Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Kẻ Phụng Sự Thầm Lặng | Daniel Silva (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
71#
 Tác giả| Đăng lúc 23-11-2013 18:32:02 | Chỉ xem của tác giả
Chương 42
Kandestederne, Đan Mạch

Hai giờ 15 phút sáng thứ sáu.

Con đường từ cảng Baltic của Frederikshavn tới Skagen bị bỏ từ lâu và ít người qua lại. Gabriel ngồi khom mình trên vô lăng, lái xe hết đoạn này đến đoạn khác, đi ngang qua các thị trấn dọc theo các con đường phủ tuyết. Những cái tên của chúng là sự kết hợp của những phụ âm lạ lùng và thậm chí ngay cả Gabriel – người nói tiếng Đức như tiếng mẹ đẻ - cũng không thể hiểu được. Tiếng Đan Mạch không phải là một ngôn gnữ. Gabriel đắm mình vào suy nghĩ, tiếng Đan Mạch chỉ là những âm thanh cọ sát trong cổ họng. Sau khi rời khỏi thị trấn Alback, hình ảnh những cồn cát có vẻ như đang dần hiện ra trước mắt họ … Khu nghỉ mát mùa hè của thị trấn Kandestederne nằm cuối phía bắc của khu đất hoang dần hiện ra phía trước. Sau khi Gabriel quay đầu xe, anh phát hiện ra vết bánh xe trên tuyết. Anh ngờ ngợ đây là chiếc xe được dùng tại nghĩa trang đêm trước ở Lindholm.

Họ đi qua vài khu nông trại nhỏ, sau đó gặp phải vài cồn cát khác – lần này là những cồn cát lớn như những cái chân đồi. Gabriel thoáng thấy vài cái chòi xung quanh. Nơi đây không có đèn, cũng không có một bóng xe, hay bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống.

Dấu bánh xe hướng về phía bên phải, đi vào một con đường nhỏ và mất dạng trong màn tuyết rơi. Gabriel tiếp tục đi thẳng và sau đó ngừng lại một lúc trong một bãi đổ xe nhỏ nhìn ra biển, cạnh đó là một quán cà phê được đóng bằng ván. Anh nghĩ tốt hơn hết là nên tắt máy. “Chờ ở đây”. Anh nói. “Sau khi tôi xuống xe thì khoá cửa lại. Không được mở cửa cho bất kỳ ai ngoại trừ tôi”.

Gabriel cầm theo một khẩu súng lục và một cây đèn pin rồi đi vào quán cà phê. Xung quanh đó có rất nhiều dấu giày còn mới và dính cát, ít nhất là của hai người hoặc có thể của nhiều hơn nữa. Một trong số đó dẫn thẳng xuống biển. Chúng giống hệt những dấu giày Gabriel thấy ở Lindholm. Đó là dấu giày của phụ nữ.

Anh quay lại liếc nhìn chiếc Audi rồi đi theo dấu chân hướng ra biển. Chúng biến mất ngay tại vũng nước đông đá. Anh nhìn mọi phía nhưng không thấy gì khả nghi nên quay trở về xe. Khi đi đến gần chiếc Audi của mình, Gabriel thấy Ibrahim đang ngồi trong xe, hơi ngả người về phía trước, nhấn vào đồng hồ một cách lúng túng. Anh nhìn thấy những dấu giày mới xung quanh xe. Đột nhiên kính cửa sổ hạ xuống và một bàn tay đeo găng thò ra từ bên trong ra hiệu cho anh đi tới. Gabriel lưỡng lự một hồi rồi làm theo. Trong khi bước đến, anh nhận biết được đó là dấu giày thể thao cỡ 6 của hãng Adidas hoặc Nike. Đó là giày nữ.

Anh đã nhầm về hãng giày. Chúng được hãng Puma sản xuất. Người phụ nữ mang chúng không quá 25 tuổi. Cô ta mặc một chiếc áo khoác xanh nước biển kiểu hải quân và đội mũ len, chiếc mũ được kéo xuống để che đôi mắt đen huyền. Người phụ nữ bịt mặt này ngồi ngay bên cạnh Ibrahim và chĩa một khẩu Makarov vào sườn ông. Tay cô run lên vì lạnh.

“Tại sao cô không chĩa súng xuống dưới trước khi làm cho người khác bị thương?”, Gabriel nói.
“Câm mồm và đặt tay lên vô lăng”.

Cô ả nói một cách điềm tĩnh. Gabriel làm theo những gì được bảo.

“Ishaq đâu?”.

“Ishaq nào?”.

“Đừng đùa nữa. Đêm nay dài và lạnh lắm”, Gabriel nhìn ả từ gương chiếu hậu. “Chỉ cần nói nơi có thể tìm thấy Elizabeth, chúng tôi sẽ đi ngay”.

“Mày là người Do Thái, đúng không? Mày chính là thằng khốn Do Thái đã giết những đồng đội của bọn tao ở Hyde Park?”.

“Không, tôi là thằng khốn người Mỹ”.

“Một thằng khốn người Mỹ nói tiếng Arập khá đấy”.

“Cha tôi là một nhà ngoại giao và tôi lớn lên ở Beirut”.

“Thật sao? Vậy thì nói chuyện với tao bằng tiếng Anh đi, thằng chó Mỹ”.

Gabriel do dự. Người phụ nữ che mặt chĩa súng vào đầu Ibrahim.

Ả chĩa mũi súng vào Gabriel và nói. “Tao nên giết mày ngay bây giờ. Nhưng mày may đấy. Mày sẽ không chết đêm nay. Có những kẻ khác sẵn sàng chết để giết mày”.

“May cho tôi làm sao”

Ả dùng cáng súng đập vào đầu Gabriel mạnh đến nỗi khiến anh choáng váng. Khi anh chưa kịp phản ứng lại thì ả đập thêm một cái mạnh hơn và bắt anh đặt hai tay trở lại vô lăng. Ngay sau đó, anh thấy có một dòng chảy âm ấm ở sau gáy mình.

“Cô hài lòng chứ?”.

“Ừ”.

“Hãy kết thúc gọn vụ này, được chứ?”.

“Quay đầu xe lại”, ả nói. “Chậm thôi”.

Gabriel nhấn ga sang số ba rồi từ từ đi vào sâu bên trong.

“Rẽ trái ngay ở những cồn cát”, người phụ nữ che mặt nói. “Rồi đi theo dấu xe trên đó”.

Gabriel làm theo những gì ả nói. Con đường đó chỉ đủ rộng cho một chiếc xe và nó dẫn thẳng đến những cái chòi trên cồn cát. Đó là những cái chòi nhỏ được đóng bằng gỗ và bị bỏ hoang vào mùa đông. Vài cái được sơn màu vàng Skagen, và những cái khác lại có cỏ mọc trên nóc nhà một cách kỳ lạ. Gabriel lần theo ánh đèn ở bãi đổ xe. Máu càng lúc càng chảy thấm ướt cổ áo anh.

Gabriel theo những vết xe đến một ngọn đồi nhỏ và nhìn thấy một cái gò nhỏ ở phía bên kia. Để khỏi bị đâm sầm vào tuyết, anh phải nhấn ga và tiếng lách cách vang lên rất lớn. Anh lại chạy lên ngọn đồi tiếp theo, vòng về bên trái, lướt xuống lối vào một cái chòi xa nhất. Một chiếc xe tải vận chuyển màu bạc của hãng LDV Maxus đỗ ngay bên ngoài. Gabriel dừng xe lại và nhìn lên gương chiếu hậu chờ lệnh. Người phụ nữ chĩa nòng khẩu Makarov vào lưng Ibrahim và bảo ông ta mở cửa xe. Khi Gabriel định mở cửa thì lại bị nện thêm một cú vào đầu.

“Mày ở lại trong xe!”, ả la lên cộc cằn. “Chúng tao sẽ trả người phụ nữ đó cho Ibrahim chứ không phải mày, đồ chó Do Thái”.

Ibrahim tháo dây an toàn và mở cửa.

Đèn ở phía trên đột nhiên sáng lên. Gabriel níu lấy tay Ibrahim và nói.

“Đừng đi. Hãy ở lại đây”.

Ibrahim nhìn anh đầy ngờ vực. “Anh đang nói gì thế, anh bạn? Chúng ta đi đến đây vì mục đích này mà”.

“Đó chỉ là một trò chơi để kéo dài thời gian. Con gái của ngài đại sứ không có ở đây. Con trai ông định lừa ông đến đây để giết ông đấy”.

“Tại sao con trai tôi lại muốn giết cha của nó?”.

“Bởi vì ông đã phản bội lại hắn để về phe người Cơ Đốc và người Do Thái”, Gabriel nói. “Bởi vì hắn là một kẻ cuồng đạo Hồi và trong mắt hắn, ông giờ đây là một kẻ phản đạo đáng chết. Ông không bằng một người Cơ Đốc hay một người Do Thái – là vì ông đã từ bỏ cuộc chiến thần thánh chống lại những kẻ báng bổ đạo Hồi. Người đàn bà này mang ông vào trong để giết ông đấy, Ibrahim. Đừng đi với ả”.

“Con trai tôi không bao giờ làm hại tôi đâu”.

“Hắn không còn là con của ông nữa”.

Ibrahim cười và gỡ tay Gabriel ra khỏi tay mình. “Anh phải biết tin tưởng chứ, anh bạn. Hãy để tôi đi và tôi sẽ mang cô gái ấy ra như những gì tôi đã hứa với anh”.

Gabriel thấy nòng súng của khẩu Makarov kê vào sau gáy mình. “Hãy nghe theo ông Ibrahim, đồ chó Do Thái. Ông ấy nói đúng sự thật đấy. Bọn tao không giết bố mẹ của mình. Chỉ có mày mới là kẻ sát nhân, chứ không phải bọn tao. Để ông ấy mang cô gái ra và mày có thể đi”.

Ibrahim bước ra khỏi xe và đi về căn nhà trước khi Gabriel kịp ngăn ông lại. Người phụ nữ che mặt chờ đến khi Ibrahim đi cách vài dặm mới bắt đầu nhấc súng ra khỏi đầu Gabriel và đi theo sau ông. Khi họ tiến tới gần lối vào, một người đàn ông xuất hiện ngay cửa. Trong màn đêm tuyết rơi dày đặc, Gabriel chỉ nhìn thoáng thấy mái tóc của người đàn ông đó – nó có màu bạch kim. Hắn chào Ibrahim một cách trịnh trọng, hôn lên hai má và kính cẩn hôn lên tay ông rồi dẫn Ibrahim vào bên trong. Ngay sau đó, khi người phụ nữ vừa đóng cửa lại thì căn nhà nổ tan tành ngay trước mặt Gabriel.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

72#
 Tác giả| Đăng lúc 23-11-2013 18:34:34 | Chỉ xem của tác giả
Phần 4: Cây Cầu Bắc Qua Sông Jahannam

Chương 43
Windfield House

Bảy giờ 5 phút sáng rhứ sáu.

Khoảng một giờ đồng hồ sau thì tin tức về vụ thảm hoạ ở phía bắc Đan Mạch được truyền tới Washington, và sau 30 phút nữa thì tin tức đầu tiên đã đến Windfield House, nơi trú ngụ của Đại sứ quán Mỹ tại vương quốc Anh. Đã 3 giơ 15 phút sáng tại luân Đôn, 10 giờ 15 phút tối tại Washington, Robert Halton vẫn ngồi tại bàn làm việc của mình chờ tin tức từ phòng họp ở Nhà Trắng. Mặc dù ông đã ngồi hàng giờ đồng hồ để chờ điện thoại gọi đến nhưng ông vẫn giật mình khi tiếng chuông như tiếng súng phát ra ở gần đó. Lúc vồ lấy ống nghe, ông tưởng rằng sẽ nghe thấy tiếng Elizabeth khóc thổn thức bên kia đầu dây, nhưng ông lại nghe thấy giọng nói của Cyrus Mansfield, cố vấn của Bộ trưởng An ninh quốc gia. Những tin tức Mansfield nói với Halton không phải là những gì ông muốn nghe. Gabriel Allon và nguồn tin quý giá của mình ở Ai Cập đã được chuyển từ Copenhagen đến một nơi lộn xộn ở Đan Mạch, Mansfield nói. Có một vài vết tích liên quan đến một căn nhà bỏ hoang ở một nơi vắng vẻ tại bờ biển phía Bắc, cụ thể vẫn chưa biết rõ. Ở đó xảy ra một vụ nổ. Ít nhất 3 người đã chết. Phải đợi đến khi những đội điều tra đến hiện trường, cùng đội pháp y của Đan Mạch thì mới biết được Elizabeth có ở trong số bị giết đó không.

Thời gian còn lại của đêm đó, Robert Halton đã được thông báo những tin khủng khiếp. Mansfield gọi đến chỉ để thông báo cả những tin không quan trọng khiến cho người khác nổi cáu. Trong những hoàn cảnh như thế này thì có rất nhiều thông tin mâu thuẫn nhau và sau đó mới biết được thông tin nào là sai. Halton được cho biết có 3 xác chết trong căn nhà đó và 30 phút sau lại được thông báo lại là 4 xác chết. Mansfield nói rằng có bằng chứng cho thấy Elizabeth từng ở Đan Mạch và cho là cô vẫn còn tiếp tục ở đấy. Ở nơi đó đã diễn ra vụ nổ súng, Allon bị thương nặng và đã chết.

Cuối cùng vào 7 giờ 5 phút sáng giờ Luân Đôn, khi ánh bình minh chiếu qua công viên Regent, đích thân Bộ trưởng gọi đến nói rằng lính cứu hoả chỉ tìm thấy 3 xác chết trong đám tro tàn mà thôi. Theo lời khai của Gabriel Allon bị thương khá nặng nhưng vẫn còn sống. Có hai xác chết là của bọn khủng bố, một nam một nữ và xác còn lại là Ibrahim Fawaz, người Ai Cập. Hội đồng an ninh quốc gia, FBI, CIA và bộ ngoại giao Mỹ cho rằng Elizabeth vẫn còn sống và vẫn tiếp tục ra sức cứu cô thậm chí cả sau khi hết thời hạn. Robert Halton cúp máy và quỳ xuống tạ ơn Chúa. Sau đó ông vào phòng tắm và bị trượt chân. Ông nằm sõng xoài ở đó.

Ông nằm vài phút trên sàn đá hoa lạnh lẽo, thân thể gần như bị tê liệt trong đau khổ và buồn bã. Mày đang ở đâu thế này, Robert Halton, ông nghĩ. Có phải ở cái nơi mà những thương nhân tự do đã biến các công ty khai thác dầu thành một cuộc chiến năng lượng toàn cầu khốc liệt? Ở một nơi mà người đàn ông, nuốt nỗi đau của việc đã mất đi người vợ thân thương của rmình, sẵn sàng làm tất cả vì con gái? Ở một nơi mà một người đã xoay chuyển cục diện và đưa người bạn thân của ông vào Nhà Trắng? Halton thầm nghĩ và ông thấy không còn là mình nữa. Ông đã bị bọn khủng bố bắt cóc giống như Elizabeth, nhưng là về mặt tinh thần.

Halton đứng dậy súc miệng, bước ra khỏi nhà tắm, trở lại phòng làm việc. Giờ đây là sáng thứ sáu và tối nay có thể con gái ông sẽ chết. Robert Carlyle Halton, nhà tỉ phú và là người chi phối các chức vụ quan trọng đã không thể giúp được gì khi những đặc vụ Mỹ, Bộ ngoại giao, bộ phận hành pháp cùng với đối tác của họ từ châu Âu cho đến Trung Đông tìm kiếm con gái ông trong vô vọng. Halton đứng mơ hồ khi nghe những lời đảm bảo rỗng tuếch của họ rằng cuối cùng Elizabeth sẽ được cứu sống trở về với ông. Ông không đứng yên nữa mà sẽ sử dụng một vũ khí mà chỉ có những kẻ chống lại những người báng bổ đạo Hồi biết đó là gì. Hành động của ông có thể sẽ bị kết tội là phản quốc và Halton sẽ đưa cho bọn chúng vũ khí mà chúng có thể sử dụng để chống lại Hoa Kỳ và đồng minh, nếu buộc phải phản quốc để cứu được con gái mình thì Robert Halton sẵn sàng làm một kẻ phản bội, trong vài giờ thôi mà.

Ông bước tới ngồi xuống bàn làm việc một cách điềm tĩnh trước màn hình vi tính, tưởng tượng ra giây phút mình không còn là một người cha vô dụng nữa. Ông nhấp chuột và một bức thư hiện ra, ông đã viết nó trong tuần đầu xảy ra sự việc để dùng đến trong lúc này. Đôi mắt ông lướt qua bức thư.

Vì những sự việc đang diễn ra … không thể nào tiếp tục làm nhiệm vụ của một người đại sứ tại Luân Đôn. Thật vinh dự đã phục vụ … Robert Carlyle … Ông thêm vào ngày tháng rồi cho in ra, rồi nhìn lá thư chầm chậm rơi xuống từ bàn máy in. Sau khi ký tên xong, ông gửi đi bằng máy fax nhưng ông không bấm nút gửi vội, ông cần phải làm vài việc trước khi fax nó.

Halton nhấc điện thoại lên gọi đến một thuê bao ở Luân Đôn, số thuê bao nằm tại nhà số 10 phố Downing khu ở của Thủ tướng Anh. Và bên kia đầu dây là Oliver Gibbons, thư ký của Thủ tướng. Halton và Gibbons đã nói chuyện với nhau vài lần 2 tuần trước nên không cần phải quá trịnh trọng. Halton nói ông cần nói chuyện với Thủ tướng ngay lập tức, Gibbons đáp lại rằng Thủ tướng đang có cuộc họp trong bữa ăn sáng và 20 phút sau mới có thể nói chuyện được.

Cuộc họp kết thúc sớm hơn dự định bởi vì 12 phút sau Thủ tướng quay ra nghe điện thoại. “Tôi đang định làm chuyện gì dại dột”, Halton nói. “Tôi muốn biết liệu ông và các nhà chức trách có muốn nó xảy ra hay không?”.

Cuộc nói chuyện diễn ra rất ngắn và sau đó trong cuộc điều tra chính thức chỉ diễn ra khoảng 6 phút, Thủ tướng hứa rằng cảnh sát và các đặc vụ Anh sẽ làm những gì có thể để giúp ông. Halton cám ơn Thủ tướng rồi ông gọi số Đại sứ quán của ông. Stephen Berns, người đại diện của văn phòng ngoại giao nhấc máy. Cấp trên của anh ta Jack Hammon đã bị giết tại Hyde Park vào cái buổi sáng Elizabeth bị bắt cóc. Berns được thăng chức và trở thành người phát ngôn chính của Đại sứ quán trong suốt giai đoạn khủng hoảng.

“Tôi cần mở một cuộc họp với giới báo chí, Steve. Tôi muốn nó diễn ra tại Windfield thay vì ở Đại sứ quán. Việc này rất quan trọng, giới truyền thông có quyền được phát sóng trực tiếp từ đầu đến cuối cuộc họp báo, đặc biệt là giới truyền thông ở châu Âu và các kênh vệ tinh ở Arập”.

“Vào lúc mấy giờ?”.

“Anh có thể sắp xếp nó diễn ra vào sáng sớm không?”.

“Không vấn đề gì”, Berns nói. “Tôi có cần phác thảo trước bài diễn văn cho ông không?”.

“Không, tôi có thể tự lo lấy mà không cần bất kỳ văn bản nào cả. Nhưng tôi cần anh giúp một chuyện”.

“Giúp như thế nào ạ?”.

“Anh có thể liên lạc với al- Jazeera được không?”.

Berns khẳng định là anh có thể làm được. Anh đã từng ăn trưa vài lần với Cục trưởng al-Jazeera tại Anh nhằm ngăn đài này phát đi những tin tức có lợi cho al-Qaeda.

“Gọi cho ông ta ngay. Tiết lộ rằng tôi sắp sửa đưa ra một đền nghị với bọn bắt cóc”.

“Đề nghị gì?”.

“Một đề nghị mà chúng không thể nào từ chối được”.

“Tôi có cần phải biết thêm điều gì nữa không, thưa ngài đại sứ?”.

“Tôi sẽ từ chức, Steve à, anh có thể gọi tôi là Bob”.

“Vâng, thưa ngài đại sứ”.

“Halton gác máy rồi đứng dậy đi vào nhà tắm thay quần áo. Giờ đây ông không còn là ngài đại sứ Robert Halton, một nhà ngoại giao Mỹ tuyệt vọng và đau khổ, người mà không còn cách nào khác hơn là đứng nhìn con gái mình bị giết chết. Lại một lần nữa, ông trở về là Robert Carlyle Halton, một tỉ phú và nhà chi phối việc bổ nhiệm các chức vụ quan trọng, ông sẽ giành lại Elizabeth thậm chí phải mất đi những đồng xu cuối cùng.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

73#
 Tác giả| Đăng lúc 23-11-2013 18:37:00 | Chỉ xem của tác giả
Chương 44
Aalborg, Đan Mạch

12 giờ 15 phút chiều thứ sáu.

“Xe đã tới, Allon”.

Lars Mortensen đưa tay chỉ lên bầu trời xám xịt. Gabriel nhìn theo và hướng ánh mắt nhìn chiếc Gulf-Stream V đậu trên đường bay ở phi trường Aalborg. Chỉ cần một cử động nhẹ cũng khiến cho đầu anh đau buốt. Ba vết thương trên đầu anh được bác sĩ Skagen khâu lại 18 mũi, khuôn mặt anh có những vết cắt nhỏ bởi những mảnh vụn của kính xe. Anh đã kịp che đôi mắt mình lại trong vụ nổ kinh hoàng ấy mặc dù anh không nhớ mình đã làm điều đó như thế nào.

Anh nhớ mơ hồ những sự kiện đã diễn ra vào cuối buổi chiều đó. Theo lệnh của bọn bắt cóc, Gabriel phải quẳng điện thoại ở Funen và lái chiếc Audi cà tàng đi xa 3 dặm để kiếm một buồng điện thoại công cộng. Anh đã gọi Carter và Mortensen từ bãi đậu xe của một khu chợ nhỏ ở ngoại ô Skagen, nói với họ chuyện gì đã xảy ra, sau đó Gabriel lái xe trở lại những cồn cát và nhìn căn nhà cháy từ từ trên mặt đất. 20 phút sau Gabriel thấy từ xa còi báo động của cảnh sát và lính cứu hoả chạy tới hiện trường. Một cảnh sát mặc thường phục hỏi Gabriel dồn dập trong lúc một nhân viên cấp cứu lau máu trên mặt anh. Tất cả những gì Gabriel nói là hãy nói chuyện với Mortensen ở PET, anh ấy sẽ giải thích tất cả mọi chuyện.

“Anh có chắc về số người bị chết ở trong căn nhà không?”.

Gabriel hỏi Mortensen.

“Anh đã hỏi tôi 10 lần rồi”.

“Trả lời lại đi”.

“Có”.

“Hai xác chết là của bọn khủng bố và một cái là của người đàn ông lớn tuổi. Không có xác của Elizabeth Halton”. Mortensen im lặng khi chiếc Gulf-Stream V bắt đầu đi xuống đường bay ngang qua nơi họ đang đứng với tiếng gầm rú của động cơ. “Không giống như chuyện của Abraham và Isaac đã xảy ra trong Kinh thánh. Tôi không thể tin dược hắn lại lên kế hoạch để giết cha ruột mình”.

Gabriel nói. “Đó là cách làm của al-Qaeda. Giết bất kỳ ai chống đối lại mình, thậm chí là ruột thịt”.

Khi chiếc Gulf-Stream đã đi đến cuối đường bay và bắt đầu rời mặt đường trải nhựa cất cánh lên không.

“Ông sẽ làm hết khả năng mình để giữ bí mật vai trò của tôi trong vụ này chứ?”, Gabriel nói.

“Mọi chuyện luôn có nguy cơ bị tiết lộ ra bên ngoài, không may rằng anh đã liên lạc với rất nhiều người trong đêm đó. Nhưng cho đến chừng nào tôi còn giữ chức vụ của mình, xem như anh và đội của anh chưa hề đến đây”.

Gabriel kéo áo khoác lên và chìa tay ra. “Vậy thì rất vui vì đã không gặp ông”.

“Tôi cũng vậy”, Mortensen nắm chặt tay Gabriel bằng một cái bắt tay mạnh. “Nhưng lần sau khi anh đến Đan Mạch hãy thông báo cho tôi đầu tiên nhé, chúng ta sẽ ăn trưa. Và ai biết được, có thể tôi và anh sẽ trò chuyện vui vẻ với nhau”.

“Tôi nghĩ chuyện gì cũng có thể xảy ra”, Gabriel bước ra khỏi xe và nhìn chằm chằm Mortensen qua cánh cửa mở. “Tí nữa tôi quên một chuyện”.

“Gì thế?”.

Gabriel kể cho Mortensen về việc anh bị buộc phải bỏ khẩu berette tại điểm dừng cuối cùng ở Funen. Mortensen cau mày và lầm bầm cái gì đó bằng tiếng Đan Mạch trong hơi thở bực dọc.

“Tôi xin lỗi, tôi chỉ chợt nhớ lại thôi”, Gabriel nói.

“Tôi không nghĩa anh đã bỏ hết đạn ra trước khi bỏ nó nó vào thùng rác”.

“Thật ra nó được nạp đầy đạn”.

“Anh nên lên máy bay ngay trước khi tôi thay đổi ý định về việc giữ kín sự tham gia của anh trong vụ này”.

Gabriel cất bước đi qua đường băng hướng về chiếc Gulf-Stream. Cầu thang được hạ xuống, Sarah đứng nghiêng mình ở một bên cửa ở lối đi, tay đút vào túi quần, chân bắt chéo. Carter ngồi ở hàng ghế đầu và đang mải nói chuyện điện thoại. Ông gật đầu ra hiệu cho Gabriel ngồi xuống ghế đối diện và gác máy.

“Đội của tôi đâu?”, Gabriel hỏi.

“Họ âm thầm rút khỏi Copenhagen vào sớm nay và hiểu rõ là phải đến đâu. Tôi cho là họ đang trên đường đến Amsterdam”.

“Còn chúng ta?”

“Nước Anh đã cho phép chúng ta đáp xuống tại sân bay Luân Đôn. Tôi sẽ đến toà đại sứ và chờ cho đến thời hạn. Còn anh sẽ được hộ tống đến sân bay Heathrow. Không cần hỏi thêm lần nữa và tôi nghĩ anh có thể tự biết đường về nhà”.

Gabriel gật đầu chậm rãi.

“Anh rất may mắn đấy, Gabriel, còn tôi sẽ đến Luân Đôn và đối mặt với sự thất bại của mình tại đây đêm qua. Anh không được nhiều người hâm mộ ở Washington trong lúc này đâu. Thực ra đã có rất nhiều người không muốn anh phải khổ sở, trong đó có cả Tổng thống. Còn tôi thì đang trong đống hoang tàn này do anh gây ra”.

“Làm nghề này mà không có tai tiếng thì không phải là người thành công”.

“Câu này của Shakespear à?”.

“Của Shamron”.

Carter cố gượng cười. “Văn phòng được điều khiển bởi một nguyên tắc khác với Cục Tình báo, anh phải chấp nhận đã gây ra lỗi lầm vì lí do cao cả nào đó. Chứ chúng tôi không chấp nhận sự thất bại. Thất bại không phải là sự lựa chọn mong muốn”.

“Nếu đúng là như vậy thì phải bật đèn xanh ở Langley từ lâu rồi chứ?”. Carter nhíu mắt vì ánh mặt trời đột ngột chiếu qua cửa sổ. Ông kéo màn che cửa xuống rồi yên lặng nhìn Gabriel.

“Cô ấy không có ở đó, Adrian. Elizabeth chưa bao giờ có mặt ở đó. Có khả năng con gái ngài đại sứ vẫn còn ở nơi nào đó trong nước Anh. Đó là mánh khoé của bọn Sphinx. Bọn chúng đã dựng hiện trường bỏ xác người đàn ông tôi bắn bị thương tại những cồn cát ở Norfolk để người Anh phát hiện ra. Bọn Sphinx ra lệnh cho Ishaq giữ liên lạc với vợ mình ở Copenhagen, họ biết rằng NSA hay một ai đó có thể nghe trộm được và sẽ liên hệ với hắn. Và khi sự việc diễn ra đúng như vậy thì bọn Sphinx đã chơi trò mèo bắt chuột kéo dài thời gian đến thời hạn. Hắn muốn chúng ta bối rối, chán nản và cấu xé lẫn nhau trong vụ này. Hắn muốn chúng ta nhận ra rằng chỉ còn một cách là thả Thủ lĩnh Abdullah”.

“Mẹ kiếp thằng Thủ lĩnh Abdullah”. Carter nói đầy cay cú. Ông lấy lại bình tĩnh ngay sau đó. “Anh có nghĩ Ibrahim chỉ là một phần không có thực trong chuyện này?”.

“Ibrahim có thật đấy, Adrian. Ibrahim đã đáp lại sự yêu cầu giúp đỡ của chúng ta”.

“Và anh đã để cho ông ta bị giết?”.

“Ông mệt rồi đấy, Adrian. Ông đã lâu không được ngủ. Tôi sẽ cố quên đi những gì ông vừa nói”.

“Anh đúng đấy, Gabriel. Tôi đã không được ngủ”, Carter ngước nhìn đồng hồ.

“Chúng ta còn 7 tiếng nữa cho đến lúc người phụ nữ ấy bị giết, còn gì nữa?”.

Tiếng chuông điện thoại cắt ngang lời nói của Carter. Ông im lặng lắng nghe rồi cúp máy.

“Robert Halton vừa gửi fax lá thư từ chức của ông ta tới Nhà Trắng. Tôi nghĩ ông ta đang chịu một sức ép lớn”.

“Ông sai rồi, Adrian”.

“Vậy anh có lời giải thích nào khác sao?”.

“Ngài đại sứ đang cố gắng cứu mạng sống của con gái mình bằng cách đàm phán trực tiếp với những tên bắt cóc”.

Carter chộp lấy điện thoại và bấm nhanh. Gabriel tựa vào ghế rồi nhắm mắt lại. Đầu anh lại bắt đầu đau. Sắp công diễn một màn kịch hay đây, anh nghĩ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

74#
 Tác giả| Đăng lúc 24-11-2013 19:04:08 | Chỉ xem của tác giả
Chương 45
Paris

Thứ sáu 2 giờ 17 phút chiều

Từ viện nghiên cứu các vấn đề Hồi giáo vòng qua góc đường có một quán cà phê Internet nhỏ. Cà phê, bánh ngọt và thậm chí nhạc jazz tại đây khá tuyệt mặc dù nhạc được phát qua dàn loa dùng cho gia đình. Yusuf Ramadan gọi một tách cà phê có kem và mua suất truy cập internet trong vòng ba mươi phút, sau đó hắn chọn ngồi vào một góc có cửa sổ nhìn ra phía đường. Yusuf gõ địa chỉ trang chủ của BBC, đọc vài bài về sự phát triển của Luân Đôn, nơi mà vị đại sứ Robert Halton vừa mới từ chức và đề nghị hai mươi triệu đô la để con gái ông được tự do. Đài BBC đã bị một cú sốc khi biết tin này, tuy vậy với tên khủng bố người ai Cập – kẻ mà mọi người vẫn gọi là Sphinx – thì điều đó không có gì lạ. Không bàn cãi gì nữa, phi vụ hoàn hảo ở Đan Mạch đã làm tiêu tan ý định chống cự của viên đại sứ này. Giờ đây hắn quyết định tự mình làm vụ này. Với hắn, vụ này dễ như trở bàn tay. Trước đây, Robert Halton từng là một tỉ phú. Mà một tỉ phú ở Colorado không bao giờ để cho con mình phải hy sinh như kiểu vật tế thần cho các chính sách ngoại giao.

Ramadan xem một đoạn video ngắn quay buổi họp báo tại Winfield với sự xuất hiện của đại sứ Robert rồi quay sang trang chủ của các tờ Telegraph, Times và Guardian để xem họ bình luận những gì. Trong mười phút cuối, hắn gõ địa chỉ một trang web có máy chủ đặt tại Karachi – trang này chuyên viết về các vấn đề Hồi giáo và được tổ chức Thanh kiếm Allah quản lí. Dù vậy, nội dung của nó không có gì đáng chú ý, ngay cả các lực lượng an ninh mạng của châu Âu và Hoa Kỳ cũng chẳng thèm để mắt đến. Ramadan đăng nhập vào một phòng tán gẫu ảo với biệt danh DESMOND826. KINKYKEMEL324 đang đợi. Ramadan gõ. “Tao cho là tổ chức nên thương lượng thêm. Họ nên đòi thêm tiền chứ. Dù sao thì gã đại sứ đó cũng là tỉ phú mà”.

KIKYKEMEI324. “Thêm bao nhiêu?”.

DESMOND826. “Ba mươi triệu chắc là được”.

KINKYKEMEL324. “Tao cho rằng cái gã bị áp bức đi theo chủ nghĩa phục quốc cũng nên trả chứ”.

DESMOND826. “Tụi này đã bàn lúc nói chuyện với nhau. Giá chót đó”.

KINKYKEMEL324. “Vậy thì sẽ xong thôi, nhân danh Đấng tối cao, từ bi và độ lượng”.

DESMOND826. “Bậc thầy của ánh sáng công lý”.

KINKYKEMEL324. “Hãy chỉ cho chúng con lối đi chính đạo”.

DESMOND826. “Chúc bình yên, KK”.

KINKYKEMEL324. “Chào nhé”.

Ramadan thoát khỏi phòng tán gẫu, uống hết cốc cà phê kem. Trên loa vang lên bản “Ruby, em yêu” do Coltrane và Monk hát. “Người Mỹ đâu có sâu sắc như mấy gã nghệ sĩ này”, hắn trầm tư. “Nếu được vậy thì thế giới có lẽ đã là một nơi tốt hơn rồi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

75#
 Tác giả| Đăng lúc 24-11-2013 19:12:43 | Chỉ xem của tác giả
Chương 46
Quãng Trường Grosvenor, Luân Đôn

Hai giờ 10 phút chiều thứ sáu

Tổng đài của Đại sứ quán nhận được một cuộc gọi trực tiếp ngay trước khi ngài đại sứ kịp bước qua cửa chính của dinh Wifield. John O’Donnel – chuyên gia đàm phán trong các vụ bắt cóc con tin của FBI – chỉ có thời gian 5 phút để chuẩn bị cho tuyên bố. Anh nhanh chóng tách ban của Trung tâm OPS ra làm hai đội. Một đội chuyên trị mấy gã lang băm hay làm các trò bịp, đội khác thì thực hiện việc nghe lỏm bất kỳ cuộc gọi điện thoại nào nghe có vẻ đáng nghi ngờ. Chính O’Donnel tự phân công cuộc gọi đến các đội khác nhau cho phù hợp. Bây giờ anh cũng làm y như vậy sau khi nghe qua những cuộc đàm thoại, thường là cỡ ba mươi giây chứ không hơn. Bản năng bảo anh rằng không một ai trong số những người anh đã nghe lại có thể là những tên bắt cóc thật sự, ngay cả khi đám người đó được chuyển qua cho đội thứ hai để điều tra thêm. Anh không tiết lộ điều này cho bất kỳ ai trong văn phòng dưới tầng hầm của Đại sứ quán vì những con người này đang quá mệt mỏi rồi.

Hai giờ sau sự xuất hiện của Robert Halton trước ống kính, O’Donnel dùng đường thuê bao riêng gọi vào tổng đài toà đại sứ. “Đang có bao nhiêu cuộc gọi chờ?”.

“Ba mươi tám”, viên trực tổng đài trả lời. “Mà chờ đã… để xem…bốn mươi hai…bốn mươi bốn…bốn mươi bảy”.

“Cứ để họ làm việc”.

O’Donnel gác máy, nhanh chónh xử lí tiếp mười cuộc gọi khác. Anh phân cho đội số một bảy cuộc – nhóm này chuyên xử lí mấy vụ việc kỳ lạ và ba cho đội số hai. Anh nhận thấy rằng không ai trong số mấy người gọi kia có thể là những tên bắt cóc Elizabeth Halton. Anh định nhắc máy gọi tiếp, nhưng đúng lúc đó đường dây riêng của anh lại reo. Bên kia đầu dây là giọng của người trực tổng đài.

“Tôi nghĩ tôi có cái mà anh đang tìm”.

“Máy phân tích giọng nói?”.

“Đúng”.

“Chuyển sang đường dây này sau khi tôi gác máy nhé”.

“Hiểu”.

O’Donnel gác máy. Mười giây sau, chuông điện thoại réo lên, anh nhấc máy, nhẹ nhàng áp sát vào tai.

“John O’Donnel – Cục điều tra liên bang. Tôi giúp gì được cho anh?”

“Tao đã cố gắng liên lạc với mày cả nửa giờ rồi đấy”, giọng nói trong ống nghe đã bị bóp méo.

“Chúng tôi đang cố gắng hết sức, mà hai mươi triệu đang ở trên bàn kia kìa. Nhiều kẻ đang muốn lấy nó mà không biết lượng sức”.

“Tao không phải là không biết lượng sức. Tao chính là người mày phải nói chuyện”.

“CHứng minh đi. Nói tao nghe mày để cái DVD của Elizabeth Halton ở đâu”.

“Tụi tao đặt dưới cái thuyền chèo trên bãi biển chỗ Beacon Point”.

O’Donnel lấy tay bịt đầu nói của ống nghe, khoát tay ra hiệu cho mọi người im lặng rối quay sang Kevin Barnett (người bên CIA) ra hiệu bảo anh ta nhắc máy phụ lên nghe.

“Nếu mày muốn thương lượng, tao không ngại”, O’Donnel nói.

“Nếu không, đừng hòng mà mong tao gọi nữa”.

“Mày có cô gái?”.

“Đúng”.

“Tao cần chứng cứ chắc chắn”.

“Không có thời gian”.

“Vậy tao cần thêm thời gian. Mày chỉ cần trả lời tao một câu hỏi. Chỉ tốn một phút”.

“Một thoáng im lặng. “Hỏi đi”.

“Khi Elizabeth còn nhỏ, con bé có cưng một con thú bông. Tao muốn mày cho tao biết đó là con gì và tên gọi của nó. Tao sẽ cho mày một số điện thoại khác. Gọi lại cho tao khi mày có câu trả lời. Lúc đó ta sẽ bàn cách giao tiền”.

“Phải chắc chắn là mày nhấc máy đấy. Bằng không thì con nhỏ tiêu đời”.

Đầu dây bên kia bất ngời cúp. O’Donnel gác ống nghe và nhìn Barnett.

“Tôi gần như chắc rằng đó chính là hắn”.

“Tạ ơn Chúa”, Barnett nói. “Mong là hắn ta đang giữ con bé”.

o O o

Elizabeth thức dậy bởi một tiếng động. Cô giật nảy mình, người ướt đẫm mồ hôi. Cô ngước nhìn bóng đèn trắng nhờ nhờ bên trên chiếc giường. Lại nằm mơ. Giấc mơ hệt như mấy lần cô vừa lơ mơ chìm vào giấc ngủ trước đó. Mấy tên trùm đầu. Một cái máy quay phim. Một con dao. Cô giở tay áo lên để sờ vào cổ và nhận thấy cổ mình vẫn không sao. Một hồi sau, cô nhìn xuống sàn xi-măng và thấy dòng chữ. Một con mắt đang dò theo cô qua một cái lỗ như để đề phòng cô có thể tìm cách trốn thoát. Con mắt tối tăm và tàn bạo. Con mắt của Cain.

Cô ngồi dậy và duỗi đôi chân đang bị cùm của mình ra sàn rồi đứng dậy lê người về phía cửa. Dòng chữ nằm thẳng đứng, phông chữ đủ to để cô có thể đọc mà không cần cúi xuống để nhặt lên. Là một câu hỏi được viết ra trên giấy như bao lần trước. Nhưng câu hỏi này lại khác hẳn. Cô khẽ trả lời chậm rãi rồi quay lại giường và khóc mãi không thôi. Hy vọng gì nữa, cô tự nhủ. Mày còn dám hy vọng gì nữa.

Chuông điện thoại trên đường dây riêng của John O’Donnel ở Trung tâm OPS vang lên lúc 3 giờ 9 phút. Lúc này, anh chẳng buồn giới thiệu mình là ai.

“Có thông tin tao cần chưa?”

“Cô gái gọi tên nó là gì?

“Đó là con cá voi nhồi bông”.

“Cá”, gã nói. “Con bé gọi con thú đó là cá, chỉ vậy thôi”.

O’Donnel khép mắt, siết chặt nắm tay.

“Trả lời đúng”, anh đáp. “Giờ thì bàn tới vụ giao tiền. Hãy mang cô ấy về nhà đúng lúc Giáng sinh”.

Gã gọi điện có cái giọng bị bóp méo liệt kê các yêu cầu rồi nói. “Tao sẽ gọi lại lúc 5 giờ 59 theo giờ Luân Đôn. Tao muốn nghe câu trả lời ngắn gọn. Có hoặc không. Đơn giản vậy thôi. Mày hiểu ý tao chứ?”

“Hoàn toàn hiểu”.

Gã cúp máy. O’Donnel nhìn sang Kevin Barnett.

“Chúng đang giữ cô ấy”, anh nói. “Và chúng ta thật sự là không còn đường lùi”.

Một chiếc Limousine hiệu Juguar đang đỗ ở mép sân trải nhựa chỗ đường băng khi chiếc Gulff-Stream V của Adrian Carter hạ cánh xuống phi trường thành phố Luân Đôn. Lúc Gabriel, Carter và Sarah bước xuống cầu thang, một bàn tay dài đầy xương xẩu chià ra từ cửa xe phía sau và ra hiệu cho họ tiến về phía đó.

“Graham Seymour”, Gabriel nói. “Đừng nói với tôi là họ điều các vị suốt từ một chặng đường dài đến đây để cho tôi quay về Heathrow đâu đấy”.

“Đúng là chúng tôi đến đây để đưa anh đi”, Seymour đáp. “Nhưng không phải đến Heathrow”.
“Vậy ta đi đâu?”.

Seymour không vội trả lời mà nhìn Gabriel chế giễu. “Cái quái gì xảy ra với anh vậy?”.
“Chuyện dài lắm”.

“Thường là vậy mà”, Seymour nói. “Lên xe đi. Ta không có nhiều thời gian”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

76#
 Tác giả| Đăng lúc 24-11-2013 19:29:16 | Chỉ xem của tác giả
Chương 47
Phố Downing

Bốn giờ 15 phút chiều thứ sáu.

Chiếc xe của Graham Seymour rẽ vào Whitehall, dừng vài giây chỗ mấy cái cổng an ninh trên phố Downing. Ông hạ kính xe xuống, chìa giấy chứng minh ra cho viên sĩ quan cảnh sát thành phố đang đứng quan sát bên ngoài hàng rào. Tay sĩ quan kiểm tra xong ra hiệu cho đồng nghiệp mở cổng. Chiếc Limousine lướt đi vừa được chừng bốn mươi lăm mét thì phải dừng lại lần nữa. Lần này, xe dừng trước cánh cửa nổi tiếng nhất thế giới.

Gabriel bước xuống sau cùng, đi theo mấy người kia vào trong sảnh. Bên trái họ là một lò sưởi nhỏ, cạnh đó là cái ghế bọc da kiểu Si-pê-đan cũ rích dành cho người khuân vác và tay bảo vệ. Phía trái là một chiếc hòm gỗ, loại dành cho du lịch. Cái này hình như được công tước của Wellington mang theo trong trận đánh Waterloo nổi tiếng vào năm 1815. Kia là cái đồng hồ to sụ của Tử tước xứ Whitehaven. Cái đồng hồ này quá ồn ào trong khi ngài Churchill muốn nó báo giờ trong im lặng. Và đây, chính giữa sảnh là một người đàn ông điển trai với làn da tai tái và mái tóc đen điểm vài sợi hoa râm trước trán. Ông tiến về phía Gabriel, thận trọng chìa tay ra bắt. Tay ông ta lạnh ngắt.

“Chào mừng các vị đến phố Downing”, vị Thủ tướng Anh cất lời. “Cảm ơn vì đã đến cho dù chúng tôi báo tin gấp”.

“Xin thứ lỗi thưa ngài Thủ tướng. Mấy ngày qua quả là quá dài”.

“Chúng tôi có nghe về vụ tai nạn bất ngờ của anh tại Đan Mạch. Sự thật cho thấy anh đã bị lừa. Tất cả chúng ta điều bị lừa”.

“Vâng, thưa ngài”.

“Chúng tôi đối xử với các anh thật không phải sau vụ ở công viên Hyde Park, nhưng chính sự xuất hiện của anh trên báo đài đã thuyết phục chúng tôi rằng các anh có thể cứu mạng Elizabeth Halton. Chúng tôi cần đến sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh, anh Allon ạ. Vậy các anh sẵn sàng nghe tôi nói rồi chứ?”.

“Sẵn sàng, thưa ngài”.

Thủ tướng mỉm cười. Một nụ cười máy móc, hệt như đã được lập trình từ trước, Gabriel nghĩ. Nụ cười ấm áp như chiều đông.

Họ đi dọc cầu thang chính, bên trên có treo chân dung của các đời Thủ tướng.

“Hình như đây là lần đầu tiên anh tới phố Downing phải không, anh Allon. Hay biết đâu anh từng có dịp nào vào đây rồi mà không theo con đường chính thức không?”.

“Đây là lần đầu tiên tôi đến đây, thưa ngài Thủ tướng”.

“Tôi đoán là ở đây trông khác với văn phòng thủ tướng trong suy nghĩ của các anh”.

“Quả thật rất trang nhã, thưa ngài. Văn phòng của chúng tôi trông chẳng khác gì mấy cái lán tạm cư”.

“Ta sẽ bàn bạc trong Phòng Trắng”, Thủ tướng nói. “Từ sau cái chết của Henry Campell – Bannerman ở đó vào năm 1908, đến nay chưa ai chọn phòng ấy là nơi từ trần nữa cả”.

Họ bước qua một cái cửa rất cao để vào trong. Mấy cái rèm màu đỏ sậm mang lại cảm giác ấm áp trong khi chùm đèn Waterford treo trên lại toả ra một thứ ánh sáng dìu dịu. Robert Halton ngồi trên cái ghế bành có sọc cạnh phu nhân Eleanor McKenzie. Tổng giám đốc MI5. Đồng sự của bà từ MI6 vẫn đi quanh phòng trong khi đại diện của cảnh sát Trung tâm đứng ở góc phòng, chỉ nghe tiếng thì thào qua điện thoại. Sau màn giới thiệu vội vả, Gabriel được mời ngồi lên cái ghế thứ hai, chỗ này nằm dưới tầm mắt dài dại của bức tượng Chim sơn ca Florence. Một tia lửa bùng lên trong lò sưởi. Ông quản gia mang trà vào. Tuy nhiên không ai ghé môi nhấp thử…

Thủ tướng thả người xuống ghế bành đối diện lò sưởi và chỉnh lại tư thế. Ông nói chậm rãi, như thể đang giải trình về sự bất cập của chính sách kinh tế quan trọng mới được áp dụng. Ông nói là lúc chiều (theo giờ Luân Đôn), ngài đại sứ Halton đã đệ đơn từ chức lên Nhà Trắng và đề nghị hai mươi triệu đô la để giao cho bọn khủng bố đổi lấy sự tự do của con gái ông. Sau đó hai giờ, bọn khủng bố liên lạc với chuyên gia đàm phán các vụ bắt cóc của FBI ở văn phòng đại sứ quán Hoa Kỳ để ngã giá sau khi đưa ra các chứng cứ cho thấy đúng là chúng đang giam giữ cô ấy. Chúng muốn ba mươi triệu thay vì hai mươi triệu như đã báo trước đó. Nếu tiền đến đúng kế hoạch – có nghĩa là không ai giăng bẫy chúng, không ai bị bắt giam – Elizabeth sẽ được phóng thích trong vòng hai mươi bốn giờ.

“Vậy tôi đến đây làm gì?”, Gabriel hỏi dù đã thừa biết câu trả lời.

“Anh là người thông minh, Allon ạ. Tôi mới là người phải hỏi anh chứ?”.

“Tôi đến đây vì họ muốn tôi đi giao tiền”.

“Tôi e rằng đúng như vậy đấy”, Thủ tướng đáp. “Chúng sẽ gọi lại lúc 5 giờ 59 phút để gặp tay chuyên gia thương lượng ở Đại sứ quán. Chúng muốn nghe câu trả lời dứt khoát, có hay không. Nếu câu trả lời là không, Elizabeth sẽ bị giết ngay tức khắc. Còn nếu có, tức là ta đồng ý với mọi yêu cầu của bọn chúng – và cô ấy sẽ được thả trong vòng bốn mươi tám tiếng tính từ lúc này, cộng trừ vài giờ”.

Căn phòng chìm trong sự im lặng đến ngạt thở cho đến khi Adrian Carter cất lời. Adrian là người thay mặt Gabriel trả lời. “Câu trả lời là không”, ông nói. “Đây rõ ràng là một cái bẫy. Tôi có thể nghĩ đến ba trường hợp, chẳng có cái nào dễ nghe cả”

“Chúng tôi đều biết rằng đằng nào cũng có bẫy, ông Carter à”, giám đốc MI6 nói. “Không cần phải xem lại làm gì”.

“Ông đùa với tôi chắc”, Carter nói. “Không phải là một người Mỹ khờ khạo. Cảnh tượng thứ nhất: Gabriel bị giết ngay sau khi trao tiền. Thứ hai: chúng sẽ túm Gabriel mang về, tra tấn dã man sau một thời gian rồi giết. Thứ ba: có vẻ đây là điều có khả năng xảy ra nhiều nhất”.

“Cái gì?”, Thủ tướng nôn nóng.

“Gabriel sẽ thế vào chỗ của Elizabeth. Tổ chức Thanh kiếm Allah sau dó sẽ uy hiếp chính phủ Israel thay vì uy hiếp chính phủ chúng ta, và ta lại quay về bước ban đầu”.

“Có một điều quan trọng”, Graham Seymour tiếp lời. “Đa phần mọi người trên thế giới đều muốn mượn tay Thanh kiếm Allah để giết con người này. Anh ta vừa là dân Israel theo Do Thái giáo, vừa là kẻ chiếm cứ, vừa là kẻ áp bức; trong mắt của không ít người dân châu Âu và thế giới Hồi giáo, cái chết của anh ta rất đáng giá. Vụ giết người này được xem như chiến thắng lớn của bọn khủng bố trong công tác tuyên truyền”.

“Sự hợp tác của anh ấy trong giai đoạn này cũng là quá đủ rồi”, Eleanor McKenzai nói. “Kể cả nếu anh ấy trả lời là có, ta vẫn có thêm hai mươi bốn tiếng để lo cho sự an nguy của cô Halton”.

“Ta đã tìm cô ấy những hai tuần, và bây giờ cho dù có ai khác mon men nhảy vào vụ này thì cũng chẳng đủ để thay đổi gì nhiều”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

77#
 Tác giả| Đăng lúc 24-11-2013 19:30:23 | Chỉ xem của tác giả
Chương 47
(tiếp theo)

Gabriel nhìn sang Robert Halton. Chỉ mới hơn một tuần không gặp mà mặt vị đại sứ đã hằn thêm vài nếp nhăn. Nhìn ông già đi mấy tuổi. Ông Thủ tướng đủ thông minh để không ngồi nói chuyện mà vắng mặt Halton, vì nếu lúc này mà Gabriel nói “không”, thì hành động đó cũng tương ứng với một tội ác dù không nói ra bằng lời. Có thể đó cũng chính là lí do để Thủ tướng mời ông ta tới đây. Bởi nếu nhìn ông ta, Gabriel sẽ không thể từ chối.

“Chúng sẽ còn yêu cầu thêm”, Gabriel nói. “Chúng sẽ yêu cầu tôi đi một mình. Nếu tôi mà có ai đó bám theo, thoả thuận coi như bị huỷ hết và Elizabeth sẽ chết. Ta sẽ phải tôn trọng yêu cầu của bọn này”. Anh nhìn Seymour và Carter. “Không được theo dõi, Hoa kỳ hay Anh cũng thế”.

“Anh không thể dấn vào mà không có ai sau lưng”, vị sếp sở cảnh sát nói.

“Tôi có định làm vậy đâu”, Gabriel đáp. “MI5 và đội chống khủng bố của lực lượng ở Anh sẽ hỗ trợ chúng ta mọi mặt ta cần, tuy nhiên sẽ phải có một đội của Israel có mặt từ đầu đến cuối. Tôi sẽ mang theo bất kỳ ai và bất cứ cái gì vào đó để làm vụ này. Sau này không được kiểm tra, không đòi hỏi gì hết. Nếu ai đó chết hay bị thương trong vụ giải cứu Elizabeth, không được thẩm vấn hay tống giam bất kỳ ai trong đội của tôi”.

“Lạc đề rồi”, Eleanor McKenzai nói.

“Cứ làm như vậy đi”, Thủ tướng tiếp lời.

“Ông mất bao lâu để lo đủ tiền?”.

“Các ngân hàng lớn đều được vào cuộc”, Thủ tướng đáp. “Chiều tối mai là xong. Dĩ nhiên, lần này lượng tiền nhiều quá nên lúc vận chuyển hơi nguy hiểm. Họ nói đó là hai túi đầy ấp”.

Gabriel nhìn từng gương mặt. “Đừng nghĩ đến chuyện đặt thiết bị theo dõi trong mớ tiền đó đấy”.

“Hiểu rồi”, Thủ tướng đáp. “Mai là Giáng sing. Đây chắc chắn không phải là chuyện trùng hợp”.

“Không đâu thưa ngài. Bọn chúng đã chuẩn bị vụ này từ lâu rồi”, Gabriel nhìn vào đồng hồ đeo tay. “Ai đó cho tôi đi nhờ đến Đại sứ quán Hoa Kỳ với? Vài phút nữa sẽ có một cuộc điện thoại. Tôi muốn nghe”.

“Graham sẽ chở anh”, Thủ tướng ra lệnh. “Tôi sẽ phái thêm một đội cảnh sát hộ tống. Giờ này xe cộ ở trung tâm Luân Đôn khiếp lắm”.

Trên tường chỗ văn phòng John O’Donnel treo cái đồng hồ điện tử có mấy con số màu đỏ nhấp nháy trên nền đen. Nhưng Gabriel không quan tâm mà chỉ nhìn chăm chăm vào cái máy điện thoại. Hiện đại thật. Nó có đến hai mươi cổng kết nối kể cả máy phụ 7512 đang nằm đâu đó trong toà nhà. Cái máy con ấy là vật dự phòng của riêng O’Donnel. Giờ đây chúng thuộc về Gabriel cùng với cái ghế và miếng lót nhăn nhúm.

Đồng hồ chỉ đến số 17 giờ 59 phút. Kim giây bắt đầu vòng quay quen thuộc từ số 00 đến số 59. Gabriel không rời mắt khỏi cái máy 7512 có gắn đèn màu xanh lá cây. Chỗ ống nghe có một vết nứt do O’Donnel gây ra lúc nện nó xuống trong một lần nổi nóng. Một phút sau, đồng hồ nhảy sang số 18.00.00. Ai đó thở dài đánh thượt. Rồi đến 18 giờ 1 phút 25 giây, Gabriel nghe rõ ràng ai đó trong đội của O’Donnel bắt đầu sụt sịt. Anh không để lộ sự bi quan của mình cho những người đó thấy. Anh chẳng lạ gì với mấy tên khủng bố tàn bạo thích lấy cái hạn chót chết người ấy ra làm trò tiêu khiển để bỡn cợt đối phương Hoa Kỳ hay Israel của chúng.

Đúng 18 giờ 2 phút 17 giây, chuông reo. Gabriel nhắc máy ngay sau tiếng chuông đầu tiên, cốt không để tiếng chuông gây ra áp lực tâm lý cho những người kia. Anh trả lời bằng thứ tiếng Anh pha giọng Do Thái nhằm mục đích cho bọn kia biết rằng chúng không nhầm.

“Câu trả lời là có”.

“Vậy thì lúc mười giờ tối nay. Tụi tao sẽ hướng dẫn mày sau”.

Trong những tình huống thông thường, một chuyên gia đàm phán như O’Donnel có thể áp dụng kế hoãn binh: rắc rối chỗ gom tiền, khó khăn chỗ xin ý kiến địa phương về việc giao tiền, bất kỳ điều gì nhằm giữ con tin sống sót và làm cho bọn bắt cóc chịu nói chuyện. Nhưng lần này thì không phải là tình huống thông thường nữa – bọn khủng bố muốn Gabriel – và không thể nào trì hoãn thêm nữa. Bắt đầu càng sớm chừng nào thì kết thúc càng sớm chừng ấy.

“Mày sẽ gọi vào số này chứ?”, Gabriel hỏi.

“Đúng”.

“Tao đợi”.

Cụp.

Gabriel đứng dậy, mặc lên người chiếc áo khoác da, đi xuống cầu thang.

“Anh nghĩ là anh đi đâu?”, Carter hỏi.

“Đi khỏi đây”.

“Anh không thể đi”.

“Tôi không ở đây được, Adrian. Tôi có việc”.

“Để chúng tôi chở anh đi. Chúng tôi không thể để anh đi loanh quanh Luân Đôn mà không có ai bảo vệ”.

“Tôi tự lo được mà, Adrian”.

“Ít ra cũng để tôi trang bị cho anh một cây súng chứ”.

“Vậy lính của ông dùng cái gì?”.

“Browning siêu hoả lực. Nó không mềm mại và đẹp mã như khẩu Beretta của anh đâu. Nó khá mạnh đấy. Anh cần mấy băng đạn? Một hay hai?”.

Gabriel nhăn mặt.

“Hai đi nhé”, Carter tiếp. “Và một hộp dự phòng”.

Năm phút sau, vai đeo cái túi mà Carter đưa, cái túi đè mạnh lên phần xương sống bên dưới, Gabriel lẻn ra ngoài qua cổng phía bắc, rẽ vào phố Bayswater. Lề đường dọc theo hàng rào Đại sứ quán đã cấm khách bộ hành và được khoanh vùng bởi mấy viên sĩ quan Sở cảnh sát mặc áo xanh màu vỏ chanh. Gabriel băng qua đường tiến về phía công viên Hyde Park. Anh nhận ra người lái xe máy sau hai phút khi anh rẽ qua góc đường hướng vào công viên. Chiếc môtô hiệu BMW với động cơ cực mạnh được điều khiển bởi một người có đôi chân khá dài đội nón bảo hiểm kín mít. Gabriel chú ý đến chỗ phình ra bên dưới cái áo da – bên trái, người này thuận tay phải. Anh tiếp tục tiến về phía Cổng Đá ở phía bắc rồi lại rẽ sang hướng tây tiến về phố Bayswater. Lúc anh gần tới chỗ cổng Albion, thình lình anh nghe tiếng chiếc môtô BMW rú lên sau lưng. Nó sát bên anh và phanh gấp. Gabriel ngồi lên sau xe, quàng tay qua eo người lái xe. Lúc chiếc xe lao đến, anh nghe thấy giọng một phụ nữ hát. Chiara luôn hát như thế khi lái môtô.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

78#
 Tác giả| Đăng lúc 24-11-2013 19:32:54 | Chỉ xem của tác giả
Chương 48
Kensington, Luân Đôn

Sáu giờ 28 phút chiều thứ sáu.

Chiara lái xe băng băng khoảng mười lăm phút vòng vèo hết ngõ này đến phố kia để cắt đuôi nếu lỡ bị theo dõi, rồi thẳng tiến đến Đại sứ quán Israel toạ lạc tại chỗ toà án cũ trên đường cao tốc Kensington. Shamron đang chờ họ trong văn phòng trạm trưởng, một tay kẹp điếu xì ga Thổ Nhỉ Kỳ, tay kia cầm cây roi làm bằng gỗ ôliu rất đẹp. Trông ông ta đằng đằng sát khí hơn cả mấy năm trước đây.

“Chào Ari”.

“Cậu nghĩ cậu đang chơi trò gì vậy hả?”.

“Sao ông tới nhanh thế?”.

“Tôi rời khỏi Ben-Guiron lúc sáng sau khi nghiên cứu mấy vụ của cậu ở Đan Mạch. Tôi định tới thẳng Heathrow rồi lôi cậu về. Thế mà khi tôi gọi đến tổng đài báo là tôi tới nơi, thì họ cho tôi biết là cậu, vừa rời khỏi phố Downing”.

“Tôi đã cố giấu vài que diêm cho ông châm thuốc hút, nhưng quả thật tôi không khi nào được ở một mình”.

“Cậu nên hỏi ý chúng tôi trước khi đồng ý vụ đó chứ!”.

“Không có thời gian”.

“Có thời gian! Cậu thấy chưa, Gabriel, chỉ cần cậu hỏi tôi vài lời ngắn gọn. Lẽ ra cậu phải hỏi cho rõ ràng việc đảm nhận nhiệm vụ này. Và tôi có thể đã nói với cậu là không. Thế là xong”. Ông dụi điếu thuốc, nhìn Gbriel chằm chằm một lúc lâu mà không nói lời nào. “Nhưng giờ tôi không được lựa chọn để không nghe theo sự sắp xếp. Cậu có tưởng tượng được mấy tay nhà báo sẽ giật tít thế nào không? Cục tình báo Israel chỉ giỏi khoe khoang mà không dám giải cứu người phụ nữ Mỹ. Cậu có cho chúng tôi cơ hội đâu mà lựa với chọn. Buộc phải làm thôi. Nhưng đó chính xác là những gì cậu muốn, phải không? Xem ra cậu cũng là một thằng khốn ma mãnh”.

“Tôi học từ người thầy của tôi mà”. Gabriel đùa.

Shamron kẹp điếu xì gà khác lên môi rồi bật chiếc hộp quẹt zippo đã khá cũ và châm lửa. “Tôi đã im lặng khi cậu trở về từ Amsterdam để bắt cóc và thẩm vấn Ibrahim Fawaz. Tôi cũng im lặng khi cậu tới Copenhagen để tra khảo và đàm phán với thằng con của hắn. Nếu tôi tuân thủ nguyên tắc đầu tiên của mình, tức là tôi dẫn cậu về, thì chuyện này đâu có xảy ra. Cậu không có quyền đồng ý về phần việc này mà không có sự cho phép của sếp và Thủ tướng của cậu. Nếu đó là ai khác chứ không phải là cậu, Tôi đã túm hắn và ném vào Judean Wilderness để hắn thú nhận hết mọi tội lỗi”.

“Ông có thể làm chuyện đó khi tôi về nhà mà”.

“Cậu sẽ về nhà trong một cái hòm. Có thể lắm chứ. Cậu không cần phải ôm bom tự sát để tránh được thăng chức làm sếp đâu, Gabriel à. Nếu cậu không muốn làm sếp thì chỉ cần nói không”.

“Tôi không muốn làm sếp”.

“Tôi biết là cậu không thực sự muốn như vậy”.

“Chúa ơi, ông nói ngày càng giống với Đức mẹ rồi đó”.

“Những bằng chứng mà cậu đưa cho tôi nhiều quá mức cần thiết rồi đó. Điều đó cho thấy là cậu không muốn dính vào vụ này. Bằng trò lừa gạt, cậu sẽ tiến hành chiến tranh – chúng tôi tin là vậy. Chúng ta không phải là những kẻ tử vì đạo, Gabriel ạ. Chúng ta dành riêng các vụ đánh bom liều chết cho Hamas. Bọn Hồi giáo suốt ngày chúng chỉ mong tiêu diệt chúng ta. Chúng ta phải ra tay bất ngờ, di chuyển trong bóng tối và biến mất trong không trung. Cậu là một cá nhân xuất chúng, cậu xứng đáng là người dẫn đầu của cái nhóm nhỏ đó”.

“Giờ ta làm gì với vụ Elizabeth Halton đây? Để cô ta chết hay sao?”.

“Nếu đó là cách duy nhất để kết thúc màn kịch điên khùng này thì câu trả lời là đúng vậy”.

“Nếu đó là Ronit, con ông, thì sao?”.

“Đành bắt tay với ác quỷ để mang con về vậy. Nhưng tôi không cần người Mỹ nhúng tay vào. Xanh và trắng, Gabriel ạ. Xanh và trắng. Việc của chúng ta thì chúng ta lo, và chúng ta không chĩa vào việc của người khác. Từ xưa, bọn người Mỹ đã chung số phận với một số kẻ độc tài của vùng Trung Đông, giờ lại giở trò báo thù ra để khoe khoang sức mạnh quốc gia. Còn nhớ vụ 11 tháng 9 và cả Lầu Năm Góc chứ. Giờ thì đến cô con gái ngây thơ của ngài đại sứ Hoa Kỳ tại Luân Đôn”.

“Tiếp theo sẽ là chúng ta”.

“Và ta sẽ chiến đấu một mình chống lại bọn chúng”. Shamron nở một nụ cười xa xăm. “Tôi vẫn nhớ một thằng nhóc trở về từ châu Âu năm 1975; cậu bé trông phải già hơn tuổi thật đến hai mươi tuổi chứ chẳng ít. Cậu bé ấy không muốn gì ngoài một cuộc đời tăm tối toàn chém và giết. Điều gì đã xảy ra vậy?”.

“Nó trưởng thành, Ari ạ. Và nó sẽ bị ốm mà chết vì điều vớ vẩn mà ông nói đấy. Và nó sẽ không để người phụ nữ này bị giết vì người Mỹ đã từ chối thả một gã thủ lĩnh đang hấp hối”.

“Và rồi nó cũng chết vì chuyện này luôn đấy hả?”, Ông nhìn sang Chiara. “Có phải cậu sẵn sàng từ bỏ cuộc sống cậu đang có với một cô gái xinh đẹp để giải cứu cho ai đó mà mình không hề biết tông tích?”.

“Tin tôi đi, Ari. Tôi không tử vì đạo đâu. Kẻ sắp phải bỏ mạng đó không ai khác hơn là bọn khủng bố. Lúc ta để mất Ibrahim cũng là lúc ta mất manh mối. Giờ chúng đòi tôi đi giao tiền nghĩa là chúng lại mở cho ta một cánh cửa để tìm chúng. Và chúng ta sẽ cùng nhau đi qua cánh cửa đó”.

“Cậu nói với tôi rằng tôi nên nghĩ về cậu không hơn là một gã chuyên đào tường khoét vách?”.

Gabriel gật đầu. “Lúc chúng chuyển tiền sẽ là lúc chúng bộc lộ cách chúng tổ chức và phương tiện thông tin liên lạc. Nếu bọn chúng tóm tôi luôn, chúng sẽ bị lộ nơi ẩn nấp mà từ đó ta sẽ nắm được tên và số điện thoại của mấy chỗ đó. Người Mỹ đã đồng ý giao cho chúng ta vụ này. Ta sẽ chiến đấu chống lại chúng, Ari ạ, ngay trên đất Anh, cũng giống như khi ta tìm thấy bọn chúng vậy. Ta sẽ kết liễu bọn chúng và mang con gái về cho bố cô ấy trong bình an”. Gabriel ngưng một lát rồi tiếp. “Sau đó có thể họ sẽ thôi đổ tội cho chúng ta về mấy vụ rắc rối này”.

“Tôi khong cần quan tâm đến việc họ nói cái quái gì. Tôi coi cậu như con trai, Gabriel ạ, tôi không thể để họ lôi cậu đi đâu. Không phải là bây giờ”.

“Ông sẽ không để như vậy đâu”.

Shamron bỗng cảm thấy mệt mỏi vì phải đương đầu với quá nhiều chuyện. Gabriel lợi dụng lúc ông im lặng để dẹp chuyện này sang một bên và lảng đi chuyện khác”.

“Mấy người còn lại của nhóm tôi đâu rồi?”.

“Về lại Amsterdam sau chuyến công tác thất bại ở Đan Mạch rồi”, Shamron trả lời. “Nhưng họ lại có thể xuất hiện ở đây vào sáng ngày mai”.

“Tôi sẽ cần Mikhail, vũ trang đầy đủ”.

Shamron mỉm cười. “Gabriel và Mikhail – Thiên sứ của bóng tối và thiên thần của sự đổ nát. Nếu hai cậu mà còn không làm được gì thì chẳng có ai có thể lo nổi đâu”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

79#
 Tác giả| Đăng lúc 24-11-2013 19:34:00 | Chỉ xem của tác giả
Chương 48
(tiếp theo)

“Vậy thì cầu chúc cho tôi bình an đi chứ?”.

“Chỉ cầu nguyện thôi nhé”, ông ta đáp. “Đi ngủ lấy sức đi con trai. Cần phải ngủ đấy. Ta sẽ tập trung tại đây lúc chín giờ và bàn luôn. Hy vọng là ta không bàn tính đến kế hoạch làm đám ma”.

Căn nhà trên phố Bayswater chính là nơi anh đã rời đi vào buổi sáng xảy ra vụ tấn công. Cốc cà phê uống dỡ vẫn còn nằm trên bàn, cạnh tập bản đồ Luân Đôn từ A đến Z. Tập bản đồ vẫn đang mở trang 82. Trong phòng ngủ quần áo anh vương vãi, chứng cứ của việc anh đang vội vàng mặc đồ thì cuộc tấn công xảy ra. Quyển ghi chú của Samir al-Masri với mấy cái đỉnh núi, đụn cát và nhằng nhịt những đường đẳng tích nằm cạnh chiếc giường bề bộn, trên giường là một cô gái tóc nâu vô cùng gợi cảm. Một khẩu Beretta thòi ra chỗ mặt trước của cái quần jeans bạc phếch. Anh lấy khẩu súng ra và đặt tay lên bụng cô gái đó.

“Sao anh làm vậy?”.

“Vì ham muốn không thể cưỡng lại là được chạm vào những gì đẹp tuyệt trần”.

“Anh biết em muốn hỏi anh điều gì mà, Gabriel. Tại sao anh lại đồng ý với yêu cầu của bọn khủng bố?”.

Gabriel im lặng, nhẹ nhàng kéo dây khoá quần jeans của Chiara. Chiara gạt tay Gabriel ra rồi chồm đến trước mặt anh. Anh co lại khi nàng chạm phải anh. Da thịt anh giật giật.

“Vì Dani phải không? Anh đã biết cảm giác của một người cha khi một đứa con của mình rơi vào tay bọn khủng bố rồi. Anh biết là những chuyện như vậy làm cho anh càng thêm chán ghét và giận dữ bản thân mà”, nàng vuốt mấy cọng tóc màu khói loà xoà trước trán anh. “Ai cũng nghĩ là chính Leah đã làm anh phát điên. Họ đâu biết anh đã mất một đứa con. Dani đang điều khiển anh, và cũng chính Dani kéo anh vào cái vụ quái gỡ này”.

“Chẳng có gì là quái gỡ hết”.

“Có phải em là người duy nhất nghĩ đến khả năng bọn khủng bố sẽ không thả Elizabeth mà chúng sẽ lấy tiền của ông đại sứ Halton rồi thủ tiêu cô ấy luôn không?”.

“Không”, Gabriel đáp. “Đó chính xác là những gì sắp diễn ra”.

“Vậy tại sao ta lại nhận vụ này? Chỉ tổ phí sức”.

“Vì đây là cách duy nhất để cứu cô ta. Chúng sẽ không giết cô ta tại một cái phòng giam nào đó mà người ta không thể nhìn thấy. Chúng bắt Elizabeth nhằm một âm mưu khủng bố lớn hơn nhiều. Việc giết cô gái này chỉ là một phần của âm mưu ấy”, anh ngưng một lát. “Và cô ấy cùng chung số phận với anh”.

“Ta có phải là những kẻ tử vì đạo đâu”, nàng nhắc lại lời Shamron. “Chúng ta để mấy vụ đánh bom tự sát cho Hamas thực hiện và cả những tên Hồi giáo điên khùng ấy. Chúng chỉ chực giết ta thôi”.

Gabriel kéo mạnh dây khoá quần jeans của nàng. Một lần nữa, nàng gạt tay anh ra.

“Anh thích làm việc với Sarah lần nữa chứ?”.

“Cô ta làm việc tốt hơn cả mong đợi của anh”.

“Phải mà. Anh huấn luyện cô ta. Cô ta tốt là phải”.

Chiara im bặt.

“Có phải đó là điều em muốn biết?”

“Vậy thì ai đã có ý tưởng cho cô ta làm chung vụ này với anh?”.

“Là ý của Carter. Cũng chẳng phải là ý, mà là lệnh. Họ muốn một đội chỉ cần những người Mỹ”.

“Ông ta chọn người khác cũng được chứ sao?” cô ngắt lời. “Ai mà vô tình đến mức không yêu anh cơ chứ”.

“Em nói cái gì vậy?”.

“Cô ta yêu anh, Gabriel ạ. Sau vụ al-Baraki ai cũng biết chuyện này. Ai cũng biết, trừ anh. Vậy đó. Những chuyện thế này sao anh không nhạy cảm một chút chứ”, nàng nhìn anh trong bóng tối. “Có thể anh cũng thầm yêu cô ta mất rồi. Chắc là ngày mai anh muốn Sarah dõi theo anh chứ không phải là em”.

Lần thứ ba nỗ lực kéo cái khoá quần jeans không vấp phải sự phản đối như hai lần trước. Cái áo len cũng vậy. Chiara tự cởi áo lót ra rồi kéo tay Gabriel về phía ngực mình.

“Sự mật thiết giữa các nhân viên Văn phòng là tuyệt đối cấm đấy nhé”, nàng nói trong lúc hôn anh.

“Anh biết mà”.

“Anh sẽ là một ông sếp tồi”.

Anh định nói gì đó thì cái đèn xanh trên điện thoại nhấp nháy. Gabriel định nghe máy nhưng Chiara nắm tay anh lại.

“Nếu đó là sếp lớn thì sao?”, anh hỏi.

Nàng rướn người lên. “Giờ em là sếp lớn đây”.

Nàng nhấn môi mình vào môi anh. Cái đèn xanh vẫn cứ nháy.

“Cưới em anh nhé”.

“Anh sẽ cưới”.

“Bây giờ kia, Gabriel. Bây giờ”.

“Anh sẽ cưới em mà”.

“Đừng chết tối mai anh nhé”.

“Anh sẽ không chết”.

“Anh hứa đi”.

“Anh hứa”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

80#
 Tác giả| Đăng lúc 24-11-2013 20:12:21 | Chỉ xem của tác giả
Chương 49
Bayswater, Luân Đôn

Bảy giờ 15 phút sáng thứ bảy.

Gabriel choàng tỉnh, cảm giác như mình đã ngủ một giấc dài cả thế kỉ. Anh liếc nhìn qua cái đồng hồ báo thức rồi nhìn sang Chiara. Nàng nằm lẫn trong mớ chăn màn cạnh anh hệt như bức tượng Hy Lạp ngã vật khỏi chân đế. Anh nhẹ nhàng tuột khỏi giường, bật đài lên nghe trong lúc pha cà phê. Đài BBC thông báo rằng chưa có thông tin trả lời của ông đại sứ Halton về lời đề nghị tiền chuộc, và rằng cũng chưa có tin tức gì về số phận của cô gái bị bắt cóc. Người dân Luân Đôn cũng được cảnh báo về tình hình an ninh của thành phố. Sẽ có cảnh sát canh gác kiểm tra dày đặc trên các tuyến phố mua sắm chính cũng như trên tàu điện ngầm và các nhà ga. Mãi đến bản tin thời tiết, Gabriel mới có được chút thoải mái. Đài dự báo sẽ có mưa rào nhẹ rải rác và trời quang mây.

Anh uống xong cốc đầu tiên và như thường lệ, anh vào phòng tắm, dành chút ít thời gian để nước từ vòi sen xả xuống người. Mấy vết xước trên mặt làm cho anh chẳng thể cạo được râu. Vài ngày nay anh thấy mình ưa nhìn hơn vì hai bên má của anh hơi phình ra thì phải. Chiara vò đầu lúc anh bước vào phòng ngủ rồi kéo anh vào giường. Nửa tỉnh nửa mơ, Chiara và anh lại yêu nhau lần cuối trước khi anh bước vào ngày phán quyết.

Cả hai rời nhà lúc chín giờ kém mười và chở nhau trên chiếc môtô BMW của Chiara. Hoá ra cơn mưa mà bản tin thời tiết đã dự báo vẫn chưa đến, mà đường phố cũng không có cái vẻ hối hả tấp nập thường thấy vào mùa mua sắm Giáng sinh. Hai người phóng xuống đường Bayster thẳng tiến đến đồi Notting rồi vòng theo phố nhà thờ Kensington để đến chỗ toà án cũ. Một nhóm biểu tình nho nhỏ đang tụ tập trước đại sứ quán; nhóm này cầm cờ Israel mà vẫy – các lá cờ có vẽ thêm các dấu thập ngoặc – và la to cái gì đó, nghe như có Do Thái rồi cả Đức quốc xã nữa. Gabriel và Chiara lẫn vào trong qua cánh cổng đang mở rồi biến mất.

Mọi người trong nhóm cũ đã đến đông đủ, đang tụ lại trong phòng họp lớn nhất của đại sứ quán. Cả nhóm y hệt như đám dân tị nạn đang tránh bão. Mọi người đã tới - cả bộ phận ở trạm đóng tại Luân Đôn và các nhóm nhỏ rải rác khắp nơi ở châu Âu cũng đã tề tựu đông đủ. Uzi Navot mang theo cả nửa tá đặc vụ cùng đến từ đại lộ King Saul. Gabriel thầm nghĩ đây có thể là chiến dịch quy mô nhất và quan trọng nhất từng diễn ra trên châu lục này. Tuy thế họ chưa biết phải làm gì để chiến dịch này thành công.

Shamron hôm nay mặc quần kaki và áo khoác da bó sát đang ngồi chỗ bàn họp. Gabriel ngồi xuống bên cạnh ông, họ cứ thế nhìn nhau một lúc lâu. Mãi một lúc sau Shamron mới nặng nề đứng dậy, gọi cả phòng tập trung.

“Mười giờ tối nay, Gabriel sẽ lên đường tiến vào địa ngục”, ông dõng dạc. “Nhiệm vụ của các anh là phải bảo đảm rằng anh chàng này sẽ lại quay trở ra còn mọi người khác phải sống sót. Tôi cần nghe ý kiến. Dù ý kiến đó của một người mới học việc cũng đáng để ta xem xét”.

Shamron ngồi xuống để mọi người tự nhiên. Các thành viên lập tức bắt chuyện ngay sau khi Shamron dứt lời. Gabriel hất đầu về phía sau, cười vang. Thấy sung sướng khi lại được vè nhà.

Mọi người làm việc hết cả buổi sáng, chỉ nghỉ một lúc để ăn trưa rồi lại tiếp tục hết buổi chiều. 5 giờ 30, Gabriel dẫn Chiara vào một căn phòng trống rồi hôn nàng lần cuối. Lát sau, vì lo ngại mình sẽ diễn một cảnh ngớ ngẩn trước mặt Shamron, anh chuồn khỏi Đại sứ quán. Gabriel băng qua các con phố trong khu Kensington tiến về Mayfair. Lúc rảo bước qua công viên Hyde Park, anh dừng lại một chút đúng chỗ ấy. Tại vị trí này buổi sáng hôm xảy ra vụ tấn công và thấy xác nạn nhận Chris Petty, nhân viên an ninh ngoại giao Mỹ. Cách đó vài bước là một bó hoa héo rũ được cắm xuống đất và một mẫu tin nhắn ghi trên giấy thô cứng. Tin nhắn ghi vài lời biết ơn những người Mỹ đã chết. Đó là nơi Samir al-Masri đã chết trước họng súng của Gabriel, là nơi đài tưởng niệm thứ hai được dựng lên cho những người tử vì đạo tại công viên Hyde Park. Cái tên mà những kẻ ủng hộ bọn chúng tại Luân Đôn đã tôn vinh. Các nền văn minh giằng co nhau chỉ trong vài mét vuông giữa lòng thành phố.

Anh băng qua bãi cỏ góc công viên rồi rẽ vào phố Suối Nguồn. Adrian Carter đang đứng cạnh khu bảo tồn sinh vật biển chỗ cổng Bắc, miệng không ngừng bập bập vào cái tẩu. Carter chào Gabriel như thể ngạc nhiên lắm khi thấy anh đến đây vậy, sau đó nắm tay Gabriel dẫn vào trong.

Hai túi tiền đang nằm trên tầng thượng chỗ văn phòng ngài đại sứ Halton. Một toán đặc vụ của DS nhận canh gác số tiền trên. Gabriel nhìn mặt từng người, quay sang Carter.

“Không mật hiệu gì hết, đúng không, Adrian?”.

“Không có”.

“Ông đem cho tôi xe gì vậy?”.

“Một chhiếc Vauxhall Vectra xám đen và ít hao xăng nhé”.

“Nó đâu?”.

“Ở phố Suối Nguồn”.

“Hai cái bao có bỏ vừa cốp xe không?”.

“Vừa. Chúng tôi kiểm tra rồi”.

“Vậy cho tiền vào đi chứ”.

Carter nhíu mày. “Tôi không biết anh thì sao nhưng tôi không bao giờ để ví của mình trong xe, chứ đừng nói đến ba mươi triệu đô la tiền mặt”.

“Quanh Đại sứ quán lúc này toàn cảnh sát”, Gabriel nói. “Không có tên ăn cắp nào dại dột đến mức đi đánh quả mấy chiếc xe đâu”.

Carter gật đầu với mấy tay nhân viên đặc vụ của DS. Lát sau hai cái túi bốc hơi.

“Adrian, tôi muốn có vài lời riêng với ông đại sứ”.

Caretrr há hốc mồm, tỏ ý phản đối. “Tôi qua chỗ trung tâm điều hành chiến dịch đây. Và đừng có đến muộn, Gabriel nhé. Chuyến này không có cậu là không thành trò trống gì đâu”.

Nội dung cuộc trò chuyện của Gabriel và vị đại sứ không bao giờ được tiết lộ. Nó không tồn tại trong bất kỳ cuốn băng ghi âm nào, cả dạng hồ sơ mật hay công khai cũng vậy. Họ nói chuyện không quá một phút. Các nhân viên DS đứng gác bên ngoài kể lại rằng lúc tiến về trung tâm điều hành chiến dịch, mắt Gabriel ươn ướt nhưng đầy quyết tâm. Lần này bọn khủng bố không để anh phải đợi lâu. Đồng hồ chỗ John O’Donnel chỉ 20 giờ 14 giây thì chuông điện thoại reo vang. Gabriel chụp ngay lấy điện thoại như thể anh vui mừng vì suốt cuộc đời chưa bao giờ được dùng nó. Giọng anh lúc đó vô cùng điềm tĩnh, cách nói chuyện của anh lúc nghe chỉ dẫn của bọn chúng hệt như viên sĩ quan cảnh sát đang ghi nhận hiện trường một vụ tai nạn giao thông. Anh không hỏi bọn chúng câu nào, trên mặt anh không có biểu hiện gì khác ngoài sự căm phẫn hằn sâu. Lúc 20 giờ 57 giây, người ta nghe anh lầm bầm với bọn khủng bố. “Tao sẽ tới đó”. Anh gác máy, đứng dậy, khoác áo và đi xuống cầu thang. Lần này Carter không cản anh như hôm trước nữa.

Anh dừng một chút chỗ phòng kính ở tầng một để cài tai nghe siêu nhỏ và gắn cái micro bé tí vào cổ họng. Xong xuôi, anh gật đầu chào người gác cửa rồi đi ra chỗ sân Đại sứ quán qua cổng Bắc. Chiếc ôtô Carter mang đến đậu ngay chỗ có bảng cấm đỗ xe góc phố Bắc Audley. Chì khoá xe đang nằm gọn trong túi Gabriel, cả bộ thiết bị định vị vệ tinh GPS bé bằng đồng năm xu. Anh mở cốp xe kiểm tra nhanh hai túi tiền trước khi gắn máy GPS vào phía dưới đèn sau rồi ngồi vào tay lái và khởi động máy. Lát sau anh rẽ vào phố Oxford và tò mò nhìn dòng người đi mua sắm. Nhóm quan sát của Carter đi theo Gabriel đến tận phố Albany. Họ chụp được tấm hình cuối trước khi anh rẽ và đi về hướng Bắc. Họ mất liên lạc với anh từ đó. Với cả người Mỹ và người Anh, Gabriel đã mất hút trên màn hình rađa.

Tuy nhiên, điều đó không xảy ra tại đại sứ quán Israel khu Kensington này. Đây có thể là một trong những sự trùng hợp kỳ lạ khi một nhóm tín đồ thiên Chúa giáo có thiện chí đã chọn đêm đó là đêm cầu nguyện vì hoà bình trên vùng đất thánh. Bên trong toà nhà, Ari Shamron và Uzi Navot cũng đang cầu nguyện. Họ cầu nguyện sự bình yên không chỉ trong ngày lễ mà còn cho cả gia đình nữa. Họ ngồi quanh cái bàn ám khói trong phòng điều hành chỉ đạo các nhóm vào chỗ này chỗ kia. Mấy cái đèn xanh nhấp nháy dọc theo rìa phía đông công viên Regant góc hướng về Hampstead.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách