrahim.

“Có phải hắn không?”.

Ibrahim nhắm mắt lại và mân mê chuỗi hạt Tasbih của mình.

“Đúng vậy, đó là con trai tôi”. Ibrahim nói.

Carter và Mortense với lấy 2 cái điện thoại khác nhau rồi gọi đi. Mortense gọi cho một trong những đồng nghiệp của anh ở trong văn phòng của Tele, phòng viễn thông ở Đan Mạch, trong khi đó Carter gọi cho sĩ quan liên lạc CIA tại Fort Meade, Maryland, cơ quan đầu não của NSA. Năm phút sau họ cúp máy cùng một lúc rồi nhìn nhau như hai người đang ngồi đối diện nhau để chơi một ván bài quyết định. Mortense để tay xuống trước.

“Theo như báo cáo từ văn phòng Tele Đan Mạch, cú điện thoại đó từ một thuê bao di động ở Bỉ”, Mortense nói. “Nếu chúng ta gọi hỏi anh em ở Brussels thì chắc là biết được hắn ta ở đâu”.

“Đừng lo lắng”, Carter nói. “Hắn ta đang ở phía Tây Lìege, có thể là A3. Tối qua Ishaq đã dùng số khác để gọi. Và giờ thì số điện thoại đó không còn tồn tại trên đời này đâu”.

Hắn ta gọi vào di dộng của Hanifah, rồi sau đó lại gọi vào số điện thoại nhà. Gabriel không bắt máy. Cuối cùng, do không liên lạc được nên Ishaq đã gọi cho số điện thoại mà Gabriel đưa cho hắn. Bộ phận kỹ thuật của nhóm điệp vụ đã gắn máy nghe trộm vào đường dây điện thoại truyền trực tiếp đến Washington. Gabriel để cho tiếng chuông điện thoại reng lên bốn hồi rồi mới bắt máy.

“Anh gọi đúng giờ nhỉ?”

“Vợ và con trai tôi đâu?”.

“Ngay lúc này thì họ đang ở sân bay ngoài Copenhagen. Chuyện gì xảy ra với họ hoàn toàn phụ thuộc vào anh đấy”.

“Vậy cha tôi thì sao?”.

“Cha anh đang ở đây với tôi”.

“Ở đây là ở đâu?”.

“Việc tôi đang ở đâu thì ngay lúc này không quan trọng, Ishaq. Điều quan trọng bây giờ là Elizabeth Halton. Anh giữ cô ấy và tôi muốn anh trả cô ấy lại cho tôi. Chúng ta sẽ trao đổi con tin, chỉ có tôi và anh thôi. Những người khác sẽ không liên quan. Không có người kiểm soát của anh cũng như quân sư của tôi”.

“Anh làm việc cho ai?”.

“Bất kỳ ai mà anh muốn tôi làm cho. CIA, FBI, DIA. Hay một cái ten khốn khiếp nào đó mà anh chưa hề biết tới. Nhưng có điều chắc chắn là tôi không lừa anh. Tôi sẽ làm cha anh mất tích khỏi al-Hijah ở Mosque, ở Amsterdam, vợ con anh sẽ biến mất ở Norrebro. Nếu như anh không làm theo những gì tôi nói, tôi sẽ đưa bọn họ đến Ai Cập. Anh cũng biết chuyện gì xảy ra chứ? Tôi biết chuyện gì đã xảy ra cho chị gái của anh, Ishaq. À, tên cô ta là Jihan phải không? Cha anh kể với tôi về cô ấy. Ông ta nói mọi điều về Jihan”.

“Tôi muốn nói chuyện với ông ấy”.

“E là không được rồi. Cha anh đã phải chịu đựng đủ sự thẩm vấn của cảnh sát bí mật Ai Cập rồi. Đừng bắt ông ấy phải chịu đựng thêm nữa. Anh có thấy vết thẹo trên lưng và tay ông ta không? Đừng để ông ấy phải ở thêm ngày nào nữa trong phòng tra tấn Ai Cập nữa”.

Ishaq yên lặng một hồi. Gabriel lắng nghe tiếng động từ phía bên kia một cách chăm chú. Chiếc xe tải lại chuyển động lần nữa.

“Ishaq, anh gọi điện thoại từ đâu?”.

“Afganistan”.

“Anh lái xe khá nhanh đấy nhỉ, tối qua anh ở ngoài Dortmund khi gọi cho tôi mà. Sự kiên nhẫn của tôi có giới hạn. Nói cho tôi biết anh đang ở đâu hoặc tôi sẽ cúp máy và không bao giờ gọi cho anh nữa. Anh hiểu tôi chứ?”.

“Và tôi sẽ nhấn nút, người phụ nữ kia sẽ tử vì đạo. Anh biết tôi muốn nói gì chứ?”.

“Ishaq, chúng ta đã có quá nhiều các vụ nổ bom và đổ máu rồi. Cho dù anh có giết bao nhiêu người đi nữa thì Tổng thống cũng không thả tay lãnh tụ Hồi giáo ra. Điều đó sẽ không xảy ra. Anh là người có thể dừng nó lại. Tha cho Elizabeth đi. Tôi sẽ trả lại người thân cho anh”.

“Vậy chuyện gì sẽ xảy ra với tôi?”.

“Tôi chẳng có hứng thú với anh. Điều tôi quan tâm là Elizabeth. Đưa cô ấy đến nơi nào đó an toàn, cho tôi biết ở đâu, rồi sau đó anh muốn đi đến Afganistan hay Pakistan hay bất cứ nơi nào anh muốn. Chỉ cần đưa trả cô ấy cho tôi. Các anh yêu thích giết chóc còn chúng tôi thích sự sống. Các anh mạnh, chúng tôi yếu. Anh đã thắng. Hãy để cho chúng tôi có được cô ấy”.

“Đồ khốn, một ngày nào đó tao sẽ tìm và giết mày”.

“Theo tôi thì anh không thật sự quan tâm đến việc thương lượng. Rất vui vì đã nói chuyện với anh, Ishaq. Nếu thay đổi ý định, anh có 10 phút để gọi lại cho tôi đấy. Hãy suy nghĩ cho thấu đáo. Đừng quyết định sai lầm. Không thì người nhà anh sẽ phải chết. 10 phút, Ishaq. Sau đó máy bay sẽ đến Cairo”.

Gabriel cúp máy. Carter vỗ nhẹ vào lưng anh. Lưng Gabriel ướt đẫm mồ hôi.

Gabriel rời khỏi phòng họp mà chẳng nói lời nào, anh đi thẳng đến nhà vệ sinh. Anh đứng trước bồn rửa mặt, nhìn chằm chằm vào bóng mình ở trong gương. Anh thấy mình không phải là mình nữa mà là một đứa trẻ 21 tuổi, một nghệ sĩ thiên tài với sự hoang tàn chết chóc của Holocaust đang chảy trong từng mạch máu. Shamron đứng tựa vào vai anh, cứng như một thanh sắt, tiếng nói của ông dồn dập như tiếng trống. Cậu sẽ khủng bố những tên khủng bố, Shamron nói. Cậu sẽ là thần chết báo thù của Israel.

Nhưng Shamron quên cảnh báo Gabriel cái giá phải trả cho việc dây vào những tên khủng bố và những tên giết ngừơi. Cậu con trai của anh được chôn ở nấm mồ cho những người anh hùng ở trên đỉnh núi Olives, vợ anh bị mất trí và đang được điều trị tại nhà thương điên ở núi Herzl. Gia đình anh bị tan nát bởi những tên khủng bố. Anh đã từng thề rằng sẽ không bao giờ giết những người vô tội. Tối nay, chỉ nói riêng việc lừa tên khủng bố, thì anh đã không giữ lời hứa của mình. Tuy nhiên, anh thấy điều mình làm chẳng có tội gì cả, chỉ có nỗi thất vọng tràn trề. Người ta có thể nói dối hay kết liễu cuộc đời của những kẻ tàn sát người vô tội với lòng tin là mình đang thay trời hành đạo. Phải giết người trước khi người giết mình, và nếu như phải đe doạ mạng sống người thân của tên giết người để cứu người vô tội thì đó là điều nên làm.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

63#
 Tác giả| Đăng lúc 22-11-2013 07:41:05 | Chỉ xem của tác giả
Chương 36
(tiếp theo)

Anh rửa mặt bằng nước lạnh rồi bước vào hành lang. Carter đang tựa người vào tường với tư thế điềm đạm của một người đang chờ chuyến tàu bị trì hoãn một thời gian dài.

“Anh ổn chứ?”, Carter hỏi.

“Khi chuyện này kết thúc thì tôi mới thấy dễ chịu được”, Gabriel trả lời. “NSA có phát hiện được điều gì về hắn không?”.

“Dường như hắn ta đang ở đâu đó gần với giao điểm của A3 và A26”.

“Điều đó có nghĩa là có thể hiện giờ hắn ta đang hướng về địa điểm nào đó với vận tốc đáng kể”, Gabriel nói. “Thế còn điện thoại thì sao?”.

Carter nói. “Số khác”.

“Tôi cho là bây giờ nó không còn tồn tại đâu”.

Carter gật đầu.

“Còn gì nữa không?”.

“Washington sợ là anh đã quá khắt khe với hắn ta”.

“Họ bắt tôi phải làm gì chứ? Nài nỉ hắn thả Elizabeth ra à?”.

“Họ chỉ muốn anh cho hắn ta một vài phút để hắn có thể tự hành xử được”.

“Nhưng lỡ hắn ta dùng vài phút đó để giết cô ấy thì sao?”.

Carter đi tới phòng họp. Khi họ đi ngang qua cửa, Gabriel nhìn lên đồng hồ treo tường. Thời hạn cuối cùng chỉ còn 3 phút. Lars Mortense nhịp tay lên bàn.

“Anh sẽ làm gì nếu hắn ta không gọi?”.

“Hắn sẽ gọi”, Gabriel nói.

“Sao anh dám khẳng định như thế?”.

Ibrahim thay Gabriel trả lời. “Đó là bởi vì Jihan”, ngón tay hắn vẫn cứ mân mê xâu chuỗi hạt của mình. “Nó sẽ gọi bởi vì nó không muốn để vợ con mình chịu chung số phận như Jihan”.

Mortense lúng túng trước câu trả lời của hắn, anh nhìn sang Carter như đang tìm kiếm một lời giải thích. Carter đưa tay ra ám hiệu rằng mình sẽ giải thích tại một thời điểm thích hợp. Gabriel tiếp tục sải bước. Hai phút sau. Chuông điện thoại reo lên. Anh vội vã chụp lấy ống nghe rồi áp nó vào tai.

“Ishaq”, anh nói với một giọng vui vẻ giả tạo. “Tôi rất vui vì anh đã gọi. Tôi cho rằng chúng ta có điều kiện thoả thuận”.

“Đúng, miễn là anh chấp nhận điều kiện của tôi”.

“Anh không phải là người được đưa ra yêu cầu, Ishaq ạ”.

“Anh cũng thế đấy”.

“Điều kiện gì?”.

“Tôi muốn trao đổi cô ấy lấy cha tôi, ngoài ra không được có ai cả”.

“Điều đó không cần thiết, Ishaq. Anh chỉ cần dừng xe rồi để cô ấy bên đường – nơi nào đó an toàn và khô ráo; nơi cô ta không bị nguy hiểm – sau đó anh cứ đi. Đừng làm mọi chuyện trở nên phức tạp”.

“Tôi muốn chứng minh là cha tôi vẫn còn đang ở châu Âu. Tôi muốn biết ông ấy vẫn còn sống”.

“Cha anh là một thành viên của tổ chức Thanh kiếm Allah. Cha anh sẽ không được đến gần Elizabeth”.

“Cha tôi vô tội. Nếu như ông ấy không có ở đấy, tôi sẽ không trả cô ta cho anh”.

Gabriel nhìn Carter, anh gật đầu.

“Được rồi, Ishaq, anh đã thắng. Chúng ta sẽ làm theo cách của anh. Nói cho tôi biết anh muốn làm chuyện đó ở đâu?”.

“Anh đang ở Đan Mạch phải không?”.

“Tôi nói với anh rồi, tôi ở đâu không quan trọng”.

“Nhưng điều đó quan trọng với tôi”.

“Đúng, tôi đang ở Đan Mạch, chúng ta hãy làm điều đó tại đây chứ, Ishaq? Đó là một đất nước nhỏ, có rất nhiều khoảng đất trống, cảnh sát Đan Mạch sẵn lòng để anh đi khi anh đã thả Elizabeth”.

“Tôi muốn bảo đảm đường đi của tôi an toàn, không có gì cản trở. Nếu tôi phát hiện ra có cảnh sát theo sau thì cô gái này sẽ chết. Anh hiểu chứ?”.

“Tôi hiểu. Tôi sẽ bảo chức trách địa phương rút lui. Không ai phiền anh cả. Nói cho tôi biết anh muốn làm chuyện đó như thế nào?”.

“Ngày mai tôi sẽ gọi cho anh và nói cho anh biết phải làm gì”.

“Mai? Không được”.

“Nếu mai không được, cô ta sẽ chết trong đêm nay”.

Gabriel lại nhìn sang Carter, một lần nữa anh gật đầu.

“Thôi được, Ishaq. Mai mấy giờ anh gọi tôi?”.

“Tôi gọi theo giờ trưa ở Copenhagen”.

“Lâu quá. Tôi muốn anh gọi sớm hơn”.

“Anh muốn tôi gọi buổi trưa hay là không có gì cả? Tuỳ anh”

“Thôi được. Buổi trưa vậy. Đừng làm tôi thất vọng”.

Đường dây điện thoại tít tít. Gabriel cúp máy, anh lấy tay vuốt mặt. “Tôi cho hắn ta chỗ để diễn. Adrian, hãy làm giống như yêu cầu của Washington”.

“Chúng ta sẽ chờ xem ngày mai hắn ta nói gì”.

“Nhưng lỡ những gì hắn ta nói không như mong đợi thì sao?”.

“Thì chúng ta không chấp nhận điều kiện”.

“Không đâu, Adrian. Chúng ta phải làm theo những gì hắn yêu cầu nếu không thì hắn sẽ giết Elizabeth mất”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

64#
 Tác giả| Đăng lúc 22-11-2013 11:14:41 | Chỉ xem của tác giả
Chương 37

Bọn khủng bố canh gác rất chặt chẽ. Chúng không bao giờ bước vào nơi nhốt Elizabeth mà không đeo mặt nạ và thậm chí không nói một lời nào với cô từ lúc cô bị bắt về đây. Chúng không cho Elizabeth tiếp cận với bất cứ thứ gì có liên quan đến thế giớ bên ngoài như báo chí hay radio. Người phụ nữ bị bắt làm con tin này hoàn toàn không nhận thức được mình đã bị giam bao lâu rồi, đồng thời cũng không biết ngoài kia mọi người nghĩ cô còn sống hay đã chết. Elizabeth không hề biết nơi mình đang bị giam giữ ở đâu. Cô tự nghĩ, có thể mình vẫn còn ở đâu đó phía Đông nước Anh hoặc đang trong sào huyệt của bọn khủng bố tại Tora Bora. Dù vậy, có một điều mà người phụ nữ này tin chắc: theo nguyên tắc thì những kẻ bắt cóc cô sẽ tiếp tục đưa cô đến nơi giam giữ khác.

Elizabeth có thể biết được điều đó do những căn phòng mà cô bị giam. Chúng hoàn toàn khác nhau, trong mỗi phòng đều có những bức tường màu trắng, một chiếc giường gấp, một bóng đèn, một cái cửa có lỗ nhìn ra bên ngoài, nhưng rõ ràng là có sự khác biệt. Cô phân biệt được một cách rõ ràng sự khác nhau ấy thậm chí nếu bị bọn chúng dùng vải che mắt. Bản năng sinh tồn của con người dường như làm các giác quan của cô nhạy bén hơn. Elizabeth nghe được tiếng bước chân của bọn khủng bố từ xa trước khi chúng đến để vứt những mẩu giấy có ghi lời nhắn dưới khe cửa, và lúc này cô có thể phân biệt được Cain với Abel nhờ mùi của họ. Phòng Elizabeth bị giam trước đó nồng nặc mùi thuốc tẩy. Căn phòng hiện tại cô đang ở ngào ngạt hương thơm dễ chịu của cà phê và các gia vị trong món ăn của vùng Trung Đông. Cô nghĩ mình đang ở một khu chợ hoặc có thể là ở trong một nhà kho của nơi phân phối thực phẩm cho khu Arập.

Linh tính của Elizabeth mách bảo cô rằng việc chuyển địa điểm giam giữ mình diễn ra theo một nhịp độ nhất định. Elizabeth không suy đoán điều này dựa vào từng giờ hay từng phút, mà vào số bữa cô được ăn ở mỗi địa điểm. Lúc nào cũng là 4 bữa với các món như nhau, tiếp theo là một liều thuốc mê, sau đó cô tỉnh dậy ở trong một căn phòng mới với mùi hoàn toàn khác. Nhưng cho đến bây giờ cô mới chỉ được cho ăn 3 bữa thôi, và bữa ăn thú tư sẽ sớm được mang tới. Cũng như mọi khi, Elizabeth biết chắc rằng sau bữa ăn vài tiếng sẽ là một mũi thuốc mê. Cô sẽ phản kháng nhưng chắc chắn chẳng bao lâu cô lại bị khuất phục bởi những tên khủng bố khoẻ hơn mình.

Sự khuất phục…

Đó chính là mục tiêu của bọn chúng. Sự khuất phục là mục tiêu của người Hồi giáo trên khắp thế giới, cũng chính là mục đích muốn đạt được của bọn người đang bắt giữ Elizabeth. Họ muốn phương Tây phải qui phục trước tinh thần Hồi giáo Salafist bạo tàn. Những tên bắt giữ Elizabeth muốn cô phải phục tùng theo những mũi kim tiêm, tiến độ di chuyển và các mẩu giấy thông báo của chúng. Họ muốn cô phải ngoan ngoãn như một con cừu sẵn sàng để người ta giết, nhưng lần này Elizabeth quyết định những ngày tháng phục tùng sẽ không còn nữa. Cô sẽ thực hiện một cuộc phản kháng giúp mình biết được nơi đang bị giam giữ là nơi nào, vũ khí cô sẽ sử dụng chính là mạng sống và những hiểu biết về y học của mình. Elizabeth nhắm mắt lại và hít thật sâu mùi hương dễ chịu của cà phê và lá quế. Cô chờ Cain mang bữa ăn thứ tư vào phòng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

65#
 Tác giả| Đăng lúc 22-11-2013 11:17:44 | Chỉ xem của tác giả
Chương 38
Copenhagen

Hai giờ 52 phút chiều thứ năm

“Bây giờ đến vấn đề của tôi và anh”, Ibrahim nói. “Tôi cho là sẽ rất thú vị đây”.

Gabriel đang chùi kính chắn gió của chiếc Audi A8 mui kín. Quảng trường King’s New hiện ra lờ mờ trong tuyết trước mặt anh. Ibrahim ngồi lặng lẽ ở hàng ghế sau, hắn mặc một bộ vest màu xám và một chiếc áo khoác mới toanh, ăn mặc như thể đang dự đám tang của chính mình. Tay hắn đặt nghiêm nghị vào lòng, bàn tay bị tật đặt dưới bàn tay kia, mắt nhìn xuống giày. Điện thoại của Gabriel đặt ở trên giá. Nó được kết nối đến văn phòng CIA ở đại sứ quán Mỹ và đến trụ sở NSA.

“Ibrahim, đừng nói là ông định cho tôi nghe một trong những bài thuyết giáo của ông nhé”.

“Tôi vốn dĩ là một giáo đồ”, Ibrahim nói. “Đó là việc tôi phải làm”.

Gabriel đành chiều lòng Ibrahim. Có lẽ một bài thuyết giáo tốt hơn một sự im lặng.

“Tại sao ông lại cho là nó sẽ rất thú vị?”.

“Cả hai chúng ta đều đã chứng kiến những điều tệ nhất của cuộc sống này. Không gì còn có thể làm chúng ta khiếp sợ hay bất ngờ gì cả”.

Hắn ngước lên nhìn Gabriel một lúc. “Những gì báo chí viết về anh sau vụ ở Luân Đôn có đúng sự thật không? Có phải anh chính là người đã giết những tên trong nhóm Tháng Chín Đen?”

Ibrahim xem sự yên lặng của anh như một lời xác nhận những gì báo chí đã đưa tin là đúng.

“Tôi còn nhớ rất rõ vụ ở Munich”, Ibrahim nói. “Vào hôm đó tất cả chúng tôi theo dõi tivi và rodio cả ngày. Vụ đó đã làm tưng bừng cả nước Arập. Bọn tôi vui mừng khi những vận động viên trong làng Thế vận hội bị bắt. Khi họ bị giết ở sân bay chúng tôi đã nhảy múa trên khắp các thành phố. Tôi cho rằng những phản ứng đó của chúng tôi hoàn toàn có thể thông cảm được. Chúng tôi yếu thế và bị lăng nhục. Các anh mạnh, giàu có. Các anh đã nhiều lần giáng đòn vào chúng tôi nhưng rốt cuộc chúng tôi cũng đã hạ gục được các anh, nước Đức đã trở thành nơi gánh chịu thảm hoạ lớn nhất từ trước đến nay”.

“Tôi tưởng người đạo Hồi các ông không tin vào sự tàn sát diệt chủng người Do Thái của Hitler. Tôi nghĩ các ông cho đó là một sự dối trá do người Do Thái đã dựng lên để đánh lừa cả thể giới nhằm cướp đất của người Arập”.

“Tôi không phải là một kẻ tự lừa dối bản thân hay tỏ ra mưu mẹo”, Ibrahim nói. “Người Do Thái các anh xứng đáng có một quê hương, Chúa cũng biết điều đó. Nhưng sẽ tốt hơn cho tất cả chúng ta nếu các anh sớm trao cho người Palestine một vùng lãnh thổ ở Bờ Tây và Dải Gaza”.

“Và cũng có nghĩa là cho các anh em đạo hữu giáo hội của ông một vùng lãnh thổ ở Hamas đúng không?”.

“Với tốc độ mà chúng tôi đang tiến hành thì tình hình Hamas sẽ sớm dịu xuống”, Ibrahim nói. “Khi bản yêu cầu của người Palestine bị bác bỏ thì người Arập sẽ không còn có thể đổ lỗi ai đã gây ra tình trạng đáng thương của họ. Chúng tôi sẽ phải tự nhìn nhận vấn đề và giải quyết bằng chính sức lực của mình”.

“Đó chính là một trong những lí do tại sao không bao giờ có hoà bình”.

“Chúng tôi là những kẻ giơ đầu chịu báng cho thất bại của người Arập. Chúng tôi là cái gai trong mắt của người Arập. Những người Arập khinh bỉ bọn tôi nhưng họ không thể sống mà không có chúng tôi được”.

Ibrahim gật đầu đồng ý và tiếp tục ngắm nhìn đôi giày của mình. “Có thật anh là chuyên gia phục chế mỹ thuật nổi tiếng?”.

Lần này thì Gabriel gật đầu chậm rãi. Ibrahim bĩu môi một cách ngờ vực.

“Anh có khả năng phục chế những bức tranh tuyệt đẹp, thế mà tại sao anh lại tham gia vào việc này?”.

“Trách nhiệm”, Gabriel nói. “Tôi thấy bản thân phải có nghĩa vụ bảo vệ dân tộc mình”.

“Những kẻ khủng bố cũng sẽ nói như thế”

“Có lẽ vậy, nhưng tôi không sát hại những người vô tội”.

“Anh chỉ đe doạ đưa họ đến Ai Cập để tra tấn”, Ibrahim nhìn Gabriel. “Anh đã làm vậy đúng không?”.

Gabriel lắc đầu. “Không đâu, Ibrahim à, tôi sẽ không làm như thế với ông”.

Ibrahim nhìn ra ngoài cửa sổ. “Tuyết rơi đẹp quá”, hắn nói. “Không biết đây là điềm lành hay dữ”.

“Một người bạn của tôi luôn cho rằng thời tiết như thế này rất thích hợp để vận động”.

“Vậy đó là điềm lành”.

Gabriel gật đầu. “Đúng vậy”.

“Trước kia anh đã từng làm việc này rồi phải không?”.

“Chỉ một lần duy nhất”.

“Kết quả?”.

Gabriel nhớ lại nhà ga Lyon đã tan nát như thế nào. “Tôi đã giải thoát được con tin”. Ông có biết con trai của ông muốn tôi và ông phải đi xuống con đường này không?”.

Gabriel rời tay khỏi vô lăng và chỉ qua bên kia quãng trường. Đó là Stroget, khu buôn bán với những cửa hiệu và nhà hàng dài 2 dặm. Đó là khu thị tứ dài nhất châu Âu. Nó có tên gọi là Radhuspladsen.

“Vụ việc diễn ra theo hướng họ sẽ theo dõi từng bước chúng ta đi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

66#
 Tác giả| Đăng lúc 22-11-2013 11:18:46 | Chỉ xem của tác giả
Chương 38
(tiếp theo)

“Chính xác. Nếu họ hài lòng với những gì chúng ta đã làm thì sẽ có một người gọi điện cho tôi bảo khi nào thì tôi và ông đến Rudhuspladsen và địa điểm tiếp theo là ở đâu”.

“Khi nào thì bắt đầu?”.

“3 giờ”.

Ibrahim lặp lại. “3 giờ. Người Cơ đốc tin rằng đó là khoảnh khắc của cái chết. Theo anh, tại sao họ lại chọn 3 giờ?”.

“Bởi vì vào lúc đó trời còn đủ sáng để bọn chúng nhìn rõ ta ở Stroget. Sau đó, khi màn đêm buông xuống sẽ tạo thuận lợi cho chúng vì ta không thể nhìn rõ được bọn chúng”.

“Còn những người hỗ trợ nhỏ bé của chúng ta thì sao?”. Ibrahim hỏi. “Những người đã tóm tôi ở Amsterdam phải không?”.

“Ishaq bảo rằng nếu hắn phát hiện ra có máy nghe trộm thì thoả thuận coi như kết thúc, Elizabeth Halton sẽ phải chết”.

“Chỉ tôi và anh đi sao?”.

Gabriel gật đầu và xem đồng hồ. Đã 2 giờ 59 phút rồi. “Cũng không quá muộn để ông quay đầu lại, ông không cần thiết phải làm việc này đâu”.

“Hai đêm trước tại căn nhà đó tôi đã hứa với anh rằng tôi sẽ giúp anh giải thoát người phụ nữ đó và tôi sẽ giữ lời hứa của mình”. Mặt hắn đanh lại.”Tiện thể cho tôi hỏi chúng ta đang ở đâu thế?”.

“Ở Đức”.

“Một người Do Thái đe doạ sẽ tra tấn một người Arập ở trên nước Đức”, Ibrahim nói. “Quả là thú vị”.

“Không phải ông định cho tôi nghe thêm bài thuyết giáo nữa chứ, Ibrahim”.

“Tôi cũng định thế nhưng thời gian không cho phép”, hắn chỉ vào đồng hồ. “Thời khắc chết đã đến”.

Không khí ở Stroget như trẩy hội. Với Gabriel, đây là đêm cuối cùng trước khi chiến tranh diễn ra và mọi người muốn tận hưởng khoảnh khắc còn lại của mình. Nhưng không có cuộc chiến nào cả mà đó là những ngày nghỉ, ít nhất là đối với những người mua sắm ở con đường nổi tiếng nhất của Copenhagen. Gabriel quá bận rộn trong việc tìm kiếm Elizabeth đến nỗi anh quên là sắp tới Giáng sinh.

Gabriel và Ibrahim đi qua con đường nhộn nhịp này như những người sắp đi vào cõi chết, tay thọc sâu vào túi áo và lặng lẽ bước đi. Ishaq bắt buộc họ phải đi liên tục và không được dừng lại. Điều đó có nghĩa Gabriel không thể nào biết được có ai đang theo dõi. Đây là lần đầu tiên sau 30 năm anh đi dạo ở một con đường tại châu Âu mà không kiểm tra xem mình có bị ai bám đuôi hay không. Chính vì vậy, anh có cảm giác như đang bị mắc kẹt trong những cơn ác mộng, ở đó anh bị trần như nhộng đứng giữa mọi người. Gabriel nhìn thấy kẻ thù ở mọi nơi, cả mới lẫn cũ. Anh thấy những kẻ giống tên khủng bố của tổ chức Thanh kiếm Allah. Và cả những người của cục an ninh Đan Mạch. Trước hiên một cửa hàng, Gabriel thề là đã thấy Eli Lavon đang chơi violong bài Giáng sinh. Tuy nhiên đó không phải là Lavon mà chỉ là một người giống anh ta.

Đột nhiên Gabriel nhớ ra Lavon không biết chơi viôlông, đơn giản vì anh dù có nhiều tài năng nhưng lại dốt đặc về âm nhạc.

Ibrahim và Gabriel dừng lại ở một ngã tư và đợi đèn đường chuyển sang màu xanh. Một người đàn ông dúi vào tay Gabriel một mẩu giấy, nhanh đến nỗi tí nữa làm khẩu Beretta rơi ra khỏi túi. Mẩu giấy đó yêu cầu họ đến một nhà hàng gần vườn Tivoly. Gabriel đọc một cách cẩn thận để chắc chắn rằng không có một ẩn ý nào khác, sau đó anh vo tròn mẩu giấy và ném vào thùng rác. Đèn đã chuyển qua màu xanh, Gabriel khoác tay Ibrahim đi tiếp.

Bây giờ trời bắt đầu tối, đèn đường đã sáng. Cửa sổ của các hàng quán đã bừng sáng những bảng hiệu chào đón nồng nhiệt. Gabriel không còn tìm những kẻ đang quan sát mình nữa, thay vào đó anh đắm mình vào những quang cảnh kỳ diệu xung quanh. Cảnh những đứa trẻ ăn kem một cách ngon lành dưới những bông tuyết mềm mại. Cảnh một người phụ nữ trẻ đẹp đang cúi xuống nhặt những món đồ rơi ra từ túi mua sắm. Cảnh dàn đồng ca ăn mặc giống những người lùn đang cất tiếng hát, tựa như các thiên thần hát mừng sự ra đời của Chúa. Anh vẫn còn nhớ những điều đã được nghe từ Uzi Navot trong cái đêm đầu tiên đó, khi họ lái xe qua những ngọn đồi bên ngoài Jerusalem. Người châu Âu lên án chúng ta vì vụ Libăng nhưng họ không hiểu Libăng chỉ là một cách để thu hút sự chú ý của khán giả. Bộ phim sẽ sớm được trình chiếu tại các rạp ở khắp châu Âu. Gabriel chỉ hy vọng nó không được chiếu ở Copenhagen đêm nay.

Họ dừng lại ở một ngã tư khác và nhìn thấy một khu rộng lớn phía bên kia đường Radhuspladsen. Bên trái là toà thị chính của thành phố. Cái đỉnh của toà nhà xuyên thẳng lên đám mây như một ngọn dao. Ở giữa quảng trường là một cây thông Noel cao khoảng 15 mét, cạnh đó là một quầy bán xúc xích và rượu táo nóng. Gabriel bước đến quầy xếp hàng, nhưng anh chưa kịp tiến đến cửa sổ bán hàng thì điện thoại trong túi reo lên. Anh cầm điện thoại lên nghe không nói tiếng nào. Vài giây sau đó, anh bỏ điện thoại trở vào túi rồi khoác tay Ibrahim.

“Chúng tôi và ông quay lại và trở về xe”, Gabriel nói khi họ bước qua quãng trường.

“Rồi sao nữa?”.

“Chúng không nói gì cả”.

“Vậy chúng ta sẽ phải làm gì”.

“Chúng ta sẽ làm y như lời chúng bảo”.

“Bọn chúng có biết chính chúng đang làm gì không?”

Gabriel gật đầu. Chúng biết chính xác chúng đang làm gì.

Chiếc Audi lúc này đã bị phủ dưới một lớp tuyết dày. Sarah đang ngồi một mình ngay cửa sổ tại một quán cà phê gần đó. Cô đội một cái mũ bêrê hơi nghiêng về phía bên trái, ám hiệu rằng không ai lục soát xe trong lúc họ vắng mặt. Dù vậy, Gabriel cũng vờ làm rơi chìa khoá xuống mặt đường và nhìn nhanh qua gầm xe lúc nhặt nó trước khi mở cửa vào xe. Điện thoại lập tức reo lên khi Ibrahim vào trong xe. Gabriel lắng nghe những lời hướng dẫn sau đó cúp máy rồi khởi động xe. Anh nhìn vào cửa sổ quán cà phê lần nữa và thấy Sarah đưa tay lên trời. Anh sợ rằng cô ấy đang chào tạm biệt mình quá lộ liễu, nhưng ngay sau đó, anh bồi bàn đến và đưa hoá đơn cho cô, Sarah để vài tờ bạc lên bàn rồi đứng dậy. Gabriel gài số và lái xe ra khỏi vỉa hè. Cứ từ từ, Ishaq nói. Chúng ta còn cả một đêm dài.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

67#
 Tác giả| Đăng lúc 23-11-2013 10:01:11 | Chỉ xem của tác giả
Chương 39

Mẩu giấy lại được quăng vào cửa. Elizabeth lê từng bước chân bị còng đến cửa trong khi Cain đứng ở ngoài chờ cô trả lời, cô có thể ngửi thấy mùi của hắn. Mẩu giấy ghi. “Cô có cần thức ăn không?”. “Có”. Cô trả lời khe khẽ. Sau đó, như một người tù gương mẫu, Elizabeth ngoan ngoãn nằm xuống giường và chờ hắn bước vào.

Cô nghe thấy tiếng chìa khoá được tra vào ổ và tiếng răng rắc theo sau. Cánh cửa này khi mở phát ra âm thanh lớn hơn cánh cửa căn phòng trước mà cô bị giam, và âm thanh đó làm cho cô phải nghiến răng lại. Cain để thức ăn ở cuối giường rồi nhanh chóng đi ra. Elizabeth ngồi dậy nhìn chăm chú vào món ăn: một khúc bánh mì, một miếng bơ không rõ nguồn gốc, một chai nước suối Evian và có cả sôcôla cho sự ngoan ngoãn của cô.

Elizabeth ăn ngấu nghiến và uống hết nước. Khi cô nhìn qua lỗ ở trên cửa và chắc rằng không có ai đang quan sát mình, cô liền dùng ngón tay móc cổ họng và ói ra tất cả những gì mà cô đã ăn. Hai phút sau, Cain đột nhiên xồng xộc bước vào phòng và giận dữ nhìn con tin. Cô ngồi trong chăn và run lên từng cơn. “Thuốc mê”, cô rít lên. “Anh đang giết tôi bằng thuốc mê”. Abel mang đến một xô nước và mảnh giẻ bắt Elizabeth tự lau đống ói của mình. Cain lại xuât hiện ngay sau khi phòng cô được lau sạch sẽ. Hắn đứng rất xa cô như thể sợ làm cho cô bị khủng hoảng, rồi ra hiệu bằng tay yêu cầu cô giải thích tại sao lại làm như vậy.

“Chứng tim đập nhanh đang bộc phát”, Elizabeth ngưng lại và thở hổn hển. “Tôi đang phải chịu đựng chứng loạn nhịp tim tâm thất. Căn bệnh này càng trở nên nặng hơn khi tôi bị tiêm quá nhiều thuốc mê. Nhịp tim loạn xạ, huyết áp tụt, nó làm cho tôi bị nôn. Nếu anh tiêm cho tôi một liều thuốc mê nữa thì chính anh sẽ giết chết tôi”.

Hắn đứng yên lặng một hồi, nhìn Elizabeth qua cái khăn trùm đầu của mình rồi đi ra. Khoảng 20 phút sau, cô đoán là vậy nhưng không chắc cho lắm, hắn trở lại đưa cô một mẩu giấy được đánh máy. “Chúng tôi không thể cho biết lí do, nhưng cô cần được di chuyển đi chiều nay, cô sẽ rất khó chịu nếu tỉnh táo. Cô có muốn được chích thuốc mê trong lúc chuyển đi hay không?”.

“Không thuốc mê”, cô nói. “Tôi muốn mình được tỉnh táo trong suốt quãng đường di chuyển”.

Cain nhìn Elizabeth như thể người phụ nữ bị bắt làm con tin này vừa đưa ra một lựa chọn sai lầm, rồi hắn đưa cô một mẩu giấy thứ hai.

“Nếu cô kêu lên hay gây ra bất kỳ một tiếng động nào, chúng tôi sẽ giết cô và quẳng xác ở bên đường”.

“Tôi hiểu”.

Cain lấy lại hai mẩu giấy rồi ra khỏi phòng. Elizabeth nằm duỗi dài trên giường nhìn chằm chằm vào ánh sáng lờ mờ. Sự phản kháng của cô chỉ diễn ra vài phút nhưng đã thu thập được hai thông tin: cô sẽ bị chuyển đi trên đường và vào ban đêm.
Bọn chúng bước vào phòng, trói Elizabeth bằng một cái chăn len ở trong phòng và siết chặt nó làm cho cả người cô như một cái kén. Lỗ tai cô bị nhét hai nút cao su. Miệng bị nhét vải. Giờ đây cô không thể sử dụng các giác quan trừ khứu giác và xúc giác, Elizabeth cảm thấy chúng đang nhấc cô lên, một tên ở đầu, một tên ở chân, mang cô đi một quãng rất gần. Cô được đưa vào chiếc Container rất hẹp, hẹp đến nỗi hai bên ép chặt vào vai và hông Elizabeth. Có mùi gỗ dán và hồ giống như mùi cá ươn. Nắp xe được đóng lại bằng vài cái đinh. Cô muốn kêu lên nhưng rồi cô không làm vậy. Cô muốn khóc thật lớn gọi mẹ. Thay vào đó Elizabeth thầm cầu nguyện và nghĩ đến người đàn ông đã cố cứu cô ở Hyde Park. Tôi sẽ không khuất phục, cô nghĩ. Tôi sẽ không khuất phục.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

68#
 Tác giả| Đăng lúc 23-11-2013 10:05:08 | Chỉ xem của tác giả
Chương 40
Đảo Funen tại Đan Mạch

Tám giờ 35 phút tối thứ năm.

Ánh sáng trên chiếc cầu Great Belt, chiếc cầu dài thứ hai trên thế giới, bắc ngang qua hai đảo Zealand và Funen đẹp rực rỡ trong đêm. Gabriel liếc nhìn đồng hồ và lái xe xuống con đường dốc hướng về phía Đông. Chuyến đi từ Copenhagen đến đây không nên mất quá hai giờ, nhưng cơn bão càng lúc càng lớn đã khiến nó kéo dài gần 4 tiếng. Anh nhìn lại con đường rồi đặt hai tay vào vô lăng. Chiếc cầu đang lắc lư trong cơn gió mạnh. Ibrahim một lần nữa hỏi rằng liệu thời tiết như thế có đúng là một điềm tốt hay không. Gabriel đáp lại rằng hy vọng Ibrahim biết bơi.

Họ mất khoảng 20 phút để đi qua chiếc cầu dài 8 dặm. Ở đầu cầu phía bên kia đảo Funen, cơn bão đang ập tới ga xe lửa nhỏ ở eo biển. Cách ga xe lửa một dặm là trạm xăng và quán cà phê bên đường… Đổ xăng xong, Gabriel đỗ xe ở bên ngoài tiệm cà phê và dẫn Ibrahim vào bên trong. Bên trong quán rất sáng sủa, sạch sẽ và được trang trí tinh tế. Phòng đầu tiên là một quầy bán thức ăn nhanh, phòng tiếp theo có những vị khách bị mắc lại vì cơn bão. Những cuộc nói chuyện sôi nổi đang diễn ra, những chai bia Carlsberg nằm lăn lóc trên bàn gỗ, cho thấy việc nhậu nhẹt đã diễn ra ở đây. Gabriel và Ibrahim mua sandwich kẹp trứng, trà nóng ở quầy bán thức ăn nhanh, họ ngồi ở bàn gần cửa sổ. Ibrahim lặng lẽ ăn trong khi Gabriel nhấm nháp trà và nhìn chằm chằm ra xe. Sau 30 phút trôi qua, cuối cùng điện thoại cũng reo lên, Gabriel lấy ra ngồi yên lặng nghe. “Chờ ở đấy nhé”, anh nói.

Anh đi thẳng vào nhà vệ sinh nam, ở đó anh giấu khẩu beretta và chiếc điện thoại ở trong thùng rác. Sau đó đi vào chợ mua tấm bản đồ nước Anh và một cuốn sách hướng dẫ cho khách du lịch bằng tiếng Anh. Khi Gabriel quay lại phòng ăn, Ibrahim đang gói miếng sandwich bỏ vào túi và theo viên đặc vụ ra ngoài.

“Nó đây rồi”, Ibrahim nói. “Lindholm Hoje”.

Ibrahim cúi xuống đọc cuốn sách hướng dẫn dưới ánh sáng của chiếc đèn phía trên, còn Gabriel vẫn cứ nhìn lên đường.

“Nó nói gì?”.

“Đó là một nghĩa trang và một ngôi làng người Viking có từ xưa. Nó đã bị chôn vùi dưới lớp cát dày hàng thế kỉ và mới được phát hiện năm 1952. Theo như cuốn sách thì có 700 ngôi mộ và những tàn tích của một vài ngôi nhà tập thể của người Viking”.

“Ở đâu?’.

Ibrahim lại đọc cuốn sách lần nữa và đánh dấu địa điểm ở trên bản đồ. “Bắc Jutland. Đúng là ngay tại Bắn Jutland”.

“Làm sao để lái xe đến đó?”.

“Đi đường E20 băng qua Funen rồi tiến về phía bắc trên đường E45. Ngay sau Aalborg và Lindholm. Cuốn sách nói rất dễ tìm thấy chỗ đó, chỉ cần theo đúng sự chỉ dẫn”.

“Tôi không thể nhìn thấy đường, chỉ còn nhờ vào các biển chỉ đường. Có phải bọn họ định bỏ người phụ nữ Mỹ ở đó không?”.

Gabriel lắc đầu. “Cần có nhiều sự hướng dẫn hơn. Lần này sẽ được viết bằng tay, chúng nói rằng chúng sẽ ở trong những căn nhà đổ nát, ở góc xa nhất từ lối đi vào viện bảo tàng”.

Gabriel nhìn lướt qua Ibrahim. “Lần này là giọng của một người khác chứ không phải là Ishaq”.

“Người Ai Cập hả?”.

“Tôi nghe giọng hắn như là người Ai Cập vậy, nhưng tôi không phải là một chuyên gia”.

“Làm ơn đi”, Ibrahim thốt lên. “Tại sao chúng lại bắt anh bỏ điện thoại của mình vào thùng rác?’.

“Không sử dụng phương tiện liên lạc điện tử nữa”.

Ibrahim nhìn xuống bản đồ. “Đường đến Lindholm rất xa”.

“Trong điều kiện đi bình thường sẽ mất hai giờ, nhưng với thời tiết thế này phải mất ít nhất 4 giờ”.

Ibrahim nhìn đồng hồ. “Nếu chúng ta may mắn thì sẽ đến được đó vào sáng thứ sáu”.

“Đúng vậy”, Gabriel nói. “Hắn muốn chúng ta phải gặp rắc rối với việc đúng thời hạn”.

“Ai? Ishaq à?”.

Gabriel thầm nghĩ, đó là một câu hỏi hay. Liệu đó có phải là Ishaq hay chính là Sphinx?

Mất 4 tiếng rưỡi để đến Lindholm, đúng như những gì Gabriel lo sợ, khu mộ thực ra không dễ tìm như những gì cuốn sách viết. Anh chạy lòng vòng khoảng 20 phút trong khu nhà gạch trước khi nhìn thấy tấm biển báo mà trước đó anh đã bỏ qua 3 lần. Nó đã bị tuyết che phủ, Gabriel phải ra khỏi xe và phủi tuyết đi, sau khi đọc xong anh biết rằng để đến được địa điểm thì anh phải lái xe lên ngọn đồi hiểm trở. Hai phút sau, Gabriel lái xe vào một khu đất xung quanh là những cây thông cao vút. Anh tắt máy và ngồi một lúc trước khi mở cửa xe đặt chân xuống tuyết. Ibrahim vẫn ngồi trong xe.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

69#
 Tác giả| Đăng lúc 23-11-2013 10:06:24 | Chỉ xem của tác giả
Chương 40
(tiếp theo)

“Ông không đi sao?”.

“Nếu anh không phiền thì tôi sẽ chờ ở đây”.

“Đừng nói là ông sợ vào nghĩa trang nhé”.

“Không, nhưng tôi sợ những nghĩa trang của người Viking”.

“Họ chỉ hiếu chiến khi ở trên biển”, Gabriel nói. “Tại quê hương mình phần lớn họ là những người nông dân. Điều đáng sợ nhất chúng ta gặp phải trong đêm nay chính là bóng ma của những người nông dân đấy”.

“Nếu anh nghĩ như vậy thì tôi sẽ ở lại đây”.

“Tuỳ ông”. Gabriel nói. “Nếu ông muốn ngồi một mình ở đây thì tốt thôi”.

Ibrahim nghĩ một lúc rồi bước ra khỏi xe. Gabriel mở thùng xe lấy ra một đèn pin và một khẩu súng lục.

“Tại sao anh lại mang theo những thứ đó?”. Ibrahim hỏi.

“Phòng trường hợp gặp phải người Viking”, Gabriel giắt chúng vào thắt lưng và nhẹ nhàng đóng thùng xe lại. “Chúng bắt tôi phải quăng súng vào thùng rác ở quán cà phê đó. Một khẩu súng lục còn hơn không có gì cả”.

Gabriel bật đèn pin lên và cùng với Ibrahim đi qua khu đậu xe. Lớp tuyết dày gần 2 m, chỉ trong vài bước chân mà đôi ủng của Gabriel đã ướt sũng khiến đôi chân anh lạnh cóng. 30 giây sau khi rời xe, Gabriel đột nhiên dừng lại. Có dấu chân của hai người ở trên tuyết. Một cái lớn hơn cái còn lại, dẫn từ bãi đậu xe vào khu chôn cất. Gabriel để Ibrahim đứng một mình và lần theo các dấu chân. Căn cứ vào bề mặt của lớp tuyết, có thể một chiếc xe thùng nhỏ hoặc một chiếc xe tãi đã vào bãi đổ xe từ lối vào thứ hai vài tiếng trước đó. Dấu chân lớn hơn được bước xuống từ chỗ ngồi của tài xế, dấu chân còn lại là từ phía chỗ ngồi của khách. Gabriel cúi xuống mặt tuyết và nhìn chăm chăm vào những dấu chân nhỏ hơn như thể tìm kiếm những vệt màu lem trên bức tranh sơn dầu. Người phụ nữ đó mang giày thể thao. Không có dấu hiệu nào cho thấy có diễn ra ẩu đả.

Gabriel quay lại chỗ Ibrahim đưa hắn ta đi theo lối mòn vào bên trong. Khu nghĩa trang dần hiện ra trước mắt họ, nó nằm trên ngọn đồi dốc thoai thoải có thể nhìn thấy cả bờ vịnh. Mặc dù tuyết rơi khiến người ta khó mà nhìn rõ mọi thứ, nhưng qua ánh đèn pin của Gabriel, bóng của từng ngôi mộ dần hiện lên. Một sô ngôi mộ được đá đắp lên thành ụ, một số thì đá xếp thành hình tròn, những cái khác có hình chiếc thuyền của người Viking. Ngôi nhà bằng gạch cũng không khó tìm lắm, tất cả những gì Gabriel phải làm là chỉ việc đi theo dấu chân. Anh cúi xuống dùng đôi tay trần mò mẫm trên lớp tuyết. Vài giây sau anh tìm thấy một túi nhựa bên trong là một mẩu bản đồ chi tiết. Gabriel dùng đèn pin để đọc. Rồi đứng lên dẫn Ibrahim trở ra xe.

“Skagen”. Gabriel nói khi anh lái xe từ từ xuống đồi. “Chúng muốn tôi và ông đi đến Skagen. À, đến gần Skagen. Nơi chúng đánh dấu trên bản đồ hơi lệch về phía nam”.

“Anh biết nơi này chứ?”.

“Tôi chưa từng đến đó nhưng tôi biết. Có một gánh hát rong đã được hình thành ở đó sau năm 1800. Họ được biết đến khi họ học tại trường Skagen dành cho hoạ sĩ. Họ đến đó để tìm kiếm chân lí. Họ nói rằng đó là nơi duy nhất – chúng ta không thể nào tìm ra được một nơi như vậy”.

“Có thể đây lại là một điềm tốt khác”, Ibrahim nói.

“Có lẽ vậy”, Gabriel nói.

“Liệu con gái ngài đại sứ sẽ ở đó chứ?”.

“Trên bản đồ không ghi. Nó chỉ bảo chúng ta đến một nơi dọc theo biển Bắc”.

“Cô ta có ở nghĩa địa tối nay không?”.

“Chúng muốn tôi nghĩ vậy”, Gabriel nói. “Nhưng tôi không tin là cô ấy đã ở đó”.

“Sao anh lại nói vậy?”.

“Vì cô ấy tự mình bước ra khỏi xe và đến khu nghĩa trang”, Gabriel nói. “Tôi đã thấy Elizabeth lúc cô ấy bị bắt cóc. Người phụ nữ này sẽ không ngoan ngoãn bước đi mà không phản kháng lại”.

“Trừ phi bọn họ bảo sẽ thả cô ta ra?”, Ibrahim nói.

Gabriel liếc nhìn Ibrahim một cách thán phục. “Ông khá đấy”, anh nói.

“Tôi từng là một Giáo sư đại học mà, tôi thích đọc truyện trinh thám”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

70#
 Tác giả| Đăng lúc 23-11-2013 18:29:50 | Chỉ xem của tác giả
Chương 41

Elizabeth không biết chuyện gì đã xảy ra trong suốt quá trình bị chuyển đi. Cô cố gắng không nghĩ đến thời gian. Tâm trí cô chứa đầy ý nghĩ. Cô tự nhủ mình chỉ phải chịu đựng tất cả những thứ này trong ít phút nữa thôi. Cô tự nhủ bằng những tự kỉ ám thị khác, rằng cô đang ở trên một chiếc giường thật dễ chịu chứ không phải là ở trong một cái hộp bằng len có mùi như mùi cá ươn. Rằng cô đang mặc chiếc quần jeans xanh bạc màu và chiếc áo len mà cô thích nhất chứ không phải là bộ đồ thể thao dơ bẩn từ buổi sáng cô bị bắt. Rằng cô đang được nhìn thấy dãy núi ưa thích nhất của mình. Rằng cô đang nghe những bản nhạc hay. Nhưng tất cả chỉ là một giấc mơ, lúc cô thức dậy thì mọi thứ sẽ kết thúc.

Elizabeth đã chuẩn bị tinh thần trước những lời đe doạ đáng sợ của Cain bằng cách cố hình dung ra những điều tốt đẹp tại những nơi tồi tàn mà cô bị giam cầm. Bọn chúng đã cướp đi một trong những vũ khí đáng gờm của người phụ nữ này, đó là khả năng nghe những gì đang diễn ra xung quanh. Hơn thế, chúng còn làm cho cuộc sống của cô thêm buồn tẻ bằng những tiếng o o chán ngắt của xe tải. Elizabeth chỉ còn khả năng cảm nhận được sự di chuyển. Cô biết rằng bọn chúng đã lái xe với tốc độ nhanh khi đi trên những con đường láng bóng, chạy với tốc độ chậm hơn khi đến những quãng đường gồ ghề. Có lúc Elizabeth cảm giác mình đang ở trong một thành phố đông đúc có nhiều người nhưng chẳng ai phát hiện ra là cô đang nằm trong chiếc xe cả. Giờ đây cô biết chắc rằng bọn chúng đang ở trên một con đường không lát đá, tại một nơi tận cùng của trái đất.

Đột nhiên chúng dừng xe lại. Đầu cô bị chúi vào góc xe đau đớn. Tiếng kêu o o của máy cũng tắt. Vài phút trôi qua trước khi chúng chuyển cô từ chiếc xe, thêm vài phút nữa cô còn nghe được tiếng rít của những cái đinh bị đóng xuống thùng xe. Khi thùng xe được mở ra, một làn gió sương muối lạnh tạt vào mặt cô. Những giọt nước mắt nóng hổi đột nhiên trào ra thấm vào tấm vải che mắt của Elizabeth. Chẳng có ai nói chuyện với cô khi cô bị chuyển đến nơi ẩn náu mới, chẳng có ai hỏi thăm cô về tình trạng chứng tim đập nhanh khi cô nằm trên giường của một nhà tù mới. Khi cánh cửa đóng lại, cô tháo khăn bịt mắt và nút bị lỗ tai nhìn chằm chằm vào những bức tường màu trắng. Có một đĩa thức ăn gồm bơ, bánh mì và sôcôla thưởng cho Elizabeth vì cô đã ngoan ngoãn trong suốt chuyến đi – và còn có cả xô nước cho cô đi vệ sinh. Elizabeth không biết rõ mình đang ở đâu nhưng có điều cô tin chắc là mình đang ở gần biển.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách