Quên mật khẩu
 Đăng ký
Tìm
Event Fshare

Tác giả: alice2000phuong
In Chủ đề trước Tiếp theo
Thu gọn cột thông tin

[Trinh Thám - Xuất Bản] Kẻ Phụng Sự Thầm Lặng | Daniel Silva (Hoàn)

[Lấy địa chỉ]
81#
 Tác giả| Đăng lúc 24-11-2013 20:15:58 | Chỉ xem của tác giả
Chương 50
Hampstead Heath

10 giờ 15 phút đêm Giáng sinh.

Anh đỗ xe vào nơi hướng dẫn, trên đường Constantine ở mũi phía nam khu Hampstead Heath. Không có xe cộ nào khác lưu thông trên đường, và khi đến nơi, Gabriel không thấy dấu hiệu theo dõi nào, cho dù là phe ta hay phe địch. Anh tắt máy, nhấn nút mở ngăn chứa đồ bên trong xe, rồi mở bảng điều khiển bỏ chìa khoá vào trong. Mưa bắt đầu nhẹ hạt. Khi bước ra khỏi xe, anh tự trách sao mình lại không mang theo mũ.

Anh bước ra sau xe mở túi đựng đồ. Khi đang cố vươn người đến chiếc túi, anh nghe có tiếng ồn ào sau lưng, anh quay người lại thì thấy một đám trẻ trong dàn đồng ca vui vẻ tiến về chỗ anh. Có điều gì đó không bình thường, anh tự hỏi đó có phải là những kẻ theo dõi của Sphinx hay không, nhưng anh nhanh chóng gạt suy nghĩ đó khi chúng hát tặng anh bài hát mừng giáng sinh rồi diễu hành qua chỗ anh một cách vui vẻ. Anh đặt chiếc túi thứ hai lên đường rồi đóng cốp xe lại. Những đứa trẻ trong dàn đồng ca đang hát bài “O Come All Ye Faithful” bên ngoài một ngôi nhà gạch nhỏ treo đầy đèn lễ. Một bảng nhỏ trên cửa sổ ghi dòng chữ. HÃY CHO CHÚNG TÔI SỰ YÊN BÌNH TRONG ĐỜI.

Gabriel kéo hai chiếc túi đi vài thước dọc con phố, rồi băng qua một chiếc cầu, đi bộ tiếp qua một loạt những thanh ray đường sắt đã bị chìm dưới nước để vào bãi hoang. Bên phải anh là một con đường tối đen như mực. Trên chỗ nghỉ chân bên ngoài cánh cổng đã móc khoá, bốn người thanh niên nhập cư khoảng 20 tuổi đang đá bóng dưới ánh sáng vàng vọt của chiếc đèn natri. Họ dường như chẳng thèm để ý đến hành động của Gabriel khi anh lê bước chân mệt mỏi qua chỗ họ rồi lên dốc đồi, đến cái ghế đá mà bọ chúng đã bảo anh đợi người liên lạc tiếp theo. Anh bước đến chiếc ghế và thấy một người đàn ông nhỏ thó mặc chiếc áo khoác đã sờn và có hàm râu bện lại đang ngồi đó mất rồi. Ông ta nói giọng miền Đông Luân Đôn và đầy hơi men.

“Chúc mừng Giáng sinh nhé, anh bạn. Anh cần gì?”.

“Ông có thể rời khỏi cái ghế được không?”.

“Tối nay nó là của tôi mà”.

“Không còn là của ông nữa đâu”, Gabriel nói. “Xuống đi”.

“Xéo”.

Gabriel rút khẩu Browning của Adrian Carter rồi chĩa vào đầu ông ta. “Ông hãy biến khỏi đây và quên chuyện đã gặp tôi. Hiểu không?”.

“Rõ như ban ngày”.

Người đàn ông nhanh chóng đứng dậy biến vào màn đêm khu Heath. Gabriel lấy tay dò phía sau và bên dưới ghế, anh tìm thấy một chiếc điện thoại di động gắn ở phía dưới, bên trái ghế ngồi. Anh nhanh chóng tháo pin và tìm xem có thiết bị nổ nào được giấu trong điện thoại không. Sau đó nối pin lại rồi nhấn nút POWER. Khi điện thoại hoạt động trở lại, anh nói khẽ vào micro trong cổ họng.

“Nokia E50”.

“Số mấy?”, Uzi Navot hỏi.

Gabriel lặp lại.

“Có cuộc gọi gần đây không?”.

“Danh sách cuộc gọi không có gì”.

“Có tin nhắn không?”.

“Không”.

Gabriel nhìn xuống những ánh đèn của Luân Đôn rồi chờ chiếc điện thoại reo. Mười lăm phút sau, anh nghe một bản Adhan chói tai, bài cầu nguyện của người Hồi giáo. Anh tắt nó bằng cách bấm một nút rồi đưa điện thoại lên tai nghe. Chúng chỉ mất ba mươi giây để đưa ra một loạt chỉ dẫn kế tiếp. Gabriel bỏ điện thoại vào cái thùng rác cạnh chiếc ghế, sau đó xách hai cái túi rồi bắt đầu bước đi.

Tại trung tâm chỉ huy tạm thời bên trong Đại sứ quán Israel, Uzi Navot đặt tay cầm của chiếc đài an ninh xuống rồi chụp lấy ống nghe điện thoại. Anh nhanh chóng quay số gọi dinh Thames, Tổng hành dinh cạnh bờ sông của MI5 và 10 giây sau đã nghe tiếng Graham Seymour.

Seymour hỏi. “Giờ anh ta ở đâu?”.

“Đang đi ngang qua Hampstead Heath đến khu vực Highgat. Chúng vừa bảo anh ta rằng nếu có thiết vô tuyến hay vũ khí gì ở chặng dừng kế tiếp, Elizabeth Halton sẽ bị giết ngay. Vài giây nữa, anh ta sẽ rời khỏi tầm liên lạc của sóng điện thoại”.

“Chúng tôi phải làm gì?”.

“Truy tìm số điện thoại”.

“Cho chúng tôi tất cả những thông tin anh có”.

Navot đưa cho Seymour sơ đồ và số điện thoại.

“Tôi cho rằng chúng không ngu ngốc đến độ để lại thông tin trong phần lưu các cuộc gọi”.

“Điện thoại đó không có số nào, Graham”.

“Chúng ta sẽ cho chương trình chạy rồi xem có tìm được gì không. Tuy nhiên tôi không có nhiều hy vọng. Không may là không thiếu những tên thánh chiến trong ngành viễn thông của chúng ta. Chúng cực kỳ thông minh khi phải che đậy dấu vết bằng điện thoại”.

“Hãy cho chúng tôi bất cứ thứ gì ông tìm được”.

Navot dập điện thoại, cầm tai nghe máy vô tuyến trở lại. Anh làu bàu vài tiếng bằng thứ ngôn ngữ Hebew cụt ngủn rồi nhìn Shamron đang đi trong phòng, dựa người vào chiếc gậy.

“Anh đang phí thời gian bằng cách tra cứu chiếc điện thoại đó, Uzi. Thay vào đó anh nên đuổi theo những tên theo dõi”.

“Tôi biết mà sếp. Nhưng những tên theo dõi ở đâu ra?”.

Shamron dừng lại trước màn hình máy tính, nhìn vào hình ảnh bốn thanh niên đang chơi đá bóng bên ngoài đường chạy Hampstead Heath.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

82#
 Tác giả| Đăng lúc 24-11-2013 20:17:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 50
(tiếp theo)

“Ít nhất một tên trong bọn chúng ở trước mặt anh đấy, Uzi”.

“Chúng ta đã theo dõi chúng từ trước khi Gabriel đến. Không có điện thoại. Không nhắn tin. Chỉ có bóng đá”.

“Thế thì anh nên giả định đó là những gì Sphinx bảo hắn ta phải làm”, Shamron nói. “Đó là cách mà trong trường hợp đó, tôi sẽ làm – một tín hiệu hữu hình, theo kiểu bài bản trường lớp. Nếu Gabriel sạch, cứ việc chơi bóng. Nếu Gabriel đang có người theo, hãy tranh cãi nhau. Nếu Gabriel có máy vô tuyến, hãy hút điếu thuốc nghĩ ngơi cái đã”. Shamron chúi người vào màn hình. “Như anh chàng đang làm ngoài kia ấy”.

“Ông nghĩ một trong số đó là kẻ chỉ điểm sao?”.

“Tôi đánh cược mạng sống của mình đó, Uzi”.

“Điều đó có nghĩa là có ngừơi nào khác trong khu vực có thể nhìn thấy anh ta – người nào có mang theo điện thoại di động hay máy nhắn tin hai chiều”.

“Chính xác”, Shamron nói. “Tuy nhiên anh sẽ không bao giờ tìm thấy hắn. Giờ hắn đã biến mất. Phương án duy nhất của anh là theo dõi tên chỉ điểm”.

Navot nhìn vào màn hình. “Tôi không có đủ người theo dõi hết bốn tên”.

“Không cần phải theo dõi bốn tên, chỉ cần theo dõi một tên thôi. Phải chắc chắn là anh chọn đúng người”.

“Người nào?”.

“Eli có linh cảm rất tốt về những chuyện như thế này”, Shamron nói. “Hãy để cho Eli quyết định. Cho dù làm gì, phải bảo đảm anh có một ký hiệu nữa cho Gabriel trước khi anh ta rời Highgate. Nếu bị mất dấu thì ta có thể chẳng bao giờ tìm lại được anh ta”.

Navot vươn người đến chiếc máy vô tuyến. Shamron lại tiếp tục đi lòng vòng trong phòng.

Gabriel vứt khẩu Browning và máy vô tuyến vào một tán cây ở giữa khu Hampstead Heath, sau đó băng qua con đê giữa hồ Highgate rồi tiến ra đường Millfield. Một bức ảnh chụp chiếc BMW xanh đậm gắn trên chiếc cột đèn gần nhất. Bản thân chiếc xe cũng nằm cách đó 50 thước dọc theo con đường, bên ngoài một căn nhà gạch lớn đứng trơ trọi có một đàn tuần lộc đang vui đùa trên bãi cỏ. Gabriel mở cửa sau nhìn vào trong. Chìa khoá nằm giữa khoang chứa hàng. Anh rút chúng ra, đặt chiếc túi vào trong, sau đó kiểm tra toàn bộ chiếc xe trước khi leo vào sau tay lái, ngập ngừng xoay chìa khoá.

Động cơ khởi động ngay. Gabriel mở hộp chứa găng tay và nhìn thấy một tờ giấy, anh đã kiểm tra nó trong ánh sáng hắt ra từ bảng điều khiển. Trang giấy có một loạt những chỉ dẫn khá chi tiết – một chuyến xe sẽ đưa anh từ Highgate đến mũi đất cách Essex khá xa có cái tên khá phù hợp Foulness Point – Điểm bẩn thỉu. Trên ghế dành cho khách có tập bản đồ đường phố Bartholomew có nhiều chỗ bị sờn, ghi năm 1995 và mở đến số bản đồ 25. Điểm đến được đánh dấu X. Vùng nước xung quanh được ghi màu đỏ: KHU VỰC NGUY HIỂM.

Gabriel vào số rồi lướt qua khúc quanh dưới ánh mắt dõi theo của một con tuần lộc đang mỉm cười. Anh rẽ vào đường Merton, theo lời hướng dẫn, đi theo hướng đông dọc theo rìa của nghĩa trang Highgate. Trên đường Hornsey, một khách bộ hành mặc chiếc áo mưa xấu xí bước xuống đường. Gabriel đạp phanh gấp, nhưng không tránh được cú va chạm nhỏ làm vị khách bộ hành văng xuống đường nhựa. Người đàn ông nhanh chóng bật dậy giận dữ đấm mạnh lên mui xe, rồi vừa khi vươn người đến gần bánh xe phía ghế hành khách, anh ta bỏ đi. Gabriel nhìn anh ta bước đi rồi chạy qua đường Archway. Anh rẽ trái rồi hướng đến M25.

Cùng lúc đó ở Hampstead Heath, kẻ lang thang trở về chỗ ngồi của mình. Anh ta lục tung thùng rác mất vài giây, dường như đang tìm miếng gì có thể ăn được, rồi nằm trên băng ghế nhìn xuống cảnh thành phố Luân Đôn. Suy nghĩ của anh ta không tập trung vào thức ăn hoặc đồ uống mà là vào bốn thanh niên đang đi thành hàng trên chiếc cầu đi bộ nối qua đường Constantine. Chúng tôi nghĩ một trong bọn chúng là kẻ chỉ điểm, Uzi Navot đã nói. Sếp lớn muốn anh quyết định. Anh chọn tên mặc chiếc áo vải bông chéo, giày Converse đế cao màu đen, mũ len Bob Marley. Hắn trông khá bảnh bao và già dặn so với một thanh niên trẻ như vậy, nhưng Lavon còn bảnh hơn. Lavon bảnh bao hơn lúc nào hết. Anh chờ đợi cho đến khi bốn tên thanh niên đi khỏi tầm mắt mới tháo bộ râu giả và chiếc áo khoác cũ mèm rồi bắt đầu theo dõi chúng.

Trong chín mươi phút đầu tiên trong chuyến hành trình của Gabriel, bầu trời chỉ có mưa phùn rả rích, nhưng khi anh băng qua chiếc cầu kéo dẫn đến mũi Foulness, trời mưa như trút nước biến phố thành dòng sông uốn quanh. Kính chiếu hậu không cho thấy có đèn đường và hướng ngược lại cũng không có. Gabriel, khi lướt nhanh qua những nông trại yên bình và những con mương màu xanh, cho phép mình suy nghĩ vẩn vơ. Đây có phải là hình ảnh cuối cùng của mình trên thế giới này hay không – không phải là thung lũng Jezreel nơi anh sinh ra, không phải là Jerusalem hay những con phố nhỏ hẹp của Viên yêu dấu, mà là mũi đất đầy gió ở rìa Biển Bắc.

Cách 5 dặm bên kia chiếc cầu kéo, giữa cơn mưa, Gabriel thoáng thấy một dấu hiệu báo hiệu con đường sắp kết thúc. Vì những lí do chỉ có anh mới biết, anh cẩn thận lưu ý về thời gian, lúc đó là 12 giờ 35. Một phần tư dặm sau, anh rẽ vào một chỗ đỗ xe trống trải ở mũi Foulness và theo như hướng dẫn, anh tắt máy. Cứ để chìa khoá trong ổ, giọng đã nói với anh ở Hampstead Heath. Hãy mang túi xách ra mũi đất để lên bờ biển. Trong vài giây tuyệt vọng, anh nghĩ đến chuyện ném tiền vào một chỗ nào đó rồi lái xe với tốc độ ánh sáng để trở về Luân Đôn. Tuy nhiên, anh lại chầm chậm kéo chiếc túi qua một chỗ hở trên đê chắn sóng bằng đất, xuống một con đường cát dẫn đến bờ biển hẹp.

Khi gần đến mép nước, anh nghe một tiếng động giống như gió thổi vào đám cỏ trên đụn cát. Sau đó, từ khoé mắt, anh chú ý hoạt động của một vật gì màu đen mà nếu là trong một đêm trăng sáng, anh có thể nhầm với một bóng trăng đang đi qua. Anh không nhìn thấy người tung ra cú đấm như búa tạ vào một bên đầu, anh cũng không nhìn thấy cây kim đâm vào một bên cổ. Chiara xuất hiện, mặc bộ váy trắng dính đầy máu, van nài anh đừng chết. Sau đó cô biến thành một ánh sáng xanh xẹt qua rồi biến mất.

Shamron và Navot đứng cạnh nhau trong khu vực chỉ huy, im lặng nhìn ánh sáng xanh đang loé sáng. Trong mười phút qua, nó chưa di chuyển. Shamron biết nó sẽ không bao giờ di chuyển.

“Tốt hơn anh nên cử người nào ra đó để xem xét”, ông nói. “Chỉ để cho chắc chắn”.

Navot cầm máy vô tuyến lên.

Yossi đi theo tín hiệu dẫn đường của Gabriel đến tận khu vực biển Bắc. Anh đang tìm chỗ nghỉ ngơi trong quán cà phê mở suốt đêm nhìn xuống cửa sông Thames thì nhận được cuộc gọi của Navot. Ba mươi giây sau, anh ngồi sau bánh lái của chiếc Renault và lái xe hết tốc độ để đến mũi Foulness. Khi xe rẽ vào chỗ đỗ xe, anh nhìn thấy chiếc BMW đang đậu, cửa sau mở, chìa khoá vẫn còn nằm trong ổ khởi động. Anh rút chiếc đèn pin từ hộp đựng găng tay, đi theo một loạt dấu chân trên bờ biển ra mép nước. Những dòng chảy này được khơi dòng bằng ngón chân một người đàn ông, Yossi nghĩ dấu hiệu đó chứng tỏ người đàn ông này đã bất tỉnh, hay tệ hơn, là đã chết. Anh dùng máy vô tuyến gọi cho Navot ở trung tâm chỉ huy. “Gabriel mất dấu rồi”, Yossi nói. “Có vẻ như chúng mang anh ta đi bằng thuyền”.

Navot hạ ống nghe xuống nhìn Shamron.

“Tôi nghĩ những kẻ này đa đưa anh ta vào khu vực Biển Bắc rồi”. Shamron nói.

“Tôi đồng ý với ông. Nhưng chúng đã đưa anh ta đi đâu?”.

Shamron bước qua chỗ đặt bản đồ. “Đây này”, ông nói rồi chỉ vào một điểm ở phía bên kia của sông Crouch. “Có nhiều bến và những nơi khác cho thuyền nhỏ neo đậu. Cách duy nhất để đến đó vào giờ này trong đêm là bằng thuyền, có nghĩa là ta sẽ phải đi đường vòng khá xa”.

Navot quay lại chiếc máy vô tuyến lệnh cho các đội thực hiện việc truy đuổi. Sau đó, anh nhấc điện thoại thông báo tin này cho Graham Seymour ở tổng hành dinh MI5.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

83#
 Tác giả| Đăng lúc 25-11-2013 09:03:59 | Chỉ xem của tác giả
Chương 51

Gabriel bị lạc vào một phòng trưng bày của ký ức, ở đó treo đầy hình ảnh người chết. Họ nói chuyện với anh khi lướt qua chầm chậm – Zwaiter và Hamida; anh em nhà al-Hourani; Sabrri và Khaled al-Khalifa, cha con gia đình khủng bố. Họ chào mừng anh anh đến vùng đất của những kẻ tử vì đạo và ăn mừng cái chết của anh bằng bánh kẹo và hát hò. Ở cuối phòng tranh, một cậu bé có nhiều vết đạn trên gương mặt nhưng lại không chảy máu hướng dẫn cho Gabriel đi qua những cánh cửa của một nhà thờ ở Viên. Gian giữa giáo đường treo một loạt những bức tranh mô tả cảnh về cuộc đời của anh và trên gian thờ chính là một bức vẽ chưa hoàn chỉnh, rõ ràng được vẽ bởi tay của Bellini, mô tả cái chết của Gabriel. Thượng đế đang đứng trong một mái hiên. Ông nắm lấy tay Gabriel dẫn anh vào trong một khu vườn ở Jerusalem, nơi có một phụ nữ với nhiều vết bỏng ngồi dưới bóng một cây ôliu và một đứa bé có đôi mắt tròn trĩnh trong lòng. Hãy nhìn tuyết, người đàn bà nói với đứa bé. Tuyết giải thoát cho Viên khỏi những tội lỗi của nó. Tuyết rơi xuống Viên trong khi tên lửa trút xuống Tel Aviv như mưa. Anh nghe có người gọi tên mình. Anh vào nhà thờ nhưng thấy nơi này không có ai. Khi trở về khu vườn, người đàn bà và đứa bé đã đi đâu mất.

Cuối cùng, Gabriel thấy như vừa tỉnh dậy sau một cơn say bí tỉ. Đầu anh nhức dữ dội, miệng thì có cảm giác như bị bịt bằng một nắm len bông, anh sợ mình sẽ nôn, dù anh đã ăn cách đó nhiều giờ. Anh từ từ mở mắt, cố gắng không động đậy, anh dò xét tình hình. Anh đang nằm trên một chiếc giường dã chiến chật hẹp, trong một căn phòng nhỏ có những bức tường trắng như gốm sứ. Tay anh bị còng và chiếc còng được gắn với một vòng sắt trên tường ở sau đầu nên cánh tay anh bị kéo về sau rất đau. Một luồng ánh sáng chói loá chiếu thẳng vào mặt anh.

Anh nhắm mắt, cố gắng kháng cự một cơn buồn nôn, người run lên vì lạnh. Nơi này đúng là chỗ trú ẩn rất tốt. Chắc chắn là việc xây dựng nó đã tốn nhiều công sức và kế hoạch. Dù căn phòng sạch sẽ như bệnh viện, trong không khí vẫn có mùi ô uế, mùi của phân và mùi cơ thể, mùi của một người phụ nữ bị bắt giữ lâu ngày. Elizabeth Halton đã có mặt ở đây trước khi anh đến – anh chắc chắn về điều đó. Anh tự hỏi, cô ấy còn ở cạnh đây hay chúng đã chuyển cô sang một địa điểm khác để dành chỗ cho người kế tiếp?

Bên kia cánh cửa có tiếng động. Gabriel xoay nhẹ đầu và thấy một ánh mắt nhìn anh qua lỗ nhỏ. Tiếp đó anh nghe tiếng ổ khoá được mở, sau đó là tiếng kẽo kẹt của bản lề cửa. Một người đàn ông bước vào chỗ giam giữ anh. Hắn chưa tới ba mươi, người nhỏ thó, mặc chiếc áo sơ mi có cổ với chiếc áo thun cổ chữ V kiểu Burgundy. Hắn nhìn Gabriel dò xét một lúc lâu qua đôi kính có gọng bằng sừng, như thể đang tìm sách ở thư viện nhưng lại vô tình nhìn thấy cảnh này. Gabriel thấy người đàn ông này có điểm gì đó rất quen thuộc. Chỉ khi hắn xé băng dính khỏi mặt Gabriel và chúc anh một buổi tối vui vẻ bằng tiếng Arập thì anh mới sực nhớ ra tại sao. Giọng nói này là của một thanh niên từ khu Tây ở Amsterdam – một thanh niên nửa Ai Cập nửa Palestien, một sự pha trộn kỳ quặc.

Đó là giọng nói của Ishaq Fawaz.

Hắn biến nhanh cũng như lúc xuất hiện. Vài phút sau, bốn người đàn ông bước vào căn phòng. Chúng đánh anh nhiều lần vào bụng trước khi tháo còng cho anh, sau đó đỡ anh đứng dậy rồi tiếp tục đánh. Căn phòng quá nhỏ cho chuyện đánh đấm, do đó sau khi hội ý nhỏ, chúng kéo lê anh trần truồng lên dãy cầu thang, vào một khu nhà tối om. Gabriel đánh trước, một hành động làm cho chúng bất ngờ. Anh cố gắng tạm thời loại một tên trước khi ba tên kia nhảy lên người và đẩy anh nằm xuống nền xi măng lạnh lẽo. Chúng bóp cổ, đấm đá anh nhiều phút cho đến khi, từ chỗ nào đó trong nhà kho vang lên mệnh lệnh dừng lại. Chúng để anh nằm đó một lúc và nôn mửa ra máu, trước khi đưa anh trở lại phòng giam rồi trói tay anh lại. Anh chống cự để chứng tỏ mình còn tỉnh nhưng vô vọng.

Cửa nhà thờ ở Viên trong giấc mơ của anh vẫn hé mở. Anh lẻn vào trong nhìn thấy Bellini đứng trên giá cao phía trên chỗ thờ chính, đặt những nét cọ cuối cùng lên tấm tranh vẽ cái chết của Gabriel. Gabriel chầm chậm leo lên và cùng với Bellini bên cạnh, bắt đầu vẽ.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

84#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 09:55:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 52
Walthamstow, Luân Đôn

Hai giờ 15 phút sáng ngày Giáng sinh.

Tên chỉ điểm rất giỏi. Cairo cũng rất giỏi. Bátđa cũng giỏi.

Lộ trình của hắn từ Hampstead Heath khá dài và phức tạp đến mức không cần thiết. Bốn tuyến xe buýt khác nhau, hai chuyến đi đường dài, một chuyến đi đường ngầm Victoria từ khu vực ngã tư King đến trung tâm Walthamstow. Giờ hắn đang đi bộ trên cầu Lea với một chiếc điện thoại di động áp sát tai còn Eli Lavon đang theo sát hắn cách một trăm thước. Hắn rẽ vào đường Northumberland và ba mươi giây sau đã vào một căn nhà nhỏ xíu có nền cao với tường bên ngoài được tô bằng sỏi. Đèn cửa sổ trên tầng hai đang sáng, bằng chứng cho việc có những kẻ khác đang hoạt động bên trong ngôi nhà.

Lavon đi vòng quanh khu nhà rồi trở lại cầu Lea. Ở phía đối diện con đường có một nhà chờ xe buýt trống rỗng, chỗ phù hợp để quan sát ngôi nhà. Khi mệt mỏi ngồi xuống băng ghế, anh nghe thấy tiếng Uzi Navot đang chuyển thông tin cho Graham Seymour ở tổng hành dinh MI5. Lavon chờ cho đến khi Navot nói xong thì mới thì thào vào chiếc micro ở cổ họng. “Tôi không thể ở lại đây lâu được đâu, Uzi”.

“Anh không cần phải làm thế. Đội kỵ binh đang trên đường tới”.

“Nói họ đến lặng lẽ thôi”, Lavon nói. “Nhưng phải nhanh lên. Tôi sắp chết cóng rồi”.

MI5 và đội chống khủng bố của Sở cảnh sát Anh mất chỉ mười phút để có danh sách bốn người đàn ông đang sử dụng số nhà 23 đường Northumberland làm địa chỉ hợp pháp và chỉ mất hai mươi phút để có được hồ sơ mọi cuộc điện thoại của ngôi nhà trong thời gian hai năm trước. Những cuộc gọi đến những số xuất hiện trong danh sách theo dõi của chính quyền hay tới những số điện thoại ở những khu vực nổi tiếng về tính quá khích của Hồi giáo được tự động đánh dấu để theo dõi thêm. Hồ sơ về những cuộc gọi từ những số điện thoại đó trong vòng hai năm qua cũng được phơi bày. Kết quả là, trong vòng một giờ liên lạc đầu tiên của Lavon, MI5 và sở cảnh sát Anh đã lập được một hồ sơ với vài ngàn số và hơn năm trăm cái tên tương ứng.
Hơn ba giờ sáng một chút, một bản sao của hồ sơ được đặt trước mặt lực lượng đặc nhiệm của MI5 đang làm việc 24/24 kể từ khi Elizabeth Halton biến mất. Năm phút sau, Graham Seymour tự mình mang bản sao thứ hai của tài liệu này lên phòng hội nghị ở tầng bốn, lúc đó có ba người phụ nữ trẻ khác. Một người mang quốc tịch Mỹ trong khá thu hút ở độ tuổi khoảng ba mươi với mái tóc vàng óng dài chấm vai và nước da có màu thạch cao. Hai người kia đều mang quốc tịch Israel, một phụ nữ Rubenesque nhỏ người mang phù hiệu lính và một cô gái tóc đen nhỏ nhắn với dáng đi hơi khập khiểng. Dù cả ba đã vào nước Anh bằng hộ chiếu giả, Seymour đã đồng ý cho họ vào khu vực toà nhà Thames với điều kiện họ sẽ vào bằng tên thật. Người phụ nữ Israel, Rubenesque là thiếu tá Rimona Stern của AMAN, cơ quan tình báo quân sự Israel. Cô gái đang lặng im chính là nhà phân tích làm việc cho cơ quan tình báo hải ngoại có tên là Dina Sarid. Thân thế của người phụ nữ Mỹ được xác nhận là Irene Moore, một sĩ quan văn phòng làm việc cho Trung tâm chống khủng bố ở Langley.

Họ nhanh chóng nhận tài liệu, rồi tự chia cho mỗi người. Người phụ nữ Mỹ và người phụ nữ Israel Rubenesque lấy số điện thoại. Cô gái có dáng đi khập khiểng đảm nhận những cái tên. Cô ta giỏi lo những vấn đề về tên tuổi – Graham Seymour có thể thấy điều đó. Nhưng còn một dấu hiệu khác. Chính là tính cực kỳ nghiêm trọng của mục đích công việc, dấu hiệu của một goá phụ sớm hiện lên trong đôi mắt đen. Cô cũng là nạn nhân còn sống sót sau một vụ khủng bố. Cô còn có một cái đầu như một cái máy chủ của mạng vi tính. Graham Seymour tin tưởng rằng hồ sơ về tên và số điện thoại chứa một mấu chốt vô cùng giá trị. Ông biết chắc người sẽ phát hiện ra mấu chốt đó trước là ai.

Ông ra khỏi phòng hội nghị trở về trung tâm nghiệp vụ. Một nhân viên từ tổng hành dinh cảnh sát Essex ở Chelmsford đang đợi ở bàn khi ông đến. Một chiếc thuyền đáy nông đã được phát hiện bỏ không ở dọc bờ bắc của sông Crouch, gần mũi Holliwell. Dựa vào tình trạng của động cơ bên ngoài, có vẻ là chiếc thuyền đã được sử dụng vào buổi tối hôm đó. Graham Seymour nhấc điện thoại gọi cho Uzi Navot ở trạm chỉ huy đặt ở Kensington.

Ba mươi giây sau, Navot gác điện thoại rồi báo tin này cho Shamron.

“Có vẻ như ông đã đúng về chuyện chúng đưa anh ta qua sông”.

“Vậy anh đã nghi ngờ tôi à, Uzi?”.

“Không đâu, thưa sếp”.

“Anh ấy còn sống”, Shamron nói. “Nhưng sẽ không còn lâu nữa đâu. Ta cần có thêm thời gian. Một cái tên. Một số điện thoại. Một điều gì đó”.

“Các cô gái đang tìm thông tin đó”.

“Hy vọng là họ sẽ tìm thấy, Uzi à. Nhanh thôi”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

85#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 09:59:41 | Chỉ xem của tác giả
Chương 53

Gabriel tỉnh dậy lần tiếp theo, cơ thể anh đã được rửa sạch. Trong một lúc nào đấy, anh lo sợ chúng đã giết anh và đang chứng kiến nghi lễ rửa xác cho mình. Sau đó, khi anh trải qua lần tỉnh dậy tiếp theo, anh nhận ra rằng những tên bắt cóc đang cố lau sạch những vết tích chúng gây ra cho anh.

Khi làm xong, chúng tháo còng cho anh đủ thì giờ để anh mặc bộ áo liền quần và đi đôi giày trượt, sau đó chúng rút lui lặng lẽ. Một lúc sau, có lẽ là nửa tiếng, Ishaq trở lại. hắn nhìn Gabriel vài giây với vẻ bình tĩnh giả tạo trước khi đưa ra câu hỏi đầu tiên.

“Vợ con tao ở đâu?”.

“Sao mày vẫn còn ở đây? Tao nghĩ lẽ ra mày đã đi đâu xa rồi”.

“Đến Pakistan? Hay Afgahnistan? Hay cái chỗ chó đẻ nào rồi ấy à?”.

“Còn nữa chứ?”, Gabriel nói. “Trở về ngôi nhà Hồi giáo, nơi che chở cho những tên giết người”.

“Tao định đến đó đấy”, Ishaq vừa nói vừa nhếch mép cười. “Nhưng tao đã yêu cầu được quay lại đây để xử lý mày, và yêu cầu của tao đã được đáp ứng”.

“Mày thật là may mắn”.

“Giờ hãy cho tao biết vợ con tao đâu?”.

“Mấy giờ rồi nhỉ?”.

“Năm phút nửa là nửa đêm”, Ishaq nói, tự hào về lối cư xử khôn ngoan của mình. Sau đó hắn nhìn đồng hồ của mình một cách nghiêm trọng vờ vịt. “Thực ra là chỉ còn bốn phút thôi. Thời gian của mày đang sắp hết. Giờ hãy trả lời câu hỏi của tao đi”.

“Tao nghĩ bây giờ họ đang ở sa mạc Negev. Chúng tao có một nhà tù bí mật ở đó cho những kẻ tồi tệ nhất. Nó tương đương với một lỗ đen trong vũ trụ. Những người vào đó sẽ không bao giò có cơ hội trở ra. Hanifah và Ahmed sẽ được chăm sóc kỹ”.

“Mày nói dối”.

“Có lẽ mày đúng đấy, Ishaq”.

“Khi chúng ta đàm phán trên điện thoại, mày nói mày là người Mỹ. Mày bảo đảm gia đình tao sẽ đi Ai Cập để bị tra tấn. Giờ mày bảo tao họ đang ở Israel. Mày thấy có đúng không?”.

“Mày đã bao giờ nói dối chưa?”.

“Mày không đáng tin cậy – đó là quan điểm của tao. Nhưng điều đó chả đáng ngạc nhiên chút nào. Rốt cuộc thì mày vẫn là người Do Thái”.

“Tên phản quốc lại giảng đạo cho tôi nghe về tính phi đạo đức của sự lừa dối đây”.

“Không đâu, Allon, chính mày đã giết cha tao. Tao đã cứu ông ấy”.

“Tao biết hiện giờ đầu óc của tao đang rối, Ishaq à, nhưng mày sẽ phải giải thích câu nói vừa rồi của mày”.

“Cha tao đã từng là thành viên của Thanh kiếm Allah nhưng ông ta quay lưng lại với cuộc thánh chiến và sống cuộc đời bỏ đạo ở vùng đất của những kẻ xa lạ. Sau đó ông ta lại nhập bọn với mày, tên Do Thái giết dân Mujahideen của người Palestine. Theo luật Hồi giáo, cha tao bị kết tội xuống địa ngục vì những hành động của mình. Tao đã cho ông ấy chết theo kiểu của một liệt sĩ. Cha tao hiện là một người tử vì đạo và do đó ông ấy được bảo đảm một chỗ ở thiên đường”.

Những lời này được nói ra một cách nghiêm trang đến nỗi Gabriel hiểu có tranh cãi thêm cũng không được gì. Giống như tranh cãi với kẻ tin rằng trái đất bằng phẳng hay chuyện những phi hành gia của Mỹ chưa bao giờ đặt chân lên mặt trăng. Bất ngờ anh cảm thấy mình giống như Wiston Smith ở phòng số 101. Tự do là nô lệ. Hai cộng hai bằng năm. Giết cha là nhiệm vụ cao quý.

“Khi ở Đan Mạch mày đã rất giỏi”, Gabriel nói. “Rất chuyên nghiệp. Chắc là mày đã lên kế hoạch đó lâu rồi. Tao không cho rằng giết cha là một phần trong kế hoạch ban đầu, nhưng mày đã thực hiện nó một cách ngẫu hứng đến tuyệt vời”.

“Cám ơn”, Ishaq nói một cách nghiêm nghị.

“Sao mày không ở đó chờ hồi kết? Sao tao không bị giết cùng với ông ấy?”.

Ishaq bình tĩnh mỉm cười nhưng không thèm trả lời. Gabriel liền trả lời cho chính câu hỏi của mình.

“Mày và Sphinx có những kế hoạch khác dành cho tao, phải không nào. Những kế hoạch được soạn ra lúc hình ảnh của tao xuất hiện trên báo chí Luân Đôn sau vụ bắt cóc?”.

“Thế ai là người mà mày gọi là Sphinx chứ?”.

Gabriel không thèm trả lời và tiếp tục nói. “Sphinx biết rằng nếu những tên bắt cóc không thả Elizabeth Halton ra thì cuối cùng cha của cô ta sẽ tự giải quyết vấn đề. Hắn biết Robert Halton sẽ cung cấp thứ duy nhất ông ta có, tiền. Hắn còn biết rằng người nào đó sẽ phải giao tiền. Hắn đã chờ Halton thực hiện yêu cầu. Sau đó hắn lợi dụng cơ hội đó để trả thù”.

“Dù sao mày cũng đã đến”, Ishaq không thể ngăn chút ngạc nhiên đang thể hiện trong giọng nói. “Chắc chắn mày biết đây là số phận của mày. Sao mày làm thế? Sao mày muốn đổi lấy mạng sống cho người khác – cho đứa con gái hư của thằng cha tỉ phú người Mỹ?”.

“Cô ấy đâu, Ishaq?”.

“Mày nghĩ là tao sẽ cho mày biết à, cho dù tao biết rõ con bé ở đâu?”.

“Mày biết chính xác cô ta ở đâu. Cô ấy là người vô tội, Ishaq. Ngay cả dưới cái khẩu hiệu lệch lạc takfir của mày, mày cũng không có quyền giết cô ấy”.

“Cô ta là con gái của đại sứ Mỹ, con gái đỡ đầu của tổng thống Mỹ và phát ngôn đồng tình với cuộc chiến ở Irắc. Cô ta là mục tiêu hợp lệ theo luật của chúng tao hay của bất kỳ ai”.

“Chỉ có khủng bố mới xem Elizabeth Halton là mục tiêu hợp lệ. Chúng ta có thoả thuận rồi. ba mươi triệu đô la cho mạng sống của Elizabeth Halton. Tao hy vọng mày có trách nhiệm với thoả thuận đó”.

“Mày không ở vị trí nêu ra yêu cầu, Allon à. Ngoài ra, luật của chúng tao cho phép chúng tao nói dối với những kẻ ngoại đạo khi cần thiết và lấy tiền cuả những kẻ ngoại đạo nếu phù hợp với nhu cầu của chúng tao. Ba mươi triệu đô la sẽ có tác dụng nhiều cho việc tài trợ công cuộc thánh chiến toàn cầu của chúng tao. Biết đâu chúng tao còn thể mua được vũ khí hạt nhân – thứ vũ khí chúng tao có thể sử dụng để quét sạch đất nước mày trên bản đồ”.

“Hãy giữ số tiền đó. Mua thứ vũ khí chết tiệt của mày nhưng hãy thả cô ta đi”.

Ishaq nhíu mày, dường như đã chán chủ đề này. “Hãy quay lại câu hỏi ban đầu của tao đi”, hắn nói. “Hanifah và Ahmed ở đâu?”

“Họ đang bị giữ ở Copenhagen. Khi mày yêu cầu tao giao tiền, tao đã đi Đan Mạch yêu cầu sử dụng vợ con mày làm vật bảo đảm. Người Đan Mạch tất nhiên đã đáp ứng ngay yêu cầu của tao. Nếu tao không còn sống sau vụ này – và nếu Elizabeth Halton không được trả tự do – gia đình mày sẽ biến khỏi mặt đất”.

Hắn hình như hơi run nhưng vẫn giữ gương mặt thách thức. “Mày nói dối”.

“Mày nói gì cũng được, Ishaq. Nhưng hãy tin tao, nếu có chuyện gì xảy ra với tao, mày sẽ không bao giờ nhìn thấy họ lần nữa”.

“Cho dù có thực là mày đã đưa họ sang Israel làm vật bảo đảm, khi thế giới biết họ đang bị giữ, sẽ có nhiều áp lực yêu cầu họ được thả ra lắm. Chính quyền của mày sẽ không nhờ ai cứu được đâu, chúng chỉ có thể sụp đổ thôi”. Hắn đứng phắt dậy nhìn đồng hồ. “Còn hai phút là tới nửa đêm. Chúng tao có việc cần ở mày trước khi hành hình. Hãy cung cấp tin cho chúng tao, đừng nên kháng cự, rồi cái chết của mày sẽ tương đối êm ả. Nếu mày cứ khăng khăng chống đối chúng tao, những anh chàng này sẽ xử lí mày. Lần này thì tao không ngăn chúng lại đâu”.

Hắn mở cửa bước ra ngoài sau đó quay sang nhìn Gabriel lần nữa. “Hình như đối với tao mày cũng sẽ sớm tử vì đạo thôi. Nếu mày cải đạo sang Hồi giáo trước khi chết, chỗ của mày ở thiên đường sẽ được bảo đảm. Tao có thể giúp nếu mày muốn. Thủ tục khá đơn giản”.

Ishaq không nhận được câu trả lời, hắn đóng cửa rồi móc khoá cẩn thận. Gabriel nhắm mắt. Hai với hai bằng bốn, anh nghĩ. Hai với hai bằng bốn.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

86#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 10:01:53 | Chỉ xem của tác giả
Chương 54
Tổng hành dinh Thames

Bốn giờ 15 phút sáng ngày Giáng sinh.

“Tôi nghĩ mình đã tìm thấy điều gì đó”, Graham Seymour nhìn lên. Là cô gái Isreal có bộ tóc đen và dáng đi khập khiễng. Dina Sarid. Ông ra hiệu cho cô gái đến cái ghế trống cạnh bàn của ông trong phòng nghiệp vụ. Cô gái không ngồi xuống mà vẫn đứng và nói.

“Theo hồ sơ của viễn thông Anh quốc, hai mươi bảy cuộc gọi đã được thực hiện từ máy điện thoại đặt ở ngôi nhà trên đường Northumberland đến máy điện thoại đặt ở số 14 đường Reginald ở Luton trong mười tám tháng qua. Năm trong số những cuộc gọi này được thực hiện sau khi Elizabeth Halton biến mất”.

Seymour nhíu mày. Luton, một thị trấn đông người Hồi giáo phía Bắc Luân Đôn, hiện là một trong những vấn đề nhức nhối của MI5.

“Tiếp tục đi”, ông nói.

“Theo hồ sơ của ông, điện thoại ở Luton đặt ở nhà một người tên là Nabil Elbardy. Ông Elbardy quản lý một công ty xuất nhập khẩu và vài doanh nghiệp khác. Ông ấy không xuất hiện trên bất kỳ danh sách nào của ông về những phần tử đồng tình khủng bố đã biết hay những kẻ hoạt động thánh chiến”.

“Thế vấn đề là gì?”, Seymour hỏi.

“Khi nhìn thấy cái tên này cách đây vài phút, tôi biết mình đã gặp ở đâu rồi”.

“Ở đâu?”

“Trong hồ sơ mật về Thanh kiếm Allah mà chúng tôi có được từ tay của cơ quan SSI thuộc Ai Cập”.

Seymuor cảm thấy ruột gan mình như sắp bị thiêu đốt. “Cứ nói tiếp đi cô Sarid”.

“Cách đây năm năm, người Ai Cập đã bắt một người đàn ông tên là Nabil Elbardy ở Cairo. Sau khi thẩm vấn tại khu nhà tù Torah, hắn thừa nhận đã tham gia vào một số hoạt động của Thanh kiếm Allah bên trong lãnh thổ Ai Cập”.

“Thế chuyện này có liên quan gì đến ông Nabil Elbardy ở Luton nào?”.

“Theo hồ sơ của Kemel, hắn có một người anh tên là Nabil đã di cư đến Anh năm 1987. điều này trùng khớp chính xác với những chi tiết trên hồ sơ di cư của Nabil Elbardy”.

“Thế Kemel vẫn đang bị giam giữ chứ?”.

“Hắn đã chết”.

“Bị hành hình?”

“Chưa rõ”.

Graham Seymour đứng dậy ra hiệu im lặng trong phòng nghiệp vụ.

“Nabil Elbardy”, ông nói lớn. “Số 14 đường Reginald, Luton. Tôi muốn biết mọi thứ ở đó nhằm tìm hiểu người này và những mối quan hệ trong kinh doanh của hắn, và tôi muốn biêt trong vòng năm phút”.

Ông nhìn cô gái. Cô gật đầu rồi đi chầm chậm trở về phòng hội nghị.

***

Những tên thanh niên xuất hiện mười phút sau khi Ishaq rời hỏi phòng giam. Khi chúng dẫn anh lên lối bậc thang nhỏ hẹp, Gabriel chuẩn bị tinh thần cho lần tra tấn tiếp theo. Thay vào đó, khi đến nhà kho, anh được cho ngồi vào một cái ghế nhôm xếp khá thân thiện.

Anh nhìn thẳng và thấy ống kính một máy quay video. Ishaq, đang đóng vai trò đạo diễn và quay phim, ra lệnh cho bốn thanh niên mặc đồ đen đứng sau lưng Gabriel. Ba tên đang cầm súng máy hiệu Hewkler & Koch. Một tên cầm dao trông ghê rợn. Gabriel biết thời điểm cho cái chết của mình vẫn chưa đến. Tay anh bị còng phía trước. Những kẻ ngoại đạo sắp chịu đựng nhục hình chặt đầu luôn bị trói tay phía sau.

Ishaq thay đổi tư thế một chút rồi bước từ phía sau máy quay phim đến trao cho Gabriel lời thoại. Gabriel nhìn xuống. Sau đó, giống như một diễn viên không hài lòng với lời thoại, anh cố gắng vứt trả nó.

“Đọc đi!”, Ishaq yêu cầu.

“Không”, Gabriel đáp bình tĩnh.

“Đọc đi nếu không tao giết mày ngay bây giờ”.

Gabriel buông lời thoại ra khỏi tay mình.

***

Lực lượng đặc nhiệm của Graham Seymour chỉ mất có mười phút để thu thập thông tin chi tiết về toàn bộ những mối lợi kinh doanh và bất động sản đăng ký dưới cái tên Nabil Elbardy ở đường Reginald, Luton. Mắt Graham dừng lại ở giữa danh sách. Một công ty trong đó Nabil Elbardy là cổ đông thiểu số sở hữu một nhà kho ở phố West Dock ở Harwick, không xa bến phà. Seymour đứng dậy đi nhanh đến bản đồ. Harwish cách điểm mà cảnh sát Essex tìm thấy chiếc thuyền bỏ trống gần 40 dặm. Ông bước trở lại bàn quay số gọi Trung tâm chỉ huy của Israel đặt ở Kensington.

Ishaq chụp lấy những trang giấy rơi xuống, rồi sau khi tự chọn lọc, hắn đọc tuyên bố thay mặt Gabriel. Gabriel đã phạm nhiều tội ác chống lại người Palestine và người Hồi giáo, Ishaq tuyên bố, với những tội ác này, Gabriel sẽ sớm đối mặt với công lý của tổ chức Thanh Kiếm Allah. Gabriel không lắng nghe toàn bộ bản liệt kê những tội lỗi của mình. Thay vào đó, anh nhìn xuống sàn nhà tự hỏi tại sao Ishaq không che mặt trước khi bước vào trước chiếc máy thu hình. Rồi anh lập tức tìm ra câu trả lời. Ishaq là kẻ tử vì đạo và họ sẽ cùng chết với nhau. Khi Ishaq đọc xong bản tuyên án tử hình Gabriel, hắn bước đến máy thu hình kiểm tra xem nó có thu đúng hình ảnh không. Với vẻ mặt hài lòng, hắn ra hiệu cho những tên mặc đồ đen bắt đầu tra tấn. Hình như việc đó kéo dài vô tận. Vết đâm của kim là ân huệ cuối cùng. Mắt Gabriel nhắm nghiền và anh thấy mình đang sắp chết đuối trong làn nước đen.

***

“Anh mất bao lâu để bố trí các đội, Uzi?”.

“Tôi đã điều động mọi người theo hướng đó sau khi cảnh sát Essex tìm thấy chiếc thuyền. Tôi có thể có ba đội ở Harwich trong vòng 20 phút hoặc ít hơn. Vấn đề là ta sẽ làm gì khi đến đó?”

“Đầu tiên ta xác định xem anh ta có thực sự đang ở đó không và nếu có, xem anh ta còn sống không. Sau đó chúng ta đợi”.

“Đợi? Đợi cái gì thưa sếp?”

“Ta đến đó để cứu cô gái người Mỹ, Uzi. Và ta sẽ không bỏ đi nếu chưa có cô ấy”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

87#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 20:53:31 | Chỉ xem của tác giả
Chương 55
Harwich, nước Anh

Năm giờ 30 phút sáng ngày Giáng sinh.

Harwich, một bến cảng cũ với mười lăm ngàn dân ở hợp lưu các sông Stour và Orwell, nằm yên mình trong bóng tối dưới trận mưa rào. Vùng nước sông Ramsey không có thuyền bè thương mại, chỉ có vài chiếc xe ôtô đã tập trung sẵn ở bến phà cho chuyến đi đầu tiên trong buổi sáng vào lục địa. Trung tâm thị trấn thời trung cổ gắn cửa chớp dày đặc và được để trống cho những con mòng biển trú ngụ.

Trong khung cảnh đó, sáu nhân viên nghiệp vụ hiện trường từ cơ quan Tình báo hải ngoại của Israel đã đến lúc 4 giờ 45 phút sáng ngày Giáng sinh. Đến năm giờ, họ đã xác định nhà kho ở đường West Dock có người, đến 5 giờ 15 phút họ tìm cách đặt máy quay phim không dây ở góc cửa sổ bị vỡ phía sau. Giờ họ cẩn thận chia ra các con phố bao quanh. Yaakov phụ trách một điểm cách nhà kho ở đường Station 100 thước. Yossi đóng ở đường Refinery. Oded và Mordecai vội vã giấu chiếc xe bán tải dưới gầm cầu vượt A120. Mikhail và Chiara, đã trải qua đêm đó trên chiếc BMW, đang tìm chỗ trú sau chiếc xe bán tải, nhìn vào màn hình thu video. Hình ảnh ở đó được thu sơ sài và không đứng yên. Tuy vậy, họ có thể nhìn thấy rõ những gì đang diễn ra bên trong nhà kho. Bốn người đàn ông mặc đồ đen đang bốc những thùng chất lỏng lớn vào sau chiếc xe bán tải Vauxhall, dưới sự giám sát của một người đàn ông trông giống người Ai Cập gầy gò mặc chiếc áo len cổ chữ V kiểu Burgundy.

Lúc 5 giờ 40 phút, năm người đàn ông đã ra khỏi tầm quan sát của máy quay. Sau đó mười phút sau, chúng quay lại với thứ vũ khí giết người hàng loạt cuối cùng – một người đàn ông mặc đồ liền quần xanh trắng, bị trói và dán băng keo, mặt đầy máu và sưng húp.

“Cho tôi biết anh ấy còn sống không, Mikhail”.

“Anh ấy còn sống đấy, Chiara”.

“Sao anh biết?”.

“Chúng sẽ không gắn bom cho anh ấy nếu anh ấy chết”.

Tuy nhiên bằng chứng rõ nhất cho việc anh ta còn sống, Mikhail nghĩ mơ hồ, chính là cái đầu của anh ta. Nếu Gabriel chết, nó sẽ không còn nằm trên vai anh nữa. Nhưng Mikhail không chia sẻ ý nghĩ này với Chiara. Cô đã phải chịu đựng những lo âu đủ trong đêm hôm nay rồi.

Lúc 5 giờ 55 phút, bốn người đàn ông mặc đồ đen thay bộ quần áo đi phố. Ba người lên chiếc xe tải chở hàng Mercedes rồi xuất phát. Người thứ tư leo lên phía sau bánh lái chiếc bán tải Vauxhall, còn người đàn ông trông giống người Ai Cập mặc áo len Burgundy đi cùng với Gabriel ở phía sau. Đúng 6 giờ sáng, chiếc bán tải rẽ sang đường West Dock đến lối vào cầu vượt A120. Bốn chiếc xe theo dõi phía sau rất cẩn thận. Yaakov nhận ca đầu tiên ở địa điểm đó, còn Chiara và Mikhail lên phía sau chiếc xe máy BMW. Mikhail ngồi phía sau. Ghế của xạ thủ.

Gabriel mở một mắt, sau đó chầm chậm mở mắt kia. Anh cố động đậy người nhưng không làm được. Đỉnh đầu của anh dựa vào một vật gì đó bằng kim loại. Anh có thể xoay cổ để thấy được vật đó chính là một chiếc thùng dẹt. Còn có những chiếc thùng khác, thực ra là hơn năm cái, nối với nhau bằng một mạng lưới các dây dẫn đến bộ kích nổ trên bảng điều khiển cạnh tài xế. Ishaq ngồi đối diện với Gabriel. Chân hắn bắt chéo với một khẩu súng trong lòng. Hắn đang mỉm cười, dường như tự hào về sự thông minh mà hắn đã tiết lộ phương pháp hành hình Gabriel.

Gabriel hỏi. “Ta đang đi đâu đây?”

“Thiên đường”.

“Thế tài xế có biết đường không? Hay chỉ đi theo bản năng?”.

“Biết chứ”, Ishaq nói. “Anh ta đã chuẩn bị cho điều này từ lâu rồi”.

Gabriel quay đầu nhìn người lái xe. Hắn trẻ hơn Ishaq vài tuổi, râu ria cạo nhẵn, cả hai bàn tay để lên vô lăng như kẻ đang tập lái lần đầu.

“Tôi muốn ngồi dậy”, Gabriel nói.

“Tốt hơn mày cứ nằm vậy. Ngồi dậy sẽ đau lắm đấy”.

“Không sao”, Gabriel nói.

“Vậy thì cứ tự nhiên”.

Hắn nắm lấy vai Gabriel bất cẩn đỡ anh tựa vào thành phía hành khách của khoang chứa hàng. Ishaq nói đúng. Ngồi dậy rất đau. Thực ra, đau đến mức anh gần ngất xỉu. Nhưng ít ra lúc này đây anh có thể nhìn ra ngoài qua một phần cửa sổ. Bên ngoài vẫn còn tối nhưng một phía bầu trời dần chuyển thành màu xám đậm và sáng – ánh sáng đầu tiên, Gabriel nghĩ, của buổi sáng ngày Giáng sinh. Theo tốc độ vừa phải của xe và sự thiếu vắng âm thanh giao thông trên đường, họ đang đi trên đường B. Anh thoáng thấy một biển báo trên đường khi họ vụt qua. SHRUB END3. Shrub End ư? Shrub End là cái tên quái quỷ gì, ở đâu chứ?.

Anh nhắm mắt vì đau điếng và nghe tiếng động cơ không phải từ xe anh đang đi. Tiếng động cơ đang rú lớn, kéo căng ga, tiếng của xe máy phân khối lớn. Anh mở mắt nhìn khi chiếc xe lướt qua như cơn bão xoáy trên đường. Khi anh nhìn Ishaq lần nữa, lần thứ hai, anh hỏi họ đang đi đâu. Lần này, Ishaq chỉ mỉm cười. Đó là nụ cười của kẻ tử vì đạo. Anh nghĩ, hãy bắn chết ngay. Nhưng yên tâm, vì Mikhail không biết cách bắn nào khác đâu.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

88#
 Tác giả| Đăng lúc 26-11-2013 20:55:09 | Chỉ xem của tác giả
Chương 55
(tiếp theo)

Uzi Navot hạ ống nghe máy vô tuyến xuống nhìn Shamron.

“Mikhail nói chúng vẫn ở cùng vị trí như khi rời nhà kho. Một tên lái, một tên ở phía sau với Gabriel. Anh ấy nói có thể hạ tên lái xe dễ dàng nhưng không tài nào hạ cả hai”.

“Anh phải dừng chúng lại, Uzi ạ - ở chỗ nào để vụ nổ không cướp đi những sinh mạng vô tội”.

“Còn nếu chúng không dừng thì sao?”.

“Phải chuẩn bị phương án dự phòng thôi”.

Gabriel cố gắng không nghĩ về đồng đội. Anh cố gắng không tự hỏi làm thế nào họ tìm ra anh, đã theo dõi anh bao lâu, đã lên kế hoạch truy tìm anh thế nào. Theo như Gabriel biết, họ không hiện diện, không phải là con người bình thường. Họ là bóng ma, là ảo ảnh. Anh nghĩ về bất kỳ thứ gì khác có thể. Vết đau trên xương sườn bị gãy. Chân tay cứng lại như bị thiêu đốt. Shamron, dựa người lên chiếc gậy bằng gỗ ôliu của mình. Chúng ta di chuyển như chiếc bóng, tấn công như sấm sét và rồi biến mất vào không khí mong manh. Hãy tấn công ngay, Gabriel nghĩ, vì anh sợ không thể giữ thăng bằng trên đỉnh cầu bắc qua sông Jahannam lâu hơn.

Anh hình dung một cái đồng hồ trong đầu rồi theo dõi kim giây đang quay. Anh lắng nghe tiếng xe và đọc những bảng chỉ dẫn trên đường khi họ đi qua. HECKFORD Cầu … CBIRCH… SMYTH’SGREEN… TIPTREE… GREAT BRAXTED… Ngay cả Gabriel, chuyên gia được đào tạo bởi văn phòng về địa lí châu Âu, cũng không thể xác định được nơi này. Cuối cùng anh nhìn thấy một bảng chỉ dẫn đi Chelmsford và nhận ra họ đang đi về phía đông Luân Đôn từ hướng Đông Bắc, dọc theo lộ trình của con đường La Mã cổ. Khi họ đến một ngôi làng tên là Langford, tài xế thình lình đi chậm lại. Ishaq nắm lấy súng đưa lên gần ngực anh trong một tư thế phòng thủ. Sau đó hắn nhìn tài xế.

“Có chuyện gì thế?”, hắn làu bàu bằng tiếng Arập.

“Có một tai nạn ở phía trước. Họ đang ra hiệu cho tôi dừng lại”.

“Cảnh sát hả?”

“Không phải, chỉ là cánh tài xế”.

“Đừng dừng lại”.

“Nhưng đường đang bị phong toả”.

“Đi vòng”, Ishaq nói cụt ngủn.

Tài xế quay bánh lái mạnh sang trái. Chiếc xe bán tải bật lên vài cái và âm thânh như súng máy của vỏ xe khi chạy trên những dải đất gồ ghề làm cho cơ thể của Gabriel nhói đau từng cơn. Khi họ phóng qua chỗ đám đông, anh nhìn thấy một người đàn ông hói đầu cao to khoảng bốn mươi tuổi đang vẫy tay buồn bã và yêu cầu chiếc xe bán tải dừng lại. Người đàn ông có hai bên má bị rỗ đang đứng cạnh anh, nhìn chiếc đèn đường trên đầu bị vỡ vụn dường như đang cố dựng lên câu chuyện phù hợp cho mình. Gabriel nhìn Ishaq khi chiếc bán tải chạy lảo đảo trở lại con đường rồi phóng về hướng Luân Đôn.

“Giáng sinh rồi đấy Ishaq. Kẻ nào lại để hai chiếc xe nằm trên đường vào buổi sáng của ngày Giáng sinh như thế này?”

Ishaq đáp lại bằng cách đẩy mạnh Gabriel ngã xuống sàn. Góc nhìn của Gabriel giờ được giới hạn ở đế giày của Ishaq – và cái đế của sáu thùng đựng đầy thuốc nổ - và đường dây dẫn đến bộ kích nổ trên bảng điều khiển. Ishaq, trong cuộc chạy vội vả để đến Luân Đôn theo kế hoạch, đã vô tình làm tiêu tan cố gắng giải cứu đầu tiên. Chỉ còn lần giải cứu thứ hai, Gabriel biết là sẽ không có sự lựa chọn nào khác. Anh nhắm mắt chờ nghe tiếng xe máy.

Navot ra lệnh cho Yossi và Yaakov trở vào những chiếc xe đã bị hỏng rồi nhìn Shamron lần cuối chờ sự chỉ dẫn. Shamron nói. “Tôi e là chuyện này đã diễn ra đủ lâu rồi. Hãy cho chúng xuống một cánh đồng nơi không ai bị thương vong. Rồi kéo anh ta ra ngay lập tức”.

Ishaq đang đọc một bản kinh Coran thì Gabriel nghe tiếng xe đang đến gần. Anh tập trung nhìn khẩu súng đang nằm trong lòng Ishaq và cuộn chiếc chân bị trói để chuẩn bị tấn công cùng lúc. Tiếng động cơ càng gần, vài giây sau thì to hơn, rồi đột ngột im bặt. Ishaq rời mắt khỏi cuốn kinh Coran ngước nhìn ra kính chắn gió. Khi không thấy chiếc xe máy xuất hiện, hắn nhìn Gabriel thất thần, dường như linh cảm được chuyện sẽ đến. Khi hắn chộp lấy khẩu súng, có tiếng nổ của thuỷ tinh và máu xuất hiện ở ghế trước. Tên tài xế bị bắn vào đầu nhiều phát đã ngã phịch sang trái và trong cơn co thắt của bàn tay đã chết, hắn nắm lấy vô lăng. Ishaq cố gắng chĩa khẩu súng vào Gabriel khi chiếc xe chạy bật lên và chuyển động ầm ầm chệch khỏi con đường, nhưng Gabriel đã nâng đôi chân bị trói đá khẩu súng khỏi tầm với của Ishaq. Ishaq tuyệt vọng lao theo. Và sau đó chiếc xe bán tải bắt đầu cuộn tròn.



Chương 56

Anh nằm trên nền đất ẩm ướt, cơn đau đớn làm nhèo cả mắt, cố sức thở. Một người phụ nữ vừa kéo lớp băng dính trói anh vừa hét lớn trước mặt anh. Giọng cô ta lạc đi do bị chiếc mũ bảo hiểm che mất và gương mặt giống như vô hình sau tấm kính tối màu. “Anh có sao không, Gabriel?”, nàng nói. “Anh nghe thấy em gọi không? Trả lời em đi, Gabriel! Anh nghe rõ không? Thôi nào, Gabriel! Anh đã hứa sẽ không chết mà! Anh đừng chết!”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

89#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 19:58:07 | Chỉ xem của tác giả
Chương 57
Runsell Green, Anh

Sáu giờ 42 phút sáng, ngày Giáng sinh.

Dọc theo con đường đã có một dãy hàng rào cũ kỹ. Xe đã đâm xuyên qua nó, như đầu bút chì xuyên qua giấy, rồi đâm vào cánh đồng của một nông dân. Chiếc xe lật úp và những thứ bên trong bị văng tung toé trên nền đất bùn như đồ chơi của trẻ con rơi trên sàn của phòng bào mẫu. Cách đó chưa đầy 50 thước cách điểm cuối cùng của chiếc xe, một bầy gà lôi mập mạp đang cặm cụi mổ trên mặt đất dường như chẳng có chuyện gì bất thường xảy ra. Ở rìa cánh đồng, ánh đèn đang chiếu lên một căn nhà nhỏ bằng đá vôi, những khoảnh khắc đầu tiên của buổi sáng Giáng sinh mà những người đang có mặt tại đó sẽ khó mà quên được.

“Ishaq đâu?”, Gabriel hỏi khi Chiara cắt những miếng băng dính cuối cùng.

“Trong xe”.

“Hắn còn sống không?”

“Còn”

“Hắn còn tỉnh không?”.

“Em không rõ”, nàng nói. “Anh bị văng ra khỏi xe. Hắn không được may mắn như vậy”.

“Hãy đỡ anh đứng dậy”.

“Cứ nằm đi, Gabriel. Anh bị thương nặng lắm”.

“Cứ làm như anh nói đi, Chiara. Đỡ anh đứng dậy”.

Gabriel rên lên đau đớn khi nàng đỡ anh đứng dậy. Anh bước về trước một bước rồi loạng choạng. Chiara nắm cánh tay anh để giữ anh khỏi ngã.

“Nằm xuống đi, Gabriel. Đợi xe cứu thương tới”.

Mikhail đến, súng vẫn trong tay, cùng với Chiara đỡ Gabriel đi chầm chậm đến xe. Tên tài xế bị treo ngược xuống vì chiếc dây an toàn, máu chảy lênh láng từ hộp sọ bị vỡ. Ishaq nằm phía sau, chảy máu mũi và miệng, chân trái bị treo lủng lẳng trên đầu gối như que diêm bị gãy. Gabriel nhìn Mikhail.

“Nắm chân kéo hắn ra đi”, anh nói bằng tiếng Hebrew. “Cái chân bị gãy đó”.

“Đừng làm thế”, Chiara nói.

“Làm đi”, Gabriel nhìn Mikhail. “Làm theo lời tôi đi nếu không tôi tự làm đó” Mikhail chui vào trong chiếc xe qua cửa khoang chứa hàng đang mở toang ở phía sau rồi nắm lấy cái chân tả tơi. Một lúc sau, Ishaq nằm quằn quại trên đất dưới chân Gabriel. Chiara không muốn nhìn cảnh này, nàng bước đi về phía bên kia cánh đồng. Gabriel nhìn xuống Ishaq rồi hỏi. “Cô gái của tao đâu?”.

“Cô ta đã chết”, Ishaq phun máu ra khỏi miệng.

Gabriel chìa tay cho Mikhail. “Đưa tôi khẩu súng”.

Mikhail đưa súng cho anh. Gabriel chĩa súng về hướng cái chân gãy rồi bắn một phát. Tiếng hét của Ishaq vang lên trên cánh đồng phẳng lặng, bàn tay hắn bấu víu vào mặt đất đẫm nước. Những con gà lôi bay tán loạn trên đầu Gabriel.
Gabriel bình tĩnh hỏi lại. “Cô gái của tao đâu?”.

“Cô ta chết rồi!”.

Một tiếng súng nữa vang lên. Một tiếng kêu la nữa.

“Cô gái của tao đâu, Ishaq?”.

“Allhu Akbar!”

“Pằng”

“Elizabeth đâu?”

Pằng.

“Cho tao biết cô ấy ở đâu, Ishaq”.

Anh chỉnh súng chuẩn bị bắn nữa. Lần này, một bàn tay giơ lên và Ishaq, giữa những tiếng rên la đau đớn, bắt đầu bật ra những thông tin. Gabriel nghe như thể những viên đá đang tuôn ra khỏi miệng hắn. Số 17 đường Amber. Hai kẻ tử vì đạo. tu viện Westminster. 10 giờ. Thượng đế thật tuyệt vời.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

90#
 Tác giả| Đăng lúc 27-11-2013 20:00:48 | Chỉ xem của tác giả
Chương 58
Công viên Finsbury, Luân Đôn

Bảy giờ 30 phút sáng chủ nhật

Chúng ập vào phòng giam của Elizabeth theo cách cô chưa bao giờ thấy. Cain nói chuyện với cô lần đầu tiên trong hơn hai tuần. “Cô sắp được thả”, hắn thổ lộ. “Cô có hai mươi phút để chuẩn bị. Không chuẩn bị xong trong vòng hai mươi phút, cô sẽ bị giết”. Rồi hắn đi mất.

Tiếp theo là Abel xuất hiện, hắn mang vào một cái xô nhựa đựng nước ấm, một bánh xà phòng, một miếng vải lau và khăn tắm, một gói quần áo sạch và bọ tóc giả vàng óng. Hắn đặt những thứ còn lại lên giường cô, sau đó tháo còng và xiềng xích. “Hãy tắm rửa cho cẩn thận rồi mặc quần áo vào”, hắn bình tĩnh giải thích. “Chúng tôi mang đồ sạch cho cô mặc. Chúng tôi không muốn thế giới bạc đãi cô”.

Hắn bước ra đóng cửa. Elizabeth muốn hét lên vì vui sướng. Cô muốn khóc cho nhẹ người. Nhưng cô vẫn làm một tù nhân gương mẫu cho tới phút cuối, cô làm theo như lời chúng bảo. Cô chỉ mất mười lăm phút trong khoảng hời gian cho phép để chuẩn bị rồi ngồi trên mép giường, hai đầu gối chạm vào nhau run rẩy khi chúng bước vào phòng giam lần nữa.

“Cô sẵn sàng chưa?”, Cain hỏi.

“Rồi”, cô đáp bằng giọng thấp, nghe nhẹ nhàng.

“Thế thì đi nào”.

Cô đứng dậy đi theo chúng từ từ lên dãy cầu thang tối tăm.

Thông tin về việc giải cứu Gabriel thành công truyền đến đại sứ quán Israel ở Old Court Place lúc 7 giờ 48 phút sáng. Tin này được thông báo bằng điện thoại di động bình thường bởi Chiara, lúc này đang ngồi cạnh Gabriel phía sau chiếc Volkswagen Passat có đèn trước bị vỡ và cái chắn bùn nát vụn. Người nhận được cuộc gọi là Shamron, ông đã ôm mặt khóc khi nghe tin ấy. Cảm xúc của Shamron sâu lắng đến nỗi trong nhiều giây sau những người tập trung xung quanh không biết chắc Gabriel còn sống hay đã chết. khi thông tin rõ ràng là anh còn sống và trở về với đồng đội, một tiếng reo lớn vang lên trong phòng. Cuộc ăn mừng ngắn ngủi được thu âm bởi những đương day nghe lén của Anh ở GCHQ – cơ quan thoe dõi toàn bộ liên lạc của Israel trong đêm đó – cũng như tiếng yêu cần im lặng của Shamron khi ông lắng nghe phần báo cáo kế tiếp của Chiara. Shamron ngay lập tức thực hiện hai cuộc gọi, đầu tiên tới Adrian Carter ở trung tâm nghiệp vụ của Mỹ nằm bên dưới quãng trường Grosvenor và cuộc gọi thứ hai cho Graham Seymour, người đang có mặt cùng với Thủ tướng và uỷ ban COBRA ở phố Downing. Seymour nhanh chóng sắp xếp xe cảnh sát hộ tống Gabriel và những thành viên trong đội vào Luân Đôn an toàn; sau đó đi nhanh đến Đại sứ quán mỹ, Shamron cũng vậy. Hai người đàn ông đang đứng cạnh Adrian Carter khi chiếc Passat tơi tả và đội cảnh sát hộ tống dừng ở cổng Bắc.

Chiếc xe lập tức được bao vây bởi hai chục nhân viên cảnh sát mặc đồng phục đnag đứng gác bên ngoài khu đất của Đại sứ quán. Tầm mắt của Shamron trong chốc lát bị che khuất, rồi cái biển màu xanh biến mất, ông thoáng thấy Gabriel đầu tiên. Một tay anh choàng qua vai Yossi còn tay kia qua vai Oded. Mặt anh đầy vết thương và sưng húp, bộ quần áo liền quần phủ đầy bùn. Họ đưa anh qua cổng, đỡ anh đứng dậy một lúc trước ba bậc thầy tình báo cấp cao. Shamron hôn lên má anh nhẹ nhàng làu bàu bằng thứ tiếng Hebrew không ai khác hiểu được. gabriel hơi ngước đầu nhẹ nhàng nhìn Graham Seymour.

“Nếu ông bảo tôi đừng than phiền về cú đánh khốn khiếp chúng đánh lên đầu, tôi có thể mất bình tĩnh đấy”.

“Cậu là thằng ngốc chết tiệt – và còn là anh chàng dũng cảm chết tiệt”, Seymour nhìn Adrian Carter. “Ta đưa cậu ấy vào trong được không nào?”.

Đại sứ Robert Halton đang chờ trong phòng khách tại tầng một của Đại sứ quán, cùng với nhà đàm phán con tin của FBI – John O’Donnel và nhiều thành viên khác trong đội của người Mỹ. Khi Gabriel vào bên trong, vẫn phải bám lấy Yossi và Oded để được giúp đỡ, tiếng vỗ tay rụt rè vang lên, hình như họ sợ quá nhiều tiếng ồn có thể gây hại cho anh ta. Robert Halton bước đến chỗ Gabriel cẩn trọng đặt tay lên vai anh. “Trời đất, chúng đã làm gì anh thế này?. Ông nhìn Adrian Carter. “Hãy đưa anh ta đến văn phòng. Bác sĩ có thể khám cho anh ta ở đó”.

Họ đỡ anh vào chiếc thang máy đnag chờ và đưa anh lên tầng chín. Yossi và Oded đỡ anh ngồi xuống ghế tràng kỹ trong văn phòng của ngài đại sứ, nhưng khi các bác sĩ cố ganwgs vào phòng, Graham Seymour chặn họ lại rồi nhanh chóng đóng cửa.

“Hai mươi phút trước, một đội đặc nhiệm của Cảnh sát thành phố đã bao vây ngôi nhà trên đường Ambler nơi Ishaq cho rằng Elizabeth Halton đang bị giam giữ. Họ không tìm được cô nhưng lại tìm thấy nhiều bằng chứng cho thấy cô vừa mới ở đó. Sphinx đã dẫn chúng ta rong ruổi khắp Tây Âu trong khi cô ấy lại ở đây, ngay nước Anh này, ngay dưới mũi của chúng ta. Vấn đề là hiện giờ cô ấy ở đâu?”.

“Thông tin mà Ishaq cung cấp cho Gabriel về vị trí của Elizabeth Halton là chính xác”, Adrian Carter nói. “Điều đó chứng ming rằng thông tin về những gì chúng định làm đối với cô ấy cũng chính xác”.

“Đúng thế”, Gabriel nói. “Chúng định hành hình cô ấy bên gnoài tu viện Westminster trước khi bắt đầu những nghi lễ Giáng sinh. Cô ấy sắp bị giết bởi một cặp đánh bom tự sát, những kẻ lấy did nhiều sinh mạng vô tội cùng với chúng. Lẽ ra tôi sẽ nằm trong vụ thứ hai, một vụ đánh bom xe có thể giết hàng trăm người theo dấu tôi”.

“Một cuộc tắm máu trước biểu tượng quốc gia quan trọng vào buổi sáng ngày sinh của Đáng cứu thế”, Graham Seymour nói. “Một âm mưu khởi động cuộc nổi dậy vũ trang ở Ai Cập và làm cho đất nước này phải quỳ gối”. Ông ngập ngừng rồi nói. “Và vụ này không đượ cphép xảy ra. Cho đến thời điểm này, có hàng trăm người tập trung bên ngoài cửa bắc của tu viện chờ được tham gia nghi lễ thánh ca và đọc kinh sẽ bắt đầu lúc 10 giờ 30 phút. Phương án duy nhât của chúng ta là phong toả Westminster và nhanh chóng di tản mọi người ra khỏi khu vực này”.

“Một hành động kết án tử hình cho Elizabeth Halton”, Gabriel nói. “Nếu những tên tử vì đạo đến Westminster thấy tu viện được di tản và bị bao vây, chúng sẽ sử dụng phương án dự phòng, đó là giết cô ấy ngay, cho dù chúng đang ở đâu”.

“Hãy tha thứ cho sự vụng về của tôi”, Seymour nói. “Nhưng đó là kết quả còn tốt hơn nhiều so với kế hoạch ban đầu”.

“Tôi không đi qua địa ngục để rồi bỏ cuộc tìm kiếm cô ấy đâu”, Gabriel nói. “Có một cách nữa”.
“Cách nào?”.

“Ishaq cho chúng ta biết rằng Elizabeth sẽ được hộ tống bởi hai người”, Gabriel nói. “Hắn đã cho chúng ta biết…”

Graham Seymour đưa tay lên. “Đừng đi quá xa, Gabriel. Đừng điên rồ”.

“Chúng ta hchờ bọn tử vì đạo đến, Graham à. Sau đó ta sẽ giết chúng trước khi chúng giết Elizabeth”.

“Ta?”.

“Ông nghĩ ta sẽ làm gì nào? Bắn chúng như những tay bắn tỉa đứng từ xa? Bắn chúng như những quý ông đứng cách 20 bước? Ông phải cho chúng đến gần. Sau đó ông phải giết chúng trước khi chúng bấm nút kích nổ. Có nghĩa là những phát súng bắn vào đầu ở cự ly gần. Như thế không dễ chịu đâu, Graham. Cònếu các tay súng do dự một chút, chuyện này sẽ chấm dứt bằng thảm hoạ”.

“Cảnh sát thành phố có một đơn vị gọi là SP 19. Mũ nồi xanh. Họ là những sĩ quan về vũ khí đặc biệt, được huấn luyện cho mục đích này. Nếu trí nhớ tôi đúng, thì ta đã cử họ đi Israel để đào tạo”.

“Anh đã là việc đó”, Shamron nói. “Và họ rất giỏi, nhưng chưa bao giơg được đặt trong một tình huống như thế này. Anh cần những tay súng trước đó đã làm việc tương tự thê snày – những tay súng không run sợ trước áp lực”. Shamron ngừng nói một chút rồi tiếp tục. “Anh cần những tay súng như Gabriel và Mikhail”.

Seymuor nói. “Gabriel gần như không đứng lên được”.

“Gabriel sẽ khoẻ thôi”, Shamron nói mà không màng đến việc hỏi ý kiến anh. “Ta hãy hoàn thành nốt việc mình đang làm dở”.

“Làm sao ông chắc đó thực sự là cô ấy?”.

Gabriel nhìn Robert Halton. “Nếu có ai chắc chắn được, thì người đó chính là cha của cô ấy. hãy đưa ông ấy vào sân ở phía Bắc của tu viện với một máy vô tuyến nhỏ xíu. Ông ấy có thể nhìn thấy Elizabeth, hãy gửi tín hiệu cho chúng tôi. Mikhail và tôi sẽ lo phần còn lại”.

“Có một điều tôi không hiểu”, Seymour nói. “Làm sao chúng có thể bắt Elizabeth tự đi bộ đến chỗ hành hình?”.

Gabriel nghĩ đến những gì Ibrahim đã nói vào đêm hắn chết ở Đan Mạch. “Chúng sẽ nói với cô ấy rằng cô ấy sắp được thả”, anh nói. “Theo cách đó, cô ấy sẽ ngoan ngoãn đi và làm theo những gì cháng bảo”.

“Đồ khốn”, Seymuor chửi thầm. ông liếc nhìn đồng hồ. “Tôi cho rằng các anh đã có toàn bộ vũ khí súng ống và đạn dược cần thiết rồi chứ?”.

Gabriel gật đầu chần chậm.

“Thế còn thông tin liên lạc?”.

“Họ có thể mượn máy vô tuyến từ nhân viên an ninh của đại sứ quán”, Carter nói. “Các đặc vụ DS của chúng ta thường làm việc với cảnh sát thành phố về những chi tiết bảo mật. Tất cả chúng ta sử dụng cùng tần số bảo vệ”.

Seymuor nhìn Gabriel. “Ta sẽ làm gì với anh ta nào? Anh ta không thể đi Westminster với vẻ bề ngoài như thế”.

“Tôi chắc là ta có thể tìm được thứ gì cho anh mặc ở đây”, Carter nói. Ta có hai trăm người ở dưới tầng hầm đến Luân Đôn từ Washington với những vali đầy quần áo”.

“Thế còn mặt mũi của anh ta? Trông anh ta máu me phát khiếp”.

“Tôi e là xử lí khuôn mặt cho anh ta cần đến phép màu của Giáng sinh”.

Graham Seymour cau mày, bước đến bàn của ngài đại sứ quay số điện thoại.

“Tôi cần nói chuyện với Thủ tướng”, ông nói. “Ngay bây giờ”.
Trả lời

Dùng đạo cụ Báo cáo

Bạn phải đăng nhập mới được đăng bài Đăng nhập | Đăng ký

Quy tắc Độ cao

Trả lời nhanh Lên trênLên trên Bottom Trở lại danh sách